Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

BÍ MẬT XỨ HOA VÀNG 9

PHẦN CUỐI- PHẦN 1 LÊN RỪNG
Hồi thứ 14: KẾ NẰM TRONG KẾ.

Tôi bỏ lại mấy đồng xu vào cái tráp rồi đưa trả lại cho Thống. Điều chúng tôi muốn biết giờ đã rõ ràng. Nhưng những phát hiện này sẽ không có mấy giá trị, vì kho báu đã biết mất. Giờ có lẽ chúng tôi đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Rút lui thì uổng công phí sức. Mà báo với chính quyền hay công an thì lúc họ đến không thấy kho báu đâu, có lẽ chúng tôi gặp rắc rối to. Biết trả lời với họ thế nào? Hẳn họ sẽ nghi là chúng tôi đã lấy hết vàng đi rồi mới báo. Không khéo chúng tôi sẽ bị nghi ngờ vào tội Chiếm đoạt tài sản quốc gia.

Chợt có ánh đèn pin lấp loáng chiếu về phía chúng tôi. Người thứ hai trở về là Tùng. Từ xa tôi đã thấy vẻ mặt cậu ta đăm chiêu rất khác lạ. Có lẽ Tùng cũng phát hiện được ra điều gì chăng. Vừa gặp mặt cậu ta, Thống đã vội hỏi:
- Có tìm hiểu được gì không?
- Cái hang này rất rộng và có đến 7 hay 8 các nhánh phụ khác. Có những nhánh rất lớn. Đặc biệt chính là một nhánh lớn ở cuối con suối trong cái hang này. Con suối chảy sâu vào trong nhánh hang đấy. Không biết điểm cuối của con suối trong nhánh hang đấy dẫn đến đâu.

Rồi cậu ta chỉ về phía đoạn cuối của con suối chảy trong động. Ngập ngừng một chút, Tùng chầm chậm rút từ trong túi ra một vật nhỏ rồi nói tiếp:
- Tuy nhiên em có tìm thấy một vật nhỏ này vứt ở sát mép nước, ngay trước cửa nhánh hang đó.

Cậu ta xòe tay ra cho chúng tôi xem. Một vật màu trắng đục, chỉ bé bằng đầu ngón tay út. Trên thân của vật đó hình như còn có một dòng chữ nhỏ. Tôi lấy chiếc đèn pin cầm tay ra  soi cho rõ. Thật bất ngờ, chúng tôi dễ dàng đọc được dòng chữ nhỏ đó và phá lên cười. Trên thân cái vật nhỏ đó có chữ CRAVEN.
- Đây là cái đót của điếu thuốc là CRAVEN mà. – Tôi nói.
- Đúng thầy ạ. Loại thuốc này được hút rất phổ biến trên này. – Tùng đáp lời.
- Nhưng chắc không phải là từ thời nhà Nguyễn đã có điếu thuốc này chứ? – Tôi đặt ra nghi vấn.
- Chắc chắn không phải. Điếu thuốc này xuất hiện ở đây chứng tỏ chúng ta không phải là nhóm người đầu tiên tìm thấy kho báu này. Có người nào đó đã vào cái động trước chúng ta. Rồi họ hút thuốc và vứt lại đây. – Thống trả lời.
- Vậy liệu có phải nhóm người đó đã lấy tất cả kho báu đi rồi chăng?

Thống không trả lời. Có lẽ vì trong lúc này không ai có thể trả lời được câu hỏi đấy. Thống chậm rãi nói với chúng tôi suy nghĩ của cậu ta:
- Họ có lấy kho báu không em không biết. Nhưng có điều là chắc chắn việc vận chuyển kho báu này ra không phải là chuyện một vài người có thể làm được. Cũng không phải là chuyện có thể làm trong chốc lát. Để chuyển tải, khuân vác kho báu này lên mà không có máy móc giúp đỡ thì cũng phải mất rất nhiều thời gian. Năm xưa tướng Võ Tánh đã dùng đến cả một đội quân vận chuyển kho báu để giấu ở đây. Thế nên việc lấy đi có lẽ cùng phải dùng đến cả một đạo quân.

Vừa nói đến đây thì chúng tôi thì chúng tôi bị cắt ngang bởi tiếng động phía sau. Người thứ ba trở về là Hiệp. Không biết cậu ta có giống như Thống và Tùng, đem được một cái gì đó về hay không ?

Khi nhìn thấy Hiệp, bộ dạng của cậu ta ướt sũng như vừa mới tắm. Hẳn cậu ta đã nhảy xuống con suối ngầm nơi đây. Quả thật Hiệp cũng không trở về tay trắng. Cậu ta cũng tìm được một vật để đem theo về. Chỉ có điều khác với Tùng, vật của Hiệp đem về thực sự to lớn. Cậu ta khệ nệ bê một vật gì đó trước ngực. Hẳn vật đó cũng khá nặng vì tôi thấy Hiệp vừa đi vừa thở phì phò.

Chúng tôi chạy vội ra để giúp Hiệp. Hóa ra là cậu ta đang bê một phiến đá. Ném phiến đá đó xuống đất. Hiệp thở hổn hển rồi chỉ vào phiến đá rồi nói:
- Em đang đi dò xét con suối ngầm trong hang này. Lúc đứng trên bờ lấy đèn pin soi xuống lòng suối thì phát hiện thấy có một phiến đá rất khác thường. Phiến đá này có màu sáng hơn đá trong động, lại rất vuông thành sắc cạnh như được con người chế tác. Em vội lội xuống suối, lôi nó lên bờ để tìm hiểu. Khi lấy đèn pin soi rõ em quyết định vác nó về đây cho thầy. Vì nó là một vật cũ của chúng ta, đáng lẽ nó đã thuộc về chúng ta. Thầy và các bạn thử nhìn kỹ xem có nhận ra nó không?

