4.nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư và thực trạng kích cầu đầu tư ở Việt Nam
1. Chi tiêu đầu tư
1.1 Khái niệm
Chi tiêu đầu tư là sự dịch chuyển vốn từ các khoản tiết kiệm của hộ gia đình và chính phủ sang khu vực kinh doanh, nhằm làm tăng lượng sản phẩm đầu ra và góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
Chi tiêu đầu tư bao gồm quyết định trì hoãn tiêu dùng và tìm kiếm, tích lũy vốn để tăng tiềm năng sản xuất của một hệ thống kinh tế.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng
1.2.1 Lợi nhuận kỳ vọng
Theo Keynes đầu tư chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng. Nếu như đầu tư mang lại cho người đầu tư một khoản lợi nhuận lớn thì người ta tích cực đầu tư, nếu lợi nhuận thấp thì người đầu tư sẽ kém nhiệt tình đầu tư, còn nếu như không có lợi nhuận hoặc thua lỗ thì người ta sẽ không đầu tư.
Keynes cho rằng một người mua một tài sản đầu tư hay một tài sản cố định, thì người đó mua quyền để được mua một khoản lợi tức trong tương lai gọi là lợi tức triển vọng của vốn đầu tư( lợi tức kỳ vọng ).
Có hai chỉ tiêu định lượng để xác định lợi nhuận của dự án đó là tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư( RR) và hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR).
• Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm tính trên một đơn vị vốn đầu tư.
Nếu tính cho từng năm hoạt động thì:
RRi =
Trong đó
+Wipv là lợi nhuận thuần thu được năm thứ i tính theo mặt bằng hiện tại (thời điểm dự án bắt đầu hoạt động).
+Iv0 : là vốn đầu tư tại thời điểm dự án bắt đầu đi vào hoạt động.
+RRi : Là tỉ suất lợi nhuận của vốn đầu tư vào năm i
Nếu tính bình quân của đời dự án thì:
=
Trong đó:
+ : là lợi nhuận bình quân năm của dự án theo mặt bằng hiên tại
+ : là tỉ suất lợi nhuận bình quân năm. Nó có tác dụng để so sánh các dự án.
Tỷ suất lợi nhuận có tác động cùng chiều đối với quy mô vốn đầu tư. Nếu tỷ suất lợi nhuận mà lớn hơn lãi suất tiền vay thì chi đầu tư sẽ tăng và ngược lại nếu tỷ suất lợi nhuận thấp và nhỏ hơn lãi suất tiền vay thì nhà đầu tư sẽ không bỏ tiền vào đầu tư hay mở rộng quy mô sản xuất.
• Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất mà dự án có thể đạt được đảm bảo cho tổng các khoản thu của dự án cân bằng với các khoản chi ở thời gian mặt bằng hiện tại.
Để tính IRR có nhiều phương pháp nhưng tính IRR theo phương pháp nội suy thường được sử dụng vì việc tính toán không phức tạp, độ chính xác hợp lý có thể chấp nhận được.
Công thức:
Trong đó:
IRR: Hệ số hoàn vốn nội bộ cần nội suy (%)
r1: Tỷ suất chiết khấu thấp hơn tại đó NPV1 > 0 gần sát 0 nhất
r2: Tỷ suất chiết khấu cao hơn tại đó NPV2 < 0 gần sát 0 nhất.
NPV: Giá trị hiện tại thực
IRR cần tìm (ứng với NPV = 0) sẽ nằm giữa r1 và r2
• Nguyên tắc sử dụng chỉ tiêu này:
Một dự án đầu tư được chấp nhận khi có IRR r min
Trong đó r min là lãi suất đi vay nếu phải vay vốn để đầu tư, có thể là tỉ suất lợi nhuận định mức do nhà nước qui định, nếu vốn đầu tư do ngân sách cấp. Có thể là chi phí cơ hội nếu sử dụng vốn tự có để đầu tư.
Giả sử lãi suất vốn vay trên thị trường là i.
