Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

1.

Bối cảnh biên giới Trung Quốc - Triều Tiên và Thượng Hải, thời gian từ 1999-2000


Dành tặng cho những ký ức đã lãng quên

Và tình yêu mãi mãi không bao giờ tắt.





1.

Một ngày đầu đông năm 1999, Lee Seungyong được giao nhiệm vụ đi qua cầu trên sông Áp Lục, đến Trung Quốc để truy tìm một kẻ bỏ trốn, một kẻ "đào tẩu Triều Tiên". Anh không biết tên người này, trên mảnh giấy được đưa chỉ có vỏn vẹn một câu được viết bằng bút mực.


Người anh cần tìm là Viper, ở Thượng Hải, Trung Quốc.


Anh vừa đặt chân lên cầu liền thấy người của phía Trung Quốc đã đứng chờ sẵn. Phải đi qua một đoạn đất hoang đã trở nên lầy lội sau cơn mưa mới tới được "đường", nơi có một chiếc Suzuki đậu sẵn để chở anh đến nhà ga Đan Đông.


Đến đón anh là một cảnh sát thuộc vùng tự trị của đồng bào Bắc Triều Tiên ở Trung Quốc. Tổ tiên anh ta đã trốn sang Trung Quốc trong thời kỳ đất nước bị quân Nhật xâm lược, tuy bám rễ ở đây trong suốt nhiều năm nhưng vốn tiếng Triều Tiên vẫn không hề bị mai một đi chút nào.


Anh ta kể lại những năm qua đã gặp vô số người Bắc Triều Tiên, tất cả đều từ sông Đồ Môn hoặc sông Áp Lục trốn sang đây, anh cũng quen biết với không ít những kẻ buôn lậu trung gian, nhưng người như Lee Seungyong được cử đến đây để công tác thì mới lần đầu nhìn thấy.


Vì cùng chung ngôn ngữ, cả thêm tính tò mò, anh ta nói không ít lời, hỏi thăm Lee Seungyong có phải là quân nhân ở bên kia không, nhưng Lee Seungyong chỉ cười, không đáp lại.


Anh kì thực có thể coi như là một quân nhân, nhưng cũng không hẳn. Anh là thành viên của Cục An Ninh. Cán bộ Kim luôn nhấn mạnh rằng Cục An Ninh là nơi chuyên thu thập những thông tin quan trọng nhất và chấp hành những nhiệm vụ tuyệt mật nhất. Tầm quan trọng của nơi này được ví như trái tim, nhưng tên tuổi của họ lại không được ghi vào danh sách quân nhân chính thức.

Lee Seungyong chủ động chuyển đề tài, hỏi anh cảnh sát Trung Quốc những năm qua có nhiều người trốn sang đây không.

Nhiều lắm, vô số kể, viên cảnh sát trả lời, mỗi năm bọn họ bắt lại được vài người, đều đã bị trả về rồi, chắc là đã giao cho các anh xử lý.


Lee Seungyong đáp: Đúng thế.

Anh cảnh sát: Ở đây chúng tôi thường gọi họ là "những người đào tẩu Triều Tiên"

Lee Seungyong: Bọn họ vốn cũng không cần đến tên tuổi.

Anh cảnh sát: Sau khi bị trả về, bọn họ sẽ bị giam giữ à? Hay là sẽ bị gửi tới các mỏ than?

Lee Seungyong: Tất cả đều sẽ chết.

Anh cảnh sát:... Lần này anh tới đây cũng là để tìm người đào tẩu Triều Tiên sao?

Lee Seungyong: Đúng vậy.

Anh cảnh sát: Vậy nếu bị bắt lại thì anh ta cũng sẽ chết à?

Lee Seungyong suy nghĩ một lúc về số phận của kẻ phản bội: Sẽ chết thảm hơn.


Cuộc trò chuyện cũng dừng lại ở đây. Mặc dù viên cảnh sát cũng nghe phong phanh một vài tin đồn từ phía Bắc, nhưng vẻ bình thản của Lee Seungyong lúc trả lời đã làm anh cảm thấy rùng mình, mất luôn hứng nói chuyện.

Lee Seungyong cũng chẳng để ý đến, hướng mắt ra bên đường, không rõ đã đi qua trang trại nào mà trước cổng còn trồng mấy bụi đỗ quyên đỏ.

Những bông hoa nở rực rỡ, giống như máu ai đó.

Trời sắp vào đông, nhiệt độ ở Đan Đông có hơi thấp, nhưng chỉ cần mặc một chiếc áo khoác dày là vừa đủ. Viên cảnh sát đưa anh đến ga tàu Đan Đông, nhìn đến lúc anh bước lên tàu rồi ngồi vào chỗ, lại như thể sợ người kia có gì phật ý sẽ đánh chết mình, lôi ra từ trong túi áo hai cục kẹo cứng vị hoa quả đưa cho anh rồi mới lập tức rời đi, xem như đã hoàn thành nhiệm vụ.

Lee Seungyong nhìn ra ngoài cửa sổ, ở Đan Đông mỗi ngày chỉ có một chuyến tàu để chở khách, còn lại đều là vận chuyển quặng vàng và quặng đồng, rầm rập đi về Thẩm Dương, thế cho nên chuyến tàu này cực kỳ đông khách.


