Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Anh huong AD den Dong Nai, Oc Eo

Chương 1. Khái quát lịch sử văn hóa Đồng Nai – vương quốc Phù Nam

Vài nét về lịch sử văn hóa Đồng Nai

Văn hóa Đồng Nai là tên gọi phức hệ văn hóa kim khí từ sơ kì đồ thau đến sơ kì sắt ở Đông Nam Bộ, tồn tại trong khoảng thiên niên kỉ trước công nguyên và đến khoảng thế kỉ thứ II trước công nguyên, có sự lan tỏa trên cả đất Nam Bộ với nền văn hóa Óc Eo và phát triển sang cả nửa đầu thiên niên kỉ I sau công nguyên. Hoạt động kinh tế chủ yếu của người Đồng Nai là nông nghiệp. Số nông cụ được tìm thấy khá nhiều trong các di chỉ cư trú. Tuy dấu vết của cây lúa chưa được tìm thấy, nhưng với việc phát hiện các lưỡi dao hái bằng đá (công cụ dùng để cắt lúa) của người Đồng Nai cho thấy họ đã biết trồng lúa. Đến giai đoạn Óc Eo, người ta đã biết trồng nhiều giống lúa khác nhau. Ngoài trồng trọt người ta còn khai thác các sản vật của rừng và làm nghề săn bắn. Giai đoạn Óc Eo một ngành kinh tế mới đã được phát triển là chăn nuôi. Người Đồng Nai đã chế tác để làm công cụ sản xuất, đồ trang sức, kĩ thuật chế tác đá vì thế cũng đạt trình độ khá cao. Người Đồng Nai cũngphát triển nghề chế tạo đồ đồng, Dốc Chùa là di chỉ xưởng đồ đồng lớn nhất của người Đồng Nai. Ngoài ra đồ sắt cũng đã xuất hiện. Đến giai đoạn Óc Eo đồ sắt được chế tạo và sử dụng phổ biến. Người Đồng Nai đã làm được đồ gốm bằng bàn xoay, gốm có chân đế và ràng, bi gốm…Các nghề xe sợi và chế tạo thủy tinh đã được sử dụng làm đồ trang sức.

Trong đời sống vật chất, tuy nguồn thức ăn phong phú nhưng cách thức chế biến của người Đồng Nai còn đơn giản. Nhà ở được làm bằng những vật liệu nhẹ, nhưng cũng có nơi biết đắp tường đất trên những địa hình cao.

Về đời sống tinh thần, người Đồng Nai theo tín ngưỡng bái vật giáo và cũng đã nảy sinh quan niệm về linh hồn.

Đến giai đoạn Óc Eo, trình độ kinh tế và đời sống vật chất, tinh thần của con người đã phát triển khá cao.

Địa bàn chủ yếu của văn hóa Óc Eo là khu vực châu thổ sông Cửu Long bao gồm nhiều vùng sinh thái khác nhau của các tỉnh An Giang (Óc Eo- Ba Thê), Kiên Giang (Đá Nổi, Nền Chùa, Tân Long), Đồng Tháp, vùng ven biển Tây Nam (U Minh, Năm Căn) kéo đến vùng rừng Sác duyên hải và vươn ra tận Biển Đông (khu vực từ cửa sông Tiền đến Cà Mau). Ngoài ra, khảo cổ học đã phát hiện ra nhiều di tích, di vật thuộc văn hóa Óc Eo ở các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, một phần Long An, Bình Thuận và thành phố Hồ Chí Minh.

Người Óc Eo phổ biến ở nhà sàn trên nền đất đắp cao. Các công trình kiến trúc phục vụ tôn giáo, tang ma (đền thờ, đền tháp, mộ hỏa táng) thường có quy mô lớn và kiên cố. Phương tiện đi lại của người Óc Eo chủ yếu bằng thuyền, ngựa, voi thông qua các hệ thống đường thủy, đường bộ. Họ ăn lúa gạo là chủ yếu. Phụ nữ Óc Eo thường mặc váy – xà rông và nam thường đóng khố - xam pốt.

Cư dân Óc Eo đặc biệt sùng tín Bàlamôn giáo và đạo Phật. Họ giỏi tạc tượng tròn (thần, phật) bằng gỗ, đá. Nghệ thuật chạm khắc trên đá và trên thân vàng khá phát triển. Người Óc Eo sáng tạo ra nhiều loại nhạc cụ và nghệ thuật ca múa nhạc của họ cũng đạt đến đỉnh cao.

Chủ nhân của văn hóa Óc Eo là những người thuộc nhóm nhân chủng Indonedien hay nguyên Mã Lai (proto – malais). Người Indonedien là thành phần chính tạo ra người Việt cổ. Họ có mặt trên lãnh thổ Việt Nam suốt từ thời kì đá mới đến văn hóa Đông Sơn. Bên cạnh lớp cư dân bản địa, ở Óc Eo cũng sớm xuất hiện những người gốc Ấn – Âu là các thương nhân, đạo sĩ, tăng lữ từ Trung Á, Ba Tư, La Mã hoặc những người ở khu vực lân cận bị Phù Nam bắt về làm nô lệ.

Những nhân tố ngoại nhập (con người, văn hóa, kĩ thuật, tôn giáo…)đặc biệt từ Ấn Độ, có vai trò rất lớn vào việc tạo dáng ra mô hình thành thị Óc Eo. Tuy nhiên, động lực cho sự xuất hiện và phát triển văn minh Óc Eo lại chính là những yếu tố bên trong.

