Cuoc chien tranh Thai Binh Duong 2
Ở cách Hawaii hơn 5000 dặm, hạm đội Liên hợp Nhật thả neo tại một vịnh biển thuộc hòn đảo nhỏ Hashirajima gần thành phố Hiroshima bên bờ Nội Hải (Nhật Bản) được đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu từ khi bắt đầu cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Ngay từ 2 giờ sáng, bóng đêm còn dày đặc, đô đốc Isoroku Yamamoto và Bộ tham mưu của ông đã có mặt trong buồng chỉ huy thiết giáp hạm Nagato với một tấm bản đồ lớn của vùng Hawaiỉ trên bàn và một máy khuếch đại âm thanh vô tuyến trên tường. Trong lúc chờ nghe tin tức từ "Kido - Butai" điện về, đô đốc chơi cờ với trung tá Yasuji Watanaba và đã thắng 3 trong 5 ván đầu. Khi tín hiệu: "To...To... To" yếu ớt vang lên, ông lắng nghe nhưng vẫn tiếp tục di chuyển các quân cờ. Chỉ đến khi nghe thấy "Tora...Tora...Tora..." và tất cả mọi người trong phòng mừng rỡ reo lên, ông mới tạm ngưng cuộc chơi. Rượu sakê và mục khô nướng được bưng ra. Mọi người vây quanh Yamamoto nâng cốc chúc mừng thắng lợi.Nhiều âm thanh của trận đánh theo làn sóng điện đã lọt vào phòng này, nhưng các điện báo của hạm đội Nagumo, của Fuchida và của quân Mĩ đều phải qua phòng giải mã chuyển lên mới được hiểu rõ. Mỗi phút trôi qua lại có thêm một tin mới: "Thiết giáp hạm Oklahoma bị lật nhào!", "Thiết giáp hạm Pennisylvania bị đánh trúng!", "Tuần dương hạm Helena bị thương nặng! " . . . Đô đốc Yamamoto đứng thẳng, gương mặt đăm chiêu, lắng nghe và chờ đợi, chỉ thỉnh thoảng mới thì thầm với chuẩn đô đốc Matome Ugaki, tham mưu trưởng của ông. ông hiểu rõ rằng đây là thời điểm quan trọng nhất trong cuộc đời binh nghiệp của mình.Khoảng 8 giờ, trung tá Watanabe ghi nhận tổn thất của Hoa Kỳ trên một tờ giấy và trao cho tư lệnh đọc:Thiết giáp hạm : 3 chiếc chìm, 4 chiếc bị hư hỏng.Tuần dương hạm : 2 chiếc bị hư hỏng.Khu trục hạm : 2 hoặc 3 chiếc bị hư hỏng.Máy bay bị phá : hàng trăm chiếc.Nghiên cứu một lúc, ông ra lệnh: "Quá tốt nếu là sự thật. Kiểm chúng lại. Chiều nay khi nào chắc chắn rồi mới trình Thiên hoàng".Lúc đó, Yamamoto vẫn chưa biết rằng số liệu thực sự về tổn thất của Hoa Kỳ còn lớn hơn bán cáo ấy.Thiết giáp hạm : 5 chiếc chìm, 3 chiếc hư hỏng.Tuần dương hạm : 3 chiếc hư hỏng.Khu trục hạm : 3 chiếc bị trọng thương.Tàu cứu hộ : 4 chiếc chìm hoặc bị thương.Tổng cộng 18 hạm tàu bị loại khỏi vòng chiến, trong đó có toàn bộ số thiết giáp hạm đậu tại cảng. Số máy bay bị phá hủy là 188 chiếc và 128 chiếc bị thương. Số quân Mĩ bị giết là 2.403 người.Tổn thất ấy quả là một thảm họa đối với Hoa Kỳ. Để đạt được thành quả ấy, Nhật Bản chỉ phải chịu một sự hi sinh khiêm tốn: mất 29 máy bay và 5 tàu lặn con ("tàu ngầm bỏ túi"), 1 tàu ngầm lớn với 45 phi công và lính không quân cùng 9 người lái tàu ngầm bị diệt; 1 viên thiếu úy lái tàu ngầm bị bắt (1). Riêng số người chết theo chiếc tàu ngầm lớn chưa rõ là bao nhiêu. TUYÊN CHIẾN.Tokyo: "Không tránh được việc so gươm":Đại sứ Grew bị đánh thúc lúc 7 giờ sáng ngày 8-12 bởi một cú điện thoại của Bộ Ngoại giao. Đúng 7 giờ 30, ông ta đến ngay trụ sở Bộ. Thông dịch viên Toshikasu Kase ra tiếp đón tại thềm nhà.Vào đến đại sảnh, ngoại trưởng Togo đã chờ sẵn. Đại sứ Hoa Kỳ nghĩ rằng mình sẽ được thông báo về ngày giờ vào yết kiến Nhật hoàng. Ngoại trưởng Togo gương mặt căng thẳng vì mất ngủ một phần cũng vì giây phút quan trọng sắp diễn ra, để tập hồ sơ xuống bên cạnh và nói bằng tiếng Nhật:- Sau khi tham khảo thông điệp của Tổng thống Mĩ, Hoàng thượng đã chỉ thị cho chính phủ phúc đáp và đây là bản phúc đáp.Nghe xong, Đại sứ chưa nhận thức đầy đủ mọi vấn đề nên còn nói: "Tôi sẽ điện về Washington nhung tôi muốn lưu ý ngài Ngoại trưởng về yêu cầu được diện kiến Nhật hoàng". Togo nhìn thẳng vào đại sứ Grew. Ông ta thấy vai trò của mình vô cùng khó khăn làm sao báo cho biết là chiến tranh đã bùng nổ và chắc chắn Grew không dự đoán gì về việc này cả.Đoạn ông ta rút trong cặp ra một xấp giấy và nói: "Đây là một điện văn 14 điểm của Bộ Ngoại giao Nhật, sẽ gửi cho đại sứ Nomura để vị này trao cho ngoại trưởng Hoa Kỳ Hull, báo cho biết là nước Nhật đã quyết định chấm dứt đàm phán với Hoa Kỳ. Đây là bản sao để ngài Đại sứ tham khảo. Tôi rất lấy làm tiếc vì phải đi đến quyết định ấy".Đại sứ Mĩ lại tiếp: "Trong tình hình này, tôi càng thấy cần được diện kiến với Thiên hoàng hơn nữa. Không biết ngài Ngoại trưởng có ý giúp tôi không?".Togo đáp: "Ngài Đại sứ muốn nói thêm điều gì ngoài bản thông điệp mà tôi đã đệ trình lên Hoàng thượng thì xin mời Ngài cứ nói".Không hiểu nghĩ sao mà Đại sứ Hoa Kỳ chỉ nói một câu: - Không, đến giờ phút này tôi không thấy có gì để nói thêm.Ngoại trưởng Togo đưa tiễn khách ra cửa. Tại ngưỡng cửa, ông ta nói:- Mặc dù một tình huống đầy khó khăn làm u ám quan hệ giữa hai nước thúng ta, tôi muốn nói lên đây sự cảm thông sâu sắc của tôi đối với các cố gắng của Ngài để bảo vệ hòa bình.Togo muốn Đại sứ Hoa Kỳ hiểu đây là một cử chỉ thiện cảm và kính nể của ông ta đối với đại sứ Grew, nhưng đại sứ Grew hiểu rằng đây chỉ là một xảo thuật để làm nhẹ bót sự nặng nề về ngoại giao mà thôi.Nhật Bản đã bắt đầu cuộc chiến, giờ đây họ phải hoàn thành nhũng thủ tục để tuyên chiến theo đúng công ước quốc tế.Đúng 7 giờ (giờ Tokyo) Thủ tướng đến phòng họp trong bộ quân phục mới. Toàn thể nội các đúng lên chào ông ta. Vừa ngồi xuống, ông nói ngay: "Như quý vị Bộ trưởng đã biết, chúng ta đã có chiến tranh với phe Mĩ - Anh. Lục quân chúng ta anh dũng chiến thắng ở bán đảo Mã Lai, Thái Lan. Nhưng, chiến thắng vang dội nhất vừa xảy ra ở Trân Châu Cảng. Bộ trưởng hải quân Shimada sẽ trình bày cùng quý vị.Đô đốc Shigetaro Shimada, Bộ trưởng hải quân bắt đầu nói:'Cuộc tiến công vào Trân Châu Cảng là một kì tích của hải quân Hoàng gia. Thành công là nhờ tài điều động khéo léo của những vị chỉ huy, lòng can đảm của mọi người và nhờ yếu tố bất ngờ. Chắc cũng vì vậy mà quý vị Bộ trưởng cũng đã thông cảm với chúng tôi vì sự giữ bí mật đối với mọi người. Điện báo cáo về nhũng thành quả lớn làm ngạc nhiên chúng ta. Ngay cả bây giờ tôi vẫn còn tin rằng họ đã cường điệu hóa sự thảm bại của phe địch. Do đó, chúng ta nên chờ những kiểm chứng cho chính xác hơn. Nhưng dù sao đây cũng là một sự kiện to lớn đối với đất nước".Thủ tướng Tojo nói: "Bây giờ chiến tranh đã bắt đầu, không có việc gì khác hơn là phải chiến đấu. Chúng ta phải tuyên cáo với quốc dân".Ông ra lệnh cho Đổng lí văn phòng phủ Thủ tướng soạn thảo chỉ dụ trình lên Nhật hoàng kí. Đoạn ông ra xe về Hoàng cung bệ kiến, báo tin để Nhật hoàng rõ.Tại Tokyo, hệ thống phát thanh NHK với giọng nói của phát ngôn viên Morio Tateno vang lên lúc 7 giờ sáng:"Xin đồng bào chú ý! Tin đặc biệt!"Bộ tư lệnh lục quân và hải quân Hoàng gia cùng thông báo: Hôm nay, ngày 8-12-1941, lục quân và hải quân Hoàng gia đã khai chiến với Mĩ-anh trong vùng Thái Bình Dương".Dân chúng tụ tập gần những máy phóng thanh, nhiều người nghe xong, hướng về Hoàng cung cúi đầu kính bái.Sau đó máy phóng thanh vang lên bài hành khúc:"...Trên mặt đại dương, thây trôi.Trên đồng, trên núi, thây nằm ngổn ngang.Tôi quyết tử vì Thiên hoàng.Tiến lên, không bao giờ ngó lại đằng sau..."Tại Hoàng cung lúc 8 giờ sáng, hội đồng cơ mật gồm 32 vị trong đó có Thủ tướng đương nhiệm và phần lớn các cựu Thủ tướng đã chờ sẵn ở phòng họp đợi Nhật hoàng xuất hiện. Nhật hoàng Hirohito đi vào, mặc quân phục hải quân, đứng nghiêm. Mọi người cúi bái. Nhật hoàng ngồi xuống, gương mặt không lộ vẻ xúc động. Gần kề Nhật hoàng là Chủ tịch hội đồng Cơ mật Hara và phó chủ tịch, bá tước Suzuki, đô đốc hải quân. Sau lưng 2 vị này là 16 vị cố vấn. Đối diện với họ là thủ tướng Tojo, 13 vị Bộ trưởng.Hội đồng hôm nay nhóm họp là để nghe và góp ý về