25. Francis Bonnefoy và đức vua
Dưới sự khống chế của quân cách mạng, Arthur theo đoàn người trở về cung điện.
Francis ra lệnh giam Arthur ở trong một buồng riêng trên thuyền. Nói cho đúng, thì buồng này chẳng phải nơi giam giữ tội phạm, bởi vì hắn chung buồng với "đức vua". Francis bảo với cấp dưới anh rằng Arthur là một đối tượng nguy hiểm, nên tốt hơn hết vẫn cần phải ở trong tầm mắt giám sát của anh. Arthur thì, ngoài việc bị xích lại, bị cấm chạm vào bất kỳ thứ gì sắc nhọn và bị người hầu giám sát mỗi khi đi vệ sinh, thì hắn không bị đối xử quá tệ.
"Xem ai mới là người bị bắt nào?" Francis đẩy Arthur xuống giường, giễu cợt nâng cằm Arthur lên. "Đêm nay ngài phục vụ tôi cho tốt nhé?"
Arthur chưa thể hết bàng hoàng. Hắn chỉ có thể trả lời:
"Tôi bây giờ như cá nằm trên thớt, anh muốn làm gì thì cứ làm."
Francis cười xòa, lắc đầu. Anh nằm phịch xuống giường ngay bên cạnh Arthur, ngả lên vai hắn. Mái tóc bạch kim mềm mại của anh cọ vào làn da nhợt nhạt của Arthur. Arthur cũng không bài xích anh, mà đưa tay cầm lấy bàn tay thon thả đang đặt lên ngực hắn.
Thật kỳ lạ. Chỉ vài giờ trước, một người là quý tộc, một người là tội nhân. Không lâu sau, quý tộc trở thành tội nhân, còn tội nhân trở thành đức vua. Và đến cuối cùng, họ vẫn nằm đây cùng nhau, như những ngày Francis đột nhập vào dinh thự Kirkland để ôm Arthur ngủ, như nhiều năm trước bọn họ quấn quýt ở nhà của vị bác sĩ kia, như khi họ nằm tựa vào nhau để ngủ trong ngục tù tối tăm và đôi mắt xanh lục của Arthur hãy còn mù lòa.
Đêm đó, Francis không ép Arthur phải làm gì cả. Họ chỉ ngủ bên cạnh nhau. Đêm tiếp theo, Francis ngỏ ý, Arthur không từ chối. Đêm thứ ba, Arthur cắn lên gáy của Francis, và Francis đã nhiệt tình đáp lại.
"Bây giờ chúng ta là gì của nhau?" Arthur hỏi.
"Kẻ thù." Francis đáp.
"Khi anh đang ngồi trên người tôi?"
"Ngài không cần phải lo. Nếu có chuyện gì không hay xảy ra, tôi sẽ là người chịu trách nhiệm." Francis nói trước khi phát ra một tiếng rên rỉ ngọt ngào khiến Arthur chỉ muốn tan chảy vào bên trong Francis.
Arthur biết Francis đang đề cập đến điều gì. Hắn đưa tay sờ lên bụng dưới của Francis, không biết liệu đã có tin tức gì về đứa trẻ chưa, hay nếu lần đó chưa khiến Francis có thai, thì liệu việc họ làm tình hết lần này đến lần khác suốt hai đêm liền có khiến Francis đậu thai không. Nếu đứa trẻ thực sự ra đời, thì số phận của nó sẽ thế nào? Một triều đại mới vừa được tạo lập, so với triều đại cũ, thì số phận của đứa trẻ bỗng trở nên bấp bênh và vô định hơn trước nhiều.
"Dù chuyện gì xảy ra đi nữa..." Arthur thì thầm. "Tôi cũng sẽ bảo vệ anh, và đứa trẻ."
Francis cười buồn. Đầu anh cúi xuống, khiến mái tóc hơi rũ trên gương mặt anh. Dưới ánh trăng chiếu rọi từ ngoài cửa sổ, trông anh đẹp trai lại thường. Arthur thấy tim mình đánh thịch một cái.
"Artie, người tình của tôi, tri kỷ của tôi, Alpha của tôi, cha của con tôi. Tôi muốn ngài hứa với tôi một chuyện." Bàn tay Francis vuốt ve má của Arthur.
"Là chuyện gì?"
