3.Tác động qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế
I.Tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1. Tăng trưởng kinh tế
Thuật ngữ về tăng trưởng kinh tế có nhiều cách định nghĩa khác nhau:
Theo cách định nghĩa của Ngân hàng thế giới (WB) trong "Báo cáo về phát triển thế giới năm 1991" cho rằng: "Tăng trưởng kinh tế chỉ là sự gia tăng về lượng của những đại lượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế, trước hết là tổng sản phẩm xã hội, có tính đến mối liên quan với dân số".
Trong tác phẩm "Kinh tế học của các nước đang phát triển", thì nhà kinh tế học E. Wayne Nafziger cho rằng: Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về sản lượng hoặc sự tăng lên về thu nhập bình quân đầu người của một nứơc.
Có một số quan điểm cho rằng: Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định...
Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song có thể định nghĩa một cách khái quát như sau:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về tổng sản phẩm xã hội và tăng thu nhập bình quân đầu người.
Hiện nay các quốc gia luôn quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế liên tục trong một thời kỳ tương đối dài- tức là tăng trưởng bền vững.
Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và ổn định trong thời gian tương đối dài (thường là một thế hệ từ 20-30 năm).
Tăng trưởng kinh tế được xác định bằng cách so sánh quy mô sản lượng giữa các thời kỳ. Có hai cách so sánh tuyệt đối và tương đối.
- Mức tăng tuyệt đối: y = Yn - Y0
Trong đó: Yn là sản lượng của năm n, còn Y0 là sản lượng của năm so sánh (năm gốc).
Như vậy, mức tăng trưởng tuyệt đối phản ánh mức độ tăng quy mô sản lượng.
- Mức tăng trưởng tương đối hay là tốc độ tăng trưởng (gy)
gy = Yn/Yo hay (Yn - Yo)/Yo
Trong kinh tế vĩ mô, Y chính là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP).
Có thể nói, tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Càng ngày thì tăng trưởng kinh tế càng được gắn với yêu cầu tính bền vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Tức là tăng trưởng không những phải nhanh mà phải đảm bảo liên tục, có hiệu quả của các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý, khoảng 14 năm (70:5). Dự báo mức tăng thu nhập bình quân trên đầu người có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu xu hướng chuyển biến thu nhập.
2. Phát triển kinh tế
Hiện nay, mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời gian, khái niệm về phát triển cũng đã đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và chất ; nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội của mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, nội dung của phát triển kinh tế :
Một là, sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập bình quân trên một đầu người. Đây là tiêu thức thể hiện quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và những mục tiêu khác của phát triển.
Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây là tiêu thức phản ánh sự biến đổi về chất kinh tế của một quốc gia. Để phân biệt các giai đoạn phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau, người ta thường dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc gia đạt đựơc.
Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân trí giáo dục của qủang đại quần chúng nhân dân v.v....Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất xã hội của qúa trình phát triển.
II.Khái niệm về đầu tư.
Trên phương diện hoạch định tài chính cá nhân, đầu tư là sự hy sinh của một cá nhân trong việc tiêu dùng hiện tại để tích lũy tài sản phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong tương lai. Trong con mắt của các nhà tư vấn tài chính, đầu tư được hiểu là việc một cá nhân mua tài sản với mong ước rằng tài sản đã mua được sẽ giữ vững giá trị, sau đó tăng giá và tạo ra nguồn thu nhập tương ứng với mức độ rủi ro nào đó. Nói một cách ngắn gọn hơn, mục tiêu tài chính của cá nhân là tích lũy đồng tiền. Sau khi kiếm được tiền, người ta cần cân nhắc đầu tư đồng tiền đó như thế nào để cho nó nhiều hơn trước.
Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được kết quả lớn hơn so với những hi sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực phải đầu tư có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
III. MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Một vòng xoáy của muôn đời là Đầu tư- tăng trưởng- tiết kiệm- đầu tư-tăng trưởng. Vốn đầu tư tăng thì về mặt lý thuyết sẽ dẫn đến gia tăng mức tăng trưởng kinh tế, và tăng trưởng kinh tế cao sẽ làm cho khả năng tích lũy tăng và kéo theo nguồn vốn để đầu tư sẽ tăng. Đây là mối quan hệ có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với các quá trình phát triển. Đầu tư và tăng trưởng kinh tế có quan hệ tương tác chặt chẽ với nhau
Đồ thị: Quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng
Nhìn vào đồ thị trên cho thấy đầu tư và tăng trưởng kinh tế tăng cùng chiều, quy mô và mức độ biến động của đầu tư và tăng trưởng kinh tế tương đối song hành, nhưng đến một lúc nào đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ chậm hơn tốc độ tăng đầu tư.