bản chỉ dụ tuyên chiến do Văn phòng Thủ tướng soạn, đệ trình lên Nhật hoàng kí. Chủ tịch hội đồng Hara đọc to bản dự thảo chỉ dụ. Sau đó ông ta hỏi xem có ai có ý kiến gì không. Mọi người yên lặng. Riêng nhà hoạt động chính trị lão thành Ikeda xin góp ý về hai điều. ông ta nói:- Trong chỉ dụ, tại sao dùng từ Anh và Mĩ. Dù ta có chiến tranh với họ nhưng cũng phải lễ độ trong ngôn từ. Gọi họ là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Vương quốc Liên Hiệp Anh mới được.Thủ tướng Tojo nhìn về Hushino, người soạn thảo chỉ dụ trên, ngu ý thầm hỏi. Hushino lấy làm tôn kính Ikeda, hiểu ngay thâm ý của ông ta là "dù Nhật có làm điều gì đi nữa, ta phải làm cho đúng cách, nghĩa là theo quan niệm "CHÍNH DANH" của người xưa".Sau đó chủ tịch Hội đồng tuyên bố. "Theo hiến pháp của ta, Hội đồng sẽ biểu quyết hai vấn đề:Một là: Chúng ta có công nhận rằng nước Nhật đi vào tình trạng chiến tranh với Anh-Mỹ-Hà Lan hay không?Hai là: Chúng ta có chấp nhận bản dự thảo chỉ dụ để trình lên Hoàng thượng duyệt kí hay không?Mọi người đều bỏ phiếu thuận.Không một lời, Hoàng đế Hirohito rời phòng họp. Đến 11 giờ 45 phút, đài phát thanh Tokyo truyền đi chỉ dụ tuyên chiến của Thiên hoàng.Dùng lời lẽ bóng bẩy, chỉ dụ cố biện minh cho sự xâm lược:"Thiết lập một sự ổn định ở Đông á và góp phần vào hòa bình thế giới là chính sách cơ bản của các tiên đế. Phát triển tình hữu nghị giữa các nước và chia sẻ sự thịnh vượng chung là ánh sáng dẫn đường cho chính sách đối ngoại của Trẫm. Vì vậy Trẫm rất buồn khi không tránh được việc so gươm với Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ, Vương quốc Liên Hiệp Anh và Vương quốc Hà Lan.Nhờ sự phò tá của anh linh các vị tiên đế, Trẫm tin tưởng ở sự trung thành và lòng can đảm của thần dân trong mọi công việc phải làm để sớm dứt tiệt cội rễ của cái dữ, vãn hồi hòa bình vĩnh cửu cho Đông á, trong đó sáng chói là vinh quang nước Nhật".(1) Washington: "ngày của sự nhục nhã..."Đã quá trưa ngày 7-12, bộ trưởng hải quân Frank Knox vẫn còn ngồi tại văn phòng của ông trong cơ quan Bộ ở đại lộ Constitution. Ông vừa ra lệnh mang bữa ăn trưa đến cho mình thì đô đốc Harold Stark, tổng tư lệnh hải quân vội xô của vào, tay cầm bức diện từ Hawaii gửi về: "Không kích bất ngờ Trân Châu Cảng - không phải là diễn tập!". Đọc xong bức điện, Bộ trưởng sửng sốtt kêu lên: "Lạy Chúa, chẳng lẽ đây lại là sự thật?l" ông nghĩ rằng Philippines bị oanh kích thì còn có lí hơn. Nhưng Stark đã đoán chắc với ông rằng không có nhầm lẫn gì ở đây cả. Knox nhấc điện thoại để gọi trực tiếp vào Nhà Trắng, đồng thời xem đồng hồ: 13 giờ 47 phút. Cố vấn đặc biệt của tổng thống là Harry Hopkins tiếp điện thoại trong lúc đang ăn trưa với tổng thống Roosevelt tại phòng Bầu Dục. Nghe xong bức điện, Hopkins nói: "Chắc có sự nhầm lẫn gì đây. Nhật Bản không thể tấn công tận Honolulu được!". Nhưng tiếng nói của Tổng thống đã vang lên trong ống nghe:"Đây chắc là một sự bất ngờ mà người Nhật thường làm"; và Roosevelt yêu cầu chuyển toàn văn bức điện đến tận tay cho ông.Lúc 14 giơ 05, Tổng thống gọi điện cho Bộ trưởng ngoại giao, và ngoại trưởng Hull thông báo rằng Đại sứ Nhật đã đến và hiện còn ngồi chờ tại đại sảnh. Roosevelt chỉ thị cho Hull:"Hãy tiếp họ nhưng đùng lộ vẻ cho họ biết là ta đã biết tin Trân Châu Cảng. Giữ nghi lễ và tống họ về rồi ông đến đây".Roosevelt gọi điện cho bộ trưởng chiến tranh Henry Stimson: "ông đã biết chuyện gì xảy ra chưa?". Vừa nghe giọng nói của Tổng thống, Stimson nói ngay:"Tôi vừa nghe tin quân Nhật đang tiến vào vịnh Thái Lan". Tổng thống cắt ngay. "Ồ không! Tôi không nói về việc đó. Chúng đã oanh tạc Hawaii !" Stimson sửng sốt lặng người.Tại đại sảnh Bộ ngoại giao, Đại sứ Nomura và ông Kurusu đứng ngồi không yên nhưng cuối cùng vào lúc 2 giờ 20 phút trưa họ cũng được ngoại trưởng Hull tiếp. Ông ta không bắt tay họ cũng không mời họ ngồi.Nomura: "Tới nhận được chỉ thị trao công hàm này cho Ngài vào lúc 01 giờ trưa .Ngoại thông Hull chặn lại, hỏi ngay: "Tại sao phải vào lúc 01 giờ trưa?".Đại sứ Nomura:"Tôi cũng không rõ nữa".Hull tiếp nhận bức công hàm, làm bộ nhìn qua(1). Sau đó ông ta nói với một giọng xúc động vì giận dữ "Thưa Đại sứ, tôi muốn nói với quý ngài rằng trong suốt 9 tháng vừa qua tôi có dịp đàm phán với quý ngài. Nhũng gì tôi đã nói với quý ngài là sự thật. Tôi không che giấu điều gì. Chưa bao giờ một lời nói dối thoát ra từ miệng tôi. Trong suốt 50 năm làm công bộc, tôi chưa bao giờ thấy một bức công hàm nào đầy rẫy những xảo ngôn như ở đây: Xảo ngôn đến mức độ mà tôi không bao giờ nghĩ rằng có một cá nhân nào hoặc một chính phủ nào trên Trái Đất này lại có can đảm viết thành lời văn".Nomura muốn nói một điều gì đó nhung Hull đưa tay lên chặn lại và hướng dẫn họ ra cửa. Họ vừa ra khỏi cửa thì Hull không còn kiềm chế được nữa, bèn vung ra hàng loạt nhũng từ ngữ dùng để chửi thề bằng giọng Tennessee.3 giờ chiều, toàn bộ hệ thống phát thanh của CBS đều loan tin Nhật đánh Trân Châu Cảng.8 giờ 30 phút tối, Chính phủ Hoa Kỳ họp tại phòng Đỏ. Mọi người ngồi theo hình móng ngựa, nhìn vào Tổng thống Roosevelt. Tổng thống công bố những thiệt hại ở Hawaii, đoạn đọc một bản dự thảo tuyên cáo mà ông định đọc trước Thượng viện. Nhiều người góp ý nên tuyên chiến luôn với Đúc - Ý. Tổng thống từ chối nhưng hứa sẽ trình bày với dân chúng về vấn đề đó trong hai ngày nữa.9 giờ 30 tối, các thủ lĩnh Đảng Cộng hòa và Dân chủ ở Thượng viện vào phòng họp. Tổng thống cho họ biết những gì đã xảy ra ở Hawaaii; khi ông nói xong mọi người đều yên lặng.Việc Nhật tấn công Trân Châu Cảng không làm xã hội Hoa Kỳ hốt hoảng, trái lại, nó dã làm cho mọi sự kình địch giữa hai khuynh hướng chính trị chủ yếu không còn lí do tồn tại. Từ lâu, nhóm "Can thiệp" đại diện cho quyền lợi của các tổ hợp công nghiệp quân sự, cũng như giới quân sự và nhóm cục đoan, chủ trương Hoa Kỳ phải can thiệp khắp nơi để giành quyền lợi. Đặc biệt là khi chiến tranh thế giới xảy ra.Năm 1939 ở châu Âu, giới này hoạt động tích cực hô hào Hoa Kỳ nên tuyên chiến với Đúc - Ý - Nhật và giúp đỡ tích cực Tưởng Giới Thạch chống Nhật. Nhóm thứ hai chủ trương Hoa Kỳ nên lui về lo cho châu Mỹ (1), biến cả châu Mĩ thành một thị trường khổng lồ, đánh bại ảnh hưởng kinh tế, chính trị, văn hóa của các cường quốc phương Tây khác như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức, Hà Lan ở khắp Mĩ châu và vịnh Caribbean (Ca-ri-bê). Nhóm này không muốn Mĩ dính líu đến nhũng chuyện xảy ra ở Trung Quốc, Âu châu. Giờ thì chiến tranh đã xảy ra, Hoa Kỳ buộc phải lâm trận, nên nhóm thứ hai đành thúc thủ.Tổng thống Roosevelt dù biết rằng Nhật sắp đánh một số căn cứ của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, qua nhũng bức điện mật mã của Bộ Ngoại giao và hải quân Nhật mà họ đọc được qua chiến dịch MAGIC, ông vẫn không thể nghe lời cố vấn Harry Hopkins khuyên nên "làm một cái gì trước đã", Chính vì ông sợ ảnh hưởng của nhóm thứ hai này. Họ thường chỉ trích ông là một kẻ "hiếu chiến" mà họ thì đã quy tụ đông đảo lá phiếu ở vùng Trung Tây Hoa Kỳ, trong giới các tiểu nông, tiểu chủ và thợ thuyền ở các thành phố. Vừa thắng cử trong cuộc bỏ phiếu tranh chức Tổng thống năm rồi nên ông thấy cần phải thận trọng.Giờ đây, ông vui vẻ đón nhận hàng triệu thư tín, điện văn khắp nước Mĩ gửi về nhà Trắng, tỏ lòng trung thành và quyết tâm của nhiều tầng lớp nhân dân trong cuộc chiến tranh sắp đến. Người Mĩ không quên Trân Châu Cảng.