Chương 3 & 4
CHƯƠNG 3 : RÈN LUYỆN KỸ NĂNG DÙNG TỪ
I.
II.
III.
IV.
VAI TRÒ CỦA TỪ TRONG HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ
YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA VIỆC DÙNG TỪ
MỘT SỐ BIỆN PHÁP LIÊN HỘI - SO SÁNH CẦN THIẾT ĐỂ DÙNG TỪ CHÍNH XÁC
CÁC LOẠI LỖI THƯỜNG GẶP VÀ CÁCH SỬA CHỮA
TOP
I. VAI TRÒ CỦA TỪ TRONG HOẠT ÐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ
Trong ngôn ngữ thì từ là cái quan trọng nhất [1]. Nói cách khác, trong ngôn ngữ, từ là chất liệu cơ bản, được
sử dụng để tạo ra những đơn vị/kết cấu ở bậc cao hơn. Vì thế, không có từ, con người không thể tiến hành giao tiếp
được, và như vậy, bản thân ngôn ngữ cũng không tồn tại.
Có thể xem xét vai trò của từ từ hai góc độ.
Về phía người tạo lập văn bản (người nói, người viết), để truyền đạt một nội dung thông báo nào đó, tất nhiên
phải tạp ra lời cụ thể, tồn tại dưới một loại hình ngôn bản cụ thể. Trong quá trình tạo câu, tạo đoạn... trong ngôn bản,
công việc cơ bản của người nói/viết là lựa chọn và kết hợp từ để tạo thành câu, đoạn v.v...
Về phía người tiếp nhận văn bản (người nghe, người đọc), khi nghe, đọc, trước hết là tiếp xúc với từ (dưới
dạng âm thanh hay kí hiệu chữ viết) và hiểu được từ, trên cơ sở đó mới hiểu được câu, đoạn... và cuối cùng là hiểu
được nội dung toàn ngôn bản.
Từ có vai trò vô cùng quan trọng như vậy, nên năng lực ngôn ngữ của một cá nhân thể hiện rõ nhất, dễ nhận
thấy nhất qua việc dùng từ, xét ở cả hai mặt: đúng và sai, hay và dở.
II. YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA VIỆC DÙNG TỪ
Yêu cầu cơ bản của việc dùng từ là phải đảm bảo tính chính xác.
Nhiều làm công tác văn hoá, văn nghệ đã nhấn mạnh yêu cầu cơ bản này:
Bất cứ người làm văn nào cũng thấy việc hiểu từ và dùng từ đúng chỗ là điều quan trọng và cũng là điều khó
khăn bậc nhất. [1]
Thế nào là dùng từ chính xác?
Dùng từ chính xác là dùng từ đảm bảo được sự trùng khít, tương hợp sát sao giữa ý nghĩa của từ với nội dung
muốn biểu đạt, tức khái niệm, sự vật, hành động, tính chất, trạng thái v.v...
Căn cứ vào các thành phần ý nghĩa của từ, có thể cụ thể hoá sự tương hợp, trùng khít vừa nêu:
Thứ nhất, nghĩa biểu niệm hay biểu vật của từ phải phản ánh đúng khái niệm, sự vật, hành động, tính chất...
mà người nói/người viết muốn đề cập đến. Ðây là sự tương hợp cơ bản nhất. Không bảo đảm được sự tương hợp này
thì sẽ dẫn đến chỗ lỗi chọn sai từ.
Thứ hai, nghĩa biểu thái của từ phải phù hợp với tình cảm, thái độ của người nói/viết đối với đối tượng được
đề cập đến; đồng thời nghĩa biểu thái của các từ phải tương hợp với nhau và tương hợp với sắc thái ý nghĩa chung của
cả câu văn.
Thứ ba, giá trị phong cách của từ phải phù hợp với phong cách ngôn ngữ văn bản.
Ví dụ:
Những giọt nước mắt vừa nhỏ, vừa quáng đặc, chắt ra từ hai màng mắt khô đục (Nguyễn Khải)
TOP
Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra (Nam Cao)
Cùng với tiếng tru hể hả: Chết đi, đồ ăn hại, chết đi!, đuôi mắt nẩy lửa của nàng dâu lại đóng dấu vào trán bà
mẹ (Dạ Ngân)
Hình ảnh đó (chồng và người vợ thứ hai ngồi chung trên chiếc xích lô) làm Niềm đau nhói, nhưng lập tức,
tiếng cười của bọn trẻ đã rửa trôi cái cảm giác đó (Dạ Ngân)
Có lẽ đó là giấc ngủ êm ái nhất đời, cũng là giấc ngủ bình yên cuối cùng nên rất nhiều năm sau, giấc ngủ đó
vẫn còn thức trong tiềm thức Kiên (Bảo Ninh)
Nghe càng đắm, ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình
Xóm giềng có kẻ sang chơi
Lân la khẽ hỏi một hai sự tình
Hỏi ông, ông mắc tụng đình,
Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha
(Nguyễn Du)
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP LIÊN HỘI, SO SÁNH CẦN THIỂT ÐỂ DÙNG TỪ CHÍNH XÁC
1- Phân biệt các nét nghĩa, các sắc thái nghĩa khác nhau giữa các từ đồng nghĩa.
1.1- Khái niệm về từ đồng nghĩa.
Từ đồng nghĩa là từ có hình thức ngữ âm khác nhau, thuộc cùng một trường nghĩa dọc, có nghĩa biểu niệm
hay nghĩa biểu vật giống nhau và không chứa nét nghĩa đối lập.
Trường nghĩa dọc: trường nghĩa xét theo trục đối vụ, trục dọc. Một trường nghĩa là một hệ thống ngữ nghĩa
nhỏ, bao gồm nhiều đơn vị đồng nhất với nhau về nghĩa.
Ví dụ:
Trong hệ thống ngữ nghĩa không còn sống nữa, có các từ đồng nghĩa: chết, mất, qua đời, tắt thở, hi sinh, tạ
thế, từ trần, bỏ mạng, bỏ xác, ngủm...
Trong hệ thống ngữ nghĩa làm theo ý muốn (của người khác0 cho vừa lòng, có các từ đồng nghĩa: chiều,
nuông, chiều chuộng, nuông chiều.
Trong hệ thống ngữ nghĩa trao đưa một cái gì đó cho người khác, có các từ đồng nghĩa: đưa, trao, biếu, tặng,
dâng, hiến, dâng hiến, ban, phát...
1.2- Phân loại từ đồng nghĩa.
Dựavào mức độ đồng nhất vè ý nghĩa, từ đồng nghĩa được chia thành hai loại: từ đồng nghĩa tuyệt đối và từ
đồng nghĩa sắc thái.
a) Từ đồng nghĩa tuyệt đối.
Từ đồng nghĩa tuyệt đối là từ đồng nhất với nhau về ý nghĩa biểu niệm, biểu vật và biểu thái. Loại từ đồng
nghĩa này xuất hiện giữa từ địa phương với từ toàn dân hay từ bản ngữ với từ vay mượn.
TOP
Ví dụ:
Lợn = heo; ngô = bắp; lạc = đậu phọng; máy bay = phi cơ = tàu bay; xe lửa = hoả xa = tàu hoả; phi trường = phi
cảng= sân bay; mẹ = má = bầm; vỏ (xe) = lốp v.v...
Nhìn chung, từ đồng nghĩa tuyệt đối có khả năng thay thế cho nhau trong mọi văn cảnh, ngoại trừ trường hợp
người viết muốn diễn tả sắc thái địa phương khác nhau.
b) Từ đồng nghĩa sắc thái.
Từ đồng nghĩa sắc thái là từ đồng nhất với nhau về một số nét nghĩa biểu niệm, biểu vật nhưng lại khác nhau
ở một số nét nghĩa nào đó, hay khác nhau về nghĩa biểu thái, về giá trị phong cách.
Ví dụ:
Hi sinh, từ trần, tạ thế, qua đời, mất, chết, thiệt mạng, bỏ mạng, bỏ xác, toi mạng, ngủm, ngoẻo...
Thi hài, thi thể, xác chết, thây ma...
Nho sĩ, nhà nho, thầy đồ.
Chiến sĩ, bộ đội, lính.
Khám phá, phát hiện.
Ăn, dùng, xơi, chén.
Từ đồng nghĩa sắc thái, nhìn ít không có khả năng thay thế cho nhau trong những văn cảnh khác nhau. Do đó,
trước loại từ đồng nghĩa này, phải cân nhắc, thận trọng trước khi chọn và dùng một từ nào đó. Lẫn lộn loại từ đồng
nghĩa này thì sẽ dẫn đến lỗi sai.
2- Phân biệt giá trị biểu đạt của từ Hán - Việt so với từ thuần Việt.
Trong quá trình phát triển, tiếng Việt đã vay mượn (và Việt hoá) khá nhiều từ của tiếng nước ngoài, đặc biệt là
tiếng Hán, tiếng Pháp. Từ Hán - Việt là từ vay mượn từ tiếng Hán, được đọc theo cách phát âm của tiếng Việt.
Từ Hán - Việt có thể có những đơn vị đồng nghĩa với từng thuần Việt ở mức độ này hay mức độ khác. Bên
cạnh đó, từ Hán - Việt là những đơn vị mà từ thuần Việt không có đơn vị tương đương. Do đó, chúng ta cần lưu ý giá
trị biểu đạt của từ Hán - Việt so với từ thuần Việt để sử dụng chính xác.
Nhìn chung có ba trường hợp.
2.1- Từ Hán - Việt không có đơn vị thuần Việt tương đương.
Trong trường hợp này, chúng ta bắt buộc phải dùng từ Hán - Việt. Tránh lối chuyển dịch nghĩa nôm na, tuỳ tiện.
Ví dụ:
Ðộc lập, tự do, bình đẳng, bác ái, cấu trúc, hàm số, ẩn số, hằng số, phế liệu, bảo thủ, thủ môn, ảo tưởng, viễn cảnh,
nội thương, ngoại thương, nhân quyền, nhân mãn, nhân tạo v.v...
Trong một số trường hợp cho phép, chúng ta có thể chuyển đổi trật tự các yếu tố để làm giảm bớt màu sắc
tiếng Hán:
Khoa trưởng ( trưởng khoa; trưởng lớp ( lớp trưởng; quân y viện ® viện quân y; nội khoa ( khoa nội; ngoại
khoa ( khoa ngoại v.v...
2.2- Từ Hán - Việt có đơn vị thuần Việt đồng nghĩa sắc thái.
Ðây là trường hợp từ Hán - Việt và từ thuần Việt đồng nhất với nhau ở một vài nét nghĩa, nhưng lại khác nhau ở một
vài nét nghĩa nào đó hay khác nhau về sắc thái biểu cảm, giá trị phong cách. Ðối với trường hợp này, tuỳ vào nội
dung biểu đạt, thái độ, tình cảm và phong cách ngôn ngữ văn bản mà chúng ta dùng từ Hán - Việt hay từ thuần Việt.
Ðể diễn đạt sắc thái trang trọng, trân trọng, lịch sự và trong các phong cách ngôn ngữ mang tính văn hoá cao, chúng
ta dùng từ Hán - Việt. Ðể diễn đạt sắc thái thân mật, suồng sã và trong khẩu ngữ tự nhiên, chúng ta dùng từ thuần
Việt.
So sánh:
Tạ thế, hi sinh, từ trần - Mất, chết, ngủm, bỏ mạng...
Tử thi - Xác chết, thây ma.
Chiến sĩ, binh sĩ - Lính.
Phu nhân - Vợ.
Sinh - Ðẻ.
Nhi đồng - Trẻ con.
Thảo mộc - Cây cỏ.
Aính, chân dung - Hình.
Phát biểu - Nói chuyện.
Thảo luận - Bàn, bàn bạc.
Bảo vệ - Giữ gìn.