Trên cơ sở đó mà nhà nước Phù Nam đã ra đời trên đất Nam Bộ vào thời kì sau.

Lịch sử văn hóa Phù Nam

Trên cơ sở văn hóa Óc Eo, đến thế kỉ I sau công nguyên đã ra đời trên vùng đất Nam Bộ một vương quốc tên là Phù Nam cùng với nó là sự hình thành nền văn minh Phù Nam. Theo các chứng tích còn sót lại trên lãnh thổ Việt Nam thì nền văn minh Phù Nam là cùng thời với nền văn hóa Óc Eo (trên khu vực tứ giác Long Xuyên). Văn hóa Óc Eo có nguồn gốc từ văn hóa Đồng Nai.

Phù Nam là tên phiên âm Hán – Việt của một quốc gia cổ trong lịch sử Đông Nam Á, xuất hiện vào khoảng đầu Công Nguyên, ở khu vực hạ lưu và châu thổ sông Mê Kông. Theo nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, thì trong thời kì hưng thịnh, vương quốc này về phía Đông, đã kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ, về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phần phía Bắc bán đảoMalaixia. Chung quanh cái tên gọi Phù Nam, hiện vẫn còn đang tranh cãi. Ý kiến được nhiều người tán đồng, đó là Phù Nam do chữ Fou Nan mà ra (gọi theo cách phát âm của người Trung Hoa). Còn từ ngữ này xuất phát từ ngôn ngữ Môn-Khmer cổ: “bonam”, mà ngày nay nó được đọc là phnom, có nghĩa là núi, hoặc đồi. Theo đó các vua Phù Nam đều lấy vương hiệu là Kurung bonam có nghĩa là vua núi. Thủ đô của Phù Nam, theo sách “Tân đường thư” là thành Đặc Mục, tiếng Phạn là Vyadhapura có nghĩa là “thành phố của những người đi săn”, gần ngọn núi Ba phnom ở làng Banam, thuộc tỉnh Prey Veng (Campuchia) ngày nay.

Về cư dân: Đa phần cư dân của Phù Nam chủ yếu là người Mã Lai-Đa Đảo, nói tiếng Mã Lai- Đa Đảo (Malayo-Polynésien) hay Nam Đảo (Austrron ésien). Ý kiến này phù hợp với ghi nhận của Lương thư (sử nhà Lương, Trung Quốc).

Phù Nam không phải là đế quốc đã được tổ chức thống nhất thành một bộ máy cai trị và bóc lột mà chỉ là sự tập hợp của những tiểu quốc, trong đó bộ phận chủ yếu của nó là chủ nhân của nền văn hóa Óc Eo trên đất Nam Bộ, nói tiếng Nam Đảo. Vùng đất này vào cuối thế kỷ VI đã bị người Chân Lạp (người Khơme) nói tiếng Nam Á thôn tính.

Theo Khang Thịnh - sứ giả của Ngô Tôn Quyền thời Tam quốc chép trong sách Phù Nam thổ tục thì ông vua đầu tiên của nước Phù Nam, có lẽ là một quý tộc người Ấn Độ hay là một tăng lữ Bàlamôn tên là Hỗn Điền. Một số học giả phương Tây cho rằng truyền thuyết Hỗn Điền là dị bản của truyền thuyết Ấn Độ về Kaundinya. Vương triều Kaundinya tồn tại khoảng hơn 150 năm, trải qua 3 đời vua (Hỗn Điền, Hỗn Bàn và Hỗn Bàn Bàn)

Một vị tướng của Phù Nam mà sách “Lương thư” của Trung Quốc phiên âm là Phạm Mạn lên làm vua, lập ra vương triều họ Phạm. Làm vua được 3 năm thì ông mất, con ông là Phạm Kinh Sinh nối ngôi, làm vua được khoảng 5 năm, đến năm 245 thì bị người anh họ tên Phạm Chiên giết để đoạt ngôi. Một người con khác của Phạm Mạn là Phạm Trường nổi dậy lật đổ được Phạm Chiên nhưng bị tướng Phạm tầm giết. Phạm Tầm lên làm vua, Phù Nam dưới vương triều họ Phạm trở nên hùng mạnh. Phạm Mạn đã đem quân đi chinh phạt được tới hơn 10 nước, mở rộng đáng kể lãnh thổ. Đặc biệt, dưới thời Phạm Chiên đã thúc đẩy quan hệ ngoại giao với Ấn Độ. Còn Phạm Tần thúc đẩy quan hệ ngoại giao với nhà Tấn ở Trung Quốc. Người Phù Nam đã có chữ viết, kiểu chữ viết có nguồn gốc từ Ấn Độ.

Các nhà khoa học cho rằng vào khoảng giữa thế kỷ IV, quyền cai trị Phù Nam một lần nữa lại rơi vào tay người Ấn Độ. Sách “Lương thư” và “Tấn thư” có nhắc tới một ngườilà Thiên Trúc Thiên Đàn đã triều cống Mục Đế.

Đến đầu hoặc giữa thế kỷ V, vẫn là người Ấn Độ nắm quyền cai trị Phù Nam. Sách “Lương thư” cho biết một người Thiên Trúc là Kiều Chân Như mà các nhà khoa học sau này cho rằng đó có thể là một người Brahman Ấn Độ. Vào thời kì này, nhiều thương gia Phù Nam sang buôn bán ở Quảng Châu (Trung Quốc).

Khi Kaundinya mất, con là Sri Indravarman (phiên âm là Tri Lê Đà Bạt Ma) lên thay, và đã cho sứ sang triều cống Tống Văn Đế (nhà Lưu Tống) vào những năm 438 và 453. Cũng theo sách “Lương thư” thì năm 431 – 432, nước Lâm Ấp muốn đánh Giao Châu của người Việt, nên có yêu cầu vua Phù Nam giúp sức, nhưng Phù Nam đã từ chối.

Khi Sri Indravarman mất, người nối ngôi la Jayavarman (phiên âm là Đồ Tà Bạt Ma). Ông đã phái một nhà sư Ấn Độ tên Nagasena đem lễ vật sang tặng vua Nam Tề năm 484, và yêu cầu nhà vua giúp mình đánh Lâm Ấp nhưng bị từ chối. Các nhà khoa học phát hiện bia kí viết bằng chữ Sanskrit cho hay dưới thời Jayavarman Phù Nam đã xây dựng nhiều công trình thủy lợi, biến nhiều vùng đầm lầy rộng lớn ở hạ lưu sông Mê Kông thành những đồng bằng phì nhiêu, trù phú.

Sau khi Jayavarman mất thì Rudravarman lên kế vị (phiên âm là Lưu Đà Bạt Ma). Đây là ông vua cuối cùng của Phù Nam. Giữa thế kỷ V trở đi, Chân Lạp nổi lên, chiếm kinh đô của Phù Nam, hợp nhất lãnh thổ Phù Nam với Chân Lạp. Kết cục, vương quốc Phù Nam đã bị sụp đổ vào năm 627 với trên 6 thế kỉ tồn tại, dưới sự trị vì của khoảng 18 đời vua.

Chương 2. Sự giao lưu tiếp biến văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Đồng Nai - Phù Nam

2.1. Con đường giao lưu văn hóa

2.1.1. Con đường thương mại

Từ bao đời nay sự ra đời của một quốc gia bao giờ cũng có xuất hiện thành quất, lâu đài nhưng đối với Phù Nam thì đây là một ngoại lệ. Phù Nam ra đời bằng sự xuất hiện các đô thị buôn bán trên biển, đây là nét đặc trưng vốn có trong sự hình thành một đất nước. Óc Eo là thương cảng quốc tế nổi tiếng của Phù Nam. Tại đây đã diễn ra các hoạt động thương mại giữa Phù Nam với Ấn Độ, Trung Quốc, Đông Nam Á, Trung Á và Địa Trung Hải.

Chính vị trí địa lý - đặc trưng của giao thông biển là điều kiện thuận lợi để văn hóa Ấn Độ có thể dễ dàng được thâm nhập một cách tự nhiên. Năm 1994 Mallreret đã tiến hành khai quật di chỉ Óc Eo, đã phát hiện nhiều hiện vật bằng đồng, sắt, thiếc nói lên nghề luyện kim bản địa. Thêm vào đó còn có nhiều hiện vật có nguồn gốc nước ngoài: Một chiếc gương đồng có khắc hai chữ Hán của thời hậu Hán (250-220), dây chuyền bằng ngọc có khắc chữ, hai huy chương vàng Roma

Thời Antonius (138- 11), 3 mảnh đồng, vàng (trong đó có 1 viên ngọc khắc chư Ấn Độ cùng với số nữ trang bằng vàng nặng 1120gam và 10.000 hạt ngọc. Như vậy thông qua con dường buôn bán các thương nhân Ấn Độ và thương nhân Phù Nam đã có sự giao lưu và tiếp xúc. Bên cạnh sự giao lưu buôn bán thì các thương nhân Ấn Độ đã truyền bá văn hóa của dân tộc mình một cách tự nhiên đến với cộng đồng cư dân ở đây.

2.1.2. Con đường truyền đạo

Ngoài quân sự, đất nước Phù Nam khi ấy còn có một nền văn hóa khá phát triển. Ðể chép kinh, người Phù Nam đã mượn chữ cổ Ấn Ðộ. Trong sách “Tấn thư” (sử nhà Tấn) có ghi lại: “Họ có nhiều sách và thư viện... chữ viết của họ giống như chữ viết của người Hồ... Vua cũng đọc được những bài văn viết bằng chữ Ấn Ðộ, khoảng 3000 chữ”. Rõ ràng Phù Nam là một đất nước có trình độ văn hóa cao. Ngoài ra, do ảnh hưởng của văn hóa Ấn Ðộ nên Phù Nam đã tiếp thu tôn giáo Ấn Ðộ trở thành một trung tâm Phật giáo

Sự giao lưu văn hóa của vương quốc Phù Nam còn diễn ra trên 2 con đường là con đường tơ lụa và con đường di dân.