(1) Tiếng Anh: nhóm can thiệp được gọi là lnterventionists (can thiệp) hay Expansionists (bành trướng) vì họ chủ trương Hoa Kì phải có mặt ở khắp nơi. Nhóm thứ hai là lsolationists (Cô lập) hay Amencan First (Mỹ châu trước đã)'Một bức điện viết:Chúng tôi, nhũng người Mĩ gốc Nhật nhị sinh (1) hiện sống ở New York và phụ cận, hòa chung với người Mĩ các gốc khác, kiên quyết lên án hành động bỉ ổi của nước Nhật chống lại tổ quốc Hoa Kỳ. Chúng tôi ủng hộ mọi biện pháp cần thiết của nhà nước để bảo vệ Tổ quốc này.Kí tên: Hội Tozai (Đông Tây) chi bộ New York. "Sáng thứ hai 8-12, phụ tá bộ trưởng ngoại giao Adolf Berle đến Đại sứ quán Nhật Bản để thông báo cho các giới chức Nhật ở đây biết rằng họ được dời về ở một khách sạn tại thủ đô và nên tự coi là đã bị giam giữ. Đại sứ Nhật Bản, đô đốc Nomura, hỏi xin lại cây gươm võ sĩ đạo của ông ta đã bị tước đoạt khi F.B.I xét trụ sở sứ quán.Ông Berle không đồng ý, vì sợ đô đốc sẽ tự vẫn theo lối Harakiri.Buổi trưa, các thượng nghị sĩ, hạ nghị sĩ, các thẩm phán Tòa án tối cao và các thành viên chính phủ tề tựu đông đủ ở phòng họp Quốc hội Hoa Kỳ tại điện Capitol. Bà Tổng thống Roosevelt cũng có mặt cùng với bà Wilson, góa phụ của cố Tổng thống Mĩ đã từng tuyên cáo chiến tranh chống Đức hồi Chiến tranh thế giới thứ nhất.Lúc 12 giờ 30, Tổng thống Mĩ đến. Ông bị bệnh bại liệt nên phải nhờ người con trai trưởng là đại úy hải quân James Roosevelt đỡ lên bục. Ông mở đầu bài diễn văn như sau:Hôm qua, ngày 7-12, một ngày của sự nhục nhã - Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã bị các lực lượng hải quân và không quân của đế quốc Nhật tấn công bất ngờ và không tuyên chiến...". Sau khi nói rõ thiện chí hòa bình và sự tráo trở của Nhật Bản trong các cuộc hội đàm và trong hành động thực tế để dẫn tới chiến tranh, Tổng thống Mĩ tuyên bố."Tôi yêu cầu lưỡng viện của Quốc hội Hoa Kì tuyên chiến với Nhật, kể từ ngày Chủ nhật hôm qua...".Cả phòng họp vỗ tay vang dội, Tổng thống Roosevelt rời diễn đàn. Cả hai viện của quốc hội thông qua quyết định tuyên chiến với đa số tuyệt đối (chỉ có một phiếu chống).Thế là Hoa Kỳ bước vào cuộc chiến tranh tổng lực với Nhật Bản.(1) Người Hoa Kì thường gọi họ là người Nisei (nhị sinh) tức là thế hệ thứ hai. Là những người sinh ra trên đất Hoa Kỳ, quốc tịch Hoa Kỳ nhưng cha mẹ là những người di dân từ Nhật đến.Sau này khi thi hành nghĩa vụ quân sự,. Bộ Tư lệnh tối cao Hoa Kì quyết định đưa họ vào chiến trường châu Âu, chứ không đưa vào chiến trường châu Á chiến đấu chống lại những người đồng chủng. Đó là một biện pháp tâm lí để tránh cho họ những tình huống tâm lí phức tạp ở trận tuyến. Chỉ có những phiên dịch viên hoặc nhân viên tình báo mới tham gia cuộc chiến đấu ở mặt trận Thái Bình Dương.
CHƯƠNG III CHIẾN TRANH BẮT ĐẦU: CHIẾN TRƯỜNG ĐÔNG NAM Á
Theo kế hoạch phối hợp giữa Bộ tổng tham mưu lục quân với Bộ tổng tham mưu hải quân hoàng gia Nhật, trong khi lực lượng chủ yếu của hải quân tấn công hạm đội Thái Bình Dương của Mĩ ở Hawaii thì các lục lượng hải quân khác cũng tấn công các căn cứ quân sự ở Philippines, Singapore... đồng thời, lục quân sẽ đánh vào các mục tiêu đã định sẵn ở Mã Lai, Thái Lan và Hong Kong. Nhưng vì cuộc tấn công Trân Châu Cảng đã bắt đầu chậm mất 2 giờ, nên nhũng tiếng súng đầu tiên mở màn cho chiến tranh Thái Bình Dương đã nổ ở bãi biển gần một thành phố ít ai biết đến ở xứ Mã Lai thuộc Anh.
ĐỔ BỘ Ở BÁN ĐẢO MÃ LAI
Bộ tư lệnh lục quân Nhật đã chọn một đoạn bờ biển phía Đông bán đảo Mã Lai, nơi tiếp giáp giữa xứ Mã Lai thuộc Anh và Vương quốc Thái Lan làm căn cứ đầu cầu để mở rộng xâm lược trên toàn bán đảo và đi xa hơn nữa. 20 hạm tàu các loại được tập trung tại quân cảng Cam Ranh để chở theo một sư đoàn lục quân đặc biệt làm nhiệm vụ đổ bộ đánh chiếm các căn cứ đầu cầu. Sáng 4-12, đoàn tàu nhổ neo rời Cam Ranh và lặng lẽ tiến về phía Nam. Họ cố giữ bí mật, nhưng vẫn không tránh khỏi sự theo dõi của các máy bay trinh sát Mĩ. Tuy vậy, họ không hề bị đối phương tấn công. Ngày 7-12, sau khi đã vào vịnh Thái Lan, đoàn tàu tách làm 3 nhóm để tiến tới 3 mục tiêu khác nhau. Lục lượng chính gồm 14 hạm tàu thẳng tiến về Singora, bên trái nó là nhóm thứ hai gồm 3 chiếc tiến đến Pattani thuộc Thái Lan và nhóm thứ ba cũng gồm 3 chiếc ở bên trái nhóm này hướng tới thành phố Khota Baru, một thành phố của Mã Lai cách Singora của Thái Lan 200 km. Đêm khuya, các hạm tàu thuộc cả 3 hướng lần lượt đến nơi đã định. Tại Khota Baru (Mã Lai)Vào lúc 23 giờ 25, quân Nhật theo các thang dây rời tàu mẹ xuống các tàu con để đổ bộ. Đại tá Yoshio Nasu, chỉ huy cánh quân này, đứng trên phòng chỉ huy của chiếc Aya Tosan Masu nhìn những người lính xuống tàu con và chờ lúc hải pháo bắn dẹp mọi chướng ngại và phủ đầu quân phòng ngự của Anh.Đúng 23 giờ 30 ngày 7-12 (giờ Mã Lai), tức 1 giờ 30 ngày 8-12 ở Tokyo, đại bác trên các chiến hạm đua nhau nổ. Tiếng súng đã bắt đầu sớm hơn ở Hawaii gần hai tiếng đồng hồ. Nhật Bản đã dấn thân vào chiến tranh.Người Anh đã sẵn sàng hơn người Mĩ ở Hawaii. Họ bắn trả rất dữ dội. Đại tá Nasu ra lệnh cho các tàu con tiến nhanh vào bờ, nếu không sẽ có nguy cơ bị đại bác phòng duyên của Anh đánh chìm ngay khi họ chưa tách khỏi tàu mẹ. Tất cả đều hướng về một mục tiêu: bãi biển mang tên thơ mộng "BÃI CỦA TÌNH YÊU NỒNG CHÁY".Lẽ tất nhiên Bộ tư lệnh Nhật đã phòng sẵn sự tiếp đón nóng bỏng của quân Anh. Vì Khota Baru, ải địa đầu của Mã Lai thuộc Anh, tiếp giáp với xứ Thái nhiều hiềm khích với phe Anh - Mĩ - Pháp, nên quân đồn trú tại đây khá đông, có xây dựng nhiều cụm phòng ngự ngoài bãi biển và sâu bên trong. Người Nhật còn tính cả khả năng quân của họ bị bao vây trong rừng già sau bãi biển - bao vây lâu ngày và cắt đứt với mọi nguồn tiếp tế - nên Bộ tư lệnh đã trang bị cho quân nhân nhũng hạt giống rau muống, khi cần trồng lấy mà sống.Mục tiêu chính của đại tá Nasu không phải là bãi biển thơ mộng này mà là phi trường nằm cách thành phố 2 km. Địa hình vùng này rất phức tạp, nhiều sông ngòi đổ ra biển tạo thành những cồn lớn nhỏ, bao vây bởi các chi lưu của sông Kelantan.Tới phiên đại tá Nasu leo xuống tàu đổ bộ. Có hơn trăm người sẵn sàng với trang bị hành quân xuống theo ông. Ông ra lệnh chạy vào bờ. Trong ánh sáng lờ mờ của đêm 20 âm lịch, quân trú phòng Anh dễ dàng bắn trúng họ trong khi họ còn chơi vơi trên biển. Đạn đại bác nổ xung quanh họ, tạo nên nhũng cột nước khi rơi xuống làm ướt quần áo mọi người. Nhiều tàu đổ bộ đã vỡ, nhiều xác chết trôi theo dòng nước chứng minh sự kiên trì của địch thủ. Cuộc tiến công trên bờ chắc chắn không dễ dàng gì. Theo kế hoạch hành quân của tướng Yamashita (Sơn Hạ), tư lệnh chiến trường Mã Lai, thì Khota Baru là chiến trường nghi binh nhằm gợi sự chú ý của hải quân, không quân Anh về đó. Còn những điểm đổ bộ chính ở Pattani và nhất là Singora.Nhìn các sĩ quan và binh sĩ đi cùng với mình, đại tá Nasu thấy họ không sợ hãi, ai cũng nhìn về phía trước, tay nắm chặt khẩu súng trong lúc đạn bay như vãi trấu trên đầu họ.Hai tàu đổ bộ, với độ 200 quân đã bắt đầu nhảy lên bờ, chạy vượt qua lằn nước tiến vào bên trong, nhưng họ lại đổ bộ lên nhằm một cồn cát ở cửa sông, chắc cũng không đi xa được và cũng khó vào đất liền để đến sân bay được.Chiếc tàu của đại tá Nasu cũng đổ bộ lên đấy vì không thể nào chuyển qua hướng khác. Nơi nào cũng đầy rẫy quân Anh, chỉ có dãy cồn này là dễ dàng cập bờ mà thôi. Nhưng khi lên bờ thì gặp đầy những mìn, bẫy. Đây là một cái bẫy mà quân Anh đã dành cho họ. Đối với quân Nhật, đã lỡ đúng trên thùng thuốc nổ rồi, giờ đây phải tìm cách nhảy xuống. Đại tá Nasu nghĩ: "Khi công binh đặt mìn họ cũng phải để dành một lối ra cho họ chứ. Vấn đề là phải tìm được lối ra ấy và phải nhanh, nếu không thì chết cả bọn".Nasu ra lệnh tiến nhưng chậm chạp, cắt dây kẽm gai và cuối cùng - sau khi mất di 7 người vì mìn - họ đã tìm ra lối đi Nhưng ở ngay phía trước lối đi là một ổ đại hen đang nhả đạn. Mọi người nằm rạp xuống. Bỗng nhiên, một người trong bọn họ nhảy lên, lấy thân mình lấp lỗ châu mai chặn đứng hỏa lực của khẩu đại liên. Lợi dụng tình huống đó, cả đoàn quân vượt lên.Một vài người rút lựu đạn bỏ vào cửa tò vò của lô cốt ở phía sau và họ tiến sâu về phía sân bay.Không quân Anh bỗng xuất hiện và bỏ bom ngay lên tàu chở quân và chiến hạm. Nhiều tàu chở đạn, tiếp liệu bị đánh chìm.Trong tình huống này chỉ có cách luồn sâu vào sân bay.Tiến về sân bay càng nhanh càng tốt. Lợi dụng sự xuất hiện của máy bay, tiếng ồn ào do động cơ và bom gây ra, quân Nhật đẩy xuồng cao su, tiến vào bên trong, theo các con rạch. Cuối cùng, khi nghe tiếng súng vang xa ở phía sau, họ biết rằng đã vượt qua tuyến phòng ngự của quân Anh rồi.Kiểm điểm lại, chỉ còn 120 trong số 300 người đổ bộ lên cồn. Đại tá Nasu tự nhủ: "Dù mất hết ta cũng phải bình tĩnh, sáng suốt mà nhận định tình thế"Chỉ có tiến mà thôi.Sau một đêm luồn lách qua rừng dừa nước, bần, sú vẹt, cây giao tán che khuất bên trên, 4 giờ sáng 8-12 quân Nhật tiến đến một cánh đồng tương đối rộng, theo bản đồ thì họ đã đến gần sân bay. Đột nhiên, thám báo đi trước ra hiệu nằm xuống, để họ tiến lên trinh sát.Lát sau họ trở về báo cáo: "Chòi canh ở trước mặt, nhà để máy bay bên trái nhưng tất cả đều yên tĩnh dường như quân Anh đã bỏ đi rồi". Một loạt súng máy đột ngột vang lên nhắm vào quân Nhật. Quân Nhật lập tức bắn trả dữ dội, tiếng súng bên kia im bặt. Quân Nhật tràn vào sân bay và phát hiện 3 người lính ấn ở lại trong lô cốt. Thì ra đấy chỉ là một loạt đạn bảo toàn danh dự chiến binh, chứ đại bộ phận quân Anh đã rời khỏi đây, rút về hướng Nam, ngay khi máy bay vừa cất cánh xong.Thẩm vấn tù binh, quân Nhật được biết: Bộ chỉ huy Anh hốt hoảng vì được báo cáo là có hàng chục ngàn quân Nhật đổ bộ, lại có cả quân nhảy dù nữa, nên họ cho rút toàn bộ quân. Những máy bay đánh bom đêm hôm qua cũng đã bay về phía Nam. Thế là quân Nhật đã chiếm xong sân bay đầu tiên của đế quốc Anh ở Mã Lai. Ở Pattani và Singora (Thái Lan)Thiếu tá Shigrihara Asaeda trước đây cải trang làm nhà buôn, đại diện cho một công ty Nhật đi thu mua xơ dừa đã từng đến Pattani nghiên cứu tình hình bờ biển. Ông ta rất vui mừng về báo cáo cấp trên là bãi cát trắng phau, thích hợp cho cuộc đổ quân. Nhưng rủi cho ông ta và cho quân Nhật là khi thám thính thì nước lớn nên lầm tưởng bãi cát ấy kéo dài ra tận ngoài khơi. Hôm nay, đổ bộ lại gặp phải nước ròng. Vì thế, quân đổ bộ phải vượt qua gần 1 km bùn lầy trước khi lên bãi cát trắng phau ấy.Thiếu tá Asaeda cùng binh lính với đầy đủ trang bị hơn 25 kg trên vai phải vất vả hơn 3 giờ lội bùn để đến bờ cát, may là không có quân dịch chờ đón. Một toán quân Thái đóng gần đó nhưng tất cả sĩ quan đã bị mua chuộc nên họ không phản ứng gì .Cuộc đổ bộ tại Singora diễn ra như một bi hài kịch. Thiếu tá Osone thuộc phòng tình báo lục quân đóng vai viên chức tòa lãnh sự Nhật tại Singora đã móc nối được với người chỉ huy quân đội và chỉ huy cảnh sát Thái Lan địa phương để họ không chống cự lại khi quân Nhật đổ bộ. Nhưng vì ông ta đốt số mật mã quá sớm nên không nhận được nhũng buổi phát tin cuối cùng hẹn giờ đổ bộ. Do đó, khi quân Nhật đổ bộ, ông ta không có mặt trên bãi biển.Khi quân Nhật lên bờ, đại tá Tsuji, chỉ huy hành quân không thấy Osone đâu cả nên phải lội bộ đến Tòa lãnh sự kêu cửa. Đích thân ông lãnh sự ra mở cửa và reo lên: "ồ, quân ta đã đến".Đại tá Tsuji ra lệnh cho Osone dẫn mình đến Sở chỉ huy của cảnh sát Thái Lan với 100.000 đồng "Ticalz" làm quà (1).(1) Thái Lan tỏ ra thân thiện với Nhật nhưng lại sợ Anh quốc từ Miến Điện và Mã Lai đánh qua, nên ngoài mặt chưa dám công khai ngả về Nhật. Chính sách Thái Lan là chờ và xem ai thắng. Quân đội Thái Lan, dưới sự chỉ huy của tư lệnh lục quân Phibul Songgram, lại có cảm tình sâu sắc với Nhật. Cấp trên đã lờ đi những sự mua chuộc của thương gia Nhật với sĩ quan cấp dưới. Có điều kì lạ là tin về cuộc đổ bộ của Nhật ở bán đảo Mã Lai đã không đến tai thủ tướng Anh Winston Churchill trong ngày hôm đó.Còn tin về Trân Châu Cảng thì ông cũng chỉ biết sau khi cuộc tấn công đã xảy ra được 3 tiếng đồng hồ. Khi được tin này, Churchill đã không giấu được nỗi vui mừng. Ông điện ngay cho tổng thống Roosevelt:- Thưa Tổng thống, Hoa Kỳ đã có chuyện gì xảy ra với Nhật Bản vậy?- Thưa Thủ tướng, đó là sự thật. Họ đã tấn công Trân Châu Cảng. Chúng ta cùng hội cùng thuyền rồi.- Như vậy mọi việc sẽ dễ dàng hơn cho chúng ta. Cầu Chúa phù hộ cho Ngài. Churchill cảm thấy niềm vui dâng tràn: Hoa Kỳ đã buộc phải lao vào vòng chiến. Dù muốn hay không, họ sẽ phải giúp đỡ nước Anh tối đa. Nước Anh không còn đơn độc, vì đã có một đồng minh lớn cùng chung chiến hào. Ông nói với cố vấn Edward Grey: "Lửa đã cháy dưới đáy nồi. Khi nồi nước sôi, lực tạo ra từ đó sẽ lớn vô cùng".
UY HIẾP SINGAPORE VÀ HONG KONG
Tại Singapore
Vào lúc 4 giờ sáng, dân chúng nghe bom nổ rền. Đó là lúc máy bay Nhật tấn công. 133 người chết nhung còi báo động vẫn im bặt suốt cuộc oanh kích, đèn điện trong thành phố thắp sáng choang, không ai nghĩ đến phải tắt điện.Mặc dù Thống chế không quân, Sir Robert Brooke Popham, tư lệnh tối cao vùng Viễn đông thuộc Anh đã từng lên tiếng trấn an mọi người, nhưng đặc phái viên Yates Mac Daniel của AP điện về tòa soạn như sau:- Máy bay chiến đấu Beewster Buffalo của Anh lỗi thời, chậm chạp kém xa máy bay Nhật (phần lớn được chế tạo vào năm 1940).- Toàn bán đảo Mã Lai không có một chiến xa nào để đối đầu với Nhật- Những pháo lớn phòng thủ Singapore đều hướng về phíaNam trở ra biển, đề phòng một cuộc đổ bộ của quân Nhật từ phía ấy nhưng không có một ụ súng nào hướng về phía Bắc. Giờ đây quân Nhật đã đổ bộ lên Thái Lan, Mã Lai chắc chắn họ sẽ tiến quân dễ dàng và trong 5 hay 6 ngày nữa sẽ đến thành phố cảng Singapore này.Người Anh chỉ còn hi vọng ở con chủ bài "Hạm đội Hoàng gia Anh" với hai chiến hạm tân tiến là Repulse và Prince of Wales để bảo vệ thuộc địa này.Tin quân Nhật đổ bộ ở Thái Lan và Bắc Mã Lai đã được điện về đây. Bộ tư lệnh Hoàng gia Anh ở Viễn Đông họp bàn. Đặc phái viên của hãng thông tấn AP đến tìm gặp phó đô đốc Sir Layton, hỏi ông này nghĩ gì về những tin ấy. Phó đô đốc trả lời: "Hạm đội với hai tàu chiến Repulse và Prince of Wales sẽ tiến về phía Bắc vịnh Thái Lan để nghênh đón người Nhật. Anh có muốn đi theo không?".- Thưa đô đốc bao lâu?- Khoảng 7 hay 8 ngày, đủ quét sạch họ. Hiện họ đang bám vào vùng ven biển.Nhưng vì là nhân viên duy nhất của AP nên anh ta không đi.Lúc 12 giờ trưa, hạm đội sẵn sàng lên đường dưới sự chỉ huy của phó đô đốc Philipps, thường được gọi là "Tom Thumb" (Tôm nhỏ bằng ngón tay cái). Phó đô đốc điện hỏi:- Xin Bộ tư lệnh cho máy bay yểm trợ.Bộ tư lệnh liên hệ với cánh không quân, được phó nguyên soái không quân Marshall C.Pulford cho biết: "Khi ra biển sẽ có. Sáng mai sẽ có không thám cho hạm đội".Phó đô đốc Phihpps tâm sự với Bộ chỉ huy của mình: "Có một cái gì bên trong tôi báo hiệu cho biết là sẽ không có không quân yểm trợ đâu. Tôi rất lo ngại điều này".Và quả đúng như thế, các sân bay ở bắc bộ bán đảo Mã Lai đã bị tê liệt. Thế là "lực lượng Z" rời Singapore với thiết giáp hạm Prince of Wales trọng tải 35.000 tấn, tuần dương hạm Repulse và 4 khu trục hạm hộ tống. Qua khỏi trạm tín hiệu Changi, Tư lệnh hạm đội nhận được điện: "Rất tiếc, không thể có chiến đấu cơ bảo vệ".Tại Hong Kong:Ngày 8-12, sư đoàn 38 thuộc quân đoàn 23 của Nhật từ Quảng Châu tiến đến tiếp cận bán đảo Cửu Long. Quân Anh ở đây rút về đảo Victoria cố thủ. Ngoài số quân đội chính quy, nhà cầm quyền Hong Kong kêu gọi quân tình nguyện. 1.759 thanh niên thuộc nhiều dân tộc: Anh, Trung Hoa, Ấn Độ, Bồ Đào Nha, người lai... đăng kí vào đội quân tình nguyện phòng vệ thuộc địa này.
