Bên Kia của Sự Sống 1-3
Lúc còn bé, ai chả ham chơi và chơi hết mình. Tôi cũng vậy, hồi nhỏ tôi là một đứa trẻ nghịch ngợm, và luôn tay luôn chân chạy khắp nơi. Tôi sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, nhà tôi nằm trong một con ngõ nhỏ gần ga Hàng Cỏ. Do nhà tôi và nhà bà ngoại ngay cạnh nhau nên trước nhà có một khoảng sân nho nhỏ, bên cạnh là một cây si đã hơn chục năm, dưới là cái bể cá xi măng bao bọc xung quanh gốc cây. Tôi hay nghe mấy người lớn tuổi nói rằng cây si là một trong bốn cây (cây si, cây gạo, cây liễu, cây đa) tụ tập nhiều oan hồn và ma nhất. Ban đầu khi dọn về ngôi nhà mới này, buổi tối tôi còn hơi sờ sợ nhưng lâu ngày rồi cũng quen nên chả quan tâm gì nữa. Nhà tôi ba tầng, kế ngay cạnh là nhà ông trẻ chỉ có một tầng và trên sân thượng của nhà ổng là một cái miếu mà tuổi đời có khi cũng ngang ngửa với cây si. Có thể nói miếu cũng là nơi mà nhiều khi oan hồn hay lai vãng vì đó là nơi người ta cúng tế oan hồn vất vưởng quanh năm để mong phù hộ độ trì. Tuy nhiên, tôi không lấy làm lo lắng gì về ngôi miếu này lắm vì cái miếu đó nhà tôi chỉ để thờ thổ địa và cúng ông Công ông Táo mà thôi.
Tôi nhớ như in, đó là một ngày thứ sáu cuối tháng năm, sau một cuộc đi chơi dã ngoại để chia tay lớp (lúc đó tôi từ cấp một chuyển lên cấp hai). Những lần đi chơi thế này là dịp để tụi học sinh như chúng tôi thả sức nô đùa, phá phách. Như một kết quả tất yếu, tôi về tới nhà vào lúc năm giờ chiều. Quá mệt mỏi, tôi lên tầng ba tắm rửa cho sạch sẽ và nằm lăn ra cái phản trên tầng ba đọc truyện tranh rồi thiu thiu ngủ lúc nào không biết. Lúc mở mắt ra, mới có hơn sáu giờ nhưng ngoài trời vẫn còn hửng sáng vì mặt trời chưa xuống hết hẳn. Kiến bò bụng, tôi lao ngay xuống tầng một để xem mẹ đã nấu xong cơm chưa. Nhưng khi chạy xuống, không có một ai cả. Chạy ngược lên gác hai, mở cửa phòng bố mẹ ra, trống trơn. Tôi lại chạy ù ra ngoài cái sân trước, vắng hoe, ngay cả nhà bà ngoại tôi cũng không có một ai. Không gian lặng im như tờ, tôi để ý thấy nhà bác tôi vốn nuôi bốn con chó tây, chúng nó đáng lẽ giờ này phải kêu inh ỏi để đòi ra sân chơi nhưng lạ thay cũng lăn ra ngủ say như chết. Cả mấy con chim cảnh mắc dịch cũng chẳng thèm hót mà chỉ rúc đầu vào cánh lặng thinh.
Bắt đầu thấy nghi nghi, tôi định chạy vào nhà lấy điện thoại bàn gọi cho mẹ thì bỗng nhiên thấy một cái bóng trước cửa vườn. Trong người tôi bỗng có cái cảm giác bất ổn, rờn rợn, tôi cố nheo mắt nhìn kĩ thì chỉ có thể nhận ra đó là một người đàn bà tóc dài, gầy gò với một chiếc áo dài trắng. Tôi chợt giật mình hốt hoảng, một tia ý nghĩ lóe lên trong đầu: “Ôi! đ*t con m*, ma!”. Bóng người kia như đọc được ý nghĩ của tôi, nó lao ngay về phía tôi, tôi có thể khẳng định đươc là nó không chạy mà lướt đi trên mặt đất rất nhanh. Tôi quay đầu, co chân mà chạy ngay lên tầng. Nhưng tôi có cảm giác nó càng ngày càng gần tôi hơn, không phải vì cái hơi lạnh từ cái vong này tỏa ra như những câu truyện ma khác thường đề cập mà đơn giản là lông gà tôi càng ngày càng dựng đứng lên, người tôi nóng râm ran. Khi vừa chạy đến cửa tầng hai tôi bị nó ép ngay vào góc tường. Nó đưa hai bàn tay ra cố tìm cách bóp cổ tôi, tôi đứng giằng co với cái vong này mồm thì kêu gào:
- Tha cho con bà ơi! Đừng giết con! Con làm gì nên tội đâu…
Lúc đó, tôi nhắm nghiền mắt lại vì sợ sệt không muốn nhìn vào cái bộ mặt khô khốc với hai hố mắt sâu hoắm đó nữa. Song lạ một điều là có cái gì đó tự nhiên làm tâm trí mình thức tỉnh tôi như chợt nhận ra rằng tuy đang đứng đây, giằng co với cái vong này nhưng bản thân lại có cảm giác như mình đang nằm sấp trên phản ngủ. Như một bản năng, tôi có gắng mở mắt để tỉnh giấc, nhưng tay chân tôi như tay chân của một người chết rồi, không nhúc nhích được. Còn về hai con mắt tôi, cho dù tôi có cố bao nhiêu đi chăng nữa để mở nó ra, thì dường như có một thế lực vô hình cực mạnh nào đó kìm hai mí mắt. Cứ chật vật như vậy, tại thời điểm này, tôi không còn nhìn thấy cái gì khác trước mặt ngoài cái vong kia.