2.2. Các lĩnh vực giao lưu, tiếp biến văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Đồng Nai - Phù Nam

2.1.1. Chính trị - Xã hội

Tổ chức Nhà nước

Trong quá trình lập nước, vương quốc Phù Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ. Tương truyền, Kaundinya đã đem luật pháp, tôn giáo chữ viết, cách ăn mặc của Ấn Độ truyền sang Phù Nam. Chế độ nhà nước là chế độ phong kiến. Vương quyền được kết hợp chặt chẽ với thần quyền, tôn giáo được sử dụng như một công cụ hữu hiệu của giai cấp thống trị. Xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo thành các tầng lớp quý tộc, bình dân và nô lệ. Như vậy, vương quốc được tổ chức theo chế độ quân chủ. Vua tự xưng là Hoàng đế vũ trụ (Parvatabhupâla), là hiện thân của thần linh hay được cảm thông với thần linh. Đất nước được chia làm 7 vùng và giao cho các con trai của vua trấn nhậm. Nhà vua có cả một bộ máy quan lại họp thành triều đình. Thuế là nguồn thu nhập chính của quốc gia. Thuế có thể đóng bằng vàng, bạc, châu ngọc, hương liệu... Nhân dân trong nước phải đóng thuế cho nhà vua bằng vàng bạc, châu ngọc, hương liệu, ngoài ra nhà vua còn thu lợi từ việc bán nô lệ và đánh thuế thuyền buôn nước ngoài.

Tuy nhiên: theo quan điểm của Giáo sư Lương Ninh trong cuốn “ Vương quốc Phù Nam lịch sử và văn hóa”, tổ chức nhà nước lại không học tập theo mô hình Mandala của Ấn Độ: “Tuy nhiên, Đông Nam Á có những đặc thù nên “lý thuyết Mandala” tản quyền/ vùng của ông có sự hấp dẫn nhất định, nhưng theo tôi Phù Nam thì không”. Ông giải thích rằng: Phổ hệ liên tục gồm 13 đời vua kéo dài hơn 6 thế kỉ, phải coi là một vương triều lâu bền, có thể so sánh với độ dài của mọi triều đại phong kiến tập quyền châu Á.

Có hai giai đoạn tôn người Ấn Độ làm vua, chắc là thành thạo việc quản lí chính quyền, am hiểu nguồn và con đường buôn bán đông - tây, hẳn là xuất phát từ nhu cầu của thực tế, đã không làm gián đoạn sự phát triển và truyền thống Phù Nam mà còn làm tăng tính độc đáo và linh hoạt của vương quyền - một nét độc đáo không từng thấy ở Đông Nam Á”.

Như vậy, theo giáo sư Lương Ninh, Phù Nam không tiếp thu mô hình chính trị Mandala tản quyền theo kiểu Ấn Độ mà hướng tới sự thống nhất các tiểu quốc và sau này phát triển cực thịnh thành “cường quốc Đông Nam Á

Luật pháp: Pháp luật được thi hành theo quan niệm “thần đoán” ( đoạn trích sử Nam Tề ở phần Trong thư tịch cổ).

2.1.2. Văn hóa vật chất

Trong đời sống kinh tế của cư dân Phù Nam cho thấy được sự giao lưu giữa các hoạt động của người Ấn và người Phù Nam

Cư dân Phù Nam làm ruộng theo lối “gieo giống một năm gặt ba năm” (tức là loại lúa nổi). Để phát triển nông nghiệp, nhà vua cho xây dựng những hồ chứa nước, đào sông lạch lập thành hệ thống thủy lợi. Các nghề thủ công rất phát triển như: luyện đồng, luyện sắt, luyện thiếc, chạm trổ trên đá, trên gỗ, trên vành lá, dát bạc, làm gốm, làm đồ trang sức, làm đồ thủy tinh, đồ mỹ nghệ.v.v…Đặc biệt còn có một bộ phận chuyên làm nghề buôn bán. Óc Eo là thương cảng quốc tế nổi tiếng của Phù Nam. Tại đây đã diễn ra các hoạt động thương mại giữa Phù Nam với Ấn Độ, Trung Quốc, Đông Nam Á, Trung Á và Địa Trung Hải.

Trong đời sống vật chất, lương thực chính của người Phù Nam là lúa gạo. Họ có nhiều đồ nấu và đồ đựng bằng gốm. trong trang phục, nam giới đóng khố và mặc sa-rông, nữ giới mặc váy và áo chui đầu (poncho). Cả nam và nữ đều sử dụng đồ trang sức như nhẫn, vòng tay, vòng cổ, hoa tai. Nhà ở được làm bằng tre, gỗ và lợp bằng lá dừa nước. Ở nơi đất cao, người ta làm nhà trên nền đất có rào gỗ ở xung quanh.

Như vậy, cư dân Phù Nam từ xưa đã có sự giao lưu kinh tế với người Ấn Độ.

2.1.3. Tín ngưỡng, tôn giáo

Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là Bàlamôn giáo về sau là Hindu giáo và Phật giáo, ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Jain, đạo Xích…. Trong quá trình phát triển đã ảnh hưởng ra các nước, các khu vực bên ngoài, tiêu biểu là các quốc gia Đông Nam Á thông qua sự hoạt động của nhà truyền giáo, di dân đặc biệt sự trao đổi buôn bán trên sông nước biển cả đại dương. Chính vì thế mà những tôn giáo lớn xuất phát từ Ấn Độ đã ảnh hưởng đến các nước Đông Nam Á, văn hóa Phù Nam cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó.

Trước khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, trong đời sống tinh thần, từ lâu người Phù Nam theo tín ngưỡng bái vật giáo với truyền thống thờ đá mà nhiều nhà nghiên cứu cho là sự tồn tại của truyền thống thờ cự thạch. Tục thờ sinh thực khí bằng đất nung, bằng đá cuội tự nhiên và những hình tượng thảo mộc, cầm thú trên các hiện vật hiện thấy có thể đã có từ lâu đời ở vùng đông bằng châu thổ Nam Bộ.