ĐỘT KÍCH Ở PHILIPPINES
Oanh tạc căn cứ Clark Field
Sân bay Đài Nam (Đài Loan), căn cứ của không đoàn 11 không quân Hoàng gia Nhật rộn ràng khác thường vào lúc 7 giờ sáng ngày 8-12. Phi hành đoàn của 192 máy bay thuộc hải quân sửa soạn chờ đợi xuất kích đánh căn cứ không quân Clark Field của Hoa Kỳ tại Philippines. Tai hại là mây mù cứ dày đặc không cho họ cất cánh. Đáng lo nhất là máy bay đang xếp hàng trên đường băng chứa đầy bom đạn và nhiên liệu, nếu Mĩ bỏ bom thì nguy.Họ thúc dậy lúc 2 giờ sáng, chuẩn bị xuất kích lúc 4 giờ nhưng lại phải kéo dài đến giờ này. Mây mù ngày càng dày hơn.Sở dĩ người Nhật cho rằng cuộc tiến công sân bay Clark và vịnh Subic sẽ là một đòn bất ngờ đối với Hoa Mỹ vì người Mĩ cho rằng với số lượng nhiên liệu chứa trong máy bay thì quân Nhật chỉ có thể đến phía bắc Luzon mà thôi, chứ không đủ tiến về phía nam đảo này đến sân bay Clark được. Chỉ Hoa Kỳ, với pháo đài bay có thể bỏ bom bất cứ nơi nào thuộc Đài Loan. Người Mĩ không hề biết rằng phi đoàn của đại tá Masahisa Saito đã khai thác một sáng kiến kĩ thuật để tiết kiệm nhiên liệu của thượng sĩ phi công Sabuko Sakai, nhờ đó chiến đấu cơ Zéro có thể cất cánh từ Đài Nam bay đến tận sân bay Clark, quần trên bầu trời này 45 phút rồi trở về an toàn. Nhờ đó mà khỏi cần tàu sân bay. Chính vì tình báo Hoa Kỳ không thấy có tàu sân bay ở ngoài khơi Đài Loan nên càng tin chắc là sân bay Clark chưa hề bị đe dọa, vì Bộ tư lệnh Nhật không thể nào cho máy bay oanh tạc hai động cơ đi đánh (loại máy bay này có tầm hoạt động xa hơn chiến đấu cơ) mà không có chiến đấu cơ Zéro bay theo bảo vệ (1).(1) Trước khi có sáng kiến kĩ thuật về tiết kiệm nhiên liệu này thì máy bay một cánh quạt Zéro chỉ có 7 giờ hoạt động. Nay một chiến đấu cơ Zéro có thể hoạt động 11 giờ, sử dụng 18 gallon xăng mỗi giờ. Người Nhật đã phát triển tối đa kinh nghiệm này ở chiến trường Trung Quốc. Loa phóng thanh ở nhà chỉ huy phát ra tiếng rào rào, sau đó một giọng nói vang lên: Chú ý. . . chú ý.Vào lúc 04 giờ sáng nay một lực lượng đặc nhiệm của không quân thuộc hải quân Hoàng gia đã đánh một đòn bất ngờ vào hạm đội Hoa Kỳ tại Hawaii.Mọi người yên lặng, sủng sốt, một lúc sau họ vỗ tay mừng rỡ. Nhưng nỗi vui mùng vụt tan biến khi một người lính không quân đứng lên nói lớn: "Thôi rồi, chúng ta mất vinh dự được đánh người Mĩ đầu tiên". Suy nghĩ thêm, mọi người thấy rõ vì cơn mây mù quái ác này mà yếu tố bất ngờ không còn nữa, người Mĩ nghe tin vụ Hawaíi sẽ sẵn sàng nghênh tiếp họ ở trận đánh này.Cũng đúng 7 giờ sáng, tại Manila, đại bản doanh không quân Viễn Đông của Hoa Kỳ, thiếu tướng Brereton, tư lệnh không quân xin phép Tổng tư lệnh quân lực Hoa Kỳ tại Viễn Đông để được đi dội bom Đài Loan nằm về phía Bắc cách đó 600 hải lí. Ông ta muốn sử dụng pháo đài bay khi nghe tin Hawaii bị tấn công.Lúc đầu Mac Arthur không cho phép, nhưng vào lúc 10 giờ thì lại thay đổi ý kiến và ông ta soạn thảo kế hoạch hành quân.Lát sau, phía Bắc đã báo về: máy bay Nhật xuất hiện. Tướng Brereton điện thoại cho sân bay Clark lúc 11 giờ 45, nhưng không ai tiếp nhận.Có lẽ mọi người lo buổi ăn trưa. Túng thế, ông ta điện cho các sân bay xung quanh căn cứ Clark vào lúc 12 giờ 10. Tất cả chiến đấu cơ đều bay lên bầu trời chờ đón những vị khách không mời mà tới (trừ các máy bay của Clark). Như vậy là toàn bộ pháo đài bay Hoa Kỳ ở Clark đều nằm yên dưới đất không ai bảo vệ trên không.Vào lúc 12 giờ 25, 27 máy bay Mitsubishi ném bom ở độ cao tràn đến sân bay Clark, trong lúc đó dưới đất một phần phi công Mĩ vừa rời nhà ăn tiến về phía các máy bay đang xếp hàng. Một số nhân viên đang gắn bom vào máy bay chuẩn bị đi đánh Đài Loan.Tại nhà ăn của phi đoàn 30, quân nhân Mĩ đang nghe buổi phát thanh của Don Bell trên đài KMZH:"Theo tin chưa kiểm chứng, quân Nhật tiến công Trân Châu Cảng, gây thiệt hại nặng nề và sân bay Clark ở Phihppines cũng bị tấn công gây nhiều đám cháy".Mọi người cười rộ, cho rằng cả hai tin đều là tin vịt", vì họ đang ngồi tại sân bay Clark mà không hề có quả bom nào của Nhật rơi xuống cả!Từ xa, các phi công trên các máy bay bỏ bom của Nhật đã nhìn thấy hàng đoàn pháo đài bay nằm kề nhau phản chiếu ánh sáng mặt trời. Chỉ vài giây nữa thôi là 27 chiếc Mitsubishi thả bom ở độ cao, tiếp đến là 27 chiếc ném bom bổ nhào, cao hơn nữa là 35 chiến đấu cơ Zéro sẵn sàng yểm trợ, sẽ tràn tới tiêu diệt chúng.Vòng ngoài sân bay, trung đoàn 200 phòng không của Vệ binh bang New Mexico đang ăn trưa kế bên các ụ súng phòng không 37 li và 12 li 7.Vào lúc 12 giờ 35 phút, nghe tiếng động cơ, họ nhìn lên và thấy từ các máy bay bay ngang, hàng loạt bom rơi xuống. Chỉ vừa kịp kéo còi báo động thì đợt máy bay thứ hai bay tới. Họ tha hồ bắn. Đây là lần đầu tiên họ bắn vào mục tiêu có thật với đạn thật Tất cả đều bắn quá thấp hoặc quá cao, không trúng chiếc nào nhưng sĩ quan chỉ huy mừng ra mặt vì không ai bỏ súng mà chạy mặc dù máy bay bỏ bom chúi mũi khi bay ngang qua họ.Ngoài ra, có hai máy bay chiến đấu Mĩ bay lên chặn đánh nhưng loại máy bay chiến đấu P.40 của họ kém xa loại Zéro nên hàng loạt chiến đấu cơ Zéro thay phiên bắn phá, cày nát sân bay Clark. Một đoàn Zéro khác nhau khi phá xong một sân bay kế cận cũng lại đây tham gia chiến đấu. Từng chiếc pháo đài bay bị nổ tung sau khi trúng đạn vào thùng đựng nhiên liệu, chỉ trừ ba chiếc B.17, còn lại tất cả đều cháy. 13 oanh tạc cơ loại trung và 45 chiến đấu cơ của sân bay Clark tan ra mây khói cộng thêm 25 máy bay ở Iba. Thế là không quân Viễn Đông Hoa Kỳ hầu như bị xóa sổ. Đó là một thảm họa thứ hai tương tự trận Trân Châu Cảng.Người Nhật dành cho cuộc tấn công sân bay Clark và Iba 108 oanh tạc cơ và 75 chiến đấu cơ Zéro, cuối cùng họ chỉ mất có 7 chiếc.Mãi về sau này, nhiều chiến lược gia đã chỉ trích Mac Arthur, tổng tư lệnh quân lục Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. Chính sụ chần chừ của ông không cho không kích Đài Loan, mặc dù đã nghe Hawaii bị oanh tạc, đã để cho Nhật có thời giờ dội bom sân bay Clark.Sự thiệt hại khoảng 70% không lực Hoa là ở Philippines là tiền đề của sự thảm bại của quân đội Hoa Kỳ trong những ngày đầu tiên của chiến tranh, đưa đến việc Hoa Kỳ mất Philippines. Điều trớ trêu là tất cả mọi người ở Philippines đều được biết về cuộc tiến công Trân Châu Cảng vài giờ trước đó nhưng ít người tin, vì họ chủ quan, tin vào sức mạnh của Hoa Kỳ.