Người nói tiếng Hàn và tiếng Trung gần như lấp kín cả khoang tàu, nhưng ghế bên cạnh Lee Seungyong vẫn còn để trống.

Ngay khi anh vừa nghĩ chuyến đi này đã định sẵn là sẽ không có người ngồi cùng, một tiếng bước chân vang lên, sau đó một người đặt hành lý xuống và ngồi vào cạnh anh.

Lee Seungyong theo bản năng lùi lại một chút, ánh mắt đầy cảnh giác nhìn sang người kia.

Đó là một cậu thanh niên, chỉ trạc tầm tuổi anh, nhưng khác biệt ở chỗ trang phục cậu ta mặc không giống ai cả. Áo khoác dài màu xám tro, dài đến ngang đùi, được cắt may vừa vặn với thân hình, có vẻ là hàng ngoại, làm nổi bật lên bờ vai rộng, eo thon, cánh tay mảnh khảnh, trông rất thanh tú.


Người đó dường như cũng cảm nhận được ánh mắt của Lee Seungyong đang đặt trên người mình, quay sang mỉm cười và chào hỏi bằng tiếng Hàn:

"Chào anh?"

Lee Seungyong gật đầu như một lời đáp lại.

Cậu thanh niên kia cất giọng ân cần, nhưng không phải kiểu trầm trầm như giọng người già, khi cười lên còn tỏa ra cảm giác ấm áp:

"Anh định đến đâu vậy?"


Lee Seungyong không nói gì, hai mắt nhắm lại tỏ ra đang nghỉ ngơi.

Đối phương cũng không tức giận, chỉ buông một câu: Chà, lạnh lùng quá nhỉ.

Giọng nói nghe rất êm tai, âm điệu dường như ẩn chứa ý cười.


Lee Seungyong trong lòng cảm thấy là lạ, trực giác đặc vụ nhiều năm nói cho anh biết đã từng gặp người này trước đây.

Vậy nên anh liền quay sang hỏi: Cậu tên gì?

Park Dohyeon, người kia cũng thản nhiên trả lời anh.

Lee Seungyong lục tìm trong trí nhớ hồi lâu, nhưng không tìm thấy bất kỳ ký ức nào về cái tên này.

Nhưng trực giác của một trinh sát lâu năm không dễ dàng buông bỏ, Lee Seungyong quyết định, sẽ để ý đến anh chàng tên Park Dohyeon này.





2.

Chuyến đi này thật sự có chút lê thê.

Từ Đan Đông đi đến Thẩm Dương, lại từ Thẩm Dương đi xuôi về phía nam đến Thượng Hải, đoàn tàu liên tục rung lắc, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng còi báo hiệu tàu sắp vào ga.

Trung Quốc thật sự rất rộng, Lee Seungyong thầm nghĩ, trong người bắt đầu cảm thấy uể oải.


Đêm đến, ở ga tàu chỉ có vài ngọn đèn le lói, nhưng ra khỏi ga thì xung quanh tối đen như mực, trong khoang tàu không còn mấy người, ánh đèn chập chà chập chờn. Lee Seungyong không thích không khí này, anh gần như rơi vào ảo giác về cảnh tượng của một phòng giam lộn xộn, tiếng la hét thảm thiết, kim tiêm, nước muối sinh lý, người kêu khóc, kẻ liều chết nắm lấy tay anh liền bị kéo lại.


Lúc này Park Dohyeon bỗng nhiên đứng dậy đi ra ngoài một lát, Lee Seungyong lập tức đề phòng thì nhìn thấy cậu trở lại với hai cốc nước trên tay, ngồi xuống phía đối diện với Lee Seungyong, đưa cho anh một cốc.


Lee Seungyong: Cảm ơn.

Park Dohyeon mỉm cười, hỏi: Anh muốn đến đâu vậy?

Lee Seungyong: Thượng Hải.

Park Dohyeon: Chuyến đi này dài lắm.

Lee Seungyong: Cậu thì tới đâu?

Park Dohyeon: Tôi cũng tới Thượng Hải.


Lee Seungyong nhíu mày.

Park Dohyeon cầm cốc nước mỉm cười nhìn anh: "Tôi đang học ở Thượng Hải, là sinh viên trao đổi, học đại học năm hai.


Lee Seungyong: Cậu là người miền Nam sao?


Anh hỏi câu này, nhưng vốn đã vẫn nhận ra một số đặc điểm khẩu ngữ đặc thù từ cách nói chuyện của đối phương, liền đổi giọng hỏi nghiêm túc:

"Người Hàn Quốc?"


Park Dohyeon trả lời: "Còn anh? Người Trung Quốc?"


Lee Seungyong ngầm thừa nhận.

Đoàn tàu rung lên một cái, ánh sáng và bóng tối chớp nhoáng, cả hai dường như có chút thất thần trong giây lát, biểu cảm mờ mịt.

Đến khoảng một giờ, Park Dohyeon không chịu nổi nữa, gục xuống bàn bất giác ngủ thiếp đi.


Lee Seungyong không thấy buồn ngủ, anh nhìn Park Dohyeon, người này hoàn toàn không thấp chút nào, thậm chí còn cao ngang ngửa anh, nhưng lúc này lại đang nằm gục trên bàn, mặt vùi vào giữa hai tay, bộ dạng có phần giống một chú cún con đang thu mình lại.


Cán bộ Kim nuôi một con cún nhỏ, đôi mắt nó sáng long lanh, lúc nào cũng thích chạy đến chỗ Lee Seungyong nhưng luôn bị cán bộ Kim giữ lại, thế là chỉ có thể nằm ngoan trên đùi của cán bộ Kim, mắt chớp chớp nhìn Lee Seungyong.


Park Dohyeon thì không trông tội nghiệp đến thế. Cậu ta dáng người thanh mảnh, ăn mặc sang trọng, không có vẻ gì là phải chịu kham khổ.

Sinh viên đại học từ phía Nam, đến Thượng Hải để trao đổi - trực giác của Lee Seungyong mách bảo sự liên kết này có gì đó khác thường.

Anh ta đứng dậy đi về hướng nhà vệ sinh, vờ như vô tình đánh mắt qua vali của Park Dohyeon, trông rất nhỏ gọn, có vẻ là nhãn hiệu của Nhật Bản, bên trong không chứa đồ vật nặng như kim loại, cũng không có mùi dầu súng hay dầu máy.

Lee Seungyong quay trở lại chỗ ngồi, nhìn cổ tay của Park Dohyeon, trắng trẻo, thon dài rất đẹp. Không hề có vết chai nào, thực sự rất đẹp.

Ngoài cửa sổ có vẻ như đang đi qua một dòng sông, những mảnh đất ven sông được phân chia ất rõ ràng và đều tăm tắp.


Lee Seungyong liên tưởng lại ngày mình mới gia nhập Cục An Ninh, cũng từng gấp quần áo của mình vuông vức như thế, các bạn cùng phòng của anh không thể gấp theo được , mỗi lần cấp trên đến kiểm tra đều phải nhờ tới anh.


Nhưng anh không nhớ ra bạn cùng phòng mình là ai.


Lee Seungyong cho đến tận khi Park Dohyeon thức dậy vào sáng hôm sau thì vẫn chưa hề ngủ, sang buổi chiều mới chợp mắt một chút.


Đến chạng vạng tối khi tàu vào ga, Park Dohyeon là người đánh thức anh dậy.

Park Dohyeon một tay cầm vali, một tay lay lay anh: Đến ga rồi.

Lee Seungyong nhìn ra bên ngoài, đã đến Thượng Hải.

Anh đứng dậy, vươn vai giãn cơ một lúc, rồi nói với Park Dohyeon: Cảm ơn cậu.


Park Dohyeon vẫy tay: Tạm biệt.

Lee Seungyong bất chợt hỏi: Cậu học ở đâu?

Park Dohyeon: Đại học Đồng Tế.


Lee Seungyong ừ một câu, rồi không nói thêm gì nữa.


Ngày trước, anh từng được gửi tới Đại học Tổng hợp Kim Il-sung để bí mật đào tạo tiếng Trung và Tiếng Nhật. Nơi đó nằm ở phía Tây cung tưởng niệm Kumsusan, tất cả mọi người trong trường đều mặc đồ đen, chỉ thi thoảng có vài cô gái đến chơi đàn Gayageum cho cán bộ nghe sẽ mặc váy màu xanh xám, gần như thẫm vào các tòa nhà giảng dạy, ngoài ra không còn màu sắc nào khác.


Park Dohyeon hỏi: Anh làm nghề gì?

Lee Seungyong: Tôi làm kinh doanh.

Park Dohyeon: Thật à? Trông anh cứ như tới đây để tìm kẻ thù.


Lee Seungyong không biết liệu "Viper" có được coi như là kẻ thù của mình không, nhưng vì "Viper" là kẻ thù của tổ quốc, cho nên hắn cũng là kẻ thù của anh.

Lee Seungyong: Cũng có thể đi tìm thử xem sao.

Park Dohyeon: Vậy thì chúc anh tìm được kẻ thù của mình.

Sau đó bọn họ tách ra, Park Dohyeon, người từ phía nam ăn vận Tây phục kéo vali đi. Lee Seungyong đứng nhìn cậu biến mất trong đám đông, rồi quay đầu, bước vào biển người ở hướng khác, nơi "Viper" đang ẩn náu.





3.

Trong tuần đầu tiên Lee Seungyong ở Thượng Hải, tình hình cũng không có mấy suôn sẻ.

Phải mất gần một tuần để anh thích nghi với cuộc sống ở Trung Quốc.

Trong thế giới của anh, Trung Quốc cũng giống như Bắc Triều Tiên, đều là những quốc gia đỏ, người dân ở đây cũng mặc quần áo màu đen, cổ thẳng đứng, cài kín khuy cao nhất. Trong thành phố cũng có các bức tranh và tượng treo khắp nơi, tô điểm mỗi ngày bằng sự trầm mặc và vội vã.


Tuy nhiên, một ngày ở thành phố này bắt đầu bằng việc ngồi ghế ven đường ăn một đĩa bánh bao chiên, sau đó là xe đạp nối tiếp nhau phóng ra từ hẻm nhỏ, trẻ con ngồi đằng sau, chúng ôm một chiếc túi nhỏ, chân tay vung vẩy. Xe bus điện chạy qua trạm xe, tài xế dùng tiếng địa phương khó nghe hô hào gì đó muốn chỉ dẫn mọi người chen lên cửa sau để bỏ xu; ven đường có một thứ nhìn giống như một cái gian nhỏ, bên trong có một một cô gái trẻ xinh đẹp bất chấp thời tiết mặc váy hở vai, chân đi giày da trắng bóng loáng, cô cầm một chiếc thẻ cắm vào hộp, sau đó cầm lên một thứ giống như là ống nghe và nói chuyện.


Lee Seungyong cảm thấy mình không hòa hợp nổi với thế giới này.

Nơi đây không giống với những gì anh tưởng tượng, thậm chí anh còn nhìn thấy một vài người ngoại quốc da trắng, tóc vàng và mắt xanh. Những "kẻ đối địch" này đang tự do đi lại trên đường phố Thượng Hải, gọi một chiếc Santana màu đen ngồi vào trong rồi hiên ngang phóng đi mất.


Lee Seungyong không hiểu lắm.


Nhưng Thượng Hải có thế nào cũng không ảnh hưởng đến nhiệm vụ của anh. Anh vẫn luôn nhớ rõ, anh đến Thượng Hải là để tìm Viper.

Phía bên Trung Quốc sắp xếp cho anh một chỗ ở, nhưng vẫn khéo léo nhắc nhở anh thi hành nhiệm vụ mà không làm kinh động đến dư luận.

Câu này cũng ngầm ám chỉ rằng, bọn họ sẽ không cung cấp bất kỳ sự giúp đỡ nào.

Lee Seungyong phải ở thành phố xa lạ này, đơn thương độc mã đi tìm bắt kẻ tên Viper đó.


Viper không phải là một đối thủ đơn giản.

Nghe nói hắn ta cũng giống Lee Seungyong, thuở nhỏ không cha không mẹ, suýt chút nữa đã trở thành "kotjebi"* chết cóng trên đường, sau đó được đưa đến trại phúc lợi nuôi dưỡng cho đến năm 10 tuổi thì gia nhập Cục an ninh.

(*): trẻ em cơ nhỡ


Thông tin về Viper cho thấy, sở trường của hắn là ngụy trang lẩn trốn, đặc biệt là ở Hàn Quốc và Trung Quốc ngoài ra hắn cũng đã thu về được không ít thông tin quan trọng.

Thế nhưng chính một người như vậy, lại bội tín, chọn trở thành một kẻ đào thoát khỏi Triều Tiên.


Cán bộ Kim không nói cho Lee Seungyong biết nguyên do, Lee Seungyong theo thói quen cũng chẳng thắc mắc, anh chỉ cần biết mục tiêu của mình là ai, Viper, mục đích của anh là gì, đưa hắn ta về nước, nếu không thể, trực tiếp thủ tiêu người.


Ngày thứ tám ở Thượng Hải, sau khi đã nắm rõ tình hình sơ bộ, Lee Seungyong ngồi lên xe bus điện, dự định đi đến nhà thờ Công giáo thăm dò. Người phía Nam rất thích lợi dụng nhà thờ để hoạt động. Nếu Viper đã phản bội thì khả năng rất cao cậu ta đã liên lạc với cộng đồng người phía Nam thông qua nhà thờ.


Lúc này là buổi sáng, trời mùa đông xanh và cao vời vợi, mây mỏng như những sợi tơ quấn vào với nhau bồng bềnh.


Khi xe điện dừng trước ở tháp Tân thế giới, có một người bước lên xe, tiếng đồng xu vang lên trong trẻo làm Lee Seungyong ngẩng đầu lên, sau đó anh nhìn thấy Park Dohyeon.

Park Dohyeon mặc một chiếc sơ mi màu xanh nhạt, bên ngoài là một chiếc jacket kiểu Tây, tay cầm một quyển sách, cặp kính đè lên sống mũi, qua mắt kính mỏng có thể thấy một tia dịu dàng.


Lee Seungyong tự hỏi có phải là mình đã điên rồi không.

Có lẽ thành phố Thượng Hải này đã làm tan chảy linh hồn anh.

Hoặc là do tình cờ gặp lại người quen tại nơi đất khách quê người làm anh cảm có cảm giác gần gũi lạ kỳ, càng nhìn Park Dohyeon anh càng cảm thấy thân thuộc.


Giống như là, cửu biệt trùng phùng giờ đây đang ở ngay trước mắt.


Park Dohyeon hiển nhiên cũng để ý đến anh, vui mừng đi về hướng này, ngồi xuống bên cạnh Lee Seungyong.


Ghế ngồi trên xe điện ở Thượng Hải rộng rãi hơn nhiều so với những ghế dài ở phòng họp của Cục An ninh, nhưng cũng không đủ thoải mái để hai thanh niên cao mét tám có thể ngồi dễ chịu. Ghế hơi chật, Lee Seungyong nghĩ, anh và Park Dohyeon đang ngồi khá sát nhau.


Nhưng cảm giác này không hề khó chịu.

Mọi người ở Cục An Ninh đều biết Lee Seungyong ghét tiếp xúc cơ thể, ghét cay ghét đắng.

Ngay cả cán bộ Kim cũng tránh tiếp xúc thân thể với anh, dù chỉ là một cái bắt tay hay là vỗ vai.

Vậy mà giờ đây, anh cùng với Park Dohyeon đang ngồi nép vào nhau, chân dán vào chân, cánh tay tì vào khuỷu tay, vai cọ vào vai.


Park Dohyeon đặt cuốn sách lên đùi, trên bìa có gài một chiếc bút máy màu đen, Lee Seungyong nhìn thấy tên của cuốn sách là KHOA HỌC NÃO BỘ.


Cậu là sinh viên ngành Y?

Không phải, chỉ là sở thích thôi.

Lee Seungyong cầm quyển sách lên, sách được viết hoàn toàn bằng tiếng Trung, bên trong còn có vài dòng ghi chú, chủ yếu là về tổn thương não và trí nhớ.

Lee Seungyong: Cậu đang nghiên cứu về cái này? Cậu có bạn bị mất trí nhớ sao?

Park Dohyeon: Ừ.

Lee Seungyong: Thật sự có trường hợp này sao?

Park Dohyeon: Có chứ, bị đánh đập, tiêm thuốc, cưỡng chế lặp lại liên tục đều có thể dẫn đến tình trạng này.


Lee Seungyong ồ một tiếng, đóng quyển sách lại, đột nhiên hỏi: Cậu có tin vào tín ngưỡng không?

Park Dohyeon hơi ngạc nhiên: Không.

Lee Seungyong có chút hoài nghi: Ở Nam... Hàn Quốc không phải có rất nhiều người tin vào tôn giáo sao?

Tôi không tin, Park Dohyeon nói, tôi chỉ tin vào bản thân mình, và...

Và gì nữa?

Park Dohyeon không trả lời

Lee Seungyong im lặng

Lee Seungyong: Một lát nữa cậu rảnh không?

Park Dohyeon: Có.





4.

Giữa chừng bọn họ xuống xe, đi đến một quán cà phê.

Khu phố này toàn là những nhà hàng Tây, biển hiệu tiếng Anh lớn nhỏ đủ hình dạng. Park Dohyeon tỏ ra rất thành thạo, còn Lee Seungyong thì cố gắng giả vờ như thản nhiên.

Hai người ngồi xuống, một người bồi bàn mặc vest đen cầm sổ đi tới.

Park Dohyeon gọi món, Lee Seungyong theo sau lặp lại y hệt, hai tách cà phê cùng hai phần bánh kem, tổng cộng hết 68 tệ, một số tiền không lớn không nhỏ.

Mùi vị cà phê có chút kỳ quái, Lee Seungyong thầm nghĩ, nhưng mùi vị giống như nước rửa chén này anh lại cảm thấy rất quen thuộc. Có khi nào trước đây đã từng vô tình uống qua không?


Tay của Park Dohyeon đưa qua, cho hai thìa đường vào tách của Lee Seungyong.

Đắng, Park Dohyeon nói, hồi đầu tôi cũng không biết cho thêm đường, đắng đến rơi nước mắt.

Vừa nói, tay cậu vừa cầm thìa khuấy cà phê. Lee Seungyong nhìn bàn tay và cổ tay gân guốc trước mặt, hỏi: Cậu đến Trung Quốc lâu chưa?

Park Dohyeon đáp: Lúc đây lúc đó, cũng nhiều năm rồi

Lee Seungyong hỏi: Một mình?

Park Dohyeon: Trước đây có người khác, nhưng sau này... không còn nữa rồi.

Lee Seungyong: Người đó trở về Hàn Quốc rồi à?


Park Dohyeon cười cười, dúi chiếc thìa vào tay Lee Seungyong. Đầu ngón tay cậu chạm vào tay của Lee Seungyong, hóa ra không mềm mại như anh tưởng tượng, có một chút hơi thô ráp. Lee Seungyong theo bản năng nắm lấy tay của Park Dohyeon.

Anh cầm chặt bàn tay của Park Dohyeon một hồi lâu, cuối cùng cũng gợi ra điều gì đó. Tay của Park Dohyeon vẫn có một chút chai sần, nhưng đã bị mài mòn đi.


Ai mà lại vì lý do gì lại cố tình đi mài vết chai trên tay mình?


Mãi một lúc sau, anh cảm thấy dường như bàn kế bên đang nhìn qua, vừa hóng hớt vừa dùng khăn tay che miệng cười khúc khích.


Lee Seungyong lúc này mới chợt nhận ra mình đã nắm tay của Park Dohyeon quá chặt và quá lâu.

"Nắm lâu như vậy? Định cầu hôn à?" Một vị khách ở bàn bên đó trêu chọc.


Lee Seungyong liền lập tức buông ra.

Park Dohyeon cũng chẳng để ý: Anh uống một ngụm thử xem?

Lee Seungyong cầm tách cà phê đã cho thêm đường lên uống một ngụm, quả thật đã ngọt hơn, nhưng là vị ngọt xen lẫn với vị đắng, khiến cho vị ngọt lại càng thêm ngọt.


Anh cố gắng bình ổn giọng điệu của mình: Vừa rồi hơi mất tập trung, tôi xin lỗi.

Park Dohyeon đáp: Có gì mà phải xin lỗi.

Sau đó hỏi thêm: Việc làm ăn của anh có tốt không?

Lee Seungyong: Cũng tạm ổn.

Park Dohyeon: Vậy tìm kẻ thù thì sao?

Lee Seungyong: Chưa tìm ra.


Park Dohyeon giọng trầm thấp, nhưng khi cười đôi mắt lại ánh lên một nét mềm mại ngây thơ: Anh đang tìm kẻ thù như thế nào vậy, là kẻ cần phải giết à?

Lee Seungyong: Ừ.

Park Dohyeon nhún vai: Được rồi, nhưng không phải nếu giết người thì sẽ gặp rắc rối sao? Thời này là xã hội pháp trị, không còn giống ngày xưa cứ có thù là phải báo.

Lee Seungyong: Tôi không biết luật pháp là gì cả.

Anh đang nói thật. Ở Cục An Ninh không tồn tại luật pháp, chỉ có mệnh lệnh. Chấp hành mọi mệnh lệnh từ Cán bộ Kim là luật duy nhất của anh.

Park Dohyeon: Ra vậy.

Lee Seungyong: Cậu học luật à?

Không phải.

Vậy là học Y?

Cũng không phải.

Thế cậu học gì?

Học cách cứu người.

Lee Seungyong nhíu mày: Vậy là học để trở thành bác sĩ còn gì?


Park Dohyeon nhìn anh nhẹ nhàng đáp lại: Không phải, tôi không xứng làm bác sĩ, vì tôi... tôi chỉ muốn cứu một người."


Lee Seungyong bỗng dưng cảm thấy xây xẩm mặt mày.

Phòng giam màu đen lại hiện lên trong tâm trí, cùng với tiếng gào thét xé toạc bầu trời.

Anh Seungyong, có người đang gọi anh, làm ơn hãy sống, xin anh, quên hết tất thảy cũng được, chỉ cần anh nhất định phải sống.

Quên em đi, xin anh phải sống, anh Seungyong.

Đầu đau quá.

Lee Seungyong rên một tiếng, tay bóp chặt trán.

Park Dohyeon hỏi: Làm sao vậy?

Đau đầu.

Park Dohyeon: Anh bị bệnh à?

Lee Seungyong lắc đầu.

Park Dohyeon yên lặng ngồi đối diện, đợi anh hồi phục.

Khoảng vài phút sau, Lee Seungyong cuối cùng cũng ngẩng đầu lên, Park Dohyeon xếp chồng hai tay, không hề né tránh.

Lee Seungyong nhìn những ngón tay thon gầy trước mắt, nhưng vẫn nhớ đến tay mình, cảm giác đó chắc chắn không sai được, lớp chai sần trên tay Park Dohyeon đã bị mài đi một cách cố tình.

Tay Lee Seungyong động đậy, anh vẫn muốn chạm vào tay Park Dohyeon lần nữa.

Mà tay của Park Dohyeon cũng không chối bỏ, cậu nhẹ nhàng đặt đầu ngón tay vào lòng bàn tay của Lee Seungyong.

Cảm giác này thật huyền diệu, thật thần kỳ.

Lee Seungyong nghĩ.

Nhưng đầu anh quả thật đã không còn đau nữa.



5.

Ngày hôm đó lúc chia tay, Lee Seungyong không hỏi Park Dohyeon phương thức liên lạc nhưng Park Dohyeon vẫn chủ động đưa cho anh.

Trên mảnh giấy có địa chỉ của Park Dohyeon cùng với số điện thoại nơi cậu ở.

Cậu dường như hoàn toàn không để ý tới sự mạo phạm của Lee Seungyong, ngược lại đối với sự mạo phạm này còn tỏ ra rất hoan nghênh.

Lee Seungyong nhận lấy mảnh giấy kia.

Ba ngày sau, vào buổi tối, Lee Seungyong quay lại nhà thờ lần nữa. Lần này anh bắt chuyến xe điện cuối cùng và xuống xe gần tại nhà thờ.

Trong bóng tối anh đứng quan sát cổng nhà thờ rất lâu, bây giờ đã khuya, nhưng bên trong nhà thờ vẫn còn sáng đèn. Lee Seungyong theo bản năng cảm thấy nơi này nhất định ẩn chứa một bí mật nào đó, có thể chính là bí mật của Viper.

Trực giác của anh trước giờ vẫn luôn chính xác, sự kiên nhẫn thì cũng có thừa. Hơn một tiếng rưỡi trôi qua, bấy giờ đã là nửa đêm, ánh sáng phía trong vẫn chưa tắt càng lúc càng củng cố cho suy đoán của anh.

Mười hai giờ đã điểm, đèn trên đường đều đã tắt, nhưng trong nhà thờ vẫn còn ánh sáng.

Lee Seungyong quyết định lợi dụng màn đêm để tiếp cận gần hơn một chút.

Nhưng mà rõ ràng, ý nghĩ lợi dụng đêm tối để hành động không chỉ có mình anh.

Ngay lúc Lee Seungyong vừa đứng dậy, anh nghe thấy tiếng động phát ra từ trong bóng tối. Hơn mười năm sinh sống và huấn luyện ở Cục An Ninh đã giúp anh nhanh chóng tránh ra, một viên đạn bắn tới chỗ anh vừa đứng, đồng thời cũng có một phát đạn thứ hai bay ra từ hướng khác, trúng vào bả vai anh.

Lee Seungyong cắn chặt răng, cố nhịn tiếng rên rỉ đau đớn đang muốn chui ra khỏi cổ họng.

Là Viper ư?


Nhưng Lee Seungyong ngay lập tức phủ nhận suy đoán này, nếu là Viper, viên đạn này đáng lẽ đang găm vào tim anh.

Anh quay người rút súng ra, nhưng có một người đã đứng chắn trước mặt.

Áo khoác rất tinh xảo, vai thẳng, eo thon.

Là Park Dohyeon.


Park Dohyeon: Đây là Thượng Hải.

Đối diện với sát thủ đang ẩn mình trong bóng tối, giọng cậu toát ra vẻ lạnh lùng hiếm có.

Park Dohyeon: Anh thật sự muốn giết người trên đất Trung Quốc sao?

Park Dohyeon: Anh chắc chắn, ở trước mặt tôi, muốn động thủ với anh ta?

Câu đầu tiên giọng điệu vẫn bình thản, nhưng đến câu thứ hai đã mang theo sát khí buốt lạnh.

Như thể một con thú lạnh lẽo nào đó đang nấp trong bóng tối, thè lưỡi ra, chực chờ để lộ những chiếc răng nanh.

Thanh âm phát ra trong bóng tối im bặt, dường như đã suy xét xong có lợi hay không, liền lập tức mất hút trên đường phố.


Lee Seungyong quay đầu lại, trong cơn đau đớn, muốn nhìn rõ mặt Park Dohyeon trước mặt mình. Dưới ánh trăng mờ ảo, khuôn mặt của Park Dohyeon có phần nhợt nhạt, nhưng trong mắt của Lee Seungyong, mặt cậu vẫn mang chút dáng vẻ trẻ con.

Cảm giác thật lạ lùng.

Lee Seungyong nghĩ.

Lee Seungyong: Cậu...


Park Dohyeon ôm lấy anh, ôm rất chặt, nhưng vẫn cẩn thận không để đụng tới vết thương.

Park Dohyeon: Không sao rồi, đi với tôi.

Giọng cậu không còn lạnh lùng, mà mang theo nghẹn ngào, như người tình xa cách thật lâu rồi mới gặp lại.


Cách nhà thờ không xa là nơi ở của Park Dohyeon.

Chẳng trách ngày hôm đó, Lee Seungyong lại gặp cậu trên chuyến xe bus đến nhà thờ.

Đó là một căn hộ rất đơn giản, vị trí tương đối vắng vẻ, nhưng được bài trí rất nhã nhặn và ngăn nắp. Park Dohyeon dìu anh vào nhà, khóa trái cánh cửa sau lưng lại.

Lee Seungyong nhìn cậu, vẫn không hề buông lỏng thần kinh đang căng cứng.

Park Dohyeon lục lọi tìm hộp y tế.


Lee Seungyong vẫn còn khẩu súng của mình trên người. Chỉ cần anh muốn, anh hoàn toàn có thể hạ gục Park Dohyeon đang đưa lưng về phía anh, hoàn toàn không một chút phòng bị.

Có rất nhiều điểm đáng nghi xoay quanh Park Dohyeon. Tại sao cậu ta lại xuất hiện ở đó? Sao cậu ta có thể phản ứng nhanh đến thế? Những gì cậu ta nói và làm cho thấy cậu ta chắc chắn không phải là người ngoài cuộc.


Cậu ta có thể là ai? Gián điệp Hàn Quốc? Đồng nghiệp của anh đang tiềm phục tại Trung Quốc? Hay là... Viper?

Lee Seungyong: Cậu...

Park Dohyeon quay lại với hộp thuốc, ngồi xuống bên cạnh anh.

Park Dohyeon: Có gì muốn hỏi thì để sau đi.

Cậu mở hộp thuốc ra, thành thạo lấy một liều morphine.

Park Dohyeon: Chỉ có morphine thôi, có lẽ sẽ hơi đau một chút, anh cố gắng chịu nha.

Lee Seungyong nhìn kim tiêm trong tay cậu, nhưng không hề có ý định cự tuyệt.


Một người không rõ danh tính, không rõ lai lịch, thuốc giảm đau không biết xuất xứ, anh đã cẩn trọng và điềm tĩnh trong suốt mười năm qua, nhưng tại thời điểm này lại không muốn nói lời từ chối.

Anh không hiểu tại sao nữa.

Park Dohyeon xé bao bì, mở nắp kim tiêm, dùng cồn sát khuẩn da rồi chậm rãi tiêm morphine vào cơ thể anh.


Kim đi qua da, không vào máu, kĩ thuật rất tốt, phải mất vài năm luyện tập mới đạt được đến trình độ này.

Lee Seungyong ngẩng đầu lên, bầu không khí chỉ còn tiếng hít thở của họ.

Park Dohyeon: Còn thấy đau không?

Lee Seungyong: Có một chút.

Park Dohyeon: Nếu thấy đau thì cắn vào thứ gì đó đi.

Lee Seungyong: Đưa cho tôi cái áo cũng được.

Park Dohyeon nhấn đầu anh vào vai mình.

Park Dohyeon: Cắn tôi cũng được, tôi không đau.


Tiếp đó cậu mang bao tay y tế vào, dùng tay móc viên đạn ra cho Lee Seungyong.


Đau, cực kỳ đau

Thực sự rất rất đau, như cắt da cắt thịt.

Nhưng Lee Seungyong chịu được.

Anh cảm thấy trong ký ức của mình, đã vô vàn lần trải qua những nỗi đau lớn hơn, đến nỗi cảm giác này chẳng là gì.





6.

Rạng sáng ngày hôm ấy, Lee Seungyong lên cơn sốt cao.

Trận sốt trở trên trầm trọng, anh thậm chí đã bắt đầu mê man. Tác dụng của morphine đã tan biến, cơn đau bóp nghẹt thần kinh anh, sắp sửa đập nát tinh thần anh.

Trong cơn mơ màng, anh cảm thấy có ai đó đang nắm tay mình, dùng cồn hoặc nước lạnh, lau trán và mu bàn tay anh, lặp đi lặp lại để hạ nhiệt.

Lee Seungyong nắm chặt tay của người đó.

Lee Seungyong: Bây giờ là mấy giờ rồi?

Một giọng nói trầm ấm đáp lại anh: 7 giờ rồi.

Lee Seungyong: Đã qua bao nhiêu ngày rồi?

Park Dohyeon: Đều đã qua hết rồi.

Lee Seungyong: Tôi cứ ngỡ mình không thể chịu đựng được nữa, nhưng mà...

Nhưng sao?

Lee Seungyong: Người tôi yêu, tôi không thể quên cậu ấy.

Cứ như thế mơ mơ màng màng, lúc nóng lúc lạnh, không biết đã qua bao lâu.

Lee Seungyong lại hỏi: Bây giờ là mấy giờ rồi?

Vẫn là giọng nói đó đáp lại anh: 12 giờ trưa rồi.

Lee Seungyong: Đã bao nhiêu ngày rồi.

Giọng nói đó đáp: Đã qua rồi.

Lee Seungyong: Hình như tôi quên mất rồi.

Lee Seungyong: Người tôi yêu, tên của cậu ấy, tôi quên mất rồi.


Trong cơn đau đớn rã rời, tựa hồ như có ai đỡ anh dậy, cho anh uống thứ gì đó.

Chất lỏng chảy vào miệng anh, âm ấm, ngọt dịu, hương vị giống như mật ong hòa lẫn với sữa gạo.

Mùi vị này rất quen, giống như khi còn nhỏ, bọn họ ở trại phúc lợi được cho uống nước cháo.


Ngày đó, tất cả lương thực đều được tập trung để cung ứng cho quân đội. Trại phúc lợi mỗi ngày chỉ được phát một nắm gạo và mười mấy đứa trẻ con đều sống dựa vào chút gạo ít ỏi đó đó. Tất cả những gì chúng có thể làm là nhặt củi, nhóm lửa, bắc gạo lên nấu đi nấu lại, cho đến khi hạt gạo hoàn toàn tan biến, chỉ còn là nước cháo.


Mỗi người được phát ba bát nước cháo, cho vào thêm một chút mật ong tìm được sau núi, đó là 3 bữa ăn một ngày của chúng.


Có vài đứa muốn uống thêm nước cháo sẽ hợp sức đánh nhau với đứa khác. Lee Seungyong khi ấy tuổi còn nhỏ, có lần bị đánh rất đau, nằm ôm bụng cuộn tròn trên mặt đất một lúc lâu.


Cho đến khi có người vội vàng chạy đến đỡ anh dậy, hai đứa trẻ ngồi ở đống đổ nát trong phòng dạy học, rúc vào nhau, đứa nhỏ kia vươn tay, đem chén nước cháo của mình từng muỗng đút cho Lee Seungyong.

Đó là những lần hiếm hoi họ cảm nhận được ấm áp và tình thương ở trại phúc lợi.

Giữa cơn đau quằn quại cùng sốt cao mê mỏi, Lee Seungyong mở to mắt.

Park Dohyeon bưng tới một bát nước cháo, đi đến ngồi cạnh bên anh, vẻ mặt lo lắng nhìn anh.


Lee Seungyong dựa vào cậu, giống như nhiều năm về trước bọn họ bám vào nhau, Park Dohyeon đưa tay ra, từng thìa từng thìa nước cháo ngọt đút cho Lee Seungyong.

Lee Seungyong thì thào: Park Dohyeon

Park Dohyeon: Tôi đây.

Lee Seungyong: Là cậu sao?

Park Dohyeon: Gì cơ?

Lee Seungyong: Cái tên mà tôi quên mất.

Park Dohyeon: ...


Cậu không trả lời, nhưng cúi lại gần hơn, nhẹ nhàng đặt lên vầng trán nóng hổi của Lee Seungyong một nụ hôn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com