Đến khi văn hóa Ấn Độ được truyền sang Phù Nam thì cả Bàlamôn giáo và Phật giáo đều có mặt ở đây. Đầu tiên nước Phù Nam theo đạo Bàlamôn về sau theo đạo Phật. Tôn giáo Bàlamôn cũng rất thịnh hành, thuộc phái Siva giáo. Theo mô tả của các sử gia Nam Tề, chỉ có thể thấy người Phù Nam thờ ba vị thần Ấn Độ giáo theo tam vị nhất thể (Trimuriti) giống với cư dân Ấn Độ. Thế kỷ V, VI là giai đoạn thịnh đạt của đạo Phật, Phù Nam bấy giờ giữ vai trò trung tâm chuyển dịch lớn của Phật giáo về phía Đông. Tình hình Phật giáo ở Phù Nam lúc bấy giờ, Tục Cao Tăng truyện của Huệ Hạo, vào cuối triều Huệ Đế nhà Tần (290-306) cho biết có một nhà sư Ấn Độ tên Ma Ha Kỳ Vực chu du Đông độ đã có đến Phù Nam, nhưng không ghi rõ là sư lưu lại đây bao lâu, đã làm gì và sinh hoạt Phật giáo ở Phù Nam như thế nào. Rất may trong bi ký Võ Cạnh ở Nha Trang Việt Nam có nói đến một người tên là Sri Mara mà các học giả người Pháp là Barth và Bergaigne cho là Phạm Sư Man, một vị vua Phù Nam thời xưa đồng thời là một Phật tử sùng tín, bảo vệ Phật pháp. Bia ký được xác định niên đại vào khoảng thế kỷ II sau Tây lịch. Qua tư liệu bia ký, có thể đoán vào thế kỷ II Tây lịch, đạo Phật ở Phù Nam đã vượt qua giai đoạn truyền bá.

Trong Phật giáo có cả Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa. Phù Nam là một trung tâm Phật giáo lớn ở Đông Nam Á lúc bấy giờ. Các nhà khảo cổ học đã tìm được rất nhiều các tượng thần, Phật, vật linh, ngẫu tượng của đạo Bàlamôn và đạo Phật ở Phù Nam. Đó là các tượng Braham, Visnu, Siva, Suria, Buddhapad (Phật đứng), Hairhara, Dvapala, Ganesa, Garuda, Nandin, Naga, Linga và Yoni.

Như vậy, vương quốc Phù Nam cổ đã tiếp nhận những tôn giáo lớn ở Ấn Độ và chịu ảnh hưởng một cách sâu sắc. Tuy nhiên, điểm khác biệt khi các tôn giáo này du nhập vào Phù Nam là ở Ấn Độ các tôn giáo, các giáo phái của Phật giáo (Tiểu thừa và Đại thừa), tồn tại không hòa hợp còn sang Phù Nam thì các tôn giáo (Ấn Độ giáo, Phật giáo), giữa các giáo Phái Phật giáo tồn tại một cách hòa hợp, không tranh giành, đả kích lẫn nhau như ở Ấn Độ.

2.1.4. Chữ viết, văn học

Trong quá trình lập nước, vương quốc Phù Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ. Tương truyền, Kaundinya đã đem luật pháp, tôn giáo chữ viết, cách ăn mặc của Ấn Độ truyền sang Phù Nam. Do vậy, từ đầu Phù Nam đã tiếp thu và sử dụng chữ viết của Ấn Độ. Lúc đầu là loại chữ Brahmi và về sau là loại chữ Sanskrit (chữ Phạn). Năm 1944 L.Malleret đã phát hiện được vài chiếc nhẫn mặt ngọc có khắc chữ Brahmi là loại chữ viết được sử dụng sớm nhất của Ấn Độ (An Giang). Không chỉ ghi chép trên bia đá, người Phù Nam còn dùng thứ chữ viết đó ghi chép trên lá cây để làm sách và họ có nhiều sách vở. Trong cung điện của nhà vua có cả một kho sách lớn (thứ khố). Sách “Tấn Thư” cho biết: “vua Phù Nam là những người đọc được những bài văn viết bằng chữ Ấn Độ, mỗi bài dài khoảng 300 chữ”.

Qua các Văn bia cho thấy một số bằng chứng về chữ viết và văn học của người Phù Nam như:

Năm 1931, G.Coedes công bố một số tấm bia văn khắc chữ Phạn của Phù Nam. Tấm bia thứ nhất được phát hiện ở Gò Tháp, Đồng Tháp Mười, trong một phế tích gọi là Tháp năm ngọn, chính quyền Pháp chuyển về Sa Đéc, và chuyển về Sài Gòn, ghi số thứ tự K.5, nay trưng bày trong bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh. Bia được gọi tắt là Gunavarman, có niên đại cuối thế kỉ V. Tuy bị sứt mẻ khá nhiều, nhưng vẫn đọc thấy nét chữ sắc cạnh, tinh tế, văn phong khá nhuần nhuyễn, các điển tích (kavya), chữ Phạn được sử dụng chính xác, sinh động, văn chương hình ảnh, lí thú.