Tấn công căn cứ Davao
Trong lúc không quân của hải quân trên đảo Đài Loan bị mây mù cản trở nên không tiến công sân bay Clark được vào lúc hừng đông thì hạm đội Nhật được máy bay của tàu sân bay hỗ trợ đã đánh vào Davao, một căn cứ quân sự thuộc đảo Mindanao phía nam Philipines.Hạm đội phương Nam được lệnh rời quân cảng Kure (Nhật Bản) vào ngày 7-11-1941, các chiến hạm ra đi từng đợt một và hẹn gặp nhau trên biển để tránh sự dòm ngó của điệp viên đồng minh.6 giờ sáng ngày 26-11 tất cả các thành phần của lực lượng đặc nhiệm phương Nam đã đến quân cảng PulauTrong suốt hải trình dài 2.000 dặm, mọi liên lạc vô tuyến bị đình chỉ, chỉ nhận tin chứ không phát tin.Ngày 2-12 lực lượng đặc nhiệm phương Nam tiếp nhận một công điện lịch sử: "Niitaka Yama Nabore 12.08". Ngay sau đó chuẩn đô đốc Raizo Tanaka họp các hạm trưởng, phổ biến chỉ thị tiến công Davao. ông ta nói: "Các anh phải nhớ rằng cuộc hòa đàm vẫn còn tiếp tục ở Washington. Chúng ta phải chuẩn bị tinh thần để nhận một công điện mới đình chỉ mọi cuộc hành quân và quay trở về Nhật nếu như cuộc hội đàm thành công".Một sĩ quan hỏi: "Thưa đô đốc, chúng ta chỉ cách Davao độ 500 dặm, thế nào họ cũng có tàu ngầm đi tuần tra. Nếu gặp, ta xử trí như thế nào vì hiện giờ chưa có chiến tranh?".Trả lời: "Đánh chìm trong trường hợp tối cần thiết".Đêm 6-12 hạm đội rời quân cảng Pulau và phối hợp với tàu sân bay Ryujo cùng nhiều hải vận hạm khác nặng nề tiến về Mindanao theo đội hình hàng dọc. Đô đốc Tanaka, tư lệnh, treo soái kì trên chiếc tuần dương hạm Jintsu (6000 tấn).3 giờ 30 sáng ngày 8-12-1941 chuông báo động trên tàu reo lên đánh thức mọi người.5 giờ sáng, 20 oanh tạc cơ nhẹ nhàng rời tàu sân bay, lao về cảng Davao, nơi tập trung máy bay và tàu chiến của Hoa Kỳ. Lực lượng đặc nhiệm chia làm hai phần:- Tàu sân bay Ryujo lảng vảng nơi xuất kích với sự canh phòng của 4 khu trục hạm chờ máy bay trở về.- 4 chiếc khu trục hạm khác tiến về phía Bắc để án ngữ tàu Mĩ từ Luzon xuống phía Nam.Nhưng cuộc tiến công Davao là sự thành công nửa vời vì người Nhật rơi vào một túi rỗng. Tàu chiến, máy bay cũng biến mất. Chỉ còn bỏ lại hai thủy phi cơ hư hỏng không bay được.Còn sự thắng lợi là: quân Nhật đổ bộ lên Davao.Như vậy, ngay trong ngày đầu của chiến tranh, bộ máy quân sự Nhật Bản dàn ra từ Tây bộ Thái Bình Dương sang đến tận Hawaii, quần đảo Philippines, bán đảo Mã Lai và Singapore...Nơi nào họ cũng chiến thắng giòn giã. Quân Anh, quân Mĩ choáng váng trước những trận đòn bất ngờ như vũ bão của hải quân, không quân Nhật.Trong lịch sử chiến tranh, chưa bao giờ có một nước đã rải quân trên một chiến trường rộng lớn như thế, và điều độc đáo là thưa bao giờ có một sự phối hợp đồng loạt như thế.Ngoài những chiến lược gia của Nhật đã soạn thảo kế hoạch hành quân, ít ai hiểu được trọn vẹn vấn đề. Mãi sau này thế giới mới hiểu đâu là diện, đâu là điểm đối với quân Nhật.Hawaii với hạm đội Hoa Kỳ là mục tiêu chiến thuật. Còn dầu hỏa, mỏ thiếc, đồng và cao su Indonésia, Mã Lai mới là mục tiêu chiến lược của quân phiệt Nhật. Họ muốn lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, một mặt dùng nhũng nguyên liệu có tính chiến lược được dự trữ dồi dào ở Đông Nam Á để quân Nhật có thể kéo dài chiến tranh ở Trung Quốc, mặt khác Nhật muốn tiến xuống Úc châu, đất rộng, người thưa lại nhiều nông sản
Chương IV:MỘT THỜI CHIẾN THẮNG
Vào giai đoạn đầu của chiến tranh, thế của quân Nhật như nước trên cao đổ xuống không gì cản nổi. Hải, lục, không quân Hoàng gia quét sạch những nơi có quân Anh, Mĩ, Hà Lan, Úc... Sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng, quân Nhật lần lượt chiếm các đảo Guam (ngày 10-12), Wake (22-12) của Mĩ rồi đổ bộ lên đảo New Britain gần quần đảo Salomons (23-1-1942) và từ đây tiến sang bờ đông đảo New Guinea (8-3), trực tiếp uy hiếp Úc. Ngày Giáng sinh năm 1941, Nhật chiếm Hong Kong. Ngày Tết năm mới 1942, họ tiến vào Manila và trong mùa xuân năm đó (từ tháng 1 đến tháng 4) đánh chiếm toàn bộ Mã Lai, Singapore, quần đảo Andaman, phần lớn Miến Điện thuộc Anh, Indonesia của Hà Lan, Philippines của Mĩ.Không dừng lại ở khu vục Đông Nam Á, Nhật Bản tiếp tục bành trướng xa hơn nữa về cả hai phía Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.Đế quốc Mặt trời đã đạt tới đỉnh cao nhất của nó.
ĐÁNH CHIẾM MÃ LAI VÀ SINGAPORE
Trận đánh vịnh Thái Lan
Phòng hành quân bên cạnh văn phòng nguyên soái Hisaichi Terauchi, nằm ngay căn cứ Tân Sơn Nhất rộn rịp với những sĩ quan xê dịch ngọn cờ trên những bản đồ treo trên tường hoặc đặt trên bàn. Điện thoại nối liền với phòng truyền tin reo vang.Kẻ đến, người đi. Lúc nào cũng có hơn 20 người làm việc. Đây là tổng hành dinh của Bộ tư lệnh Phương Nam, và nguyên soái Terauchi là tư lệnh tối cao của các lực lượng phương Nam của Nhật đang triển khai trên khắp chiến trường Đông Nam Á. Từ đây ông ta ra lệnh cho trung tướng Homma, tư lệnh đạo quân sắp sửa đổ bộ lên Philippines, trung tướng Yamashita, tư lệnh quân đoàn 25 đã đổ bộ lên miền nam Thái Lan để tiến đánh Mã Lai cũng như vị tư lệnh sắp dẫn quân đoàn 16 Nhật đổ bộ lên quần đảo Indonesia là trung tướng Hitoshi Imamura.Chiều 9-12, một tin do tàu ngầm báo về Tân Sơn Nhất cho biết đã tìm thấy hạm đội Anh di chuyển về phía bắc Mã Lai, bên bờ vịnh Thái Lan. Như vậy là họ có ý cản trở cuộc hành quân đổ bộ tiếp diễn, cố ý chặn đánh các tàu chở quân, xe tăng và pháo của Nhật.Phần quân đổ bộ ngày 8-12 chỉ là lực lượng xung kích trang bị nhẹ, còn nếu muốn chiến thắng Anh, chiếm Singapore, phải có những trang bị nặng.Nhũng chiếc tàu vận tải nặng nề, chậm chạp vừa qua khỏi Hòn Khoai (Poulo Obi) vào vịnh Thái Lan. Như vậy là nguy cơ lớn đe dọa lộ trình hành quân ở Mã Lai.Nguyên soái Terauchi ra lệnh cho không đoàn 22 của hải quân đóng tại Tân Sơn 1 .Nhất sẵn sàng. Bộ tư lệnh không đoàn đưa ra 18 máy bay bỏ bom loại Mitsubishi 96 và 15 chiến đấu cơ Zéro nằm sẵn trên đường băng, đợi lệnh xuất kích. Đáng lí ra, không đoàn này đã bay từ lâu nhưng còn nằm lại đợi là vì có sự trái ngược trong tin tức quân báo về sự có mặt của hai tàu chiến lớn nhất, mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ tuần dương hạm Repulse và thiết giáp hạm Prince of Wales, niềm kiêu hãnh của hải quân Anh quốc (l).(1)Thiết giáp hạm Prince of Watles hạ thủy năm 1939. Tốc độ 20 hải lí/giờ. Trang bị 10 hải pháo 356 li và 10 pháo 132 li. Ngoài ra có 32 đại bác 40 li, nhiều súng phòng không và 4 máy bay. Trọng tải 35. 000 tấn. Tuần dương hạm Repulse đóng xong năm 1918 tân trang toàn diện năm 1936. Tốc độ 29 hải lí/giờ. Có 6 hải pháo cỡ 380 li, 17 đại bác 102 li cùng nhiều súng phòng không. Có 4 máy bay và một dàn phóng máy bay. Trọng tải 32. 