Bai11cauhinhwebserve..
Bài 11: Cấu hình các Web Server, DNS Server
11.1. Dịch vụ phân giải tên miến - DNS Server
11.1.1. Nguyên lý phân giải tên miền
Chức năng của DNS
Mỗi Website có một tên (là tên miền hay đường dẫn URL:Universal Resource
Locator) và một địa chỉ IP. Địa chỉ IP gồm 4 nhóm số cách nhau bằng dấu chấm.
Khi mở một trình duyệt Web và nhập tên website, trình duyệt sẽ đến thẳng
website mà không cần phải thông qua việc nhập địa chỉ IP của trang web. Quá
trình "dịch" tên miền thành địa chỉ IP để cho trình duyệt hiểu và truy cập được
vào website là công việc của một DNS server. Các DNS trợ giúp qua lại với
nhau để dịch địa chỉ "IP" thành "tên" và ngược lại. Người sử dụng chỉ cần nhớ
"tên", không cần phải nhớ địa chỉ IP (địa chỉ IP là những con số rất khó nhớ).
Nguyên tắc làm việc của DNS
Mỗi nhà cung cấp dịch vụ vận hành và duy trì DNS server riêng của mình, gồm
các máy bên trong phần riêng của mỗi nhà cung cấp dịch vụ đó trong Internet.
Tức là, nếu một trình duyệt tìm kiếm địa chỉ của một website thì DNS server
phân giải tên website này phải là DNS server của chính tổ chức quản lý website
đó chứ không phải là của một tổ chức (nhà cung cấp dịch vụ) nào khác.
INTERNIC (Internet Network Information Center) chịu trách nhiệm theo dõi các
tên miền và các DNS server tương ứng. INTERNIC là một tổ chức được thành
lập bởi NFS (National Science Foundation), AT&T và Network Solution, chịu
trách nhiệm đăng ký các tên miền của Internet. INTERNIC chỉ có nhiệm vụ quản
lý tất cả các DNS server trên Internet chứ không có nhiệm vụ phân giải tên cho
từng địa chỉ.
DNS có khả năng tra vấn các DNS server khác để có được một cái tên đã được
phân giải. DNS server của mỗi tên miền thường có hai việc khác biệt. Thứ nhất,
chịu trách nhiệm phân giải tên từ các máy bên trong miền về các địa chỉ Internet,
cả bên trong lẫn bên ngoài miền nó quản lý. Thứ hai, chúng trả lời các DNS
server bên ngoài đang cố gắng phân giải những cái tên bên trong miền nó quản
lý. - DNS server có khả năng ghi nhớ lại những tên vừa phân giải. Để dùng cho
những yêu cầu phân giải lần sau. Số lượng những tên phân giải được lưu lại tùy
thuộc vào quy mô của từng DNS.
Cách sử dụng DNS
Do các DNS có tốc độ biên dịch khác nhau, có thể nhanh hoặc có thể chậm, do
đó người sử dụng có thể chọn DNS server để sử dụng cho riêng mình. Có các
cách chọn lựa cho người sử dụng. Sử dụng DNS mặc định của nhà cung cấp dịch
vụ (internet), trường hợp này người sử dụng không cần điền địa chỉ DNS vào
network connections trong máy của mình. Sử dụng DNS server khác (miễn phí
hoặc trả phí) thì phải điền địa chỉ DNS server vào network connections. Địa chỉ
DNS server cũng là 4 nhóm số cách nhau bởi các dấu chấm
11.1.2. Xây dựng máy chủ phân giải tên miền cho mạng doanh nghiệp
Máy chủ phân giải tên miền DNS là gì ?
Mỗi máy tính, thiết bị mạng tham gia vào mạng Internet đều "nói chuyện " với
nhau bằng địa chỉ IP (Internet Protocol). Để thuận tiện cho việc sử dụng và dễ
nhớ ta dùng tên (Domain name) để xác định thiết bị đó. Hệ thống tên miễn DNS
(Domain Name System) được sử dụng để ánh xạ tên miễn thành địa chỉ IP. Vì
vậy, khi muốn liên hệ tới các máy, chúng chỉ cần sử dụng chuỗi ký tự dễ nhớ
(domain name) như: www.microsoft.com, www.ibm.com..., thay vì sử dụng địa
chỉ IP là một dãy số dài khó nhớ.
Máy chủ phân giải tên miền (DNS server) là những máy chủ được cài đặt, và
cung cấp dịch vụ phân giải tên miền DNS. Máy chủ DNS được phân ra thành 2
loại như sau:
- Primary DNS Server (PDS)
Primary DNS Server (PDS) là nguồn xác thực thông tin chính thức cho các tên
miền mà nó được phép quản lý. Thông tin về một tên miền do PDS được phân
cấp quản lý thì được lưu trữ tại đây và sau đó có thể được chuyển sang các
Secondary DNS Server (SDS). Các tên miền do PDS quản lý thì được tạo, và sửa
đổi tại PDS và sau đó được cập nhật đến các SDS.
- Secondare DNS Server(SDS).
DNS được khuyến nghị nên sử dụng ít nhất là hai DNS server để lưu địa chỉ cho
mỗi một vùng (zone). PDS quản lý các vùng và SDS được sử dụng để lưu trữ dự
phòng cho vùng, và cho cả PDS. SDS không nhất thiết phải có những khuyến
khích hãy sử dụng. SDS được phép quản lý tên miền nhưng dữ liệu về tên miền
không phải được tạo ra từ SDS mà được lấy về từ PDS.
SDS có thể cung cấp các hoạt động ở chế độ không tải trên mạng. Khi lượng
truy vấn vùng tăng cao, PDS sẽ chuyển bớt tải sang SDS (quá trình này còn được gọi là cân bằng tải), hoặc khi PDS bị sự cố thì SDS hoạt động thay thế cho đến
khi PDS hoạt động trở lại, SDS thường được sử dụng tại nơi gần với các máy
trạm (client) để có thể phục vụ cho các truy vấn một cách dễ dàng. Tuy nhiên,
cài đặt SDS trên cùng một subnet hoặc dùng một kết nối với PDS là không nên.
Điều đó sẽ là một giải pháp tốt để dự phòng cho PDS, vì khi kết nối đến PDS bị
hỏng thì cũng không ảnh hưởng gì tới đến SDS.
Ngoài ra PDS luôn duy trì một lượng lớn dữ liệu và thường xuyên thay đổi hoặc
thêm các địa chỉ mới vào các vùng. Do đó, DNS server sử dụng một cơ chế cho
phép chuyển các thông tin từ PDS sang SDS và lưu giữ trên đĩa. Khi cần phục
hồi dữ liệu về các vùng, chúng ta có thể sử dụng giải pháp lấy toàn bộ hoặc chỉ
lấy phần thay đổi.
Thay đổi DNS.
Thông thường khi kết nối Internet, tất cả mọi dấu hiệu cho thấy cuộc kết nối
suôn sẻ. Thế nhưng, sau khi đã gõ địa chỉ website vào trình duyệt rồi mà đợi mãi
vẫn chẳng thấy website hiện ra.
Thanh Status (màu xanh lục) trên IE cũng không thấy xuất hiện. Kiểm tra lại mọi
thứ thì vẫn thấy bình thường... Mãi một lúc lâu sau mới thấy trình duyệt thông
báo Connecting to 64.128.xxx.xxx rồi sau đó vào website bình thường. Nhưng
mỗi lần click vào link nào trên trang thì vẫn lặp lại tình trạng cũ.
DNS, Domain Name Server, hay còn gọi là máy chủ tên miền - là một trong
những khâu vô cùng quan trọng trong tiến trình duyệt web của bạn.
Mỗi máy tính trên Internet được đánh dấu bằng một địa chỉ IP, là một mớ số đó,
nhất là trong tương lai địa chỉ IP sẽ dài gấp bốn lần địa chỉ hiện nay.
DNS chính là giải pháp. Thay vì bắt con người nhớ số, mỗi số IP sẽ được đổi
thành chữ và DNS có nhiệm vụ đổi chữ thành số tương ứng khi có yêu cầu. Địa chỉ của DNS thường được cung cấp tự động trực tiếp mỗi khi bạn thiết lập
kết nối với ISP (nhà cung cấp dịch vụ Internet). Ở Việt Nam, mỗi ISP thường có
hai hoặc nhiều DNS để phục vụ số lượng khách hàng của mình.
Thế nhưng thường cũng không đủ dùng. Vì vậy không ai cấm việc xài dịch vụ
của ISP này nhưng thiết lập DNS của ISP khác, hoặc một DNS nào đó tốt hơn
trong các giờ cao điểm.
Thao tác thay DNS cũng rất dễ dàng. Bạn mở cửa sổ Network/properties để vào
Internet Protocol(TCP/IP) Properties. Nếu bạn dùng mặc định DNS do ISP cung
cấp thì chọn "Obtain DNS server address automatically"
Nếu muốn dùng DNS theo ý mình thì chọn dòng " User the following DNS
server addresses", sau đó điền địa chỉ IP của DNS vào 2 dòng bên dưới. Preferrer
DNS server là địa chỉ được trình duyệt tìm đến đầu tiên. Alternate DNS server
dành cho server dự phòng, trong trường hợp server đầu tiên quá bận. <Network
> chính là tên của kết nối Internet của bạn.
11.2. Dịch vụ Web Server
11.2.1. Giao thức HTTP và HTTPS
Giao thức HTTP
HTTP (HyperText Transfer Protocol), tiếng Việt gọi là Giao Thức Truyền Siêu
Văn Bản. HTTP là một giao thức chuẩn trực thuộc lớp ứng dụng trong mô hình 7
lớp OSI và được dùng để liên hệ thông tin giữa máy cung cấp dịch vụ (Web
Server) và máy dùng dịch vụ (Client). HTTP tương thích với nhiều định dạng
thông tin, media và hồ sơ.
Giao thức HTTPS
HTTPS( Secure HTTP), là một sự kết hợp giữa giao thức HTTP và giao thức bảo
mật SSL hay TLS cho phép trao đổi thông tin một cách bảo mật trên Internet.
Giao thức HTTPS thường được dùng trong các giao dịch cần sự bảo mật như e-
commerce, e-banking ... trên Internet.
11.2.2. Triển khai Website doanh nghiệp trên Server
Để triển khai một website doanh nghiệp trên Server ta phải cài dịch vụ Web
Server lên máy chủ đó. Tuỳ thuộc vào Hệ điều hành và ngôn ngữ lập trình Web
mà bạn sẽ quyết định cài lên Server dịch vụ Web Server IIS cho Window hay
Apache cho Linux. Sau đây là các bước triển khai dịch vụ Webserver IIS trên
máy chủ Window.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com