Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

affffdfgfhfhf

. CTHT là CTTP có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội

CTVC là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.

Điểm khác nhau cơ bản giữa hai cttp này là dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc hay không. Nhưng tránh quan niệm cho rằng nếu có hậu quả xảy ra thì là CTVC, hay ngược lại. mà phải xuất phát từ cơ sở khách quan sau:

- Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội, hoặc hậu quả nguy hiểm là hậu quả khó xác định thì thường là CTTP hình thức

- Nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa thể hiện được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà đòi hỏi phải có cả hậu quả nguy hiểm cho xã hội thì thường  là CTTP vật chất

Nếu nghiên cứu về mặt cấu trúc, mỗi tội phạm đều hợp thành bởi 4 yếu tố nhất định, tồn tại không tách rời nhau nhưng có thể phân chia trong tư duy và do vậy có thể cho phép nghiên cứu chúng một cách độc lập với nhau, đó là:

1/ Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đó.

2/ Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm, và hoàn cảnh phạm tội.

3/ Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi phạm tội phải có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt một độ tuổi luật định.

4/ Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.

Chúng ta có thể thấy được mối quan hệ giữa tội phạm với CTTP của một loại tội như sau:

Tội phạm - hiện tượng

Cấu thành tội phạm- Mô hình lý luận

(Tồn tại trong thực tế khách quan. Đa dạng,

(Là các dấu hiệu đặc trưng cho một loại tội

phong phú).

được quy định trong BLHS. Chỉ có một CTTP

cho một loại tội)

- Khách thể: Quan hệ xã hội trực tiếp bị tội

-  Khách  thể:  Quan  hệ  xã  hội  trực  tiếp  bị  tội

phạm xâm hại.

phạm xâm hại.

- Mặt khách quan: hành vi khách quan, hậu

-  Mặt  khách  quan:  hành  vi  khách  quan,  hậu

quả, công cụ, phương tiện, phương pháp thủ

quả,  công  cụ,  phương  tiện,  phương  pháp  thủ

đoạn,  thời  gian  địa  điểm,  hoàn  cảnh  phạm

đoạn, thời gian địa điểm, hoàn cảnh phạm tội.

tội.

- Chủ thể: tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự.

- Chủ thể: tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự.

- Mặt chủ quan: lỗi, động cơ, mục đích phạm

- Mặt chủ quan: lỗi động cơ, mực đích phạm

tội.

tội.

Từ những nội dung đã phân tích như trên có thể đưa ra khái niệm CTTP như sau: Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho một loại tội cụ thể được quy định trong bộ luật hình sự.

Nội dung của CTTP chính là sự phản ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Các dấu hiệu đó là: Quan hệ xã hội bị xâm hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, lỗi,động cơ, mục đích phạm tội.

Các dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi cấu thành tội phạm là: quan hệ xã hội bị xâm hại, độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi khách quan và lỗi.

Một CTTP của một loại tội luôn luôn phải chứa đựng đầy đủ 4 yếu tố cấu thành tội phạm. Đó là: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan. Song các dấu hiệu trong mỗi một CTTP có thể nhiều ít khác nhau.

4.2.2.  Các đặc điểm của cấu thành tội phạm

a. Các dấu hiệu trong CTTP đều do luật định

Chỉ Nhà nước mới có quyền quy định một hành vi nào là tội phạm bằng cách là mô tả những dấu hiệu đó và quy định chúng trong BLHS. Cơ quan giải thích và áp dụng pháp luật chỉ được phép giải thích nội dung những dấu hiệu đã được quy định trong BLHS. Việc thêm hoặc bớt bất kỳ một dấu hiệu nào đó của CTTP đều có thể dẫn đến tình trạng định tội sai hoặc bỏ lọt tội hoặc làm oan người vô tội.

Các dấu hiệu trong CTTP của một loại tội được quy định trong phần chung của BLHS như: tuổi, tình trạng năng lực trách nhiệm hình sự, lỗi; và chúng được quy định trong phần các tội phạm của BLHS như dấu hiệu: hành vi khách quan, hậu quả của tội phạm, quan hệ xã hội bị xâm hại...

b. Các dấu hiệu của CTTP mang tính đặc trưng điển hình

Một loại tội phạm chỉ được đặc trưng bởi một CTTP và một CTTP chỉ đặc trưng cho một loại tội phạm, đó là dấu hiệu đặc trưng. Dấu hiệu đặc trưng của CTTP còn thể hiện ở chỗ chỉ các dấu hiệu nào nói lên bản chất đặc trưng của loại tội đó để phân biệt tội phạm đó với tội phạm khác mới được ghi nhận trong CTTP.

Một dấu hiệu có thể được phản ánh trong nhiều cấu thành tội phạm nhưng giũa các cấu thành tội phạm khác nhau phải có ít nhất một dấu hiệu khác nhau Đó là dấu hiệu điển hình.

Ví dụ:

Chiếm đoạt tài sản                               Tội cướp

Hành vi dùng vũ                    Tước bỏ tính mạng con người              Giết người

Giao cấu                                              Hiếp dâm

Dấu hiệu chung                       Dấu hiệu điển hình

Hoặc ví dụ về CTTP trộm cắp với CTTP lừa đảo có rất nhiều dấu hiệu chung giống nhau như: quan hệ sở hữu bị xâm hại, độ tuổi, năng lực TNHS, hành vi chiếm đoạt tài sản, lỗi cố ý trực tiếp. Nhưng giữa 2 CTTP này có 2 dấu hiệu mang tính điển hình cho mỗi CTTP đó là: hành vi lén lút trong tội trộm cắp tài sản và hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như vậy, giữa 2 CTTP khác nhau phải khác nhau ít nhất một dấu hiệu, đó chính là dấu hiệu điển hình.

16

c. Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm có tính bắt buộc

Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi nó thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm. Nếu thiếu hoặc thừa bất kỳ một dấu hiệu nào đó thì nó có thể không phải là tội phạm hoặc tội phạm khác. Nghĩa là tất cả dấu hiệu của cấu thành tội phạm đều là điều kiện cần và đủ để định tội danh.

Các dấu hiệu của CTTP là các dấu hiệu bắt buộc được quy định ở phần chung hoặc phần các tội phạm cụ thể của BLHS.

Chú ý: Một số trường hợp trong đồng phạm hoặc phạm tội chưa đạt hay trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì hành vi của người phạm tội thiếu đi một hoặc một số các dấu hiệu trong một cấu thành tội phạm. Trường hợp này khi định tội phải kết hợp các quy phạm pháp luật phần chung về đồng phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm. Vì mỗi quy phạm pháp luật phần các tội phạm cụ thể chỉ phản ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã hoàn thành và đối với trường hợp phạm tội riêng lẻ.

. Phân loại cấu thành tội phạm

a. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm

3 loại CTTP như sau:Cấu thành tội phạm cơ bản là loại cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội, đó là những dấu hiệu mô tả tội phạm cho phép phân biệt giữa tội này với tội khác.

Cấu thành tội phạm cơ bản đa số được quy định ở khoản 1 của phần các tội phạm cụ thể của BLHS. Riêng Điều 93 Tội giết người, CTTP cơ bản được quy định ở Khoản 2.

Cấu thành tội phạm tăng nặng là loại cấu thành tội phạm ngoài các dấu hiệu định tội còn có thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (được gọi là các dấu hiệu định khung tăng nặng).

Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là loại cấu thành tội phạm ngoài các dấu hiệu định tội còn có thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể (được gọi là các dấu hiệu định khung giảm nhẹ).

Các dấu hiệu định khung giảm nhẹ được quy định tại khoản 4 của nhóm các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông (từ Điều 202 đến Điều 218).

Như vậy, có thể phác hoạ 3 loại CTTP này theo công thức sau: Cấu thành tội phạm cơ bản = các dấu hiệu định tội.

Cấu thành tội phạm tăng nặng = các dấu hiệu định tội + dấu hiệu định khung tăng

nặng.

Cấu thành tội phạm giảm nhẹ = dấu hiệu định tội + dấu hiệu định khung giảm

nhẹ.

Do đó, nội dung được phản ánh trong 3 loại CTTP là các dấu hiệu với 3 loại - dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung tăng nặng và dấu hiệu định khung giảm nhẹ.