000 tấn. Cuộc đọ sức này là một sáng kiến mới của Terauchi và Yamamoto. Nếu thành công, sẽ làm đảo lộn nhiều quan niệm cũ về chiến tranh. Từ trước đến nay, hải quân trên thế giới đều quan niệm, muốn tiêu diệt một hạm đội đang tác chiến phải có một hạm đội mạnh hơn về tốc độ, về bề dày của vỏ thép, về hải pháo có nòng to hơn, tầm bắn xa hơn. Do đó trong thập niên 30, các cường quốc đua nhau đóng những tàu chiến ngày càng lớn hơn, chạy nhanh hơn, thậm chí trang bị cả hải pháo 450 li nữa. Cuối cùng các chiến hạm trông tựa như một thành phố nhỏ di động.Nước Nhật khó mà có hạm đội như thế vì bị trói buộc bởi hiệp ước hạn chế hải quân (1). Từ đó người Nhật phải tìm tòi một phương thức để làm sao một hải quân nhỏ hơn vẫn có thể chiến thắng một đối thủ mạnh hơn hai lần, thậm chí cả hải quân Mĩ và Anh cộng với Hà Lan phối hợp.Yamamoto đã chứng minh học thuyết của mình qua trận Trân Châu Cảng. Đó là vai trò quyết định của hàng không mẫu hạm trong chiến tranh hiện đại. Chỉ cần 6 tàu sân bay và máy bay tùy thuộc đủ để tiêu diệt nguyên một hạm đội. Trong khi đó, thiết giáp hạm (lá chủ bài của Đại chiến thứ nhất) giờ đây là những con cua nằm trong hang chờ chết mà thôi.Hôm nay, Terauchi lại muốn chứng minh một yếu tố mới vai trò của các sân bay. Nó là một con nhím, nó có thể tự bảo vệ, đồng thời có thể tung ra những quả đấm xa đến hàng ngàn dặm, tiêu diệt hạm đội hùng mạnh nhất nhì thế giới. Qua kinh nghiệm ấy, Nhật có thể nhân mô hình này lên và nhảy từ Đông Dương đến Mã Lai, Indonesia, từ đảo này sang đảo khác với sự phối hợp vừa phải của hải quân cũng có thể đánh đến tận châu Úc(2). (1) Hiệp ước kí giũa Anh-Mỹ-Nhật-Pháp và Ý tại Washington năm 1922.(2) Cả hai kinh nghiệm này về sau được các chiến lược gia Hoa Kì nghiên cứu, bổ sung và sử dụng lại. Họ thêm vào ý kiến trên một yếu tố lớn, đó là nền sản xuất công nghiệp hiện đại và oái oăm thay, phát minh của Yamamoto và Terauchi giúp Hoa Kì chiến thắng dễ dàng Nhật Bản về sau. Vào lúc 2 giờ trưa, một thủy phi cơ trinh sát, loại Matsunaga bốn động cơ đã điện về Sài Gòn cho biết hạm đội Anh vẫn còn trong cảng Singapore 500 km về phía bắc.Vì vậy phi hành đoàn của chiếc máy bay trinh sát kia được lệnh về ngay Sài Gòn, mang theo hình chụp hạm đội Anh ở Singapore. Phi hành đoàn đã về tới và phim được đưa ngay vào phòng rửa ảnh.Chuẩn đô đốc Matsunaga, tư lệnh không đoàn tại Tân Son Nhất nghiên cứu kĩ các bức ảnh cảng Singapore. Thắc mắc điều gì đó, ông mời thêm thuyên viên giải đoán không ảnh. Sau khi trao đổi ý kiến, họ thống nhất. Hai tàu lớn trong ảnh này là cảnh nguy trang khéo léo. Vậy không phải là chiến hạm Repulse và Prince of Wales. Như thế, báo cáo của tàu ngầm I.56 là đúng. Thế là vào lúc 7 giờ tối (giờ Sài Gòn) 18 máy bay oanh tạc Mitsubishi rời Tân Sơn Nhất hướng về phương Nam, đi tìm hạm đội Anh.Trời mưa như trút, đêm tối mịt mù. Đến nơi mà tàu ngầm báo là đã gặp hạm đội Anh họ sà thấp xuống để tìm nhưng không thấy gì hết, nên trở về Sài Gòn.3 giờ 40 sáng 10-12, một tàu ngầm khác điện về Sài Gòn cho biết vị trí của "Hạm đội Z", cách Sài Gòn 300 hải lí.7 giờ 10 phút sáng, 88 máy bay Mitsubishi, gồm 27 chiếc chở bom và 61 chiếc phóng ngư lôi đậu ở sân bay Tân Sơn Nhất được lệnh xuất phát. Đến 11 giờ họ gặp « lực lượng Z ».11 giờ 18 phút, phi đội máy bay Genzan bay ngang qua hai chiến hạm và thả bom xối xả. Hầu hết đều rơi xuống biển, nổ tạo nên những cây nước khổng lồ. Chỉ có một trái rơi trúng chiến hạm Repulse nổ ở tầng trên làm bật cần phóng máy bay. Trái thứ hai rơi trúng, vỏ tàu rung chuyển nhưng các pháo thủ vẫn bình tĩnh cầm chắc tay súng.11 giờ 41 phút, 9 máy bay khác, loại phóng ngư lôi bay sà đến, độ cao 100m trên mặt biển. Mặc dù các pháo thủ trên tàu bắn xối xả, máy bay Nhật vẫn cố bám hướng chiến hạm mà tiến đến. Một máy bay khi còn cách tàu 300m phóng đi một ngư lôi nhung chính nó cũng bị trúng đạn, gãy làm ba khúc, rơi nhào xuống biển.Chiếc Repulse áp dụng chiến thuật né tránh, chạy theo chữ z tránh được tất cả các ngư lôi.Còn chiếc soái hạm Prince of Wales bị chín máy bay phóng ngư lôi tấn công, lãnh trọn một trái nổ dưới mặt nước.11 giờ 56, 9 chiếc máy bay bỏ bom và 10 máy bay phóng ngư lôi thuộc phi đội Mihoro lâm vòng chiến. Họ nhắm vào chiếc Repulse từ mọi phía. Hai đám cháy trên tàu gây nên hai cột khói rất cao. Nhưng dưới sự điều khiển đầy kinh nghiệm và bình tĩnh của hạm trưởng, đại tá William Tennant, con quái vật 32 nghìn tấn lách qua, tách lại tránh hết các ngư lôi. Sự tiến công tài ba, can đảm của phi công Nhật đã kích thích người Anh trổ hết tài chống đỡ.Trên tháp chỉ huy của chiếc soái hạm, phó đô đốc Philipps theo dõi cuộc chiến, ra lệnh cho hạm trưởng Leack tiến gần hạm bạn để bảo vệ nó với toàn bộ súng phòng không, đồng thời điện về Singapore xin chiến đấu cơ ra tiếp cứu.Đến 12 giờ 20, khoảng 20 máy bay phóng ngư lôi của Nhật ập đến. Họ chia làm hai cánh, đánh hai mục tiêu cùng một lúc. Họ đánh từ bốn phía để cho tàu né được ngư lôi này thì lại trúng ngư lôi khác. Một chiếc máy bay đến cách chiếc Repulse độ 500m, phóng một ngư lôi chạy thẳng về chiếc tàu.Mọi người bên mạn tàu trái nơi ngư lôi sắp đến - trố mắt nhìn, bất lực tựa như bị thôi miên. Ngư lôi va vào phía sau tàu, nổ ầm tung một cột nước cao, chiếc tàu chồm lên rồi nghiêng hẳn về một bên.Kế đó một tiếng nổ phía bên phải do trúng ngư lôi làm cho tàu bị trọng thương.Thuyền trưởng ra lệnh cho mọi người rời tàu. Trái thứ ba, rồi thứ tư đánh trúng làm rách lườn tàu, nước ùa vào như thác đổ. Tàu sắp chìm, mọi người nhảy xuống nước. Một phút sau, phần trước của tàu chìm xuống biển, phần sau nhô lên rồi sau đó thì chìm hẳn. Khi ấy là 12 giờ 23 phút. Hạm trưởng Leack và phó đô đốc tư lệnh nhìn những người xếp hàng ra đi, nói: "Tạm biệt, tạm biệt". Các quân nhân thuộc quyền la lên: "Chúa phù hộ cho hai vị".Người Nhật biết rằng với bề dày boong tàu của thiết giáp hạm Prince of Wales, bom rơi vào như gãi ngứa mà thôi. Họ cũng biết nhược điểm của tàu là lườn dưới, phía sau, gần hầm máy. Ngư lôi của các máy bay thuộc phi đội Kanoya và phi đội Mihoro tập trung phóng vào đấy. Tàu không điều khiển được nữa, mất tốc độ, quay vòng nhưng súng trên tàu vẫn bắn. 12 giờ 46 phút, một phi đội mới đến tiếp tục bỏ bom.Người Anh vẫn bắn. Một trái bom rơi đúng giữa tàu, chui xuống hầm máy và nổ tung. Khu trục hạm Express chạy đến, cặp bên hông chiến hạm bị thương để tiếp nhận thương binh và nhũng người không còn cần thiết cho hoạt động phòng không của tàu, rồi lui ra.Vừa lúc ấy soái hạm Prince of Wales nghiêng một bên rồi chìm hẳn, lúc ấy là 13 giờ 20 phút.Từ lúc tấn công đến lúc bị tiêu diệt, hạm đội Viễn Đông chỉ chống cự được 120 phút. Đến khi ấy mới xuất hiện máy bay mà Tư lệnh hạm đội Z đã kêu cứu hai giờ trước đó.Quân Anh mất đi 30 sĩ quan và 555 thủy binh đầy kinh nghiệm, trên tổng số 2775 người thuộc hạm đội Z.Trong số mất tích có tư lệnh hạm đội hi sinh theo chiến hạm của mình.Các phi công Nhật hôm nay đã chứng kiến một sự kiện lịch sử.Họ đã làm đảo lộn chiến thuật hải quân từ xưa đến nay được mọi người coi trọng: "Muốn đánh thắng một hạm đội phải có một hạm đội mạnh hơn về hải pháo, nhanh hơn về tốc độ và tài hơn về thao lược". Nay người ta thấy, "khắc tinh" của hạm đội là máy bay đánh bom và ngư lôi.Tối 10-12 tại Luân Đôn, thủ tướng W.Churchill đăng đàn trước một Quốc hội Anh yên lặng và kinh hoàng trước thất bại không thể nào tưởng tượng nổi. Ông ta nói:"Hôm nay, hai chiến hạm tối tân và lớn nhất của ta bị máy bay Nhật tấn công và đánh chìm. Tư lệnh hạm đội đã làm những gì cần thiết nhưng nghịch cảnh đã xảy ra. Giờ đây người Nhật tự do tung hoành từ đảo Ceylan đến tận Hawaii"."Đây là lúc chúng ta cần tỏ ra bình tĩnh, sáng suốt và quyết tâm. Chính hai đức tính này đã giúp dân tộc Anh thoát qua nhiều nguy cơ lớn trong lịch sử""Chúng ta hãy chúng tỏ cho thế giới thấy người Anh biết nhìn thẳng vào nghịch cảnh và tìm thấy nơi ấy nguồn cổ vũ và sức mạnh mới...". Tìm thêm đồng minh