Chúng tôi cực kỳ sửng sốt khi nghe những gì Hiệp nói. Cả đội vội vàng xúm lại để xem kỹ phiến đá nhỏ mà Hiệp khuân về. Tôi đã thực sự bị sốc, hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Cả đội gần như chết lặng khi nhận ra phiến đá đó chính là tấm bia đá cổ của cái xác khô trong ngôi mộ chúng tôi đào được. Ngôi mộ của tướng quân Võ Chính. Mặt trước tấm bia chính là câu chuyện về kho báu và thân thế của người nằm trong mộ. Còn mặt sau của tấm bia mà hồi đó chúng tôi đã không kịp chụp lại được. Tôi vội lật tấm bia lên. Mặt phía sau của tấm bia quả thật có khắc vẽ bản đồ vị trí nơi cất giữ kho báu. Mặc dù có những ký hiệu bằng chữ Hán nhưng tôi cũng có thể đoán được vài ba phần. Trên bản đó có vẽ hình ảnh nhỏ ký hiệu ngôi miếu. Tôi đoán đó chính là ngôi miếu cáo trên đỉnh núi. Dưới nền ngôi miếu chính là thông đạo dẫn đến nơi này.

Thống quay sang hỏi cả đội:
- Tại sao tấm bia này lại xuất hiện ở nơi đây? Tấm bia này vốn đã biết mất cùng cái xác khô của tướng Võ Chính. Chẳng lẽ cái xác đó cũng mò lên đây? Liệu cái xác khô đó bây giờ có ở trong cái hang này không?
- Em đã tìm kỹ rồi, không thấy cái xác nào cả, chỉ có tấm bia này thôi. – Hiệp cắt lời Thống.

Vậy là cái xác khô đó vẫn biến mất. Những gì chúng tôi có được giờ chỉ là những thông tin rời rạc. Lúc này cả đội chúng tôi đều đặt hết hy vọng vào Bằng. Có thể cậu ta sẽ đem về cho chúng tôi một điều gì đó có giá trị hơn chăng? Mà sao đến giờ vẫn chưa thấy Bằng về ?

Bằng đã về. Từ đằng xa tôi đã thấy cậu ta thoăn thoắt leo xuống từ những đám cây dây leo vắt vẻo trên vách hang. Bằng leo nhanh và thành thạo đến mức nếu không có bộ quần áo mặc trên người có lẽ tôi đã tưởng cậu ta là một con vượn hay khỉ đột nào đó. Bằng cũng đã nhìn thấy chúng tôi. Vừa tiến lại chỗ chúng tôi cậu ta vừa nhăn nhở cười. Tôi hơi thất vọng vì nhận thấy cậu ta trở về tay không. Bằng không đem theo về thứ gì cả. Có lẽ cậu ta không phát hiện ra thêm được điều gì mới chăng?

Sau khi nghe chúng tôi kể lại tóm tắt những gì đã thu thập được, Bằng ngồi xuống, chậm rãi kể cho chúng tôi những gì cậu ta thấy đã thấy được. Cậu ta vốn bám theo các cây dây leo để trèo thử lên miệng hang ở phía trên. Khi leo lên được phía trên miệng hang thì cậu ta nhận ra rằng nơi đây là đỉnh của một ngọn núi cao nhất trong quần thể núi non khu vực Sơn Định này. Đỉnh ngọn núi nơi có cái hang này được bao bọc xung quanh bởi một khu rừng rậm rạp. Bằng nói là theo quan sát của cậu ta, mặc dù cửa động này rất to nhưng vì nằm ở trên đỉnh núi, xung quanh lại được cây cối rừng rậm che phủ nên rất khó phát hiện. Hơn nữa muốn xuống được cái hang này không hề dễ dàng. Người ta phải leo theo đám dây hoặc phải dòng thang dây để xuống. Có lẽ vì thế mà năm xưa tướng quân Võ Tánh đã chọn cái hang động này để cất giữ kho báu.

Nhưng những điều đó cũng không phải là điều đặc biệt nhất. Bằng tiếp tục kể cho chúng tôi rằng: Khi leo xuống trở lại, tình cờ cậu ta phát hiện ngay phía trên vách hang dựng đứng có một mảng đá trên vách dường như được khắc chữ. Những hàng chữ đó bị những thân cây, là cây dây leo che phủ đi ít nhiều. Bằng tò mò nên leo qua bên đấy, lấy tay nhổ bớt đám lá, vạch đám cây leo ra để xem rõ trên vách đó viết chữ gì. Quả thật vách hang có những hàng chữ Hán nhỏ được khắc sâu vào đá. Có lẽ lúc xuống đây người ta đã dùng dây thả mình trên vách hang để trạm khắc những chữ đó vào đá. Hình như đây là một câu chuyện hay một ghi chép nào đó, bởi vì nội dung khá dài, khá nhiều chữ. Đương nhiên là cậu ta không thể nào "bê" cả đoạn chữ được trạm khắc vào đá xuống đây được. Nhưng cậu ta đã kịp thời chụp ảnh lại được đoạn văn tự đó. Rất may là lúc leo trèo cậu ta vẫn để máy điện thoại trong túi quần.

Bằng đưa cho tôi xem bức ảnh đó. Toàn bộ nội dung đoạn văn tự hiện rõ ràng trước mắt của tôi. Tôi thầm cám ơn sự phát triển của khoa học và công nghệ. Giờ đây người ta đã tích hợp được cái máy ảnh và điện thoại vào làm một. Tuy nhiên trong đội chúng tôi không ai biết chữ Hán cả. Để dịch được nội dung đoạn này có lẽ lại phải một lần nữa nhờ đến dì của tôi.