2.3- Từ Hán - Việt có đơn vị thuần Việt đồng nghĩa gần như tuyệt đối.
Trong trường hợp này, chúng ta nên dùng từ thuần Việt. Dùng từ Hán - Việt là lạm dụng, cầu kì, không cần thiết.
So sánh:
Ðộc giả - Người đọc.
Hỗ trợ - Giúp đỡ.
Hiệu triệu - Kêu gọi.
Phi cơ - Máy bay.
Phi cảng, phi trường - Sân bay.
Không phận - Vùng trời.
Hải phận - Vùng biển.
Xa cảng - Bến xe.
Bích báo - Báo tường.
Bằng hữu - Bè bạn.
Kí giả - Nhà báo.
IV. CÁC LOẠI LỖI DÙNG TỪ VÀ CÁCH SỬA CHỮA
1- Cơ sở phân loại lỗi dùng từ.
Thông thường, sự chính xác của từ, ngữ được xét dựa trên hai cơ sở, đó là trục lựa chọn, tức trục đối vị và trục kết
hợp, tức trục ngữ đoạn. Ngược lại, sự vi phạm tính chuẩn mực của từ ngữ cũng bộc lộ qua hai trục này. Một từ có ý
nghĩa là nhờ vào những thế đối lập trên hai trục lựa chọn và kết hợp. Cũng từ đó, giáo viên mới đưa ra được những
phương pháp sửa chữa lỗi dùng từ của học sinh, với mục đích giúp họ hiểu đúng, viết đúng và nói đúng 3. Do đó có
thể phân loại lỗi dùng từ của học sinh, với mục đích giúp họ hiểu đúng, viết đúng và nói đúng[1]. Do đó, có thể phân
loại lỗi dùng từ, ngữ dựa trên cơ sở hai trục vừa nêu. Dựa vào hai trục này, lỗi dùng từ, ngữ chia thành hai loại lớn :
lỗi lựa chọn và lỗi kết hợp. Mỗi loại lỗi được chia thành nhiều kiểu lỗi sai nhỏ hơn, căn cứ vào tính chất, đặc điểm
của hiện tượng sai.
2. Lỗi lựa chọn :
Nói đến lỗi lựa chọn từ, chủ yếu là xét qua hai mối quan hệ :
- Giữa nội dung muốn biểu đạt với nghĩa của từ được dùng ;
- Giữa giá trị phong cách của từ được dùng với phong cách ngôn ngữ văn bản.
Trên cơ sở đó, lỗi lựa chọn từ được chia thành ba kiểu lỗi sai nhỏ :
2.1. Chọn sai từ :
Chọn sai từ là chọn từ mà nghĩa của nó không phù hợp với nội dung muốn biểu đạt, tức khái niệm, hành động, tính
chất, trạng thái ... mà người viết muốn nói đến. Nói cách khác, chọn sai từ là hiện tượng nghĩa của từ được dùng và
nội dung muốn biểu đạt có sự chênh lệch ở mức độ này hay mức độ khác.
Xem xét các ví dụ dưới đây :
(a) ... và người dân là một miếng ăn của bọn chúng (bọn quan lại phong kiến)(BVHS).
(b) Tất cả mọi hành động, suy nghĩ của mình, chị Út đều dồn vào tương lai của đàn con(BVHS).
(c) Trái lại, lũ quan lại dưới triều đình chỉ biết hợp tác với nhau, dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để bóc lột
nhân dân, ăn chơi xa xỉ (BVHS).
(d) Tuy nhà thơ yêu vội vã, say mê nhưng biết giới hạn niềm say mê nồng nhiệt của mình, không rơi vào
thác oan (BVHS)
(e) Ðối với vợ, anh Trỗi hết lòng nuông chiều(BVHS)
Trong ví dụ (a) , miếng ăn có nghĩa là cái dùng để ăn, để nuôi sống bọn quan lại phong kiến, theo nghĩa đen của nó.
Miếng ăn hoàn toàn không phù hợp với nội dung mà học sinh muốn biểu đạt : người gánh chịu hậu quả, tai họa.
Trong ví dụ (b), dồncó nghĩa là : cùng một lúc tập trung tất cả cả yếu tố, bộ phận vào một nơi, một vật chứa đựng
nào đó. Nhưng nội dung mà học sinh muốn biểu đạt là nhắm vào, hướng về : chị Út hướng tất cả mọi suy nghĩ, hành
động của chị vào tương lai của đàn con.
Trong ví dụ (c), có ba từ chọn sai : dưới, hợp tác, xa xỉ. Dướichỉ vị trí thấp hơn trong không gian so với một vị trí
xác định nào đó, hay thấp hơn các vị trí khác nói chung. Nghĩa của từ dướitrong câu không phù hợp với nội dung
muốn biểu đạt : thuộc phạm vi. Còn hợp táccó nghĩa là : cùng chung sức với nhau trong một công việc, một lãnh vực
TOP
hoạt động nào đó, nhằm một mục đích chung. Nói hợp tác còn bao hàm sự đánh giá cao, tốt đẹp. Nhưng nội dung mà
học sinh muốn biểu đạt là : hợp thành một phe cánh, một lực lượng để thực hiện âm mưu, hành động xấu xa. Xa xỉ có
nghĩa là : tốn nhiều tiền mà không thật cần thiết, chưa cần thiết. So với nội dung muốn biểu đạt : quá sang trọng và
mang tính chất lãng phí, thì nghĩa của từ xa xỉ hoàn toàn không phù hợp.
Trong ví dụ (d), nội dung mà học sinh muốn biểu đạt là : ở trạng thái hỗn loạn, không coön giữ trật tự, nền nếp bình
thường. Nội dung muốn biểu đạt đó hoàn toàn không phù hợp với nghĩa của từ thác oan : chết một cách oan ức, lẽ ra
không phải chết.
Cuối cùng, trong ví dụ (e), nghĩa của từ nuông chiềucó phần lệch lạc so với nội dung muốn biểu đạt. Nuông chiềucó
nghĩa là : chiều người dưới một cách quá đáng, vô lí. Nhưng nội dung mà học sinh muốn nói về anh Trỗi là : ân cần
chăm sóc với tất cả tình cảm thương yêu (đối với vợ). Hơn thế nữa, nói anh Trỗi nuông chiều vợ còn bao hàm sự phê
phán.
Xem lại các ví dụ (a), (b), (c), (d) ở mục 1.1. Các từ hắt hơi, gan ruột, đâm chĩa, câu trong các ví dụ này cũng thuộc
lỗi chọn sai từ.
Chọn câu sai từ có biểu hiện khá đa dạng. Có trường hợp chỉ sai nghĩa cơ bản. Chẳng hạn như các từ miếng ăn, dồn,
dưới, xa xỉ, thác oan trong các ví dụ vừa dẫn. Có trường hợp vừa sai nghĩa cơ bản (nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu vật),
vừa sai cả nghĩa biểu thái (thành phần nghĩa biểu thị thái độ đánh giá của người viết đối với đối tượng được nói đến).
Ðó là trường hợp từ hợp tác, nuông chiều đã dẫn.
Nguyên nhân chủ yếu của lỗi chọn sai từ là do học sinh hiểu nghĩa của từ một cách lơ mờ, thiếu chính xác, hay do
nhầm lẫn nghĩa của từ này với nghĩa của từ khác. Thực tế bài viết của học sinh cho thấy, xét về mặt số lượng âm tiết
và về nguồn gốc của từ, đa số các trường hợp chọn sai là rơi vào từ đa âm tiết, trong đó từ Hán - Việt chiếm tỉ lệ rất
cao. Và ở đây, sự lẫn lộn về nghĩa dẫn đến chọn sai thường xảy ra giữa các từ hai âm tiết, trong đó có một âm tiết
giống nhau hay gần gũi nhau về vần. Chẳng hạn như giữa đào thảivới sa thải xa xỉ với xa hoa, trấn áp với đàn áp,
khêu gợi với khơi dậy, thác loạn với thác oanv.v... Còn hiện tượng chọn sai từ đơn âm lại thường rơi vào từ thuần
Việt. Và đa số các trường hợp chọn sai là do học sinh tự phát muốn dùng những các từ đơn tiết với nghĩa bóng, nghĩa
trừu tượng nào đó, nhưng văn cảnh không cho phép. Từ dồn vừa nêu là một ví dụ tiêu biểu.
Xét về mặt từ loại, trong bài viết của học sinh, hiện tượng chọn sai từ thường tập trung vào lớp từ thực (danh từ,
động từ, tính từ). Hiện tượng chọn sai đối với lớp từ hư xuất hiện ít hơn.
Chọn sai từ tất nhiên sẽ làm cho nội dung biểu đạt của câu lệch lạc, ngô nghê. Thậm chí, có trường hợp chọn sai dẫn
đến nghĩa của câu mâu thuẫn với ý đồ biểu đạt của người viết.
Ví dụ:
Ðã quen có người bao bọc, thời gian đầu mặc áo sinh viên, tôi không cảm thấy bơ vơ...(TNH 1993).
Xét về mặt ý đồ muốn biểu đạt, đối tượng được nói đến trong câu là một người vốn được đồng đội, anh em nuôi
dưỡng, chăm sóc, đùm bọc chu đáo. Nhưng rồi anh đi học đại học, thời gian đầu, phải sống tự lập giữa một môi
trường xa lạ, không bạn bè thân thích, không được chăm sóc, đùm bọc như trước. Hoàn cảnh ấy tất nhiên làm cho anh
cảm thấy bơ vơ, lạc lõng. Căn cứ vào ý đồ biểu đạt, ta thấy tác giả đã chọn sai hai từ : bao bọc, không. Bao bọccó
nghĩa : làm thành một lớp che chắn khắp chung quanh một sự vật, không phù hợp với nội dung muốn biểu đạt. Có lẽ
do người viết lẫn lộn giữa bảo bọcvà bao bọc, hay do in ấn sai sót. Lỗi sai này có thể cho qua. Lỗi thứ hai mới đáng
nói. Phó từ khôngbiểu thị ý nghĩa phủ định. Tác giả viết : ...không cảm thấy bơ vơ là ngược lại ý đồ biểu đạt. Lẽ ra
phải viết : ...không khỏi cảm thấy bơ vơmới chính xác.
Sửa chữa lỗi chọn sai từ, trước hết, chúng ta căn cứ vào văn cảnh của cả câu để phát hiện, xác định nội dung mà học
sinh muốn biểu đạt, tức khái niệm, sự vật, hành động, tính chất... mà học sinh muốn đề cập đến. Trên cơ sở đó, liên
hệ đến những đơn vị từ vựng có nghĩa tương ứng, chọn ra đơn vị thích hợp nhất và thay thế cho từ bị chọn sai. Có thể
chọn một từ hay chọn một liên hợp song song gồm hai, ba từ để thay thế, tùy vào lỗi sai cụ thể.
Chẳng hạn, các trường hợp chọn sai đã dẫn có thể được sửa chữa như sau :
(a) ... và người dân là nạn nhân của bọn chúng.
(b) Tất cả mọi hành động, suy nghĩ của mình, chị Út đều hướng về tương lai của đàn con..
(c) Trái lại, lũ quan lại trong triều đình chỉ biết cấu kết với nhau, dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để bóc lột nhân
dân, ăn chơi xa hoa.
(d) Tuy nhà thơ yêu vội vã, say mê nhưng biết giới hạn niềm say mê nồng nhiệt của mình, không rơi vào thác
loạn.
(e) Ðối với vợ, anh Trỗi hết lòng thương yêu, chăm sóc.
2.2. Chọn từ, ngữ sáo rỗng :
Tữ, ngữ sáo rỗng là những từ, ngữ đọc lên nghe rất kêu (sáo), nhưng nghĩa của chúng vượt quá tính chất, mức độ
cần thiết so với nội dung muốn biểu đạt, trở nên cường điệu, huênh hoang, rỗng tuếch.