Tin chiến sự Nhật - Mĩ bùng nổ bay đến Berlin đột ngột, trong lúc Đức Quốc xã đang tập trung mọi sự chú ý vào mặt trận phía Đông, nơi quân Đức đang bị Hồng quân Liên Xô phản công mãnh liệt trước Moskva. Liền đó, cũng trong ngày 8-12, Hitler nhận được thông điệp của chính phủ Nhật, yêu cầu Đức (và Ý) tuyên chiến với Mĩ theo như cam kết trong hiệp ước Tam phương (kí năm 1936 giữa Đức, Ý và Nhật).Đã từ lâu chính phủ Nhật qua đại sứ Oshima của họ tại Berlin, tìm cách buộc Hitler tuyên chiến với Hoa Kỳ một khi Nhật đánh Mĩ. Ngược lại, cũng từ lâu, bọn cầm quyền Đức Quốc xã theo đuổi mục tiêu: thuyết phục Nhật cùng với Đức đánh Liên Xô và cố gắng hòa hoãn với Mĩ. Bởi thế, đêm 9-12, Hitler (và cả Mussolini) đã điện trả lời chính phủ Nhật: "cam đoan ba nước sẽ chiến đấu tới thắng lợi cuối cùng, không giảng hòa riêng rẽ" nhưng vẫn né tránh việc tuyên chiến với Mĩ. Song, ngay trưa 10-12, đại sứ Oshima đã đệ trình Đức Quốc trưởng một thông điệp mới của chính phủ Hoàng gia Nhật trả lời điện văn nói trên của Đức (và Ý). Thông điệp này bày tỏ "hi vọng quân đội Đức sẽ thực sự tiến ngay vào vùng Cận Đông" với ngụ ý Đức nên tuyên chiến. Trước sự thúc bách ấy của bạn đồng minh, Hitler bắt đầu do dự.Ngoại trưởng Đức, Joachim Von Ribbentrop vội vã lên gặp Hitler, nhắc lại lập trường cố hữu của Đức tránh đụng chạm với Hoa Kỳ: -Theo hiệp ước Tam phương, chúng ta bị trói buộc vào một cuộc chiến bên cạnh Nhật khi nào họ bị một nước khác đánh. Còn bây giờ là họ đánh người ta.Hitler nói:- Nếu ta không đúng bên cạnh Nhật thì coi như hiệp ước Tam phương chết ngủm. Những lí do quan trọng là Hoa Kỳ ngày càng có những hành động chống lại chúng ta trong lúc họ hô hào trung lập. Ở Đại Tây Dương, tàu của họ có những hành động gây chiến với tàu ngầm của ta.Hơn ai hết, Ribbentrop hiểu rõ tâm lí của Hitler. Đây là một con người ít học, ít hiểu biết về nước ngoài hay chỉ biết qua một nhãn quan đầy định kiến của một người ít học lại thêm bệnh hoạn. Óc kì thị chủng tộc, màu da làm cho phán đoán của Hitler thường bị sai lầm. Hitler thường cho rằng Hoa Kỳ là một quốc gia phần nửa là Do thái hóa, nửa kia là da đen hóa. Về Roosevelt thì Hitler lại có một sự thù ghét sâu đậm. Hitler thường nói. "Roosevelt là một tên khùng, ông ta gây chiến tranh, làm mọi cách xúi người khác đánh nhau, sau đó ẩn núp dưới những câu kinh thánh, giống như một tên truyền giáo giả dối, kêu gọi Chúa chứng giám cho lòng thành của ông ta".Ngoại trưởng Đức cố gắng thuyết phục Hitler: "Thưa Quốc trưởng, dư luận bên Mĩ còn chia rẽ. Một phần muốn tuyên chiến với ta, một phần thống lại. Ngài đã thấy, trong bản tuyên cáo chiến tranh chống Nhật, Tổng thống Mĩ không dám tuyên chiến với ta là vì vậy.Nếu bây giờ Ngài tuyên chiến với Mĩ, tự nhiên ngài dọn dẹp sạch sẽ con đường cho Roosevelt đi vậy. Không còn ai trên đất Mĩ chống lại ông ta nữa".Nhưng vào lúc ấy Bộ ngoại giao nhận được điện của Tham tán ngoại vụ Đúc ở Washington, Hans Thom son: "Nội trong 24 giờ nữa Hoa Kỳ sẽ tuyên chiến với ta hoặc họ sẽ cắt đứt quan hệ ngoại giao với ta". Chụp lấy cơ hội ấy, Hitler vội vã triệu tập Quốc hội vào ngày 11-12-1941. Hitler ra lệnh cho Bộ ngoại giao: "Điện cho đại diện Đức tại Mĩ: Đừng tiếp xúc với Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, để mình tuyên chiến với họ".Số là theo ý kiến của Hitler, vì sĩ diện với đồng minh, Đức nên tuyên chiến với Mĩ trước chứ không phải đợi Mỹ tuyên chiến. Hitler đã tuyên chiến với Mỹ ngày 11 tháng 12. Cùng ngày ấy Mĩ tuyên chiến với ĐứcBa ngày sau, Hiuer tiếp đại sứ Nhật Oshima. Ông ta nói: Quý quốc có một lối tuyên chiến thích hợp nhất đối với người Mĩ. Như trong cuộc đàm phán vừa qua Nhật đã nhẫn nại tột độ, còn Mĩ thì lúc nào cũng khoác cho mình chiếc áo yêu chuộng hòa bình mà cứ lấn tới.Ngạn ngữ Đức có câu: người hiền triết cũng không thể sống yên ổn nếu như anh hàng xóm lắm chuyện lúc nào cũng muốn gây sự".Và ông ta gắn cho đại sứ Nhật huân chương tối cao của Đức Quốc xã.Nhưng sự vui mùng của Hitler có phần giảm di khi nghe đại sứ Nhật trình bày:"Chính phủ chúng tôi thông báo để Ngài rõ, sau khi chiếm Singapore, chúng tôi sẽ chiếm Miến Điện. Từ đó chúng tôi đánh Ấn Độ . Vậy xin hỏi, nước Đức có thể phối hợp hành động với Nhật Bản để đánh Ấn Độ hay không?".Hitler không trả lời thẳng nhưng nói: "Nước Đức hứa đánh ngay Kavkaz của Liên Xô, sau đó chúng tôi tiến vào Iran và Irak"Nhật thừa biết nước Đức chỉ nghĩ đến vùng dầu mỏ này mà thôi chứ không phải vì tình đồng minh gì cả.Trước thảm họa dồn dập, nước Anh gửi ngoại trưởng Anthony Eden bay sang Liên Xô giữa tháng 12-1941 để cầu viện.Tại điện Kremli, ngoại trưởng Anh hỏi Stalin:"Thưa ngài, ngài có thể tuyên cáo chiến tranh chống Nhật được không?". Eden nghĩ rằng, nếu Liên Xô xua quân đánh ở Mãn Châu, chắc chắn Nhật phải rút bớt quân ở Đông Nam Á về sẽ nhẹ cho quân Anh và chắc chắn là Úc, Indonesia và Ấn Độ không còn bị đe dọa nữa.Stalin nói: "Lúc này chưa thể được, vì sườn phía Tây trống trải chúng tôi đã chuyển quân về phía Tây ngăn chặn Đức Quốc xã. Chúng tôi còn phải bổ sung quân số nơi đây trong vòng 4 tháng nữa. Đứng về phương diện chiến thuật, chiến lược, Liên Xô chưa làm gì được cho quý quốc, nhưng nếu Nhật tấn công thì chúng tôi cũng phải đánh".Cuối cùng, Stalin nói: "Thực thà mà nói, hiện nay chúng tôi chưa làm gì được nhưng từ mùa xuân trở đi quý quốc có thể trông đợi nơi Liên Xô. Chúng tôi chưa dám hứa với quý vị".
Chiếm Mã Lai:
Thảm họa của các chiến hạm Prince of Wales và Repulse mang lại một hậu quả đau thương khác cho chiến trường Mã Lai. Hải quân Anh không đủ năng lực đánh chìm các tàu chở quân và vũ khí của Nhật từ Hòn Khoai (Cà Mau) tiến đến. Vì vậy, từ 3 đầu cầu đổ quân ở Pattani, Singora (Nam Thái Lan) và Khota Baru (Bắc Mã Lai), quân Nhật như vết dầu loang, bắt tay nhau được và trong một tuần, vừa kiểm soát vùng biên giới Thái Lan - Mã Lai vừa tiếp nhận thêm binh lính, vũ khí, xe tăng, cơ giới công binh và xe đạp để chuẩn bị tiến công về phía Nam, chiếm Mã Lai thuộc Anh. Lực lượng đó là quân đoàn 25 Nhật của tướng Tomoguki Yamashita.Hai sân bay lớn ở Bắc Mã Lai là Khota Baru và Tanah Mira rơi vào tay Nhật. Giờ đây, cả miền Bắc Mã Lai vắng bóng máy bay Anh.Tướng Yamashita quyết định tiến về Nam theo hai gọng kìm. Một, theo bờ biển phía Đông nhìn ra vịnh Thái Lan, còn một cánh khác theo bờ biển phía Tây nhìn về biển Andaman thuộc ấn Độ Dương. Mục tiêu của gọng kìm thứ hai là hai thành phố Jitra và Gurun. Đối với quân Nhật từng đổ bộ ở Đông bộ Mã Lai, cuộc chiến đấu quyết liệt của quân Anh ngay từ bãi biển Khota Baru làm cho họ nghĩ rằng, càng tiến sâu về phía Nam chắc chắn sẽ gặp nhiều phản ứng hơn.Nhưng họ lại thấy rằng, không một phòng tuyết nào của quân Anh được thiết lập để ngăn cản họ suốt cuộc hành trình dài 400km xuôi nam. Không một máy bay nào chặn đánh họ. Lí do dễ hiểu là quân Anh đang cố phòng thủ ở phía Nam Mã Lai và họ không có lấy một chiếc xe tăng để nghênh chiến. Đó là một sai lầm chiến lược của các tướng lãnh cao cấp Anh tức khi chiến tranh bùng nổ, cho rằng một xứ nhiều núi và rùng như Mã Lai, không có môi trường cho chiến xa hoạt động. Giờ thì các đoàn xe tăng hạng nhẹ của Nhật tiến nhanh như vào chỗ không người.Ngày 7-1-1942, đại tướng Archibald Wavell vừa được bổ nhiệm làm tư lệnh liên quân Anh - Hà Lan cho toàn vùng Đông Nam Á, từ Bộ tư lệnh ở Bandung bay qua Singapore thị sát. Đêm trước đó quân đoàn 3 Anh - Ấn và sư đoàn 11 ấn Độ hoàn toàn thảm bại trong cuộc đụng độ với quân Nhật có xe xung kích.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com