Trời cũng đã đổ về chiều. Chúng tôi phải khẩn trương rút về vì trời sẽ tối rất nhanh. Nếu không có đủ lửa và thức ăn thì ở lại trong rừng vào buổi đêm sẽ rất nguy hiểm. Cả đội chúng tôi cùng nhau một lần nữa kiểm tra một vài chỗ trong cái động rồi nhanh chóng rút về. Đội nam của chúng tôi thay phiên nhau khuân tấm bia đá cổ theo về. Chúng tôi lại men theo nhánh hang cũ để về đến ngôi cổ miếu. Chui ra khỏi hang thì trời đã bắt đầu nhá nhem tôi. Chúng tôi lấp lại miệng hang rồi lấy một ít lá cây, gạch đá phủ lên để ngụy trang. Cả đội thu dọn đồ đạc để xuống núi. Về đến trại thì trời đã tối hẳn. Đội nữ đã ăn cơm trước. Nhưng rất may là họ cũng nấu và để phần lại cho chúng tôi. Sau một ngày trời lặn lội thám hiểm hang động, cả đội đều đã rất mệt và đói. Chúng tôi đã ăn như chưa bao giờ được ăn ngon như thế. Vừa ăn tôi vừa nhớ lại cậu chuyện về món Mầm Đá của trạng Quỳnh.

Ngày hôm sau, tôi lại đi nhờ mấy người dân lên thị trấn để mua đồ. Mua xong, tranh thủ chút thời gian tôi lại chạy vào quán café quen thuộc. Đã có trong tay tấm ảnh chụp lại những hàng chữ trên vách hang động, tôi mở máy điện thoại, vào Wifi của quán café rồi nhanh chóng viết một bức thư đính kèm cái ảnh gửi cho dì. Dì tôi vừa về hưu hai năm trước. Hồi trước công việc chủ yếu của dì là giảng dạy. Giờ về nghỉ có nhiều thời gian hơn, dì hay đi cùng các đoàn khảo cổ để dịch những văn bia, chữ cổ ở nhiều di tích, đền chùa, miếu mạo trên khắp cả nước. Không biết dì có thời gian để giúp tôi dịch bản khắc trên vách đá này không ...?

Vài hôm sau tôi xuống thị trấn, quay lại quán café để kiểm tra email xem đã có thư của dì chưa. Mở email ra tôi thấy đã có thư trả lời của dì. Tôi hồi hộp đến run cả bàn tay, loay hoay mãi mới mở được bức thư của dì ra đọc. Lần này để Vì là văn tự cổ nên dì tôi không dịch theo từng từ (word by word) mà dịch theo nghĩa hiểu để diễn giải. Đọc xong bức tôi vô cùng kinh ngạc. Dưới từng câu chữ của bức thư, một giai đoạn lịch sử bi tráng như hiện ra trước mắt của tôi ... Đại khái bức thư có nội dung như sau.

Năm đó, khi tướng quân Võ Tánh cố thủ thành Quy Nhơn trong cuộc bao vây của quân Tây Sơn. Chúa Nguyễn Ánh đã đích thân cùng với hai viên đại tướng tâm phúc thống suất thủy quân tiến ra giải vây cho Quy Nhơn. Võ Tánh biết mình không thể nào giữ được thành. Võ Tánh sai người lén đem mật thư ra cho chúa Nguyễn Ánh khuyên ông kéo quân ra đánh Phú Xuân, để ông cùng Ngô Tùng Châu cố giữ thành cầm chân quân Tây Sơn.

Người đời chỉ biết được rằng phong thư Võ Tánh gửi cho chúa Nguyễn Ánh đó chỉ là kế khuyên ông tiến thẳng ra đánh Phú Xuân. Nhưng thực ra nội dung bức thư còn chứa một bí mật to lớn khác. Trong thư, Võ Tánh cũng nói rõ với chúa Nguyễn về bí mật của kho báu thành Quy Nhơn. Toàn bộ kho báu đã được chuyển ra khỏi thành, cất giấu ở một nơi bí mật. Ông cũng gửi kèm theo tấm bản đồ dẫn đến chỗ cất kho báu cho chúa Nguyễn Ánh. Sau này có cơ hội, chúa Nguyễn sẽ đến lấy lại kho báu đã được chôn dấu trong một hang động nằm trên đỉnh núi. Vì địa điểm của kho báu được đặt nằm sâu trong rừng rậm nên nơi đó được đặt mật danh là Mộc. (Sau này tôi xem lại tấm bản đồ thì quả thật nơi cái hang động chứa kho báu đó được đánh dấu bởi một chữ Mộc 木).

Chúa Nguyễn Ánh sau khi nhận được phong thư đã hết sức xúc động và cảm kích về tấm lòng trung kiên, sẵn sàng tuẫn tiết của Võ Tánh. Ông đưa lại bức mật thư và tấm bản đồ cho hai vị đại tướng tâm phúc. Hai vị tướng này vốn được coi là hai cánh tay trái, phải của Nguyễn Ánh. Chúa Nguyễn giao nhiệm vụ tìm kiếm lại kho báu cho hai vị tướng này. Nhưng ngay sau đó, trong trận đại thủy chiến Thị Nại nổi tiếng, một vị tướng là cánh tay phải của Nguyễn Ánh đã bỏ mạng. Chỉ còn lại một người còn sống và mang theo bí mật về kho báu.

