2.
Hôm nay bầu trời đẹp quá, ước gì không có máy bay.
Nhưng không, cái tiếng ù ù nó lại đến rồi.
Buổi chiều muộn, tiếng gọi nhau ý ới vang vọng khắp làng, những tiếng bước chân dồn dập lướt qua bên ngoài lán, Bảo Trung tò mò thò đầu ra ngoài, đúng lúc chú Sáu đi qua, anh gọi chú hỏi có chuyện gì.
- Én Bạc đó, mau đi xem Én Bạc nó bay.
Én Bạc là cách gọi thân thương của chiếc tiêm kích MiG-17, Bảo Trung thắc mắc có cái gì mà mọi người lại hứng khởi như thế. Anh quơ vội chiếc túi máy ảnh, rồi lết cái chân vẫn đang còn khập khiễng lò cò chạy theo dân làng. Mọi người đều đang tụ tập ở bên bờ ruộng, nơi lập trận địa của Đại đội. Bảo Trung chen qua đám đông, xuống ruộng. Lúc này mới thấy, cả Đại đội của Thanh Duy, bao gồm cả anh Đại đội trưởng cũng đang tập trung đông đủ, cả đám ngước mặt lên trời há miệng coi. Anh đứng cạnh Duy, ngước lên nhìn theo mọi người. Trên bầu trời, có thể thấy ba chiếc máy bay đang chao lượn. Nói chính xác thì, hai chiếc máy bay cường kích đang đuổi theo một cánh én đơn độc. Không khó để nhận ra chiếc “Én Bạc” MiG-17 chính là đối tượng đang bị truy đuổi. Đằng sau là hai chiếc F-105 đang bám rát. Có lẽ chiếc MiG kia vừa đi làm nhiệm vụ về, trên đường thì bị truy bắt. Vị phi công đang điều khiển MiG-17 quả là một tay đáng gờm, anh ta chao liệng trên không một cách mượt mà, khiến cả hai chiếc máy bay địch đuổi theo có phần chật vật, tuy hỏa lực rất rát, nhưng MiG vẫn nhẹ nhàng né tránh được từng loạt đạn của đối phương.
- Con MiG-17 kia vừa hoàn thành nhiệm vụ ném bom chiến hạm địch ngoài khơi ở Đồng Hới, bay về đến đây vẫn bị đuổi, không biết còn trụ được không nữa.
Thanh Duy lên tiếng giải thích cho Bảo Trung. Anh thắc mắc:
- Sao các đồng chí không bắn phụ?
- Không được, đuổi sát như thế kia, bọn tôi bắn lên nhỡ trúng quân mình thì toi. Trong trường hợp này thì chỉ có thể chờ xem MiG-17 xử lý ra sao thôi, nếu bị hạ thì bọn tôi mới vào việc.
Thanh Duy cũng sốt ruột lắm, nhìn quân mình bị bao vây như vậy anh cũng không đành lòng, muốn phụ một tay, nhưng mà rủi ro quá lớn, có bắn trúng phen này thì cấp trên cũng khiển trách thôi. Nãy giờ chiếc MiG-17 của quân ta đã mấy lần bị vây chặt, tưởng thế là xong, nào ngờ phi công quá bản lĩnh và kiên cường, vẫn phá được vòng vây tìm lối thoát trong hiểm cảnh. Trái tim Thanh Duy cứ rớt xuống rồi lại leo lên mấy lần, còn hồi hộp hơn cả lúc bản thân tham chiến nữa. Được một lúc, chiếc MiG-17 chao nghiêng né một loạt đạn của địch rồi bất ngờ lật ngửa, cứ thế xuyên qua tầng mây cắm thẳng xuống. Máy bay của địch cũng theo sát đằng sau, cứ vậy lao thẳng tắp xuống. Quả tim đang nhảy nhót trong lồng ngực của tất cả mọi người phút chốc như ngừng đập khi rặng cây phía xa che khuất mất tầm nhìn của MiG. Sau đó họ thấy hai chiếc F-105 thôi không đuổi nữa, bẻ lái ngược lên trên tầng mây.
- Anh phi công kia đánh bài cảm tử rồi, lao đầu xuống biển, địch sẽ không dám lao theo đến cùng. Nếu có năng lực và cả may mắn nữa, bẻ cần lái kịp thời ngóc đầu lên thì sẽ thoát được, còn không thì…
Thanh Duy không dám nói hết câu, vì kết cục thế nào, ai cũng rõ. Tất cả rơi vào im lặng. Niềm tin, niềm tự hào của bọn họ, có lẽ…
- Nhìn kìa, Én Bạc bay lên rồi!
Ai đó reo lên thất thanh, tất cả mọi người đều sững sờ. Từ phía chân trời xa xôi, chiếc máy bay nhỏ bé đã vụt lên sau rặng cây, cân bằng độ cao rồi cứ thế bay tiếp trong ánh tà dương rực rỡ. Niềm sung sướng tột độ vỡ òa ngay lập tức. Bảo Trung phải kiềm lòng mình hết sức, để có thể chụp lại trọn vẹn khoảnh khắc này. Thanh Duy phấn khích đến nỗi nhảy cẫng lên, nhào lên người Bảo Trung mà quặp chặt lấy anh khiến anh hết hồn hết vía, bốn mắt chạm nhau, sau đó họ phá lên cười đầy vui vẻ. Tất thảy mọi người đều hò reo, hoan hô như thể chính họ vừa chiến thắng một trận lớn vậy.
Không nghi ngờ gì nữa, đây chính là lòng đoàn kết gắn bó keo sơn, là tinh thần dân tộc bất diệt, thứ sẽ đưa chúng ta đến chiến thắng sau này.
Tối đó, mọi người cùng nhau ngồi quây quần bên bếp lửa. Họ tự thưởng cho bản thân một buổi nghỉ ngơi sau những ngày dài căng thẳng và mệt mỏi. Cả Đại đội phòng không lẫn dân làng đều có mặt, ai có gà góp gà, ai có heo góp heo, không có gì thì góp mặt là được rồi. Cậu Huy với cậu Kiên hôm trước vừa bắt được hai con gà rừng to béo, định để nuôi chơi mà bây giờ cũng mang ra vặt lông hết sạch. Chú Sáu còn hào phóng mang ra chum rượu chú cất công ủ bấy lâu, vốn định bụng để ngày thống nhất mới đào lên uống, nhưng hôm nay chú quyết định thôi thì ủ chum khác, chum này để mọi người chung vui. Cứ thế, họ ngồi với nhau, cùng nhau trò chuyện, cùng nhau hát hò, cùng nhau ăn uống no say như để quên hết muộn phiền, để ngày mai sẽ là một ngày tươi đẹp hơn.
Sau khi ăn uống linh đình, những tiết mục văn nghệ bắt đầu. Các anh bộ đội ai cũng nhiều tài lẻ, anh Long biết thổi kèn lá, cậu Sơn có cây guitar, anh Quốc còn biết hát chèo hát xẩm. Ai cũng cười tươi như hoa.
- Đại đội trưởng, Đại đội trưởng cũng hát đi ạ! - Cái này là cậu Huy mạnh dạn lên tiếng. Sau đó liền được sự hưởng ứng của tất cả anh em.
- Đại đội trưởng hát á? - Bảo Trung ngạc nhiên hỏi Thanh Duy đang ngồi bên cạnh.
- Anh Trung không biết đâu, ở Đại đội chúng em, anh Duy là hát hay nhất đấy, từ hò Huế, đến chèo, rồi cải lương, cái gì ảnh cũng hát được hết. Nhưng mà anh ấy chẳng chịu hát mấy khi đâu.
- Thế à? Vậy Đại đội trưởng có cho tôi vinh hạnh được nghe hát không đây?
Bảo Trung mỉm cười trêu chọc Thanh Duy. Cả đám lại đồng thanh vang rền hát đi hát đi. Trước sự nhiệt tình của anh em đồng đội cùng sự cổ vũ của bà con xóm làng, Thanh Duy đành giải giáp đầu hàng, nói anh chỉ hát một bài thôi đấy sau đó uống một ngụm nước cho thanh giọng rồi bắt đầu cất tiếng hát.
“Đứng gác đêm qua
Nhìn về muôn phương khuất khuất xa
Từng đoàn quân ơn người đan áo
Tấm áo xông pha
Mùa lạnh che thân chiến sĩ ta
Đây là áo nơi quê nhà
Này người ơi có thấy phút nào
Từng bạn tôi anh dũng máu trào
Màu cờ loang trên áo
Này người ơi có thấy phút nào
Từng đoàn quân khâu áo nhuốm đào
Thành cờ cuốn lên cao.”
Bài hát Áo mùa đông được cất lên bởi giọng ca trong trẻo, da diết mà đầy bi tráng của Thanh Duy khiến ai nấy đều rưng rưng xúc động. Ngay cả Bảo Trung cũng ngây ngẩn không biết nói gì. Quả nhiên các chiến sĩ không hề nói đùa, Đại đội trưởng của họ đúng là có một giọng hát trời phú. Anh bỗng nhiên có một ảo tưởng, ở một thế giới hòa bình, không có chiến tranh, không có khói lửa, bom đạn, Thanh Duy có lẽ sẽ tỏa sáng trên một sân khấu chỉ thuộc về anh, chỉ có anh với những ca từ mỹ lệ cất lên giọng hát tựa thiên sứ như đang dát vàng vào tai người nghe. Anh sẽ thỏa thích làm những điều mình muốn, mặc những bộ đồ đẹp đẽ, hát những câu ca mình yêu thích cho những người yêu quý anh.
- Sao mọi người không nói gì vậy? Không hay hả? - Thanh Duy tròn mắt nhìn một vòng.
Không biết ai là người bắt đầu nhưng những tiếng vỗ tay cứ thế rần rần vang lên không ngớt. Bảo Trung thoáng thấy vành tai anh đỏ lựng, cái người này lại ngại ngùng nữa rồi.
- Nghe nói anh Trung làm phóng viên ở Quảng Trị ạ? Anh kể chuyện ở đó đi anh. - lại là cậu Huy khởi xướng.
- Thôi, chuyện ở Quảng Trị nó…lắm, mọi người đang vui, tôi sợ làm mất không khí.
- Anh kể đi, mọi người cũng muốn nghe tình hình chiến sự mà. - cậu Sơn cổ vũ.
Bảo Trung lưỡng lự nhìn Thanh Duy, nhận được cái mỉm cười và gật đầu của anh, Trung mới bắt đầu kể.
Anh vẫn nhớ cái ngày đầu tiên anh đặt chân đến thành cổ Quảng Trị, với chiếc Leica trên tay, anh đã lùng sục khắp nơi, chỉ mong muốn thấy dù chỉ một mảnh còn nguyên vẹn của mảnh đất này. Những hình ảnh tang tóc vẫn còn như in hằn khắp mọi nẻo đường. Các công trình lớn tại thị xã Quảng Trị hồi ấy từ chùa, Trường học, đến Ty Hành chánh, rạp chiếu bóng,... đều tan tành vì những đợt bom rải thảm khốc liệt của B52 và pháo từ Hạm đội 7 của Mỹ bắn phá. Thậm chí, có những ngôi nhà chỉ còn trơ ra từng lõi sắt, từng mảng bê tông treo lơ lửng, Thành cổ lỗ chỗ vết đạn, có nơi tường thành bị sạt hẳn mất một góc lớn. Trên đường không một bóng người, bà con quần chúng đã tản cư hết vào Huế hoặc Đà Nẵng. Hoang tàn, đổ nát, như một thành phố hoang.
Anh đã gặp một bà mẹ, có lẽ bị lạc đoàn di tản, bà bị thương ở chân, không còn nơi nương náu, bà ngồi bơ vơ giữa một cái chuồng heo chỉ còn có một nửa. Bà mẹ khắc khổ và tội nghiệp, anh nhìn bà, bà nhìn lại anh, ánh mắt vô hồn và trống rỗng. Anh kiếm cho bà một chiếc chăn và một ít đồ ăn, bà nhận nhưng không nói gì. Có lẽ đau thương và mất mát đã khiến bà trơ ra, không còn cảm xúc ngay cả với người vừa giúp mình. Hôm đó trời đổ mưa to lắm, anh không thể bỏ mặc bà mẹ, nên đã cố gắng thuyết phục bà, dẫn bà vào Thừa Thiên Huế. Đôi chân bà run lẩy bẩy, không thể đứng vững, anh phải cõng bà đi, nhưng không thể cõng hết quãng đường gần ba mươi cây số dài đằng đẵng, vậy nên anh vừa đi, vừa dìu, vừa cõng bà vào đến tận nơi tị nạn. Nhưng lần tiếp theo anh trở lại thăm bà, bà đã ra đi trước đó không lâu.
Anh cũng đã gặp một đoàn sinh viên từ miền Bắc vào tham chiến, họ đều là sinh viên cả, là những người xếp bút nghiên chiến đấu vì một màu cờ, vì một dân tộc. Họ kể cho anh về những hoài bão, về những ước mơ, về việc tiếp tục đi học khi hòa bình lập lại. Về cô bạn cùng bàn đáng yêu đã tặng cho họ cuốn sổ con con trước khi lên đường và hẹn ngày gặp lại. Rất nhiều trong số họ, mãi mãi không thể trở về. Rất nhiều bà mẹ, không thể chôn được xác con mình. Rất nhiều ước mơ, bị chôn vùi mãi mãi bởi đất bùn của sông Thạch Hãn. Rất nhiều những mối tình, không bao giờ có câu trả lời. Rất nhiều và rất nhiều nụ cười, vĩnh viễn dừng lại ở tuổi mười mấy đôi mươi.
Anh vẫn miệt mài trên con đường làm nghề phóng viên, những bức ảnh của anh là những nỗi đau, là mất mát, là khốc liệt, là máu và xương. Nhưng đó là những thước phim chân thật nhất, là sự thật trần trụi đến nao lòng, là những điều mắt thấy tai nghe về những tội ác, về sự phi lý và phi nghĩa của cuộc chiến mà những kẻ ngoại bang và những kẻ phản trắc đã gây ra đang ngày đêm dày xéo lên mảnh đất quê hương của bọn họ. Anh muốn những cuốn phim ấy, những bức ảnh ấy phải được đưa ra ánh sáng, phải được tất cả mọi người trên thế giới này chứng kiến. Để họ biết, Đất nước nhỏ bé này đã và đang phải chịu đựng những gì và họ đã kiên cường ra sao để có thể đấu tranh, đổi lấy được nền hòa bình mà họ đáng lẽ ra phải có.
- Thôi nào, tôi đã bảo không kể đâu, mọi người nằng nặc muốn nghe xong bây giờ lại khóc là sao?
Cậu Huy là người khóc to nhất, cậu và Sơn cứ ôm nhau khóc rấm rứt mãi thôi. Ai nấy đều chìm đắm trong những câu chuyện tang thương đầy đau đớn của Bảo Trung. Thanh Duy cũng không thể ngăn được cơn xúc động đang dâng trào nơi khóe mắt, anh ngẩng đầu lên, khịt mũi hòng che đi sự yếu đuối của bản thân. Ai cũng hiểu, ai cũng thấu, rằng đồng bào của họ ở đâu đó trên mảnh đất này đang phải từng ngày từng giờ trải qua những đau thương sinh tử, bởi họ cũng là những người đã kinh qua những khoảnh khắc thập tử nhất sinh. Họ cũng có gia đình, có những người mình yêu thương, những người họ luôn trân trọng và muốn bảo vệ. Đó cũng chính là lý do họ ở đây. Họ là những người chiến sĩ giản dị với màu áo xanh, với chiếc ba lô nặng trĩu quân nhu, với khẩu súng trường luôn luôn sẵn sàng lên đạn và ngôi sao trên mũ là niềm tin bất diệt.
Phải mất một lúc lâu sau, mọi người mới vượt qua được cảm xúc mạnh mẽ mà Bảo Trung và câu chuyện của anh mang lại. Anh thậm chí còn phải mang chiếc máy ảnh Leica của mình ra, chuyển sự chú ý của mọi người bằng cách dạy họ chụp ảnh. Bất ngờ thay, cái Hương lại là người học nhanh nhất. Mấy anh em chiến sĩ ồn ào, chen chúc nhau trước đống lửa để có một bức ảnh chung có mặt đông đủ mọi người. Bảo Trung hỏi Thanh Duy:
- Đại đội trưởng chụp với tôi một bức nhé, để sau còn về khoe con cháu là cha ông nó được chụp ảnh với bộ đội cụ Hồ.
- Vẽ chuyện! - Thanh Duy lườm anh một cái nhưng vẫn đồng ý chụp chung tấm ảnh. Cả hai ngồi ngay ngắn nhìn vào ống kính. Tiếng màn chập vang lên khe khẽ, ghi lại nụ cười tỏa sáng của cả hai, rạng rỡ như những ánh mặt trời trong đêm tối, giống như hy vọng của tất cả bọn họ về một ngày mai tươi sáng hơn.
Buổi liên hoan đã kết thúc từ lâu. Mọi người đều đã trở về nhà, các chiến sĩ lại trở về hầm trú ẩn. Đêm nay Đại đội trưởng cho phép họ nghỉ, anh sẽ trực thay. Bảo Trung chưa về. Anh tiến lại gần một khẩu pháo, chạm tay lên như muốn cảm nhận nó. Thứ lạnh lẽo này, một khi chĩa về phía kẻ thù, sẽ là thứ vũ khí mạnh mẽ nhất mà họ có và là lẽ sống của đời họ. Chỉ một khi không còn bóng quân xâm lược…
- Muốn học bắn pháo cao xạ à? - Thanh Duy đã ở bên cạnh anh từ lúc nào.
Bảo Trung quay đầu nhìn anh, không nói gì, chỉ lặng lẽ ngồi xuống trên mâm pháo. Một hồi lâu, anh hỏi:
- Sao Đại đội trưởng lại vào binh chủng này?
- Đừng gọi Đại đội trưởng nữa, nghe khách sáo quá. Gọi Duy đi.
- Ừm, vậy tại sao Duy lại chọn binh chủng này?
- Có chọn đâu, lúc đó nhập ngũ, người ta hỏi gì đáp nấy, tự nhiên được cử đi học xong vào đây, rồi ở đến giờ luôn này. Chắc người ta thấy tôi gầy gò ốm yếu, sợ đi bộ binh giặc nó vả cho phát thì lăn quay ra nên vậy đó.
- Duy nhập ngũ năm bao nhiêu tuổi thế?
- Chả nhớ nữa, chắc cỡ 17 đó, chỉ nhớ hồi ấy khai man tuổi để vào quân, nên chắc là vậy.
- Sao lại khai man thế? Ba má không mắng cho à?
- Làm gì còn đâu mà mắng. Ngày xưa tôi ở Trà Vinh á. Ba tôi mất lâu rồi, hồi Pháp thuộc bị bắt đi đồn điền cao su. Còn má tôi, hồi khởi nghĩa ở Bến Tre, má tôi cũng có tham gia đó, má làm giao liên, mà xong bị địch nó bắt, thấy bảo má tôi sợ nó tra tấn má không chịu nổi nên cảm tử luôn. Má tôi hồi đó gửi tôi ở nhà cậu ngoài Nghệ An. Má tôi mất rồi, thì tôi nhập ngũ thôi.
Giọng Thanh Duy đều đều, giống như không có nhiều cảm xúc lắm. Nhưng Bảo Trung biết, một người con mất mẹ rồi tham gia kháng chiến thì hẳn anh ta đã phải trải qua giai đoạn đau khổ nhất cuộc đời rồi. Có lẽ giờ đây, Duy đã không còn nước mắt để có thể khóc than cho nỗi đau của bản thân nữa.
- Thế còn Trung, tại sao lại làm phóng viên vậy?
- Tôi à? Tôi thì không sóng gió như Duy đâu, nhà tôi có điều kiện, tôi thích chụp ảnh nhưng mà cái tính tôi thì không ngồi yên được một chỗ. Nên tôi đi học làm báo đó. Sau thì tôi thấy, nếu những bức ảnh của tôi có thể làm gì đó có ý nghĩa hơn cho cuộc đời thì tôi sẵn sàng làm nó. Chủ bút hỏi tôi có muốn làm phóng viên chiến trường không, tôi gật đầu cái rụp luôn. Nhà tôi giờ sống ở Sài Gòn rồi, ba má tôi không đi kháng chiến, chỉ giúp được chút tài lực thôi. Má tôi sợ tôi đi làm này kia nhỡ bom nổ chết rồi sao, má không cho đi, nhưng mà tôi trốn. Má giận dữ lắm, nên đến giờ tôi đã dám về nhà đâu. Chỉ dám viết thư báo bình an cho má đỡ lo thôi.
Thanh Duy hiểu, tuy bọn họ chọn hai con đường khác nhau, nhưng đều chung một đích đến. Trung muốn hòa bình hạnh phúc, Duy muốn độc lập tự do. Bọn họ đều muốn trả lại sự yên bình cho mảnh đất quê hương của họ.
- Vậy, sau này Trung còn làm báo nữa không? Khi hòa bình lập lại ấy?
- Tôi đi đủ rồi, chắc sau này tôi sẽ mở một cái tiệm ảnh, thỉnh thoảng đi chơi thôi, không bôn ba nữa.
Thanh Duy gật gù.
- Thế còn Duy? Sau này hòa bình rồi, Duy muốn làm gì?
- Chưa nghĩ tới nữa, mới nứt mắt ra đã sung quân rồi, giờ mà bảo về làm gì thì chịu chết.
- Nhỡ đâu sau này được làm ông này bà kia đó, đến lúc đó trăm sự nhờ Duy nha.
- Không có đâu, tôi không có muốn làm ông này bà kia, muốn sống bình thường thôi à, không ấy Trung nuôi tôi đi. Tôi không tốn cơm lắm đâu.
- Biết đâu lúc đấy Duy lại chê tôi.
- Không chê, không chê.
- Nghĩ xa quá à, thôi, dạy tôi bắn pháo cao xạ đi. Nào thiếu người tôi vào tôi phụ cho.
- Đây đây.
Đêm hôm đó, trên mâm pháo dưới trời sao, có hai trái tim cùng chung một nhịp.
Chân của Bảo Trung gần như đã khỏi hẳn. Còn Thanh Duy mắc bệnh rồi.
Không rõ là ăn phải thứ gì hư hỏng, mà cái người cả năm không bệnh nay lại lăn ra ốm quay ốm quắt. Miệng nôn trôn tháo đến gầy rộc cả người, còn lên cơn sốt cao đến mê sảng, anh lúc này chỉ có thể nằm bẹp dí dưới hầm chỉ huy, không đi đâu được. Bảo Trung vừa nghe tin đã lập tức chạy tới. Thanh Duy nằm một đống trên chiếu, mặt tái xanh tái mét, vừa được quân y kê thuốc cho. Chị quân y đưa thuốc cho Bảo Trung, dặn phải cho anh uống đúng giờ, đúng liều, có gì thì báo chị. Bảo Trung nhận lấy gói thuốc từ tay chị quân y, đọc cẩn thận liều lượng và giờ giấc uống thuốc sau đó để sang một bên rồi mới ngồi xuống bên cạnh. Thanh Duy vẫn đang mê man chưa tỉnh, mồ hôi lấm tấm rịn ra trên gương mặt trắng nhợt thiếu sức sống. Bảo Trung lại giặt qua chiếc khăn trong chậu nước, nhẹ nhàng lau mặt, lau tay cho anh. Thỉnh thoảng mấy anh em trong đơn vị đang trực cũng ghé vào hỏi han, lo lắng nhìn Đại đội trưởng của họ một lúc rồi lại tiếp tục quay về vị trí.
- Trận địa thế nào rồi?
Vừa có lại một chút ý thức, việc đầu tiên Thanh Duy quan tâm đã là đơn vị của mình, giọng anh khàn đặc vì cổ họng khô khốc, thiếu nước. Bảo Trung vội lấy ít nước điện giải pha sẵn, bón cho anh rồi nói:
- Duy yên tâm đi, có trung đội trưởng lo rồi, Duy cứ nghỉ ngơi cho tốt đi.
- Không được, tôi phải lên đó, tôi phải lên đó chỉ huy!
Anh bò dậy khỏi giường, kiên quyết muốn lên trên trận địa. Chưa dậy đã bị Bảo Trung túm cổ ấn lại.
- Duy ốm thế này lên đó làm sao được. Nghe lời tôi, ở lại đây đi!
Bảo Trung hơi cao giọng, lần đầu tiên, anh nạt Thanh Duy như vậy. Duy nhìn anh với vẻ mặt có chút hoang mang, rồi sau đó lại ngậm ngùi nằm xuống. Anh lo lắm. Anh cứ có một dự cảm chẳng lành. Lòng anh như có hàng trăm hàng vạn con kiến lửa đang bò, đang châm chích, nóng ran, đau đớn. Anh tự nhủ lòng, mình như thế này lên đó có thể sẽ liên lụy tới các chiến sĩ, không sao cả, phải tin các anh em đồng đội, trung đội trưởng sẽ làm được thôi. Cậu ấy sẽ làm tốt thôi…
Tiếng còi báo động vang lên, giọng thông báo của trắc thủ từ bên ngoài vọng vào nghe rõ mồn một.
- Báo cáo, phát hiện máy bay của địch cất cánh, hướng bay về phà Xuân Sơn. Lực lượng địch gồm có một chiếc B-57, hai tiêm kích F-4 và hai tiêm kích F-105.
Thanh Duy nghe thấy hết, anh vẫn nằm im, quay lưng về hướng Bảo Trung. Trung có thể thấy đôi vai anh khẽ run rẩy, khẽ đặt tay lên vai anh, nhẹ nhẹ vỗ nhịp trấn an.
Nó đến rồi. Tiếng động cơ máy bay càng ngày càng rõ rệt, giống như… đang bay ngay trên đầu bọn họ.
Thanh Duy vùng dậy, đôi mắt đỏ au đầy tia máu nổi bật lên trên gương mặt trắng nhợt cắt không còn giọt máu. Chưa bao giờ Bảo Trung chứng kiến một Thanh Duy như vậy. Anh luôn là người điềm đạm, lúc căng thẳng nhất cũng luôn là người bình tĩnh nhất chỉ huy anh em chiến đấu.
- Không được, không được, không phải phà Xuân Sơn. Bọn chúng… bọn chúng đánh trận địa! Tôi phải lên đó! Trung, tôi phải lên đó!
- Không, Duy! Duy không ổn một chút nào. Duy nghe tôi, ở lại đây đi, không lên đó được.
- Đó là anh em của tôi mà. Trung, cho tôi lên đi, chỉ một chút thôi.
Hai tay anh bám lấy cánh tay của Bảo Trung, run rẩy đến điên cuồng. Đôi chân anh đang quỳ trên đất, đến trụ còn không vững, phải dồn hết trọng lượng bám víu vào cánh tay của Bảo Trung, đừng nói gì đến đi, đứng cũng không nổi nữa. Trong lòng Bảo Trung thoáng dao động. Nhìn Duy như vậy, anh không nỡ. Nhưng mà muộn mất rồi. Tiếng ù ù xé gió của những chiếc máy bay tiêm kích rõ mồn một, đến dưới hầm còn nghe thấy. Duy mở lớn mắt, nhìn về phía nắp hầm, vùng ra khỏi vòng tay của Trung, loạng choạng đứng lên. Nhưng còn chưa đứng được, anh đã ngã nhoài xuống đất, Bảo Trung phải lao tới đỡ mới khiến anh không đập đầu xuống nền. Thanh Duy nhìn anh, ánh mắt hoang mang không tiêu cự do cơn choáng váng vừa rồi gây ra. Chỉ Duy mới biết lúc này bản thân bất lực đến nhường nào, đến đứng dậy anh còn không làm được, thì làm sao lên được trận địa.
Ầm!!
Một tiếng nổ lớn vang lên trên đầu, làm rung chuyển cả căn hầm tạm bợ bên dưới lòng đất nơi bọn họ đang ở. Bảo Trung như một phản xạ có điều kiện, nhanh chóng ôm lấy Thanh Duy, lăn vào dưới cái bàn, thứ duy nhất anh cho rằng có thể chống đỡ giúp họ lúc này. Anh co người, ôm lấy đầu Thanh Duy, che chở anh trong vòng ôm của mình. Thanh Duy đã nói đúng, địch không ném bom phà Xuân Sơn, trận lớn ngày hôm nay là nhằm vào Đại đội phòng không của bọn anh. Trong lòng anh, Duy không ngừng quẫy đạp, anh gào lên, tiếng gào khóc đau đớn như đứt từng khúc ruột, cứa vào trái tim của Bảo Trung đến nhức nhối. Anh không đành lòng, nhưng cũng không thể buông Duy ra lúc này được. Bảo Trung túm chặt cánh tay của Thanh Duy, hai chân quặp lấy chân anh, vừa nhẹ nhàng vừa mạnh mẽ, không cho người trong lòng cơ hội thoát ra. Từng trận bom rơi liên tiếp công phá mặt đất phía trên, căn hầm dường như cũng sắp không thể chịu nổi, từng vụn đá trên trần rơi lả tả xuống đất. Không gian hỗn loạn, tiếng bom dội, hòa với tiếng đất đá đang rung chuyển, còn có tiếng kêu khóc đến xé ruột gan của Thanh Duy, tất cả như đẩy Bảo Trung đến bờ vực hoảng loạn. Nhưng anh không thể sup đổ vào lúc này được, giờ chỉ còn anh mới có thể bảo vệ được Duy thôi. Anh ôm lấy đầu Duy, áp vào lồng ngực mình, mong rằng hơi ấm của bản thân có thể xoa dịu người trong lòng. Những giọt nước mắt nóng hổi thấm ướt ngực áo. Những giọt nước mắt nóng hổi lăn trên gương mặt anh. Bảo Trung những tưởng bản thân đã trải qua đủ nhiều để khiến trái tim chai sạn, đã chứng kiến đủ những tang thương để không bao giờ rơi nước mắt thêm. Nhưng không phải vậy. Anh cũng chỉ là con người thôi.
Dù là Phật, là Chúa, là thánh Alah, bất kể vị nào cũng được nếu có nghe được lời cầu nguyện này.
Xin hãy mang bình an đến cho chúng tôi.
Xin hãy mang bình an đến cho những người chiến sĩ.
Không biết bao lâu sau, tiếng bom cuối cùng cũng dừng lại, tiếng máy bay từ trên không trung cũng dần xa. Thanh Duy đã khóc đến mệt nhoài, đến lả đi. Bảo Trung xót xa vuốt lên gương mặt có phần hốc hác của anh, lồm cồm ôm anh bò ra khỏi chiếc bàn. Ơn trời, căn hầm vẫn trụ được, ơn trời không quả bom nào dội trúng nắp hầm. Bảo Trung phủi qua chiếc chiếu rồi đặt Thanh Duy nằm xuống, không quên đắp chăn cho anh. Sau đó anh lọ mọ mò lên cửa hầm, anh muốn lên xem tình hình thế nào, mỗi bước đi đều cầu nguyện cho mọi người bình an. Mỗi bước đi đều cầu nguyện cho phép màu xảy ra.
- Trung nói đi. Tôi chịu đựng được. - Giọng của Thanh Duy khản đặc, không rõ là vì ốm hay vì đã khóc quá nhiều.
Bảo Trung tần ngần, không biết nên nói với anh như thế nào. Anh ngẩng đầu nhìn Duy, Duy cũng đang nhìn anh. Bảo Trung cụp mắt xuống, không dám nhìn vào đôi mắt ấy. Ánh mắt Duy lúc ấy, là sự cam chịu, cũng có sự sợ hãi nhưng điều khiến Bảo Trung không dám đối mặt, đó là hy vọng. Anh cúi đầu, nhìn vào mũi giày, thở dài một tiếng rồi khẽ nói, giọng nói nhỏ như muỗi kêu:
- Đại đội hy sinh hai mươi mốt đồng chí, bốn đồng chí bị thương nặng.
Điều đó có nghĩa là gì? Một Đại đội trực chiến hai mươi lăm người, thương vong hết cả. Máy bay thả bom đúng vào lúc Đại đội đang đào trận địa mới, họ di chuyển pháo vào những ụ đất mới đào, mới được hai khẩu. Khi máy bay đến, họ thậm chí còn không kịp ngồi lên mâm pháo. Một trái bom rơi trúng ngay trung tâm trận địa, Kiên, trung đội trưởng, người đang chỉ huy anh em vào vị trí, hy sinh. Các đồng chí khác cũng bị mảnh bom văng trúng, hoặc không cũng bị những đợt bom khác dội tới.
Chẳng có phép màu nào cả.
Khi Bảo Trung bước lên khỏi cửa hầm, chưa lúc nào anh cảm thấy cánh cửa này lại nặng nề đến thế. Cánh cửa bật mở, trả lại cho Bảo Trung một cảnh tượng chỉ có thể mô tả bằng hai từ: địa ngục.
Không còn màu xanh của cây lá, chẳng còn màu nâu sẫm quen thân của mặt đất mà trận địa pháo cao xạ đặt trên. Giờ đây, tất cả chìm trong một màu xám xịt của tro tàn của hoang tàn và đổ nát.
Trên mặt đất là những vết đạn, những vết bom găm chi chít như những nốt rỗ ghê rợn. Khắp nơi là những mảnh kim loại biến dạng, gạch vụn, những cành cây trơ trụi như những cánh tay gầy guộc vươn lên trời xanh xám. Khói vẫn lảng bảng, mang theo mùi khét đến gai mũi của thuốc súng, mùi cháy xém của gỗ và một thứ mùi gì đó tanh nồng, ngai ngái khó tả, thứ mùi ám ảnh Bảo Trung đến từng giấc ngủ.
Từng chiếc mũ cối nằm lăn lóc, có chiếc bẹp dúm, có chiếc thủng lỗ chỗ như những nhân chứng lặng câm cho một cuộc chiến không cân sức. Xa hơn, những chiếc ba lô, bi đông, cuốc xẻng, những bộ áo lính rách nát vương vãi khắp nơi, nhuốm đỏ màu bùn đất và máu thịt.
- Huy ơi, anh đâu rồi, anh ơi…
Tiếng khóc xé ruột xé gan với giọng nói đầy quen thuộc vang lên đầy đáng sợ, đánh thức Bảo Trung khỏi cơn bàng hoàng. Dân làng đã tới trận địa, họ xót xa, thương cảm cho những người lính họ coi như con, như cháu, họ cũng không thể chậm trễ vì dù chỉ một giây một phút thôi, biết đâu họ sẽ cứu thêm được một sinh mạng nhỏ bé nào đó. Những chiếc cáng nườm nượp nối nhau xếp thành hàng, những người nông dân bình thường cầm cuốc đào khoai, sắn nay lại cầm cuốc cầm xẻng đào đất tìm kiếm những người đồng bào của họ.
“Mấy cái cáng của thương binh toàn là giường là tủ của bà con, đến cái áo quan của chúng tôi cũng là áo quan gia đình chuẩn bị sẵn cho người già trong nhà. Thật tình, dân làng ở đây họ thương chúng tôi như ruột thịt.”
Câu nói của Duy hôm nào cứ văng vẳng trong đầu Bảo Trung. Giờ đây, những chiếc áo quan của dân làng cũng không còn đủ nữa rồi.
Cái Hương đang gào khóc, mặc kệ sự ngăn cản của mọi người, hai tay nó không một cái cào cái xẻng, cứ thế cào từng tấc đất đến tứa máu. Mỗi nhát tay, lại một lần cô bé gọi tên Huy trong vô vọng. Anh Huy, anh hứa làm cho em chiếc gương, gương chưa thấy mà, Huy ơi…
Những người lính mới vừa rồi còn gọi tên Bảo Trung giờ nằm rải rác khắp trận địa. Không phải bị vùi dưới lớp đất thì cũng bị sức ép và mảnh bom hất văng, phơi mình trên mặt đất. Có những người, chỉ còn là những phần thi thể không còn nguyên vẹn, bị mảnh bom xé toạc đến biến dạng. Có người nằm ngửa, đôi mắt vô hồn không cam lòng nhắm lại, đăm đăm nhìn lên bầu trời xám xịt như không còn ngày mai; có người ngồi gục bên khẩu pháo đã hư hỏng, trong tay vẫn còn kẹp chặt khẩu súng AK, tư thế kiên cường bất khuất như cố gắng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; chiếc băng cứu thương trước đó vẫn còn trắng phau do anh đích thân buộc trên cánh tay của một người lính nay đã nhuốm màu đất, màu máu, nhưng dưới đó là một khoảng trống, không còn người nữa.
Máu loang lổ trên mặt đất khô cằn, tạo thành những vệt đỏ sẫm ghê rợn. Nơi đáng lẽ phải là những luống rau, những đồng lúa với những dòng nước mát lành từ con kênh tưới tiêu chảy vào nuôi mùa vụ, nơi đáng lẽ phải có những đứa trẻ chăn trâu thả diều thổi lá, đuổi bắt nhau trên triền đê, nay đã hóa cảnh địa ngục trần gian, chỉ còn lại những tiếc khóc ghê người, nặng chĩu bi thương.
Cụ Năm, ông cụ với gương mặt phúc hậu lúc này vì bi thương mà các cơ mặt nhăn nhúm, xô lại với nhau khiến cụ trông già nua và khắc khổ lạ thường, cụ run rẩy khom người, nhặt lên lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã rách tả tơi, máu và bùn đất dính chặt vào từng sợi vải khiến Bảo Trung cảm thấy như có thứ gì đó sắc nhọn cứa vào lồng ngực. Lá cờ với hai màu xanh đỏ và ngôi sao năm cánh, thường ngày vẫn theo gió tung bay một cách đầy kiêu hãnh trên đỉnh cột nay đã bị đánh gãy làm đôi, nằm im lìm trên đất, nhuốm màu tang tóc. Cụ Năm thổn thức, phủi đi những bụi bặm trên lá cờ như thể không muốn thứ thiêng liêng ấy phải nhiễm một chút khói bụi nhân gian nào, nhưng chẳng thể phủi đi nào máu, nào bùn, chẳng thể phủi đi những tang thương đã hằn sâu trên đó.
- Vậy là…đất không giữ nổi trời rồi.
Tiếng sột soạt vang lên, Thanh Duy chuyển mình, quay người đối mặt với vách đá. Bảo Trung không dám lại gần anh, chỉ đứng đó, chằm chằm nhìn vào bóng lưng gầy gò đang run lên từng đợt.
- Pháo thì thế nào?
Một hồi lâu sau, giọng nói khàn đặc của Thanh Duy lại vang lên. Vào những lúc đau đớn như thế này, anh vẫn không thể quên trách nhiệm của một người Đại đội trưởng.
Trong trí nhớ của Bảo Trung, hai khẩu pháo cao xạ được đào hầm kiên cố, vẫn còn đó sừng sững nhưng bề ngoài phủ đầy bụi đất và những vết cháy xém do sức ép từ vụ nổ. Nòng pháo vẫn hiên ngang vươn thẳng lên bầu trời, như một lời thách thức câm lặng.
- Hai khẩu hư hại nặng nề, còn lại không có gì đáng ngại.
- Ừm.
Tiếng ừm lạnh lùng vang lên, nhẹ bẫng như thể chìm vào không khí.
- Duy…
- Trung ra ngoài đi. Tôi muốn ở một mình.
- Nhưng mà…
- Đi đi, tôi lớn rồi, không làm gì dại dột đâu.
Đã một ngày rồi, Thanh Duy không ra khỏi hầm. Đồ ăn mà Bảo Trung mang đến, anh cũng không đụng tới. Mỗi lần Trung xuống hầm, đều thấy anh đang ngồi ngẩn người, ánh mắt nhìn vào vách đá đối diện, mông lung không tiêu cự. Mọi người trong làng ai cũng lo cho anh. Cứ thế này, anh sẽ không thể chịu nổi mất. Bảo Trung lo lắng đến đau dạ dày. Không dưới ba lần, anh muốn đè người kia ra đánh cho một trận, sau đó ép anh phải ăn uống.
- Trước đây cậu Duy cũng như thế này một lần rồi. Lúc đó thằng Thuận nó hy sinh. Nó là đứa nhỏ nhất đội ấy, vừa tới trình diện buổi sáng thì buổi chiều đã… Cậu ấy tự trách lắm, cứ bảo nếu mình bắn kịp lúc thì Thuận đã không ra đi. Khổ quá, bom đạn mà làm gì có mắt đâu.
Chú Sáu nói, lắc đầu thở dài thườn thượt.
- Tôi nấu ít cháo trắng này, cậu mang cho Duy đi, bảo nó phải ăn vào, chứ bây giờ dở sống dở chết ra đấy thì không được đâu. - Chị Hạnh quân y dúi vào tay Bảo Trung cái cặp lồng vẫn còn nóng hổi, dặn dò anh chăm sóc cho Thanh Duy.
Bảo Trung mang theo cặp lồng cháo, lại mò xuống hầm chỉ huy. Duy vẫn như lúc anh đi, ngồi nguyên một tư thế, không buồn nhếch mắt để ý đến anh. Bảo Trung cảm nhận một cơn đau tức đè lên lồng ngực, anh hít một hơi thật sâu, để cặp lồng xuống bàn, ngồi xuống cạnh Duy, anh nói:
- Duy, Duy không thể cứ mãi như thế này được. Duy cứ thế này, thì trận địa để không mất. Rồi lấy ai đánh máy bay địch? Ai chỉ huy Đại đội? Rồi Duy tính làm gì? Tính ngồi đó cho chết rục xương luôn hả?
Không một tiếng đáp lại. Bảo Trung thở dài bất lực.
- Tôi biết là Duy đang rất buồn. Duy đang rất tự trách. Tôi cũng buồn nữa. Họ đều là những anh em mà tôi quý mến, làm sao tôi không buồn được. Nhưng mà cứ buồn thương sầu khổ thì cũng đâu thay đổi được gì. Anh em hy sinh rồi cũng đâu sống lại được. Bây giờ điều Duy cần làm là biến đau thương thành sức mạnh, hoàn thành nhiệm vụ được giao, bắn vào đầu cái bọn đã giết anh em mình kìa.
Vẫn là sự im lặng. Bảo Trung không nói nữa, anh chịu thua con người cứng đầu cứng cổ này rồi. Rất rất lâu sau, khi anh toan rời khỏi hầm, tiếng của Thanh Duy đều đều vang lên.
- Thằng Huy nó mới nhận thư nhà. Nó khoe với tôi chị dâu nó mới đẻ, mẹ nó bảo cháu đang chờ chú đặt tên cho đấy. Nó cứ lựa mãi lựa mãi chẳng lựa được cái tên nào ưng ý. Đến giờ vẫn chưa lựa được.
- …
- Thằng Sơn bảo nó sợ tình hình chiến tranh kéo dài, nó sợ người yêu nó đợi, lỡ làng mất con gái nhà người ta, nó định viết thư chia tay cô gái kia, để người ta đi lấy người khác. Thư chưa được gửi đi nữa.
-...
- Thằng Long vừa được vợ gửi cho tấm hình của con gái. Nó khoái lắm. Con gái nó năm nay ba tuổi rồi, chưa biết mặt ba nó như thế nào. Sau này, cũng không biết.
- Duy, đừng nói nữa.
- Thằng Khoa nói mẹ nó viết thư, bảo nó khuyên em trai nó đừng nhập ngũ. Nhà nó có sáu anh em. Anh trai nó đi bộ binh, vừa mới hy sinh là người thứ bốn rồi.
- Duy!
Bảo Trung ôm lấy Thanh Duy, không muốn nghe thêm một lời nào nữa. Người Thanh Duy khẽ run lên từ cái ôm của Bảo Trung, có lẽ chính cái ôm ấy là ngòi nổ cho mọi cảm xúc nghẹn ứ, chất chứa trong lòng anh. Anh nói tiếp, giọng nói run run đầy nghẹn ngào.
- Tôi biết, là tôi không nên như thế này. Nhưng tôi không thể chịu đựng nổi. Tôi thấy tệ lắm. Tệ lắm Trung à. Tôi thấy sợ hãi chính bản thân mình, vì chỉ một giây phút thôi, tôi đã có suy nghĩ, thật may vì mình đã không ở trên trận địa. Tôi đã cảm thấy may mắn, vì người chết không phải tôi. Tại sao, tại sao không phải tôi chứ? Nên là tôi. Tôi chẳng có gì cả, tôi chẳng là ai cả. Tôi có chết hay có sống cũng có hề gì, có ai chờ đợi tôi đâu. Vậy tại sao người chết không phải là tôi? Tại sao tôi lại cảm thấy may mắn chứ?
- Không, không Duy à. Đó chỉ là bản năng của con người thôi. Chỉ là bản năng của một con người khao khát được sống, được chiến đấu. Duy không sai, càng không đáng phải chết. Không ai trong chúng ta đáng phải chết. Sao lại không có ai chờ Duy chứ? Có tôi, có anh em đồng đội, có tất cả mọi người ở đây, có hòa bình đang chờ đợi chúng ta mà. Duy phải sống, để thay anh em chứng kiến ngày giải phóng chứ.
- Hòa bình… tôi không biết có đợi được không?
- Có, Duy sẽ đợi được mà. Chúng ta sẽ đợi được mà.
Ta phải sống để thay Huy đặt tên cho cháu nó, phải sống để đem bức ảnh của Long về với con gái mình, phải sống để gửi bức thư cho người con gái mà Sơn yêu, phải sống để đem di vật của Khoa về cho gia đình nữa. Những điều anh em chưa thể làm trọn vẹn, Duy hãy giúp họ đi. Có được không? Nếu Duy không còn nữa, vậy thì những hy sinh đó sẽ trở nên vô nghĩa mất. Hãy sống để kể lại cho những người sau rằng họ đã anh dũng thế nào, đã kiên cường bất khuất đến những giờ phút cuối cùng, đã hy sinh vì Tổ quốc ra sao. Duy nhé!
Bảo Trung nghẹn ngào. Thanh Duy khóc nấc lên từng đợt, đôi cánh tay ôm chặt lấy người bên cạnh, bấu víu lấy như thể đây là hơi ấm cuối cùng còn hiện diện trên cõi đời này. Trong đêm tối dài như bất tận, họ ôm lấy nhau, san sẻ nỗi đau, san sẻ hơi ấm, cùng nhau vượt qua. Dẫu ngày mai có lại là một ngày giông bão hay sẽ là nắng ấm sau cơn mưa. Họ sẽ cùng nhau, trở thành những dấu chấm, từng chút điểm tô thêm vào những trang sử mới hào hùng của dân tộc Việt Nam anh dũng.
Ngày hôm sau, cuối cùng anh Đại đội trưởng Thanh Duy đã một lần nữa bước ra khỏi bóng tối trong căn hầm. Dù Bảo Trung nói anh có thể tĩnh dưỡng thêm một ngày, nhưng anh kiên quyết muốn lên. Ánh nắng ban mai sau mấy ngày trời một lần nữa phủ lên bờ vai gầy guộc của người Đại đội trưởng, ánh sáng ấy chói lòa, khiến anh vô thức giơ tay che mắt. Không khí vẫn còn phảng phất mùi thuốc súng, nhưng đã phần nào có lại hơi thở của sự sống. Anh hít một hơi thật sâu, cảm nhận vị đất, cảm nhận mùi hương nắng ấm nồng của đất trời Quảng Bình.
Khi đã quen với ánh sáng, anh ngẩn người nhìn về khung cảnh trước mặt. Hình ảnh đập vào mắt anh khiến trái tim Thanh Duy như thắt lại nhưng rồi lại vỡ òa trong xúc động. Trên mâm pháo cao xạ, nơi lẽ ra là vị trí của những người đồng đội đã hy sinh, những bóng người vẫn ngồi đó.
- Chào Đại đội trưởng! - Một người trong trang phục bộ đội quen thuộc nhảy xuống khỏi mâm pháo, làm động tác điều lệnh với anh.
Đó là Quốc, cậu lính anh nuôi của Đại đội, bình thường chỉ hay quanh quẩn bếp núc, nay đã ở đây, trên mâm pháo. Anh nhìn quanh, đều là những gương mặt thân thương, những bà con trong làng. Bọn họ không ai bảo ai, đang tự nguyện thế chỗ những người đã ngã xuống. Chú Sáu bình thường chỉ thích bắt dế về chọi, thích ngâm những bình rượu quê với cuộc sống an nhàn nay lại mang ánh mắt kiên cường hướng về bầu trời xanh thẳm. Chị Lan, người phụ nữ tần tảo với gánh hàng nhỏ, chưa bao giờ rời xa gánh hàng nuôi sống gia đình mình, lúc này trên đầu chít khăn rằn, tay áo xắn cao nghiêm túc nạp đạn cho khẩu pháo, bờ vai chị gầy guộc đang run lên từng đợt vì mệt mỏi, gương mặt chị lấm lem nào bùn nào đất nhưng cũng không chút nao núng. Cái Hương, bình thường lý lắc hay nói hay cười, lúc nào cũng tươi vui líu la líu lo, nay lại mang ánh mắt sáng quắc, đầy quyết tâm, đang chăm chú nghe chú Sáu hướng dẫn sử dụng pháo. Những con người ấy từng cầm cuốc, cầm cào, cầm củi, cầm bút, chưa từng cầm súng cầm đao giờ đây lại đang học cách vận hành một cỗ máy chiến tranh.
Ở giữa trận địa, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đang được Bảo Trung dựng lên bằng cây cột sắt tạm bợ. Đôi bàn tay của anh chàng phóng viên vẫn quen nâng niu chiếc Leica với giá thành đắt đỏ, hay cầm bút thoăn thoắt viết lên những dòng nhật ký, nay đang gồng lên, đầy mạnh mẽ, chôn chặt cây cột sắt xuống nền đất khô cằn, sâu nhất có thể. Ông cụ Năm đứng bên cạnh, ngẩng đầu nhìn lá cờ, đôi mắt đọng lại sự xúc động và niềm tự hào. Lá cờ đã được treo một cách hoàn thiện, Thanh Duy nín thở ngắm nhìn lá cờ vươn mình lên cao, những vết rách không được vá lại, không được che giấu, mà phơi bày một cách hiên ngang trong gió. Những vết rách đó, không phải không thể vá, mà là không cần vá lại, chúng vẫn ở đó, như một minh chứng, về những đau thương, mất mát, về những nỗi đau mà mảnh đất này ngày ngày phải oằn mình chống chịu. Chúng như những vết thương hằn trên da thịt Tổ quốc, nhưng chính những vết rách đó lại càng hằn lên rõ rệt sức sống mãnh liệt, tinh thần bất khuất, không bao giờ chịu khuất phục của người Việt Nam. Lá cờ không chỉ là biểu tượng của quốc gia, mà giờ đây còn là linh hồn của trận địa, là lời hứa kiên cường của những con người đang đứng đây – dù đau đớn, dù bị thương, nhưng chỉ cần tinh thần kiên định vững vàng, họ sẽ giống lá cờ kia, hiên ngang vươn lên, tung bay đầy kiêu hãnh.
Cảm giác nghẹn ngào dâng lên trong lòng Thanh Duy. Anh như cảm thấy những người đồng đội đã hy sinh của mình vẫn còn đây, không phải bằng xương bằng thịt, mà bằng ý chí, bằng tinh thần bất khuất của tất cả người dân trên mảnh đất này. Họ, những người đồng bào, đã trở thành những người đồng chí của anh, cùng nhau gánh vác sứ mệnh bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc thân yêu. Lá cờ tung bay trong gió như một lời nhắc nhở rằng dù bom đạn có tàn phá, dù mất mát có đau thương đến mấy, thì tinh thần quật cường của dân tộc vẫn sẽ sừng sững hiên ngang.
Nước mắt của anh khẽ lăn dài trên gò má có phần vàng vọt. Anh đưa tay quệt ngang, không phải vì yếu lòng, mà vì một sự quyết tâm lớn hơn bao giờ hết. Anh nghĩ thông suốt rồi, anh không được phép gục ngã. Vì những người đã nằm xuống, vì những người đang đứng lên, vì lá cờ luôn tung bay, vì đồng chí, vì đồng bào, vì Tổ quốc này, anh phải tiếp tục chiến đấu. Pháo còn là trận địa còn, dù chỉ còn một người, cũng phải bám trận địa đến cùng. Trận địa pháo cao xạ vẫn còn đó, và anh cùng với những người đồng bào - đồng đội của mình, sẽ tiếp tục giữ vững.
Những ngày tháng khốc liệt trôi qua, Thanh Duy cùng dân làng Bàu vẫn kiên cường bám trận địa. Họ đã có những vết thương, đã có những mệt nhọc nhưng thật may, họ không mất đi một người nào cả.
Ngày 28 tháng 08 năm 1972, Đại đội mới đã được tiếp viện cho trận địa pháo cao xạ của Đại đội trưởng Thanh Duy.
Tháng 12 năm 1972, Thanh Duy nhận được lệnh tập kết đến Trung đoàn cao xạ Sông Gianh để bổ sung lực lượng chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ trên không. Cùng lúc đó, Bảo Trung cũng nhận được công văn từ tòa soạn báo Thanh Niên, yêu cầu anh về Hà Nội gấp. Đại đội và cả người dân làng đã chuẩn bị một bữa tiệc thết đãi như một lời chào tạm biệt đến cả hai. Thanh Duy bịn rịn nói lời tạm biệt với mảnh đất anh đã gắn bó mấy năm cuộc đời, nơi đây đã chứng kiến anh từ một thằng nhóc hạ sĩ quan thăng lên đến thiếu úy, từ một cậu pháo binh trở thành Đại đội trưởng, cũng là nơi chứng kiến những niềm vui, hạnh phúc, cả những mất mát đau thương của anh. Anh thực sự không nỡ rời xa nơi này. Bảo Trung tuy mới chỉ tới nơi này được chưa đầy nửa năm, nhưng với anh, thời gian này thực sự đầy ý nghĩa và sẽ là những ký ức theo chân anh đến suốt cuộc đời.
Đêm cuối cùng, sau khi ăn uống no say cùng anh em, Thanh Duy và Bảo Trung lại ngồi đung đưa trên mâm pháo.
- Nhanh thật đấy, mới hôm nào tôi vớt được Trung trong rừng, mà cũng đã mấy tháng rồi.
- À, hôm nay tôi có cái này cho Duy nè.
Bảo Trung vừa nói, vừa lấy ra trong túi chiếc gương đồng với khung được gò bằng vỏ máy bay anh để quên hôm nào.
- Úi giời, ém của người ta từ đời nào bây giờ mới trả. Mê quá chứ gì? Sao mấy hôm trước cô thanh niên xung phong tặng cho thì chê?
- Có thích người ta đâu mà nhận làm gì. Kỳ chết.
- Thế là không thích tôi nên trả lại tôi đúng không? - Thanh Duy nói đùa.
- Đâu có đâu, tôi tặng lại cho Duy á. Nhìn nè.
Bảo Trung chỉ cho Thanh Duy một dòng chữ được khắc tỉ mỉ ở mặt sau của chiếc gương. Nó ghi: “Trung thành duy ái”. Nhìn mấy chữ này, Thanh Duy khịt mũi quay đi với vành tai đỏ lựng, miệng thì chê bôi:
- Khiếp, chữ xấu thấy gớm mà bày đặt.
- Không thích thì trả đây.
- Dzô dziên, của người ta mà kêu trả là sao.
- Chữ của người ta thì trả cho người ta chứ. Nói vậy chứ, từ giờ mỗi đứa một phương rồi. Có cái này làm tin, sau hòa bình rồi, còn có cái mà tìm ra nhau chứ.
- Khiếp, nghe cứ như tín vật định tình ấy. Sến quá à. Trung nhớ về Sài Gòn mở tiệm chụp ảnh đấy, lúc đó tôi sẽ cầm cái này đến tìm Trung, bắt Trung bao ăn bao ở, mấy tháng qua tôi lấy quân lương nuôi Trung rồi đó.
- Được, lúc đó để tôi nuôi Duy.
Cả hai cùng cười lên ha hả. Thanh Duy miết dòng chữ trên chiếc gương.
- “Trung Thành Duy Ái” hay ghê á. Dù chúng ta có là ai, ở đâu, thì chúng ta vẫn luôn trung thành với một tình yêu to lớn, đó không gì khác chính là tình yêu quê hương đất nước.
Có những con người hy sinh thành cát bụi, có những người cha người mẹ mất đi những đứa con, có những người mất đi tình yêu đôi lứa, có những người mất đi cả ước mơ. Hết lớp người này ngã xuống rồi lớp người kia đứng lên, họ vẫn sẽ luôn luôn khẳng định, chứng minh rằng không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu nước, tình yêu đó là vĩnh cửu và sẽ trường tồn với thời gian.
Và dù không nói ra, họ vẫn biết đến một lớp nghĩa thứ hai sau câu nói đó. Lớp nghĩa này, Duy sẽ để đến khi hội ngộ, sẽ nói cho Trung câu trả lời. Chờ Duy nhé!
Sau một hồi khóc lên khóc xuống, sắp nhỏ cuối cùng cũng nghe hết được câu chuyện của ông cụ. Bảo Trung vẫn như vậy, những câu chuyện của anh phóng viên năm nào vẫn đem đến nước mắt cho người ta. Nhưng ông vẫn muốn kể, kể về những ngày đêm trường kỳ của Tổ quốc, để không ai bỏ quên vào dĩ vãng những con người không ai chỉ mặt gọi tên. Chính họ đã làm nên Đất nước.
Thằng Nam là người ngưng khóc đầu tiên. Nó sụt sịt mũi, hỏi:
- Ông ơi, vậy anh Đại đội trưởng đó bây giờ thế nào rồi ạ?
Bảo Trung nhìn ra bầu trời, nơi ánh chiều tà đang dần buông. Đôi mắt ông xa xăm, như đang nhìn về một nơi rất xa, nơi những ký ức về đồng đội vẫn còn sống động. Một nụ cười hiền hậu, pha chút tiếc nuối nhưng đầy tự hào, nở trên môi ông.
- Anh ấy… đang ở một nơi xa. - Ông nói khẽ, giọng ấm áp nhưng vẫn ẩn chứa nỗi niềm.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com