Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 1

Nếu có ai đó nói với Bạch Dương rằng đời cô sẽ rẽ ngoặt chỉ vì một cái… tin nhắn từ người lạ, thì cô sẽ phì cười, chửi thề một câu, rồi tiếp tục nằm lướt Shopee săn sale. Nhưng đúng là đời mà – cái gì càng tưởng không thật thì nó càng đập vô mặt như tát bằng mo cau, không hề báo trước.

Tin nhắn đó đến vào một chiều thứ Sáu oi bức, giữa lúc cô đang tranh cãi với anh shipper vì cái gối ôm hình con gấu đặt từ tháng trước mãi chưa tới. Nội dung tin nhắn rất ngắn gọn, không chấm phẩy, không cảm xúc:

“Bạch Dương, cô Bảy Mẫu mất rồi. Con cháu kéo về hết. Di chúc có tên cháu. Về sớm.”

Cô nhìn tin nhắn, chau mày. Cô Bảy nào? Mẫu là ai? Trong đầu cô không có cái tên nào khớp. Mất vài phút lục lọi trí nhớ – à, đúng rồi, ngày xưa ba cô từng kể… có một người chị họ bên nội sống ở Long An, làm nghề "gọi hồn", "cúng vong", "vẽ bùa", nổi tiếng cả vùng sông nước, đến mức người ta đồn cô có thể trò chuyện với người âm như nói chuyện với hàng xóm. Bà không lấy ai, sống với chồng chết sớm, rồi ở vậy nuôi bầy con, ai cũng dữ như sư tử đói. Lâu lâu gửi lên mấy hũ mắm cá linh không nhãn, mặn tới mức chấm xong là không còn vị người, chỉ còn nước mắt. Cô từng nghe một câu nói nửa đùa nửa thật:

“Ăn mắm cô Bảy, nhớ chuyện tiền kiếp.”

Vậy mà bây giờ lại… để lại di chúc?

Cô nhắn lại hỏi, thì người kia chỉ trả lời vỏn vẹn một câu:

“Muốn được nhận phần thì về sống 49 ngày, không được rời đi nửa bước.”

Nghe như mấy trò ma quái trong phim kinh dị hạng B. Nhưng cô đang thất nghiệp, trong tài khoản còn đúng 2 triệu rưỡi, sau khi góp mua điện thoại và trả tiền thuê trọ. Nếu ở quê 49 ngày mà được căn nhà, thì quá rẻ. Cô đâu có ngán. Ma cũng phải có bằng chứng mới tin.

Một tuần sau, Bạch Dương có mặt ở xã Bưng Láng, thuộc huyện Hòa Ngãi – nơi bản đồ Google chỉ hiện đường đất và một vệt màu xanh là rặng bần cổ thụ. Từ ngã ba lộ đá, cô kéo vali qua cánh đồng, lội giữa mùi rơm rạ và gió đồng ẩm ướt. Bác xe ôm chở cô ban nãy có răng sún và áo thun rách vai, nói đúng một câu:

“Ở đó... ai mà dám về ban đêm, con gan dữ.”

Ngôi nhà cổ nằm lọt thỏm giữa vườn cây, đi qua một lối mòn phủ đầy rễ trầu, ven đường là hàng cau cao vút và mấy bụi chuối xiêm mọc lẻ loi. Trước mắt cô là một căn nhà ba gian hai chái kiểu xưa – mái ngói âm dương, cột gỗ lim đen bóng, và rêu phủ đầy dưới bệ chân tường. Cổng gỗ mục, chốt tre, cây bông bụp đỏ rực trổ hoa từng chùm như máu thấm vải.

Từ cổng vào sân là hàng gạch tàu cổ, lồi lõm, lót theo hình chữ “Chi”. Giữa sân có cái lu nước khổng lồ đậy bằng lá dừa khô, bên cạnh là bộ ván ngựa nứt rạn vì mưa gió, phía trên treo hai cái đèn măng-sông đã hoen rỉ. Ở giữa là một cây khế trĩu quả, trái chua vàng lủng lẳng, phía sau là giàn thiên lý bò quanh nhà bếp. Gió chiều thổi qua làm lay động tán cây, rì rầm như có ai thì thầm điều gì trong ngõ sâu. Dưới chân cây khế, một chiếc võng cũ vắt ngang hai cọc tre, đong đưa nhẹ, như có người vừa đứng dậy.

Khi cô đẩy cánh cổng ra – tiếng bản lề rít lên như ai nghiến răng. Trong sân, khói nhang bốc lên nghi ngút, bàn thờ được dựng giữa gian chính, ảnh cô Bảy đội khăn đóng, mắt nhìn nghiêm nghị. Mùi nhang trầm lẫn với mùi khói bếp, thơm mà ngột ngạt, như cả trăm năm hương hỏa tụ lại nơi đây. Chiếc bàn thờ đặt giữa nhà được chạm trổ tỉ mỉ, chân quỳ đầu rồng, hai bên treo câu đối sơn son thếp vàng đã phai màu thời gian.

Và cũng ngay lúc đó, bốn gương mặt đồng loạt quay ra nhìn cô – như mấy con chó canh cửa lâu ngày chưa được ăn.