Về mặt lý luận, hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết về tăng trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận đầu tư và việc tích lũy vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế.
1. Đầu tư tác động tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế; mà còn là điều kiện để nâng cao trình độ KH-CN, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hóa quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động khi mở ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất. Cuối cùng, cơ cấu sử dụng vốn đầu tư là điều kiện quan trọng tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.1.1 Đầu tư tác động đến tổng cầu của nền kinh tế.
Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó, những thay đổi lớn trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu, và do đó tác động tới sản lượng và công ăn, việc làm.
Khi đầu tư tăng lên, có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm thiết bị máy móc, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho đường tổng cầu chuyển dịch.
Hình mô tả khi đường tổng cấu chuyển dịch từ AD0AD1 làm cho mức sản lượng tăng từ Y0Y1 và mức giá cũng biện động từ P0P1
1.1.1.1 Kích cầu trong tăng trưởng kinh tế:
Các học thuyết kinh tế trước trường phái Keynes thường chủ yếu quan tâm đến yếu tố cung và đồng nhất sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên vào những năm 30 của thế kỷ 20 khủng hoảng kinh tế thất nghiệp diễn ra thường xuyên và lý thuyết của trường phái Keynes đã ra đời đánh dấu sự phát triển mới về kinh tế. Lý thuyết này nhấn mạnh đến yếu tố cầu và coi tổng cầu là nguyên nhân của sự tăng trưởng cũng như suy thoái kinh tế.
Cầu tiêu dùng giảm dẫn đến hàng hóa ế thừa, kinh tế trì trệ: Theo ông khi mức thu nhập tăng lên thì xu hướng tiêu dùng giảm đi còn xu hướng tiết kiệm trung bình tăng lên, do đó xu hướng tiết kiệm cận biên sẽ tăng lên. Việc giảm xu hướng tiêu dùng sẽ dẫn đến tiêu dùng giảm xuống. Cầu giảm dẫn đến hàng hóa ế thừa không bán được. Các nhà sản xuất bi quan về nền kinh tế sẽ thu hẹp quy mô sản xuất hoặc nếu không sẽ bị phá sản. Chính những điều này dẫn đến hiện tượng thất nghiệp xảy ra, tệ nạn xã hội bùng phát. Theo Keynes, sự sụt giảm đầu tư chính là nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế xã hội ở các nước tư bản vào những năm 30.
Cũng theo Keynes tổng cầu tăng sẽ kích thích tổng cung tăng và tạo ra nền kinh tế đạt tới một sự cân bằng mới ở mức sản lượng cao hơn mức sản lượng cũ từ đó kinh tế sẽ tăng trưởng.
1.1.1.2 Lý thuyết số nhân đầu tư theo quan điểm của Keynes.
Theo ông mỗi sự gia tăng của vốn đầu tư đều kéo theo sự gia tăng về nhân công và tư liệu sản xuất từ đó làm gia tăng việc làm và nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế.
Từ việc gia tăng việc làm và tiêu dùng nền kinh tế -> gia tăng thu nhập -> gia tăng đầu tư mới -> gia tăng thu nhập mới.
Qúa trình này được thực hiện thông qua một đại lượng là số nhân đầu tư.
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho thấy sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng 1 đơn vị .
Công thức tính:
k = ∆Y/ ∆I (1)
Trong đó: ∆Y: Mức gia tăng sản lượng
∆I : Mức gia tăng đầu tư
k : Số nhân đầu tư
Từ công thức (1) ta được
∆Y = k * ∆I (2)
Như vậy, việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuyếch đại sản lượng tăng lên số nhân lần. Trong công thức trên, k là số dương lớn hơn 1. Vì, khi I = S, có thể biến đổi công thức (2) thành:
k = = = = = = (3)
Trong đó:
MPC = Khuynh hướng tiêu dùng biên
MPS = Khuynh hướng tiết kiệm biên
Vì MPS 1
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khuyếch đại của sản lượng càng lớn. Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng tăng.
Thực tế, gia tăng đầu tư, dẫn đến cầu về các tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu...) và quy mô lao động tăng. Sự kết hợp hai yếu tố này làm cho sản xuất phát triển, kết quả là gia tăng sản lượng nền kinh tế.
1.1.2 Đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế.
Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị, phương tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đổi này tác động đến tổng cung
Hình 3 mô tả khi vốn sản xuất tăng sẽ làm cho đường tổng cung dịch chuyển từ AS0 AS1 làm cho mức sản lượng tăng từ Y0Y1 và mức giá giảm từ P0 P1.
1.1.2.1 Theo quan điểm tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển.
Theo Ricardo (1772-1823) nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất, từ đó ông cho rằng các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Trong từng ngành và phù hợp với một trình độ kỹ thuật nhất định các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ nhất định, không thay đổi. Trong ba yếu tố này đất đai là yếu tố quan trọng nhất.
Sự giới hạn tăng tổng cung của nền kinh tế: do đất đai là yếu tố quan trọng nhất nhưng chính đất đai mới là giới hạn của tăng trưởng. Khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên những đất đai màu mỡ hơn, giá lương thực thực phẩm sẽ tăng lên. Do đó tiền lương danh nghĩa của công nhân cũng tăng lên tương ứng, lợi nhuận của nhà tư bản có xu hướng giảm. Nếu cứ tiếp tục như vậy cho đến khi lợi nhuận hạ thấp, không thể bù đắp được rủi ro trong kinh doanh làm cho nền kinh tế trở nên bế tắc.
Đầu tư làm giảm sự giới hạn đó: Ricardo cho rằng muốn hạn chế giới hạn đó thì chỉ có cách xuất khẩu hàng công nghiệp để mua lương thực rẻ hơn từ nước ngoài, hoặc phát triển công nghiệp để rồi tác động vào nông nghiệp. Muốn vậy, chúng ta phải đầu tư sang lĩnh vực công nghiệp để thúc đẩy tăng trưởng ngành công nghiệp. Điều này thể hiện vai trò của đầu tư trong việc tăng trưởng ngành nông nghiệp dẫn đến làm giảm sự giới hạn tăng trưởng chung.
1.1.2.2 Theo quan điểm tăng trưởng kinh tế của Marx (1818-1883):
Các yếu tố của quá trình tái sản xuất: Theo ông có bốn yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là: đất đai, lao động, vốn và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Ông đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư.
Sự cần thiết phải tích lũy tư liệu sản xuất cho tái sản xuất: Theo Mark, giữa cung và cầu của thị trường luôn có một khoảng cách. Để giải quyết vấn đề này cần phải có tích lũy sản xuất, tích lũy hàng hóa. Đây cũng là hoạt động đầu tư hàng tồn trữ. Cũng theo ông, sau khi trải qua giai đoạn khủng hoảng có chu kỳ, để tiếp tục phát triển, các nhà tư bản phải tiến hành đổi mới tư bản cố định với quy mô lớn làm cho nền kinh tế tiến đến phục hồi, hưng thịnh. Để đổi mới được tư bản cố định, các nhà tư bản cũng nhất thiết cần có hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ.
1.1.2.3 Theo lý thuyết tân cổ điển
Theo lí thuyết này thì đầu tư bằng tiết kiệm (ở mức sản lượng tiềm năng). Còn: tiết kiệm S = s*y
Trong đó 0 .
s: Mức tiết kiệm từ 1 đơn vị sản lượng (thu nhập) và tỷ lệ tăng trưởng của lao động bằng với tỷ lệ tăng dân số và kí hiệu là n.
Theo hàm sản xuất,các yếu tố của sản xuất là vốn và lao động có thể thay thế cho nhau trong tương quan sau đây:
y = A* e(rt) * * N (12)
Trong đó:
y : Sản lượng
: Vốn đầu tư
N : Lao động
A*e(rt) biểu thị ảnh hưởng của yếu tố công nghệ.
và là hệ số co giãn thành phần của sản xuất với các yếu tố vốn và lao động (thí dụ nếu =0.25 thì 1% tăng lên của vốn sẽ làm cho sản lượng tăng lên 25%). Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thì và biểu thị phần thu nhập quốc dân từ vốn và lao động.