IRR :hệ số thu hồi vốn nội bộ.(IRR=I khi NPV=0).
A, B, C: Quy mô vốn đầu tư của dự án A, B, C.
Với dự án A: IRR¬¬¬¬¬¬¬¬A > iA = i → nên đầu tư.
Với dự án B: IRRB > iB = i → nên đầu tư.
Với dự án C: IRRC < iC = i →không nên đầu tư.
Tuy nhiên Keynes cho rằng theo đà tăng lên của vốn đầu tư, hiệu quả giới hạn biên (hay tỷ suất lợi nhuận biên) của tư bản giảm dần. Sự giảm sút này do hai nguyên nhân:
• Một là, khi đầu tư tăng lên thì khối lượng hàng hoá cung cấp cho thị trường tăng lên, do đó giá cả hàng hoá giảm xuống, nên kéo theo sự giảm sút của lợi nhuận.
• Hai là, cung hàng hoá tăng sẽ làm tăng chi phí tư bản thay thế như tài nguyên, tăng lao động, tăng nguồn vốn đầu tư do đó dẫn đến giá cả của cá yếu tố này tăng. Trong khi giá cả của sản phẩm có xu hướng giữ nguyên hay giảm xuống thì chi phí đầu vào tăng làm lợi nhuận giảm sút.
Trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật và tích luỹ tư bản tăng nhanh tỷ suất lợi nhuận biên của tư bản có thể dẫn tới 0. Điều này làm giảm tích cực của các nhà kinh doanh mở rộng đầu tư.
Để hiểu rõ hơn ta xem xét một ví dụ sau :
Năm sản xuất Vốn đầu tư
(Triệu đồng) Lợi nhuận
(Triệu đồng) Tỷ suât lợi nhuận (%) Tỷ suất lợi nhuận biên (%)
1 100 8 8 -
2 120 11 9.2 15
3 140 13.5 9.6 12.5
4 160 16.5 10.3 10
VĐTi : là vốn đầu tư thời kỳ i.
Πi : là lợi nhuận thời kỳ i.
Tỷ suất lợi nhuận biên bằng 15% có nghĩa là khi VĐT tăng thêm 1 đồng thì lợi nhuận tăng thêm 0,15 đồng. Như vậy giả sử lãi suất tiền vay đầu tư i = 12 %/năm thì đến năm thứ 4 do tỷ suất lợi nhuận biên là 10 % < 12 % ( tức lợi nhuận kỳ vọng khi tăng thêm 1đồng VĐT nhỏ hơn lãi suất tiền vay đầu tư). Do đó tại năm thứ 4 nhà đầu tư quyết định sẽ không chi cho đầu tư nữa.
1.2.2 Lãi suất tiền vay
Lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng-giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc dưới các dạng thức tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay trả cho người cho vay một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất.
Ở tầm vĩ mô, lãi suất là cơ sở để cho các cá nhân cũng như các doanh nghiệp đưa ra quyết định kinh tế của mình xem đầu tư vốn của mình vào danh mục đầu tư này hay danh mục đầu tư khác. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, chính sách lãi suất còn được sử dụng như là một công cụ góp phần điều tiết đối với các luồng vốn đi vào hay đi ra đối với một nước. Nếu mức lãi suất trong nước nhỏ hơn lãi suất trên thị trường vốn quốc tế và trong bối cảnh mở cửa thị trường vốn thì dòng vốn đầu tư sẽ chảy ra nước ngoài, dẫn đến đầu tư trong nước giảm.
Trong phân tích tài chính dự án đầu tư thì xác định được lãi suất của dự án có ỹ nghĩa rất quan trọng. Muốn vậy ta cần phân biệt hai loại lãi suất:
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà thời đoạn phát biểu mức lãi không trùng với thời đoạn ghép lãi.
Lãi suất thực là lãi suất mà thời đoạn phát biểu mức lãi trùng với thời đoạn ghép lãi.
