Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

2kc-tg

Tràng Giang (2 khổ cuối)

Trong cuộc đời mỗi con người có biết bao dòng sông đã đi qua, có gợi vui cũng có gợi buồn. Những con sông cuộc đời chảy vào trong văn học với biết bao tâm tư của con người đã tạo nên những áng thơ hay. Tràng giang của Huy Cận là một bài thơ như thế. Đặc biệt với hai khổ thơ cuối bài, chúng ta có thể cảm nhận được nỗi buồn cô đơn trước thiên nhiên bao la, vũ trụ rộng lớn cùng nỗi sầu nhân thế, niềm khao khát hoà nhập với cuộc đời và tình cảm quê hương đất nước của nhà thơ.

Tràng giang là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước cách mạng tháng tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng" – một tập thơ nổi tiếng và mang đậm dấu ấn Huy Cận. Vào mùa thu 1939, khi đang ngắm cảnh sông Hồng bát ngát,nhìn cảnh mênh mông sóng nước thì nhà thơ lòng vời vợi buồn, nhớ quê hương Hà Tĩnh rồi lại cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Cảm xúc được khơi gợi và "Tràng giang" chính là ghi chép cho dòng xúc cảm ấy.

Ngay từ ban đầu, Tràng giang đã tạo nên nhiều cảm giác đặc biệt. Trước hết là nhan đề của bài. Bài thơ được viết bằng chữ quốc ngữ, thế nhưng nhan đề lại là từ Hán Việt gợi không khí cổ xưa. Âm "ang" được láy lại tạo nên dư âm vang xa, trầm lắng, gợi nên một con sông không chỉ dài mà còn rộn lớn mênh mông vô tận. Không những vậy, câu thơ đề từ một lần nữa thâu tóm cảm xúc chính của bài thơ. Trời rộng và sông dài mở ra không gian ba chiều gợi nõi bâng khuâng của con người trước sự mênh mông bát ngát của vũ trụ, hàm chứa trong đó là sự cảm nhận về cái tôi bé nhhor trước vũ trụ bao la. Và hai khổ thơ cuối đã thể hiện rất rõ nét cho tâm trạng đó.

Âm hưởng trầm trầm, chất ngất những u buồn của những câu thơ đầu tiên lan rộng đến hai khổ thơ cuối. Nếu như ở khổ thứ hai chỉ mới là không gian vắng vẻ, mênh mông, thì ở khổ thứ ba khung cảnh dường như không có cả đến những dấu vết của sự sống con người:

"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng"

Con mắt của thi nhân dò tìm trên sông nước một chút hơi ấm của sự sống con người.

Nhưng tất cả chỉ là một số không: không một chút đò ngang, không một cây cầu. Trước mắt chỉ có hình ảnh vô định của bèo dạt trôi, là khung cảnh u tịch của bờ xanh và bãi vàng. Hình ảnh "bèo dạt" vốn là chi tiết thật trên sông những lại mang ý hỏi "dạt về đâu". Không phải chỉ là cánh bèo mà là "hàng nối hàng" làm câu thơ mang ý nghĩa biểu trưng cho những kiếp người bé nhỏ, không chỉ tác giả mà cả người dân Việt Nam khi ấy đều vô phương vô định, lạc lõng giữa kiếp đời như thế. Đây cũng là tâm trạng chung của cả dân tộc ta lúc bấy giờ. Điệp từ "không" lại tiếp tục tô đậm cái mênh mông, lặng lẽ, cô đơn của cảnh vật và con người. Sông thì dài rộng như thế, vậy mà không lấy một cây cầu hay chuyến đò. "Cầu" và "chuyến đò"là hình ảnh đại diện cho con người, không cầu cũng không đò, con người vắng bóng. Xung quang một không gian to lớn lại không có chút dấu hiệu của sự sống, chỉ có nhà thơ một mình cô quạnh tại chỗ, mỗi cá nhân như nhà thơ đều cô độc bé nhỏ giữa kiếp đời mênh mông trôi dạt. Nơi nào vắng bóng con người thì nơi đó thật hoang tàn, âm u, lạnh lẽo. Thiên nhiên vậy nên cũng "lặng lẽ" theo. Vì thế, ở bài thơ này không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước cảnh trời rộng sông dài, mà còn là nỗi buồn về cuộc đời. Qua đó cũng thấy được niềm khát khao được giao hoà giao cảm với cuộc đời của nhà thơ.

Hình ảnh khổ thơ cuối cùng cho ta mọt vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên tạo vật nhưng trong vẻ đẹp ấy vẫn chất chứa bao nhiêu nỗi buồn.

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dờn dợn vời non nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Ở đây thiên nhiên tuy buồn nhưng cũng thật tráng lệ. Mùa thu, nhưng đám mây trắng lớp này đến lớp khác đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu vào làm những đám mây đó lấp lánh như những ngọn núi bạc. Hình ảnh "mây cao đùn núi bạc" đã tạo nên được ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước cảnh sông nước, mây trời bao la hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim bé nhỏ. Dấu hai chấm dược đặt ở giữa câu nhằm biểu hiện cho mối quan hệ giữa cánh chim - bóng chiều và giải thích tại sao chim bị nghiêng cánh nhỏ. Ở đây câu thơ có thể được hiểu theo hai nghĩa. Bóng một con chim chao lượn trong trời chiều, nó nghiêng đôi cánh nhỏ kéo bóng biều phía sau đôi cánh nó như ngả xuống theo. Hay cũng có thể là bầu trời chiều dường như đè nặng, úp lên đôi vai chú chim bé nhỏ này, làm nó bị nặng nên chao nghiêng đôi cánh. Nghệ thuật đối lập cho thấy cánh chim thì nhỏ nhoi mà trời chiều thì cứ cao rộng, nỗi buồn cũng theo đó mà rộng ra, càng thêm thấm thía. Phải chăng điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên bao la hơn, hùng vĩhơn, tráng lệ hơn và đặc biệt là buồn hơn?

Trong khung cảnh ấy, bóng chim nhỏ bé cô đơn làm nỗi nhớ quê hương dâng lên trong lòng tác giả: "Lòng quê dờn dợn vời non nước,". Từ láy "dờn dợn" diễn tả nỗi nhớ, nỗi sợ hãi nhẹ lâu lâu hiện lên, rồi cứ tăng lên mãi, mạnh lên mãi, nhanh nhiều mãi lên theo những trận sóng lòng.

Cảm xúc được nhân hoá cho thấy nỗi nhớ quê luôn trằn trọc trong tâm tác giả, chưa khi nào nguôi. Nếu tác giả Xuân Diệu nhìn sông nhớ quê:

"Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !"

thì nỗi nhơ của Huy Cận lại mãnh liệt hơn. Nhà thơ không cần gì hết, không cần khói trên sông cũng không kìm được lòng mà hướng về quê nhà :"Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà." thế mới hiểu được rằng, nỗi buồn nhớ quê của tác giả luôn thường trực trong lòng, nó tự trào dâng mà không cần duyên cớ.

Bài thơ nói chung và hai khổ cuối nói riêng có ý vị cổ điển kết hợp cùng hiện đại, tạo được những vang hưởng kì lạ. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình cùng từ láy giàu giá trị biểu cảm. Sự xuất hiện của cái tầm thường vô nghĩa và cảm xúc buồn mang dấu ấn cái tôi cá nhân đưa giá trị của tác phẩm lên một tầm cao hơn.

Qua hai khổ thơ cuối bài, ta càng khẳng định hơn "Tràng giang" không chỉ là thơ hay của Huy Cận mà còn là một trong những tác phẩm tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Phong cảnh quê hương đất nước thể hiện qua tình yêu quê hương đất nước, nhưng đúng hơn có lẽ là nỗi buồn cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Với tâm tư cùng với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", bài thơ sẽ đi mãi vào lòng mỗi người đọc tình cảm tha thiết với quê hương cùng một tấm lòng yêu đất nước sâu lắng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com