"Cho dù chuyện gì sẽ xảy ra đi chăng nữa... ngài hãy luôn nhớ rằng, tất cả những gì tôi làm đều là vì chúng ta." Chưa để Arthur trả lời, Francis đã cúi xuống đưa hắn vào một nụ hôn.
Khi quấn quýt lấy cơ thể của người kia, trái tim của Arthur phồng lên như muốn nứt ra. Người trong tay hắn, nhưng hắn lạc lõng và cô đơn không thể tả được. Mỗi khi nghĩ đến tương lai, hắn chỉ thấy tăm tối, không thấy được một chút hy vọng nào. Hắn có cảm giác rằng sau đêm nay, hắn sẽ không còn được gần gũi với Francis như thế này nữa.
Sau khi thuyền cập bến, Francis ngay lập tức tách khỏi Arthur. Francis nhảy lên ngựa, phóng ngựa dẫn đầu đoàn người, Rousseau và những thân tín phi ngựa theo sau. Mái tóc bạch kim dài bay theo gió, gương mặt ngẩng lên đón nhận ánh nắng mặt trời ấm áp, trông Francis thật thoải mái và vui vẻ. Như thể anh đang cưỡi ngựa dạo chơi trên phố trong một buổi sáng dễ chịu trong lành.
Francis quay lại nhìn về phía Arthur, âm thầm nháy mắt. Arthur đỏ bừng mặt.
Khi hắn chưa kịp định thần, hắn đã bị ngài ủy viên kéo đi. Ngài ủy viên đã lãnh nhiệm vụ canh chừng và giám sát cựu cảnh sát trưởng Arthur. Ngài dẫn hắn vào một chiếc xe ngựa cùng ngài, được hộ tống bởi quân lính. Chưa bao giờ cái còng thép rời khỏi cổ tay Arthur.
Vừa vào xe ngựa, Arthur hỏi ngay:
"Thế này là thế nào, thưa ngài?"
"Cậu thấy như thế nào, thì nó là như thế ấy."
"Tại sao ngài lại bắt tay với bọn họ? Ngài là Alpha!"
"Không phải chỉ mỗi ta, còn rất nhiều Alpha khác cũng đồng ý hợp tác với họ."
"Rất nhiều Alpha muốn có chỗ đứng cao hơn, tôi không lạ nếu như quân cách mạng thậm thụt với họ về những thứ họ ao ước. Còn ngài, địa vị của ngài vốn đã cao rồi, tài sản cũng chẳng hề thiếu. Tôi không tin bọn họ hứa hẹn được cái gì với ngài về quyền lực để ngài phải làm ra hành động như thế."
Ngài ủy viên nở một nụ cười hiền hòa:
"Nhưng điều ta ao ước không phải là quyền lực hay tài sản."
Arthur tiếp tục gặng hỏi, nhưng ngài ủy viên không trả lời nữa. Ngài chỉ nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn đường phố đang bị bao vây và kiểm soát một cách chặt chẽ, nghe tiếng la hét, bắt bớ, rượt đuổi, cướp bóc hỗn loạn khắp nơi, và cả hàng quán tiêu điều, đổ nát bên đường. Ấy vậy mà, đôi mắt ngài dường như không nhìn thấy những cảnh tượng đó, đôi tai ngài chẳng để lọt bất kỳ tiếng khóc nào vào bên trong. Ngài như đang nhìn thấy một khung cảnh hoàn toàn khác, như hoài niệm về một quá khứ xa xôi mà ngài không bao giờ có thể nắm lại được nữa.
Đi được nửa ngày, đoàn người đến với cung điện. Thật khó tin làm sao, cổng vàng sừng sững cao lớn, đến ngay cả Arthur bình thường còn khó vào, vậy mà giờ lại mở toang ra cho một Omega phi hẳn ngựa đến mà chẳng có người lính nào chĩa súng vào.
Nơi đầu tiên bọn họ đến là Phòng Ngai Vàng. Ban đầu, quân lính định giam Arthur vào một chỗ, nhưng Rousseau ra hiệu cho họ giải Arthur theo.
Trên đường bước vào cung điện, Arthur nghe thấy tiếng la hét sợ hãi khắp nơi. Tất cả mọi người trong cung đều hỗn loạn, có cả thường dân, cũng có cả những người hầu, cả quân lính, đang nháo nhác tìm cách xông vào cung điện để đập phá, cướp bóc, hoặc là tìm cách trốn thoát an toàn khỏi nơi này. Cây cối trong vườn bị dẫm nát, bị chặt, bị đốt đi, mảnh vỡ rải rác khắp nơi, máu văng trên những bức tranh treo trên hành lang, đèn chùm vỡ tan nằm chỏng chơ trên nền vàng, dao nĩa, kệ nến bạc lần lượt bị chụp giật cho vào túi. Ở đây không hề có một chút kỷ cương, trật tự nào.
"Ta nghe nói, vài ngày trước, cung điện còn hỗn loạn hơn thế này cơ đấy." Ngài ủy viên thì thầm với Arthur. "Bọn họ đã chống trả rất dũng cảm cả tuần liền. Nơi này chỉ mới thất thủ trong hai ngày trước."
Khi bước vào Phòng Ngai Vàng, mùi rượu Brandy là mùi đầu tiên mà Arthur ngửi thấy, dù mùi rượu này đã yếu đi so với trước kia. Chủ nhân của mùi hương ấy là đức vua, ông vẫn đang ngồi trên ngai. Mái tóc bạch kim dài luôn được bới gọn ra đằng sau mà Arthur từng thấy giờ xõa tung, lòa xòa trên mặt ông. Gương mặt ông hốc hác, thấm đẫm sự mỏi mệt, môi nứt nẻ, bợt bạc mím chặt. Tuy thế, vương miện trên đầu ông vẫn chưa rơi. Chiếc vương miện này, có họa tiết và dáng vẻ giống hệt với chiếc vương miện Allistor đã đưa cho Arthur. Đôi mắt đỏ như ruby của ông vẫn sắc bén và tinh nhạy. Ông ngồi vững trên ngai vàng, trên tay là một thanh kiếm lớn cắm ngược xuống nền, hai bàn tay ông đặt chồng lên nhau, tựa vào chuôi kiếm.
Francis đến đứng trước mặt đức vua, cúi người.
"Thưa ngài, triều đại của ngài đã kết thúc rồi."
Đức vua nhìn chằm chằm vào Francis một lúc lâu, rồi ngẩng mặt cười ha hả. Tiếng cười của ông khàn khàn, vẩn đục.
"Nhãi con, khá lắm."
"Vậy... ngài sẽ trao lại vương miện của ngài cho tôi chứ?" Francis mỉm cười. "Chúng tôi sẽ không bạc đãi ngài. Ngài vẫn sẽ nhận được những quyền lợi vốn có của một quý tộc như từ trước đến nay."
Đức vua đứng dậy khỏi ngai vàng. Tất cả những hộ vệ ở đó đều chĩa giáo mác và súng vào đức vua, nhưng Francis đưa tay cản họ lại. Đức vua chỉ nhìn những hộ vệ đằng sau bằng một ánh nhìn khinh bỉ.
"Thật ô hợp."
"Rồi sẽ hết ô hợp, khi họ mặc được những bộ trang phục phù hợp và được đào tạo bài bản hơn." Francis trả lời.
Đức vua chắp tay sau lưng, khoan thai bước đến cửa sổ nhìn ra ngoài cung điện, ngắm nhìn vương quốc của mình lần cuối. Ông lấy từ kệ đỡ trên bàn bên cạnh một ống thuốc dài, trên ống khắc những hoa văn tinh xảo. Khi ông khoát tay với dáng vẻ đường bệ, Francis bước đến, quẹt diêm, cung kính châm lửa cho ông.
"Thật là, Francis à. Ngươi có tất cả: tài trí, mưu lược, sức mạnh, lòng người. Có điều, sai lầm của ngươi là quá kiêu ngạo." Đức vua rít một hơi thuốc, cười khùng khục. "Ngươi vẫn chưa rút được bảo kiếm, đúng không?"
"Vâng." Francis hơi cúi đầu.
"Ta rút được thanh bảo kiếm đó vào năm ta mười sáu tuổi đấy."
Đôi mắt đỏ của đức vua nhìn sang những người đang đứng ở đó. Ông nhìn về phía Rousseau, vẫy tay. "Lại đây."
Rousseau nghiêm trang bước tới. Cậu cao hơn Francis gần cả cái đầu, nhưng chiều cao lại xấp xỉ chiều cao của đức vua, nên tầm mắt của bọn họ ở ngang hàng nhau. Bọn họ nhìn nhau một lúc lâu.
Thế rồi, một cảnh tượng kỳ dị xảy ra.
Nhà vua đưa tay đến véo má Rousseau. Rousseau cam chịu hành động đó, còn nhà vua thì mỉm cười. Nụ cười của ông không hề có vẻ chế giễu và khinh thường nào đối với cậu. Trông ông giống như một ông già bình thường, tự hào khi thấy con cháu của mình đã lớn.
Đoạn, đức vua nhìn về phía ngài ủy viên và Arthur. Đôi mắt đỏ của ông lạnh hẳn đi.
"Người khanh muốn gặp ở cung điện phía đông. Cứ bắt bừa một kẻ hầu cận nào đó rồi nó sẽ dẫn khanh đi."
"Thần thực sự không ngờ rằng ngài lại biết về cảm xúc của thần." Ngài ủy viên nói, nhưng trông ngài chẳng có chút ngạc nhiên nào.
Đức vua cười nhạt.
"Một chút việc cỏn con này mà còn không hiểu thì ta đã chẳng ở trên ngai vàng lâu đến thế. Hàng chục năm rồi, giờ ta cũng chẳng còn gì trong tay, đành trả lại nàng cho khanh."
"Nàng chưa bao giờ thuộc về ngài." Ngài ủy viên nhấn mạnh. "Nàng cũng không thuộc về tôi. Nàng không thuộc về ai cả."
"Lại lối ăn nói nực cười của đám phản loạn." Đức vua lắc đầu.
Ông đưa tay nhấc chiếc vương miện ra khỏi đầu, bước đến trước mặt Francis.
"Francis, ta không phủ nhận ngươi, nhưng ta không thể đặt vương miện lên đầu ngươi. Đây không phải là chiếc vương miện thật từ đời lập quốc. Tên thợ kim hoàn đó đã tạo ra một chiếc vương miện giả và tráo nó đi. Vả lại, ngươi đã không thể rút được bảo kiếm. Ngươi tự làm ra một chiếc vương miện khác vậy." Nói xong, đức vua tiện tay ném chiếc vương miện vào lò sưởi bên cạnh ông.
Francis không có vẻ gì là giận.
"Ngài rất ghét đồ giả, nhưng ngài vẫn đội lên đầu món đồ giả đó bao năm nay." Francis chỉ vào chiếc vương miện đang nằm trong ngọn lửa cháy bập bùng. "Phải chăng là vì, ngài không còn có thể rút được bảo kiếm nữa?"
"Nói nhiều. Các ngươi đi gặp nàng ấy đi, để ta yên."
"Cung điện đang rất hỗn loạn." Francis nói. "Ngài nên đi với chúng tôi. Nếu ngài ở lại đây một mình, tôi không đảm bảo được sự an toàn của ngài."
"Ta không quan tâm. Chúng chẳng dám đâu." Đức vua, không, giờ đây phải gọi là cựu hoàng, bước về phía ngai vàng và ngồi xuống. "Ta đã thủ ở đây vài ngày. Số kẻ ngu ngốc tấn công ta và chết dưới lưỡi kiếm của ta vài ngày qua, thì hẳn ngươi cũng đã biết rồi."
Francis im lặng nhìn người đàn ông già, da dẻ nhăn nheo, cằm vuông vức sắc nét, mái tóc không thể nào xác định được màu sắc do bởi màu bạch kim và bạc trắng do tuổi già lẫn lộn vào nhau xõa tung, lưng chưa bao giờ còng xuống, áo quần nhăn nhúm nhưng vẫn khoác bên ngoài một cái áo choàng đỏ. Hai bàn tay đó, vẫn chưa bao giờ rời thanh kiếm bên dưới.
Francis thở dài, và cúi gập người xuống trước mặt cựu hoàng. Những người đi theo anh đằng sau cũng quỳ xuống bằng một chân. Arthur cảm nhận rằng, từng cái cúi người, phủ phục ở đây, đều xuất phát từ tình cảm thật lòng của bọn họ.
"Thưa bệ hạ, bây giờ tôi phải đi rồi." Francis cầm lấy bàn tay đang nắm lấy chuôi kiếm vàng của cựu hoàng lên hôn.
"Francis, có thể ngươi không tin, nhưng ta tự hào về ngươi."
"Tạ ơn bệ hạ."
Francis lùi xuống vài bước, rồi đứng thẳng lên, quay người đi. Anh cùng đoàn người đi ra khỏi Phòng Ngai Vàng, cánh cửa Phòng Ngai Vàng đóng lại đánh sầm một tiếng, khép lại cả hình ảnh cựu hoàng đang ngồi bất động bên trong.
Sau khi rời khỏi Phòng Ngai Vàng, bọn họ di chuyển đến với cung điện phía đông. Đây là khu vực dành cho các phi tần của nhà vua, cũng là nơi còn giữ được chút gì đó khang trang. Bởi vì đây là nơi mà các Omega trú ngụ, nên họ cũng được quân cách mạng ưu tiên bảo vệ hơn những vùng khác.
Ngài ủy viên bên cạnh Arthur bỗng trở nên bồn chồn. Francis nhìn qua ngài, chỉ nói:
"Cứ làm điều khanh muốn."
Tức thì, ngài ủy viên vội vã bước nhanh về trước. Ngài ngăn một vị phi tần lại để hỏi đường. Ngay khi vị phi tần ấy nghe được ngài ủy viên đang muốn tìm ai, bà lập tức cau mặt khinh bỉ. Bà chỉ tay vào một căn phòng nhỏ gần đó, rồi vội vã rời đi.
Ngài ủy viên cũng không buồn bận tâm đến thái độ của bà ấy. Ngài vội bước về phía căn phòng, mở cửa và khuất dạng bên trong.
Vài phút sau, ngài bước ra, tay ngài bế một người phụ nữ. Người phụ nữ ấy đẹp tuyệt trần, đẹp đến nỗi gương mặt nàng in sâu vào tâm trí của Arthur suốt phần đời còn lại. Ấy vậy mà, đôi mắt tím diên vỹ của nàng lại đờ đẫn và thiếu sức sống, còn trên cánh tay trần buông thõng trong không trung của nàng chằng chịt những vết sẹo. Trên bàn tay nàng, những đầu ngón tay sứt sẹo và đẫm máu. Mùi hương của nàng mới ngọt ngào làm sao, ngọt ngào đến nỗi khiến cả một Beta vô cảm nhất cũng phải rung động.
"Là đây sao?" Francis bước tới.
"Vâng, nàng đây rồi." Ngài ủy viên nói, gương mặt hằn nếp nhăn của ngài rơi lã chã nước mắt. Ánh sáng ngời lên trong đôi mắt lấp loáng nước của ngài khi nhìn người phụ nữ mới dịu dàng làm sao. "Thần xin tạ ơn bệ hạ vì đã cho thần cơ hội tìm lại nàng."
Bàn tay Francis vươn đến. Thế rồi, khi đầu ngón tay anh chuẩn bị chạm vào mái tóc của người phụ nữ, anh lại rụt tay về. Anh quay mặt đi, lạnh nhạt nói:
"Bây giờ người ấy không còn là phi tần nữa. Khanh có vui lòng chăm sóc cho bà không?"
"Thần đã yêu nàng bằng cả tuổi trẻ. Và giờ đây, thần nguyện bên nàng bằng tuổi già của mình. Tất cả sự trung thành, cống hiến mà thần dành cho bệ hạ, đều chỉ để được ở bên nàng." Ngài ủy viên thốt lên.
Đúng lúc đó, người phụ nữ trên tay ngài khẽ cựa mình.
"Ngài là ai?" Người phụ nữ ấy hỏi người đang bế mình trên tay. Nàng chỉ những người đang đứng gần đó. "Họ là ai?"
"Nàng... không nhớ ta sao?" Ngài ủy viên hỏi.
"Ngài là ai?" Người phụ nữ lại hỏi.
"Ta là..." Ngài ngẩn người. Dường như, ngài không biết phải trả lời thế nào cho phải.
"Ta có quen ngài không?" Nàng hỏi. "Mọi người thường bảo ta không có trí nhớ tốt lắm."
"... Không. Nàng không biết ta. Chỉ có ta biết nàng." Ngài ủy viên đáp. Ánh mắt ngài bỗng trở nên quyết tâm. "Nhưng nàng rồi sẽ biết ta. Bởi vì từ nay ta sẽ lãnh nhiệm vụ bảo vệ nàng."
"Ta là ai, để ngài phải bảo vệ?" Nàng hỏi. "Ngài bảo vệ ta, nghĩa là ta phải cưới ngài sao?"
"Không đâu. Nàng không phải cưới ai cả." Ngài ủy viên đáp. "Nàng là một người phụ nữ tự do, người phụ nữ tự do mà ta đã yêu thương. Ta nguyện bảo vệ nàng, và bảo vệ cả sự tự do của nàng. Nàng không cần phải cưới ta. Nàng chỉ cần là chính mình mà thôi."
Đôi mắt mờ đục của người phụ nữ hơi sáng lên một chút. Nàng tựa mình vào lòng ngài ủy viên.
"Không hiểu sao ta cảm thấy ngài thật quen thuộc. Ta có cảm giác ta sẽ thích ngài thôi." Nàng nói. "Ta mệt quá. Trong đó tối quá, khó thở lắm. Ta đã gõ, đã cào vào nắp đậy phía trên bao lần, chỉ mong nó mở ra cho ta một chút ánh sáng, mà chẳng ai đáp lại. May mà ngài đã tìm thấy ta." Nàng nhoẻn cười. "Từ nay về sau, đành trông cậy vào ngài vậy."
Mùi hương ngọt ngào và mùi trà từ ngài ủy viên bắt đầu hòa vào nhau, như tách trà dậy mùi được hòa tan bởi những viên đường trắng.
Francis lặng lẽ nhìn ngài ủy viên dỗ dành nàng phi tần. Gương mặt anh không có biểu tình gì đặc biệt. Kể từ khi bước vào cung điện cho đến nay, mỗi giây phút trôi qua, gương mặt Francis lại càng rắn lại và đôi môi luôn có xu hướng nhếch lên thành một nụ cười duyên mọi khi giờ đây như trở nên đông cứng với một biểu cảm lạnh nhạt.
Sau khi an bài ổn thỏa cho những người ở đó và sắp xếp công tác bình định trật tự trong khuôn viên cung điện, Francis yêu cầu không ai đi theo anh trở lại xem tình hình của cựu hoàng. Mệnh lệnh đầu tiên của anh với tư cách là một vị vua đấy là, không một ai được ghé mắt nhìn vào Phòng Ngai Vàng.
Khi Francis trở về Phòng Ngai Vàng, anh thấy cựu hoàng vẫn còn đang ngồi trên ngai. Lưng ông vẫn thẳng, cái cằm vuông vắn sắc nét của ông vẫn hếch lên đầy cao ngạo, hai bàn tay của ông vẫn đang nắm chặt lấy thanh kiếm lớn.
Tuy vậy, trên miệng và cằm của ông chỉ toàn là máu. Trên ngực và bụng ông găm đầy gươm giáo, và lỗ chỗ toàn cả vết đạn bắn. Áo trong của ông thấm đầy màu đỏ, đến nỗi chúng điệp màu với chiếc áo choàng ông đang khoác trên vai. Mùi rượu Brandy đã hoàn toàn biến mất.
"Ngài đã không chống trả." Francis lên tiếng, dù biết rằng người trước mặt không thể nghe thấy anh. "Ngài không chống trả dù ngài thừa sức làm điều đó. Ngài không chống trả là vì... vì ngài không còn là vua nữa." Giọng của anh chất chứa sự đau khổ, trăn trở và thất vọng. "Ngài mới thật là bướng bỉnh và kiêu hãnh làm sao!"
Anh quỳ xuống trước mặt cựu hoàng, đặt mái đầu mình trên đùi ông một lúc lâu.
Anh đã căm ghét người đàn ông này bằng cả cuộc đời của mình. Và trong khoảnh khắc hiện tại, sự kính trọng mà anh dành cho ông lại lớn hơn mọi sự căm ghét và đắng cay chất chứa trong lòng anh suốt bao lâu nay.
Mãi hàng trăm năm về sau, người ta vẫn đồn đại rằng chính Francis Bonnefoy đã xuống tay hạ sát cựu hoàng của triều đình cũ một cách tàn nhẫn và man rợ, với sự căm thù và bất mãn khủng khiếp mà một Omega có thể dành cho kẻ đứng đầu hệ thống áp bức thân phận của mình.
Đó chỉ là một vết nhơ trong số rất nhiều vết nhơ khác trong thời kỳ cai trị ngắn ngủi của nhà cách mạng này.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com