Chương 30
Chợ đồ cổ đã có nhiều năm, từ khi cải cách mở cửa việc mua bán đồ vật thưởng ngoạn cũng dần được đưa ra công khai. Ngày xưa chỉ đặt trong nhà, người muốn có phải chạy xa xôi ngàn dặm đến tận cửa hỏi thăm, nói chuyện dăm ba câu mới được cho xem những thứ đó. Làm ăn lớn hơn chút thì mua một căn nhà vùng ngoại thành làm cửa hàng, đại đa số đều nằm ngoài đường vành đai chính, bên cạnh dựng một biển hiệu viết mấy chữ "Tiệm Đá Quý Đồ Cổ", tiện cho người qua đường biết.
Khi ấy người mới muốn đục nước béo cò cũng khó, không có người trong nghề dẫn đường thì không bước nổi một chân qua cửa.
Sau này quản lý dần nới lỏng, có người mạnh dạn dẫn đầu mới từ từ vực dậy nơi gọi là chợ đồ cổ. Phần lớn đều phải nằm ngoài trung tâm thành phố, không nhiều đất tốt mà chỉ có mảnh đất cằn cỗi ngoài rìa cùng, trên đó xây nhà mái bằng, cùng lắm là nhà hai tầng, cao quá không tiện. Chủ quán có thông tin tự nhiên nghe tin hành động, đoạt được chỗ tốt từ sớm. Những sạp hàng quán nhỏ không có vốn, cầm mảnh vải đỏ cuộn lại rồi quăng trên đường, bày hàng đồ gốm đồ ngọc ngoài trời, cũng chỉ có một gian hàng, may thay đường trong chợ rộng rãi, bên trên còn bắc một tấm che bằng thủy tinh chống thấm nước, bấy giờ mới có thể tiếp tục làm ăn buôn bán.
Đồ ở những sạp hàng quán nhỏ thường không đáng xem, đồ cổ xưa nhất cũng chỉ có niên đại tầm thời dân quốc mà thôi, phần nhiều là hàng nhái hiện đại làm ra, chẳng có mấy hàm lượng kỹ thuật, đều "liếc qua đã thấy giả". Với những người trong nghề đến kiểm lậu, nói cho sang là đồ vật thưởng ngoạn, thấy bạn không thạo nghề sẽ lừa cuỗm một khoản tiền từ túi của bạn.
(* Kiểm lậu là một từ được dùng trong ngành buôn bán đồ cổ, chỉ một người mua được đồ cổ có giá trị rất cao bằng một cái giá cực rẻ mà người bán còn chẳng hề hay biết điều này.)
Mà những ông chủ có hàng quán đàng hoàng thì không giống vậy, có những người có đồ tốt, dù bạn thường hay đến cũng chỉ đáp lời đôi ba câu thăm dò trình độ của bạn. Đợi đến khi rõ ràng rồi mới chịu chuyển ra sau nhà lấy hàng cho bạn xem thử.
Nơi đây vàng thau lẫn lộn, phải có mắt nhìn mới kiếm được đồ thật, tuy rằng chính phủ không can thiệp vào việc mua bán đồ cổ nhưng đồ từ dưới đất đào lên vẫn phải nộp lại cho nhà nước, đồ từ trước đời Tống đều không được đem ra mua bán công khai, nhưng đạo cao một thước ma cao một trượng, các giao dịch ngầm cũng nhiều không đếm xuể.
Thông thường đào lên được một mớ đồ, người đứng đầu sẽ liên hệ trước với chủ quán, bán hết cả mớ, lấy được tiền rồi chia cho các anh em. Chủ quán nhận được hàng đương nhiên cũng không tùy tiện bày ra mà chỉ để trong tủ hàng, đợi người trong nghề đến hỏi mới lấy ra cho người ta xem.
Đám người mua bán đồ đào được đã cùng leo lên một chiếc thuyền, một người lật thuyền, tất cả đều chết chìm theo. Bởi thế trong "chợ đồ cổ" rộng lớn thường không xem được đồ tốt, đại đa số các ông chủ đến xem phải thu gom được ít tiền xu dùng riêng cho người chơi đồ cổ, phải biết đãi cát lấy vàng, còn phải dựa vào mạng lưới quan hệ.
Do đó ở đây có quy tắc cực kỳ nghiêm ngặt, nào là xem hàng không được tay truyền tay, không được hỏi nguồn gốc, thương lượng xong giá không được hủy, khi dẫn người đi xem hàng không được nói năng lung tung, đổi hàng càng là chuyện đừng hòng mơ tưởng, một khi không biết chừng mực rất khó tiếp tục làm ăn.
Mạng lưới quan hệ một khi đạt thành sẽ trở nên vô cùng kiên cố. Người đào đồ hoặc người đến xem đồ đều phải ăn nói lập luận sắc bén cả buổi mới có thể bàn bạc ổn thỏa giá cả, người bán hàng thông thường còn phải mời khách ăn cơm, thường xuyên qua lại, dựa vào "văn hóa trên bàn nhậu" đặc biệt, trong lúc "rượu vào lời ra", quan hệ trở nên thân thiết bền chặt.
Những mộ tặc như vậy đều được người trong ngành gọi là "Khôi Bát gia".
Những người đó thường hành động có bè có lũ, làm ăn riêng lẻ rất mất thời gian, tốn sức lực, đụng phải nhóm đào mộ lớn thì không có lợi. Cách thức kết nhóm của mộ tặc chẳng qua cũng chỉ có: nhập bọn, chèo kéo, xin mời, kết hợp, mà thầy Lý là được chèo kéo đi.
Chèo kéo tức là, mộ tặc chuyên nghiệp khá có danh tiếng có thế lực khởi xướng, khác với bọn tìm người trong ngành gặp đâu rủ đấy, đối tượng được chèo kéo không giới hạn trong giới trộm mộ, cũng có thể là tay mơ không hiểu chút nào, miễn sao có sức, năng nổ tháo vát là được. Những nhóm như vậy thường được gọi "nhóm chèo kéo", hoặc là "hội chèo kéo", đại ca của nhóm chính là người khởi xướng, việc làm ăn do người khởi xướng dẫn dắt, đi đến đâu đào mộ do người khởi xướng quyết định.
Ban đầu mộ tặc cần xác định nơi nào có mộ cổ, việc này thường giao cho "mắt nhìn đất" trong nhóm, kỳ thực Khôi Bát gia dày dặn kinh nghiệm đều hiểu biết ít nhiều về phong thủy, mặc dù không thể đọ được với phương pháp "nhìn khí đoán mộ" kỹ năng huyễn hoặc, nhưng vẫn dư sức xem hướng đi địa hình núi non, phong thủy tụ hội để phán đoán thời đại của mộ.
Xác định đại khái khu vực, xuống dưới thì phải xem đất, loại chuyện này thường làm vào ngày trời mưa tuyết, một là gió thổi tuyết rơi không dễ bị phát hiện, hai là gió thổi mưa xối qua rồi mặt đất nhấp nhô cao thấp sẽ hiện rõ hố hay gò, người có kinh nghiệm nhìn cái phân biệt được ngay chỗ nào là đất sống từng bị đào trộn bởi con người, chỗ nào là đất chết.
Mặc dù đường vào mộ bình thường đều được nện chặt, nhưng kết cấu không ổn định bằng phần đất thô chưa từng bị động vào, đất còn sót lại chưa lấp hết rải rác xung quanh phần mộ, chỗ đất đó có mật độ thấp, kết cấu lỏng hơn, độ dày tầng đất không lớn cũng không đồng đều, giới trộm mộ thường gọi là đất chín.
Tìm được đất chín có thể khẳng định xung quanh có mộ, không sai được, dựa vào đó có thể dễ dàng tìm thấy đường vào mộ, xác định trên bề mặt phạm vi, chiều sâu và kích cỡ của mộ phần.
Sau đó phải dùng xẻng Lạc Dương để đào, mộ tặc ngắm chuẩn phương hướng, vài xẻng cắm xuống đã lập tức làm cho bên trong mộ thông khí. Dĩ nhiên trang bị của họ cũng chỉ có xẻng Lạc Dương, thiết bị đào mộ được gọi chung là tiểu bảo, nếu phải phân chia cụ thể ra thì, khoan sắt gọi là hồn điều, rìu ngắn tay gọi là diệp phong, đục sắt gọi là quang chủy, búa sắt gọi là lưu thiên tử, những thứ này đều có công dụng riêng trong quá trình đào mộ, nếu chỉ dựa vào mỗi cái xẻng thì tất nhiên không đủ.
Đợi đào đất chôn được tương đối rồi, mộ tặc phải xem đường đồng, do phải chịu mạch nước ngầm ngâm ướt trong thời gian dài nên các dụng cụ đồng thau chôn cùng sinh ra biến chất theo từng mức độ khác nhau, vật chất hóa học do dụng cụ đồng thau tản ra ngấm dần vào xung quanh nên chất đất, màu đất đều xuất hiện thay đổi, thay đổi trên màu đất báo cho mộ tặc biết nơi này có dụng cụ đồng thau, mà sự thay đổi đó không khác nào thần tiên chỉ đường, mộ tặc thường gọi là đường đồng.