Từ hàm sản xuất Cobb Douglas trên đây ta có thể tính được tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng như sau:
g = r + (13)
Trong đó:
g: Tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng
h: Tỷ lệ tăng trưởng của vốn
n: Tỷ lệ tăng trưởng lao động
Biểu thức trên cho thấy: tăng trưởng của sản lượng có mối quan hệ thuận với tiến bộ của công nghệ và tỷ lệ tăng trưởng của vốn và lao động.
Trong một nền kinh tế ở "thời đại hoàng kim"có sự cân bằng trong tăng trưởng của các yếu tố sản lượng,vốn và lao động.
Gọi đầu tư ròng là và
suy ra
Chia cả 2 vế cho K, ta được:
Hoặc: h = s *
Khi h không đổi, s không đổi thì cũng không đổi và Y phải tăng trưởng cùng tỷ lệ như h và K.
Khi đó: g =
Ở đây g là tỷ lệ tăng trưởng ở "thời đại hoàng kim".
Suy ra:
g -
(1- )*n
Hay g = (14)
Như vậy, trong "thời đại hoàng kim", tỷ lệ tăng trưởng g phụ thuộc vào tỷ lệ tăng trưởng của công nghệ và lao động. Điều này cho thấy,không thể có thu nhập trên đầu người tăng nếu không có sự tiến bộ của công nghệ.
1.1.2.4 Theo lý thuyết Gia tốc đầu tư
Số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như vậy, đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes (nhà kinh tế học trong thập niên 30 thế kỉ trước), đầu tư cũng được xem xét từ góc độ tổng cung.
Theo lí thuyết này, để sản xuất ra 1 đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn như sau:
x = (4)
Trong đó:
K: Vốn đầu tư tại thời kì nghiên cứu
Y: Sản lượng tại thời kì nghiên cứu
x : Hệ số gia tốc đầu tư
Từ công thức (4) suy ra:
K = x * Y (5)
Như vậy, nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Nói cách khác, chi tiêu đầu tư tăng hay giảm phụ thuộc nhu cầu về tư liệu sản xuất và nhân công. Nhu cầu các yếu tố sản xuất lại phụ thuộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất.
Theo công thức (5), có thể kết luận: sản lượng phải tăng liên tục mới là cho đầu tư tăng cùng tốc độ, hay không đổi so với thời kì trước.
1.1.2.5 Mô hình Harrod - Domar
Mô hình Harrod - Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư.
Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định:
- Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế với cung lao động.
- Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc.
Nếu gọi: Y : Là sản lượng năm t
g = : Tốc độ tăng trưởng kinh tế
: Sản lượng gia tăng trong kì
S : Tổng tiết kiệm trong năm
s = : Tỷ lệ tiết kiệm/GDP
ICOR : Tỷ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng
Từ công thức: ICOR =
Nếu , ta có : ICOR =
Ta lại có: I = S =s *Y. Thay vào công thức tính ICOR,ta có:
ICOR = Từ đây suy ra:
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Cuối cùng ta có:
Như vậy, theo Harrod - Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ để đầu tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện S là nguồn vốn của I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất ( K), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp gia tăng Y. Cũng lưu ý rằng, do nghiên cứu ở các nước tiên tiến, nhằm xem xét vấn đề: để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 1% thì đầu tư phải tăng bao nhiêu, nên những kết luận của mô hình cần được kiểm nghiệm kỹ khi nghiên cứu đối với các nước đang phát triển như ở nước ta. Ở những nước đang phát triển, vấn đề không đơn thuần chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như cũ mà quan trọng là phải tăng với tốc độ cao hơn. Đồng thời do thiếu vốn, thừa lao động, họ thường sử dụng nhiều nhân tố khác phục vụ tăng trưởng.
1.3. Đầu tư phát triển tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là cơ cấu tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy theo mục tiêu của nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô tốc độ giữa các ngành, vùng. Những cơ cấu kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân bao gồm kinh tế ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế.
Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, vốn đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả thấp hay cao... đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát triển các ngành mới... do đó, làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành. Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất mát cân đối về phát triển giữa các vũng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
1.4.Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học công nghệ
Đầu tư là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia. Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản: phần cứng (máy móc thiết bị), phần mềm (các văn bản, tài liệu. các bí quyết...), các yếu tố con người (các kỹ năng quản lý, kinh nghiệm), yếu tố tổ chức... Muốn có công nghệ cần phải đầu tư vào các yếu tố cấu thành.
Trong mỗi thời kỳ các nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Ban đầu sử dụng các lọai công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu sau đó giảm dần thông qua việc tăng dần hàm lượng đầu tư vào công nghệ. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên quá trình chuyển từ giai đoạn một sang giai đoạn ba là quá trình chuyển từ đầu tư ít sang đầu tư lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đổi và sự phát triển của khoa học công nghệ.
Công nghệ là do doanh nghiệp nhập khẩu từ bên ngoài hoặc do tự nghiên cứu và ứng dụng. Công nghệ được nhập khẩu qua nhiều đường như mua thiết bị, linh kiện rồi lắp đặt, mua bằng sáng chế, thực hiện liên doanh... Công nghệ do tự nghiên cứu và triển khai được thực hiện qua nhiều giai đoạn và từ nghiên cứu đến thí nghiệm, sản xuất thử đến sản xuất thường mất nhiều thời gian, rủi ro cao. Dù vậy nhập hay tự nghiên cứu để có công nghệ đều đòi lượng vốn đầu tư lớn, mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn ngành kinh tế quốc dân.
1.5 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực góp phần nâng cao chất lượng TTKT
Trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, cuộc cạnh tranh giữa các nước và các công ty ngày càng khốc liệt. Cuộc cạnh tranh đó thể hiện trên tất cả các mặt: công nghệ, quản lý, tài chính, chất lượng, giá cả, v.v... Nhưng trên hết, yếu tố đứng đằng sau mọi cuộc cạnh tranh là con người. Thực tế đã chỉ ra rằng đối thủ cạnh tranh đều có thể copy mọi bí quyết của công ty về sản phẩm, công nghệ, v.v... Duy chỉ có đầu tư vào yếu tố con người là ngăn chặn được đối thủ cạnh tranh sao chép bí quyết của mình.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm những nội dung cơ bản sau: đầu tư cho hoạt động đào tạo (chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ...) đội ngũ lao động; đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe y tế, đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc cho người lao động...
1.6 Đầu tư góp phần giải quyết các vấn đề xã hội
- Đầu tư góp phần xóa đói giảm nghèo.
- Đầu tư góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động.
- Đầu tư góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
2 Tác động của tăng trưởng và phát triển kinh tế đến đầu tư
2.1 Tăng trưởng và phát triển kinh tế góp phần cải thiện sự ổn định về chế độ chính trị, xã hội, tạo thuận lợi cho môi trường đầu tư.
Sự ổn định về chính trị, xã hội có trật tự và được bảo đảm an toàn, Chính phủ và người dân có quan hệ tốt với các tổ chức và lực lượng quốc tế có ảnh hưởng lớn đối với các luồng vốn. Chế độ chính trị ổn định là điều kiện quan trọng trước hết để thu hút các nhà đầu tư.
Kinh tế phát triển, có điều kiện đầu tư vào xây dựng Nhà nước vững mạnh, cởi mở với hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách rõ ràng, minh bạch, hợp lý, việc quản lý của Nhà nước tỏ ra có hiệu quả và có lợi cho nhà đầu tư.
Một khi xã hội có trật tự, có được sự an toàn về thân thể, sức khỏe và tài sản sẽ có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư. Trong trường hợp họ được đảm bảo có cuộc sống yên bình, không bị cướp giật, ám hại, dễ dàng được chăm sóc sức khỏe tốt, được đảm bảo đủ dịch vụ đi lại, thông tin viễn thông, ngân hàng... các nhà đầu tư sẽ không ngần ngại đem vốn đến để đầu tư phát triển.
2.2 Tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo điều kiện nâng cao khoa
học công nghệ và sự sẵn sàng về mặt bằng xây dựng,kết cấu hạ tầng tốt cho môi trường đầu tư:
Kinh tế phát triển, mở cửa, chính phủ và người dân có quan hệ thân thiện với những tổ chức Quốc tế có uy tín và có sức mạnh, có quan hệ tốt với những cường quốc về kinh tế và về khoa học- công nghệ thì đó là điều kiện tốt để thu hút các nhà đầu tư.
Sự cung cấp đầy đủ, nhanh chóng, kịp thời, có chất lượng về mặt bằng xây dựng làm cho các nhà đầu tư thích thú và nhanh chóng thực hiện đầu tư, nhanh chóng biến vốn đầu tư thành tài sản sinh lợi.
2.3 Tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo sự hấp dẫn của thị trường
tiêu thụ sản phẩm và hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thị trường nội địa có ý nghĩa to lớn, song thị trường nước ngoài là rất quan trọng, vì thế việc tạo thêm thị trường là đòi hỏi bức bách để có thêm động lực thúc giục các nhà đầu tư quyết định thực thi hoạt động đầu tư.
Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển, việc sản xuất các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh sẽ được dễ dàng hơn, giá cả rẻ hơn. Dịch vụ chất lượng cao và giá rẻ của các dịch vụ cũng có sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư.
2.4 Tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo điều kiện cho nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nâng cao văn hóa, văn minh ứng xử:
Chất lượng cao của nguồn nhân lực bao giờ cũng có yếu tố quyết định bao trùm. Trong thời đại kinh tế tri thức, chất lượng cao của những người ra quyết định, của những người hoạch định chính sách và của những công nhân kĩ thuật sẽ có sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư.
Văn minh, văn hóa ứng xử của người dân và của các cơ quan nhà nước là yếu tố cực kì quan trọng tạo nên môi trường đầu tư. Cách thức cư xử của hệ thống báo chí truyền thông cũng ảnh hưởng không nhỏ đối với các nhà đầu tư. Sự "tế nhị" của các hệ thống thông tin đại chúng trong việc đưa tin là rất cần thiết và có thể trở thành nghệ thuật làm lợi cho đất nước, nhất là trong việc thu hút đầu tư phát triển.
2.5 Tăng trưởng và phát triển kinh tế tác động đến một số yếu tố khác của môi trường đầu tư:
Nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho ổn định giá trị đồng nội tệ và điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Đồng nội tệ mạnh là yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư từ nước ngoài. Khi giá trị đồng tiền không ổn định, mất giá liên tục và mất giá lớn rất không có lợi đối với các nhà đầu tư.
Thông tin trong nền kinh tế là không thể thiếu. Phát triển hệ thống cung cấp thông tin kinh tế, thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời sẽ giúp các nhà đầu tư định hướng đúng đối với sản xuất kinh doanh.
Tất cả những yếu tố quan trọng nêu trên tạo ra một môi trường đầu tư mà yêu cầu của nó là tạo ra các điều kiện thuận lợi để thu hút những người, tổ chức có vốn đến làm ăn, ít hoặc không đem rủi ro đến cho các nhà đầu tư. Môi trường đầu tư phải hướng tới vì nhà đầu tư và lợi ích quốc gia. Càng nhiều nhà đầu tư đến làm ăn có hiệu quả cũng chính là đã vì lợi ích của đất nước.
2.6 Tăng trưởng và phát triển kinh tế thúc đẩy tỷ lệ tiết kiệm, cung cấp vốn đầu vào cho đầu tư.
Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh tăng trưởng kinh tế là động lực để tiết kiệm - đầu tư ở tất cả các nước. Tiết kiệm xác định tốc độ tăng trưởng có thể của sức sản xuất. Nhìn chung, các nước đang phát triển tăng trưởng nhanh có tỷ lệ tiết kiệm cao hơn các nước tăng trưởng chậm. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm: tốc độ tăng trưởng thu nhập, cơ cấu độ tuổi của dân số, và quan điểm đối với tiết kiệm. Các dịch vụ mà chính phủ cung cấp, như trợ cấp xã hội, có thể ảnh hưởng đến tiết kiệm cũng như thuế và thâm hụt ngân sách. Khi nghiên cứu các giai đoạn tăng trưởng kinh tế, trong những thời điểm nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao, phần lớn của thu nhập tăng thêm sẽ được người ta giữ lại để tiết kiệm, dẫn tới tỷ lệ tiết kiệm hàng năm sẽ càng tăng cao hơn.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com