Khi mà sự sợ hãi dâng lên đến tột đỉnh, tôi bỗng nghe tiếng ai đó nói vọng lại, từ một nơi xa xăm:
- Mày nên nhớ rằng, mày có thể chạy được, nhưng tao vẫn sẽ tìm đến mày!
Do quá sợ hãi, tôi cố dùng hết sức lực cuối cùng, mở to mắt ra. Mọi thứ trở lại bình thường. Tôi đang nằm trên cái sập ở tầng ba. Trên người mồ hôi đầm đìa, hai con mắt lúc này thì đau nhức kinh khủng. Tôi nhớ như in cái khoảnh khắc khi mở mắt ra, cảm tưởng như xé tan một tấm vải vậy. Quá sợ hãi, tôi chạy ngay xuống tầng một và tự nhủ mình sẽ không bao giờ nằm ngủ một mình trên tầng ba nữa. Nhưng nào tôi đâu có ngờ, đó chỉ là sự khởi đầu cho một loạt những sự kiện kinh hoàng mà có lẽ đến tôi cũng không bao giờ dám tưởng tượng.
Tôi thường hay cùng bố mẹ xuống Thổ Quan chơi và thăm ông bà nội. Chính ra, gia đình tôi đầu tiên sống cùng với nhà ông bà nội ở đây, cũng nằm trong ngõ. Ngoài ra còn có cả họ hàng như các bác và anh chị họ nên vui lắm. Tuy nhiên, vì khi đã ăn nên làm ra, bố mẹ tôi mua lại nhà của một bác bên họ ngoại là cái nhà hiện nay, chuyển lên đó sống cho rộng rãi và thoải mái những vẫn thường xuống thăm ông bà nội hàng tuần.
Như mọi lần, khi vừa xuống đến nhà bà nội là tôi chạy ù ngay sang nhà chị họ tôi, Zin. Đó là tên gọi của bà này ở nhà, gọi lâu ngày rồi thành ra quen. Tuy là chị em họ nhưng chúng tôi thân nhau lắm vì thực ra hai đứa cũng chả cách tuổi nhau là mấy. Lần này xuống, tôi có kể cho bả nghe về điều kì quặc mà tôi bắt gặp hôm ngủ trên tầng ba một mình. Nghe xong bả chỉ cười và nói rằng:
- Mày bị bóng đè rồi Bờm ạ.
Tôi khăng khăng nói:
- Em không nghĩ là bóng đè đâu, vì nếu bị bóng đè thì làm gì có chuyện mơ bị ma đuổi với lại cả người em làm gì có cảm giác bị đè đâu.
Bà ấy cũng cười rồi hỏi tôi có muốn nghe chuyện ma không. Chỉ đợi có thế, tôi khoái chí gật đầu ngay và lắng nghe bà ấy kể. Bên cạnh nhà chị Zin là nhà của hai vợ chồng trẻ hàng xóm. Đôi vợ chồng này tốt bụng lắm, luôn giúp đỡ láng giềng. Họ có một đứa con gái mới lên hai, tên ở nhà là Nhím. Cô nhóc náy kháu khỉnh lắm, nhìn rất đáng yêu.
Rồi vào một đợt, không hiểu tại sao, cứ mỗi lúc tối chuẩn bị đi ngủ, Nhím lại gào khóc thảm thiết mặc dù có bố mẹ ngay bên cạnh, mà hơn thế nhà cửa lại bật đèn sáng như bưng. Đầu tiên mọi người thấy kì quặc lắm, không hiểu lí do làm sao, cứ nghĩ là Nhím không chịu ngủ nên cố dỗ dành, nhưng mà khi ngủ được rồi thì đêm lại rất hay giật mình. Hơn thế nữa, nếu chỉ một lần thì không ai nói làm gì, nhưng đây, sự việc kéo dài hơn một tuần. Bố mẹ Nhím lo lắng lắm, ngay đến cả bác Vân (mẹ chị Zin) cũng phải hỏi thăm:
- Này, chúng mày làm cái gì mả để con bé nó khóc ghê thế?
Mẹ của Nhím nói:
- Bọn con cũng không biết nữa, lạ lắm bà Vân ạ. Cứ mỗi tối lúc chuẩn bị đi ngủ là nó lại gào ầm lên, khóc nức nở. Đã thế đêm ngủ hay giật mình, có hôm lại còn khóc thút thít nữa chứ.
Bác Vân tôi vốn là người đã từng gặp rất nhiều chuyện kì bí như thế này, có người nói tại vía bác nặng, nên ma quỉ hay trêu ghẹo, nhưng bác không sợ. Bác suy nghĩ một lúc rồi nói nhỏ với mẹ Nhím:
- Mẹ Nhím này, tao thấy có lẽ con Nhím nó bị ma trêu đấy, hôm nào mày qua cái chùa bên ngõ bên, mời ông sư về coi thử đi.