“Đó đó! Con nhỏ đó đó! Không phải máu mủ ruột rà mà cũng có tên trong di chúc hả trời đất quỷ thần ơi!”

“Người dưng nước lã, ở đâu chui ra, nói là bà con xa? Xa cỡ nào mà má dám cho nó phần thừa kế?”

“Bữa hổm ai là người chạy lên bệnh viện ký giấy khai tử? Tôi nè! Còn nó? Ở đâu?”

Bạch Dương đứng sững, tay còn kéo vali, mắt đảo một vòng.

Trước mặt cô là bốn người – mỗi người mang một vẻ bặm trợn riêng:

Anh Tòng, người anh cả, trán hói, áo thun sặc sỡ, bụng bia. Làm tài xế xe tải, hay chửi thề.

Chị Mận, con thứ hai, mắt sắc như dao lam, từng là giáo viên tiểu học nhưng nghỉ dạy vì… hay đánh học sinh.

Chị Bông, buôn bán ngoài chợ, môi đỏ như mắm tôm, miệng nhanh hơn não.

Chú Út Lắm, nhỏ tuổi nhất, đội nón tai bèo, ít nói, nhưng ánh mắt âm u như vừa bước ra từ chùa Bà Đanh.

“Dạ, em có tên trong di chúc là vì… chắc cô Bảy quý em.” – Dương mỉm cười, tay chống hông.

“Quý? Mày gặp cổ bao giờ chưa?” – chị Mận xấn tới.

“Chưa. Nhưng hồi nhỏ ba em hay kể cô Bảy giúp má em một lần, lúc sanh khó. Với lại, nếu không tin, thì cứ đem di chúc ra toà đi, em không ngại.”

Không khí trong nhà lặng xuống. Chị Bông khịt mũi. Anh Tòng bặm môi. Chú Út Lắm thì ngồi uống trà, tay gõ nhẹ vô bàn. Cô quay qua bàn thờ, chắp tay vái ba vái, rồi quay lại nói nhỏ:

“Con chào cô Bảy. Con về rồi. Cô yên tâm, con sẽ ở đây đúng 49 ngày, như cô dặn.”

Đêm đó, mưa phùn rơi lắc rắc, nước thấm qua mái ngói cũ, rơi từng giọt xuống nền gạch tàu. Dương nằm trong gian buồng ngoài, chiếc giường tre ọp ẹp, mùng mốc có vết cháy nhang, còn mùi bồ kết ai gội đâu đó vẫn phảng phất. Bên ngoài là tiếng ếch nhái, tiếng ễnh ương rên như hát cải lương dở dang. Tiếng chó tru xa xa, xen lẫn tiếng lá chuối lật phật như có ai vừa bước ngang qua vườn.

Trước khi ngủ, cô đi quanh sân, ánh đèn pin điện thoại chập chờn. Cô ghé ra sau vườn, thấy có cái giếng cổ xây đá ong, nước sâu hun hút, bốc mùi hăng hắc. Dưới đáy giếng có gì đó... động nhẹ. Cô nhíu mày, nhưng không thấy rõ. Trên thành giếng có một vệt trầy dài, như móng tay cào vào đá. Bên cạnh giếng là cái chum sành đựng tro, trên miệng còn vương mấy sợi tóc bạc dài quấn lấy nhau như bị nước kéo lại.

Sáng hôm sau, trời hửng nắng, Dương mang đôi dép tổ ong ra ngoài dạo một vòng. Bọn trẻ con chạy theo gọi “Cô Ba Sài Gòn! Cô Ba Sài Gòn!”, bà già ngồi dưới gốc xoài thì xầm xì “Giống má nó hồi trẻ ghê!”. Cô nghe hết, nhưng không nói gì. Cô chỉ thở ra, nhủ thầm:

“Chắc nơi này còn nhiều chuyện hơn mình tưởng.”

Cô đi qua lối mòn sau nhà, tới khu đất cao được xây bằng đá ong – nghĩa địa họ Nguyễn, đất nối liền với nhà cô Bảy Mẫu. Đất rộng thế này bảo sao con cái không lũ lượt kéo về đòi chia chát. Giữa là mộ tổ, xung quanh là mộ các đời con cháu. Cạnh gò trâm bầu có hai ngôi mộ xây sát nhau – ông Tám Chất và cô Bảy Mẫu. Bia đá còn mới, nhang chưa tàn, đất còn mềm. Cô để ý trên mặt đất còn in dấu chân ai đó vừa đi ngang qua – nhỏ, tròn, và... dường như không mang dép.

Cô đứng lặng hồi lâu, rồi bỗng nghe sau lưng có tiếng ai cào nhẹ vào vách xi-măng. Cô quay lại – không có ai. Nhưng giữa trưa, mặt trời lên cao, không khí vẫn lạnh lẽo như mới qua mưa. Trên mộ, có một con mèo mun nằm cuộn tròn, mắt mở thao láo nhìn cô, rồi bất ngờ nhảy xuống và biến mất vào bụi cây.

Cô cảm thấy gáy mình lạnh toát. Gió vừa lướt qua, như bàn tay ai vuốt nhẹ lên cổ.

Và rồi, một giọng nói nhỏ, rất nhỏ, vang lên sau lưng, nghe như thoảng trong gió:

“Về rồi hả… con gái…”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com