(a) Bài thơ Tiếng rucủa Tố Hữu (...) là một đỉnh cao muôn trượng (BVHS).
(b) Chúng ta phải ra sức học tập để góp một phần công lao vĩ đại của mình đưa đất nước tiến lên tầm cao thời
đại(BVHS).
(c) Nếu đời sống là nguồn cảm hứng dồi dào, mang đậm hương vị mặn mà của tiếng lòng nhân ái, thì thời đại
là ánh hào quang trong băng giá, xua tan mây mù cho ánh sáng tràn theo với rực rỡ nắng và hoa lung linh màu
sắc (BVHS).
Trong ví dụ (a), học sinh đã đánh giá bài thơ Tiếng rucủa Tố Hữu là đỉnh cao muôn trượng(!). Một bài thơ, dù là
thành công đến đâu, cũng khó mà đạt đến đỉnh cao muôn trượng.
Trong ví dụ (b), học sinh muốn đóng góp một phần- chỉ một phần thôi - công lao vĩ đạicủa mình để đưa nước nhà
tiến lên tầm cao của thời đại. Quả là quá huênh hoang, đại ngôn.
Trong ví dụ (c), hàng loạt cụm từ được trau chuốt bóng bảy, mượt mà, được dùng để ngợi ca thời đại, chẳng rõ là
thời đại nào. Nhưng nghĩa của các cụm từ này và nghĩa của cả câu hết sức tù mù, khó mà hiểu chính xác được.
Thật ra, nếu xét một cách nghiêm ngặt, thì hiện tượng dùng từ, ngữ sáo rỗng cũng thuộc kiểu lỗi chọn sai từ. Bởi vì,
sự sai lạc của hiện tượng này thể hiện ở sự chênh lệch, không hoàn toàn trùng khít giữa nội dung muốn biểu đạt và
nghĩa của từ, ngữ được dùng. Nhưng ở đây, chúng tôi tách ra thành một kiểu lỗi riêng để tiện cho việc xem xét, sửa
chữa.
Trong bài viết của học sinh, loại lỗi này xuất hiện không nhiều, và chỉ tập trung ở một số bài.
Nguyên nhân dẫn đến lỗi sai này là, một mặt do học sinh không xác định một cách rõ ràng, cụ thể nội dung muốn
biểu đạt ; mặt khác, lại muốn trau chuốt, gọt giũa từ ngữ cho ra văn vẻ. Vì thế, học sinh thường lắp ghép từ, ngữ vốn
được dùng trong tác phẩm nào đó vào câu văn của mình một cách máy móc, tùy tiện, nhưng lại không hiểu rõ nghĩa
của những từ, ngữ ấy.
Sửa chữa lỗi chọn từ, ngữ sáo rỗng, trước hết, chúng ta dựa vào văn cảnh của câu để xác định một cách cụ thể nội
dung mà học sinh muốn biểu đạt. Trên cơ sở đó, chọn từ, ngữ thích hợp thay thế những từ, ngữ sáo rỗng. Nếu thấy
cần thiết, có thể thay đổi cách diễn đạt. Ðối với trường hợp câu văn có quá nhiều từ, ngữ sáo rỗng , làm cho nghĩa của
câu quá mơ hồ, không thể hiểu rõ được, có thể không cần sửa chữa. Chẳng hạn như ví dụ (c) vừa dẫn.
Các câu (a), (b) có thể sửa chữa như sau :
(a) Bài thơ Tiếng rulà một trong những thành công nổi bật của Tố Hữu.
(b) Chúng ta phải ra sức học tập để sau này (có thể) đóng góp một phần công sức nhỏ của mình vào sự
nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
2.3. Chọn từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản :
Từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản là những từ, ngữ mà giá trị phong cách của nó không phù hợp với phong
cách ngôn ngữ văn bản.
Cũng giống như các ngôn ngữ khác, trong tiếng Việt, không phải tất cả các đơn vị từ vựng và cụm từ cố định đều có
thể sử dụng trong tất cả các lãnh vực giao tiếp. Mà ở đây, thường xảy ra hiện tượng chuyên dùng, tức là việc ưu tiên
sử dụng từ, cụm từ cố định hay có xu hướng cố định hóa trong từng lãnh vực giao tiếp khác nhau. Giá trị phong cách
của từ, ngữ là nét nghĩa phụ của từ, ngữ, cho biết từ, ngữ thường được ưu tiên sử dụng trong phạm vi giao tiếp nào,
tức là phong cách ngôn ngữ nào (trong phong cách khẩu ngữ tự nhiên hay phong cách ngôn ngữ gọt giũa, trong
phong cách ngôn ngữ hành chánh, khoa học hay phong cách ngôn ngữ văn chương...). Nếu một từ, ngữ nào đó vốn
được chuyên dùng trong phong cách ngôn ngữ này, nhưng học sinh lại sử dụng trong phong cách khác, thì đó chính
là hiện tượng chọn từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản.
Trong bài viết của học sinh, kiểu lỗi này thường thể hiện ở việc sử dụng các đơn vị từ vựng, các cụm từ cố định hay
có xu hướng cố định hóa thuộc phong cách khẩu ngữ tự nhiên. Mà bài viết của học sinh lại thuộc phong cách ngôn
ngữ khoa học. Do đó, các từ, cụm từ này trở thành lỗi sai.
Ví dụ:
(a) Ðọc tác phẩm, em thấy thương yêu và caøm phục anh Trỗi, chị Quyên quá chừng !(BVHS).
(b) Chị Út Tịch là một người phụ nữ anh hùng quá xá cỡ !”(BVHS).
(c) Vợ chồng Nghị Quế tàn ác hết chỗ nói ! (BVHS).
(d) Ðọc hai câu thơ này, ta cứ ngỡ như Phan Bội Châu vẫn còn đâu đây, lòng chúng ta dâng lên niềm cảm
xúc, ta thấy thương ông làm sao ấy.(BVSV).
Trong các ví dụ trên, các tổ hợp từ quá chừng, quá xá cỡ, hết chỗ nói, làm sao ấy thường xuất hiện trong lời ăn tiếng
nói hàng ngày, chúng thuộc phong cách khẩu ngữ tự nhiên. Dùng những tổ hợp này trong bài viết là sai phong cách
ngôn ngữ văn bản.
Hiện tượng chọn từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản trong bài viết của học sinh không nhiều. Lỗi này chỉ xuất
hiện rải rác trong một số bài, và bài có phạm lỗi, thường cũng không quá hai, ba trường hợp.
Nguyên nhân dẫn đến chọn từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản chủ yếu là do học sinh không hiểu rõ giá trị
phong cách của từ ngữ cũng như đặc điểm của các phong cách ngôn ngữ khác nhau.
Sửa kiểu lỗi này, trước hết cần xác định nội dung học sinh muốn biểu đạt, dựa vào từ, ngữ đã chọn sai. Trên cơ sở
đó, chọn lựa từ, ngữ khác, phù hợp với phong cách ngôn ngữ, để thay thế.
Bốn trường hợp chọn sai vừa dẫn có thể sửa chữa như sau :
(a) Ðọc tác phẩm, em thấy thương yêu và cảm phục anh Trỗi, Chị Quyên vô cùng.
(b) Chị Út Tịch là một người phụ nữ rất đỗi anh hùng.
(c) Vợ chồng Nghị Quế (thật) vô cùng tàn ác.
(d) Ðọc hai câu thơ này, ta cứ ngỡ như Phan Bội Châu vẫn còn đâu đây, lòng chúng ta dâng lên niềm cảm
xúc, ta thấy thương ông vô hạn.
3. Lỗi kết hợp :
Lỗi kết hợp là loại lỗi dùng từ, ngữ được xét qua mối quan hệ về nghĩa từ vựng giữa các từ, ngữ trong cấu tạo cụm
từ. Dựa vào đặc điểm, tính chất của các hiện tượng vi phạm, có thể chia lỗi kết hợp thành các kiểu lỗi nhỏ như : kết
hợp sai nghĩa từ vựng, kết hợp trùng lặp, thừa từ và so sánh khập khễnh.
3.1. Kết hợp sai nghĩa từ vựng :
Kết hợp sai nghĩa từ vựng là kiểu lỗi sai thể hiện qua hiện tượng kết hợp từ tạo thành cụm từ mà nội dung nghĩa
giữa các thành tố không tương hợp với nhau, làm cho nghĩa của cả cụm trở nên luẩn quẩn, mơ hồ hay lệch lạc so với
ý đồ biểu đạt.
Xem xét các ví dụ dưới đây :
(a) Vì thế mà văn học thời kì này đã để lại bao tác phẩm quý giá về văn học yêu nước của nhiều tác giả như
Nguyễn Ðình Chiểu, Nguyễn Thông ...(BVHS).
(b) Chị Sứ đang nằm trong sự thâm độc của bọn giặc, gần kề cái chết, nhưng chị không hề lo sợ về mình, chỉ
nghĩ đến cách mạng, đồng đội(BVHS).
(c) Chị Út Tịch được giao nhiệm vụ cực kì quan trọng trong khi chị đang có con chưa thành người(BVHS).
(d) Không có miếng ăn, người mẹ không tiếc gì cái chết của chính mình mà chỉ thương cho các con vô tội, phải
chết oan uổng “(BVHS).
(e) Nỗi thất vọng của tình yêu còn lớn hơn vì tình yêu dẫn đến không đưa tới hạnh phúc(BVHS).
Trong ví dụ (a) , nội dung biểu đạt của cụm từ bao tác phẩm quý giá về văn học yêu nướclệch lạc, luẩn quẩn. Sự
luẩn quẩn này bộc lộ qua mối quan hệ về nghĩa giữa bao tác phẩm quý giávới văn học yêu nước.
Trong ví dụ (b), sự lệch lạc của cụm từ đang nằm trong sự thâm độc của bọn giặc bộc lộ qua mối quan hệ về nghĩa
giữa đang nằm với sự thâm độc của bọn giặc. Bởi vì sự thâm độc của bọn giặckhông phải là một phạm vi không
gian, cho nên không thể kết hợp với đang nằm.
Trong ví dụ (c), nội dung biểu đạt của cụm từ đang có con chưa thành người có sự mâu thuẫn về nghĩa giữa đang có
con với chưa thành người. Ðã nói đang có con thì không thể nói chưa thành người. Bởi vì con ở đây cũng là con
người.
Trong ví dụ (d), không tiếc gìkhông tương hợp với cái chết của chính mình. Bởi vì không tiếc gì có nghĩa là : sẵn
sàng rời bỏ, sẵn sàng chịu mất đi, chịu hi sinh. Mà cái chết của chính mìnhthì không thể nào là đối tượng của việc
sẵn sàng rời bỏ, sẵn sàng chịu mất đi, chịu hi sinh.
Trong câu (e), nội dung biểu đạt của cụm từ dẫn đến không đưa tớicó sự mâu thuẫn về nghĩa giữa dẫn đến với
không đưa tới. (Ngoài ra, trong câu này, học sinh còn chọn sai từ của. Phải thay bằng từ trong mới đúng).
Hiện tượng kết hợp sai nghĩa từ vựng có nhiều mức độ khác nhau, dẫn đến hậu quả khác nhau. Kết hợp sai nhẹ sẽ
làm cho cụm từ luẩn quẩn hay lệch lạc về nghĩa. Các câu (a), (b) thuộc trường hợp này. Kết hợp sai nặng có thể làm
cho các thành tố trong cụm từ mâu thuẫn với nhau về nghĩa. Chẳng hạn như trong các câu (c), (d), (e) đã dẫn.
Trong bài viết của học sinh, lỗi kết hợp sai nghĩa từ vựng xuất hiện khá phổ biến. Hơn 40% bài viết của học sinh mà
chúng tôi đã khảo sát vi phạm loại lỗi này. Bài sai ít là một, hai lỗi. Bài sai nhiều lên đến năm, sáu lỗi.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lỗi kết hợp sai nghĩa từ vựng là do tư duy của học sinh thiếu mạch lạc ; học sinh
không xác định được một cách rõ ràng, cụ thể nội dung cần biểu đạt, không hiểu chính xác nghĩa của từ và khả năng
kết hợp của chúng, xét về mặt nghĩa từ vựng.
Sửa chữa loại lỗi này, phải tiến hành từng bước. Trước hết, dựa vào văn cảnh của câu, chúng ta xác định rõ ràng, cụ
thể nội dung mà học sinh muốn biểu đạt. Tiếp theo, trên cơ sở nội dung biểu đạt đã xác định được, loại bỏ các yếu tố
không có liên quan, không tương hợp về nghĩa với yếu tố khác, và chọn từ, ngữ khác để thay thế. Nếu cụm từ có yếu
tố dư thừa thì loại bỏ. Ðối với trường hợp cả cụm từ không phản ánh đúng nội dung muốn biểu đạt, chúng ta tạo ra
cụm từ khác để thay thế.
Các trường hợp kết hợp sai vừa dẫn có thể sửa chữa như sau :
(a) Vì thế mà văn học thời kì này đã để lại nhiều tác phẩm quý giá, mang đậm tinh thần yêu nước...
(b) Chị Sứ đang nằm trong tay của bọn giặc / đang bị bọn giặc bắt giữ, gần kề với cái chết, nhưng chị
không hề lo sợ cho bản thân mình ...
(c) Chị Út Tịch được giao nhiệm vụ cực kì quan trọng trong khi chị đang mang thai / đang bụng mang
dạ chửa, sắp đến ngày sinh nở.
(d) Không có miếng ăn, người mẹ không tiếc gì mạng sống / sinh mệnh của mình, mà chỉ thương cho
các con vô tội...
(e) Nỗi thất vọng trong tình yêu còn lớn hơn, vì tình yêu đã không mang lại hạnh phúc.
Ở đây, cần phân biệt lỗi kết hợp sai nghĩa từ vựng với hiện tượng kết hợp sai ngữ pháp như sai đặc điểm từ loại, sai
vị trí các thành tố trong cấu tạo cụm từ.
So sánh các ví dụ sau đây :
(a) Chị Sứ đang nằm trong sự thâm độc của bọn giặc ...(BVHS).
(b) Dưới sự lãnh đạo rất tài năng của Ðảng, nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi hai cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc(BVHS).
(c) Có người phải qua tám, chín năm rèn luyện trong kháng chiến mới hiểu được câu nói của Bác rất đơn sơ
(NLPBCL, T.III).
Trong ví dụ (a), động từ nằmcó thể kết hợp với danh từ, ngữ danh từ làm bổ tố đứng sau, xét về mặt ngữ pháp.
Nhưng về mặt nghĩa, danh từ, ngữ danh từ phải mang nét nghĩa nơi chốn, vị trí cụ thể hay trừu tượng (nằm trong
bụng mẹ, nằm trong buồng tối...). Như vậy, hiện tượng kết hợp sai ở đây là sai về nghĩa từ vựng.
Trong ví dụ (b), phó từ chỉ mức độ rất không thể kết hợp với danh từ tài năng, chỉ sự vật. Kết hợp như vậy là sai
đặc điểm từ loại. Những trường hợp rất kết hợp với danh từ mà theo chuẩn mực ngữ pháp, có thể chấp nhận được,
thực chất, các danh từ này đã chuyển loại, mang đặc điểm của tính từ (rất Việt Nam, rất trăng).
Trong ví dụ (c), vị trí của các định tố trong cụm từ câu nói của Bác rất đơn sơđã bị kết hợp sai. Theo chuẩn mực
ngữ pháp, trong ngữ danh từ, định tố biểu thị ý nghĩa tính chất phải đứng trước định tố biểu thị ý nghĩa sở thuộc. Do
đó, phải chuyển đổi vị trí hai định tố lại : câu nói rất đơn sơ của Bác. Hiện tượng kết hợp sai vị trí của các định tố
như vậy có thể dẫn đến sai ngữ pháp ở cấp độ tổ chức câu. Ðó là câu chập cấu trúc ngữ pháp.
3.2. Kết hợp trùng lặp, thừa từ ngữ :
Loại lỗi này gồm hai kiểu lỗi nhỏ, có liên quan với nhau : kết hợp trùng lặp và kết hợp thừa.
Kết hợp trùng lặp là hiện tượng lặp đi lặp lại một cách tự phát và không cần thiết những từ, ngữ nào đó trong câu.
Ví dụ :
(a) Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của nền văn học và nhiều tác phẩm viết bằng chữ Hán, trong những tác
phẩm viết bằng chữ Hán thì tác phẩm Những điều trông thấylà tác phẩm nổi bật(BVHS).
(b) Chị tuyệt đối trung thành với đường lối chính sách của Ðảng của cách mạng, tuyệt đối trung thành vào
đường lối cách mạng cao, đường lối sách lược của cách mạng(BVHS).
(c) Có nhiều nhà thơ đã dùng thơ văn của mình làm vũ khí đấu tranh, tố cáo tội ác của giặc, kêu gọi đoàn kết
đấu tranh, tiêu biểu là Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng thơ văn của mình như một vũ khí đấu tranh sắc bén đánh
thẳng vào mặt kẻ thù (BVHS).
(d) Chúng ta suy nghĩ thế nào về hình ảnh người mẹ cầm súng đang trực diện với kẻ thù, quả thật đây là hình
ảnh vô cùng cao đẹp, một hình ảnh chỉ có thể có được ở chị Út, người chiến sĩ cách mạng chân chính của nhân
dân ta(BVHS).
Hiện tượng kết hợp trùng lặp từ, ngữ xuất hiện khá phổ biến trong bài viết của học sinh THPT, nhất là học sinh lớp
10 và 11. Trong số lượng bài viết của học sinh THPT mà chúng tôi đã khảo sát, có hơn 50% bài mắc loại lỗi này. Bài
sai ít là bài có hai, ba lỗi. Bài sai nhiều lên đến năm, bảy lỗi. Cá biệt, có bài sai hàng chục lỗi. Trong bài viết học sinh
cấp THCS, loại lỗi này xuất hiện nhiều hơn.
Kết hợp trùng lặp từ, ngữ sẽ làm cho câu văn đơn điệu, nặng nề, tạo ra những yếu tố thừa thãi không cần thiết, và có
thể làm cho câu văn rối cấu trúc ngữ pháp, lủng củng về ý nghĩa.
Kết hợp thừa từ ngữ là hiện tượng sử dụng từ, ngữ có nội dung biểu đạt đồng nhất hay bao hàm lẫn nhau trong văn
cảnh, và sự đồng nhất hay bao hàm này là không cần thiết.
Ví dụ :
(a) Họ nguyện chiến đấu đến cùng cho đến chết (BVHS).
(b) Bài thơ đã thốt lên kêu trời trước nỗi đau của người mẹ đã không nuôi nổi đàn con, đành phải nhìn chúng
chết đói(BVHS).
(c) Nói về tình cảnh khổ cực của nhân dân lao động bị áp bức, Ngô Tất Tố có sáng tác tác phẩm Tắt đènnói lên
cảnh nghèo khổ của vợ chồng chị Dậu(BVHS).
(d) Mặc dù anh đã chết, nhưng cái chết của anh đã thể hiện một tinh thần chiến đấu vô biên, hiên ngang, bất
khuất, không chịu khuất phục trước kẻ thù, ngay khi hồn đã lìa khỏi xác(BVHS).
Hiện tượng từ, ngữ có nội dung biểu đạt đồng nhất hay bao hàm lẫn nhau trong văn cảnh xuất hiện khá nhiều trong
bài viết của học sinh. Hiện tượng này tạo nên sự thừa thãi, luộm thuộm, và có thể làm cho câu văn lủng củng về cấu
trúc cũng như ý nghĩa.
Nhìn chung, nguyên nhân dẫn đến lỗi kết hợp trùng lặp, thừa từ, ngữ là do học sinh nghèo nàn về vốn từ, hiểu nghĩa
của từ, ngữ không chính xác. Lỗi này còn do học sinh không bao quát được thông báo của cả câu, suy nghĩ thiếu chặt
chẽ trong quá trình viết.
Sửa lỗi kết hợp trùng lặp, trước hết, dựa vào chức năng cấu tạo câu, chúng ta xét xem từ, ngữ trùng lặp có thừa
không. Nếu thừa thì loại bỏ. Ðối với từ, ngữ trùng lặp nhưng không thừa, do sự quy định của cấu trúc câu, chúng ta
tìm từ, ngữ khác có giá trị biểu đạt tương đương để thay thế. Trong trường hợp câu có nhiều ngữ đoạn trùng lặp
chồng chéo, rối rắm về ý nghĩa, chúng ta có thể thay đổi cách diễn đạt ở những chỗ cần thiết.
Các trường hợp trùng lặp vừa dẫn có thể sửa chữa như sau :
(a) Nguyễn Du là một nhà thơ lớn, có nhiều đóng góp trong nền văn học cổ Việt Nam, (.) trong các tác
phẩm viết bằng chữ Hán của ông, Những điều trông thấylà một trong những bài thơ tiêu biểu.
Câu (a) được sửa theo cách loại bỏ ngữ đoạn trùng lặp, thừa thãi, kết hợp với việc thay thế bằng từ ngữ khác
và thay đổi cách diễn đạt.
(b) Chị tuyệt đối trung thành với đường lối, chính sách của Ðảng, của cách mạng.
Câu (b) được sửa theo cách loại bỏ các ngữ đoạn trùng lặp, thừa thãi.
(c) Có nhiều nhà thơ đã dùng ngòi bút làm vũ khí đấu tranh, tố cáo (vạch trần) tội ác của giặc, kêu gọi
nhân dân đoàn kết chống kẻ thù, tiêu biểu là Nguyễn Ðình Chiểu.
(d) Chúng ta suy nghĩ thế nào về hình ảnh người mẹ cầm súng đang đấu tranh trực diện với kẻ thù ?
Hình ảnh ấy thật cao đẹp, mang tính chất tiêu biểu cho người chiến sĩ cách mạng chân chính.
Hai câu (c) và (d) sửa lại theo cách loại bỏ bớt yếu tố trùng lặp, thừa thãi, loại bỏ ngữ đoạn có nội dung biểu đạt
thiếu chính xác.
Sửa chữa lỗi kết hợp thừa từ, ngữ, chủ yếu là chúng ta loại bỏ các yếu tố thừa thãi, kết hợp với việc thay đổi cách
diễn đạt, nếu thấy cần thiết.
Các hiện tượng kết hợp thừa từ, ngữ đã dẫn có thể sửa chữa lại như sau :
(a) Họ nguyện chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng / đến cùng.
(b) Bài thơ là tiếng kêu thương trước nỗi đau của một người mẹ, đã không nuôi nổi đàn con, đành phải nhìn
chúng chết đói.
(c) Viết về tình cảnh khốn quẫn, cùng đường của người nông dân (trong chế độ thực dân nửa phong kiến), Tắt
đèncủa Ngô Tắt Tố là một trong những tác phẩm tiêu biểu.
Hay :
Tắt đèncủa Ngô Tất Tố là tác phẩm viết về tình cảnh khốn quẫn, cùng đường của vợ chồng chị Dậu.
(d) Mặc dù anh hi sinh, nhưng cái chết của anh đã thể hiện nổi bật tinh thần chiến đấu hiên ngang, bất khuất
trước kẻ thù.
Cần phân biệt lỗi kết hợp trùng lặp với hiện tượng lặp từ, ngữ một cách có ý thức, nhằm thể hiện nổi bật nội dung
muốn biểu đạt.
So sánh :
(a) Chị tuyệt đối trung thành với đường lối, chính sách của Ðảng, tuyệt đối trung thành với lí tưởng cách mạng
mà mình đã đeo đuổi(BVHS).
(b) Có nhiều nhà thơ đã dùng thơ văn của mình làm vũ khí đấu tranh, tố cáo tội ác của giặc, kêu gọi đoàn kết
đấu tranh, tiêu biểu là Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng thơ văn của mình như một vũ khí đấu tranh sắc bén đánh
thắng vào mặt kẻ thù (BVHS).
Trong câu (a) , tổ hợp tuyệt đối trung thành được lặp lại với mục đích nhấn mạnh lập trường kiên định của nhân vật
chị Út Tịch. Thực chất, đây chính là phép tu từ điệp ngữ, một trong những biện pháp tu từ về mặt từ vựng - ngữ
nghĩa. Còn trong câu (b), hiện tượng lặp lại các cụm từ dùng thơ văn của mình, vũ khí đấu tranhchỉ làm cho câu văn
nặng nề, lủng củng, tạo nên sự thừa thãi, chớ không có giá trị gì về mặt nội dung biểu đạt.
3.3. So sánh khập khễnh :
So sánh khập khễnh là loại lỗi kết hợp, trong đó đối tượng được so sánh và đối tượng dùng để so sánh không có dấu
hiệu tương đồng hay dấu hiệu tương đồng không tiêu biểu.
Trên bình diện tu từ, so sánh là một biện pháp trau chuốt, gọt giũa từ ngữ, trong đó, người viết đối chiếu hai hay
nhiều đối tượng có một dấu hiệu tương đồng nào đó, nhằm làm nổi bật lên đặc điểm của đối tượng được nói đến. So
sánh tu từ nếu được vận dụng đúng, giữa đối tượng được so sánh và đối tượng dùng để so sánh có dấu hiệu tương
đồng, mang tính chất tiêu biểu, thì ngôn ngữ trở nên sinh động, giàu sắc thái gợi tả, gợi cảm.
Ví dụ:
Chế độ phong kiến nanh ác đã cướp lại miếng mồi ngon của nó. Thúy Kiều sẽ như đóa hoa trên ngọn sóng, ba
chìm bảy nổi, phiêu dạt khôn cùng(NLPBCL, T.III ).
Nhưng nếu học sinh không nắm vững cách dùng biện pháp tu từ này thì dễ dẫn đến hiện tượng so sánh khập khễnh,
một kiểu lỗi kết hợp.
Ví dụ:
(a) Mẹ con chị Uït giống như những vì sao trên trời, sau cơn mưa, những vì sao ấy quần tụ lại với nhau, sáng
lấp lánh(BVHS).
(b) Sức mạnh của đoàn kết như một đàn trâu cày phăng phăng thửa ruộng(BVHS).
(c) Nếu như những thiên thần thoại, truyền thuyết giống như những lớp sóng cồn giữa đại dương ầm ì vang dội,
thì những câu ca dao, dân ca giống như cơn gió thoảng giữa trưa hè ru ngủ hồn ta”(BVHS).
Trong câu (a), giữa mẹ con chị Uït, đối tượng được so sánh, và những vì sao trên trời, đối tượng dùng để so sánh,
không có điểm tương đồng nào cả. Biện pháp so sánh này không thể chấp nhận được. Trong ví dụ (b), đối tượng dùng
để so sánh quá thô vụng. Không thể dùng hình ảnh một đàn trâu cày phăng phăng thửa ruộngđể ví von với sức mạnh
của đoàn kết.Trong câu (c), học sinh đã dùng phép so sánh hai lần. Thứ nhất là so sánh những thiên thần thoại,
truyền thuyếtvới những lớp sóng cồn giữa đại dương. Ở đây, khó mà xác định được dấu hiệu tương đồng giữa hai đối
tượng. Thứ hai là so sánh những câu ca daovới cơn gió thoảng giữa trưa hè. Ðọc thoáng qua, tưởng chừng như có
thể chấp nhận được. Nhưng cân nhắc kĩ, chúng ta thấy cách so sánh này vẫn khập khễnh. Bởi vì, nội dung ca dao, dân
ca không chỉ là nhẹ nhàng, mát mẻ như cơn gió thoảng giữa trưa hè.
Lỗi so sánh khập khễnh xuất hiện tương đối ít trong bài viết của học sinh, ít nhất so với các loại lỗi dùng từ khác.
Nguyên nhân dẫn đến lỗi so sánh là do, một mặt suy nghĩ của học sinh non nớt, vụng về ; mặt khác, học sinh lại
muốn trau chuốt, đẽo gọt chữ nghĩa, nhưng không nắm vững biện pháp tu từ này.
Ðối với lỗi so sánh khập khễnh, chỉ có thể sửa chữa bằng cách loại bỏ đối tượng dùng để so sánh, xác định lại nội
dung học sinh muốn biểu đạt, trên cơ sở đó, vận dụng các phương tiện từ vựng, cú pháp tổ chức lại câu sao cho phù
hợp với chuẩn mực ngữ pháp.
Ba ví dụ vừa dẫn có thể sửa chữa như sau :
(a) Sau mỗi trận đánh, mẹ con chị Út lại sum họp, quây quần bên nhau, trông thật đầm ấm, cảm động.
(b) Tinh thần đoàn kết có thể tạo nên sức mạnh dời non lấp biển.
(c) Nếu thần thoại, truyền thuyết thiên về mặt phản ánh những vấn đề trọng đại, lớn lao của lịch sử, xã hội, thì
ca dao, dân ca có xu hướng thể hiện đời sống tâm tư, tình cảm, phong tục, tập quán muôn màu muôn vẻ của nhân
dân.
CHƯƠNG 4 : RÈN LUYỆN CHÍNH TẢ
I.
II.
III.
IV.
KHÁI NIỆM QUY ĐỊNH VỀ CHÍNH TẢ VÀ CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT
MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ CHÍNH TẢ
MỘT SỐ LOẠI LỖI CHÍNH TẢ THƯỜNG GẶP
MẸO VIẾT ĐÚNG DẤU HỎI - DẤU NGÃ
TOPI. KHÁI NIỆM VỀ CHÍNH TẢ VÀ CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT
Chính tả, hiểu một cách đơn giản, là cách viết chữ được coi là chuẩn [1].
Nói một cách cụ thể, chính tả là hệ thống các quy định về việc viết chữ của một thứ tiếng, được xem là chuẩn
mực.
Như vậy, đối với tiếng Anh thì có chính tả tiếng Anh; đối với tiếng Pháp thì có chính tả tiếng Pháp; đối với
tiếng Việt thì có chính tả tiếng Việt. Mỗi thứ tiếng có những quy định riêng về chính tả.
Nội dung chính tả tiếng Việt bao gồm một số vấn đề cơ bản sau:
- Cách viết một số từ có nhiều dạng phát âm khác nhau.
- Cách viết tên riêng Việt Nam.
- Cách viết tên cơ quan, tổ chức kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
- Cách viết tên riêng nước ngoài và thuật ngữ khoa học.
- Cách viết tên tác phẩm, văn bản.
- Cách viết tắt.
- Cách dùng số và chữ biểu thị số.
TOPII. MỘT SỐ QUY ÐỊNH VỀ CHÍNH TẢ
1- Cách viết tên riêng Việt Nam.
Tên riêng Việt Nam bao gồm nhiều loại: tên người, biệt hiệu, bút danh, địa danh. Ðối với tất cả các loại tên riêng này,
phải viết hoa tất cả các chữ cái mở đầu của các âm tiết trong tên gọi và giữa các âm tiết không gạch nối.
Ví dụ:
Nguyễn Văn Trỗi, Phạm Văn Ðồng, Tố Như, Tố Hữu, Hàn Nội, Ðồng Nai, Cần Thơ v.v...
2- Cách viết tên cơ quan, tổ chức kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
Loại tên gọi này, nếu đầy đủ nhất, bao gồm bốn bộ phận:
a) Bộ phận chỉ sự phân cấp về mặt quản lý hành chính của nhà nước. Bộ phận này là một từ đơn âm hay đa
âm: viện, uỷ ban, sở, nhà máy, xí nghiệp, trường, ban v.v...
b) Bộ phận chỉ chức năng, nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan, tổ chức. Bộ phận này có thể là một từ hay là
một tổ hợp nhiều từ: thương mại, nông nghiệp, giáo dục và đào tạo, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, sinh đẻ có kế hoạch v.v...
c) Bộ phận chỉ biệt hiệu của cơ quan, tổ chức: Sao vàng, Chiến thắng, Aïnh Bình Minh v.v...
d) Bộ phận chỉ nơi cơ quan trú đóng, phạm vi hoạt động của cơ quan. Bộ phận này bao giờ cũng là địa danh:
Hà Nội, Ðồng Nai, Cửu Long, Huế v.v...
Ví dụ: Nhà máy cao su Sao Vàng Hà Nội.
Xí nghiệp cơ khí Chiến Thắng Cửu Long.
Nếu ở dạng không đầy đủ, loại tên gọi này chỉ có hai, ba bộ phận.
Ví dụ:
Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ quốc phòng, Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Cần Thơ, Trường đại học sư phạm Hà
Nội, Ðoàn cải lương Aïnh Bình Minh v.v...
Ðối với loại tên gọi này, phải viết hoa chữ cái mở đầu của bộ phận (a), bộ (b) viết thường; bộ phận (c) và (d),
nếu có, thì viết hoa theo cách viết hoa tên riêng Việt Nam như đã trình bày.
3- Cách viết tên tác phẩm, văn bản.
Ðối với tên tác phẩm, văn bản, văn bản viết tay, chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của tên gọi và cả tên gọi phải đặt
trong ngoặc kép.
Ví dụ:
Người mẹ cầm súng, Tắt đèn, Ðất nước đứng lên, Bến không chồng ...
Trong trường hợp tác phẩm do tên người, địa danh chuyển hoá tạo nên hay có chứa tên riêng, thì các tên riêng
phải được viết hoa như quy định đã nêu.
Ví dụ:
Lão Hạc, Chí Phèo, Hòn Ðất, Rừng U Minh, Ðất Viên An ...
4- Cách viết tên riêng nước ngoài.
Tên riêng nước ngoài (tên người, địa danh) du nhập vào tiếng Việt theo nhiều cách, dẫn đến nhiều cách viết
khác nhau:
- Viết theo cách phiên âm Hán - Việt: Mạc Tư Khoa, Luân Ðôn, Hoa Thịnh Ðốn, Ba Lan, Anh, Ðức, Pháp, Nã
Phá Luân, Mạnh Ðức Tư Cưu, Mã Khắc Tư ...
- Viết theo dạng nguyên ngữ hay chuyển tự sang mẫu chữ La Tinh: Victor Hugo, Shakespeare, Napoléon,
New York, Paris, London, Washington, Maxim Gorky ...
- Phiên âm trực tiếp theo cách ghi âm tiếng Việt: Xêch-xpia, Vich-to-Huy-gô, Niu-oóc, Mê-hi-cô ...
Tình hình đó dẫn đến sự phức tạp, thiếu thống nhất trên sách báo hiện nay.
Theo quy định, có ba cách viết tên riêng nước ngoài:
a) Nếu chữ viết trong nguyên ngữ theo hệ chữ cái La Tinh, thì viết nguyên dạng.
Ví dụ:
New York, Paris, London, Washington, Victor Hugo, Shakespeare...
b) Nếu chữ viết trong nguyên ngữ không theo hệ La Tinh (như tiếng Nga, tiếng Thái, Ả Rập ...) thì viết theo
hình thức La Tinh hoá chính thức.
Ví dụ:
Moskva, Maxim Gorky, Lev Tolstoy, Lomonozov, Majakoski ...
c) Một số địa danh và tên người nước ngoài được viết theo cách đọc Hán - Việt quen thuộc, đã dùng quen thì
viết theo hình thức quen dùng này, không phiên âm trực tiếp hay viết nguyên dạng.
Ví dụ:
Anh, Nga, Pháp, Ðức, Ba Lan, Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha, Thuỵ Sĩ, Thụy Ðiển, Thái Lan, Thích Ca, Liễu
Thăng, Mao Trạch Ðông ...
5- Cách viết tắt.
Hiện nay, trên sách báo, có hai cách viết tắt: viết tắt theo từ và viết tắt theo âm tiết.
Viết tắt theo từ là cách viết giữ lại chữ cái đầu tiên trong âm tiết thứ nhất của mỗi từ, các chữ cái còn lại bị
lược bỏ.
Ví dụ:
Kiểm tra chất lượng sản phẩm ( KCS.
Cách viết tắt này lược bỏ nhiều chữ cái, khó phục hồi nguyên dạng khi đọc, nên không phổ biến.
Viết tắt theo âm tiết là cách viết giữ lại chữ cái thứ nhất của mỗi âm tiết, các chữ cái còn lại bị lược bỏ.
Ví dụ:
Uỷ ban nhân dân ( UBND; hội đồng nhân dân ( HÐND; đại học sư phạm ( ÐHSP v.v...
Ðây là cách viết tắt phổ biến hiện nay.
Khi viết tắt, cần lưu ý mấy điểm:
a) Phải dùng mẫu chữ in hoa, trừ chữ cái viết phụ.
Ví dụ:
TT (Tổng thống), Ttg (Thủ tướng), TBT (Tổng bí thư).
b) Sau chữ cái viết tắt không dùng dấu chấm, trừ trường hợp chữ viết tắt chỉ có một chữ cái hay chữ viết tắt họ
tên người.
Ví dụ:
Ô. (Ông); Q. (Quyền); P. (Phó); N.C (Nam Cao); H.C.M (Hồ Chí Minh); M. Gorky.
c) Khi tên gọi xuất hiện lần đầu trong văn bản thì không được viết tắt, mà phải viết dạng đầy đủ và ghi chú
chữ viết tắt trong ngoặc đơn. Từ lần xuất hiện thứ hai trở đi, ta mới viết tắt.
TOPIII. KHÁI NIỆM VỀ LỖI CHÍNH TẢ VÀ TÌNH HÌNH LỖI CHÍNH TẢ TRONG BÀI VIẾT CỦA
HỌC SINH
Lỗi chính tả là lỗi viết chữ sai chuẩn chính tả. Lỗi chính tả bao gồm hiện tượng vi phạm các quy định chính tả về viết
hoa, viết tắt, dùng số và chữ biểu thị số..., và hiện tượng vi phạm diện mạo ngữ âm của từ thể hiện trên chữ viết, tức
chữ viết ghi sai từ.
1. Lỗi viết hoa.
Lỗi viết hoa là một trong những loại lỗi chính tả xuất hiện rất nhiều trong bài viết của học sinh.
Lỗi viết hoa bao gồm hai kiểu lỗi nhỏ : viết hoa sai quy định chính tả và viết hoa tùy tiện.
1.1. Viết hoa sai quy định chính tả :
Viết hoa sai quy định chính tả là viết hoa hay không viết hoa theo đúng quy định chính tả về viết hoa. Chẳng hạn như
học sinh không viết hoa chữ cái mở đầu bài viết, đoạn văn, không viết hoa sau dấu chấm (.),dấu chấm hỏi (?), dấu
chấm than (!), dấu chấm lửng hết câu (...), hay vi phạm các quy định về cách viết hoa các loại tên riêng.
Ví dụ :
Vũ trọng Phụng, Phan bội Châu, Nam cao, Vũ đại, Tố như, chị út Tịch, hai Thép, ba Rèn, trường trung học
phổ thông Lưu văn Liệt, chí Phèo, tác phẩm người mẹ cầm súng, cách mạng tháng 8, cách mạng tháng
10....
Lẽ ra, theo quy định chính tả, học sinh phải viết :
Vũ Trọng Phụng, Phan Bội Châu, Nam Cao, Vũ Ðại, Tố Như, chị Út Tịch, Hai Thép, Ba Rèn, Trường
trung học phổ thông Lưu Văn Liệt, tác phẩm Chí Phèo, Người mẹ cầm súng, Cách mạng tháng Tám, Cách
mạng tháng Mười...
1.2. Viết hoa tùy tiện :
Viết hoa tùy tiện là viết hoa những đơn vị từ vựng bình thường, không nằm trong quy định chính tả về viết hoa.
Ví dụ:
quá trình Giác ngộ lí tưởng Cách mạng của nhà thơ, Chế độ Phong kiến tàn ác, giai cấp Tư sản, cuộc
cách mạng Xã hội chủ nghĩa, giai cấp Vô sản....
Lỗi viết hoa là loại lỗi chính tả thông thường, dễ tránh, dễ khắc phục, nhưng học sinh THPT vẫn mắc phải. Ðiều đó
có nguyên nhân của nó, xét về mặt khách quan lẫn chủ quan.
2. Lỗi viết tắt :
Lỗi viết tắt xuất hiện trong bài viết của học sinh thấp hơn nhiều so với lỗi viết hoa. Tuy nhiên, trong việc rèn luyện
chính tả cho học sinh, lỗi viết tắt cũng cần được lưu ý đến.
Thông thường, lỗi viết tắt bao gồm hai kiểu lỗi nhỏ : viết tắt sai quy định chính tả và viết tắt tùy tiện.
2.1. Viết tắt sai quy định chính tả :
Viết tắt sai quy định chính tả là viết tắt không theo đúng quy định chính tả về viết tắt. Chẳng hạn như người viết
dùng mẫu chữ thường, dùng dấu chấm hay dấu gạch xéo giữa các chữ cái viết tắt...
Ví dụ : P/V, đ/c, T.P, H.Ð.N.D v.v...
Lẽ ra, theo quy định chính tả, phải viết : PV, ÐC, TP, HÐND (phóng viên, đồng chí, thành phố, hội đồng nhân dân).
Trong bài viết của học sinh mà chúng tôi đã khảo sát, lỗi viết tắt sai quy định chính tả gần như không có. Nguyên
nhân là do trong các bài kiểm tra, bài thi, ít xuất hiện các từ ngữ, tên gọi có thể viết tắt theo quy định chính tả. Lỗi
này chỉ xuất hiện ở một vài bài, khi học sinh viết tắt tên trường ở góc trái bài viết.
Ví dụ : Trường P.T.T.H.L.X. (Trường trung học phổ thông Long Xuyên), Trường P.T.T.H Lưu Văn Liệt.
2.2. Viết tắt tùy tiện :
Viết tắt tùy tiện là dùng các kí hiệu viết tắt mang tính chất cá nhân vào bài viết chính thức. Ðây là các kí hiệu bằng
chữ viết Việt Nam hay chữ viết nước ngoài, được chế biếnlại, lẽ ra chỉ được dùng khi ghi chép, nhưng học sinh lại
đưa vào bài kiểm tra, bài thi, do đó trở thành lỗi chính tả.
Ví dụ : ( ta (người ta), ( vật (nhân vật), ( (nhấn), ( (nhận), ( (sau), ((trước), ( (trên), ( (dưới), ( (trong), of (của), on
(trên), ...... (những), ...... (nhưng), fê fán (phê phán), ffáp (phương pháp), tình thg (tình thương), fg tiện (phương tiện),
ndung (nội dung), t2 (tư tưởng), hthức (hình thức), chnghĩa (chủ nghĩa), chthắng (chiến thắng), xlc (xâm lược) v.v...
Hiện tượng viết tắt tùy tiện rất dễ khắc phục, nếu như học sinh có ý thức tránh loại lỗi chính tả này khi làm bài thi,
kiểm tra.
3. Lỗi dùng số và chữ biểu thị số :
Kiểu lỗi chính tả này có hai biểu hiện chính: lẫn lộn giữa hai loại số và lẫn lộn giữa số với chữ biểu thị số.
3.1. Lẫn lộn hai loại số :
Trong bài viết, có những trường hợp học sinh phải biểu đạt bằng số, chẳng hạn như khi đề cập đến ngày, tháng,
năm, thế kỉ... Theo quy định chính tả, tùy trường hợp mà dùng số Á Rập, còn gọi là số thường (1,2,3...), hay số La
Mã (I, II, III...). Do không nắm được quy định chính tả, nên học sinh thường sử dụng lẫn lộn hai loại số.
Ví dụ : Thế kỉ 20, Ðại hội Ðảng lần thứ 6.
Lẽ ra, theo quy định chính tả, phải viết bằng số La Mã những trường hợp này mới đúng.
3.2. Lẫn lộn số và chữ biểu thị số :
Bên cạnh một số trường hợp phải viết số, theo quy định chính tả, có khá nhiều trường hợp phải viết bằng chữ, khi
biểu thị số chỉ số lượng, số chỉ thứ tự, số chỉ số lượng phỏng chừng v.v... Do không nắm rõ quy định chính tả và do
viết theo thói quen, học sinh dễ lẫn lộn giữa số và chữ biểu thị số trong rất nhiều trường hợp.
Ví dụ:
Ngày ba, tháng hai, năm một ngàn chín trăm ba mươi; 1 đám tang; 3 đứa con thơ dại ; 1 cuộc sống ; đẹp I ,
lần gặp gỡ thứ 2 ; vài 3 người bạn...
Theo quy định chính tả, phải viết :
Ngày 3, tháng 2, năm 1930 ; một đám tang ; ba đứa con thơ dại ; một cuộc sống ; đẹp nhất ; lần gặp
gỡ thứ hai, vài ba người bạn...
So với hiện tượng lẫn lộn hai loại số, hiện tượng lẫn lộn số và chữ biểu thị số xuất hiện trong bài viết của học sinh
nhiều hơn. Tuy nhiên, cả hai loại lỗi sai này cũng dễ tránh, nếu như học sinh nắm được quy định chính tả về việc
dùng số và chữ biểu thị số.
4. Lỗi chính tả âm vị :
Lỗi chính tả âm vị là hiện tượng vi phạm diện mạo ngữ âm của từ thể hiện trên chữ viết. Nói đơn giản hơn, đó là
hiện tượng chữ viết ghi sai từ.
Dựa vào cấu trúc của âm tiết tiếng Việt, có thể chia lỗi chính tả âm vị thành hai kiểu nhỏ : lỗi chính tả âm vị siêu
đoạn tính và lỗi chính tả âm vị đoạn tính.
4.1. Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính :
Âm vị siêu đoạn tính là loại âm vị không được định vị trên tuyến thời gian khi phát âm, mà được thể hiện lồng vào
các âm vị đoạn tính. Trong âm tiết tiếng Việt, thanh điệu là âm vị siêu đoạn tính. Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính là
hiện tượng chữ viết ghi sai thanh điệu của âm tiết.
Tiếng Việt có tất cả sáu thanh điệu, được ghi bằng năm dấu thanh (/\( ~ .), thanh ngang không có dấu thanh. Hiện
tượng ghi sai thanh điệu chỉ xảy ra ở hai thanh hỏi, ngã. Trong bài viết của học sinh phổ thông và đại học mà chúng
tôi đã khảo sát, kiểu lỗi sai này xuất hiện khá nhiều. Hầu như bài nào cũng có lỗi hỏi, ngã. Thậm chí, chép đề cũng sai
hỏi, ngã. Dưới đây là những từ sai hỏi, ngã trong bốn trang viết của một học sinh lớp 11 :
Lảng mạng, nỗi bật, (khác) hẵn, vội vả, chán nãn, diển đạt, diển tả, giục giả, giử (lại), gỏ (cửa), dẩn
(tới), ngắn nguỗi, hởi, nổi niềm, lửng thửng, phủ phàng, rực rở, dỏng dạc, đẹp đẻ, phẫm chất, nuôi dưởng,
mảnh liệt, tội lổi, mâu thuẩn.
Chưa kể các lỗi chính tả khác, chỉ tính lỗi hỏi, ngã, bài viết này đã có 26 lỗi.
4.2. Lỗi chính tả âm vị đoạn tính :
Âm vị đoạn tính là các âm vị được phân bố nối tiếp nhau trên tuyến thời gian khi phát âm. Trong âm tiết tiếng Việt,
âm vị đoạn tính gồm có phụ âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối / bán âm cuối. Lỗi chính tả âm vị đoạn tính là
hiện tượng chữ viết ghi sai các âm vị vừa nêu. Cụ thể là :
a) Ghi sai phụ âm đầu :
Hiện tượng ghi sai phụ âm đầu trong bài viết của học sinh thường thể hiện ở sự lẫn lộn các chữ cái hay các tổ hợp
chữ cái ghi phụ âm đầu sau đây :
- ch / tr : chung thành, trà đạp, chống chả, từng chải, chăng chối, chủ chương, chông đợi, chầy chật, xáo chộn...
- s / x : sương máu, xum họp, sâu sa, đi xứ, đổi sử... xúc vật, xúc tích, xi mê, sống xót, xỉ nhục...
- v /d : dĩa hè, dâng lệnh, dang dội, vùng vậy, dùi dập, dĩ dãng, dỗ dề...
- gi / d : thúc dục, dan dối, dành lại, giả man, để giành, dèm pha, che dấu, dòn dã, gia chạm, vấn thân, bởi gì.
- g (gh) / r : ranh tị, hàn rắn , gàn buộc, đói ghét, gắn gỏi...
- h /q : huênh quang, quang vắng , quyển quặc, quyền bí, quà quyện, quyên náo...
b) Ghi sai âm đệm :
Trong âm tiết tiếng Việt, âm đệm /-u-/ phân bố sau phụ âm đầu, được ghi bằng hai chữ cái u và o, tùy trường hợp.
Trong bài viết của học sinh, hiện tượng ghi sai âm đệm thường có biểu hiện thiếu chữ cái ghi âm đệm.
Ví dụ : lẩn quẩn, lạn đả, lanh quanh, lay hoay, lằng ngoằng, lắt chắt, ngó ngáy, ngọ ngậy v.v...
c) Ghi sai âm chính :
Trong bài viết của học sinh, hiện tượng ghi sai âm chính thường có hai biểu hiện chính :
Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn, cụ thể là giữa :
- ă / â : câm phẫn, che lắp, tái lặp, trùng lập, tối tâm, xăm lăng, hâm hở, đầm thấm, e ắp, hắp tắp v.v....
- o / ô/ ơ : bốc lột, tận góc, mưa mốc, chốp bu, chốp lấy, hồi hợp, đớp chát, họp nhất, bộp tai v.v...
Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn với các chữ cái ghi nguyên âm đôi, nhất là giữa :
- ê / i / iê : điều đặn, điu đứng, điểu cáng, kiềm kẹp, chiệu đựng, hiêu quạnh, nâng niêu, tìm ẩn, thất thiểu v.v...
- u / uô : tuổi thân, muổi lòng, đen đuổi, theo đui, hất huổi, xuôi khiến, xui tay v.v...
- ư / ươ : chưởi mắng, cữi cổ, tức tửi, rác rửi, sửi ấm v.v...
d) Ghi sai âm cuối / bán âm cuối :
Hiện tượng ghi sai âm cuối trong bài viết của học sinh thường có hai biểu hiện chính :
Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi phụ âm cuối, cụ thể là lẫn lộn giữa :
- c /t : biền biệc, buộc miệng, chất phát, heo húc, lẩn lúc, lũ lược, mất mác, man mát, mua chuột, phó mặt, phúc
chốc, tấc bậc, tiếc hạnh v.v...
- n / ng : dun túng, hiên ngan, hoang hỉ, lãng mạng, làm lụn, phản phất, rung sợ, rung rẩy, sản khoái, tang hoang,
vung trồng, vụn về ...
Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi bán âm cuối, cụ thể là giữa :
- o /u : báo vật, cao có, lao lách, láo lỉnh, mếu máu, trao chuốt, trao dồi v.v....
- i /y : ái nái, đai nghiến, đài đọa, lai động, mai mắn, mỉa may, phơi bài, tai chân, sai mê, van lại ...
Giữa bốn kiểu lỗi chính tả âm vị đoạn tính, trong bài viết của học sinh, hiện tượng ghi sai âm cuối xuất
hiện nhiều hơn. Kế đến là ghi sai âm chính và ghi sai phụ âm đầu. Lỗi ghi sai âm đệm xuất hiện ít nhất.
TOPIV. MẸO VIẾT ÐÚNG DẤU HỎI, DẤU NGÃ
Ðể viết đúng chính tả nói chung và viết đúng dấu hỏi, dấu ngã nói riêng, bên cạnh biện pháp rèn luyện âm
chuẩn và nhớ mặt chữ của từ dựa vào nghĩa của chúng, chúng ta còn có thể vận dụng một số mẹo luật, tức là các quy
tắc mà dựa vào đó, có thể suy ra dấu hỏi, dấu ngã một cách chính xác.
Dưới đây là một số mẹo cụ thể.
1- Mẹo viết đúng dấu hỏi, dấu ngã đối với từ láy.
4.1.1- Khái niệm về từ láy và các kiểu từ láy.
Từ láy là từ có hai hay trên hai âm tiết (tiếng), có cấu tạo ngữ âm lặp lại nguyên âm tiết hay một bộ phận của
âm tiết, trong đó ít nhất một âm tiết không có nghĩa chân thực xác định.
Dựa vào mối quan hệ qua lại về mặt ngữ âm giữa các âm tiết, từ láy được chia thành hai kiểu: từ láy nguyên
và từ láy bộ phận.
Từ láy nguyên là kiểu từ láy có các âm tiết giống nhau hoàn toàn hay có biến đổi chút ít về mặt thanh điệu
theo quy luật hài thanh, tức quy luật hài hoà về thanh điệu.
Ví dụ:
Ba ba, chuồn chuồn, nao nao, nhao nhao, ngà ngà, đo đỏ, tim tím, bươm bướm, châu chấu, ngay ngáy, phinh
phính v.v...
Từ láy bộ phận là kiểu từ láy có các âm tiết hoặc là lặp lại phụ âm đầu, hoặc là lặp lại vần.
Ví dụ:
Dễ dãi, dễ dàng, đẹp đẽ, khoẻ khoắn, lạnh lẽo, nhỏ nhắn, vui vẻ, bủn rủn, lảm nhảm, lẩm cẩm, lủng củng v.v...
Về mặt thanh điệu, các âm tiết trong từ láy chịu sự chi phối của luật hài thanh như bảng tóm tắt dưới đây:
ngang-sắc-hỏiBậc cao
huyền-nặng-ngãBậc thấp
Nói cụ thể hơn, các âm tiết trong từ láy hoặc là cùng có một thanh điệu, hoặc là cùng thuộc một bậc thanh, trừ
một ít ngoại lệ.
1.2- Mẹo viết đúng dấu hỏi, dấu ngã đối với từ láy.
Từ luật hài thanh nêu trên, chúng ta rút ra được các mẹo luật cụ thể như sau:
1.2.1- Mẹo 1: ở bậc cao.
a- Âm tiết có thanh ngang đi với âm tiết có thanh hỏi.
Ví dụ:
Bảnh bao, bỏ bê, da dẻ, dai dẳng, dư dả, đon đả, gây gổ, hả hê, hở hang, lẻ loi, leo lẻo, mỏng manh, mở mang,
nể nang, nham nhở, nhỏ nhoi, thong thả, thơ thẩn, rủ rê, sa sả, vui vẻ, xây xẩm v.v...
Ngoại lệ:
Âm tiết có thanh ngang đi với âm tiết có thanh ngã: Khe khẽ, lam lũ, ngoan ngoãn, nông nỗi (danh từ), se sẽ
(âm thanh), trơ trẽn, ve vãn.
b- Âm tiết có thanh sắc đi với âm tiết có thanh hỏi.
Ví dụ:
Bé bỏng, bóng bẩy, bướng bỉnh, cáu kỉnh, cứng cỏi, gởi gắm, gắng gỏi, gắt gỏng, khấp khởi, kháu khỉnh, hắt
hủi, hóm hỉnh, hiểm hóc, hớn hở, lắt lẻo, lấp lửng, láu lỉnh, lém lỉnh, mát mẻ, mới mẻ, nhắc nhở, nức nở, nhảm nhí,
phấp phỏng, rải rác, rẻ rúng, rác rưởi, tấp tểnh, tỉnh táo, thẳng thắn, thẳng thớm, thảm thiết, trắng trẻo, trống trải, vất
vưởng, vớ vẩn, vắng vẻ, xấp xỉ, xó xỉnh, xối xả, v.v...
1.2.2- Mẹo 2: ở bạc thấp.
a- Âm tiết có thanh huyền đi với âm tiết có thanh ngã
Ví dụ:
Bão bùng, bẽ bàng, buồn bã, còm cõi, chồm chỗm, dễ dàng, đẫy đà, hãi hùng, hỗn hào, hững hờ, kĩ càng, lỡ
làng, lững lờ, mùi mẽ, mỡ màng, não nề, não nùng, ngỡ ngàng, phè phỡn, phũ phàng, rành rẽ, rõ ràng, rầu rĩ, rền rĩ, rũ
rượi, sàm sỡ, sỗ sàng, sững sờ, sừng sững, tầm tã, tẽn tò, trễ tràng, tròn trĩnh, vững vàng, vỗ về, vờ vĩnh, vòi vĩnh, vẽ
vời, xoàng xĩnh v.v...
Ngoại lệ:
Âm tiết có thanh huyền đi với âm tiết có thanh hỏi: Bền bỉ, chàng hảng, chồm hổm, chèo bẻo, mình mẩy, niềm
nở, phỉnh phờ, sừng sỏ.
b- Âm tiết có thanh nặng đi với âm tiết có thanh ngã.
Ví dụ:
Bụ bẫm, chễm chệ, chững chạc, chặt chẽ, chập chững, dạn dĩ, doạ dẫm, dựa dẫm, đẹp đẽ, đĩnh đạc, gạ gẫm,
gãy gọn, gỡ gạc, gặp gỡ, gần gũi, giãy giụa, giặc giã, gọn ghẽ, hợm hĩnh, khập khiễng, lạnh lẽo, lặng lẽ, lạc lõng, lọc
lõi, não nuột, nhạt nhẽo, nhễ nhại, nhẵn nhụi, ngặt nghẽo, nghễu nghện, ngỗ ngược, õng ẹo, quạnh quẽ, rộn rã, rộng
rãi, rũ rượi, sạch sẽ, thưỡn thẹo, vạm vỡ, vặt vãnh, vội vã v.v...
Ngoại lệ:
Âm tiết có thanh nặng đi với thanh hỏi: gọn lỏn, nhỏ nhặt, trọi lỏi, vỏn (vẻn) vẹn, xảnh xẹ.
1.2.3- Mẹo 3: ở cả hai bậc thanh.
Khi hai âm tiết của từ láy bộ phận lặp lại vần hay lặp lại phụ âm đầu kết hợp với sự hài âm giữa các âm chính
trong vần thì cả hai âm tiết cùng có thanh hỏi hay thanh ngã.
Ví dụ:
Lã chã, lả tả, lải nhải, lảng vảng, lẩm bẩm, lẩn thẩn, lẩy bẩy, lẽo đẽo, lõm bõm, lõng bõng, lỗ chỗ, lổm ngổm,
lởm chởm, lởn vởn, lủng củng, lững thững, lảo đảo, tẩn mẩn, tủn mủn, xởi lởi, cũ kĩ, đủng đỉnh, hể hả, hổn hển,
khủng khỉnh, lỏng lẻo, mủm mỉm, nhõng nhẽo, nhỏ nhẻ, tủm tỉm, thủng thỉnh, v.v...
1.3- Phân biệt từ láy với từ ghép có sự lặp lại về mặt ngữ âm giữa các âm tiết một cách ngẫu nhiên.
Về mặt ngữ nghĩa, từ láy chính danh bao giờ cũng có ít nhất một âm tiết không có nghĩa rõ ràng, xác định.
Ví dụ:
Bé bỏng, bóng bẩy, gắt gỏng, mát mẻ, trắng trẻo, đủng đỉnh, lẩm cẩm, vớ vẩn, vu vơ, bẽn lẽn v.v...
Ðó chính là cơ sở quan trọng giúp ta phân biệt từ láy với từ ghép có sự lặp lại về mặt ngữ âm giữa các âm tiết
một cách ngẫu nhiên.
Ví dụ:
Lí lẽ, lú lẫn, mồ mả, mỏi mệt, hỏi han, giữ gìn, nghỉ ngơi, sửa chữa, dở lỡ, nhỏ nhẹ, sửa soạn, giãy nảy, nhểu
nhão, kiêng cữ, ủ rũ v.v...
Ðối với những trường hợp vừa nêu, chúng ta không được vận dụng các mẹo để suy ra dấu hỏi, dấu ngã.
2- Mẹo viết đúng dấu hỏi, dấu ngã đối với từ đơn.
Ðối với một số từ đơn âm, chúng ta cũng có thể dựa trên luật hài thanh đã trình bày để rút ra mẹo viết đúng
dấu hỏi, dấu ngã.
2.1- Mẹo 1: ngang, sắc - hỏi.
Giữa các từ đơn âm đồng nghĩa hay gần nghĩa, nếu một từ có thanh sắc hay thanh ngang (không dấu) thì từ
còn lại có thanh hỏi.
Ví dụ:
Can - cản (ngăn); chăng - chẳng, chả (ý phủ định); chưa - chửa (phủ định); khan - khản (giọng nói); quăng -
quẳng; tan - tản; tua - tủa; vênh - vểnh; há - hả, hở, hẻ; lén - lẻn; rắc - rải; tốn - tổn; thoáng - thoảng v.v...
2.2- Mẹo 2: huyền, nặng - ngã.
Giữa các từ đơn âm đồng nghĩa hay gần nghĩa, nếu một từ có thanh huyền hay thanh nặng thì từ còn lại có
thanh ngã.
Ví dụ:
Chìa (ra) - chĩa; dầu - dẫu (cho); đầm - đẫm; đầy - đẫy; lời - lãi; mồm - mõm; ngờ - ngỡ; thòng - thõng; rồi -
rỗi; cội - cỗi; đậu - đỗ; (chống) chọi - chõi v.v...
3- Mẹo viết đúng dấu hỏi dấu ngã đối với từ Hán - Việt.
3.1- Khái niệm về từ Hán - Việt.
Từ Hán - Việt là từ vay mượn của tiếng Hán, nhưng được đọc theo cách phát âm của tiếng Việt.
Ðất nước ta đã bị các thế lực phong kiến Trung Quốc xâm chiếm, đô hộ hàng mấy trăm năm; sự giao lưu kinh
tế, văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc đã diễn ra trong một thời gian dài. Ðặc biệt là chữ Hán đã được dùng làm
chữ viết chính thức của ta trong hàng thế kỉ. Vì thế cho nên tiếng Việt đã vay mượn từ tiếng Hán với số lượng rất cao.
Hiện nay, số lượng từ Hán - Việt chiếm hơn 60% trong vốn từ vựng tiếng Việt. Ða số từ Hán - Việt là từ đa âm tiết:
từ hai âm tiết trở lên.
Ví dụ:
An ninh, ẩn sĩ, bảo vệ, bản lĩnh, chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá, dân chủ, độc lập, chiến tranh, hoà bình,
hạnh phúc v.v...
3.2- Cách nhận diện từ Hán - Việt:
Nhìn chung, nếu không có vốn hiểu biết sâu rộng về Hán học thì rất khó nhận diện chính xác từ Hán - Việt
trong nhiều trường hợp. Tuy nhiên, có thể dựa vào các cách sau đây để nhận biết chúng.
3.2.1- Dựa vào đặc điểm về ý nghĩa.
Từ Hán - Việt thường có ý nghĩa mang tính trừu tượng, khái quát cao. Vì thế, khi tiếp nhận từ Hán - Việt,
chúng ta thường cảm thấy nghĩa của nó mơ hồ, khó giải thích. Chẳng hạn như nghe các từ: kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội, độc lập, tự do, hoà bình, chiến tranh, du kích, hàm số, hằng số v.v... Hay là chúng ta phải tìm yếu tố
tương đương trong từ thuần Việt rồi mới suy ra được ý nghĩa. Chẳng hạn khi nghe các từ: ảo ảnh, ẩn sĩ, thực đơn,
danh nhân, cường quốc v.v... chúng ta thường liên hệ đến các yếu tố tương đương rồi suy ra nghĩa của chúng.
3.2.2- Dựa vào trật tự phân bố của các yếu tố trong từ.
Trong lớp từ Hán - Việt, có một số lượng khá lớn từ ghép được cấu tạo theo quan hệ chính - phụ, gọi là từ
ghép chính - phụ, trong đó, phụ tố thường đứng trước, chính tố thường đứng sau: P + C.
Ví dụ:
Ẩn ý, ẩn sĩ, cường quốc, dịch giả, tác giả, khán giả, văn sĩ, thi sĩ, viễn cảnh, cận cảnh, giáo viên, học viên, hội
viên v.v...
Trong khi đó, từ thuần Việt thuộc loại này được cấu tạo theo trật tự ngược lại: C + P.
Ví dụ:
Người viết, người xem, người nghe, người đọc, nhà văn, nhà thơ v.v...
Dựa vào đặc điểm đã nêu, khi gặp một từ ghép chính phụ được cấu tạo theo trật tự P + C, thì ta có thể xác
định đó là từ Hán - Việt.
3.3- Mẹo viết đúng dấu hỏi, dấu ngã đối với từ Hán - Việt.
Khi có thể nhận diện, xác định được từ Hán - Việt, chúng ta có thể vận dụng các mẹo sau đây để viết đúng
hỏi, ngã.
3.3.1- Mẹo 1: thanh ngã.
Các từ Hán - Việt bắt đầu bằng các phụ âm được ghi bằng các chữ cái/tổ hợp chữ cái D, L, M, N, NG, NH,
NGH, V có thanh ngã. Có thể dựa vào câu sau đây để nhớ các chữ cái/tổ hợp chữ cái vừa nêu:
Mình nên nhớ viết là dấu ngã *
Ví dụ:
D: Dã man, hướng dẫn, dĩ vãng, dĩ nhiên, diễn viên, diễm lệ v.v...
L: Lão hoá, lãnh đạo, lãnh tụ, lãng phí, lễ nghĩa, lũng đoạn, tích luỹ, v.v...
M: Mãnh liệu, mãn khoá, minh mẫn, mẫu hệ, mẫu giáo, mĩ thuật, mĩ lệ v.v...
N: Não bộ, truy nã, nỗ lực, phụ nữ v.v...
NG/NGH: Bản ngã, ngôn ngữ, ngưỡng mộ, đội ngũ, nghĩa vụ, nghĩa trang v.v...
NH: Hoà nhã, nhãn hiệu, nhẫn nại, truyền nhiễm, thổ nhưỡng, nhũ mẫu, v.v...
V: Vãn hồi, vãng lai, vĩ đại, vĩ tuyến, viễn xứ, vĩnh viễn v.v...
3.3.2- Mẹo 2: thanh hỏi.
Các từ Hán - Việt bắt đầu bằng các nguyên âm và âm đệm /-u-/, được ghi bằng các chữ cái A, Ô, Â, Y, U và
các từ Hán - Việt mở đầu bằng các phụ âm còn lại, được ghi bằng các chữ cái/ tổ hợp chữ cái B, C, Ð, H, K, KH, PH,
Q, S, T, TH, X có thanh hỏi. Trừ một số ngoại lệ.
A: Aío ảnh, ảm đạm, quan ải v.v...
Ô: Ổn định, ổn áp, ổn thoả v.v...
Â: Ẩn sĩ, ẩn số, ẩn dật, ẩm thực v.v...
Y: Ỷ lại, ỷ thế, yểm hộ, yểm trợ, yểu mệnh, yểu tử, yểu tử v.v...
U: Ủng hộ, uổng mạng, uổng phí, uổng tử, uẩn khúc, uỷ nhiệm, uỷ viên, uỷ thác, uyển chuyển v.v...
B: Bảo vệ, bản lĩnh, dân biểu, bảng nhãn v.v...
Ngoại lệ: Bãi (nghĩa là bỏ) trong hàng loạt từ: bãi công, bãi chức, bãi khoá ...; hoài bão, bão hoà, bĩ thái.
C: Cảm tình, cảnh cáo, cẩn thận, cổ tích, củng cố, cử hành, nghĩa cử v.v...
Ngoại lệ: cưỡng bức, linh cữu.
Ð: Ðảm nhiệm, can đảm, đảo quốc, đảng phái, điển hình, đả kích v.v...
Ngoại lệ: Ðãi ngộ, đãng tử, phóng đãng, hiếu đễ, đỗ trọng, đỗ quyên, Ðỗ (họ).
H: Hải cảng, hải quân, hảo hạng, hoan hỉ, hiển vinh, hủ tục, hoả pháo, hoả tiễn, hoảng hốt v.v...
Ngoại lệ: Hãi (nghĩa là sợ) trong các từ: sợ hãi, kinh hãi, ...; hãm hại, hung hãn, kiêu hãnh, hoãn binh, trì
hoãn, hỗ trợ, hỗn hợp, huyễn hoặc, hữu nghị, hữu hạn, hãng (buôn).
K: Kỉ cương, kỉ luật, kỉ niệm, kiểm điểm v.v...
Ngoại lệ: Kĩ nữ, kĩ nghê, kĩ thuật, kĩ năng, kĩ xảo, kĩ sư, kĩ lưỡng.
KH: Khả ái, khả năng, khảo hoàn, khảo cổ, khẩn cấp, khỏa thân, khẩu khí, khiển trách, khủng bố, khuyển nho
v.v...
PH: Gia phả, phản chiếu, phản ánh, phẩm chất, phủ định v.v...
Ngoại lệ: Phẫn nộ, phẫn uất, phẫn chí, phẫu thuật.
Q: Quả cảm, quả ohụ, quản lí, quản giáo, quảng cáo, quảng đại, quảng trường, quỷ kế, quỷ quyệt v.v...
Ngoại lệ: Quẫn bách, quẫn trí, cùng quẫn, quỹ đạo (đường đi của hành tinh).
S: Sản sinh, sản vật, sở hữu, sủng ái, lịch sử v.v...
Ngoại lệ: Sĩ, suyễn (bệnh hen), sãi (người đàn ông giữ chùa).
T: Miêu tả, vận tải, tản cư, tẩu thoát, tử trận, phụ tử, tiểu tiết v.v...
Ngoại lệ: Tiễn biệt, hỏa tiễn, tiễu trừ, tĩnh mịch, tuẫn tiết.
TH: Sa thải, thảm kịch, thảm họa, thản nhiên, thảng thốt, thảo mộc, thiểu số, thiển cận v.v...
Ngoại lệ: Mâu thuẫn, hậu thuẫn, phù thũng.
TR: Triển khai, trở lực, trưởng giả, trưởng nam v.v...
Ngoại lệ: Trữ lượng, tích trữ, trẫm, trĩ (bệnh), ấu trĩ, trĩ (chim).
X: Xả thân, xảo trá, ngu xuẩn, xử lí, công xưởng.
Ngoại lệ: Xã trong các từ: xã hội, xã tắc, xã giao.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com