Về sau tình hình chiến sự giữa Tây Sơn và nhà Nguyễn chở nên căng thẳng. Hai bên đều tìm mọi cách để tiêu diệt nhau. Cuộc chiến đã bước vào giai đoạn sống còn. Quân Tây Sơn sau khi tái chiếm được thành Quy Nhơn, thấy kho tàng trống rỗng nên biết rằng vàng bạc đã được chuyển đi từ trước. Quân Tây Sơn vội vàng tra khảo, lùng sục, tìm kiếm khắp nơi, quyết tâm truy đuổi để đoạt lại bằng được số vàng này.

Tình hình diễn biến trở nên phức tạp, quân Tây Sơn đã gần lần ra được dấu vết của kho vàng. Nhận thấy để lâu kho báu ở một chỗ tuy kín những vẫn không an toàn, vị tướng quân còn lại kia đã quyết định chuyển toàn bộ kho báu đó đến một địa điểm khác. Muốn tìm được địa điểm này thì phải lần theo vết chân của vua cũ (tiên quân). Năm xưa khi nhà vua đi chính phạt, mở mang bờ cõi xuống phía nam, ngài đã dừng chân tại đây và lưu lại bút tích của ngài. Vì địa thế nơi đó có thế núi chồng lên núi, trên núi lại có núi nên được gọi là Thổ. Kho báu đã được chuyển từ Mộc, cánh rừng rậm ở Sơn Định, sang địa điểm cất dấu mới là Thổ.

Hàng chữ được khắc trên vách hang chắc là do vị tướng kia khi đi lấy kho báu đã sai quân lính khắc lại. Tuy nhiên nội dung hàng chữ đó lại rất mập mờ, không hề nói rõ kho báu đã được chuyển đi đâu ? Địa danh có tên Thổ kia là ở nơi nào ? Vị vua đi mở cõi kia là ai? Phải chăng đó ám chỉ vị tiên chúa Nguyễn Hoàng, ông tổ của Nguyễn Ánh, vị chúa đã xin vào trấn thủ Thuận Hóa để mở mang bờ cõi đất nước xuống phía nam ?

Rốt cuộc nội dung hàng chữ cổ vẫn còn chứa đựng nhiều bí ẩn. Nhưng ít nhất có một điều mà tôi nhận ra được. Đó là mặc dù trước chúng tôi, đã có người tìm ra được hang động chứa kho báu kia. Nhưng khi họ đến, kho báu đã được vị tướng của chúa Nguyễn Ánh chuyển đi sang địa điểm khác từ lâu. Họ cũng như chúng tôi, tìm được đến đó nhưng không tìm được thứ gì có giá trị ngoài mấy mẩu vụn gỗ đã mục nát.

Phần cuối thư, dì tôi có ghi cho tôi thêm một vài chú thích rất có giá trị. Dì là người học Hán Nôm nhưng cũng rất yêu thích lịch sử dân tộc. Sau khi tra cứu, tham khảo lại các sử liệu về thời Nguyễn, rồi căn cứ vào nội dung của hàng chữ khắc trên vách đá, dì đã tìm ra được tên của hai vị đại tướng tâm phúc đã đi theo chúa Nguyễn Ánh tấn công Thị Nại năm đó. Vị đại tướng vong mạng ngay trong trận đại chiến Thị Nại năm đó là chính là người Thống suất thủy quân của nhà Nguyễn: Tá mạng công thần, Thượng trụ quốc Thiếu bảo Quận công VÕ DI NGUY. Còn vị tướng quân còn lại, người luôn được coi là cánh tay trái của chúa Nguyễn Ánh chính là Tả quân đại tướng LÊ VĂN DUYỆT.

Người sau này đảm nhận việc tìm lại và vận chuyển kho báu đi nơi khác chính là tướng quân Lê Văn Duyệt nổi tiếng trong lịch sử. Vị tường này dũng cảm gan dạ, đã bao phen vào sinh ra tử cùng với chúa Nguyễn. Ông có tài năng quân sự và chính trị xuất chúng, uy quyền hiển hách, được nhiều người kính sợ gọi là Thượng Đức Công (Đức ông lớn). Nhưng trớ trêu thay, đúng là ông trời lắm oái oăm, tướng quân Lê Văn Duyệt cũng là một người độc nhất vô nhị trong các võ tướng nước Nam. Ông là một người ái nam ái nữ bẩm sinh. Nói theo cách hiện đại bây giờ thì ông là một Gay. Lê Văn Duyệt không phải là hoạn quan như tướng Lý Thường Kiệt mà từ bé sinh ra ông đã như vậy. Vì thế ông không có con cái, chỉ có một người con nuôi là võ tướng Lê Văn Khôi.

Đọc xong bức email trả lời của dì tâm trí tôi lại chìm đắm vào những suy nghĩ miên man không dứt. Chúng tôi tưởng như đã đến đích. Mọi thứ dường như đã kết thúc, thì hóa ra chỉ mới là bắt đầu của một cuộc hành trình khác. Nhưng liệu còn cuộc hành trình nào nữa chăng? Địa danh Thổ kia, nơi có đá chồng lên đá, núi ở trên núi là nơi nào? Chúng tôi không hề có manh mối. Thời gian chiến dịch Mùa hè xanh của chúng tôi cũng đã gần kết thúc. Công trình đào ống dẫn nước đã hoàn thành suôn sẻ. Có lẽ chỉ một hai ngày nữa, sau khi đợi chính quyền, lãnh đạo nhà trường cùng một vài doanh nghiệp ở địa phương lên khánh thành, thì toàn bộ đội tình nguyện của chúng tôi sẽ rút quân. Gần đến cái ngày phải xa nơi đây, xa núi rừng Sơn Định, xa cánh rừng, con suối huyền bí tôi lại càng cảm thấy bồi hồi, khắc khoải.