“Ân sủng của Người mà… Đức vua… Bàn tay Người khơi cạn nước… biến Biển Sữa thành một đầm hồ hương thảo… Cây xanh là bàn chân của Bhavat đã được đặt trên thế gian…”

Căn cứ vào tấm bia này ta thấy rằng người Phù Nam đã sử dụng các điển tích của Ấn Độ trên cơ sở tiếp thu một cách chính xác các điển tích đó. Tuy nhiên, cách thể hiện các điển tích đó lại mang sắc thái riêng, cách thức thể hiện sinh động hơn và so với cách thể hiện của người Ấn Độ.

Nội dung tấm bia: Hoàng tử Gunavarman, con trai đức vua - có thể chính là đức vua Jayavarman, mẹ là hoàng hậu - một người phụ nữ rạng rỡ với phong thái, lại là Mặt Trăng (Soma) của dòng Kaundinya. Hoàng tử này vâng ý chính mẫu của chàng, đã tát cạn đầm lầy, biến đầm thành hồ nước, vượt đất làm nền, xây dựng một “cơ sở” (một ngôi đền) rồi chính chàng được quyền cai quản nơi này gồm những người sống bằng lộc thánh (trên đất khai khẩn từ bùn lầy).

Tấm bia Phù Nam thứ 2 còn gọi là Neak Ta Dambang Dek là tên đất (ông thần rắn), tấm bia cao gần bằng bia 1, khắc 18 dòng, gồm 5 khổ thơ Sanskrit. Bia 1 là của con bia 2 là của mẹ, nên văn Phạn ngữ cũng như niên đại căn bản không khác nhau, đều vào cuối thế kỉ V.

Một tấm bia Phù Nam khác gọi là Tráp Đá hay Đá Nổi, phát hiện trên đất cày ruộng nhà ông Đặng Văn Dắn cách Ba Thê 10km về phía Đông Bắc (An Giang). Được ông L.Malleret công bố. Chữ khắc trên cột vuông, mỗi cạnh 0,31m, sắc nét, giống chữ bia Gò Tháp (Gunavarman), cùng thời thế kỷ thứ V. Do bia bị lưỡi cày húc, bị vỡ theo chiều dọc, chỉ còn mấy chữ cuối của bài văn 8 dòng, không đọc được.

Những tấm văn bia khắc trên đá tuy không nhiều, nhưng cũng không phải là quá ít, nếu so sánh với nhiều nơi khác, là những bản văn rất quý hiếm, là hiện thân còn lại của cả nghìn bài viết trên lá cây. Cho thấy rõ trình độ văn hóa bấy giờ của vương quốc Phù Nam.

Như vậy người Phù Nam đã tiếp nhận chữ Sanskrit của người Ấn Độ, không có sự tiếp biến hay sáng tạo thêm. Chữ viết là loại chữ Phạn (Sanskrit) có nguồn gốc từ bộ chữ cái của người Pallava, ở Ấn Độ. Trên cơ sở chữ viết của người Ấn Độ, người Phù Nam sử dụng loại chữ viết đó để sáng tác văn học.

2.1.5. Nghệ thuật

Các ngành nghệ thuật âm nhạc, kiến trúc, điêu khắc đều rất phát triển. Thư tịch Trung Hoa cho biết về các sinh hoạt ca múa nhạc của Phù Nam. Đặc biệt, đối với nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đã được nguồn tư liệu khảo cổ học cho biết khá đầy đủ.

2.1.5.1. Kiến trúc

Kiến trúc nhà cửa, đô thị của Phù Nam rất phong phú, với sự quy hoạch hợp lí, tạo thành các đô thị hình tia, rất thuận tiện cho việc cư trú, đi lại, buôn bán.

Nền văn hoá này còn để lại nhiều kiến trúc khác nhau như vết tích nhà sàn, những kiến trúc đồ sộ bằng gạch đá lẫn lộn thể hiện trình độ cao trong kỹ thuật xây dựng. Nghệ thuật tạc tượng điêu luyện gồm hai nhóm tượng Ấn Độ giáo và Phật giáo.

Các cuộc khai quật quan trọng là tại các di tích Nền Chùa (Kiên Giang), Óc Eo (An Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), Đá Nổi (An Giang), Cây Gáo (Đồng Nai), Lưu Cừ (Trà Vinh), Bình Tả- Gò Xoài (Long An), Gò Thành (Tiền Giang), Phụng Sơn Tự- Chùa Gò (TP.HCM)…Đây cũng là những Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia được bảo tồn và tôn tạo thành những bảo tàng ngoài trời phục vụ cho nghiên cứu, học tập và du lịch.

Di tích kiến trúc trong văn hóa Óc Eo gồm di tích cư trú, kiến trúc đền tháp và mộ táng. Vật liệu xây dựng gồm gỗ, gạch, đá: dấu tích các cọc nhà sàn và một số cấu kiện trang trí hoa văn, phế tích hay nền móng đền tháp thờ hoặc đền tháp -mộ táng. Gỗ và đá là nguyên vật liệu cư dân bản điạ quen dùng từ thời tiền sử còn gạch là vật liệu mới do tiếp thu kỹ thuật của Ấn Độ từ đầu Công nguyên. Vật liệu đá có kích thước rất lớn, tham gia vào các công trình là bộ phận của kiến trúc chứ không chỉ là các chi tiết trang trí, được lắp ghép - kết nối bằng kỹ thuật chốt mộng.

Hầu hết phế tích cho biết đây là đền tháp theo kiểu Ấn Độ có bình đồ hình vuông, nền móng dày đến hơn 1m xây bằng gạch, đất sét và đá sỏi để có thể chịu lực cuả công trình đồ sộ bên trên.