Trong thực tế nếu lãi suất phát biểu không ghi thời hạn ghép lãi kèm theo, khi đó lãi suất được hiểu là lãi suất thực và thời đoạn ghép lãi bằng thời đoạn phát biểu mức lãi.
Quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực được thể hiện thông qua công thức sau:
Trong đó:
r : Lãi suất thực trong thời gian tính toán.
r¬d : Lãi suất danh nghĩa trong thời gian phát biểu.
m1: số thời đoạn ghép lãi trong thời hạn phát biểu .
m2 : số thời đoạn ghép lãi trong thời đoạn tính toán.
Trong phân tích tài chính dự án đầu tư lãi suất được sử dụng để phân tích là lãi suất thực. Lãi suất thực tế là một yếu tố quan trọng quyết định mức độ đầu tư của doanh nghiệp và của các hộ gia đình. Lãi suất thực tế là chi phí hay giá cả của vốn vay, do vậy khi lãi suất thực tế tăng , chi phí biên của vốn sẽ tăng, lợi nhuận biên giảm. Nếu lợi nhuận biên của một đơn vị đầu tư mới không đủ bù đắp được khoản chi phí của vốn vay thì doanh nghiệp sẽ không vay vốn đầu tư nữa. Vì vậy khi lãi suất thực tế giảm, lượng cầu về đầu tư tăng và ngược lại. Như vậy đầu tư có quan hệ tỷ lệ nghịch với lãi suất thực tế tiền vay. Trên đồ thị đường cầu đầu tư cũng là đường dốc xuống.
• Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
Thứ nhất, khối lượng tiền tệ, Keynes cho rằng nếu khối lượng tiền tệ đưa vào lưu thông tăng, thì lãi suất giảm. Việc dùng lãi suất để điều tiết nền kinh tế là một trong những chủ trương của Keynes.
Thứ hai, sự ưa thích tiền măt, Keynes cho rằng sự ưa chuộng tiền mặt là xu hướng có tính chất hàm số xác định lượng tiền mà dân chúng sẽ giữ khi biết trước lãi suất. Do đó, nếu gọi r là lãi suất, M là lượng tiền, L là hàm ưu tiên chuyển hoán, thì M = L(r). Ông còn nói rằng đây là cách thức lượng tiền tham gia vào hệ thống kinh tế.
Ta thấy rằng mối quan hệ giữa lãi suất tiền vay và tỷ lệ lợi nhuận là quan hệ tỷ lệ nghịch.
Khi lãi suất tiền vay tăng làm chi phí sản xuất tăng dẫn đến tỷ lệ lợi nhuận trên 1 sản phẩm giảm, tỷ suất lợi nhuận trên vốn giảm và ngược lại.
Khi tỷ suất lợi nhuận tăng nhà đầu tư sẽ mở rộng quy mô sản xuất để thu thêm lợi nhuận. Khi quy mô đầu tư tăng làm cầu về vốn tăng dẫn đến giá của hàng hóa vốn tăng đẩy lãi suất vay vốn tăng.
Như vậy qua việc nghiên cứu hai nhân tố lợi nhuận kỳ vọng và lãi suất tiền vay ta thấy mối quan hệ giữa lãi suất tiền vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô đầu tư là rất chặt chẽ. Lãi suất thực tế tiền vay tỉ lệ nghịch nhu cầu VĐT ở mỗi mức lãi suất không đổi. Khi mức lãi suất càng thấp thì số dự án thỏa mãn được yêu cầu của chủ đầu tư càng cao, làm cho khối lượng VĐT tăng và ngược lại. Mối quan hệ giữa lãi suất thực tế tiền vay và tỉ lệ hoàn vốn cũng là mối quan hệ tỉ lệ nghịch, khi lãi suất tiền vay tăng thì lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm giảm và lợi nhuận trên VĐT sẽ giảm. Nếu lãi suất vốn vay nhỏ hơn IRR của dự án thì nhà đầu tư sẽ mở rộng qui mô đầu tư và ngược lại.
Đồ thị biểu diễn mối quan hệ giữa lãi suất tiền vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô đầu tư.
Giả sử lãi suất vốn vay trên thị trường là i.
Tỷ suất lợi nhuận IRR.
A, B, C: Quy mô vốn đầu tư của dự án A, B, C.
Với dự án A: IRRA > iA = i1, i2 → nên đầu tư.
Với dự án B: IRRB > iB = i2 , i3→ nên đầu tư.
Với dự án C: IRRC < iC= i3, i4→không nên đầu tư
Như vậy, nhà đầu tư quyết định đầu tư vào dự án A, B vì ở hai dự án này tỷ suất lợi nhuận IRR lớn hơn lãi suất vốn vay, do đó nếu đầu tư sẽ có lãi. Còn với dự án C thì loại vì IRR nhỏ hơn lãi suất.
Do vậy, việc điều chỉnh mức lãi suất phù hợp với tỷ suất lợi nhuận là rất phức tạp đòi hỏi nhà quản lý phải có cái nhìn bao quát cũng như quyết định nhạy bén với những thay đổi trên thị trường.
1.2.3 Tổng sản lượng quốc gia
Sự tác động của tổng sản lượng quốc gia tới chi tiêu đầu tư được lý giải cụ thể qua mô hình gia tốc đầu tư. Theo John Maynard Keynes, đầu tư cũng có thể được xem xét từ góc độ tổng cung, nghĩa là sự thay đổi của sản lượng làm đầu tư thay đổi như thế nào.
Theo lý thuyết này, cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất định để sản xuất một đơn vị đầu ra cho trước. Mối quan hệ giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn như sau:
x = (1)
Trong đó:
x: Hệ số gia tốc đầu tư
K: Vốn đầu tư tại kỳ nghiên cứu
Y: Sản lượng tại kỳ nghiên cứu
Từ công thức (1) ta có:
K = x . Y (2)
Như vậy, nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng tăng sẽ kéo theo nhu cầu vốn đầu tư tăng và ngược lại. Nói cách khác, chi tiêu đầu tư tăng hay giảm phụ thuộc nhu cầu về tư liệu sản xuất và nhân công mà suy cho cùng là phụ thuộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất.
Theo công thức (2), ta có thể kết luận: Sản lượng phải tăng liên tục mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ, hay không đổi so với thời kỳ trước. Lý thuyết gia tốc đầu tư cho thấy: đầu tư tăng tỉ lệ với sản lượng ít ra là trong trung và dài hạn.
Ưu điểm của mô hình gia tốc đầu tư:
• Mô hình phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư cũng nhiều hơn.
• Mô hình gia tốc đầu tư phản ánh mối quan hệ giữa sản lượng quốc gia với chi tiêu đầu tư. Nếu hệ số gia tốc đầu tư x không đổi trong kỳ kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác.
Nhược điểm của mô hình gia tốc đầu tư:
• Mô hình gia tốc đầu tư bỏ qua mức độ năng lực dự phòng mà một doanh nghiệp có thể có lúc họ hoạt động tùy ý. Ví dụ như trong các giai đoạn sau của một cuộc suy thoái kinh tế, hầu hết các doanh nghiệp đang hoạt động dưới giới hạn năng lực của họ (nghĩa là có một lượng đáng kể sản lượng tiêu cực trong nền kinh tế). Nếu cầu sau đó tăng lên trong giai đoạn phục hồi của chu kỳ, có một lượng nhỏ cầu đầu tư ngay lập tức từ các doanh nghiệp, vì họ có thể sử dụng chuyên sâu hơn năng lực hiện có có sẵn vào thời điểm đó. Đầu tư nhiều khả năng sẽ mạnh mẽ khi các doanh nghiệp đang hoạt động gần với giới hạn sản xuất của họ, và khi họ cần để tăng năng lực của họ để bắt kịp nhu cầu tăng lên của người tiêu dùng.
Nếu doanh nghiệp đang làm việc dưới năng lực tốt nhất, họ có thể không cần phải đầu tư vào các lô hàng vốn mới. Biểu đồ trên đây cho thấy tỷ lệ phần trăm của các công ty công nghiệp đang hoạt động dưới năng lực tốt nhất. Dữ liệu là theo chu kỳ; cho ta thấy số liệu ở mức thấp trong cuộc bùng nổ cuối những năm 1980 nhưng tăng cao hơn 70 phần trăm trong thời kỳ suy thoái đầu những năm 1990. Không có sự liên kết tự động giữa khả năng dự phòng và kế hoạch đầu tư, vì các yếu tố khác sẽ ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của các doanh nghiệp.
• Mô hình gia tốc giả định quan hệ tỉ lệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định. Trên thực tế, hệ số gia tốc đầu tư luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác.
• Thực chất, mô hình đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) do sự tác động của thay đổi sản lượng chứ không phải tổng đầu tư. Từ công thức (2) ta có:
Tại thời điểm t: Kt = x . Yt (3)
Tại thời điểm (t-1): Kt-1¬ = x . Yt-1 (4)
Lấy công thức (4) trừ đi công thức (3) ta có:
Kt - Kt-1 = xYt - xYt-1 = x (Yt - Yt-1) (5)
Trong đó: Kt - Kt-1 là đầu tư thuần và bằng (It - D) với D là khấu hao.
Do đó:
It - D = Kt - Kt-1 = x (Yt - Yt-1¬¬¬) = x . ∆Y (6)
Và đầu tư ròng ∆I = x . ∆Y (7)
Như vậy, theo lý thuyết này, đầu tư thuần là hàm của sự gia tăng sản lượng của nền kinh tế. Nếu sản lượng tăng, đầu tư thuần tăng (x lần). Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư thuần sẽ bằng 0.
Tuy nhiên, khi sản lượng không thay đổi giữa hai thời kỳ, đầu tư thuần bằng 0 nhưng tổng đầu tư là một số dương vì các doanh nghiệp vẫn phải đầu tư thay thế máy móc thiết bị đã hao mòn hết.
• Theo lý thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng một thời kỳ. Điều này không đúng vì nhiều nguyên nhân, chẳng hạn do việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt quá cung .v.v...
Do đó, mô hình gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện theo thời gian. Theo mô hình gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn.
Nếu gọi:
Kt và Kt-1 là vốn đầu tư thực hiện ở thời kỳ t và t-1
Kt* là vốn đầu tư mong muốn
λ là hằng số (0<λ<1)
Thì: Kt - Kt-1 = λ (Kt* - Kt-1)
Có nghĩa là sự thay đổi vốn đầu tư thực hiện giữa 2 kỳ chỉ bằng một phần của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kỳ t và vốn đầu tư thực hiện thời kỳ t - 1. Nếu λ = 1 thì Kt = Kt*
Và lý thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư.
Theo lý thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thì đầu tư thuần: ∆I = It - Dt = Kt - Kt-1. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì:
Kt - Kt-1 = λ(Kt* - Kt-1) và do đó ∆I = λ(Kt* - Kt-1)
Để xác định tổng đầu tư, chúng ta giả định: Dt = δ . Kt-1 với δ là hệ số khấu hao và 0<δ<1. Do đó:
It - Dt = It - δKt-1 = λ(Kt* - Kt-1) hoặc
It = λ(Kt* - Kt-1) + δKt-1
It chính là tổng đầu tư trong kỳ và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện.
1.2.4 Các nhân tố khác:
Chu kỳ kinh doanh thường được xét riêng như một nhân tố ảnh hưởng tới chi tiêu đầu tư. Tuy nhiên, xét cho cùng, chu kỳ kinh doanh tác động gián tiếp tới quyết định đầu tư của doanh nghiệp thông qua lợi nhuận kỳ vọng. Khi nền kinh tế đang trong giai đoạn hưng thịnh, tăng trưởng cao thì các doanh nghiệp dự kiến nhu cầu thị trường cũng tăng, họ mở rộng đầu tư, tăng quy mô sản xuất ( còn gọi là thời kỳ khuếch trương) vì họ tin rằng có thể thu lợi nhuận lớn hơn. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái, thậm chí khủng hoảng, hầu hết doanh nghiệp không muốn chi đầu tư (còn gọi là thời kỳ thu hẹp) vì họ dự kiến cầu thị trường sụt giảm mạnh, sản phẩm thiếu đầu ra, hay nói cách khác là lợi nhuận kỳ vọng thấp, thậm chí còn âm (thua lỗ).
Tình hình thế giới và khu vực cũng ảnh hưởng gián tiếp tới chi tiêu đầu tư thông qua lợi nhuận kỳ vọng. Dù vậy, yếu tố này có phần khác với chu kỳ kinh doanh ở chỗ nó ảnh hưởng mạnh nhất tới các doanh nghiệp xuất khẩu. Một điều dễ hiểu đó là các doanh nghiệp xuất khẩu phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường nước ngoài. Khi kinh tế thế giới hay khu vực suy giảm, nhu cầu thị trường cũng sẽ bị sụt và đi kèm theo thường là các chính sách của chính phủ các nước tiếp nhận hàng xuất khẩu nhằm hạn chế nhập khẩu. Như vậy, đầu ra của doanh nghiệp xuất khẩu trong nước bị hạn chế, họ sẽ dự kiến được việc kinh doanh gặp khó khăn, kỳ vọng lợi nhuận hạ thấp xuống, và hệ quả là thu hẹp đầu tư.
2. Kích cầu đầu tư
2.1 Khái niệm
Kích cầu đầu tư là tổng hợp tất cả các biện pháp chính sách, các công cụ pháp lý được sử dụng một cách có hệ thống và đồng bộ nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn hay thời kì nhất định.
2.2 Vai trò của kích cầu đầu tư
Vì đầu tư có ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng kinh tế, kích cầu đầu tư trước hết có vai trò nguyên thuỷ nhất là kích thích tăng trưởng kinh tế, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu đời sống xã hội. Cũng vì vai trò này mà các chính sách kích cầu đầu tư thường được chú trọng trong thời kỳ nền kinh tế rơi vào suy thoái.Các chính sách kích cầu đầu tư, hoặc trực tiếp cung ứng vốn đầu tư cho thị trường, nhưng thông thường là gián tiếp tác động, tạo môi trường đầu tư - kinh doanh hấp dẫn hơn như: giãn cách thu thuế, hạ mức thuế thu nhập doanh nghiệp, cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất và tạo đầu ra (thị trường tiêu thụ) cho sản phẩm của các doanh nghiệp. Tất cả những yếu tố trên đều tạo thuận lợi, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, có thể đơn thuần là tăng sản lượng đầu ra (quy mô sản xuất), có thể đổi mới dây chuyền công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hay đa dạng hoá mẫu mã kiểu dáng .v.v... Kết quả cuối cùng là hàng hoá - dịch vụ ngày càng phong phú, chất lượng không ngừng được cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Trên cơ sở đó, nền kinh tế sẽ nhanh chóng phục hồi, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
Ngoài ra, kích cầu đầu tư còn giữ vai trò là cách thức phân bổ có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và công bằng xã hội. Tất nhiên, phát huy được vai trò này phải là các chính sách kích cầu đầu tư đúng đắn. Thông qua nguồn vốn kích cầu (gói kích cầu), Chính phủ sẽ phân bổ cho các ngành, lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lợi cao, các thế mạnh của đất nước. Đây sẽ là đòn bẩy tạo đà cho phục hồi, hay tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, chính sách kích cầu cũng có thể hướng tới những khâu còn yếu kém, những vùng sâu vùng xa kém phát triển, giúp các khâu, các vùng này vươn lên tương xứng với các khâu, các vùng các trong cả nước. Nói cách khác, đây chính là cơ sở cho việc thực hiện công bằng xã hội.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com