Dốc cạn cốc café mang đậm hương vị của Tây Nguyên vào cổ họng, tôi đứng dậy thanh toán để chuẩn bị về với đội. Vào đúng đó, bất chợt tôi nhận thấy có một ánh mắt đang nhìn chằm chằm về phía tôi. Ánh mắt đó chiếu ra từ một khuôn mặt nhang nhác quen. Một khuôn mặt của một người đàn ông nhỏ thó, im lặng ngồi trong một góc khuất của quán café. Thấy tôi đứng dậy, ông ta cũng nhanh chóng đứng lên, vội vàng ra quầy thanh toán rồi mất hút trên con phố đông đúc của thị trấn. Ông ta còn vội vã hơn cả tôi. Tôi đã nhớ ra khuôn mặt này, tôi đã nhận ra người đàn ông này. Đã có đôi lần tôi gặp ông ta trong bản nơi chúng tôi ở. Ông ta chính là ông Khang. Hẳn ông ta vừa mới ở dưới xuôi lên, qua thị trấn này và rẽ vào quán café để nghỉ chân uống nước. Tại sao ông ta lại xuất hiện một cách rất tình cờ ở nơi đây ?

Bước ra quầy thanh toán, tôi nhìn thấy cô chủ quán đang đứng ở đó. Cô chủ quán khá trẻ trung và rất có duyên. Cô có làn da ngăm ngăm nhưng đầy sức sống. Cô không cao nhưng thân hình nẩy nở và rất cân đối. Bản thân sự cân đối vốn đã chứa đựng cái đẹp ở trong đó. Tháo chiếc nhẫn cưới, bỏ vào trong túi quần, tôi bước đến làm quen với cô gái. Cô chủ rất niềm nở đón tiếp và trò chuyện với tôi. Qua vài ba câu giới thiệu, khi biết tôi là giáo viên dẫn đội sinh viên lên đây làm tình nguyện, cô chủ tỏ thái độ rất thiện cảm với tôi. Cô ta còn hứa sẽ có một dịp chạy xuống bản thăm đội của chúng tôi. Cô nói hồi còn là sinh viên cô cũng hay đi làm các chương trình tình nguyện. Nên cuộc sống khó khăn của sinh viên khi lên trên này như thế nào cô ấy hiểu hết. Thấy câu chuyện có vẻ đã thoải mái lên nhiều, tôi hỏi cô gái:
- Em à, em có biết người đàn ông nhỏ vừa ngồi một mình tróc góc kia không?
- Ah, em không biết tên ông ấy. Nhưng thỉnh thoảng ông ta cũng vào đây uống café. Nghe người ta nói hình như ông ấy là người dưới xuôi nhưng lên đây buôn bán hoa quả và café. Ông ta rất ít nói và thường chỉ ngồi một mình trong cái góc kín đáo ấy. – Cô trả lời tôi.
- Em làm chủ ở đây mà không có ai phụ giúp em à? – Tôi hỏi cô gái một câu xã giao.
- Ồ, em không phải là chủ quán café này. Em chỉ làm quản lý thuê thôi.
- Vậy chủ quán này là ai vậy em? – Tôi hỏi.
- Ông chủ quán thỉnh thoảng mới qua đây thôi. Ông để cho em toàn quyền điều hành việc kinh doanh quán café này. À mà hình như ông chủ đang về rồi kìa anh ạ!. – Nói rồi cô gái chỉ tay ra ngoài cửa quán café.

Tôi ngoái lại nhìn ra phía cửa. Một chiếc ô tô nhãn hiệu Camry màu đen đời mới bóng loáng đỗ xịch trước cửa. Tài xế bước xuống trước để mở cửa sau. Cánh cửa bật mở, hai người đàn ông trung niên từ phía ghế sau của ô tô bước ra. Một người đàn ông vừa nhìn thấy tôi liền mở một nụ cười thân thiện, trìu mến. Ông ta bước lại phía tôi, giơ tay ra và chủ động nói:
- Chào thầy giáo! Thầy và các bạn sinh viên vẫn khỏe cả chứ, làm tình nguyện trên đó có vất vả lắm không?
Ngay lập tức tôi cũng đã nhận ra ông ta. Ông ta chính là người đến thăm chúng tôi hôm đầu tiên lên đây. Ông ta tên là Trường, chính là đại gia Trường. Còn người đàn ông đi bên cạnh ông ta tôi cũng nhận ra. Đó là luật sư riêng của ông, luật sư Hà Kiên Trung. Hôm đến thăm chúng tôi ông Trung cũng đi cùng với ông Trường.

Cám ơn sự quan tâm và hỏi thăm tình hình sức khỏe của ông Trường, tôi có nói với ông về việc công trình đưa ống dẫn nước sắp hoàn thành. Ông Trường nói rằng việc này ông cũng đã biết. Ông cũng là một trong những doanh nghiệp địa phương tài trợ về mặt tài chính cho công trình này. Ông nói bên lãnh đạo xã cũng đã báo và mới ông đến dự ngày khánh thành công trình.

Trò chuyện thêm dăm ba câu, tôi xin phép ông Trường để về cho kịp giờ ăn cơm của đội. Ông Trường nói để ông bảo lái xe lấy ô tô đưa tôi về tận đội và nhất định không chịu để cho tôi thanh toán tiền café. Tôi đành phải để cho ông ta lấy ô tô đưa tôi về nhà Rông. Về đến nơi thì mọi người vẫn đang ngồi đợi tôi trên mâm cơm. Xong bữa cơm, tôi tập trung đội nam lại rồi kể cho mọi người nghe về tất cả những gì tôi biết từ bức thư của dì. Nghe xong cả đội không ai nói một câu, vì có lẽ chẳng ai biết phải nói như thế nào. Cả đội chúng tôi hôm đó đi ngủ sớm. Hy vọng tất cả mọi chuyện cũng sẽ chìm vào trong một giấc mơ.

...............

Ngày khánh thành công trình đưa nước về bản đã đến. Chúng tôi tổ chức lễ khánh thành ở nhà văn hóa xã. Sáng hôm đó không khí trên bản nhộn nhịp như ngày hội. Người dân hết sức vui mừng vì từ nay họ đã có nước sinh hoạt về tận cổng nhà. Lãnh đạo chính quyền xã, lãnh đạo một số doanh nghiệp và lãnh đạo trường tôi cũng cắt băng khánh thành. Từng đoàn người kéo đến thăm công trình của chúng tôi. Những bó hoa tươi thắm được xếp đầy sân nhà văn hóa xã. Chúng tôi ai cũng mừng ra mặt, vui cười hớn hở, nhận những lời chúc mừng, động viên của mọi người. Chúng tôi thực sự cảm thấy tự hào khi được chung tay xây dựng quê hương đất nước, góp phần tạo nên những công trình có ích cho xã hội.

Buổi trưa hôm đó, sau lễ khánh thành toàn đội chúng tôi được chính quyền xã mời đi ăn bữa tiệc liên hoan tại một nhà hàng dưới thị trấn. Buổi tiệc hôm đó rất vui, rất nhiều người đã đến tham giự. Cả đội một và đội hai của chúng tôi đều có mặt. Anh kèo công an xã, ông Ba Nha trưởng thôn, ông Trường, luật sư Kiên và nhiều doanh nghiệp khác cũng đến tham giự buổi liên hoan. Chưa bao giờ tôi cảm thấy vui và ấm áp như thế. Nhưng chính vào lúc vui nhất thì lại là lúc tôi cảm thấy buồn nhất. Thống kéo tôi ra riêng một góc rồi nói:
- Công việc tình nguyện của đội mình đã kết thúc rồi thầy ạ! Tiệc vui rồi cũng có lúc phải tàn. Đã đến lúc phải nói lời chia tay rồi. Em vừa nhận được chỉ thị của nhà trường. Ngay sau buổi tiệc này, chúng ta sẽ về nhà Rông để thu dọn tất cả đồ đạc cá nhân. Chiều nay nhà trường sẽ đưa xe lên đón cả hai đội trở về thành phố.

Trong cuộc đời này chúng ta sẽ nhớ đến ai? nhớ đến điều gì? nhớ đến một nơi nào đó chăng? Chúng ta sẽ nhớ đến một người nào đó, một nơi nào đó, một kỷ niệm nào đó nếu nó để lại cho chúng ta nhiều cảm xúc. Cho dù cảm xúc đó là vui hay buồn đi chăng nữa. Tại sao người ta thường vẫn hay nói Mối tình đầu thường khó quên? Phải chăng mối tình đầu là mối tình đầu ấp tay gối, ân ái mặn nồng nhất? Không! Chắc chắn không phải vậy! Thậm chí mối tình đầu của tôi mới chỉ dừng lại ở cầm tay nhau, giựa đầu vào bờ vai nhau, rồi sau đó đường ai nấy đi. Nhưng đến giờ tôi vẫn nhớ về mối tình đầu tiên đó. Chẳng phải vì mối tình đó đã làm cho tim ta thổn thức biết bao đêm, làm cho ta bồi hồi nhung nhớ. Cảm xúc mới chính là điều quyết định ta có nhớ về nó hay không.

Chúng tôi sẽ còn nhớ rất nhiều về xứ Sơn Định rừng núi này. Vì ở đây chúng tôi đã có được biết bao nhiêu là cảm xúc và kỷ niệm. Chuẩn bị phải xa nơi đây, dù không ai nói ra nhưng tôi thấy cả đội của chúng tôi ai cũng có nét buồn. Khi thu dọn đồ đạc chuẩn bị chất lên xe, tôi còn thấy có những giọt lệ long lanh trên khóe mắt của các bạn nữ đội chúng tôi.

Chiều hôm đó xe đã lên đón chúng tôi trở về thành phố Tuy Hòa. Ra tiễn chúng tôi hôm đó có anh Kèo công an, ông trưởng thôn Ba Nha, rất nhiều người dân khác trong bản. Trong số những người kéo đến nhà rông để chia tay chúng tôi chiều hôm đó còn có cả ông Khang. Ông ta có đến hỏi thăm chúng tôi và nói chuyện gì đó với Thống một lúc. Lúc lên xe, ông ta cũng ra bắt tay tôi và cả đội. Người đàn ông nhỏ bé, khắc khổ này lại là người mang trong mình dòng máu của vua chúa, dòng dõi một vương triều phong kiến cuối cùng của đất nước. 

Chia tay Sơn Định, chia tay căn nhà Rông chúng tôi trở về với thành phố biển Tuy Hòa tấp nập. Xe chạy khoảng gần hai tiếng đã đưa chúng tôi về đến trường. Trường của tôi nằm trên đường Nguyễn Huệ, một trong 3 con đường dẫn thẳng ra bãi biển Tuy Hòa thơ mộng. Trường của tôi chỉ nằm cách biển hơn trăm mét. Đi bộ qua một quảng trường lớn là đã tới bãi tắm chính của thành phố Tuy Hòa.

Về đến nơi thì trời đã tối. Xuống xe, cất đồ đạc lên phòng của các bạn sinh viên trên khu ký túc xá, cả đội chúng tôi kéo nhau ra con đường bờ kè, nằm bên bờ sông Đà Rằng, ăn hải sản. Đã gần một tháng trời ăn uống kham khổ trên núi, hầu hết chỉ toàn ăn đồ khô, đã đến lúc phải tự cho phép mình được hưởng thụ một phen. Hải sản trong thành phố Tuy Hòa này vừa ngon, vừa rẻ. Rẻ hơn bất cứ nơi đâu tôi đã từng đến. Đặc biệt ở đây có món đặc sản mắt cá ngừ đại dương. Gọi là đặc sản nhưng giá của một con mắt chỉ có khoảng 80 nghìn đồng. Ăn xong một con mắt là tôi đã cảm thấy no căng.

Cơ quan có bố trí cho tôi một căn phòng nghỉ nằm trên khu ký túc xá của sinh viên. Anh bí thư đoàn thanh niên của cơ quan nói với tôi rằng cứ ở lại đây chơi và nghỉ ngơi vài ba hôm rồi hay quay ra Hà Nội. Dù sao vẫn đang trong dịp nghỉ hè, chưa phải đi làm nên cứ lại chơi và khám phá Phú Yên ít hôm đã. Tôi cũng đã có gia đình ngoài Hà Nội, nếu không có gì để làm, chỉ nghỉ ngơi ăn và chơi thì cũng buồn. Vì tôi cũng nhớ cái gia đình nhỏ, nhớ bọn trẻ con của tôi ngoài kia. Có lẽ ngày mai tôi sẽ sớm đặt vé máy bay để bay về Hà Nội.

Ăn uống xong cùng cả đội, tôi trở về phòng để tắm rửa nghỉ ngơi. Các bạn trong đội của tôi cũng về các phòng ký túc của họ. Tắm rửa xong chuẩn bị đi ngủ thì tôi thấy có tiếng gõ cửa. Mở cửa phòng tôi thấy cả đội Nam đã dứng đợi tôi bên ngoài. Họ đến để chào tạm biệt tôi. Ngày mai họ cũng sẽ trở về nhà của họ. Thống sáng mai sẽ về Đăk Lăk, nhà cậu ta đang xây nhà nên phải về phụ giúp công việc gia đình. Bằng cũng về Gia Lai để cùng nhà thu hoạch tiêu và café. Tùng về Kontum cũng để giúp nhà thu hoạch mủ cao su. Còn Hiệp thì nói rằng mọi người về hết rồi nên cậu ta cũng tranh thủ về thăm bố mẹ ít hôm. Mấy tuần nữa đến kỳ học thì lại phải quay xuống trường rồi.

Vậy là sau khi kết thúc chiến dịch Mùa hè xanh thì cũng chính là lúc chia tay, ai về nhà người đấy. Các bạn nữ của đội cũng qua tạm biệt tôi để sáng sớm mai sẽ về nhà. Có lẽ ngày mai chỉ còn một mình tôi ở lại đây. Vậy tôi sẽ ở lại đây làm gì? Ngày mai tôi cũng sẽ đặt vé để bay về Hà Nội. Và mọi chuyện sẽ kết thúc ở đây chăng ? ...

Sáng sớm ngày hôm sau, tôi thức dậy, đi bộ ra ngoài cổng cơ quan ăn sáng. Rồi tôi trở về sửa soạn quần áo cất vào trong valy. Tôi dự định đi taxi ra thẳng phòng vé để lấy vé bay về Hà Nội ngay chiều hôm đấy. Kéo đồ xuống phòng bảo vệ, tôi gửi lại chía khóa phòng cho bác bảo vệ và chào hỏi, trò chuyện với bác ta dăm ba câu xã giao. Lúc đó đã gần 10h sáng, sau khi biết tôi là thầy giáo từ Hà Nội vào đây tham gia chiến dịch tình nguyện cùng các bạn sinh viên, bác bảo vệ ngạc nhiên nói:
- Vậy thầy là thầy giáo ngoài Hà Nội vào phải không? Hình như thầy giáo có thư. Mới sáng nay đã thấy nhân viên bưu điện qua đưa cho tôi.

Rồi bác ta tìm trong đống giấy tờ để trên bàn. Bác ta rút từ trong đó ra một bức thư đưa cho tôi. Tôi hết sức ngạc nhiên về điều này. Đã lâu lắm rồi tôi không còn nhận được thư nữa. Mà nếu có nhận thư thì thường sẽ gửi về địa chỉ nhà ở của tôi hay địa chỉ cơ quan nơi tôi thường xuyên làm việc. Tại sao bức thư này lại được gửi về đây, nơi tôi chỉ đến công tác trong vài tuần ? ...

Nhưng đúng là bức thư này gửi cho tôi. Tên người nhận đúng là của tôi, chức danh là giảng viên khoa Quản trị kinh doanh cũng ghi rất chính xác. Địa chỉ người nhận là phân viện của chúng tôi nằm trên đường Nguyễn Huệ, thành phố Tuy Hòa. Trên bức thư không ghi tên người gửi. Một bức thư nặc danh chăng ? Để xem phía trong người ta có ghi tên người gửi hay không ? Chí ít ra thì biết đâu qua nét chữ tôi có thể nhận ra được người gửi.

Bóc vội cái phong bì, tôi lôi bức thư bên trong ra. Đó chỉ mà một tờ giấy A4, nội dung chỉ vẻn vẹn có vài dòng. Phía dưới thư không đề người gửi. Nét chữ trong thư cực quen. Tôi đã suýt khóc khi nhận ra được nét chữ này. Đó là nét chữ Time New Roman cực kỳ quen thuộc, khổ chữ tầm 13, cách dòng 1.5. Một bức thư được đánh máy.

Một bức thư được gửi đến đích danh cho tôi, nhưng lại ở địa chỉ của phân viện, nơi tôi chỉ công tác trong vài tuần. Cơ quan chính nơi tôi thường xuyên giảng dạy ở ngoài Hà Nội, không phải ở Tuy Hòa. Mà nếu ai đó muốn thông báo cho tôi thì sao họ không gọi điện mà phải cầu kỳ gửi hẳn thư qua đường bưu điện ? Điều đó chỉ có thể là: Người gửi bức thư này cho tôi chắc chắn phải biết rất rõ về mọi hoạt động của tôi. Người đó phải nắm chắc được giờ này tôi đang ở đây, tại phân viện trong thành phố Tuy Hòa. Vì nếu bức thư không đến được đúng tay tôi thì chẳng phải đã uổng công sức của họ sao? Người đó cũng không chọn cách gọi điện vì sợ có thể tôi nhận ra được giọng nói của họ. Tóm lại rất có thể đó là một người mà tôi cũng biết. Người đó là ai? có ý đồ gì? Phải đọc xong bức thư mới có thể biết được.

Lướt nhanh qua bức thư vẻn vẹn vài ba dòng nhưng lại làm cho tôi cực kỳ kinh hãi. Nó ảnh hưởng rất lớn đến tâm trạng của tôi lúc đấy. Bức thư có nội dung như sau:

Năm xưa, khi thân chinh cầm quân tấn công Chămpa, vua Lê Thánh Tông dừng chân tại một ngọn núi trên đèo Cả. Ông cho quân lính trèo lên khắc tên, ghi rõ cương vực Đại Việt tại ngọn núi này. Vị tiên chúa chính là ám chỉ vua Lê Thánh Tông. Vì các đời chúa Nguyễn cho đến đời Gia Long, dòng họ Nguyễn trên danh nghĩa vẫn chỉ là một Vương, thuần phục trước các vua Lê. Nên tiên quân là dùng để chỉ vua Lê. Chỉ đến cuối đời vua Gia Long, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, khôi phục sơn hà, thống nhất đất nước. Chúa Nguyễn Phúc Ánh mới đăng quan lên làm vua đặt niên hiệu là Gia Long.

Ngọn núi nơi vua Lê Thánh Tông dừng chân chính là Thạch Bi Sơn. Nơi đó địa thế hiểm trở hùng vĩ. Trên đỉnh núi lại có một tảng đá to lớn khác thường. Chính vì vậy mới gọi là Núi đá bia (Thạch Bi Sơn). Đấy chính là thế Thượng Sơn Hữu Sơn (trên núi có núi). Muốn tìm dấu vết kho báu nhà Nguyễn, phải bắt đầu từ Thạch Bi Sơn. Đó chính là chữ Thổ.

.......................

Xe taxi đã đến đón tôi trước cổng phân viện. Anh tài xế tận tình giúp tôi bê chiếc Vali lên cốp xe. Tạm biệt bác bảo vệ tôi leo lên taxi. Chiếc xe từ từ lăn bánh về hướng sân bay Đông Tác. Khi đi qua cầu Hùng Vương, tôi đã nhìn thấy xa xa dãy núi ở đèo Cả. Trên đó có ngọn núi Đá Bia. Thạch Bi Sơn ghi dấu ấn của đệ nhất minh quân Lê Thánh Tông mang trong mình một bí mật lịch sử vẫn sừng sững nằm đó. Vào thời khắc đó, sâu thẳm trong tâm tôi đã tự hỏi: Tôi sẽ vất bỏ tất cả để trở về thủ đô Hà Nội xô bồ và tấp nập? Hay tiếp tục ở lại đây để khám phá những bí mật còn chưa được biết đến? Kho báu vẫn chưa tìm ra, cái xác khô của tướng quân Võ Chính vẫn bặt vô âm tín, những bí ẩn về con Cửu vĩ hồ ly vẫn chưa có lời giải đáp ...

Vào một lúc nào đó, một thời khắc nào đó, bạn sẽ thấy quyết định ra đi hay ở lại sẽ trở nên khó khăn vô cùng. Để có thể lựa chọn được, bạn không những cần phải sáng suốt mà còn cần có cả Dũng Khí.

.............................................................................................................

P/s: Thưa các bạn độc giả yêu mến, câu chuyện bí mật xứ hoa vàng đến đây đã kết thúc phần một. Tôi xin tạm gọi phần này là LÊN RỪNG. Mọi bí mật, câu hỏi chưa có lời giải đáp tôi xin phép được để lại ở phần thứ hai của câu chuyện với tự đề XUỐNG BIỂN.

Tuy nhiên do thời gian tới tôi rất bận với công việc của nhà trường nên sẽ tạm thời dừng bút trong một thời gian. Hiện giờ ngoài việc giảng dạy tôi còn phụ trách đội truyền thông của khoa, tham gia ban truyền thông của nhà trường, phụ trách Nghiên cứu khoa học sinh viên của khoa, phụ trách các hoạt động tình nguyện của Đoàn thanh niên Học viện. Tôi còn là một ông bố với hai đưa con nhỏ. Nhà tôi không thuê người giúp việc. Tôi không dám hứa trước bao giờ sẽ có tiếp truyện cho các bạn. Nhưng tôi sẽ viết sớm nhất khi có thể. Kính mong các độc giả thông cảm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com