Mẹ Nhím mặt tái đi, nhưng cố cãi:
- Bà này, làm gì có chuyện đó, con không tin là có ma quỷ đâu.
Bác Vân vẫn giữ giọng nghiêm nghị và thì thầm:
- Mày chưa biết đâu, chỗ này hồi xưa chiến tranh, chúng nó rải bom cả phố, chết biết bao nhiêu là người. Mà hơn thế nữa, tao đã gặp nhiều chuyện tương tự trong ngõ này rồi, mai mày cứ mời thầy về coi thử, có mất gì đâu.
Mẹ Nhím lúc này mặt tái đi và giọng có vẻ run run:
- Thôi con nghe bà vậy, mai con sẽ xin nghỉ, qua đó rước thầy về.
Sáng hôm sau, mẹ Nhím sang ngõ bên mời được một sư thầy về. Ông sư này là một trong những thầy trừ tà có tiếng. Thầy đã ngoài sáu mươi, thân hình nhỏ bé, với lớp da ngăm đen. Đã rất nhiều người biết tiếng, đến nhờ thầy trừ tà, giải bùa, yểm nhà, v.v. Tuy nổi tiếng và đã phá giải nhiều điều bí ẩn, nhưng thầy chưa bao giờ đòi tiền công ai. Toàn để những người tới cầu cứu tùy tâm mà cúng cho nhà chùa. Khi thầy cùng mẹ Nhím đi tới ngôi nhà, vừa vào đến cửa, cả người thầy bỗng giật lên nhè nhẹ. Thầy đứng lại chăm chú nhìn xung quanh nhà một lúc. Sau đó bảo mẹ Nhím đưa Nhím ra cho thầy coi. Mẹ Nhím gọi bố bế con xuống, khi bố Nhím vừa bế Nhím xuống, thấy mặt sư thầy, Nhím nở một nụ cười rất tươi và đòi theo, bắt thầy bế. Mọi người đều hết sức ngạc nhiên, vì đối với trẻ con còn ít tuổi mà nói, rất ít khi mà theo người lạ mặt mà nhất là lại gặp lần đầu. Thầy bế Nhím vào lòng, vừa nựng Nhím vừa quan sát, một lúc sau thầy trả lại Nhím cho bố của bé, mắt Nhím lúc này nhìn thầy mặt hơi mếu mếu, ý như không muốn rời xa. Thầy bảo là bây giờ hãy gửi Nhím qua nhà khác cho ai trông hộ, rồi cả hai qua nghe thầy bảo. Mẹ nhím vội bế Nhím sang nhà bà bán rau đầu ngõ nhờ trông hộ còn bố tức tốc chạy đi pha trà, vì lúc nãy mải mê với Nhím quá mà quên đi mất việc đó.
Đợi khi cả hai vợ chồng đã quay lại, thầy tiến về phía bàn thờ, thắp ba nén hương, miệng lẩm bẩm cầu khấn gì đó, rồi vái ba vái. Sau đó thầy đi ra chiếc bản nhỏ. Ngồi đối diện với cả hai vợ chồng. Làm một ngụm trà xong, thầy hỏi:
- Tôi hỏi câu này khí không phải, chứ chỗ này có đứa nhỏ nào chẳng may xấu số mà chết oan không?
Bố mẹ Nhím sau khi nghe xong câu đó thì mặt tái đi, giọng run run, bố Nhím thưa:
- Dạ thưa thầy, kì thực thì chúng con không biết vì mới chuyển qua đây sống có hơn hai năm, nên cũng không rõ lắm. Chả là đây là nhà người quen, họ nhượng lại nên tụi con mới mua. Mà bẩm, sao thầy lại hỏi thế ạ?
Sư thầy ngồi suy nghĩ một lúc, chau mày lại, tay nhẩm tính một cái gì đó, rồi thầy thở dài một tiếng, hỏi:
- Mô Phật, vậy tôi hỏi thầy và cô đây có tin vào oan hồn không?
Vừa nghe xong câu hỏi đó, bố Nhím linh tính có chuyện chẳng lành. Mặt tái hẳn đi, mồ hôi bắt đầu lấm tấm trên chán ngồi lặng thinh. Còn mẹ Nhím thì run lẩy bẩy, mắt đờ đẫn, không nói nên lời. Thầy thấy vậy mới nói thêm:
- Tôi xin thực thà mà nói, đứa con của hai người đang bị ma trêu đó….
Lúc này cả hai vợ chồng, như ngã ngửa, người run rẩy, chỉ biết trợn tròn mắt ra mà nhìn thầy.
- Tôi không giám đặt điều với thầy và cô đây, quả thực là đang có một cái vong đang lởn vởn trong căn nhà này. Qua phán đoán của tôi, cộng thêm khi quan sát bé Nhím, tôi có thể khẳng định là cháu hay khóc vào buổi tối tầm tám đến chin giờ. Không chỉ có thế, đêm ngủ hay giật mình và có phải thỉnh thoảng còn khóc thút thít đúng không ?
Nghe đến đây, cả hai vợ chồng như rụng rời chân tay. Mẹ Nhím thì nước mắt đã lã chã lúc nào không hay, bố nhím thì mồ hôi đầm đìa như tắm, có gắng lắm mới thốt lên được mấy lời:
- Bẩm, sao thầy biết ạ?
Thầy nhìn hai người, chỉ khẽ thở dài một cái rồi nói:
- Thứ nhất, khi vào trong nhà tôi để ý thấy, dù cho bên ngoài trời có nóng bao nhiêu, nhưng khi vào trong nhà này lại có cảm giác mát mẻ khác thường, đôi khi còn cảm thấy như có hơi lạnh phảng phất. Đấy là sự hiện diện của khí âm đấy. Thứ hai, có thể đoán cái vong này còn trẻ tuổi, vì nó chỉ trêu được bé nhà ta mà thôi. Hơn thế nữa, nếu vong mà đủ mạnh, oan ức tích tụ lớn thì nó không chỉ chọc phá lúc trời tối đâu. Thứ ba, khi nhìn bé Nhím, nếu để ý kĩ thì sẽ thấy đôi mắt cháu có vẻ gì đó buồn bã và vô hồn. Chỉ tiếc là cháu nó chưa biết nói, nếu không thì bé sẽ cho chúng ta biết những gì bé thấy và mơ được. Thật lòng mà nói, những gì mà bé đang phải trải qua, đến người lớn cũng chưa chắc đã đủ can đảm để nghe đâu, mô Phật.
Lúc này, mẹ Nhím ôm lấy chồng mình và òa lên khóc nức nở:
- Anh ơi, giờ phải làm sao? Làm cách nào để cứu con mình đây?
Bố Nhím lúc này cũng đờ đẫn, chỉ biết ôm lấy vợ. Chợt bố Nhím quay qua thầy hỏi với giọng cầu khẩn:
- Thầy, thầy có cách nào giúp con bé nhà con không?
Thầy suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Cũng may là anh chị phát hiện kịp thời, nếu không thì bé Nhím khó mà qua được tai kiếp này. Theo như tôi tính, muốn đuổi cái vong này đi cũng không khó, nhưng giờ nó đã quen hơi bé Nhím rồi, mà có đuổi được nó ra khỏi nhà này đi nữa, thì khi đi đâu, dù xa đến mấy, nó cũng theo chân và trêu trọc được. Thầy và cô nhà chắc biết cây dâu da chứ?
Mẹ Nhím lúc này mới mếu máo, quệt nước mắt nói:
- Vâng, thưa thầy con biết.
Thầy chầm chậm nói:
- Thầy và cô hãy ngắt đủ sáu ngọn dâu da, nhớ là đừng ngắn quá và quan trọng là cả sáu ngọn phải dài bằng nhau. Ba ngọn thì buộc lại thành hình cái roi mây, cứ mỗi lần đến tối, khi thấy bé Nhím khóc thì cứ cầm cái roi dâu da đó mà quật mạnh xuống đất như đang cầm roi mây vậy. Khi bé Nhím ngủ, hãy để cái roi đó bên cạnh. Còn ba ngọn kia, buộc thành hình tròn, để vào một góc trên bàn thờ, hôm nào thấy bé Nhím đến tối mà không khóc nữa, đêm cái vòng da dâu đó treo lên trước cửa. Nhưng xin thầy cô nhớ cho, cái vòng đó phải treo đủ bảy ngày, không được tháo xuống. Sau bảy ngày, làm một mâm cơm cúng bao gồm, sữa, kẹo, bánh, đồ chơi và một ít vàng mã. Đêm bày ra trước cửa nhà, thắp sáu nén hương, đợi hương cháy hết, thì bắt đầu hóa vàng sau đó thì đem cái roi và vòng dâu da ra thiêu hủy luôn, chỉ có nhự vậy thì mọi chuyện mới êm xuôi.
Nói đến đây, thầy lấy trong túi mình ra một sợi chỉ vàng, đưa cho bố mẹ Nhím và nói:
- Còn cái này, lát khi qua đón bé Nhím về thì buộc vào tay cho cháu, nhớ là chỉ khi nào tất cả những việc kia đã hoàn thành, vẫn phải buộc dây này thêm mấy ngày nữa rồi hãng tháo ra. Sau khi tháo ra thì đem chôn ngay trong bát hương trên bàn thờ.
Bố mẹ Nhím nhận sợi chỉ từ tay thầy, cám ơn rối rít. Thầy thì chỉ chắp tay lại:
- Nam mô a di đà Phật. thiện tai, thiện tai.
Sau đó, bố mẹ Nhím tiễn thầy ra về.
Như lời thầy dặn, ngay ngày hôm sau mẹ Nhím đã tìm đủ sáu ngọn cây dâu da mang về theo lời thầy dặn: Ba cây để làm roi, ba cây còn lại để làm cái vòng và đặt lên bàn thờ. Đồng thời, lấy sợi dây vàng mà nhà sư đưa cho buộc vào tay Nhím. Quả nhiên đêm hôm nay, lúc kim đồng hồ vừa chỉ 9 giờ. Bé Nhím đang vui vẻ ngồi chơi, bất thình lình quay đầu nhìn ra ngoài cửa, rồi gào khóc thảm thiết như bị một ai đó làm đau hoặc là sợ hãi tột cùng. Không chần chừ một giây, mẹ Nhím với ngay cây roi dâu da để ở góc phòng, quất đánh chát xuống nền nhà một cái. Bé Nhím thôi không gào lên khóc nữa, nhưng vẫn thút thít. Mẹ Nhím lại lấy cây roi quất xuống đất lần thứ hai, bé Nhím thôi không khóc hẳn, nhưng mắt vẫn đăm đăm nhìn ra ngoài cửa với khuôn mặt mếu máo và lo sợ. Thấy vậy, mẹ Nhím quất cái roi xuống đất lần thứ ba, lần này mạnh hơn hẳn. Tiếng chát vừa vang lên, bất thình lình một cơn gió lạnh thổi từ trong nhà ra ngoài cửa. Mọi việc trở lại bình thường, bé Nhím trở lại bình thường và vui vẻ chơi với đồ chơi của mình. Đến giờ đi ngủ, mẹ Nhím làm theo lời thầy dặn, đặt cây roi bên cạnh Nhím. Quả nhiên tối hôm đó, Nhím ngủ ngon lành, không còn giật mình hay khóc lóc gì nữa. Cứ như thế liên tục bốn hôm liền, đến tối ngày thứ năm, khi đã hơn mười giờ mà thấy Nhím vẫn ngoan ngoãn, không khóc lóc gì. Bố Nhím vội chạy lên bàn thờ chắp tay lạy ba lạy, sau đó lấy cái vòng ra treo trước cửa. Đêm hôm đó, chỉ có mỗi Nhím là ngủ ngon lành. Còn bố mẹ Nhím thì không sao ngủ được. Vì ngay khi vừa treo cái vòng dâu da lên, cả đêm liền, hai vợ chồng nghe có tiếng trẻ con ở đâu đó khóc vọng lại. Tiếng khóc này rất khác thường, nó thảm thiết, não nề, và không kém phần rùng rợn, nghe thấy thì da gà nổi lên khắp người.
Sáng hôm sau, hai vợ chồng hỏi mọi người xung quanh xem đêm qua con nhà ai khóc mà thảm thiết đến thế. Mọi người nhìn đôi vợ chồng ngạc nhiên, họ chỉ bảo là đêm qua làm gì có ai khóc đâu. Thấy ai cũng nói vậy, hai người có vẻ sợ hãi, vì đêm qua tiếng khóc rất rõ ràng và thê lương. Cứ như vậy gần một tuần lễ, không đêm nào là không nghe thấy tiếng trẻ con khóc vọng lại, thoáng nghe thì có vẻ gần, nhưng nghe kĩ thì rất xa vời. Một tuần trôi qua, cả hai vợ chồng vầng mắt thâm quầng, người thì mệt mỏi vì đêm nào cũng mất ngủ. Đến đêm hôm nay, cả hai người nghĩ là sẽ lại một đêm nữa thức trắng, nhưng lạ thay, bốn bề lặng như tờ, hai người dần dần chìm vảo một giấc ngủ êm đềm sau một tuần lễ đầy căng thẳng và mệt mỏi. Ngày hôm sau, mẹ Nhím lấy cớ bị ốm, xin nghỉ việc ở nhà, đi mua sắm các đồ lễ cần dùng rồi thắp hương cúng tế y như lời thầy trước cửa nhà. Sau khi hóa vàng xong, mẹ Nhím cầm cái roi và vòng dâu da ra thiêu nốt. Quả nhiên từ đó trở đi, mọi việc trở lại bình thường. Nhím không còn khóc lóc buổi tối hay giật mình khi ngủ nữa.
Bên Kia của Sự Sống 3: Đừng Bỏ Con Lại.
Hôm nay, mẹ của Nhím sắm sửa hoa quả cùng với chồng mình mang sang ngôi chùa biếu sư thầy để cảm ơn về việc đã giải tà cho cô bé con. Đây là một ngôi chùa nhỏ bé gồm năm gian nhà chính: gian chính giữa là để thờ cúng Phật Tổ và các vị bồ tát khác, gian thứ hai bên trái là để làm các lễ như cúng kiến, hay cầu siêu trong các ngày lễ, gian bên phải là nơi để di ảnh của những người đã khuất mà người thân đưa lên chùa, để họ luôn được ở bên cạnh Phật Tổ, gian ngoài cùng bên trái là để tiếp đón khách đặt làm lễ hoặc ngồi trò chuyện và gian ngoài cùng bên phải là bếp ăn để nấu đồ cúng kiến hoặc chuẩn bị cơm nước cho các tăng ni Phật tử.
Gặp được sư thầy, hai vợ chồng hết lòng cám ơn. Thầy cũng vui vẻ khi tiếp đón đôi vợ chồng trẻ và hỏi han tình hình bé Nhím. Khi được biết mọi việc đã bình thường trở lại, thầy mới thở phào nhẹ nhõm. Trong cuộc trò chuyện vui vẻ, bỗng mẹ Nhím bất giác nhớ ra điều gì đó, quay ra hỏi sư thầy:
- Thưa thầy, tuy là mọi việc đã êm xuôi. Song con và chồng con vẫn có một chút tò mò và thắc mắc. Hôm bữa, khi thầy đến nhà, con có để ý là khi nhắc đến oan hồn của đứa nhỏ ở nhà con mà mặt thầy có chút gì đó đắn đo. Con có cảm giác như là thầy vẫn giấu tụi con điều gì đó về cái vong này, vậy tụi con mong thầy chỉ bảo thêm được không ạ?
Sư ông chợt ngẩn người ra mấy giây, xong chỉ mỉm cười và bảo:
- Tôi không ngờ cô đây quả thật có con mắt nhìn người rất tinh tường.
Bố của Nhím cắt lời:
- Thưa thầy, chả lẽ còn có gì uẩn khúc gì đằng sau cái oan hồn đó ạ?
Sư thầy thở dài và nói:
- Âu cũng là cái duyên cái số cả mà thôi, mô Phật. Tôi quả thật có biết về cái oan hồn nhỏ tuổi đó…
Nghe đến đây, hai vợ chồng càng thêm tò mò và thúc giục sư thầy kể đầu cua tai nheo về sự việc trên. Sư thầy chỉ biết nhìn họ cười mỉm và bắt đầu kể câu chuyện.
Sư thầy còn nhớ, đó là vào ngày 25 tháng 10 năm 1987, khi thầy mới bước vào cửa Phật được hơn mười năm. Lúc đó thầy mới hơn hai mươi tuổi. Mọi người vẫn hay gọi sư thầy là Pháp Độ, thầy theo học và phụ giúp thầy San. Tuy thầy Pháp Độ còn trẻ, nhưng dường như thấu hiểu được mọi nỗi khổ của người trần tục, nên khi giúp ai thì thầy cố tận tâm giúp hết sức nên được rất nhiều người quý mến. Tuy nhiên, khi mới nhập môn, Thầy San sau khi nhìn thầy, xem chỉ tay, tướng mạo bảo với thầy rằng:
- Ta không muốn làm con sợ, nhưng từ trước đên nay, con có bao giờ tin vào cõi âm, ma quỷ, hay oan hồn không?
Thầy Pháp Độ nghe thế, trong lòng hơi thắc mắc:
- Dạ bẩm thầy, nếu quả thực trên đời này có ma quỷ, oan hồn thật thì xem ra họ chỉ vấn vương, luyến tiếc điều gì chưa thực hiện được chứ ắt không hại đến người.
Thầy San cười hài lòng và nói:
- Con nói thế tức là con tin vào chuyện đó đúng không? Vì ta xem tướng mạo con, ta biết con là người có vía rất nặng, nên con sẽ nhìn thấy những điều mà con không tưởng tượng được đâu.
Tuy không hiểu ý của Thầy San lắm, nhưng thầy Pháp Độ cũng gật đầu vâng dạ. Có một đợt, nhà nọ trong ngõ có người chết, nghe đâu chết bất đắc kì tử. Gia đình mời thầy San đến làm lễ cúng bái và siêu thoát. Thầy San liền chấp thuận và gọi thầy Pháp Độ đi cùng để phụ giúp cúng tế. Người chết là một thanh niên trẻ, tầm ngoài hai mươi tuổi, cơ thể vạm vỡ khỏe mạnh. Trong lúc làm lễ, thầy San ngồi đọc kinh gõ mõ, còn thầy Pháp Độ đứng đằng sau lo việc nhang đèn, hương khói, đồng thời cũng tụng kinh theo. Lễ được làm lúc 5 giờ chiều, chỉ sau 8 tiếng khi chàng trai kia chết. Lúc ngồi làm lễ, thầy Pháp Độ có cảm giác như có ai đó đang nhìn mình chăm chú. Thầy bỗng có cái cảm giác rờn rợn, quay người ra cửa thì thấy có một chàng trai vóc người vạm vỡ, đang đứng thập thò ngoài cửa, chăm chăm nhìn vào hai thầy. Thầy Pháp Độ bắt gặp ánh mắt đó, thì sợ hãi rùng mình. Thầy chợt nhận ra rằng đó chính là người trong ảnh, hay nằm trong chính cái quan tài ngay trước mặt thầy. Thầy nghĩ vô lý, đã nằm trong quan tài, thì làm sao có thể đứng ngoài cửa mà nhìn vào được nữa. Thầy pháp độ quay lại mặt vào trong, nhắm mắt, miệng lẩm bẩm tụng kinh theo thầy San trong sự run sợ.
Khi bài khấn vừa xong, mọi người đứng lên thu dọn đồ lễ. Thầy pháp độ mở mắt, quay lại nhìn về phía cửa thì không còn thấy chàng trai đó nữa. Về đến chùa, thầy Pháp Độ cứ đi ra đi vào, ngẩn ngơ, không nói năng gì. Thầy San thấy vậy, kêu thầy vô và hỏi:
- Con có chuyện gì hay sao mà sắc mặt như người mất hồn vậy?
Thầy Pháp Độ ấp úng thưa:
- Thưa thầy, con…Trong đám ma hồi chiều, con…
Thầy San cắt lời:
- Con thấy vong của người đã khuất đúng không nào?
Thầy pháp độ tròn mắt hỏi:
- Bẩm, sao thầy biết? Không lẽ thầy cũng nhìn thấy ạ?
Thầy San chỉ mỉm cười:
- Ta gặp cái vong này từ hồi sáng cơ.
Thầy Pháp Độ há hốc mồm ngạc nhiên. Thầy San cười mỉm rồi kêu thầy Pháp Độ ra bàn nước và nói chuyện.
Thầy kể là sáng hôm đó, khi đang ngồi thiền tại gian chính thì thầy nghe có tiếng gọi từ đâu vọng lại. Thầy nhìn ra cửa thì thấy một thanh niên đang đứng lấp ló ngoài đó. Thầy nói:
- Có chuyện gì, xin mời thí chủ vô đây, sao lại đứng thập thò ngoài đấy?
Người đó ấp úng vẻ sợ sệt nói:
- Thưa thầy… con không giám vào, vì ánh hào quang và sự oai nghiêm của Phật pháp quá lớn.
Như hiểu ra điều gì, thầy San đứng dậy, tiến ra cửa:
- Nếu đã là người của cõi khác, xin hỏi sao còn loanh quanh nơi đây? Phải chi có điều gì khuất tất?
Người thanh niên kia mới thật thà đáp:
- Bẩm thầy, con mới qua đời sáng nay, còn biết là thể nào người nhà cũng qua đây nhờ thầy làm ma chay, cúng kiến. Con chỉ xin thầy khi làm xong, đừng yểm bùa trước cửa để con còn được về thăm người thân.
Thầy San đáp:
- Phàm đã là người của cõi âm, thì tại sao còn luyến tiếc trần thế làm chi? Yểm bùa chẳng qua là tránh oan hồn về làm giữ thôi.
Người thanh niên kia khẩn khoản chắp tay nói:
- Con xin thầy, con không có ý quậy phá hay trêu chọc ai, chỉ là chưa đền đáp được gì cho cha mẹ cả, nay lại yểu mạng. Chỉ xin thầy đừng yểm bùa, thì con còn có thể về phù hộ giúp đỡ bố mẹ con ăn nên làm ra.
Thầy San nghe mủi lòng liền bảo với người này:
- Thôi được, nếu thí chủ đã thành tâm như vậy, thì bần tăng xin hứa sẽ không yểm bùa. Nhưng mong thí chủ nhớ cho, nếu tạo ác nghiệt, sẽ mãi mãi không được siêu thoát luân hồi. Mô Phật.
Nghe được những lời đó, người kia khóc nức nở rồi quỳ xuống, vái thầy San ba vái. Sau đó dần tan biến vào không gian. Quả nhiên chỉ hơn mười phút sau, có mấy người khóc lóc, chạy vào chùa, nhờ thầy San làm lề cầu siêu cho con trai họ vừa mới chết yểu. Đó chính là bố mẹ và người nhà của người thanh niên kia.
Có thể nói, đó cũng chính là sự khởi đầu cho một loạt những chuyện bí hiểm sau này mà thầy Pháp Độ bắt gặp, trong đó có một câu chuyện thương tâm hơn cả. Cuối mùa đông năm 1990, tiết trời lành lạnh. Dạo này, thầy thường thấy có đứa bé gái tầm chín, mười tuổi, hay lang thang trong ngõ cả tối, cứ thẩn thơ chơi một mình. Thầy Pháp độ thấy kì lạ, bèn hỏi chuyện. Cô bé đó nói là không có nhà, không có cửa, nên chả biết đi đâu về đâu. Nghe vậy thầy thương lắm, hay cho cô bé đó kẹo, bánh và đồ ăn trong chùa. Nhưng lạ ở chỗ, là chỉ từ 8 giờ tối trở đi mới thấy cô bé đó, còn đến ban ngày thì không thấy đâu. Rồi bất thình lình một hôm cầm tớ báo đọc, thầy Pháp Độ bỗng giật mình, mồ hôi toát ra đầm đìa. Thầy đọc đến mục tin hình sự, công an tìm thấy xác một bé gái mười tuổi, chết đuối trong bể nước được hơn một tháng. Mục tin tức có đề cả ảnh và đó chính là cô bé hay luẩn quẩn đầu ngõ hơn hai tuần nay. Vừa nhìn thấy bức ảnh, thầy Pháp Độ bỗng có cảm giác rờn rợn, đặt tờ báo xuống, thầy vừa sợ nhưng xen lẫn một chút buồn bã và thương hại cho cô bé kia. Nguyên đêm hôm đó, thầy ngồi tụng kinh niệm Phật, cầu mong cho linh hồn cô bé mau được siêu thoát, nhưng rồi thầy chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết. Thầy mơ thấy cô bé đó hiện ra, ngồi trước mặt thầy.
Cố bé kể mình tên là Hoa, bố tên An, còn mẹ tên Minh. An và Minh là đôi vợ chồng trẻ, họ cưới nhau năm 18 tuổi, bỏ ngang việc học hành, tuy hai gia đình kiên quyết phản đối. Nói là phản đối, chứ thật ra vì Minh đã có bầu với An được hơn 4 tháng. Không thể che giấu được nữa, bố An mua một căn nhà nhỏ có vườn cho đôi vợ chồng này ở và tự thân nuôi nhau. Hai vợ chồng sống cuộc sống tạm ổn, An thì làm nghề lái taxi, nhưng lại ham cờ bạc, lô đề. Còn Minh thì thêu thùa, may vá quần áo. Không hiểu trời xui đất khiến thế nào, khi Hoa chào đời, cuộc sống của gia đình An và Minh cũng xuống dốc từ đây. Hoa mắc bệnh câm bẩm sinh không thể nói được nên cũng chẳng được cho đi học. An thì càng ngày càng nghiện mấy trò đỏ đen, có bao nhiêu tiền cũng nướng vào đó sạch. Cuối cùng cũng khuynh gia bại sản. Không chịu đựng nổi An, Minh bỏ anh theo một lão nhà giàu hơn cô hai mươi tuổi, bỏ lại An một mình nuôi con. Càng ngày càng túng bấn, rồi dần dần An mất luôn việc làm, tối ngày chỉ ở nhà uống rượu, nhiều khi còn chửi bới, đánh đập Hoa. Nhiều kẻ xấu mồm, nói với An rằng Hoa là cái họa, là con quỷ, mang đến khổ đau và nghèo đói cho gia đình An. An cũng vì thế mà càng ngày càng cay ghét cô bé hơn. Rồi có một hôm, An được mấy thằng bạn rủ rê vào miền Nam làm ăn. Vì quá kẹt tiền nên An bán tháo đồ đạc trong nhà, gom tiền lại rồi tính theo thằng bạn vào Nam. Nhưng chợt nhớ tới Hoa, cái của nợ này phải gửi cho ai bây giờ? Bố mẹ An đã từ An lâu lắm rồi, cái nhà là món quà từ con mà bố tặng cho An.
Buồn rầu, chợt trong đầu An lóe lên điều gì đó. An thấy nhà mình ở chỗ vắng người, nhà nào biết nhà ấy tối ngày đóng cửa im lìm. An hí hửng vui mừng vì mình đã có một kế hoạch hoàn hảo. Tối đó, An làm mấy chai rượu đế, cho thật say. Khi rượu đã ngấm vào người, An gọi Hoa vào kêu ra bể múc nước cho An rửa mặt. Hoa vâng lời, đang hí hoáy múc nước, từ đằng sau, An lao tới xô cô bé xuống bể nước rồi đóng nắp lại. Hắn vào nhà xách túi quần áo chạy qua nhà bạn ngay trong đêm đó. Nghe đến đây, thầy Pháp độ nước mắt lưng tròng. Hoa bỗng hạ giọng, hỏi thầy Pháp Độ:
- Tại sao lại ra nông nỗi này hả thầy? Con đã làm gì nên tội, mà kiếp này, mọi việc đen đủi đều đổ dồn lên đầu con? Có ai thấu hiểu cái sự cô đơn, lạnh lẽo tột cùng trong cái bể nước đó không? Cái cảm giác chết dần chết mòn, lạnh lẽo từ từ thấm dần vào cơ thể? Thầy trả lời con đi! Tại sao lại như thế?! Tại sao?!
Thầy Pháp Độ chỉ biết thờ dài, thầy nói:
- Âu cũng là ý trời khó tránh khỏi. Thiện tai, thiện tai.
Hoa trợn mắt, tiếng nói như thét lên giữa bốn bề đêm vắng:
- Ý trời?! Vậy ông trời có mắt không tròng! Con không cam chịu chết tủi một mình đâu! Con sẽ trả thù! Còn sẽ bắt bố mẹ con chết không được, mà sống cũng không xong!
Thầy Pháp Độ cố nói bằng giọng bình tĩnh, khuyên can Hoa:
- Mô Phật, con à, đừng gây thêm nghiệp báo nữa, con sẽ không được siêu thoát đâu. Chi bằng con hãy phù hộ độ trì cho bố mẹ con. Lấy ân báo oán, như vậy có phải sẽ được thoát khỏi oán hận mà siêu thoát luân hồi sao?
Hoa giọng càng đay nghiến:
- Cái gì là lấy ân báo oán chứ? Con không cần phải siêu thoát, cũng chả cần đến luân hồi. Con sẽ cho chúng nó biết rằng, có những điều mà đáng sợ hơn cả chết, chúng nó sẽ ước rằng còn chưa bao giờ tồn tại trên đời này!
Thầy Pháp Độ đang định nói thêm, thì Hoa đã vụt tan đi trong không trung, để lại bồn bề vắng lặng.
Kể đến đây, mặt thầy Pháp Độ bỗng hiện lên một vẻ buồn man mác. Bố mẹ nhím cũng không khỏi bàng hoàng. Mẹ Nhím hỏi thầy:
- Như vậy, mọi chuyện là ở trong gia đình của cô bé Hoa đó, cớ gì lại chọc phá con của con hả thầy?
Thầy Pháp Độ thở dài:
- Biết là không liên quan, nhưng mà Hoa đã đưa được cả bố và mẹ về cõi bên kia rồi. Tuy là đã làm được việc mà mình mong muốn. Nhưng do oán khí tích tụ lâu ngày, nên giờ dù có thực hiện được việc mà mình muốn làm đi chăng nữa, oan hồn vẫn cứ lởn vởn như người vô định, vất vưởng tại chốn này mà không bao giờ siêu thoát.
Bố Nhím chen lời:
- Thầy cho con hỏi, sao thầy biết chắc là Hoa đã trêu chọc con gái con mà không phải là cái vong hay oan hồn nào khác?
Thầy Pháp Độ nhìn thằng vào mắt Bố của Nhím, chậm rãi nói:
- Tại sao ư? Vì khi thí chủ bế con xuống, bần tăng đã nhìn thấy bé Hoa đi lẽo đẽo theo sau thí chủ. Ngay cả khi bần tăng bế cháu Nhím, bé Hoa cũng đứng đó không rời nửa bước.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com