Về phương diện khoa học luật hình sự thì các dấu hiệu được quy định trong mỗi CTTP trong BLHS cũng chính là các tình tiết. Vì vậy, tương ứng với 3 loại dấu hiệu trong CTTP là 3 loại tình tiết - tình tiết định tội, tình tiết định khung tăng nặng và tình tiết định khung giảm nhẹ.

Tình tiết định tội là những tình tiết được phản ánh bởi các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm cơ bản dùng để mô tả một loại tội. Chúng được quy định ở cả phần chung và phần các tội phạm cụ thể.

Tình tiết định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ là những tình tiết làm thay đổi một lượng đáng kể tính chất nguy hiểm cho xã hội của một loại tội.

Ngoài ra, trong BLHS còn quy định trong phần chung tại Điều 46 và Điều 48 một

loại tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là loại tình tiết không được ghi nhận trong các dấu hiệu cấu thành tội phạm (không có ý nghĩa trong việc định tội, định khung hình phạt mà chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt).

Chúng ta có thể phân biệt giữa tình tiết định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ với tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ TNHS như sau:

Tiêu chí so sánh

Tình tiết định khung

Tình tiết tăng nặng hoặc

tăng nặng, giảm nhẹ

giảm nhẹ.

- Sự thay đổi về mức  độ nguy hiểm

- Làm thay đổi một lượng

- Làm thay đổi một lượng

cho xã hội của tội phạm.

đáng kể.

không đáng kể.

- Ví trí pháp lý

-   Được   quy   định   trong

- Được quy định tại Điều

Khoản 2, 3, 4 phần các tội

46,   Điều   48   của   phần

phạm cụ thể

chung.

-  Tính  chất  pháp  lý  trong  việc  xác

- Bắt buộc.

- Không bắt buộc.

định CTTP.

b. Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc trong mặt khách quan của CTTP

Dựa vào tiêu chí này có 2 loại CTTP:

Cấu thành tội phạm hình thức là loại cấu thành tội phạm trong mặt khách quan chỉ có dấu hiệu hành vi khách quan.

Cấu thành tội phạm vật chất là loại cấu thành tội phạm có các dấu hiệu trong mặt khách quan là hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.

Cơ sở khoa học của việc xây dựng cấu thành tội phạm vật chất hoặc cấu thành tội phạm hình thức là:

* Nếu chỉ riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm hoặc hoặc hậu quả khó xác định thì xây dựng cấu thành tội phạm hình thức.

Ví dụ: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, Tội cướp tài sản.

* Nếu hậu quả dễ xác định hoặc bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm chỉ thể hiện đầy đủ trong cả dấu hiệu hành vi và hậu quả thì xây dựng cấu thành tội phạm vật chất.

Ví dụ: Tội trộm cắp tài sản, Tội giết người.

Ngoài ra, trong BLHS còn có một loại CTTP đặc biệt đó là cấu thành tội phạm cắt xén là loại cấu thành tội phạm mà trong mặt khách quan chỉ có dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng dấu hiệu hành vi không phải là phản ánh chính hành vi phạm tội. Loại CTTP này được quy định tại Điều 79 - Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân..

Trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm của Điều 79 được phản ảnh bởi một trong hai hành vi:

·          Hành vi thành lập tổ chức, về bản chất thì đây là hành vi chuẩn bị phạm tội. Vì vậy nó được gọi là cấu thành tội phạm cắt xén.

·            Hành vi tham gia vào tổ chức hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Đối với

hành vi này đây là cấu thành tội phạm hình thức.

4.3. Ý NGHĨA CỦA CẤU THÀNH TỘI PHẠM

4.3.1. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự

Điều 2 BLHS quy định: Cấu thành tội phạm là điều kiện cần và đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Điều kiện cần chỉ có dựa vào các dấu hiệu của cấu thành tội phạm mới xác định được trách nhiệm hình sự của người phạm tội.

Điều kiện đủ ngoài những dấu hiệu được phản ánh trong cấu thành tội phạm để xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội không cần xác định bất kỳ một dấu hiệu nào khác.

4.3.1. Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của định tội danh

Để định tội danh cho một trường hợp phạm tội cụ thể người áp dụng pháp luật phải căn cứ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm để đi đến kết luận hành vi đó phạm vào điều nào, khoản nào trong BLHS. Đó cũng chính là kết quả của hoạt động định tội danh.

18

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: