5. Mưa Tháng 9.
Tháng 9, năm 844.
Mưa bão chưa chịu dứt, cứ ào ạt, đau đáu cắn xé ruộng nương người làm nông. Cứ đến mùa này, mẹ tôi buộc phải giảm số lượng bánh, vét nốt chút bột còn sót lại.
Bột vốn chẳng để được lâu, mưa gió lại càng dễ hỏng.
Như mọi năm, cứ mỗi khi vào thành Shina mua bột, cha mẹ lại ngồi tính toán suốt đêm, kỹ càng đến từng sai số nhỏ nhất, chắc là do thói quen làm nghề của cha, và cả của mẹ, lúc nào cũng cần chính xác và tỉ mỉ. Rồi sáng hôm sau, khi trời vừa ngớt mưa, họ lại vội vã dắt nhau vào thành, áo choàng lấm lem mà ánh mắt vẫn chỉ dán vào cái sống còn duy nhất – đủ bột để qua mùa.
Tôi ngồi một mình giữa đống bàn ghế xếp gọn trong tiệm, ngồi ở góc quen thuộc, vừa mài mực vừa ngắm những giọt mưa rơi lách tách trở lại.
Báo cáo ngoại khóa – cái trò nhạt nhẽo chẳng khác gì hình phạt. Phải viết lại những điều ai cũng nhìn thấy, nghe thấy, biết rõ đến phát ngán. Trong hàng ngàn bài viết, hiếm hoi lắm mới có một ý tưởng thoát khỏi vòng lặp ấy. Tôi cố gắng gạch vài dòng, thêm vài chữ, như kẻ bị đẩy sát mép vực nhưng vẫn cố bám vào chút điểm số sống còn.
Rồi đột nhiên, cánh cửa khẽ run lên dưới cú quất của gió, bản lề rít một tiếng, rồi mở toang.
“Hôm nay tiệm đóng cửa ạ.” Tôi nói vọng ra, không ngẩng đầu.
“Tôi là người của Trinh sát Đoàn, hai hôm trước Đoàn trưởng của chúng tôi có mượn của ngài kỹ sư cái đèn dầu. Hôm nay đến trả.”
Anh lính trẻ đứng ở ngưỡng cửa, như một cái bóng in trên nền mưa xám. Áo choàng dính bết vào vai, từng vệt nước nhỏ tong tong xuống nền đất. Trong tay anh, cái đèn đã được đổ đầy dầu. Đồng phục anh còn mới, phẳng phiu đến lạc lõng giữa cơn bão. Thắt lưng trống trơn - không có bộ cơ động.
“Vâng ạ, anh đặt tạm lên bàn giúp em.”
“Đoàn trưởng gửi lời cảm ơn, nhờ cái đèn, ngài mới về doanh trại nhanh được.”
“Vâng, em sẽ nói lại với cha em.” Tôi vẫn mài mực, nghĩ anh chẳng ở lại lâu nên cũng không buồn nấu trà.
“Vậy… tôi xin phép.”
“Vâng, chào anh.”
Anh lính rời đi, chạy vội dưới mưa. Còn tôi đặt bút xuống, nhìn ra làn nước trắng xóa.
Anh ấy có vẻ là từ đơn vị hậu cần nhỉ, sao anh ấy lại không mang bộ cơ động? Cơ mà trong thành mọi người có thường mang bộ cơ động không nhỉ? Tôi nhớ là có mà… tôi nhớ lúc nào tôi cũng nghe tiếng xoạc xoạc linh khinh ấy…
Tại sao… mưa to như thế mà anh ấy buộc phải đi trả đèn ngay lúc này.
Tiếng cửa bật mở lần nữa kéo tôi khỏi vòng xoáy suy nghĩ. Cha mẹ trở về, áo mưa vắt chéo qua vai, tay xách những túi vải sũng nặng. Từ chúng thoảng ra mùi trà tươi lẫn mùi bột mới, nhưng cái hương ấy yếu ớt, phủ tạm lên mùi ẩm mốc cố hữu trong cơn mưa dài ngày.
“May mà còn mua được một ít,” mẹ vừa đặt túi lên bàn vừa thở dài. “Trong thành cũng khan hiếm, giá cả thì đội lên từng ngày. Họ bảo kho dự trữ bị chuyển gấp cho quân đội.”
Cha im lặng, treo áo ngoài cửa, nước nhỏ tong tong xuống nền gỗ. Ánh mắt cha lướt khắp căn quán rất nhanh.
“Đoàn trưởng nhờ người mang đến à?” Cha tôi dán mắt vào cái đèn dầu trên bàn.
“Vâng ạ, là một anh lính trẻ. Anh ấy cũng chỉ mới vừa rời đi.”
“Hôm nay cả nhà muốn ăn gì?” Mẹ hỏi ngay khi tôi vừa dứt câu. Hình như mẹ vẫn không thích mấy chủ đề lính lác này lắm.
“Mưa thế này, ăn lẩu cho ấm người.” Cha tôi bật bếp đun, thả vài lá trà vào tách. Rồi giọng cha trầm xuống, như đang đắn đo. “Mèo.”
Tôi ngồi bật thẳng người, dường như không gian chỉ còn sót lại tiếng nói của cha trong này.
“Con mang giúp cha ít đồ ra cho quân Trinh sát nhé?”
Ông đưa cho tôi một túi vải nặng trĩu, bên trong lách cách tiếng kim loại. Tôi thoáng nhìn thấy vài bộ linh kiện cơ động, mấy cuộn dây thép đã được cha chỉnh sửa.
“Đi đường cẩn thận, đừng để bị ướt.”
“Vâng ạ, xong việc, con sẽ về nhà luôn.”
Tôi dọn dẹp đồ đạc của mình, vác theo balo và túi lớn túi nhỏ chuẩn bị rời đi. Mưa vẫn rơi lớt ngớt trên mái hiên nhà, nhìn thì mọi chuyện cũng không có gì khó khăn lắm.
“Mèo, lấy ngựa mà đi.”
“Dạ?”
Cha tôi lặp lại. “Lấy ngựa đi, đi ra đường lớn cho đỡ trơn.”
Tôi theo lời cha, khoác tạm cái áo khoác của cha, buộc cố định hai túi linh kiện hai bên hông ngựa. Đến nửa đoạn thì bỗng dưng trời nổi gió, mưa quất rát mặt. Nước mưa từ máng xối dội xuống, hòa cùng tiếng vó ngựa dậm lộp cộp.
Chẳng bao lâu, cổng doanh trại hiện ra trong màn trắng xóa, mấy anh lính gác lại chặn tôi.
“Kỹ sư Cavendish nhờ em đến đưa đồ ạ.”
Sau khi xem sơ mấy thứ trong túi, hai anh mới mở lối cho tôi. “Ra là con gái nhà ông kỹ sư. Vào đi.”
Tôi được hướng dẫn đến chỗ để ngựa, rồi tự mình loay hoay cả buổi mới buộc được ngựa. Mưa vẫn cứ rơi xối xả, khiến mặt và tóc mái của tôi ướt hết cả, dính vào nhau, nước mưa lăn dài trên cổ áo. Tôi giũ cái áo mưa, treo tạm trên cột gỗ chỗ con ngựa rồi chạy vào hành lang gần đó, tĩnh, lặng, và lạnh.
Tôi bước chầm chậm dọc hành lang, ngang qua mấy căn phòng đóng kín, rồi lại lạc đến một hành lang khác tất bật hơn. Ở góc hành lang, một vài căn phòng được phủ vải vô trùng trắng toát - thứ màu trắng rợn ngợp, ủ ê, như cơn mưa ngoài kia phủ trắng xóa. Mấy cơn gió thoảng khiến tôi khẽ run.
Nơi đây, là một bệnh viện dã chiến ngay trong doanh trại, những nhân viên y tế tất bật đi đi lại lại, mùi thuốc khử khuẩn xộc lên trong cái văng vẳng những tiếng rên ri rỉ của thương binh khi thuốc giảm đau đêm qua hết tác dụng.
Những người lính đi qua tôi cũng chẳng buồn nhìn lại.
Một bàn tay bất ngờ giữ lấy vai tôi. Tim tôi thót lại, quay phắt ra sau. Một người lính trong bộ áo choàng xanh thẫm của Trinh sát Đoàn đứng đó. Áo sơ mi bên trong loang lổ mồ hôi, ánh mắt mệt mỏi đến đỏ ngầu, nhưng giọng vẫn chắc như thép.
“Ê, con bé. Giúp một tay được không?” Ánh mắt anh hạ xuống hai túi vải trong tay tôi. “Bé con nhà kỹ sư phải không? Sẵn tiện mang đống cơ động này đến cho đội kỹ thuật nhé. Đi thẳng thêm hai cái hành lang, rồi quẹo phải.”
Tôi chưa kịp gật, anh đã nhét thêm vào tay tôi một túi vải nặng trĩu. Kim loại bên trong va vào nhau, phát ra thứ âm thanh lạch cạch khô khốc. Túi nặng hơn cả hai túi của cha tôi cộng lại. Tôi ôm chặt, treo hai túi đồ của cha ở hai cẳng tay, lảo đảo chạy theo hướng anh chỉ.
Ở hành lang này, tiếng những người lính nói chuyện rôm rả hẳn, họ hình như đang bàn về vấn đề gì đó. Thấy tôi, họ liền đến đỡ bớt túi nặng trên tay.
“Trời đất, con bé này vác cả kho cơ động à?” Một anh lính trẻ phì cười, nhưng giọng không có ý chê bai, chỉ là ngạc nhiên.
“Là… mấy anh bên chỗ bệnh viện nhờ em mang sang. Còn cái này… là của kỹ sư Cavendish.” Tôi lí nhí, cố giữ thăng bằng với mớ dây thép vẫn còn treo lủng lẳng.
“Ừm. Được rồi, để đây. Bọn anh lo nốt.” Một người lớn tuổi cau mày, rồi rút trong ngăn kéo ra một cái khăn khô, dúi vào tay tôi. “Người ướt thế này, dễ cảm lạnh. Lau đi, rồi hãy về.”
“Em cảm ơn.” Tôi khẽ nhận lấy cái khăn. Khăn khô sạch, nhưng vẫn vương mùi dầu máy, sắt gỉ - cái mùi ám ảnh của phòng xưởng.
Trong lúc họ bận rộn mở túi, tiếng trò chuyện hòa cùng âm thanh kim loại va nhau dội lên, vang chát chúa dưới trần thấp. Tôi nghe ai đó thì thào.
“Lần này… ba bộ nữa hả…”
Rồi một tiếng thở dài. Kéo theo tiếng tạch lưỡi khó chịu
“Tch, còn chẳng thèm rửa sạch hết máu. Bảo họ khôn hồn đừng có vác thêm cái nào qua đây nữa.”
“Suỵt, con bé còn ở đây.”
“Nó không hiểu đâu.”
Máu, ba bộ cơ động từ bệnh viện dã chiến, ba người đã… không qua khỏi.
Tôi đứng chết lặng, tay siết chặt cái khăn, giả vờ như không nghe thấy gì. Mùi sắt rỉ và dầu cơ động xộc lên mũi, chan chát.
Một thoáng lặng im. Chỉ còn tiếng mưa quất ào ào lên mái tôn, từng giọt nện xuống nặng như tiếng trống tang.
Rồi tiếng giày quân lớn dần ngoài hành lang. Từng bước, đều đặn, nặng nề, dội lại. Không khí trong phòng co rút, như bị bàn tay vô hình bóp nghẹt. Những người lính xung quanh tôi đồng loạt ngẩng lên, im phăng phắc.
Tôi ngước theo họ.
Người vừa tới cao lớn, áo choàng xanh sẫm nặng trĩu nước mưa, rũ thành từng vệt lạnh buốt xuống nền đá. Ánh mắt ngài sáng rực nhưng lặng lẽ, ánh sáng ấy lạnh hơn cả thép, nổi bật dưới mái tóc vàng bết ướt.
“Đoàn trưởng Erwin.”
Lời chào vang lên đồng loạt.
Ngài không đáp, chỉ đi thẳng tới chiếc bàn. Đứng lặng trước đống cơ động dính máu chưa kịp rửa, ngài giơ bàn tay dày cứng, lướt nhẹ qua vệt đỏ sẫm. Vài giọt nước từ áo choàng rơi xuống, hòa vào màu máu khô, loang ra thành vệt nâu xám. Ngón tay rút lại, bàn tay ấy nắm hờ như cố giữ lại điều gì.
Tôi vô thức ôm chặt cái khăn hơn, lòng bàn tay ướt nhẹp, nước mưa, mùi gỉ sét.
Ánh mắt xanh nhạt liếc sang tôi. Thẳng, điềm tĩnh, không hề gay gắt, nhưng cũng chẳng cho phép tôi né tránh.
“Cavendish. Ngoài kia mưa còn lớn. Cô nên ở lại phòng khách nghỉ đi.”
“Dạ… con không dám làm phiền.” Tôi cúi đầu, nhỏ giọng như đang tự nuốt ngược vào trong.
Đoàn trưởng Erwin vẫn nhìn tôi vài giây, ánh mắt ấy vừa xa vừa gần, như đang cân nhắc điều gì. Rồi ngài khẽ gật, chậm rãi quay sang người lính bên cạnh.
“Đưa cô ấy đến phòng khách. Đảm bảo có trà nóng.”
“Rõ, Đoàn trưởng.” Người lính đáp lại ngay lập tức.
Ngay khi tôi xoay lưng bước ra, giọng nói trầm khàn của Đoàn trưởng vẫn vẳng lại từ hành lang sau lưng. Nhỏ thôi, nhưng tai tôi đủ tinh để lọc ra giữa tiếng mưa nện ào ào ngoài mái tôn.
“Những thứ này… không cần trẻ con phải thấy.”
Phòng khách của doanh trại nhỏ thôi, vài bộ bàn ghế gỗ còn vương mùi ẩm, ánh sáng hắt vào vàng vọt qua khung cửa sổ mờ nước mưa. Người lính đi cùng đặt ấm trà nóng xuống bàn, gật đầu rồi lui ra.
Tôi ngồi khép nép, hai tay ôm chặt cái khăn vẫn còn ẩm, hơi trà bốc lên làm ấm dần gương mặt lạnh cóng.
“Ơ kìa, mèo con đi đâu mà lạc tới đây vậy?”
Giọng nói vang lên sau lưng làm tôi giật thót. Tôi quay lại thì thấy Phân đội trưởng Hange, mái tóc nâu buộc vội lòa xòa, áo choàng xanh thẫm vắt chéo qua vai, vẫn dính mưa. Trên gò má ngài còn in hằn vết kính gọng tròn, ánh mắt sáng lấp lánh như vừa phát hiện điều gì thú vị.
“Phân đội trưởng Hange…” Tôi đứng bật dậy, suýt chút nữa đánh rơi cái tách.
“Ngồi đi, ngồi đi. Ồ, ấm trà nóng luôn! May thật đấy.” Hange vừa nói vừa tự nhiên kéo ghế ngồi xuống đối diện, lấy tay dụi dụi vài giọt mưa còn vương trên tóc. Rồi tự thân rót cho mình một tách trà. “Mèo ướt nhem như chuột lột rồi kìa.”
Tôi còn chưa kịp phản ứng thì Hange đã vỗ tay bộp một cái, ánh mắt sáng rỡ như vừa sực nhớ.
“À, cái lá! Cái lá mà em nhờ tôi mang về ấy. Tôi để ở lều thí nghiệm rồi, có muốn đi cùng không?”
“Thật ạ?” Tôi vô thức siết chặt cái khăn trong tay. “Nhưng… em có phiền Hange không?”
“Phiền gì chứ! Có người phụ xem xét thì càng tốt. Với lại…” Hange nghiêng người, hạ giọng bí mật, mắt long lanh như trẻ con khoe trò mới, “cái lều của tôi có nhiều thứ thú vị lắm.”
Hange bật dậy, ghế xịch ra sau thành tiếng. “Đi thôi Mèo. Trời mưa thế này, ngồi ủ rũ ở đây thì chán chết.”
Tôi hơi ngập ngừng, đưa mắt ra ngoài khung cửa sổ mờ nước mưa. Làn nước mưa phủ mờ, ngoài kia là cả khoảng trời nặng trĩu đang trút xuống. Rồi lại nhìn bóng áo choàng xanh thấp thoáng ở cửa - sáng rỡ và xốc nổi đến kỳ quái.
Chúng tôi rời dãy hành lang, băng ngang qua sân doanh trại. Mưa vẫn đổ nặng hạt, gió tạt ào ạt làm vạt áo choàng bay quất vào chân. Tôi kéo chặt cổ áo khoác, bước vội theo Hange, nước mưa hắt lên mắt cay xè. Tôi cảm giác như mình đang trôi trong màn mưa dày đặc, tiếng giày dậm bì bõm hòa với tiếng gió rít qua hàng rào gỗ.
Cuối cùng, chúng tôi dừng trước một căn lều tách biệt ở góc doanh trại. Tấm bạt lớn căng bằng dây thừng, cọc gỗ chôn sâu xuống nền đất lầy nhão. Hange vén vạt bạt, ra hiệu cho tôi vào trước.
Bên trong ấm áp hơn hẳn, nhưng không có bóng người nào khác. Chỉ có những chồng giấy xiêu vẹo, mấy lọ thủy tinh ngổn ngang, vài mẫu vật khô cong đặt hờ hững trên khay gỗ.
Hange nhanh nhảu lục lọi trong một quyển sổ dày, rồi chìa ra một chiếc lá đã được ép lại. Gân lá xoắn nhẹ, màu xanh thẫm hơn thường thấy.
“Đây, cái lá em bảo tôi mang về.” Hange cười, giọng thoải mái như thể vừa hoàn thành một giao kèo nhỏ. “Không có gì đặc biệt lắm đâu, nhưng tôi đã hứa thì phải giữ lời.”
“Em cảm ơn.” Tôi đón lấy, nâng niu bằng hai tay.
“À mà này,” Hange bỗng chống cằm, nhìn tôi đầy tò mò. “Mèo vẽ đẹp lắm phải không? Tôi nghe nói tấm biển hiệu của Querencia là do em vẽ hả? Vậy thì… em giúp tôi một việc nhé.”
Hange đưa tới một tấm giấy, cùng lọ mực và bút vẽ. “Tôi cần phác lại bản đồ địa hình quanh đoạn đường vừa khảo sát. Em vẽ thì chuẩn hơn tôi ghi ngoáy nhiều.”
Tôi ngồi co ro dưới mái bạt, mùi ẩm của đất và mùi giấy mực quyện lại, bắt đầu nắn nót chuyển những nét nguệch ngoạc trên tờ ghi chú nhỏ xíu thành đường nét rõ ràng sang tấm giấy to hơn. Hange cúi người sát cạnh, giọng vừa hăng hái vừa lẫn chút bí hiểm.
“Nhóc biết không, hôm qua bọn tôi men theo dải rừng phía Đông Nam Maria. Lần này lại đi xa thêm được chút nữa rồi.”
Tôi cố vét sạch mực trong lọ, nhưng chẳng còn, nhìn lại tấm “bản đồ” chỉ duy chỉ có vài nét.
“Phân đội trưởng Hange, hết mực rồi ạ.”
Hange cúi xuống, cố đưa lọ mực ra ánh sáng như để níu lấy chút hy vọng.
“Ối… hết mực rồi. Tôi phải chạy qua phòng thí nghiệm lấy thêm thôi.”
“Dạ, không cần đâu ạ.” Tôi ngập ngừng, rồi mở balo. “Em có mang theo mực mài với bút. Tính là làm xong việc cha nhờ thì về thẳng nhà luôn, nên đồ vẫn còn ở đây.”
Tôi lục lọi, bày ra bàn cái nghiên mực đen nhánh, cây bút lông đã dùng quen tay, cùng một xấp giấy tập.
“Ồ… Ồ hôôô!” Hange nghiêng người hẳn sang, đôi mắt sáng lấp lánh sau lớp kính. “Mèo chuẩn bị kỹ thế này cơ à? Ngay cả nghiên mực cũng mang theo! Thật là dễ thương quá đi...”
Hange nhanh chóng kéo về phía mình không chỉ mực và bút, mà còn tiện tay nhấc luôn tập giấy báo cáo ngoại khóa của tôi.
“Ơ, cái đó…” Tôi vội đưa tay nhưng không kịp.
“Gì đây nào?” Hange hứng khởi lật mở. Những trang giấy hiện ra nét chữ nhỏ, gọn gàng, đều tăm tắp… nhưng mới chỉ viết được vài dòng, câu chữ nhạt nhẽo đến mức như thể người viết đang gắng gượng từng chữ một.
“Ha ha ha… Gọn gàng quá, nhưng mà chán phèo!” Hange cười phá lên, dí tờ giấy sát vào mắt soi như nhìn mẫu vật. “Cứ như Mèo bị ép viết nhật ký hằng ngày ấy.”
“Đó… chỉ là bài tập thôi mà.”
“Ừ thì đúng là thế, nhưng này, em mà chịu khó vẽ kèm theo thì đảm bảo bài này sẽ nổi bật gấp mấy lần luôn. Ai mà thèm đọc toàn chữ chữ chữ chứ? Đây, để tôi minh họa cho.”
Hange giật lấy bút, hí hoáy ngay trên mép giấy trắng cạnh phần báo cáo của tôi. Nét vẽ thì loằng ngoằng, chẳng ra tán cây hay gốc cây gì, nhưng Hange vừa vẽ vừa nói huyên thuyên.
“Đây là cái cây to đến mức, lũ Titan cũng phải ngước nhìn. Đấy, vẽ thêm mấy con Titan ở dưới này cho dễ hình dung.”
Hange hý hoáy thêm vài cái vòng tròn méo mó với hai chấm mắt, trông nửa cười nửa khóc.
“Phân đội trưởng Hange, như thế thì không ổn lắm…”
“Ổn hay không thì kệ chứ, quan trọng là em phải vui trước đã!”
Rồi Hange hạ bút một đường thật đậm, vẽ ra một đám nấm tròn vo.
“Còn mấy cái nấm tí ti này… chính là Binh trưởng nhà ta. Nhỏ xíu thế thôi mà đáng sợ chết khiếp.”
Tôi hốt hoảng nhìn quanh. “Phân đội trưởng đừng có đùa kiểu đó… nhỡ ai nghe thấy thì sao?”
Hange mặc kệ, tiếp tục khua tay múa chân.
“Yên tâm, Levi mà thấy, chắc cũng chỉ tạch lưỡi một cái rồi đánh tôi một cái cốc đầu thôi.”
“Nhưng mà…”
Cốc!
“Á!” Hange kêu lên, lảo đảo ôm đầu.
Tôi giật mình quay lại. Binh trưởng Levi đứng ngay sau lưng, một tay vẫn còn giơ lên.
“Tôi còn tưởng cô làm gì quan trọng.” Binh trưởng nhấc một tờ giấy có hình nấm vẽ nguệch ngoạc lên, liếc qua rồi đặt xuống, giọng dửng dưng. “Ra là ngồi bày trò trẻ con.”
“Đây là nghiên cứu trực quan sinh động đấy chứ!” Hange phản đối, xoa xoa chỗ vừa bị cốc. “Trò này giúp học viên dễ nhớ hơn.”
“Trông chẳng khác gì mấy vết mực mèo cào.” Levi ngắt lời, ánh mắt liếc sang tôi. “Còn cô…”
Tôi co người lại, lí nhí. “D-dạ.”
Binh trưởng nhếch môi, giọng rõ mỉa mai. “Con nhà văn lại lăn lộn ngoài đây với đám lính bọn tôi làm gì. Vinh hạnh phát khiếp đấy.”
Tôi vô thức cúi mặt, hai bàn tay siết chặt mép áo còn ẩm.
Hange bật cười ha hả, chẳng thèm để ý đến bầu không khí nặng nề. “Thấy chưa Mèo, tôi nói rồi mà. Cốc đầu thôi, chứ có gì đâu!”
Anh hừ nhẹ, ánh mắt nheo lại.
“Nhìn có khác gì con mèo mắc mưa đâu. Về nhà đi trước khi cảm lạnh, khỏi thành gánh nặng.”
Hange bật cười khanh khách, xoa đầu tôi.
“Đừng để ý, Levi lúc nào cũng chua ngoa vậy thôi. Thực ra trong bụng thì….”
“Im đi.” Levi cắt ngang, gương mặt vẫn lạnh tanh. Anh liếc xuống bản đồ tôi đang chép.
“Hange, cô hết trò rồi à? Trẻ con cũng lôi ra mưa để chép sỏi đá? Định mở lớp mẫu giáo trong doanh trại sao?”
Hange chống nạnh, phản pháo ngay.
“Đây là cộng sự tạm thời, cực kỳ hữu ích đấy nhé.”
Levi nhếch mép, thoáng nửa cười nửa khinh.
“Ừ, hữu ích đến mức dính nước mưa là run lẩy bẩy. Để xem cộng sự của cô trụ được bao lâu.”
Anh liếc sang tôi thêm một lần, đôi mắt xám lạnh lùng nhưng thoáng có gì đó khó gọi tên - lo lắng, hay chỉ là khinh bạc, tôi không rõ. Rồi anh sải bước dứt khoát ra ngoài.
Hange thì cười khúc khích, ghé sát tai tôi thì thầm.
“Đấy, nói thì độc mồm vậy thôi, chứ Levi mà thật sự muốn đuổi nhóc đi thì chẳng ai giữ nổi đâu. Anh ta để nhóc ở lại tức là công nhận rồi đấy.”
“Nhưng mà…” tôi buột miệng, giọng lạc đi, “mọi người mới… mới về hôm kia thôi mà? Hôm nay đã lại… lại…”
Chữ cuối bật ra, vỡ thành đôi tiếng thì thào.
Hange ngẩng lên, nhìn tôi một thoáng, đôi mắt ánh lên thứ gì đó pha lẫn mỏi mệt. Hange khẽ cười, một nụ cười mà chỉ được xúc tác bởi hoạt động của cơ mặt.
“Ừ. Về hôm kia, sáng qua lại họp, giờ thì sắp lên đường lần nữa rồi. Nghỉ ngơi nhiều đâu có nghĩa lý gì khi Titan vẫn còn đứng ngoài kia.”
Hange chạm nhẹ vào tờ giấy tôi vừa chép, chỉ vào mấy ký hiệu nhỏ.
“Bản đồ, ghi chép, mẫu đất, vỏ cây… tất cả những thứ này là để lần sau bọn ta không trở về tay trắng. Từng chi tiết nhỏ có thể cứu sống một người.”
Tôi nhìn Hange, nhìn thấy những thứ mỏi mệt, những thứ mà không cho phép con người ta từ bỏ.
Hange đẩy tấm bản đồ về phía tôi, thì thầm như nói với chính mình.
“Chỉ cần còn người muốn biết ‘tại sao’, thì chúng tôi không được phép dừng lại.”
“Vậy… về Titan thì…”
“Tiếc là hiện tại chúng ta chưa có nhiều thông tin.”
Rồi, khi ý nghĩ ấy còn quẩn quanh, tôi bật thốt, gần như hét.
“HÔM KIA…!”
Lúc này tôi mới nhận ra giọng mình đã thốt ra inh ỏi đến nhường nào, tôi hạ giọng.
“Hôm kia em thấy Đoàn trưởng Erwin… máu… ừm… Đã có chuyện gì vậy ạ?”
Không khí dưới tấm bạt đông cứng lại.
Chỉ còn tiếng thở.
Và mọi thú vui gượng gạo trong mắt Hange vụt tắt. Hange chậm rãi đặt bàn tay ướt lạnh lên bàn, nhìn tôi.
“…Mèo để ý kỹ thật đấy.”
Hange nhìn ra ngoài, như để chắc chắn Levi đã rời hẳn, rồi nói tiếp.
“Đoàn trưởng Erwin… chỉ sượt qua thôi. Nhưng…” Hange ngừng lại, hít sâu. “Một Titan bất thường. Không húc đầu vào tường, không điên dại đuổi theo mùi người. Nó… chọn mục tiêu.”
Ngòi bút trong tay tôi rơi phịch xuống bàn, vệt mực loang ra như một vết máu đen.
Hange khẽ cười, bên dưới ẩn giấu nỗi bất an mà tôi chưa từng thấy ở một người như Hange.
“Cơ mà, Erwin thì cứng hơn đá. Thứ đó còn chưa đủ để làm ông ta ngã đâu. Đừng lo.”
Hange nhặt lại cây bút lông, bỏ vào tay tôi.
“Nhưng nhớ nhé, Mèo không nghe chuyện này từ tôi. Nếu lỡ miệng, Levi sẽ lôi cả hai ta ra chùi sàn đấy.”
“Em biết chùi sàn mà, chả sao.”
Hange tròn mắt nhìn tôi, rồi phá lên cười thành tiếng.
“Ha! Được đấy. Mèo mà vào đội Trinh Sát thì chúng ta cùng đi chùi sàn.”
Tôi ngập ngừng, nhỏ giọng, hỏi tiếp.
“Nhưng mà… bây giờ… mọi người phải đi… giải trình ạ?”
Nét cười trên gương mặt Hange chùng xuống, Hange gật đầu, ánh mắt hướng về phía cửa lều nơi bóng Levi vừa khuất.
“Ừ. Mỗi chuyến đi về đều phải nộp báo cáo cho cấp trên trong thành. Dân chúng thì cần nghe ‘chuyện tốt lành’, còn Hội đồng lại chỉ chăm chăm tính số người mất.”
Giọng Hange nhỏ dần, hòa lẫn tiếng mưa lộp độp.
“Thế nên bản đồ, dấu vết, mọi thứ ta ghi chép… không chỉ để mai phục Titan, mà còn để chứng minh chúng ta không chết vô ích.”
Tôi ngồi ngẩn ra.
“Mèo này… giúp tôi một việc nữa nhé.”
“D-…Dạ?”
Hange lôi trong túi ra một xấp giấy nhàu nát, loang mực, đặt xuống trước mặt tôi. Trên đó là những nét phác run rẩy, méo mó: hình người nhưng đầu toác, miệng ngoác, tứ chi cong queo, giống như được vẽ trong lúc tay cầm bút còn run bần bật.
“Đây là bản vẽ của mấy cậu lính sống sót. Chẳng đọc được cái khỉ gì. Mèo giúp tôi phác lại cho rõ ràng nhé. Càng chi tiết càng tốt, sau này còn làm tư liệu.”
Rồi Hange đứng thẳng, vỗ nhẹ vai tôi.
“Vẽ cẩn thận. Mèo làm tốt thì sau này tôi còn nhờ viết báo cáo thay luôn đấy.”
Tôi “vâng” một tiếng, bắt đầu dò lại những đường nét gãy gập.
Tôi vừa mới vẽ được mấy nét thì sau gáy bỗng rát lên một cái cụp. Cơn buốc lan dọc sống lưng, suýt nữa tôi làm rơi cả nghiên mực.
“Nhóc còn chưa đủ khổ hay sao mà để tên điên này lôi ra thêm việc?” Giọng Levi khô khốc, đều đều, nhưng từng chữ rơi xuống đè tôi như đá nặng.
Hange chống nạnh.
“Này, đừng có gọi tôi thế chứ! Tôi chỉ nhờ Mèo giúp một chút thôi mà.”
Levi liếc xuống bàn, chằm chằm nhìn bản phác nguệch ngoạc của tôi. Anh nhướng mày, hất cằm.
“Tiểu thư chịu khó ngồi dầm mưa để vẽ mấy thứ này. Hay lắm. Thế này thì lịch sử nhân loại chắc sáng rực lên được vài trang.”
Giọng anh ta cộc lốc nhưng không hề to tiếng, lại càng khiến lồng ngực tôi siết lại. Thứ cảm giác uất nghẹn mà lâu lắm rồi tôi mới có dịp thấu lại.
“Người thì run như cầy sấy, thế nào cũng khi lăn đùng ra tại đây. Phiền phức.”
Hange cười khùng khục, đẩy nhẹ cái nghiên về phía tôi.
“Đừng để ý, Mèo. Cứ vẽ tiếp đi. Vẽ cho thật đẹp, sau này ta còn lấy ra chọc vào mặt anh ta.”
Tiếng bước chân khô khốc lại vang lên sau lưng khiến tôi giật bắn người.
“Chưa khóc à?” Giọng Levi vọng tới. “Khá đấy. Ta còn tưởng phải bế ra ngoài lau nước mắt rồi cơ.”
“Levi!” Hange gắt khẽ, lườm anh sắc lẻm. “Đừng có bắt nạt trẻ con như thế.”
Binh trưởng chỉ nhếch mép, ánh mắt liếc qua tôi.
Tôi cắn răng, lén lấy tay áo chùi khóe mắt, để lại một vệt nhòe mực.
Hange khẽ thở dài, rồi đưa cho tôi một tờ giấy mới.
“Không sao. Vẽ lại từ đầu nhé.”
Tôi vội cúi đầu, lấy tay áo quẹt ngang mũi, giọng lí nhí.
“E-em… xổ mũi thôi…”
Ngòi bút vẫn run, chữ trên giấy hơi nhòe vì tay tôi chạm mực. Tôi giả vờ cúi sát xuống để che đôi mắt đỏ hoe.
Hange lập tức vỗ bàn cái “bốp”, cười phá lên.
“Thấy chưa, Levi! Trẻ con thì cảm mưa gió thôi, có gì mà xoáy mãi!”
“Ừ, mèo mắc mưa thì sổ mũi. Chỉ thế thôi. Nhắm mắt hắc xì một cái đã nằm bẹp dí dưới chân Titan rồi. Đã bước vào đây thì làm cho đàng hoàng, đừng ngồi cả buổi mà chưa làm được cái mẹ gì.”
Tấm bạt khẽ rung lên khi anh bước ra, để lại mùi bùn đất và ẩm mốc trong không khí.
“Đừng để ý. Mèo đang làm tốt đấy. Nào, lau mũi đi, rồi vẽ nốt.”
Ngoài kia, trời chỉ vừa rách một đường sáng mỏng. Ánh nắng lọt qua mép bạt lều, rơi xuống những vũng nước đọng, lấp lánh hệt như ánh mắt lạnh lùng của kẻ phục kích. Thứ ánh sáng yếu ớt ấy không đủ để xua đi hơi lạnh.
“Em phải về ăn cơm với nhà… chắc cha mẹ đang chờ.”
Con đường bùn lầy loang loáng ánh vàng, ngựa hí khẽ, vó nện vào nền đất ướt bắn tung những giọt đen đục. Tôi thúc nó chạy gấp.
“Con về rồi.”
“Về muộn thế?”
“Dạ… con ở lại phụ Phân đội trưởng Hange.”
Trong bếp, nồi lẩu sôi ùng ục, hơi nóng phả ra mờ đặc cửa kính. Không khí đậm mùi xương hầm ngọt lịm, quện với hương rau sống. Cha xắn tay, gắp rau. Mẹ múc thêm nước dùng.
“Ngồi xuống đi, ăn cho nóng.”
Trước mặt tôi, dĩa thịt bò đỏ tươi bày ra. Những thớ thịt còn rịn dịch, loang bóng dưới ngọn đèn dầu vàng vọt. Vệt máu nhạt vẫn còn loang lổ trên đĩa trắng sứ. Cảnh tượng ấy, owr bệnh viện dã chiến ấy trở lại, rạch ngang não tôi. Tôi chợt tiếng cổ họng mình khô khốc.
Tôi vội nhúng miếng thịt vào nồi nước sôi ùng ục, nghe tiếng xèo xèo như xác thịt rã trong lửa. Nó cuộn xoắn, màu đỏ tươi biến mất, thay bằng sắc xám nhạt ủ ê. Trong dòng nước sôi ùng ục, những cây nấm đen tròn nổi lềnh bềnh, va vào nhau, lăn vòng vòng. Chợt nhận ra, cái thú vui tinh nghịch của Phân đội trưởng Hange chỉ là công cụ dùng để che đi sự mệt mỏi hằn sau lớp kính ấy.
“Còn mấy cái nấm tí ti này… chính là Binh trưởng nhà ta. Nhỏ xíu thế thôi mà đáng sợ chết khiếp.”
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com