Đặc biệt, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện được loại hình mộ táng mà trước đây các học giả Pháp chưa biết đến. Đó là các huyệt mộ hình vuông, hình chữ nhật hay hình phễu, bên trên ốp gạch hay lát đá tạo thành bề mặt khá bằng phẳng. Trong các huyệt mộ có cát trắng lẫn nhiều hiện vật quý giá như các mảnh vàng chạm khắc những biểu tượng của Bàlamôn hay Phật giáo, đồ trang sức, một số đồ tuỳ táng khác.

2.1.5.2. Điêu khắc

Nghệ thuật tượng hình của Phù Nam chủ yếu là tượng tròn bằng gỗ và bằng đá. Họ chạm khắc trên đá quý và trên vàng lá.

Tượng

Các bức tượng tìm thấy trong nền văn hóa Óc Eo và quốc gia Phù Nam chủ yếu là các tượng thờ các vị thần của Ấn Độ giáo và của Phật giáo. Tượng thờ Bàlamôn và Phật giáo đa phần được làm bằng đá và bằng gỗ, một số ít bằng đồng, được tìm thấy trong nhiều di tích và rải rác trên khắp vùng Nam bộ cả miền Tây và miền Đông. Vẻ mặt các pho tượng Phật ở đây đều đầy đặn, toát lên vẻ hiền từ, thân hình mềm mại, từng nét uốn lượn nhẹ nhàng. Đối với các tượng Bàlamôn giáo, người nghệ nhân lại hướng theo cái thực tạo cho thần một dáng dấp như người thật.

.

Tượng người bằng đồng

Giai đoạn phát triển rực rỡ nhất cuả nghệ thuật điêu khắc Hindu giáo và Phật giáo ở đây là từ TK V đến TK VII. Sự đa dạng về loại hình và hình thức thể hiện đã phản ánh sự phức tạp và đan xen của các nguồn gốc ảnh hưởng trong đó chủ yếu là nghệ thuật Ấn Độ, đồng thời vẫn thể hiện rõ xu hướng hiện thực - bản điạ hóa các hình tượng tôn giáo Ấn Độ. Về loại hình không phải chỉ có tượng và biểu tượng thần phật mà còn có nhiều hình tượng linh thú, thần thoại trong điện thờ Ấn Độ giáo và Phật giáo.

Đặc biệt trong văn hóa Óc Eo có những pho tượng Phật bằng gỗ khá lớn và độc đáo như sưu tập tượng gỗ ở di tích Gò Tháp. Truyền thống nghệ thuật tượng cổ ở Nam bộ còn được duy trì và phát triển trong giai đoạn sau, từ TK VIII trở đi mà nhiều nhà nghiên cứu tạm gọi là “giai đoạn hậu Óc Eo”. Nghệ thuật Phật giáo và Ấn Độ giáo đến đồng bằng sông Cửu Long thông qua giao lưu trao đổi các vật phẩm chủ yếu bằng đường biển, chúng góp phần làm giàu thêm văn hóa bản điạ và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự hình thành, phát triển các trung tâm tôn giáo- văn hóa- kinh tế- chính trị lớn ở vùng đất này trong những thế kỷ đầu Công nguyên.

Đề tài của điêu khắc liên quan chủ yếu đến tôn giáo, đặc biệt là Đạo Bàlamôn và Đạo Phật.

Tuy cùng đề tài nhưng cách thể hiện có sự khác biệt so với điêu khắc Ấn Độ. Ở đây hình thành các phong cách điêu khắc tượng riêng biệt:

+ Phongcách tượng phật Phù Nam: tượng đứng...

+ Phong cách tượng Visnu Phù Nam: Đầu tượng đội mũ trụ...

Chất liệu tạc tượng bằng gỗ nhiều hơn đá.

Làm đồ trang sức

Hàng ngàn hiện vật nguyên vẹn làm bằng các chất liệu như vàng, bạc, đồng, thiếc, chì, thuỷ tinh, đá, gỗ, gốm và hàng trăm ngàn mảnh hiện vật đang được bảo quản và trưng bày tại bảo tàng các tỉnh Nam Bộ là nguồn tài liệu chủ yếu giúp các nhà khoa học nghiên cứu về nhiều mặt đời sống cư dân văn hóa Óc Eo. Nổi bật là các loại đồ trang sức, tượng thờ và đồ gốm gia dụng. Đây cũng là sản phẩm của các nghề thủ công phát triển cao, đa dạng và tinh xảo. Nhiều di chỉ xưởng chế tạo đồ gốm, đồ trang sức được tìm thấy ở khu di tích lớn như Óc Eo - Ba Thê, Nền Chuà, Cạnh Đền, Gò Tháp, Gò Hàng…

+ Trang sức bằng thủy tinh: thủy tinh có xuất xứ từ Ấn Độ...