Đường đồng chẳng những chỉ rõ niên đại và tình trạng bên trong mộ cho mộ tặc, mà quan trọng hơn có thể chỉ ra phương hướng đồ vật chôn cùng, đào đất dựa vào đường đồng đa phần đều không sai lầm.
Đến khi đào xong đường hầm, đi xuống được mộ, có thể nhặt toàn bộ đồ tùy táng nằm phân tán trong mộ mang lên, sau đó cần người môi giới chuyên môn đi đặt giá với người mua, đợi toàn bộ hàng đều bán ra, người môi giới về báo cáo với đồng bọn là đã bán được. Tất nhiên đôi khi cũng xảy ra tình trạng chia tiền không đều, nghiêm trọng nhất là giấu hàng làm của riêng, được gọi là nuốt riêng, trong nghề này nuốt riêng là tội cực nặng, một khi bị phát hiện thì thường bị chôn sống, gọi là "thành địa tiên".
Tên vô lại kia chính là thành địa tiên.
Bình ngọc trắng rất giá trị, thực ra Hoàng Nhân Tuấn không biết rốt cuộc đồ trong két sắt thuộc triều đại nào, chỉ có thể cảm nhận được trọng lượng rất nặng, Đạt Ngõa nhắc đến Tây An và bình ngọc trắng gì đó, trên thân chạm trổ rắn có chân, dường như anh có chút manh mối, hoa văn rắn có chân trong lịch sử có khả năng cao nhất là con Li thời Hán, con Li không phải con Rồng mà chỉ là một loài vật trong truyền thuyết thời cổ đại, thuộc họ giao long, đại diện cho sức mạnh ghê gớm, quyền mưu và thế lực, dùng để thể hiện mệnh thiên tử, loại hoa văn này được dùng nhiều nhất vào thời Hán, thường thấy trên đồ bằng ngọc làm nhái mà anh từng phục hồi và từng sửa chữa, hình dạng khác biệt rất lớn, nếu giống rắn thì quá nửa là đồ thời Hán.
Đồ tế trong lăng mộ Triệu Vương của Nam Việt được làm nhái rất nhiều, mà đồ ngọc thời Hán là điển hình của các loại ngọc dùng trong cung đình, thời ấy nghệ nhân chế tạo ra vật dụng này đều không phải dân thường mà là thợ thủ công trong cung, đồ ngọc chạm khắc chú trọng thiết kế tinh xảo tài tình, phù hợp với chất ngọc ấm nhuận của ngọc Hòa Điền, khiến tổng thể vật dụng thành hình mềm mại uốn lượn, họa tiết không thể chạm khắc tùy tiện, loài vật may mắn được lựa chọn nhất định phải có dáng điệu tao nhã, những loài thú tám vuốt thì đều không được, bởi thế hoa văn con Li dùng để trang trí với dấu vết chạm khắc thô kệch nhạt dần, được mài bóng bằng giấy nhám, thoạt trông tương tự rắn có bốn chân, rất giống thằn lằn thời nay.
Nếu đào được ở Tây An lại còn có hoa văn con Li vậy thì giá trị phải đến mấy triệu, thậm chí có thể lên tới vài chục triệu nhân dân tệ, anh chưa từng đi bán hàng, nhất là mấy đồ nhạy cảm như thế không đến lượt anh phụ trách, thế nên rốt cuộc vì sao thầy Lý lại giao thứ đó cho anh.
Hay là đồ giả?
Vậy giao đồ giả cho anh làm gì, lấy ra làm bô đi đái sao.
Đạt Ngõa không thể nằm ngửa, ngực ông đã lõm xuống, sau lưng chèn tấm chăn bông dài tiện cho ông hít thở, tuổi tác quá cao, trí nhớ mơ hồ, cũng rất lẫn lộn, vừa rồi nói đến bình ngọc trắng còn chưa rõ đầu đuôi ra sao đã lại bắt đầu kể chuyện hồi nhỏ của Tang Cát, Hoàng Nhân Tuấn nghe mà ngu ngơ, Cách Tang lấy thuốc lá tự cuốn ra hút cùng anh, miệng Đạt Ngõa nhăn nheo đầy nếp, khi mấp máy môi trông hệt cây cổ thụ thành tinh, gốc rễ đã chết khô, Hoàng Nhân Tuấn và Cách Tang chỉ im lặng nhìn.
"Tang Cát nói xin lỗi Tiểu Hoàng."
Hút được hai hơi rốt cuộc Hoàng Nhân Tuấn lại nghe thấy một câu quan trọng liền hỏi: "Thầy xin lỗi gì cơ?"
"Tôi không có chìa khóa." Đạt Ngõa ho liên tục, nghỉ đủ rồi mới nhả chữ, nhưng mí mắt cụp xuống hoàn toàn: "Tang Cát không đưa cho tôi, Tang Cát lừa cháu, tối hôm qua nói với tôi là xin lỗi Tiểu Hoàng, tất cả là lỗi của nó."
"Nó lừa cháu đến chăm sóc tôi, cho rằng kiểu gì cháu cũng muốn mở két sắt." Bỗng có hai giọt nước mắt lăn ra từ hốc mắt khô khốc của Đạt Ngõa, chảy xuống làn da bệnh tật nhăn nheo rồi dừng ở đó, cụ già lâu lắm rồi không tắm không rửa mặt, căn phòng ngập trong mùi cứt đái và thối rữa, Hoàng Nhân Tuấn dùng mùi thuốc lá đè xuống, Đạt Ngõa chảy nước mắt không ngừng, kể chuyện ngày xưa Tang Cát và ông chăn dê trên bãi cỏ, nhắc đi nhắc lại khi ấy không nên cho Tang Cát xuống núi đi đưa dê, bị người ta lừa, còn chẳng được gặp mặt lần cuối, Đạt Ngõa nói xong lại thở dài dữ dội, tròng mắt như sắp rớt ra ngoài: "Tôi sắp chết rồi, tôi sắp chết rồi."
Người già chung quy vẫn sợ.
Trên núi rất khó mời được bác sĩ đến, theo như con gái Cách Tang phiên dịch, nói bác sĩ ở thôn trấn dưới núi từng đến hai lần, tiêm thuốc truyền dịch cho Đạt Ngõa, lần cuối cùng cắm kim vào mạch máu nhưng nước thuốc không cách nào chảy xuôi theo máu vào trong, sưng lên thành một bọng nước to, dùng kim chích thông mất vài tiếng liền, cuối cùng không thể cắm kim vào nữa. Bác sĩ bảo ông phải đến bệnh viện, nhưng nói xong thì kéo Cách Tang ra ngoài dặn chuẩn bị sẵn hậu sự.
Đã như một bộ xương khô, trên đường đến bệnh viện sẽ bị hành chết mất.
"Chú, thầy cháu do người ta hại chết, chú biết là ai không?" Hoàng Nhân Tuấn đứng lên bước đến cạnh giường, Đạt Ngõa nghe rồi hơi ngơ, há miệng không biết nói gì, Hoàng Nhân Tuấn nói tiếp: "Em trai chú bị người ta hại chết, đâm cả người cả xe xuống sông ngâm nước, khi vớt lên còn bị cá rỉa, chân tay không nguyên vẹn."
"Không được toàn thây à." Dường như lúc này Đạt Ngõa mới biết, không dám tin.
"Không." Hoàng Nhân Tuấn nói: "Em trai chú chết trong tay ai, chú biết không?"
Vốn dĩ Đạt Ngõa còn đang khóc, giờ nghe thấy việc này nước mắt đột ngột bị dọa chảy ngược vào trong, ánh mắt bỗng xám xịt, lên tiếng cách quãng: "Tôi đã sớm nói với nó rồi... sớm nói với nó đừng làm việc đó rồi... Tang Cát không nghe, tôi đã sớm nói hắn chẳng phải người tử tế... tôi đã sớm..."
Nói rồi thiếu chút nữa lăn từ mép giường xuống, Hoàng Nhân Tuấn đỡ lấy Đạt Ngõa: "Chú, người chú nói là ai?"
Sau đó Cách Tang cũng không ngồi yên được nữa, mặc dù ông không nói được mấy câu tiếng Hán nhưng vẫn nghe hiểu phần lớn, Đạt Ngõa kể lung tung lại chuyện trong những năm ấy, cho dù nghe hết sức vất vả, có lúc không phân biệt nổi rốt cuộc là chuyện của năm nào, song Cách Tang và Hoàng Nhân Tuấn đều cảm nhận được hoàn cảnh của thầy Lý lúc bấy giờ qua những mẩu chuyện chắp vá thoáng qua.
Thậm chí Đạt Ngõa không thể nói hết toàn bộ ngọn nguồn chân tướng, nhìn ra bầu trời âm u nặng trĩu ngoài cửa sổ rồi nhắm mắt lại, trước phút lâm chung nói với Cách Tang đừng đem ông đi thiêu, thiêu rất đau, ông muốn được chôn.
Hai người nhìn Đạt Ngõa trút hơi thở cuối cùng, không khí trầm lặng bao trùm ba người như cái chuông vàng úp xuống, đến phút cuối hai mắt Đạt Ngõa vẫn không nhắm hẳn vào được, nửa nhắm nửa mở không rõ trông về hướng nào, Hoàng Nhân Tuấn thấy ông chưa thật sự nuốt được nỗi ấm ức này xuống mà trái lại còn đẩy hết sang người anh.
Cách Tang hiểu rõ rồi đứng lên, kéo Hoàng Nhân Tuấn đến cửa cúi lạy, đưa ra lời từ biệt cuối cùng. Cô con gái và vợ Cách Tang chạy ra sân thu sữa khô, nhìn thấy hai người cúi lạy theo tập tục thì chậm rãi đi tới kéo Cách Tang về nhà.
Tang lễ của Đạt Ngõa không đến lượt Hoàng Nhân Tuấn lo, anh không phải người bản địa, ngay cả khâm liệm như thế nào cũng chẳng giúp được, ngồi một lát bên bức tường thấp, trong không khí là mùi đồng cỏ, anh hỏi Cách Tang có điện không, Cách Tang đang gọi trai tráng mấy nhà láng giềng đến chuẩn bị hậu sự cho Đạt Ngõa, nghe tiếng Hoàng Nhân Tuấn thì vội vàng chạy tới dẫn anh đến chỗ máy phát điện sạc pin.
Tín hiệu ở đây còn kém hơn, nhưng có điện chí ít đủ cho anh đọc được tin nhắn của La Tại Dân.
Quả nhiên vừa bật nguồn lên tin nhắn nhảy ra tràn màn hình, Chung Thần Lạc nằm trên cùng, hỏi anh rốt cuộc chuyện thế nào rồi, bao lâu có thể trở về, Hoàng Nhân Tuấn không kịp trả lời, đổi sang inbox với La Tại Dân, ngón tay lướt qua lướt lại mãi không dám bấm vào, trong inbox chỉ có hai tin nhắn, cảm giác huyệt thái dương và vùng quanh mắt đau như xung huyết, anh ngồi dưới đất nhẹ nhàng ấn bóp, vùi mặt vào khe hở giữa hai đầu gối.
"Anh buồn ngủ à?" Cô gái đang ôm một hộp sữa khô đứng ở cửa, thấy Hoàng Nhân Tuấn như ngủ gật, vốn còn định nói buồn ngủ thì vào phòng mà ngủ, nhưng khi nhìn rõ mặt ông anh này thì phút chốc sững sờ không biết nói gì.
Hoàng Nhân Tuấn bị âm thanh quấy rầy chợt ngẩng đầu, lập tức vuốt mặt một cái, xáo trộn cảm xúc vừa rồi, điện thoại đặt trên nắp phích cắm của máy phát điện, anh đứng lên đi ra ngoài sân, khi ngang qua cô gái còn đặt tay lên đầu cô khẽ vỗ: "Đừng nói với cha em nhé."
Cô gái đưa mắt nhìn theo bóng lưng anh, vai dựa vào khung cửa nhẹ nhàng cọ sát.
Cách Tang và mấy người đàn ông dùng vải trắng phủ lên thi thể Đạt Ngõa, đang bận việc, Hoàng Nhân Tuấn đi vào kéo ống tay áo ông chỉ chỉ ngoài sân, Cách Tang dặn mọi người tiếp tục rồi theo Hoàng Nhân Tuấn ra sân.
"Có chuyện, gì?" Cách Tang nói mấy chữ một cách gian nan.
"Lát nữa cháu phải xuống núi, chú có thể chỉ đường cho cháu không? Cột cờ lúc trước đều mất hết rồi." Hoàng Nhân Tuấn nhặt một hòn đá nhét vào túi áo.
"Hôm nay, đi?" Cách Tang chỉ trời: "Sắp, mưa rồi!"
"Chắc không đâu, dù sao thời tiết nơi này thay đổi nhanh, có thể vài phút nữa mây đen sẽ tan." Hoàng Nhân Tuấn gắng gượng nở nụ cười, cười lên mới cảm giác da môi mình nứt ra, nhấp thấy vị máu tanh: "Gia đình có chút chuyện."
"Vậy tôi, tôi tiễn cậu." Cách Tang nhìn trời nói.
Hết chương 30.
Mấy chương chỉ kể tình tiết truyện thế này Pha Lê viết cực mà mình dịch cũng khổ không kém, dù biết mọi người đều không thích đọc nhưng có những tình tiết bắt buộc phải viết phải dịch không thể bỏ qua được.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com