Hiện vật bằng vàng có nhiều kiểu dáng như nhẫn, bông tai, hạt chuỗi, các lá vàng chạm khắc chế tác bằng nhiều kỹ thuật khác nhau mà đặc sắc nhất là kỹ thuật khắc miết tạo ra hình và chữ trên lá vàng. Đồ trang sức bằng đá ngọc, mã não, thạch anh, thuỷ tinh với nhiều màu sắc, nhiều kích cỡ, nhiều hình dáng. Đặc biệt là những con dấu, mặt nhẫn khắc hình người, động vật, khắc chữ Phạn cổ và các loại tiền vàng, bạc, hợp kim thiếc. Sản phẩm từ kim loại màu phổ biến hợp kim thiếc - đến mức nhiều người coi văn hóa Óc Eo là “văn hóa đồ thiếc”. Nếu kỹ thuật sản xuất thuỷ tinh, vàng, nguyên liệu và sản phẩm mã não được người Óc Eo tiếp thu từ Ấn Độ thì có thể cho rằng, nguyên liệu và kỹ thuật sản xuất đồ thiếc tại Óc Eo là đến từ bán đảo Malayxia - khu vực có trữ lượng thiếc vào loại nhiều lớn thế giới và nghề truyền thống chế tạo đồ thiếc còn nổi tiếng đến ngày nay. Bán đảo Malaixia cũng là một trong những trung tâm quan trọng cuả Vương quốc cổ Phù Nam, tương tự trung tâm Óc Eo - Ba Thê -Cạnh Đền ở đồng bằng sông Cửu Long.

Nhìn chung, những biểu hiện nghệ thuật của văn hóa Phù Nam mang một số yếu tố Ấn Độ, Trung Hoa, Địa Trung Hải, nhưng nó vẫn xác định được những nét đặc trưng của sắc thái bản địa, có thể phân biệt được không chỉ với Ấn Độ mà với cả những nghệ thuật khác trong cùng một môi trường địa lí - xã hội là Chân Lạp và Champa.

3.1. Nhận xét, đánh giá

Qua việc tìm hiểu sự giao lưu và tiếp biến của văn hóa Ấn Độ đối với văn hóa Đồng Nai Phù Nam trên các lĩnh vực, ta thấy được rằng:

+ Trên cơ sở văn hóa bản địa lâu đời, từ văn hóa Đồng Nai và sự phát triển cực thịnh của thị cảng Ốc Eo và sự ra đời của văn hóa Phù Nam đã hình thành cái gốc bản địa. Để từ đó tiếp thu có chọn lọc văn hóa Ấn Độ, tồn tại và phát triển dựa trên cơ sở cái gốc của mình đã làm phong phú thêm bản sắc văn hóa cư dân Phù Nam.

+ Qua sự giao lưu, tiếp biến văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Đồng Nai - Phù Nam chỉ là một phần nhỏ nhưng thấy được độ ảnh hưởng rất lớn của văn hóa Ấn Độ đối với các nước Đông Nam Á nói chung. Họ đã góp phần xây dựng các quốc gia “Ấn Độ hóa”. Ảnh hưởng của Ấn Độ bắt rễ rất nhanh, bằng chứng về điều đó có thể tìm thấy ở khắp nơi, trên phương diện ngôn ngữ, văn học hoặc các di tích văn hóa khác. Ảnh hưởng của Ấn Độ đã đem lại cho các quốc gia “Ấn Độ hóa” nhiều thành tựu cho sự phát triển lịch sử văn hóa của khu vực này.

+ Văn hóa Ấn Độ đã dung hợp với văn hóa bản địa tạo nên nhiều sắc thái đa dạng song không mất đi bản sắc địa phương. Giáo sư Lương Ninh đã nhận xét một cách xác đáng: “hình nhưmỗi nước Đông Nam Á đã chọn cho cây cổ thụ xum xuê của Ấn Độ một vài cành lá thích hợp với mình”.

+ Sự du nhập của văn hóa Ấn Độ không phải là sự xâm nhập vũ lực của những kẻ đi chinh phục, mà chủ yếu là do sự thâm nhập trên lĩnh vực văn hóa được tiến hành một cách hòa bình và hệ quả của việc du nhập đó có ý nghĩa rất lớn lao đối với nền văn hóa Phù Nam.

+ Nền văn hóa Ấn Độ đã ảnh hưởng đến văn hóa Phù Nam trên tất cả các lĩnh vực từ thể chế chính trị, ngôn ngữ, chữ viết, tôn giáo và nghệ thuật..tạo ra sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố.

+ Còn đối với Đồng Nai - Phù Nam trên cơ sở giao lưu, tiếp thu có chọn lọc một cách tinh tế họ đã kết hợp với nền văn hóa bản địa tạo nên một nền văn hóa đặc sắc cho vương quốc của mình. Góp một phần quan trọng trong kho tàng văn hóa Việt Nam.

+ Vương quốc Phù Nam chỉ tồn tại được khoảng bảy thế kỷ đầu công nguyên, nhưng với mức độ phát triển cao của văn hóa và quá trình giao lưu và tiếp biến với văn hóa Ấn Độ. Văn hóa của các quốc gia khác đã phát triển mạnh mẽ, cực thịnh trong giai đoạn hoàng kim, đã trở thành “cường quốc”, trong khu vực vào những thế kỷ đầu công nguyên. Tuy nhiên, mỗi nền văn hóa phát triển cao nhưng lại suy yếu và suy vong nhanh chóng khiến cho chúng ta rất khó tìm hiểu hết giá trị và văn hóa của cư dân Phù Nam cổ xưa mà chỉ tìm thấy được qua các di chỉ khảo cổ, thư tịch cổ, các hiện vật và bia ký còn xót lại cho đến ngày nay. Do đó, việc tìm hiểu quá trình giao lưu và tiếp biến của văn hóa Ấn Độ đối với văn hóa Đồng Nai, Phù Nam còn hạn chế.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: