Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Bên Kia của Sự Sống 8 - 13

Bên Kia của Sự Sống 8: Thế Chỗ.

  Như nhiều bạn đọc đã biết, bố tôi vốn là một bác sĩ quân y, đã từng ra vào chiến trường để cứu mạng nhiều người. Hay có thể nói rằng, cho người khác một cơ hội sống. Trước kia bố tôi làm bác sĩ phẫu thuật, nhưng rồi được viện điều đi học kĩ thuật mổ lazer và dần dần chuyển qua phẫu thuật thẩm mỹ. Nhiều lần tôi hỏi bố tôi là vì sao lại đổi ngành như vậy, ông chỉ cười và bảo là kiếm được hơn, tuy nhiên bố tôi không ngờ là mẹ tôi đã kể cho tôi nghe một phần lí do mà ông đổi ngành. Trên đời này, sống chết có số, chả trách mà người xưa có câu “Diêm Vương bắt người đi canh ba, ai dám dữ đến canh năm”. Vì thế đối với những bác sĩ chuyên ngành mổ cứu người bệnh khỏi những ca thập tử nhất sinh có thể coi là làm trái ý trời. Hồi đó, bố tôi còn là đại tá, phải trực đêm thường xuyên cho những ca cấp cứu muộn. Đang ngồi ở phòng trực giao ban sắp xếp giấy tờ. Đang ngồi thì bỗng có một cô gái bước vô, bố tôi thấy thế liền cất tiếng hỏi:

-         Chị vào đây có việc gì thế?

Cô gái đứng đó, nhìn bố tôi và đáp:

-         Em có chuyện muốn thưa với bác sĩ.

Bố tôi mời cô gái ngồi, nhưng cô gái vẫn đứng tại chỗ và nói:

-         Em không dám quấy rầy bác sĩ, chỉ muốn nói cho bác sĩ một điều. Lát nữa sẽ có một ca cấp cứu. Nạn nhân là một thanh niên, tên … tuổi từ 20 đến 25. Nó đua xe, đến khúc cua, bị ngã đập đầu xuống đất, mong bác sĩ đừng cứu nó, vì số nó đã tận. Nếu bác sĩ cứu nó thì coi như là chuốc vạ vào thân đó.

Bố tôi bực mình, đập bàn và nói:

-         Cô nói linh tinh cái gì thế? Bệnh nhân vào cấp cứu mà lại bỏ mặc là sao, mời cô ra ngoài ngay cho?

Cô gái quay đầu đi ra, vừa đi vừa nói:

-         Em đã dặn bác sĩ rồi đó, mong bác sĩ đừng làm em phải thất vọng.

Bố tôi định chạy theo ra, mắng vốn cho một trận. Nhưng lạ thay ra đến cửa, thì không thấy một ai, bốn bề đều vắng lặng. Bỗng thấy chú Nghị, cấp dưới của bố tôi đi tới, bố tôi hỏi:

-         Nghị, lúc nãy có thấy cô nào đi ra không?

Chú Nghị nhìn bố tôi:

-         Làm gì có ai hả sếp, mà giờ này đâu có cho người nhà bệnh nhân ra vào tự do đâu.

Bố tôi bấy giờ mới thấy kì lạ, rõ ràng là có người. Đầu tiên bố tối nghĩ là ma trêu quỷ ghẹo, nhưng phải nói thật là bố tôi không có tin vào ba cái chuyện nhảm nhí đó. Quay lại phòng trực giao ban, được độ hơn một tiếng sau thì có y tá vào kêu đi mổ cấp cứu. Trên đường đến phòng cấp cứu, coi qua tờ khai lý lịch mà người đưa bệnh nhân đến khai thì tất cả đều trùng khớp với lời cô gái kia nói. Bố tôi lúc này thì trong lòng đầy nghi hoặc nhưng cũng không kém phần rờn rợn. Sau ca cấp cứu đó, chàng thanh niên kia cũng tai qua nạn khỏi. Bố tôi sau đó cũng quên dần đi cái sự việc kìa lạ đó.

Hồi đó tôi còn học cấp một, mọi khi chiều về mẹ tôi hay đón. Nhưng hôm đó, bố tôi ra sớm nên nhận nhiệm vụ đón cậu con trai. Tôi đợi mãi, đầu tiên là 15 phút, rồi nửa tiếng, rồi hai tiếng. Cứ thế thời gian trôi qua, lúc đầu tôi bực mình lắm, vì không hiểu lí do gì mà bố tôi đến muộn thế này. Mãi đến hơn 7 giờ, anh Hà, học trò của bố tôi đến đón. Tôi thấy lạ lắm, hỏi anh Hà là bố tôi đâu, anh bảo là bố tôi đang đi đón tôi thì bị chúng nó đâm phải, đang nằm trong viện, bao nhiêu bực dọc trong người tôi bỗng đổi chỗ cho sự lo lắng điên cuồng, tôi mắt rơm rớm. Hỏi anh Hà coi bố có sao không, anh bảo là không sao, chỉ khâu mấy mũi trên đầu thôi. Sau đó anh Hà đưa tôi vào viện, mẹ tôi cũng đã ở đó. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi nhận ra bố mình vẫn bình an vô sự. Mãi sau này bố tôi mới kể cho mẹ tôi nghe rằng, trước cái hôm bị tai nạn đó, bố tôi có nằm mơ và thấy cô gái hôm nào hiện về, cô ta nói rằng:

-         Em đã khuyên can bác sĩ, mà bác sĩ không nghe. Thằng đó mấy năm trước đua xe, rồi nó đâm phải em đang đi xe đạp. Nó là người đã cướp đi mạng sống của em, hôm đó là cái ngày mà em kéo nó về cõi khác, vậy mà bác sĩ vẫn cứu nó. Vậy thì bác sĩ sẽ phải thế chỗ nó đó.

Nếu đúng như lời bố tôi kể, thì có lẽ giờ này ông đã chả còn ở đây nữa rồi. Nhưng theo tôi cũng có thể vì bố tôi đã cứu nhiều người, tuy mang tiếng là trái ý trời, nhưng ít ra cũng được trời Phật phù hộ cho cái tấm lòng nhân đức của ông.

 Bên Kia của Sự Sống 9: Cõi Khác.

 Chủ đề về “Cõi khác” đã được bàn tán từ lâu lắm rồi. Nhưng càng về sau, khi khoa học phát triển, nhiều người dường như quên dần đi cái vấn đề này. Đa số là do con người ta bây giờ cái gì cũng lôi khoa học ra chứng minh. Cái gì mà khoa học chứng minh là sai hoặc chưa chứng minh được, họ coi như là điều vô lý, hoang đường, và thậm chí là nhảm nhí. Nhưng phải nói thẳng một câu, có rất nhiều điều mà khoa học cũng không thể chứng minh, mà vẫn tồn tại, vậy tại sao lại phủ nhận những việc như thế. Câu chuyện mà tôi sắp kể dưới đây, là một câu chuyện đã từng xảy ra, nhưng tên nhân vật đã được thay đổi. Đã là người Việt Nam, không ai còn lạ gì việc gọi hồn hay nói chuyện với người ở thế giới bên kia qua các nhà ngoại cảm cả. Cũng nhờ vào việc đó, mà không ít người đã tìm được thân nhân của mình thất lạc trong chiến tranh. Cũng như một vấn đề đã nêu ở phần trước, nếu nói là những người làm bộ máy nhà nước không bao giờ tin vào thần thánh mà quỷ thì bạn đã nhầm to. Bộ máy nhà nước ở đây xin được nói rõ hơn là viện quân y (chi tiết là viện nào xin được giấu tên). Viện này có một khoa riêng chuyên nghiên cứu về vấn đề tâm linh, “khoa tâm linh học”. Tại sao khoa này lại được ít người biết đến, lí do là vì nguồn kinh phí cho khoa này không cao, nhân viên chủ yếu là những bác sĩ cấp cứu chuyên ngành, hay những người mổ tử thi. Họ tin rằng con người ta sau khi chết không hẳn là đã chấm dứt một sự sống, mà vẫn còn một cái gì đó tồn tại, vảng vất. Trưởng khoa tâm linh học là một bác sĩ chủ nhiệm khoa nhi, chuyên về nạo phá thai. Tên ông là Phước, phó khoa tâm linh học là Thành, Đạt và một số người nữa. Nhiều đồng nghiệp trong viện nói bác sĩ Phước là người mê tín dị đoan vì trong phòng ông có một cái bàn thờ nhỏ, thắp hương hàng ngày. Bàn thờ này không phải để cúng thần linh hay thổ địa, chỉ đơn giản để bái vong hồn cho khỏi phá phách. Đợt mùa đông năm đó, khoa tâm linh học đang tiền hành một cuộc thí nghiệm mang tầm cỡ quan trọng, đó là gọi hồn một người vừa mới chết về. Việc này không khó, chỉ cần đưa người thử nghiệm vào một buồng kín, chung quanh để thật nhiều gương hai mặt, trong phòng chỉ lắp bóng đèn vàng, cửa sổ và cửa ra vào đóng hết. Máy lạnh để mức thấp nhất. Hơn thế nữa, những người tham gia thí nghiệm phải được quết máu chó lên trán để tránh bị nhập xác. Nghe thì có vẻ hay lắm, nhưng khổ một nỗi, kiếm mãi mà không tìm đâu ra được một người mà sắp chết chịu dâng hiến thân mình để làm thí nghiệm. Bác sĩ Phước rất tuyệt vọng khi mãi không kiếm đâu ra được một người như thế. Đang tính tới việc từ bỏ cuộc thí nghiệm thì cơ may lại đến. Bác sĩ Phước có một người bạn thân tên là Thọ. Ông này mới có gần sáu mươi, mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối, không biết sẽ ra đi lúc nào. Nghe thấy bạn mình tâm sự về cuộc thí nghiệm chắc phải từ bỏ. Ông Thọ nói:

-         Nếu anh không chê, tôi tình nguyện hiến thân mình cho cuộc thí nghiệm đó.

Bác sĩ Phước vừa nghe dứt câu, đã trố mắt. Bác sĩ Phước mừng lắm chứ, nhưng nghĩ lại Thọ là bạn thân của ông, ông không cam lòng:

-         Anh nói gì vậy, tôi sao có thể lôi bạn thân của tôi ra làm thí nghiệm được chứ? Bao nhiêu năm chúng mình sát cánh ngoài chiến trường, gian khổ có nhau.

Ông Thọ cố van nài giọng yếu ớt:

-         Tôi biết là anh quý tôi, nhưng mà cuộc thí nghiệm này cũng không kém phần quan trọng với anh. Và lại, tôi cũng sắp gần đất xa trời rồi, cũng muốn làm một việc gì đó có ý nghĩa. Nếu như quả thật tôi có thể chứng minh được rằng còn có cõi khác tồn tại thì tôi vui lắm.

Từ chối một hai lần, nhưng thấy bạn mình nhất quyết đòi hiến thân. Bác sĩ Phước gục đầu lên giường của ông Thọ khóc nức nở và cám ơn ông. Ông Thọ bàn với vợ con, lúc đầu họ nhất quyết không đồng ý. Nhưng sau khi được ông Thọ thuyết phục, kèm theo bác sĩ Phước đảm bảo là xác sẽ nguyên vẹn, đồng thời cuộc tiến hành chỉ diễn ra mấy ngày. Vì chiều ý người sắp ra đi, vợ ông Thọ đồng ý kí vào giấy chứng nhận. Bác sĩ Phước vui mừng chạy đi báo cho mọi người trong khoa biết và lên kế hoạch chuẩn bị cho cuộc thí nghiệm có một không hai này. Bác sĩ Phước sai cô y tá Lan và Mai túc trực bên cạnh ông Thọ cả ngày để nếu như thấy ông có biểu hiện yếu đi sẽ đưa thẳng vào phòng thí nghiệm. Bác sĩ còn cấp phép cho vợ con ông Thọ được ra vào viện tự do để được gần ông những giây phút cuối.

            Cái đêm đó, bác sĩ Phước đang ngủ, thì điện thoại di động của ông reo lên. Ông nheo mắt mở điện thoại:

-         Cô Mai hả, có chuyện gì thế?

Đầu dây bên kia:

-         Sếp ơi, ông Thọ yếu lắm rồi, có lẽ tối nay có thể tiến hành được.

Bác sĩ Phước nhảy bổ dậy:

-         Thế hả? Cô đã gọi cho những người khác chưa?

Cô Mai đáp:

-         Tất cả đã có mặt đầy đủ, chỉ đợi mỗi sếp thôi.

Bác sĩ Phước giọng khẩn trương:

-         Cô và mọi người đưa ông Thọ vào phòng đi, tôi sẽ đến ngay.

Bác sĩ Phước vội vàng mặc quần áo, phóng xe như bay đến viện. Cũng may mà nhà gần viện nên chỉ sau 15 phút là đã có mặt. Bước vào phòng, bác sĩ Phước thấy mọi thứ đã chuẩn bị đủ, đèn vàng thắp sáng, trước các cửa sổ đã được đăt một tấm gương to. Bước đên bên cạnh giường của ông Thọ, bắt mạch và nghe nhịp tim thì thấy đã yếu lắm rồi. Nhìn ông Thọ, mắt lờ đờ, cố hé mở để nhìn người bạn thân lần cuối. Bác sĩ Phước, nước mắt lưng tròng. Rồi bác sĩ Phước quay ra bảo Thành đóng nốt cửa ra vào cà chặn tấm gương lại. Rồi tất cả ba người, Phước, Thành, Đạt, Mai và Lan quay quanh giường của ông Thọ. Lan đưa cho mọi người bát máu chó để quệt lên trán. Được một lúc, chợt máy đo nhịp tim kêu tiếng bíp dài dằng dặc. Bác sĩ Phước nhìn lên khuôn mặt của ông Thọ, hai con mắt giờ đây đã nhắm nghiền. Một hơi thở cuối cùng hắt ra. Thành kiểm tra mạch và nhịp tim đều đã ngừng đập. Mọi người bắt đầu toát mồ hôi hột, và hồi hộp. Cuộc thí nghiệm bắt đầu, bác sĩ Thành chấp tay vái lạy ông Thọ ba vái, mọi người đều nhất nhất làm theo. Sau đó, Đạt mang một cây nến trắng, để lên ngực ông Thọ. Lúc này bác sĩ Phước lớn tiếng gọi:

-         Nếu ông Thọ còn trong buồng này, xin mời hiện diện.

Bốn bề vẫn im lặng, tuy nhiên ngọn nến trên ngực ông Thọ bắt đầu bập bùng như có hơi thổi ra từ mũi của ông. Cô Lan và cô Mai không hiểu do điều hòa lạnh quá hay vì sợ mà bám lấy nhau. Bác sĩ Phước bảo Đạt kiểm tra mạch và hơi thở lại một lần nữa, Đạt kiểm tra và khẳng định là ông Thọ đã chết thật rồi. Bác sĩ Phước lại hô lớn:

-         Nếu vong hồn ông Thọ còn ở đây, xin hãy ra hiệu cho chúng tôi biết.

Bốn bề vẫn yên lặng, ngọn nến vẫn cháy đều đều. Mọi người có vẻ thất vọng vì xem ra cuộc thí nghiệm của họ đã không thành. Bác sĩ Phước cũng vô cùng tuyệt vọng, ông định cho bỏ cuộc thí nghiệm này. Nhưng nghĩ tới lời người bạn mình nói trước khi ra đi, ông lại nói lớn:

-         Ông Thọ ơi, tôi là Phước bạn tri âm của ông đây mà, ông còn ở đây không.

Bất chợt hai con mắt của ông Thọ bật mở trừng trừng. Nhìn thấy cảnh đó, Mai thì rú ầm lên, còn Lan thì lăn ra đất bất tỉnh. Bác sĩ Phước, Đạt và Thành thì đứng lặng như tờ, như không tin vào mắt mình. Rồi cái mồm của ông Thọ hơi hé mở, một luồng khí phả ra làm ngọn nến chợt tắt. Ánh đèn vàng bắt đầu nhấp nháy một lúc. Các tấm gương chặn cửa chợt rung lền ầm ầm. Ba bác sĩ bắt đầu run rẩy, da gà nổi lên khắp người. Mai cúi xuống đỡ Lan dậy, hai cô ôm nhau mặt cắt không còn một giọt máu. Chợt đâu đó vọng lại một tiếng nói trầm và có vẻ như từ xa xôi lắm:

-         Anh Phước hả… Anh gọi tôi có chuyện gì thế?

Nghe thấy vậy, bác sĩ Phước bỗng dựng tóc gáy, khắp người ông run lẩy bẩy. Đạt tính chạy ra ngoài nhưng may mà có Thành ngăn cản kịp. Còn Lan và Mai thì ngồi sát vào góc tường, và run lẩy bẩy như 2 con mèo con. Bác sĩ Phước lấy lại bình tĩnh, hỏi:

-         Xin hỏi, giờ anh Thọ còn sống hay đã chết?

Tiếng nói đó lại vang vọng:

-         Tôi đã chết rồi còn đâu nữa…

Lúc này thì không ai còn đủ can đảm để nói lên lời. Bác sĩ Phước cố gặng hỏi:

-         Thế giờ anh đang ở đâu?

Tiếng nói vọng về:

-         Tôi đang ở cõi âm rồi…

Cô Lan và cô Mai bỗng gào rú lên khóc, khiến cho Đạt và Thành tuy sợ nhưng cố lấy hết can đảm để dỗ dành. Bác sĩ Phước đang định hỏi thêm bỗng tiếng nói lại vọng về:

-         Anh Phước… Tôi đã chết… Cớ sao còn níu kéo vong hồn tôi làm gì… Sao lại chặn gương để tôi không về với vợ con được…

Bác sĩ Phước nghe đến đây thì rùng mình, ông quay qua nhìn mọi người thì thấy ai cũng rúm ró lại, và ra hiệu cho bác sĩ Phước dừng cuộc thí nghiệm lại. Bác sĩ Phước còn đang đắn đo thì tiếng nói lại vọng về:

-         Anh Phước… Mở đường… Cho tôi về với vợ con…

Tuy còn rất nhiều điều muốn hỏi, nhưng vì dù sao đây cũng là người bạn thân của mình. Bác sĩ Phước liền tiến ra phía cửa ra vào, từ từ úp mặt tấm gương to xuống đất. Bóng đèn vàng tự nhiên nhấp nháy liền mấy cái, rồi một luồng gió ùa thẳng ra cửa. Khi mọi người chạy về phía ông Thọ thì thấy mắt đã nhắm và miệng đóng lại từ lúc nào không hay. Bác sĩ Phước nắm lấy tay ông Thọ thì thầm:

-         Anh Thọ, cám ơn anh nhiều lắm.

*Chú Thích: Ở đời là vậy đó, người ta thường rất ham muốn làm một cái gì đó, nhưng đến khi thực sự làm rồi thì con người ta lại không hoàn thành được như lúc ban đầu nảy ra ý định. Ở đây cũng vậy, bác sĩ Phúc rất muốn tìm hiểu về cõi âm, và khi đã có cái cơ hội, được giao tiếp với người của cõi âm rồi, thì ông ta lại trở nên sợ hãi, và ái ngại trước cái sự giao tiếp đó. Gương hai mặt được dùng để cản tà ma trong truyện là vì nếu là gương soi thường thì tà ma sẽ nhập vào mà bước vào thế giới trong gương rồi ẩn náu trong đó. Nhưng nếu là gương hai mặt thì ngược lại, nó sẽ là một tấm rào cản ma hiệu quả (đừng hỏi tôi tại sao).

Bên Kia của Sự Sống 10: Ai về Trong Đêm?

  Câu chuyện mà tôi sắp kể dưới đây là một câu chuyện đã từng xảy ra với bản thân tôi, tin hay không là ở các bạn. Đối với những bạn đọc đã quen biết và đến thăm nhà tôi sẽ hình dung được câu chuyện này có phần nào ghê rợn hơn. Nhà tôi có cả thảy 4 tầng (tính cả sân thượng, không tính gác xép). Hồi còn nhỏ thì bà chị tôi làm chủ cái tầng ba đó, còn tôi thì ngủ với bố mẹ. Mãi sau này khi bà chị tôi đã qua Mỹ và định cư hẳn ở đấy, tôi mới mon men lên tầng ba ngủ. Nói cái này không phải là tôi nói xấu nhà mình, nhưng tôi cứ cảm tưởng cái tầng ba có một cái gì đó rất đáng sợ. Bên hông nhà tôi phía tay trái là liền với nhà bà hàng xóm 5 tầng, bên phải là nhà ông trẻ chỉ có một tầng với cái miếu thờ trên sân thượng nhà ổng. Gần ngay trước cửa nhà tôi là một cái cây si mà tôi nghe nói đã có từ lâu lắm rồi. Nói đến cây si, ai chả biết rằng nhiều ma, thường vì cây này thiêng lắm, nên ít người dám động tới. Tích tụ lâu năm tạo thành chốn ẩn nấp và nương náu cho vong hồn còn lởn vởn tại nhân gian. Nếu bạn hỏi bây giờ khi đã lớn, thì tôi ngủ ở đâu, xin nói thật là tôi vẫn nằm tầng hai. Tôi nằm lăn lóc trên giường một mình một cõi, còn ông bà bô ôm nhau trên đệm đặt ở dưới đất. Lí do là vì trên tầng ba xung quanh không có nhà cao tầng che nên rất nóng, vấn đề thứ hai là tiết kiệm điện, và vấn đề cuối cùng là tôi không thích ngủ trên tầng ba tí nào. Nhiều bạn đọc có lẽ cũng sẽ nghĩ ngay là tôi sợ ma, không dám ngủ một mình, vậy tôi sẽ kể cho các bạn nghe lí do vì sao mà tôi không dám nhé.

Câu chuyện này nên vòng lại từ hồi tôi còn bé tí, hồi đầu nhà tôi ở dưới ngõ Thổ Quan cùng với ông bà nội, mãi sau này mới chuyển lên Lê Duẩn bây giờ. Lúc đó ông ngoại tôi đã già lắm rồi và sắp mất. Mẹ tôi có kể cho tôi nghe là hồi tôi còn bé tí teo, ông thường xuống thăm gia đình tôi và chiều tôi hết cỡ. Đối với mọi người trong nhà, ông rất nghiêm nhưng lại yêu thương con cái vô cùng. Cho nên từ hàng con trở xuống đến hàng cháu, ai ai cũng sợ nhưng rất quý ông ngoại. Ở đời này, chả có ai là sống mãi được, hồi ông ngoại mất, cả họ bên ngoại ai cũng buồn. Vì giờ đây, không còn ai quan tâm chăm sóc tới mọi người như ông nữa. Còn nhớ bác tôi kể là, hồi làm đám ma ông ngoại, có mời thầy về coi ngày làm ma chay rồi chôn cất. Ông thầy có đến tận nhà làm lễ hộ. Trước khi ra về, ông thầy có đưa cho bà ngoại tôi một lá bùa và nói rằng sau khi cúng một trăm ngày, hãy dán lá bùa này lên trước cửa nhà. Bà ngoại tôi có thắc mắc, ông thầy đáp là thứ nhất vì thấy tình cảm của mọi người trong nhà dành cho ông ngoại quá nhiều, nên cho dù đã qua thế giới bên kia, cũng không tránh khỏi việc vong hồn ông sẽ còn hiện về để thăm con cháu. Thứ hai là nhà tôi có cây si, nếu để cho ông ngoại về mà vào được tới nhà, sợ vong hồn ông sẽ ẩn nấp trong thân cây, lúc đó thì chỉ có trời mới biết có những chuyện gì. Nếu tôi nhớ không nhầm, đối với người chết, thì sau ba lăm ngày hồn mới thực sự lìa khỏi xác, tiếp đó là trước bốn chín ngày thì còn có cơ hội gặp và giao tiếp, gặp gỡ người thân một cách dễ dàng, trong giai đoạn này thường xuất hiện việc câu hồn, nhập xác (cái việc ngày giờ mà hồn lìa khỏi xác ở đây có lẽ là tôi nói theo hiểu biết, chứ thực ra để tính được ngày mà hồn lìa khỏi xác còn phụ thuộc vào bạn chết vào lúc nào và chết ra sao). Cuối cùng là một trăm ngày, sau một trăm ngày thì vong hồn thực sự thuộc về thế giới bên kia. Tuy nhiên, có thể nói đây chỉ là cái mốc mà người xưa đặt ra cho ba cái việc cúng kiến ma chay, chứ thực hư sao, nào có ai đã từng chết đi để rồi trở về mà nói đâu. Bà ngoại tôi cũng là người cả tin, nên sau một trăm ngày, bà tôi dán lá bùa lên cửa ngay. Các bác và bà ngoại trong nhà còn nhớ rõ, cứ mỗi lần sắp đến ngày giỗ ông ngoại, đang đêm họp thường thấy bóng dáng của một ông lão rất giống ông ngoại đứng trước cửa nhà, không nói tiếng nào, chỉ đứng đó lặng im nhìn vào. Được như vậy gần ba bốn năm thì không thấy gì nữa. Nhưng cái lá bùa đó do thời gian cũng dần dần tróc đi theo mưa nắng. Hồi tôi học cấp hai, nhớ như in rằng có đợt giỗ ông ngoại, cả nhà đang chuẩn bị ăn uống thì một con bướm đen to oành không biết từ đâu bay vào đậu lên bàn thờ của ông. Mới đầu mọi người định đuổi đi, nhưng bà ngoại tôi bảo là hiện thân của ông ngoại đó. Cứ như vậy trọng ba năm liên tục.

Tiếp theo đó, vào đợt tôi sắp đi Mỹ, cái đêm hôm đó, tôi qua nhà ông anh họ tên Minh, 5 tầng ngay cạnh nhà tôi. Đang cùng ông Minh ngồi buôn dưa chuột cùng với anh Tú, anh ruột ông Minh, và bà vợ ông Tú, Hoàng Anh vui vẻ. Bỗng cả bọn giật mình khi nghe thấy tiếng bước chân chạy rầm rầm từ tầng bốn chạy xuống. Cá bọn lúc đấy lại chả không vãi hết cả ra, thử hỏi hơn 12 giờ đêm rồi, ai ở buồng người đấy. Bác Vinh và Bác Tuấn thì ở dưới tầng hai còn bốn chúng tôi thì trên tầng bốn, còn ai nữa đâu mà chạy ngoài hành lang. Tôi phải nói thật là lúc đó, tôi cũng sắp ngất đến nơi, lại được thêm mấy ông anh và bà chị nói hùa vào dọa, tí thì són đái. Nhưng mà cũng chả đứa nào cười được lâu, vì chỉ độ 5 phút sau, tiếng chân người chạy uỳnh uỵch từ tầng dưới lên thẳng tầng năm. Má ơi, lúc này cả lũ ôm nhau mà rúm ró lại, đến gan như ông Tú mà còn tái mặt đi thì các bạn hiểu thế nào rồi đấy. Xong cả lũ đang im lặng, chợt lại nghe tiếng chân chạy ngược xuống, lần này thì cả đàn chó nhà bác tôi sủa như điên dại. Tôi thề là tôi chỉ có nước tè ra quần, tôi muốn về nhà lắm chứ , nhưng muốn về phải mở cửa buồng đi ra hành lang mà về, chứ chả lẽ làm sóc bay với người dơi phi thân từ tầng bốn nhà bên này bay qua tầng hai nhà tôi? Lấy hết can đảm, mỗi người cầm một thứ trong tay, ông Tú cầm cái gậy góc buồng, ông Minh vớ ngay cái thanh kiếm nhật trưng bày tuốt vỏ, tôi thì cầm theo đôi dép có gì ù té luôn, còn bà Hoàng Anh thì chỉ đi sau ông Tú. Cả đám lò dò thò đầu ra hành lang và nhìn lên tầng thượng, không thấy gì, lại kéo nhau từ từ đi xuống. Sắp xuống đến tầng hai thì gặp hai bác cũng đang đi lên. Bác Tuấn bảo là tưởng kẻ trộm trèo từ sân thượng xuống, nhưng mà khi ra coi chả thấy ai, cửa dưới nhà đã khóa và cộng thêm cả đàn chó thì thằng nào mà chạy được. Anh Tú bảo trên sân thượng cũng khóa cửa rồi, mà từ nãy giờ cả đám ngồi với nhau, thì làm gì còn ai chạy ngoài hành lang nữa. Cả hội đứng nhìn nhau, như chợt hiểu ra điều gì đó, rồi không ai nói gì. Tôi thì phải năn nỉ mãi bác Tuấn mới đưa tôi xuống đến sân để ù té về. Cả đêm đó tôi cũng chả ngủ được là mấy, có thể tại vì sợ cái tiếng bước chân đó, hoặc do đêm đó cả nhà bác Tuấn bật hết đèn lên sáng quá, kéo rèm cửa vào cũng không ngủ được. Sáng hôm sau, tôi có nghe bà ngoại nói là đêm qua nằm mơ thấy ông ngoại về, thế là bà dắt ông ngoại đi tham quan nhà.

Sau năm đầu tiên đi du học về, tôi rất vui mừng vì đã qua được cái năm đầu khốn nạn đó. Về vui vẻ với gia đình, người thân. Nhưng chẳng được bao lâu. Rồi một đêm, do đi chơi về muộn, tôi nằm mãi trên giường tầng hai mãi mà không ngủ được. Đã hơn mười 1 giờ đêm rồi, cứ quay qua quay lại, chợt tôi nghe có tiếng bước chân vọng từ trên tầng ba xuống, lúc đầu tôi cứ nghĩ là nhà của bà hàng xóm sát vách vọng lại. Nhưng rồi mấy đêm liền, vẫn cái tiếng đó, tôi bắt đầu lắng nghe thật kĩ, rõ ràng là tiếng bước chân trên tầng ba, đi đi lại lại. Cái tiếng này rất giống khi mà nhà tôi có họ hàng ra ngủ trên tầng ba và đi qua đi lại. Như nhớ ra chuyện bên nhà bác Tuấn hôm nào. Tôi bắt đầu cảm thấy rùng rợn, nhưng mà cái tính tôi, nó hay tò mò… Tôi cố lắng tai nghe, cái tiếng bước chân đó cứ đi lòng vòng trên đầu, đi từ nhà tắm ra đến cửa, rồi vòng vào. Cứ như vậy phải đến 2 phút, rồi bốn bề im lặng trở lại. Tiếng bước chân đó thỉnh thoảng mới nghe thấy thôi, mà phải nằm im, lắng tai nghe. Có lần tôi hỏi bố mẹ tôi là có nghe thấy tiếng bước chân trên tầng ba không, thì bố mẹ tôi bảo là không. Nhưng rồi, cái đêm định mệnh cuối cùng cũng đến. Do cả hai ông bà bô tôi đều làm bác sĩ, nên thường xuyên có lúc cả hai phải ở lại viện trực cả đêm. Hôm đó, sau khi đi ăn nhậu với bạn bè về, tôi nằm coi tivi lâu lắm. Đến 2 giờ mới tắt đèn đi ngủ. Nằm một lúc rồi chợt, tiếng bước chân lại vọng về, như thường lệ, tôi nằm im lắng nghe. Đèn phòng ông Minh chiếu thẳng xuống tầng hai nhà tôi, nên tôi thường mở rèm ra lấy ánh sáng đó làm đèn ngủ vì ông này không hiểu sao chuyên môn bật đèn cả đêm. Ánh sáng chiếu rọi cả buồng, không quá sáng nhưng đủ để nhìn thấy mọi vật. Đang lắng nghe tiếng bước chân trên tầng ba. Chợt cái cửa sắt buồng tầng ba kêu ken két, tôi rùng mình, toát mồ hôi hột. rồi tiếng bước chân cứ từ từ tiến xuống từng bước, từng bước. tôi nhìn về phía cái cửa ra vào tầng hai, vì cái tường ngăn buồng và hành lang là khung kính đục, nên dễ dàng nhìn thấy bóng đồ vật bên ngoài. Càng xuống gần, tiếng bước chân càng nặng nề. Tiếng bước chân cứ thế vọng về, đến gần trước cửa tầng hai tầm ba bước thì nó đứng lại. Tôi lúc này cũng sợ đến mức tụt cả lưỡi lại, co ro như đứa chết rét. Tôi không tin vào mắt mình nữa… Một cái bóng đen dần dần hiện lên trên cánh cửa kính đó, đúng dáng vóc một người gầy, cao trung bình. Tôi trố mắt nhìn… rồi nhắm mắt lại, mồm lẩm bẩm “Lạy trời lạy Phật, con không làm gì nên tội, mong cho oan hồn ngoài kia đừng dọa con, xin hãy đi đi…”, tôi mở mắt ra thì cái bóng đó đã không còn. Lấy hết can đảm, tôi mới thò tay ra mà bật được cái đèn đầu giường, rồi cái đèn bàn phấn, rồi thì mon men bật đèn phòng. Tôi còn mở cả tivi để cho đỡ sợ, tuy đã làm vậy, nhưng đến gần sáng tôi mới ngủ được. Kết quả là bị mẹ tôi la mắng quá trời vì bật điện cả đêm. Tôi có kể cho mẹ nghe, nhưng mẹ tôi  bảo là vớ vẩn, nhà này làm gì có ma. Nếu tôi nhớ không nhầm thì gần hai tuần sau tôi mới ngủ lại được bình thường. Sau hai năm học đại học, tôi lại về thăm nhà. Rồi có một đêm, khi mọi người ngủ say, tôi vẫn nằm tầng hai, lắng tai nghe. Tiếng bước chân lại từ trên tầng ba vọng xuống, tôi lại nằm lắng tai nghe. Không hiểu sao từ bao giờ, tôi đã cảm thấy quen thuộc với tiếng bước chân này, tôi nằm nghĩ miên man và cố tìm ra câu trả lời, ai tìm về trong đêm... ?

Bên Kia của Sự Sống 11: Đi Hầu Người Chết.

      Trên đời này, tang gia đã là chuyện mà không một gia đình nào muốn có huống chi là nhiều cái tang cùng một lúc. Câu chuyện mà tôi sắp kể dưới đây, là một câu chuyện rất buồn và nó đã xảy ra với nhiều gia đình, nếu bạn đọc truyện mà cảm thấy khó chịu, xin đừng trách tôi. Câu chuyện này là tôi nghe được lại từ một người bạn dưới quê, mời các bạn cùng thưởng thức.

            Nông thôn Việt Nam mang nhiều nét đặc sắc và đậm đà chất dân tộc, tuy đất nước đã có nhiều đổi mới, khoa học công nghệ phát triển. Nhưng nông thôn vẫn giữ được phần nào nét đẹp về giá trị và văn hóa riêng của nó. Tại một vùng quê nọ, có một gia đình ba đời, sống cùng nhau rất vui vẻ. Người trong gia đình không ai làm điều ác bao giờ, mọi người trong làng đều yêu mến gia đình này. Ông Tân, là trưởng họ, đã ngoài tám mươi, nhưng vẫn rất thương yêu con cháu. Trong đám con cháu, có thể nói là ông Tân thương thằng Hải nhất nhà. Hải mới lên năm, nó cũng rất ngoan ngoãn. Nhiều người bảo là tuổi nó hợp tuổi ông Tân, nên hai ông cháu quý nhau lắm. Nhưng rồi, không ai mà sống mãi trên cõi đời này được cả. Ông Tân có thể nói là có một cái chết rất nhẹ nhàng, ông ra đi vì tuổi già sức yếu. Có một đêm, ông gọi bố mẹ thằng Hải lại và bảo:

-         Bố tuổi già sức yếu, sớm muộn rồi cũng ra đi mà thôi, bố chỉ tiếc một điều là sau này ra đi rồi thì không được nhìn thấy thằng Hải nữa.

Bố mẹ thằng Hải cố gắng khuyên can ông, bảo ông không nên nói những lời xui xẻo như vậy. Quả nhiên sáng hôm sau, bà Kính vợ ông Tân mang đồ vào cho ông ăn, lay gọi mãi không thấy ông dậy, khi đưa tay để lên trước mũi thì thấy ông Tân đã ra đi từ lúc nào rồi. Bà Kính hét lên thất thanh, rồi khóc sướt mướt, cứ ôm ghì lấy ông Tân. Các con các cháu liền chạy ngay về phía phòng ông Tân, đứa nào cũng rơm rớm nước mắt, cố gỡ bà Kính ra và đi lo việc tang gia. Đi coi ngày giờ đã mất, phần khác cảm thấy lo lắng cho thằng Hải khi nghĩ đến lời mà ông Tân nói trước khi mất. Ngày làm đám tang, bố mẹ thằng hải bắt bà Kính và thằng Hải phải ở nhà, không được đi. Mặc cho Bà Kính kêu khóc thảm thiết. Chỉ có mẹ thằng Hải ở lại với hai người. Đến lúc mang ông Tân đi chôn, bà Kính và thằng Hải cũng không được đi vì sợ lí do câu hồn hoặc bị gọi đi theo. Quan tài được đặt ngay ngắn dưới cái hố chôn sâu 3 mét, những người thợ hì hục lấp đất lên chiếc quan tài. Bố thằng Hải đang đứng, chợt nghe tiếng từ dưới quan tài vọng lên:

-         Sau bốn chín ngày, bố sẽ về đón thằng Hải.

Bố thằng Hải giật mình, trố mắt nhìn vào cái quan tài rồi quay qua nhìn mọi người. Ai cũng đang khóc sướt mướt như không có chuyện gì xảy ra. Cảm thấy đây là điều không lành, bố thằng Hải không dám kể với ai. Lúc về, bố thằng Hải đem chuyện này ra kể với mẹ thằng Hải. Mẹ nó mặt tái mét, chỉ biết ôm lấy chồng mà khóc. Kể từ ngày hôm đó, thằng Hải bị bố mẹ quản lý rất chặt, ít khi mà cho nó đi đâu một mình. Cuối cùng, cúng bốn chín ngày của ông Tân cũng tới. Con cái ai cũng quây quần, riêng có gia đình Hải là buồn bã và lo lắng nhất. Mọi người hỏi bố mẹ thằng Hải coi coi có chuyện gì, thì cả hai người nhất quyết nói là không có chuyện gì. Trong lúc ăn, hết bố rồi đến mẹ thằng Hải lại quay qua nhìn thằng Hải để xem nó có biểu hiện gì khác thường không. Thời gian trôi qua, thấy không có điều gì khác thường, bố mẹ thằng Hải cũng dần dần quên bẵng đi chuyện mà bố thằng Hải nghe thấy ông Tân đòi đưa cháu mình qua thế giới bên kia. Cuối cùng cúng một trăm ngày đã tới, mọi người đang lo làm cơm để cúng rồi cả nhà ăn. Thằng Hải kểu với mẹ nó là nó thấy hơi mệt, Mẹ nó bảo nó vào buồng ông Tân mà nằm nghỉ, lúc nào có cơm thì sẽ gọi ra ăn. Khi cơm canh đã cúng xong, mọi người đang dọn ra bàn thì bỗng có luồng gió ở đâu thổi từ ngoài vào làm đổ mấy cây nến. Bố thằng Hải chạy lại dập lửa, tiếp theo đó là tiếng quá réo nghe mà rợn người. Bỗng bố thằng Hải có cái cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng, trong lòng thì bồn chồn lo lắng. Khi mọi người quây quần đông đủ, mẹ thằng Hải gọi nó ra ăn. Nhưng lạ thay, gọi mãi mà không thấy nó thưa, chợt như nhớ ra chuyện gì, mẹ nó hốt hoàng, xộc ngay vào buồng ông Tân. Thấy nó nằm im chắp tay lên ngực. Mẹ thằng Hải thở phào nhẹ nhõm vì nghĩ là nó vẫn đang ngủ say, chạy lại lay nó thì thằng bé vẫn nằm im. Mẹ thằng Hải vội đưa ngón tay lên trước mũi nó, bỗng mẹ nó hét lên rồi ngã lăn ra sàn. Đây là một cú sốc lớn đối với bố mẹ thằng Hải và cả đại gia đình. Chưa hết một trăm ngày mà nhà có hai người chết thì đúng là chỉ có việc câu hồn mà thôi. Hàng xóm bắt đầu bàn tán về gia đình này còn bố mẹ thằng Hải thì bỗng căm ghét ông Tân vô cùng, luôn oán trách rằng chính ông là nguyên nhân đã gây ra cái chết của Hải. Cái hôm đưa thằng Hải ra nghĩa trang, trời bỗng mưa lớn, Mọi người đang đứng nhìn cái quan tài của thằng bé từ từ được đặt xuống, chợt cả bố và mẹ thằng Hải ngã ngửa ra đằng sau, khi nghe thấy tiếng nói vọng ra:

-         Con nhớ bố mẹ lắm…

*Chú Thích: Câu truyện trên tôi không cố ý dọa bạn đọc. Như các bạn đã biết, có rất nhiều trường hợp khi trong gia đình có một người thân yêu mất đi, rồi không lâu sau lại thêm một người nữa mất. Có thể coi đó là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, hoặc đó là năm đại hạn của gia đình, hay cũng có thể cho đó là số phận. Theo nhận định của tôi, có thể đó là vì người mất trước và người mất không lâu sau có một sự kết nối thần bí, như hợp tuổi, số phận, hoặc một thế lực nào đó vô hình. Cũng như khi một người sắp mất mà có một người khác cao số hơn túc trực ở bên thì người kia cứ như vậy, nửa tỉnh nửa mê, mà không thể nào chuyển qua cõi khác được. Hay như trường hợp có những đám tang, mà một số thành viên trong gia đình không được phép tham dự vì lí do sợ bị người mất đi kéo theo, câu hồn, và lí do này hoàn toàn đã diễn ra ở không ít gia đình. Vì thế, xin bạn đọc hiểu cho và nếu không thích truyện trên, xin bỏ quá cho và đừng chê trách hay nghĩ rằng tôi cố ý dọa nạt ai, xin chân thành cảm ơn.

Bên Kia của Sự Sống 12: Yên Tâm Mà Nhắm Mắt.

 Chết chỉ là một sự khởi đầu cho một cuộc sống mới. Nhiều người nghĩ rằng, khi chết đi rồi con người ta sẽ chìm vào một giấc ngủ vĩnh hằng, và mãi mãi không bao giờ tỉnh dậy. Cái chết đột ngột của bà Mười, làm cho mọi người không khỏi ngỡ ngàng. Chồng bà có việc, nên phải ra Hà Nội từ đầu tuần. Mình bà ở nhà, con cái thì đã lớn, đã lập gia đình, và ra ở riêng hết cả. Bà Mười có tiền sử bệnh tim, cái ngày hôm đó, không hiểu sao khi đang làm bếp, bà lên cơn đau tim dữ dội, rồi bất thình lình bà ngã xuống sàn nhà, từ từ chìm vào giấc ngủ ngàn thu. Người xưa nói rằng, chết mà không được nhìn mặt những người mình yêu thương nhất, hoặc không có ai ở bên cạnh là vong hồn sẽ vô cùng oan ức và không bao giờ siêu thoát được. May cho bà Mười, cô Tám kế bên qua biếu bà buồng chuối, thấy bà Mười nằm sõng soài trên mặt đất. Cô Tám chạy lại đỡ bà và gọi ngay cái xích lô đưa bà đi bệnh viện. Kì lạ thay, khi bà Mười được người đạp xích lô và cô Tám đặt lên xe, ông lái xích lô không thể nào đạp hoặc di chuyển cái xích lô đó được. Một sức mạnh thần bí nào đó đã níu giữ cái xích lô đó lại, cảm tưởng như vừa đặt lên một vật gì đó rất nặng nề. Cô Tám như linh cảm rằng bà Mười không muốn rời khỏi căn nhà yêu thương của mình, không chịu đi đâu khác trừ khi đã nhìn thấy mặt chồng bà, và con cái. Cô Tám chắp tay lại, cầu khấn rằng: “Dì Mười ơi, dì sống khôn thác thiêng, mong dì để con đưa dì vô bệnh viện. Rồi sẽ báo cho dượng Mười và anh chị em về lo phúng điếu cho dì”. Vừa nói dứt câu, chợt chiếc xích lô bắt đầu chuyển bánh. Và rồi như vậy, cô Tám và ông lái xích lô đã đưa bà Mười vào viện.

            Nói về ông Mười, công chuyện làm ăn rất tất bật, ông hầu như không lúc nào được nghỉ ngơi. Trước cái ngày bà Mười lên cơn đau tim, ông Mười có cái cảm giác bồn chồn, đứng lên ngồi xuống không yên. Có thể nói cái cảm giác này ông chưa từng trải qua trong đời bao giờ. Rồi đúng cái lúc mà bà Mười ngã gục xuống sàn và lên cơn đau tim. Lúc đó, ông Mười đang nằm thiu thiu ngủ. Trong mơ, ông Muời thấy mình đang đứng chính trong ngôi nhà của mình. Rồi ông thấy bà Mười đang đứng ngoài cửa, vẫn bộ quần áo đó. Ông chạy ra cửa tính đón bà Mười thì lạ thay, ông càng tiến tới, bà Mười như bị một thế lực vô hình nào đó kéo lui lại, và rồi cứ như vậy ông Mười dù cố đến cách nào… Ông vẫn không thể lại gần được bà Mười. Khi tỉnh dậy, ông Mười hết đỗi ngạc nhiên khi thấy hai dòng nước mắt đang tuôn trào từ khóe mắt của ông. Ông cố dụi mắt nhưng nước mắt vẫn tuôn ra, cứ như vậy phải đến 2 phút. Vì ông Mười là người thường hay mơ những giấc mơ kì quái, nên ông không mấy lo lắng lắm. Ông chạy ra bưu điện Hà Nội nhờ đánh một cái điện tín khẩn về nhà để coi coi tình hình bà Mười thế nào. Cái thời này, thì điện tín khẩn mất ít nhất là quãng độ hai ngày, điện tín vào miền Nam, còn thường thì mất gần như bốn, năm ngày. Nhưng thương thay cho ông, chỉ đến sáng hôm sau, nhân viên bưu điện gõ cửa, báo với ông rằng bà Mười đã mất. Cầm tờ điện tín trên tay, ông Mười như không tin vào mắt mình được nữa, cả người ông lặng đi, những giọt nước mắt đã tuôn trào từ lúc nào mà không hay.

Đứng trước nhà xác, ông Mười như người mất hồn. Đây là lần cuối ông được nhìn thấy mặt người vợ yêu thương của mình. Nhà xác ở ngoài Bắc và trong Nam có cách bố trí khác nhau. Ngoài Bắc, mỗi một thi thể chở tẩm liệm hay đem chôn được cho vào một cái tủ lạnh chia ra từng ngăn, còn ở trong Nam, nhà xác là cả một căn buồng lạnh tanh, thi thể được đặt ngay ngắn trên những chiếc giường hai tầng, phủ khăn trắng khắp mình chỉ để lộ đầu và chân. Ông Mười nói với nhân viện gác nhà xác:

-         Chú cho tui vô nhìn mặt bà xã lần cuối.

Nhân viên nhà xác hỏi tên tuổi, rồi anh ta mở cửa, chỉ về phía cái giường tầng một ở cuối phòng. Cánh cửa mở ra, một luồng khí lạnh ùa thẳng vào người ông Mười, ông có cảm giác như mình đang đứng trước một cánh của dẫn qua thế giới khác vậy. Ông có cái cảm giác rờn rợn, quay ra hỏi sao anh nhân viên không vào trong với mình. Anh ta trả lời rằng muốn cho ông một chút riêng tư. Thêm vào đó, anh ta căn dặn ông Mười rằng vào trong đó chỉ nên ở tầm 5 phút rồi ra ngay vì nhà xác là một nơi không nên ở lâu. Thứ hai là, nếu có chuyện gì lạ, hãy thật bình tĩnh và cố đừng ngất trong đó. Ông Mười nghe xong thì lạnh cóng cả dọc sống lưng. Ông từ từ bước vào, cánh cửa đằng sau lưng được anh nhân viên từ từ đóng lại, và để hở một khe nhỏ.

            Bước vào đến nơi, xung quanh ông giờ đây bị bao bọc bởi cái lạnh rờn rợn, ánh đền trắng không quá chói, nhưng mang lại cho người ta một cái cảm giác trống rỗng và buồn miên man. Một thứ mùi khó tả xộc thẳng vào mũi ông Mười, đó mùi hóa học trộn lẫn với hơi người chết thật khiến ông buồn nôn. Cố lấy hết can đảm, ông tiến từ từ về phía bà xã nằm ở cuối bồng. Ông đi qua không biết bao nhiêu thi thể, nhìn những khuôn mặt trắng bệch, đang chìm vào giấc ngủ ngàn thu mà ông sợ đến mức muốn té xỉu ngay tại chốn lạnh lẽo này. Ông để ý, thỉnh thoảng, khi đi qua mấy giường, ông có nghe thấy tiếng khóc từ xa xăm vang vọng bốn bức tường nghe thật não nề. Ông Mười như rùng mình, nhưng ông cố đi thẳng và làm như không nghe thấy gì. Có những thi thể, khi ông liếc nhìn, thì có cảm giác như lồng ngực được phủ tấm khắn trắng đang phập phồng như họ đang thở vậy. Hơn thế nữa, cái cảm giác như những thi thể được đặt trên giường tầng hai đang nhỏm dậy nhìn theo ông, ông Mười lúc này thì quá sợ hãi, nên không còn đủ can đảm để mà quay lại nhìn được nữa. Ông Mười có để ý thấy thi thể của một đứa nhóc tầm mười mấy tuổi nằm lạnh lẽo trong này một mình. Khi đi ngang qua, ông dường như nghe được tiếng cười rúc rích của đứa nhỏ đó. Ông Mười rụng rời chân tay, như muốn ngã quỵ xuống. Cuối cùng, ông tiến tới bên giường bà Mười. Giờ đây, bà Mười đang nằm ngay ngắn, đôi mắt nhắm lại, bộ mặt trắng toát, khi nhìn kĩ, thì thấy nét mặt bà có hơi buồn buồn. Ông Mười nước mắt tuôn trào, ông thì thầm: “Bà xã, tha lỗi cho tui khi đã không thể ở bên bà giây phút cuối cùng…”. Ông Mười chợt giật mình khi bỗng cánh tay bà mười từ trong tấm vải thò ra, chộp lấy cánh tay ông, một bàn tay trắng ởn và lạnh toát. Ông Mười định hét lên, và gỡ bàn tay đó ra. Nhưng có lẽ ông hiểu được sự cô đơn của bà Mười. Ông chỉ khóc nhiều hơn, và lấy tay trái đặt lên cái bàn tay trắng bóc của bà. Ông vừa khóc vừa nghĩ về những tháng ngày còn có bà Mười, còn được ở cạnh nhau. Rồi ông lại thì thầm: “Bà xã ơi, bà đã dâng hiến cả cuộc đời này cho tôi, và cho con cái… Bà đã sống một cuốc sống đầy ý nghĩa, con cái giờ đã nên người hết rồi… Bà hãy an tâm mà nhắm mắt, tôi sẽ không bao giờ quên bà đâu…”. Nói đến đây, chợt bàn tay bà Mười như nới lỏng ra, ông Mười nhẹ nhàng đặt bàn tay bà Mười lại vào dưới tấm vải trắng. Khuôn mặt bà Mười giờ đây đã có nét thanh thản, trên môi bà như nở một nụ cười. Rồi lạ thay, trên khóe mắt bà, hai hàng nước mắt tuôn trào… Trên đường đi ra, ông Mười như nghe tiếng bà Mười vọng về từ một cõi xa xăm “Ông xã…”.

    Bên Kia của Sự Sống / 13: Hãy Thử Nếu Bạn Đủ Can Đảm

Viết chuyện ma đã nhiều, nên trong phần này, tôi xin mạn phép được bàn về 8 cách để nhìn thấy ma mà tôi nghĩ là có thật. Xin được thú thật là những cách này đa phần là tôi được nghe kể và phần còn lại là coi phim ảnh và đọc sách mà có. Nói tóm lại, tôi không dám khẳng định rằng những cách ở dười đây là có hiệu quả hoàn toàn vì ba lý do: Thứ nhất, bản thân tôi chưa dám thử một cái cách nào trong này cả vì tôi là đứa cực yếu bóng vía, và rất sợ ma. Thứ hai, nếu chả may bạn nào can đảm làm thử mà có cái được cái không, thì xin các bạn hiểu cho rằng, cơ địa mỗi người một khác nhau (như có người yếu vía, có người nặng vía) nên kết quả không thể nào mà giống nhau được. Thứ ba, có nói gì đi chăng nữa, tôi viết chỉ nhằm mục đích mang lại những giây phút giải trí cho các bạn nào muốn tìm cái cảm giác rờn rợn mà thôi, chứ tôi thì cũng chả phải phù thủy hay thầy bùa mà bày cách cho các bạn nghịch “ngu” cả [viết xong cái lý do thứ ba ngồi cười đau cả bụng (tôi không bị dở hơi đâu nhá)]. Thôi, không lôi thôi lằng nhằng rau dưa dễ má nữa, mời các bạn đọc thưởng thức. Xin nói thêm là mỗi cách tôi sẽ lồng một câu truyện để bạn đọc được thêm phần hào hứng và thú vị.

Cách 1: Cầu Cơ.

Cái chuyện cầu cơ này chắc hẳn không còn xa lạ gì với bạn đọc. Những thứ cần thiết thật đơn giản: Một tấm bản đồ với đầy đủ kí tự, một cái chén, hoặc một vật nhỏ tương tự. Người chơi thì cần hai người trở lên. Sau đó chỉ việc gọi thần chén lên và hỏi những thông tin mình cần biết. Theo như tôi hiểu, thì gọi thần chén ở đây thật ra chỉ là bắt một cái vong nào đó ở gần bạn nhất và bắt nó trả lời. Nói là trả lời, nhưng nhiều khi có những câu trả lời rất vô lý, và khó mà tin được khi bạn hỏi về tương lai. Câu chuyện mà tôi kể dưới đây, xin đảm bảo là chưa một bạn nào đủ can đảm để mà thử (bao gồm cả những người đã từng chơi cầu cơ và những người chưa chơi bao giờ). Xin chú thích thêm là cách này đã được dung vào thời chiến tranh Việt Nam, khi mà người chết vô số, về vấn đề là tôi nghe ai kể xin được phép giấu đi, mời bạn đọc thưởng thức.

Nam và Đức là hai đứa bạn chơi thân với nhau lắm, chúng nó vốn là nhà ở cạnh nhau, rồi đi học cùng, rồi từ đó trở nên thân thiết. Tuy nhiên, thằng Nam luôn tỏ ra già đời, tuy mới có học đại học năm thứ nhất, nhưng nó luôn luôn tự hỏi về tương lai bản thân sau này. Đã nhiều lần nó rủ thằng Đức đi coi bói, nhưng kết quả về tương lai đều hết sức khó tin nếu không muốn nói là nhảm nhỉ. Rồi có một hôm, đang ngồi chơi, nó quay ra hỏi thằng Đức:

- Ê mày, đã bao giờ thử chơi cầu cơ chưa?

Thằng Đức nhìn nó:

- Ba cái trò bói chén đó ai còn lạ gì nữa, mày hỏi làm gì?

Thằng Nam thở dài:

- Tao rất muốn biết sau này tao thế nào, đi coi thầy bói mấy lần, thì toàn gặp ba cái thằng thầy dởm, phán lung ta lung tung. Tao tính hôm nào chơi cầu cơ thử?

Thằng Đức nhìn nó

- Bộ mày tính làm thiệt hả, nhưng kiếm đâu ra được thêm người bây giờ? Với cả chắc gì câu trả lời đã chính xác?

Thằng Nam cười phá lên:

- Bộ mày sợ hả? Tao nghe là sắc xuất đúng cao lắm đó. Nếu cần thêm người, mày rủ con Thủy, còn tao sẽ rủ em Ngọc của tao lo gì.

Thằng Đức chỉ có biết thở dài và nghe theo lời dụ zỗ của thằng Nam. Khi đã chuẩn bị đủ bản đồ và một cái chén được lấy trên bàn thờ. Đức, Thủy, và Ngọc hẹn tập chung ở nhà thằng Nam vào lúc mười hai giờ đêm để bói chén. Do bố mẹ thằng Nam đi công tác hết, nên giờ chỉ có mình cu cậu ở nhà, tha hồ làm loạn. Tuy nhiên, trước đêm bói chén, thằng Nam hẹn cả lũ ra quán cà phê bàn lại. Nó bảo rằng để tăng phần hiệu quả và sắc xuất lên mức cao nhất, nó đề nghị đêm mai cả bọn tập chung ra nghĩa trang thành phố, nó nghe mấy ông già kể, bói chén mà tìm được mộ người mới chết, bói ngay trước mộ, gọi đúng tên tuổi thì đảm bảo rằng đúng hoàn toàn. Vừa nghe đến cái chuyện mò ra nghĩa địa ban đêm, cả lũ đã sặc nước. Thằng Đức với tay, vỗ vào đầu thằng Nam một cái đau điếng:

- Mẹ mày điên à, dở hơi ăn c*t dơi hay sao mà ra nghĩa trang ban đêm để bói chén?

Thằng Nam xoa đầu, nhăn mặt:

- Mẹ con chó, đánh bố mày đau thế. Mày ngu lắm, người mới chết bói nó mới thiêng. Mà mấy ông già đã khẳng định với tao là chắc chắn, thì tội gì mà không thử, hay là mày sợ ma.

Thằng Nam nhếc mép cười đểu thằng Đức. Thằng Đức trợn mắt:

- Ai nói mày là tao sợ? Làm thì làm, sợ cái gì.

Thực lòng thằng Đức nó sợ lắm, nhưng tại có cái Thủy tham gia, mà nó lại thương thầm nhớ trộm cái Thủy, nên nó cố tỏ ra vẻ can đảm. Thế là ngày giờ đã định sắn. đúng mười một giờ đêm ngày mai tập chung ở nhà thằng Nam rồi kéo nhau ra nghĩa trang.

Đúng mười một giờ đêm, tất cả đã tập chung ở nhà thằng Nam. Nhưng ai ai cũng có vẻ mặt lo lắng, riêng chỉ có thằng Nam là hớn hở mặt mày vì không có đứa nào bỏ bom nó cả. Vì nhà thằng Nam cách nghĩa trang thành phố có mười lăm phút đi bộ, nên nó hô cả bọn để xe lại nhà nó, cho tiện việc lẻn vào nghĩa trang. Cái đêm hôm nay, là một cái đêm lạnh lẽo, dù mới bước vào màu thu, mà sao đêm nay lại lạnh dữ vậy. Bốn bóng người bước đi trên con đường vắng trong bóng đêm xen vào những bóng đèn đường hiu hắt. Thằng Đức nhăn mặt hỏi thằng Nam:

- Tao vẫn chưa hiểu lý do tại sao mày đi bói chén còn dắt theo con chó làm cái gì? Bộ mày bói chén cho cả chó, coi coi sau này nó có lấy được vợ không à?

Cái Ngọc và cái Thủy phá lên cười, còn thằng Nam mặt nghiêm nghị:

- Tí đến nơi tao nói cho mà biết.

Đi được một đoạn đường nữa, chợt nhỏ Ngọc quay lại phía sau, nhìn ngang nhìn dọc một lúc, rồi chạy tới níu tay nhỏ Thủy. Thủy mắng đùa:

- Con này, mày làm sao thế, sao khi không tự nhiên bám chặt lấy tao là sao?

Ngọc nói khe khẽ:

- Tao sợ quá mày ơi, từ nãy tới giờ, tao có cái cảm giác như có ai đó đang đi theo giõi tụi mình ý.

Thủy quát nhỏ:

- Con điên! Đêm hôm làm gì có đứa nào trên đường ngoài bốn đứa mình đâu?

Ngọc còn đang ấp úng, bỗng con husky của thằng Nam, chợt quay phắt lại, nó nhìn về phía sau gầm gừ một cách zận zữ, rồi nó bỗng sủa điên loạn như nhìn thấy cái gì đó. Cả bọn lúc này bao nhiêu da gà dựng đứng hết cả lên. Cả bọn quay hết người lại, làm gì có ai đâu, mà sao con chó của thằng Nam lại sủa điên loạn như thế. Thằng Nam phải cố mắng và kéo con chó husky đi mãi nó mới chịu đi tiếp, nhưng cứ một lúc nó lại ngoảnh lại đằng sau gầm gừ.

Cả bọn đã đứng trước cổng nghĩa trang, một điều kì lạ mả cả bọn cùng cảm nhận được rằng cái cổng nghĩa trang lúc này lại mang lại cho tụi nó cái cảm giác rùng rợn đến ghê người như vậy. Thằng Nam đưa con chó cho thằng Đức cầm, nó nhắc cả bọn đứng đây đợi, nó nhẹ nhàng tiến lại phía cái trạm bảo vệ trước cổng. Nam nhìn vô thấy một ông đã ngủ gật từ lúc nào không biết, còn ông kia thì không thấy đâu, nó đoán là đang đi vệ sinh nên an tâm là có thể vào được. Nam quay ra làm hiệu cho cả bọn đi nhẹ nhàng vào, qua được cánh cổng. Chợt một luồng gió lạnh thổi bạt vào mặt cả bọn, khiến chúng nó rùng mình. Đi được đến gần giữa cái nghĩa trang, thằng Đức kéo vai thằng Nam:

- Ê mày, đến rồi, giờ kiếm đâu ra người chết mới được chôn giờ?

Thằng Nam nói:

- Mấy hôm trước, tao có tia được một cái đám ma lớn lắm, nếu tao nhớ không nhầm thì ở cuối nghĩa trang.

Thằng Đức cau mày:

- Mẹ, cuối cái nghĩa trang đi bao giờ mới tới? Mà với cả mày rọi đèn pin thế này không sợ bảo vệ người ta thấy, người ta ra đuổi à?

Thằng Nam nói giọng chắc chắn:

- Ghớm, bảo vệ giờ này á, có cho tiền cũng đ*o giám chui vào tận đây, chúng nó cũng sợ bỏ mẹ, mày không thấy trước cửa phòng bảo vệ ở cửa dán đầy bùa ra đấy à.

Thằng đức nghe đến câu dán đầy bùa, nó lúc này mới toát hết cả mồ hôi. Còn cái Ngọc và cái Thủy, từ lúc đi vô nghĩa trang đến giờ, hai cô bé cứ bám trặt lấy nhau, đi đằng sau hai thằng. Nghĩa trang vào ban đêm tối lắm, chỉ có mấy ngọn đèn vàng yếu ớt ở những con đường chính mà đánh ô tô vào được, còn lại là dựa vào ánh trăng vằng vặc để len lỏi qua các ngôi mộ. Đến đoạn rẽ ra con đường nhỏ, thằng Nam nói với cả bọn:

- Sắp đến roài, ở cuối con đường này thôi.

Cả bọn cùng rẽ qua con đường nhỏ đó, vì là đường phụ nên không có đèn đường. Tất cả chỉ còn biết mò mẫm theo ánh đèn pin của thằng Nam và ánh trăng. Cuối cùng, ánh đèn pin của Nam đã rọi lên được một nấm mộ mới đắp đất, chưa trát xi măng. Xung quanh là vô số vòng hoa và tiền vàng rải rác. Cả bọn bắt đầu bầy biện các thứ ra con đường nhỏ ngay trước nấm mồ. Riêng có con husky của Nam, khi vừa thấy cái nấm mồ mới xây, nó có vẻ như sợ sệt lắm, và muốn quay đầu bỏ chạy. Nhưng bị Nam zữ lại và quát nạt, giờ nó nằm co ro một đống, nhưng mắt luôn hướng về phía cái mộ đó.

Mọi thứ đã bầy xong xuôi đâu vào đó, bốn đứa ngồi xếp thành vòng tròn. Tấm bản đồ kí tự được đặt ở giữa, trước mặt mỗi đữa là một cây nến nhỏ đã được thắp lên. Cái chén mà thằng Nam lấy trên bàn thờ nhà nó được đặt vào chính giữa tấm bản đồ, nơi có hình bát quái, ba nén hương đã được thắp và cắm trên mộ. Ngọc và Thủy đều phải xõa tóc ra trong lúc cầu cơ. Khi đã đâu vào đấy, mọi người nắm tay nhau lại, thằng Nam bắt đầu lầm rầm đọc: “Bốn người chúng tôi bao gồm Nam, Đức, Ngọc và Thủy kính mời vong hồn bà… Mất ngày … Quê quán tại … Xin về ngay đây, cho chúng tôi được hỏi chuyện”. Vừa nói dứt câu, một cơn gió lạnh ở đâu chàn về. Cả bọn rùng mình, chợt con chó husky của thằng Nam nhổm dậy, nó tru lên mấy hồi. Cái tiếng tru đó nghe mà sởn gai ốc, cứ văng vẳng, rồi vọng vào màn đêm lạnh lẽo. Cái Thủy lúc này tay run lắm, định đứng lên chạy. Nhưng được Ngọc và Đức nắm chặt tay, nên Thủy cố chấn tĩnh ngồi lại. Độ một phút sau, cái chén trên tấm bản đồ bỗng rung bần bật. Thằng Đức thấy vậy, mặt nó tái hẳn đi trông thấy, nó bây giờ phải nói là sợ đến vãi cả đái ra rồi. Thấy rằng hồn đã về nhập vào trong chén, thằng Nam ra hiệu cho hội bạn, mỗi đữa đặt hờ một ngón tay lên chén. Thằng Nam bắt đầu hỏi trước, nó hỏi rằng có đúng là bà… đang là người trả lời câu hỏi hay không. Cái chén dần dần di về các con chữ, tạo nên “đúng”. Thằng Đức, cái Thủy với cái Ngọc lúc đầu tức cười lắm, vì nghĩ rằng chính thằng Nam xê dịch cái chén. Rồi sau đó chúng nó lần lượt hỏi về gia đình bố mẹ của nhau, cái chén lúc nào cũng đưa ra câu trả lời đúng. Lúc này bọn nó mới có hơi sợ sợ, vì có nhiều chuyện như nhà cửa, rồi gia đình mà không phải lúc nào cũng kể cho nhau nghe, vậy mà tại sao lại trả lời vanh vách được. Cái Ngọc có hơi sợ, định zụt ngón tay lại, thằng Nam thấy thế, nó lấy tay kia giữ tay cái Ngọc lại, miệng thì thầm:

- Bộ em muốn bị ma nhập hay sao mà zụt tay lại, một khi đã thắp hương lên, phải chơi đến khi nào hương tàn mới thôi.

Cái Ngọc nghe xong mà rùng mình. Thằng Đức với cái Thủy bắt đầu thấy rờn rợn. Rồi thằng Nam bắt đầu hỏi về tương lai nó, nó hỏi rằng bao nhiêu tuổi thì nó lấy vợ, cái chén trả lời rằng “không lấy vợ”. Thằng Nam nhăn mặt, nó hỏi tiếp là sau này nó có giầu sang không, cái chén trả lời “ không giầu, không nghèo”. Lúc đầu thằng Nam nghi là chắc có đứa nào đẩy chén để trêu nó, rồi nó hỏi tại sao, cái chén từ từ chỉ lại từng chữ, gộp lại cả câu sẽ thành “số phận an bài sao mày muốn biết”. Thằng Nam zựng tóc gáy, nó không ngờ rằng bói chén thì ma cũng hỏi ngược lại được người chơi. Nó bảo rằng đó là số phận của nó, xin cứ cho biết, cái chén trả lời “chết”. Thằng Nam đọc xong há hồm, lũ con lại thì mặt cắt không còn giọt máu. Thằng Nam hằn giọng:

- Đ*t mẹ chúng mày, tao không đùa đâu nhá…

Cả bọn ngơ ngác, thằng Đức đáp lời:

- Mày điên à, nãy giờ có đứa nào dịch cái chén đâu, mà mày nói bé thôi, không có mấy ông bảo vệ nghe thấy bây giờ.

Thằng Nam lúc này mới bắt đầu nổi da gà, nếu đúng như cái chén này nói, thì nó sẽ phải chết trẻ. Nó cố trấn tĩnh bản thân, hỏi cái chén rằng nó sẽ chết như thế nào, cái chén chỉ trả lời rằng “bất ngờ”. Thằng Nam càng tò mò, nó hỏi rằng bao giờ thì nó mới chết, cái chén trả lời rằng “sắp”. Thằng Nam ngồi thừ người, nó không còn tâm trí nào mà hỏi nữa. Cái Ngọc nắm lấy tay kia của Nam, nói nhỏ nhẹ:

- Hay là thôi anh ơi, hỏi qua chuyện khác đi.

Thằng Nam vẫn ngồi thừ ra, nhìn trằm trằm vô cái chén. Ngọc muốn chứng minh rằng lời cái chén nói là sai, nó hỏi cái chén rằng Nam và mình sau này có lấy nhau được không, cái chén trả lời “không”. Thấy sợ sợ, cái Ngọc hỏi dồn vì sao, cái chén đưa ra câu trả lời khiến cho cả bọn nổi da gà “mày cũng sẽ chết”. Cái Ngọc đang định hỏi chết như thế nào, thì không may thay, ba ngọn hương cắm trên mộ đã tắt. Nếu đúng như luật chơi, thì khi hương tắt, tất cả phải cùng một lúc zụt tay mình lại và dập nến. Cái Ngọc đang định hỏi, chợt ngọn nến phía Thủy bị gió thổi, tắt ngẩm đi. Con husky nãy giờ nằm cạnh thằng Nam chợt đứng bật zậy, sủa loạn ầm ỹ về phía cái Thủy. Thằng Đức đang nắm tay Thủy, chợt nó thấy tay Thủy lạnh ngắt đến thấu xương, nó quay ra vỗ vào vai, thì thấy toàn thân Thủy lạnh ngắt. Thằng Đức hét lên, nó buông tay Thủy ra, khiến cho cái Ngọc và thằng Nam giật mình nhìn về phía Thủy. Cái Thủy đang xõa tóc, cúi gầm mặt, cả thân từ từ đứng dậy, như kiểu có ai đó xốc nó đứng lên. Đầu vẫn cúi, tóc buông xõa che đi khuôn mặt, một tiếng cười cất lên nghe mà rụng rời chân tay. Cả ba đứa Ngọc, Đức, và Nam ngã ngửa, chúng nó ôm nhau co ro lại. Thằng Đức zọng run run:

- Thủy, bà làm sao thế?

Một tiếng nói phát ra từ khuôn mặt của Thủy nghe xa xăm mà rờn rợn:

- Chúng mày không tuân theo luật chơi, giờ tao đã cướp xác của con bé này rồi…

Cả lũ hét rú lên, vì tiếng nói đó không phải là của Thủy. Rồi cái người xõa tóc đó bắt đầu ngửng mặt lên, một khuôn mặt trắng ởn, hai con mắt lộn tròng. Đưa cánh tay chỉ về phía Nam:

- Mày sẽ chết con ạ ….

Cả lũ hét ầm ỹ, rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy ra khỏi nghĩa trang. Mấy ông bảo vệ thấy động, cầm đèn pin chạy ra thì đám thằng Nam đã chạy vụt qua, bỏ lại cái Thủy nằm xõng xoài trên mặt đất bên cạnh mộ. Hai ông bảo vệ rọi đèn pin về phía có mấy ánh nến, tới nơi thấy Thủy và đồ nghề bói chén, một ông bảo vệ thở dài:

- Lại bói chén, haiz… Xem ra có người nữa sắp sang thế giới bên kia rồi.

Sáng hôm sau, đợi khi Thủy đã tỉnh lại. Một ông nhân viên bảo vệ đưa Thủy về tận nhà. Bố mẹ Thủy thấy con gái được hộ tống về đồng thời đi xuốt đêm qua thì lo lắng lắm. Sau khi trò chuyện với ông nhân viên bảo vể, đồng thời nhận gói đồ chơi bói chén. Bố mẹ Thủy quay ra lên lớp cho cô con gái mình một bài học. Bố Thủy ngày xưa từng là bộ đội, vào sinh ra tử, còn lạ gì cái chò bói chén gọi hồn này nữa. Nhớ cứ mỗi lần trước một trận đánh, hay mỗi trận tập kích, ông và mấy đứa bạn thường ngồi lại, gọi hồn mấy thằng bạn mới chết lên và hỏi rằng trận tiếp sẽ có những ai hi sinh. Quả nhiên những người được bói chén chỉ danh đều tử trận, may mắn cho bố của Thủy đã không nằm trong số đó. Sau khi mắng Thủy té tát một hồi, ông quay ra hỏi:

- Mày dại lắm con ạ, sao khi không lại nghịch ba cái trò dại dột như thế này. Vậy lúc bói chén, nó có nói gì về tương lai của con không?

Thủy thật thà:

- Dạ, con chỉ giám hỏi một ít về gia đình mình lúc đầu coi coi nó có linh ứng không, sau đó thì Nam và Ngọc hỏi nhiều lắm, nhưng sau đó thì con không nhớ một chút gì. Tỉnh dậy đã thấy mình nằm trong phòng trực bảo vệ nghĩa trang.

Bố Thủy ngạc nhiên và hỏi dồn:

- Sao lại không nhớ tí gì? Vậy thằng Nam và con Ngọc chúng nó hỏi cái gì?

Thủy ngồi suy nghĩ lại một lúc, chợt nhớ ra điều gì đó, Thủy thưa:

- Con nhớ rồi, cái chén bói là thằng Nam và cái Ngọc cả hai sẽ chết trẻ, ngay sau đó thì con nghe có tiếng gọi bên tai, và cứ thế chìm luôn vào giấc ngủ li bì.

Bố Thủy nghe xong thì đờ người ra, ông tựa lưng vào thành ghế, rồi quay ra bảo:

- Con có biết vì sao con không nhớ tí gì không?

Thủy nghi hoặc hỏi:

- Dạ không ạ, vì sao thế hả bố?

Bố Thủy quay qua nhìn thẳng vào mắt con gái:

- Con bị ma nhập tối quá đó.

Thủy chợt rùng mình, mặt đờ đẫn, rồi bố Thủy tiếp lời:

- Bọn con chơi bói chén đêm qua chắc không đứa nào để ý tới ba nén hương thắp trên mộ. Một khi hương tắt mà không dừng cuộc trơi, vong hồn biết mình bị lợi dụng sẽ tìm cách cướp xác đoạt mạng.

Thủy nhanh nhẩu:

- Thế tại sao đến giờ con vẫn bình an vô sự hả bố?

Bố Thủy nhìn Thủy thở dài:

- Cái đứa bầy ra trò này chắc chắn cũng hiểu luật chơi rất rõ, nó đã dắt một con chó theo. Chó là một trong những con vật khắc ma, có nó ở bên thì vong hồn không thể nào mà cướp xác đoạt mạng được.

Thủy như nhớ lại chi tiết mọi việc hôm qua, nhỏ nói:

- Đúng rồi bố ạ, đêm qua thằng Nam có dắt con husky nhà nó theo, mà con chó đấy cái lúc bắt đầu cuộc chơi, nó sủa ghê lắm, lại con tru lên nữa, nghe mà rợn người.

Bố Thủy giải thích: 

- Nó sủa tức là nó đã nhìn thấy oan hồn, còn lúc nó tru lên tức là hồn người chết đang hiện về. Còn về thằng Nam, nếu đúng như lời con nói, thì bố e là nó chả sống lâu được nữa đâu.

Trong khi đó, sau cái ngày bói chén ở nghĩa trang về, thằng Nam như người mất hồn. Nó chả thiết ăn uống gì, học hành sa sút. Mặc dù thằng Đạt, nhỏ Ngọc, và Thủy đã hết sức khuyên can, nhưng thằng Nam giờ đây chỉ như cái xác không hồn mà thôi. Để cho nó bớt buồn, Cả hội rủ nhau đi nhậu một trận. Nào ngờ, thằng Nam mượn rượu, nó uống đến mức như không còn có ngày mai. Rượu vào, rồi nó khóc lóc kể lể là đời chưa làm được cái gì, chưa trả ơn cho bố mẹ, chưa cưới được vợ, chưa tạo dựng nên được sự nghiệp gì thì đã phải chết. Xong nó lại cười, nó cười cái trò đời, cười vào cái số phận mà ai ai cũng không tránh khỏi đó là chết. Đợi cho lúc nó nguôi ngoai, thằng Đức mới bắt đầu hỏi mấy chuyện:

- Này Nam, hôm bữa cúng chén, tao chưa hiểu sao mày phải dắt con chó nhà mày theo làm gì?

Cái Thủy ngồi bên cạnh, đá chân thằng Đức một cái đau điếng, ra ý không muốn Đức khơi lại cái đêm đáng nguyền rủa đó nữa. Còn về phần Thủy, nhỏ cũng chưa giám nói lại những gì mà bố mình nói, vì lý do là thằng Nam giờ đây đã sống dở chết dở thế này rồi, sợ rằng nói thêm vào, nó quẫn trí đi tự tử thì nguy. Thằng Nam nghe thằng Đức hỏi, nó cười phá lên như người bị điên, nó nói giọng lè nhè:

- Mày ngu lắm con ạ, dắt con chó theo, để nó canh cho tụi mình chơi. Nếu không có nó, thì giờ này tao với mày đã nằm đắp chiếu cả lũ roài .

Nam cầm ly rượu nốc một hơi:

- Tao cũng quên con mẹ nó mất là phải canh chừng ba nén hương cắm trên mộ, để cho nó cháy hết lúc nào đ*o hay. 

Thằng Đức càng tò mò, nó lân la:

- Hương cháy hết thì sao?

Thằng Nam nhìn thằng Đức:

- Bộ mày giả ngu trêu bố mày à? Hương cháy hết, tức là thời gian giam giữ vong hôn vào cái chén đã cạn. Mày mà còn cố hỏi, nó điên tiết lên, nó sẽ nhập vào mày, làm mày dở điên dở dại đó con ạ.

Nói đến đó, thằng Nam chỉ thẳng vào mặt Thủy cười:

- Chỉ không may cho con người tình bé nhỏ của mày, đêm đó bị nó nhập vô. May mà còn cóa con chó yêu quý của tao, không có bây giờ mày đang hầu em ý trong nhà điên roài con ạ .

Thủy nghe đến đó thì giật mình, quả nhiên những gì mà bố Thủy nói đều là chính xác, là có thực. Bỗng thằng Nam ôm mặt khóc tu tu như một đứa trẻ. Cả bọn lấy làm ngạc nhiên, chúng nó xúm lại giỗ giành, thằng Nam giọng mếu máo:

- Tao khổ lắm chúng mày ơi, chúng mày có biết đã mấy đêm nay, đêm nào tao cũng gặp cái con mụ già đó không. 

Cả bọn ngơ ngác, Ngọc khẽ hỏi:

- Anh nói gì thế? Anh gặp con mụ nào?

Thằng Nam quay ra, nó gào lên trong nước mắt:

- Cô còn giả vờ à, cái con mụ già mà hôm ra nghĩa trang tui mình gọi lên để hỏi chuyện ý!

Nghe xong cái câu này, cả bọn mới rùng mình. Sau đó thằng Nam kể rằng, đã gần một tuần này, cứ đêm đêm, nó lại thấy bóng bà già đó đứng ngay đầu cửa sổ, có lúc thì đứng ngay dầu giường, nhiều khi thì cứ lởn vởn trước cửa buồng hoặc cửa sổ. Còn có những đêm, nó nghe thấy tiếng bà ý gọi nó trong đêm, nào là “đã đến lúc rồi, về với bà Nam ơi” hoặc là “Nam ơi, đi thôi cháu”. Có đêm, nó còn nằm mơ bà ý về, cứ đi theo nó, rồi thì ôm lấy nó, lôi nó xuống nấm mồ nằm cùng. Nó hét lên thất thanh, khiến bố mẹ nó tưởng con mình bị tâm thần, nhiều lần bàn nhau đưa nó vào viện. Kể xong, thằng Nam cầm một vỏ chai, đập vỡ, tính cắt tay tự vẫn. Cả bọn nhảy vô, zằng co mãi mới can được nó.

Sau cái ngày hôm đó, hội thằng Đạt, cái Ngọc và cái Thủy bàn nhau mua đồ lễ, vàng mã rồi mang tới cái mộ của cái bà mới mất để phúng điếu nhằm xin tha cho thằng Nam. Cái Ngọc nhận nhiệm vụ đi mua vàng mã. Hôm đó, đang đứng rút tiền ra trả, chợt chuông điện thoại reo lên. Ngọc nhấc máy lên thì nghe tiếng thằng Đức mếu máo:

- Ngọc ơi… không cần phải mua vàng mã nữa đâu, thằng… thằng Nam… nó … nó… đi xe… bị ô tô tải… đâm chết rồi.

Cách 2: Bóng Ma Trong Gương.

Nếu nói rằng vong hồn không có bóng và không có hình ảnh phản chiếu trên gương thì cũng không hẳn. Nói là không có bóng thì cũng đúng, vì vong hồn vốn gần như ở một dạng ảo ảnh (không phải dang đặc), cho nên khi ánh sáng chiếu vào sẽ không có bóng trên mặt đất. Nhưng nếu nói vong hồn không có ảnh phản chiếu trong gương thì vô lý lắm, vì theo như vật lý học thì mắt của con người hoạt động như một tấm gương. Vậy cho nên, nếu vong hồn không có ảnh phản chiếu trên gương thì thử hỏi làm sao con người nhìn thấy được vong hồn?

Cái ngày đem chôn cất thằng Nam, cái Ngọc khóc lên khóc xuống, lại còn ngất đi mấy lần nữa chứ. Quen nhau từ hồi cấp ba, yêu nhau đã được gần ba năm. Giờ thằng Nam ra đi trước, bỏ lại cái Ngọc. Thử hỏi sao mà không đau sót cái cảnh người đi bỏ người ở lại được. Thằng Nam nó tốt với cái Ngọc lắm chứ, lúc nào cũng quan tâm hỏi han, hai đứa đi đâu cũng như hình với bóng. Giờ thằng Nam đã nằm yên dưới nấm mồ rồi, còn ai ngày ngày nhắn tin, hỏi han, còn ai nắm tay cái Ngọc, hay như những lúc ốm đau mà ở bên cạnh chăm sóc nữa đâu. Nói chung là không còn ai quan tâm tới Ngọc như thằng Nam nữa. Đã vậy, cái Ngọc lại là một người con gái rất tình cảm, giờ thiếu thằng Nam, Ngọc bắt đầu bước sang một trang khác của cuộc đời mình. Ngọc trở thàng một cô gái ít nói, không còn vui cười và hòa đồng như trước nữa. Thằng Đức và cái Thủy thì cứ nghĩ rằng, làm cách nào đi chăng nữa, cái Ngọc nó cũng không khá lên được, nên hai đứa nó quyết định để cho cái Ngọc được ở một mình. Chính vì cái việc để cho cái Ngọc được ở một mình để tự an ui bản thân này đã khiến cho cái ngày mà Ngọc đi theo thằng Nam đang tới gần. Cứ đêm đêm, rồi đêm nào cũng vậy, mỗi lần chợp mắt, cái Ngọc lại tưởng tượng ra cái cảnh thằng Nam đang đi xe thì một cái ô tô tải lao tới, tiếng hét thất thanh của thằng Nam làm cho cái Ngọc không biết bao phen bật dậy lúc canh khuya, mồ hôi đầm đìa, nhịp tim dồn dập. Rồi lại những giọt nước mắt, những giọt nước mắt đắng cay và chua chát. Rồi cái Ngọc lại ngồi trên giường mà ôm mặt khóc, nó khóc cho cái sự cô đơn, cái sự nhớ nhung mà nó dành cho thằng Nam. Bố mẹ cái Ngọc tìm đủ cách để an ủi, zỗ zành, nhưng đâu vẫn hoàn đó. Cái Ngọc còn nhớ như in, cái lúc mang quan tài của thằng Nam ra nghĩa trang thành phố. Cả bọn không khỏi ngỡ ngàng khi bố mẹ thằng Nam lại mua đúng cái lô đất ngay cạnh ngồi mộ của bà già mà ngày nào chúng nó đã gọi lên bói chén. Đứng đây, giờ chỉ còn có ba đứa, một đứa thì đã nằm sâu dưới ba mét đất rồi. Hình ảnh tối hôm nào lại hiện về rõ mồn một ngay giữa ban ngày, bốn đứa ngồi đó, với tấm bản đồ. Vừa nghĩ đên đây, cái Ngọc không kìm nổi nước mắt, còn cái Thủy thì cứ co rúm người lại, nhỏ bám chặt lấy thằng Đức, vẻ mặt sợ hãi khi nhìn sang ngôi mộ bên cạnh chính là ngôi mộ của bà già hôm nào. Lúc bắt đầu lấp đất quan tài, cái ông bảo vệ hôm nào đưa Thủy về đứng chỉ huy những người khác lấp đất. Ông để ý, thì nhận ngay ra mặt Thủy, rồi nhìn lại tấm ảnh được đặt trên quàn tài của Nam, ông ta thở dài và lắc đầu. 

Người ta có nói rằng, vì tình yêu mà con người bất chấp tất cả, trong trường hợp này thì Ngọc cũng không phải là ngoại lệ. Ngọc đã làm một cái việc mà đáng lẽ ra không nên làm, đó là gọi hồn. Gọi hồn có rất nhiều cách, trong đó có một cách là gọi hồn qua gương. Trong phòng ngủ của Ngọc có một cái bàn phấn lớn lắm vì Ngọc là người khoái trang điểm, thêm vào đó là một tấm gương to. Đối diện là cánh cửa ra vào buồng bên phải và một góc cửa sổ bên trái. Như đã nói, Ngọc và Nam yêu nhau thiết tha say đắm, tình cảm đó zường như không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi. Vậy nên, câu hỏi mà chúng ta có thể đặt ra bây giờ liệu có phải tình yêu như người ta nói “chỉ chấm dứt khi mà âm dương chia lìa”? Và thằng Nam, đối với nó liệu chết có phải là kết thúc? Đối với những cái vong trẻ, có thể nói tâm trí còn rất lớn, vì thế theo như tôi nghĩ, cái việc mà siêu thoát sau khi chết là rất khó. Về phần cái Ngọc, không biết nhỏ kiếm đâu ra được mấy bức hình đen trắng của thằng Nam mà người nhà lấy để khắc lên tấm mộ. Ngọc đem đi in đủ bốn mươi chín cái cỡ 4x4. Dán xung quanh chiếc gương bàn phấn, nhỏ đã dọn dẹp sạch sẽ cái bàn đó, chỉ để lại hai cây nến to, một bát gạo, một bát muối, một bát tro, và một chiếc lược. Đợi đúng hôm cúng bốn chín ngày thằng Nam, nhỏ Ngọc đã ngồi vào bàn, mặc một bộ quần áo ngủ, tóc xóa ra, và bắt đầu làm lễ gọi hồn. Ngọc cầm một mảnh giấy ghi lời cầu khấn đặt xuống trước mặt. Nến đã thắp lên, đèn điện trong phòng được tắt hết, mỗi bát cắm ba nén nhang. Cái Ngọc bắt đầu, cầm lước lên tự trải tóc mình, vừa trải vừa đọc:

- Cầu cho vòng hồn … Nam, sinh ngày… Mất ngày … Mau mau quay về với tôi.

Cứ đọc đi đọc lại như thế ba lần, rồi Ngọc bắt đầu ca một bài ca bi đát, nước mắt Ngọc bắt đầu tuồn rơi, Ngọc hát trong tiếng nấc nghẹn ngào, vừa trải mái tóc đen mượt. Được hơn hai phút, gió ở đâu thổi vào buồng lạnh ngắt, khiến cho chín cây hương cháy càng giữ tợn. Khói tỏa lên mù mịt. Ngọc bắt đầu cảm thấy lành lạnh dọc sống lưng, rồi thì cái cảm giác rờn rợn như hôm bói chén bắt đầu ùa về. Những con chó ở nhà chung quanh thi nhau tru lên những tiếng ghê rợn. Mây đã trôi đi hết, bỏ lại ánh trăng vằng vằng soi thẳng vào buồn. Ngọc cứ như vậy, hát trong tiếng nấc nghẹn ngào vừa trải tóc. Bố mẹ ngọc ở dưới có nghe thấy tiếng con mình vừa hát vừa khóc nho nhỏ thì nghĩ là chắc nó lại nhớ đến thằng Nam nên để im cho Ngọc khóc để vơi đi phần nào nỗi buồn. Chỉ hơn năm phút sau, khi Ngọc để ý kĩ trên tấm gương nơi phản chiếu một góc cửa sổ thì thấy có ai đó đang đứng lấp ló. Ngọc buông lược quay lại nhìn thì không có ai, nhìn lại trên gương thì cái bóng đó đã biến mất. Thấy rằng việc gọi hồn đã linh ứng, Ngọc thôi không khóc nữa, nhỏ bỗng vui hẳn lên vì sắp được gặp người yêu mình. Ngọc cất tiếng hát du dương, vừa cầm cái lược lên và bắt đầu trải tóc. Tiếng tru của những con cho quanh nhà lại vọng lên, một lúc sau, tại nơi cửa sổ đó, cái bóng lại hiện lên. Ngọc vui mừng, nhỏ tuôn trào những giòng lệ vui sướng, tiếp tục vừa trải tóc, vừa hát. Cái bóng đó chợt vụt biến mất bên khung cửa sổ, Ngọc đảo mắt khắp tấm gương để liếc nhìn. Ngọc kinh hãi hét lên, khi mà hình ảnh của Nam hiện ra bên cửa buồng. Người mà Ngọc hàng đêm nhung nhớ yêu thương, giờ không còn mái tóc hất sang một bên, dáng người thanh mảnh, khuôn mặt dễ coi, cùng với những bộ quần áo thời thượng nữa. Thay vào đó, là một người con zai gầy gò, đầu tóc rối bời, với một bộ quần áo trắng toát. Khuôn mặt thì trắng ởn, hốc mắt sâu hoắm cộng với bờ môi tái nhơt. Nghe thấy tiếng hét, cả bố và mẹ Ngọc đều chạy lên mở cửa phòng. Bố Ngọc chạy lại bất đèn neon lên, cả hai người không khỏi hết kinh hãi khi thấy đứa con gái mình, mặt cặt không còn hột máu, đang ngồi trước gương. Trên mặt bàn phấn nào là nến, là hương, rồi nào là ảnh của Nam được dán khắp gương. Mẹ Ngọc vội ôm lấy Ngọc, còn bố Ngọc nghiêm nghị hỏi:

- Ngọc, con làm cái trò gì thế này?

Ngọc vẫn ngồi đó, không nói nên lời, mẹ Ngọc thì ôm ngọc vào lòng bắt đầu khóc lóc:

- Con ơi … sao lại ra nông nỗi này hả con…

Đêm hôm đó, bố mẹ Ngọc đưa ngọc xuống tầng dưới ngủ cùng với mình. Sáng hôm sau cả bố và mẹ Ngọc lên dọn dẹp lại cái bàn phấn. Nhưng thật không may, Lúc dọn dẹp đã làm sơ ý rỡi vãi một chút, gạo, muối và tro trong phòng. Sau khi dọn xong, cả bố và mẹ Ngọc đưa ngọc vào viện khám. Bác sĩ đưa ra kết luận là Ngọc bị rối loạn tâm lý trầm trọng dẫn đến suy nhược cơ thể. Sau khi đưa đơn thuốc và dặn phải tẩm bổ và nếu như khó ngủ cứ cho Ngọc uống mấy viên thuốc an thần. Tuy nhiên, dù đã hết sức chăm lo, nhưng Ngọc vẫn vậy, hơn thế nữa lại càng ngày càng tiều tụy thêm. Cứ mỗi lần nhớ lại hinh bóng của Nam, Ngọc lại không khỏi rùng mình vì sợ hãi.

Cuối cùng, Ngọc cũng lên tầng hai và ngủ một mình. Không hiểu do ma sui quỷ khiến thế nào, tuy rất sỡ hãi cái hình bóng của Nam, nhưng Ngọc lại không ngừng muốn được gặp lại người mà mình yêu thương lần nữa. Rồi vào mỗi tối, Ngọc lại ngồi trước gương, thắp một ngọn nến, trải tóc và bắt đầu hát lên bài ca ai oán, và bi đát. Chó xung quang bắt đầu tru lên. Rồi thì khi mà nhìn vào trong gương, hình bóng của Nam lại hiện về đứng ngay cạnh khung cửa. Ngọc mỉm cười khi nhìn thấy hình bóng Nam trong gương. Ngọc tiếp tục cất lên lời ca ai oán, rồi thì hình bóng của Nam ngày một tiến lại gần về phía Ngọc, cái bóng đó không đi, mà lướt từ từ về phía Ngọc. Chả bao lâu, cái oan hồn đó đã đứng ngay sau lưng Ngọc, giờ thì Ngọc đã nhìn rõ, đằng sau cái khuôn mặt trắng ởn, đầu tóc rối bù, hốc mắt sâu hoắm đó vẫn là hình dáng của chàng trai mà Ngọc yêu thương hôm nào. Ngọc bắt đầu ngưng hát, nhỏ nói nhỏ nhẹ:

- Anh có biết rằng, em nhớ anh lắm không? Sao anh lại bỏ em mà đi một mình thế…

Cái bóng đó từ từ vòng tay ôm lấy cổ của Ngọc, rồi dựa đầu nó vô đầu Ngọc.

Và cứ hằng đêm như thế, đôi uyên ương đã gặp được nhau, cho dù một kẻ ở thế giới bên kia. Không lâu sau, vào một buổi sáng, khi mẹ Ngọc mang đồ ăn lên, thì thấy Ngọc nằm gục đầu trên bàn phấn, một tay vẫn cầm lược. Nghĩ là Ngọc ngủ quên, mẹ Ngọc đặt đồ ăn sáng qua một bên. Rồi lay lay gọi Ngọc dậy, nhưng mẹ Ngọc cứ lay mãi lay mãi … Mà không biết rằng Ngọc cũng đã qua thế giới bên kia rồi.

*Chú Thích: Tôi xin được phép nói đôi lời ở đây. Câu truyện trên đại ý chỉ là nói về một trong những cách gọi hồn, bối cảnh và nhân vật trong truyện không có ý phán xét hay gán ghép gì với tình yêu đôi lứa ngoài đời thật. Nếu các bạn yêu nhau thật lòng thì điều đó là rất đáng quý. Nhưng cái gì cũng cần phải nghĩ thông xuốt, chứ đừng để như nhân vật Ngọc trong truyện, tự mình đâu thương tới chết. 

Cách 3: Người Chơi Thứ Tư.

Nếu ai đã từng vào Đà Lạt chơi cũng không khỏi ngỡ ngàng về phong cảnh và khí hậu ở đây. Quả là một nơi lí tưởng cho việc nghỉ ngơi. Tuy nhiên, nhiều người chỉ biết về Đà Lạt bởi cái phong cảnh, khí hậu, và con người nơi đây chứ ít ai biết và để ý đến cái phía cạnh khác của Đà Lạt. Vậy cái phía cạnh khác của Đà Lạt là cái gì? Trước tiên, nếu bạn đọc là người ở Đà Lạt hoặc có người thân ơ đây, tôi xin mạn phép thứ lỗi trước vì câu chuyện mà tôi sắp kể dưới đây có thể gây khó chịu cho một số người, và thậm chí làm mất hình ảnh Đà Lạt trong mắt bạn đọc. Nhưng những cái phía cạnh này dù sao đi nữa, cũng đã được bàn tán khá nhiều và không ai dám khẳng định là không có thật. Vì vậy nếu bạn đọc không thích, xin bạn dừng đọc ngay tại đây. Quay trở lại vấn đề phía cạnh khác, cái mà tôi muốn nói ở đây là “tâm linh”. Tại sao lại nói Đà Lạt là vùng đất tâm linh, thứ nhất là vì Đà Lạt tuy đã được nâng lên cấp thành phố, nhưng vẫn còn nhiều khoảng đất là rừng rậm. Thứ hai, Đà Lạt trước kia được coi là nơi nghỉ ngơi an dưỡng của lính Pháp, và cũng không ít xung đột đã nổ ra ở đây, khiến vô số người chết. Thứ ba, Đà Lạt có thể được coi là nơi duy nhất trên đất nước Việt Nam mà một ngày có đủ bốn mùa phân biệt rõ rệt: sáng thì mang khí hậu của mùa xuân; Trưa mang cái nóng nực của mùa hè; Chiều mang cái mát mẻ của mùa thu; và rồi tối thì mang cái lành lạnh của mùa đông. Theo như nhiều người già ở Đà Lạt có nói rằng, cái việc bốn mùa phân rõ trong một ngày đã làm âm dương đảo lộn rồi. Chả trách mà nơi đây là nơi mà người ta đồn về ma quỷ nhiều nhất. Tôi thì có một lần vào Đà Lạt hồi nhỏ, nhưng lúc đó cũng chưa biết gì nhiều, nhưng nếu có cơ hội vào lại lần nữa, tôi chắc chắn sẽ đi khám phá, và thăm quan những ngôi nhà hoang để được một lần trong đời biết thế nào là bị ma trêu (đùa thôi nhá, vào trong đó bị dọa lại ngất mẹ nó trong đấy thì khốn nạn lắm).

Là học sinh hay sinh viên Việt Nam thì đứa nào mà chả mong kì nghỉ hè. Khi kì nghỉ hè đa tới, hội thằng Lân, con Hà, con Thảo vui lắm. Chúng nó đợi mãi để lên kế hoạch đi chơi hè. Sau một hồi bàn bạc, quyết định cuối cùng được đưa ra, cả bọn sẽ vô Đà Lạt chơi một bữa vì bác con Hà có cái khách sạn ở trong đó, có thể bao ăn bao ở cho cả ba đứa. Chúng nó nhân thế để tiện việc tiết kiệm, nên quyết định đi bằng tầu hỏa. Ngồi trên tầu có thể nói là rất buồn nếu như bạn đi một mình, nhưng nếu đã có bè có đảng thì phải nói là náo loạn. Sáng sớm hôm đó, tầu đã vào ga Đà Lạt, bác con Hà ra sân bay đón cả bọn đưa về khách sạn. Khách sạn của bác con Hà đằng sau là cả một cánh vườn rộng lớn. Ba đứa lấy chung một buồng trên tầng ba, cửa sổ hướng thằng về cái vườn đó. Ngay ngày đầu tiên, cả hội kéo nhau đi thăm quan thành phố, vườn hoa cả ngày. Đến tối, về đến khách sạn đứa nào cũng nhũn như con chi chi, chúng nó tắm rửa xong là lên giường thẳng cẳng ngay. Riêng chỉ có con Thảo là chưa ngủ, vì còn bận nhắn tin cho người yêu. Lúc đó đã hơn một giờ đêm rồi. đang ngồi nhắn tin, bỗng nó nghe thấy có tiếng đi lại ngoài hành lang. Tiếng bước chân vang vọng trong hành lang rất to, như có ai đang đi đôi giầy khủng bố và nện xuống sàn nhà vậy. Lúc đầu thì con Thảo không để ý đâu, nhưng cứ như vậy phải đến hơn mười lăm phút. Nó tức tối, nhảy khỏi giường chạy ra cửa và nhòm qua cái lỗ kính được khoét trên cửa. Không một bóng người trong hành lang. Con Thảo ngẩn người ra một lúc, rõ ràng tiếng bước chân vẫn văng vẳng ngay đây mà lại không thấy một bóng ai là sao. Rồi thì bỗng nhiên nó nghe thấy tiếng bước chân đó đang đi từ tầng ba xuống tầng dưới. Cái Thảo mở cửa khe khẽ, nó thò đầu nhìn ra cái cầu thang, thì chỉ thấy bóng của một người cao to, mặc bộ quần áo lính, đang đi thong thả xuống dưới tầng hai. Nó nhìn tầm năm giây thì lại lẻn vào trong buồng. Chui vào chăn rồi, nhưng con Thảo cứ suy nghĩ mãi không hiểu được vấn đề là tại sao giữa đêm hôm lại có ông điên mặc áo lính đi đi lại lại. Mải mê suy nghĩ, rồi nó cũng chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết. Sáng hôm sau con Thảo hỏi hội bạn nó là tối qua có nghe thấy gì không? thì cả lũ lắc đầu. Nó tính xuống hỏi bác con Hà nhưng rồi cũng quên khuấy đi mất. Hôm nay, cả bọn sẽ tạt qua nhà Bác thằng Lân để vui chơi và ngủ lại đêm ở đó. Bác thằng Lân cũng thuộc vào loại khá giả ở Đà Lạt, bác thằng Lân có một căn biệt thự ba tầng theo kiểu kiến trúc cổ của Pháp, đằng sau là ao cá, hồ bơi, và một vườn cây trái xum xuê. Lúc mới đến cả bọn thich lắm, được thể thằng Lân còn gọi thêm anh em họ của nó ra chung vui, nên cả bọn quậy hết cỡ. Cái đêm hôm đó, đã mười hai giờ hơn rùi, mà tụi nó vẫn ngồi đánh bài và tán gẫu. Con Hà thì them ăn ổi, nên nó chạy ra vườn hái mấy quả vào. Đang cầm đèn pin hì hục soi coi quả nào ngon. Chợt con Hà có cái cảm giác nổi da gà, nó thấy hơi rờn rợn và cảm tưởng như là có cai đó đang nhìn mình. Nó cầm đèn pin soi một lượt xung quanh, rồi bỗng nó nhìn ra phía cây táo ở gần cuối góc vườn, thì thấy tựa như có một bóng người đang ngồi đung đưa trên cây và hướng mặt về phía nó. Con Hà rú lên, rồi nó quăng đèn pin, chạy một mạch lại vô nhà. Cả bỏn thấy con Hà rú lên cũng tức tốc đổ hết ra vườn. Cả hội ra tới thềm thì cũng vừa lúc con Hà chạy tới, nó hổn hển:

- Chúng mày ơi … sợ quá … tao thấy …. tao thấy … ma.

Lúc đầu cả bọn trố mắt, thằng Lân hỏi lại:

- Cái gì, mày thấy ma ở đâu?

Con Hà vừa thở, mặt cắt không còn hột máu, nó chỉ tay về phía cuối vườn:

- Ở … Ở … trên cây táo …. cuối … cuối … vườn kia kìa.

Cả bọn lúc này mới cầm đèn pin cùng chạy ra chì chả thấy gì, cả lũ quay ra cười con Hà nhìn gà hóa quốc. Riêng con Hà vẫn khăng khăng:

- Tao thề, tao thấy có người ngồi đung đưa ngay tại cái cây này mà.

Mặc cho con Hà có nói thế nào, chúng nó cũng chả tin. Cả lũ lại kéo nhau vào trong nhà chơi bài thêm một lúc nữa rồi ngủ. Riêng con Hà đêm đó thì khó ngủ vô cùng, một phần vì nó vẫn còn bị ám ảnh bởi hình ảnh bóng người ngồi đung đưa cây táo, một phần nữa là vì nó tin vào những gì mà nó đã nhìn thấy. Sáng hôm sau, lúc đang ngồi ăn, cả lũ mới đem chuyện hôm qua ra trêu con Hà. Con Hà bực lắm, nhưng nó cũng chả biết làm thế nào. Bác thằng Lân cũng ngồi đó, nghe chúng nó nói qua, liền cười nhỏ. Rồi bác thằng Lân quay ra, hỏi cái Hà:

- Thế hôm qua chính xác là cháu đã nhìn thấy cái gì?

Con Hà trả lời:

- Dạ, cháu thấy có bóng người ngồi đung đưa trên cây táo ở vườn sau ạ.

Bác thằng Lân mỉm cười rồi quay ra bảo với thằng Lân:

- Cháu muốn có tiền tiêu không Lân?

Thằng Lân nghe đến có tiền tiêu là mắt nó sáng lên, nó hỏi lại:

- Sao lại không ạ.

Bác thằng lần liền quay ra bảo với con Hà và con Thảo:

- Thế các cháu thì sao?

Cả hai đứa còn hơi ngại ngùng, con Hà hỏi:

- Thế bọn cháu cần làm gì ạ?

Bác thằng Lân thấy tụi nó có vẻ đồng ý, ông nói:

- Cuối phố này, có một căn nhà cổ của Pháp, bỏ hoang đã lâu, giờ là nơi thăm quan cho du khách. Nếu các cháu dám đúng mười hai giờ đêm nay, đi theo bác, vào trong căn nhà đó chơi đuổi bắt, thì bác sẽ cho mỗi đứa hai triệu coi như là tiền đi chơi đợt này.

Nghe xong lời đề nghị, cả con Hà và con Thảo trợn mắt há mồm, còn thằng Lân thì ngồi đứ đừ cả người ra. Thấy cả bọn có vẻ nản chí, bác thằng Lân thêm vào:

- Tí bác sẽ dắt các cháu đi thăm quan ngôi nhà đó trước, còn đợi đến tối. Bác sẽ đi cùng các cháu, nhưng bác sẽ chỉ đứng ngoài cửa đợi thôi. Các cháu làm xong cứ đi ra, bác sẽ đưa tiền luôn.

Cái Thảo nghi hoặc hỏi lại:

- Nhưng mà, chơi đuổi bắt kiểu gì ạ, với cả căn nhà đó có rộng không ạ?

Bác thằng Lân cười:

- À không không, chơi thế này nhé, căn nhà đó, có một phòng trống, rộng cỡ phòng này thôi. Các cháu vào đó, mỗi đứa đứng vào một góc tường, lấy một miếng vải bịt kín mắt lại. Không nói năng gì, lần theo bức tường, đi tới người kia, chạm vào vào vai người đó, rồi đứng thế vị trí người đó. Sau đó, để cho người bị vỗ vai tiếp tục. cứ như vậy khi mỗi người vỗ đủ ba lần thì tháo khăn bịt mắt và đi ra.

Nghe xong thì cả bọn ngơ ngác, vì nếu như vậy thì chơi chưa tới năm phút nữa. Nhưng mà con Hà và con Thảo vẫn thấy ớn. Còn thằng Lân nghe thấy chỉ làm có vậy mà được ngay hai triệu, nó đồng ý ngay. Đồng thời quay ra thuyết phục con Hà và con Thảo mãi thì chúng nó mới nhận lời. Ăn xong, bác thằng Lân zẫn cả bọn đi coi căn nhà cổ đó. Quả nhiên đây là một căn nhà lớn hai tầng, tường bên ngoài đã mọc rêu hết, vườn sau thì cậy cối xác sơ, chỉ xanh rờn mỗi mấy đám cỏ và hoa dại. Bước vào tầng một thì quả nhiên phòng khách rất lớn cùng với một bộ bàn ghế cũ kĩ và vài ba cái tủ, cái kệ sách đã mục nát. Bên cạnh phòng khách lớn quả nhiên có một phòng nữa, không rộng lắm, trống chơn không có một thứ gì. Sau khi đã coi xong, tất cả nhất trí tối nay sẽ hành động để được hai triệu tiền thưởng mỗi đứa. 

Tối hôm đó, bác thằng Lân đèo cả ba đứa ra căn nhà cổ. Đỗ xe trước cổng, ông ta quay lại và bảo thằng Lân:

- Cháu lấy cái đèn đằng sau cốp xe, để vào giữa phòng cho sáng, vì trong đó không có điện đâu. Với cả lấy mấy mảnh vải bác để sẵn trong đó mà bịt mắt. Bác sẽ đợi ngoài này.

Nói xong ông ta rút một điếu thuốc lá ra hút. Thằng Lân với con Hà con Thảo mở cửa xe, lấy đồ nghề và tiến vào căn nhà hoang. Thằng Lân cầm đèn đi đầu, theo sau là con Thảo rồi con Hà. Tại sao cái cảm giác bước vào căn nhà hoang bây giờ lại khác hẳn cái cảm giác buổi sáng, nó có một chút gì đó lành lạnh và hơi rùng rợn. Gió lùa qua mấy cánh cửa sổ kêu ken két làm cho con Hà giật bắn mình mấy lần. Giờ nó mới nhớ tới cái hình ảnh người ngồi đung đưa trên cây táo, làm nó run bần bật. Vào đến phòng, thằng Lần đặt cái đèn ở giữa phòng, sau đó đưa cho con Hà và con Thảo Mỗi đữa một tấm vải bịt mắt. Cả bọn chia nhau ra mỗi đứa đứng một góc tường. Rồi bịt mắt lại. Đầu tiên là thằng Lân, nó zò zẫm theo bức tường rồi vỗ vào vai con Thảo. Con thảo bị thằng Lân vỗ vào người giật thót mình, nó tính hét lên nhưng chợt nhớ lời của bác thằng Lân dặn là không được nói chuyện. Nó kìm lại, và bắt đầu lần mò tìm kiếm rồi vỗ vào vai con Hà. Con Hà cũng giật bắn người, tí ngã ngửa xuống đất. Rồi con Hà lại lần mò theo bức tường, con Hà nhớ là cái buồng này không rộng lắm, mà tại sao nó mò mẫm mãi mới tới được chỗ thằng Lân và vỗ vào người nó. Cứ như vậy, người này vỗ vào vai người kia, được đủ ba lần thì tất cả cùng nhau tháo băng bịt mắt. Cả hội đều thở phào nhẹ nhõm vì cuối cùng cái trò chơi này cũng kết thúc. Đang chuẩn bị ra về, chợt thằng Lân nhìn lại, nó thấy lạ là tại sao chỉ có ba người chơi trò này, mà căn buồng lại có đến bốn cái góc tường. Nó có cái cảm giác rờn rợn, giữa khoảng cách của con Hà và con Thảo là một góc tường trống. Mà nó nhớ rằng nó không hề đi qua một cái góc tường nào hết. Nó đang định hỏi mấy đứa kia, chợt con Hà quay ra mắng vốn con Thảo:

- Thảo, sao mày bóp vai tao mạnh thế, làm tao tí ngã ngữa kìa.

Con Thảo ngơ ngạc:

- Tôi đâu có bóp vai bà đâu, tui chỉ vỗ nhẹ vào vai bà thôi mà.

Còn đang cãi nhau, thằng Lân mới hỏi lại:

- Này, từ nãy giờ, các bà lúc đi tìm người khác để vỗ vai, có bà nào đi qua cái góc tường nào không?

Con Hà và con Thảo lại càng ngơ ngác, chúng nó đều nói là không đi qua góc tường nào cả, chỉ mò hết bức tường là vỗ được vai người kia rồi. Thằng Lân nghe xong, chợt nó đờ mặt, run rẩy chỉ vào cái góc tường ở giữa vị trí của con Hà và con Thảo nói:

- Nếu … nếu mà như thế, thì làm sao mà vỗ vai nhau đủ một vòng được … Có tới những bốn góc tường… mà trong khi đó, chỉ có ba đứa mình …

Con Thảo và Con Hà cùng nhìn về phí góc tường trống không đó. Cả bọn như hiểu ra điều gì, chúng nó gào rú lên, rồi ù té chạy ngay ra ngoài bỏ quên cả cái đèn.

Chạy ra đến xe, cả lũ chui tọt hết vào ghế sau, ngồi ôm nhau co ro. Bác thằng Lân thấy vậy thì buồn cười lắm, quay lại đưa cho mỗi đữa một cái bao lì xì đỏ và nói:

- Các cháu nhìn vậy mà gan dạ quá ha, đây, bác giữ lời hứa nhé, mỗi đứa hai triệu tha hồ mà tiêu sài.

Nói rồi bác thằng Lân nổ máy xe và đưa cả bọn về. Trên đường, chúng nó vẫn ngồi im thin thít. Rồi thằng Lân run rẩy, vươn người lên ghế trước nói:

- Tại sao lại như vậy được hả bác?

Bác thằng Lân cười và nói:

- Theo cháu thì là tại sao nào, ba người với bốn góc tường, khi chơi vỗ vai vẫn có thể hoàn thành được một vòng… quả là chuyện khó tin đúng không.

Cách 4: Mời Cơm.

Sống còn cần phải ăn thì huống chi là khi chết rồi. Đó là lý do tại sao mỗi khi cúng kiến người chết. Người ta thường cúng đồ ăn kèm theo vàng mã. Nếu bạn đọc còn ở Việt Nam thì chắc hẳn mỗi khi đến bữa ăn mà cầm đũa gõ vào bát thì chắc chắn sẽ bị bố mẹ hoặc người thân vả cho hai cái lật mặt hoặc nếu không thì cũng bị chửi cho một trận thối mặt. Vậy có bạn đọc nào hiểu được lý do tại sao người Việt Nam chúng ta lại rất kị việc cầm đũa gõ vào bát trong bữa ăn không? Tôi rất muốn nghe câu trả lời của các bạn, nhưng rất tiếc là các bạn đang đọc truyện nên tôi xin mạn phép trả lời luôn. Cái chuyện mà gõ đũa vào bát ăn cơm là có liên quan tới việc ma chay, cúng kiến. Cứ mỗi kì xá tội vong nhân, người dân thường nấu đồ ăn mang ra cúng kiến các vong hồn. Cái thời đó thì người ta thường có tục lệ mua mõ về gõ và ngồi niệm kinh, hoặc nhà nào mà không có thì mang một cái chén và đôi đũa ra để gõ thế, nhưng cái bát nào mà đã dung vào việc này rồi thì phải để riêng ra. Rồi dần dần, cuộc sống phát triển. Người ta cũng dần bỏ cái thủ tục đó đi mà thay vào đó là chỉ thắp hương và khấn vái. Đó là lí do mà vi sao khi ăn cơm, người Việt Nam kiêng gõ đũa vào bát, vì đó là một cách mời vong hồn về ăn cơm.

Tết là cái ngày mà bọn trẻ con sướng nhất, vì sao ư? Vì chúng nó được tiền mừng tuổi. Nhớ lại cái ngày đó tôi cũng rất là mong đến tết vì được người ta mưng tuổi. Chỉ trừ có một vấn đề là cứ tối tối về lại phải chia đôi số tiền với chị Loan híp ở nhà (tức là mẹ tôi). Nhiều tiền quá mà không biết tiêu sài gì cũng là một cái tội. Thằng Khải vốn là thằng thích cá cược, năm nay nó học cấp ba. Rồi một hôm nghe được câu chuyện gọi người chết về ăn cơm trong một lần nó về quê. Về tới nhà, Khải bắt đầu thách thức bọn bạn, nó viết lên blog tuyên bô rằng sẽ trả cho mỗi đứa năm trăm nghìn nếu đêm thứ ba chịu ra ngã tư gọi người chết về ăn cơm với nó. Cứ tưởng rằng trên đời này chỉ có mỗi mình nó là nghĩ ra ba cái trò ngu si, đần độn và mất thời gian. Nhưng reply lại cái lời đề nghị đầy thách thức của nó là thằng Thành, thằng Thắng, và con Hương. Chung nó có hỏi lại là thằng Khải có chắc chắn là sẽ đưa tiền cho không và có chắc là sẽ gọi được người chết lên không. Thằng Khải nó không giám chắc là có hiệu quả, nhưng mà nó cứ nói là bảo đảm kiểu gì cũng gặp ma. Cái trò đời là như vậy, nhiều người tuy rất sợ ma nhưng vẫn muốn thử một lần để cho thỏa mãn cái sự tò mò khác người đó, và tôi cũng không nằm ngoài số đó. Tuy nhiên nói là sợ thì có sợ, nhưng để mà thỏa mãn cái sự tò mò thì tôi cũng chưa bao giờ zám thử cả. 

Đúng tối hôm đó, cả ba đứa đã có mặt tại nhà thằng Khải. Thằng Khải đưa trước cho mỗi đứa một trăm và nói rằng chỗ còn lại đợi khi nào hoàn thành mà không bùng giữa chừng thì sẽ đưa nốt. Thằng Khải đã chuẩn bị đủ đồ nghề, cơm nguội, lá chuối, hương, nến, ba cái bát, ba đôi đũa và một quả bóng nước. Thằng Khải bảo rằng vì bây giờ vẫn còn là tết nên đường còn vắng lắm, nó đã kiếm ra được một con đường nhỏ ngay gần nghĩa trang mà ít người qua lại nhất. Đúng mười giờ, cả lũ bắt đầu lên đường. Đường vào khuya mà lại vào cái thời điểm năm mới năm me thế này thì vắng kinh khủng. Bốn cái mạng lang thang đi trên con đường không một bóng người, thử hỏi còn ai điên hơn chúng nó. Đến được giữa con đường, thằng Khải bảo cả bọn ngồi xuống đây để bắt đầu thao tác. Thằng Thành bầy lá chuối ra, con Hương thì bắt đầu cho cơm vào bát để làm khuôn và úp lên lá chuối. Thằng Thắng thì châm hương và cắm mỗi nắm cơm ba nén hương. Thằng Khải thì bầy bát đũa và bắt đầu thắp nến. Tất cả là bẩy ũ cơm, rồi chúng nó bắt đầu ngồi xếp hàng dọc, bắt đầu gõ đũa vào bát. Gõ được một lúc lâu rồi mà chưa thấy gì, thằng Thành quay ra hỏi thằng Khải:

- Ê mày, gõ nãy giờ có cái con khẹt nào ra đâu? Tí nữa gõ mà không có đứa nào về ăn là mày vẫn phải giả tao tiền đó nghen.

Thằng khải cau mặt:

- Gõ đi, nói nhiều quá.

Con Hương quay ra:

- Ông ơi, tao mắc tiểu quá à, cho tôi đi tiểu cái rồi về gõ tiếp ha?

Thằng Khải giọng quả quyết:

- Không có tiểu tiếc gì hết, nếu bà mà đi là coi như bùng cuộc chơi.

Con Hương mặt mày xị xuống, nó lẩm bẩm “mẹ cha bố tiên sư cái thằng mất dạy, có tiểu mà nó cũng không cho tiện” rồi cố ngồi nhịn và gõ. Tiếng đũa tre gõ vào bát cứ cành cạnh, vang đi khắp bốn phía. Thằng Thành đang gõ, chợt nó nhìn thấy có một bóng người từ xa xa nới nghĩa trang đang tiến lại. Nó nói với bọn kia:

- Ê chúng mày, có người đang đi tới kìa, làm sao giờ?

Thằng Thắng nhìn hai đầu đường:

- Làm gì có con ma dại nào.

Thằng Thành ngạc nhiên lắm, rõ ràng là người đó vẫn đang tiến gần lại về phía này, nó nheo mắt chỉ tay:

- Kia kìa, phía nghĩa trang đang có người đi lại kìa.

Cả bọn quay hết đầu về phía nghĩa trang nhìn, nhưng chả có ai, chợt thằng Thành sa sẩm mặt mày, nó run run, tay bắt đầu gõ nhẹ đi, mặt nó cúi gầm xuống, thằng Khải thấy vậy quát:

- Má! Muốn chết hả, gõ mạnh tay lên không có ma nó ăn cả mày đấy.

Thằng Thành người nó run rẩy, nó hơi ngửng mặt lên thì thấy một đôi chân trần đáng đứng ngay trước mặt. Thằng Thành tái Mặt, nó ngửng lên từ từ, một cái quần đen cũ kĩ, chợt cả cái thân người trên của đôi chân ngồi gục xuống. Thằng Thành zé lên như một cô gái tuổi mới lớn, một ông già hom hem, đầu lơ thơ tóc, hai hốc mắt xâu hoắm, đang với tay bốc cơm, ăn ngay trước mặt nó, mà khoảng cách thì chưa quá ba mươi cen ti mét. Thằng Thành rơi cả đũa, quay ra ôm thằng Khải, nó gào lên như một đứa bé đòi mẹ cho bú:

- Anh ơi! em cho anh năm trăm nghìn…. Anh đưa em ra khỏi đây …. Em sợ lắm rồi…. Em không muốn chơi nữa đâu.

Cả lũ quay ra nhìn thằng Thành mặt đầy nghi ngờ. Còn thằng Khải vừa gỡ thằng Thành ra khỏi người nó, vừa nói:

- Má! Mày buông tao ra coi. Mày mà ngừng gõ bây giờ, là ma nó theo mày về tận nhà đấy, gõ đi.

Thằng thành quay ra nhìn, quả nhiên cái vong hồn ông lão đã ngừng bốc cơm ăn, đang ngồi xổm nhìn chằm chằm vào mặt nó. Thằng Thành sợ quá, nó khóc òa lên như em bé. Thấy vậy, thằng Khải phải cầm tay nó lên nhét đũa vô, và gõ phụ thằng Thành. Khi cái vong kia đã ăn cơm trở lại. Thằng Thành mới nín được, nó bình tĩnh gõ lại, nhưng giờ nó như người bại não, ngồi im re, tay thì cầm đũa gõ bát, còn mắt thì nhìn không chớp về phía trước. Lúc đầu chúng nó cứ tưởng rằng thằng Thành giả vở, nhưng giờ nhìn cái mặt nó tái đi thì đủ hiểu là nó không có bịa. Con Hương đang ngơ ngác nhìn xung quanh coi có cái vong nào lại không, thì chợt một một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, rồi bỗng trên đùi của cái Hương nặng chĩu. Nó ngó xuống thì thấy một đứa bé tầm ba tuổi, đang nằm trên đùi nó trờn người ra với cơm ăn. Cái Hương mồm há ra mà không hét nổi lên lời. Tay nó gõ điên cuồng vào cái bát. Thằng Thắng ngồi bên cạnh, quay qua nhìn thì thấy con Hương đã tè dầm từ lúc nào không hay, thằng Thắng cau mặt quát:

- Bà hương kinh quá à! Sao lại đái dầm tại chỗ thế kia?

Cái Hương vẫn ngồi thừ người ra, mắt nhìn trằm trằm vào lòng, mồm há ra, còn tay thì gõ điên loạn vào cái bát. Thằng Thắng lay người mãi mà con Hương vẫn ngồi như phỗng. Nó đang định vả vào mặt con Hương mấy cái cho tỉnh thì chợt trên lưng thằng Thắng nặng chĩu như bị ai đó đè lên lưng. Một cặp ngực tròn căng ép thẳng vào người thằng Thắng, thằng bé đang phê chợt một cái đầu kề lên vai nó, nó quay lại nhìn thì rú lên, đó là một cái đầu của một người con gái, tóc dài, hai hốc mắt sâu hoắm, đang luồn cánh tay qua cổ thằng Thắng mà bốc cơm ăn. Thằng Thắng bị đè gập người xuống, giờ thì nó hết cả cái sự phê lúc nẫy, mà thay vào đó, là cái nỗi sợ kinh hãi và cái đau đớn vì bị đè gập bụng lại. Nó vừa gõ bát trong tư thế gập người, vừa lẩm bẩm “Bà ơi tha cho con… bà ơi…”

Đến cái giờ phút này, chỉ còn mỗi thằng Khải là chưa nhìn thấy gì, nó đang bực mình gõ bát, quay ra bên cạnh thì thấy ba đứa bạn mình: đứa thì cứ há mồm ra mà nhìn về phía ũ cơm; đứa thì đái dầm tùm lum; đứa thì tự nhiên gập người rồi miệng lẩm bẩm như thằng điên. Gõ được thêm năm phút nữa, thằng Khải bắt đầu bực mình vì không thấy gì. Còn về thằng Thành, mặt nó có vể như càng ngày càng méo xệch đi, vì nó thấy từ phía nghĩa địa, càng ngày càng nhiều vong hồn đang tiến tới chỗ nó. Thằng Thắng gõ mạnh tay quá, nên cái bát của nó bỗng vỡ tan tành, cái vong con gái trên người nó dừng ăn, thằng Thắng mặt cũng không còn giọt máu, ga dà ga vịt dựng hết cả lên. Rồi cái vong con gái lấy chân quắp lấy người thằng Thắng, hai tay nó xiết chặt cổ nó. Thằng Thắng nhảy bổ lên mà hét, hai tay nó cố gỡ tay của đứa con gái ra. Tiếng hét của thằng Thắng làm cho con Hương cùng giật mình, nó cũng đập vỡ cả bát. Đứa bé trong lòng con Hương thấy tiếng gõ ngưng lại, nó ngửng đầu lên nhìn vào mặt con Hương. Con Hương sợ đến mức mặt cắt không còn giọt máu, rồi chợt đứa nhỏ lấy tay giựt mạnh tóc con Hương, con Hương hét toáng lên, rồi đứng dậy giằng co. Đứa bé cứ thế lủng lẳng trên người con Hương. Con Hương cảm tưởng như da đầu nó sắp bị lột ra. Đang loạng quạng cộng với zằng co đứa bé, con Hương chả may đá vỡ luôn cái bát của thằng Thành. Thằng Thành giật nảy mình, cái bát vừa vỡ, mấy cái vong đang bốc cơm ăn chợt ngửng hết lên nhìn nó chằm chằm. Thằng Thành phải nói là quả này nó sợ vãi đái. Nhanh như chớp, nó cầm đũa gõ nhịp nhàng lên cái đầu gần trọc của mình tạo ra những tiếng lách cách lách cách. Có tiếng gõ, mấy cái vong hồn kia lại tiếp tục ăn. Thấy mấy đứa bạn mình tự nhiên điên loạn hết cả lên, sợ rằng chúng nó bị ma nhập. Thằng Khải lấy quả bóng nước bên cạnh ra, ném mạnh về phía mấy ũ cơm trên lá chuối. Quả bóng nước vỡ cái độp, máu chó đen bên trong bắn ra tung tóe. Những cái vong hồn kia dường như biến mất trong chớp mắt. Con Hương, thằng Thắng thì đứng như phỗng, riêng có thằng Thành vẫn gõ lách cách lách cách trên đầu, vừa gõ vừa khóc. Thằng Khải phải chặn tay nó lại. Đợi cho chúng nó chấn tĩnh lại, thằng Khải mới bảo cả bọn ra về.

Trên đường về, không đứa nào nói câu gì, ai ai cũng như người mất hồn, có lẽ vì chúng nó bị sốc tâm lý bởi những cái gì mà chúng nó đã nhìn thấy. Riêng có thằng Khải là tức tối lắm, nó bực vì chính mình bày ra trò này, nhưng rồi cuối cùng, chính nó lại là người không nhìn thấy gì cả. Về đến nhà, lúc bọn kia chuẩn bị ra về, thằng Khải rút tiền ra và bảo:

- Đây là số tiền còn lại, tui mày đã chơi tới cùng. Mỗi đứa đúng bốn trăm nghìn nhá.

Nhưng cũng chả có đứa nào quay lại cả, chúng nó zường như không nghe thấy thằng Khải nói gì, tất cả đều lẳng lặng giắt xe ra về.

Cách 5: Ai Là Người Cuối Cùng.

Người xưa thường nói rằng “âm dương là hai cõi tách biệt, người không phạm yêu, yêu không phạm người”. Yêu trong câu này là để ám chỉ những nhân tố thuộc về cõi âm, hay có thể coi là vong hồn cũng được. Theo như tôi hiểu câu này, thì cái ranh giới giữa cõi âm với cõi dương là rất rõ ràng. Tuy nhiên, cái làn ranh giới đó lại vô cùng mỏng mảnh, và cũng đã không ít người vô tình mà cũng cố ý bước quá cái làn ranh giới đó để đi đến cái nơi mà họ không thuộc về. Nếu nhận xết về câu nói trên, tôi chỉ tin vế sau là đúng, vì nếu người không quấy nhiễu ma quỷ, thì ma quỷ cũng sẽ không quấy nhiễu người. Còn về vế đầu, nếu nói là “âm dương là hai cõi tách biết”, xét theo mặt khái niệm thì đúng là hai cói khác nhau, một của người sống, và một của người chết. Nhưng hai cõi này tuy là dành cho hai loại “sinh linh” khác nhau, nhưng lại đều là một thế giới. Người ta thường dùng cõi âm để ám chỉ địa ngục, âm phủ. Nhưng tôi lại nghĩ khác, ngay như tại vị trị mà tôi đang dậm chân lên đây, hay cũng như cái địa điểm mà bạn đọc đang ở, tất cả đều chỉ là một. Bạn coi đó là cõi của người sống, nhưng liệu những vong hồn có coi đó là cõi dương không? Nói tóm lại, những gì chúng ta nhìn thấy và cảm nhận được chỉ là một mặt của cái mà chũng ta coi là cõi dương hay trần thế này mà thôi. Câu truyện dưới đây, kết thúc sẽ không hề có hậu, tôi chỉ muốn cảnh báo trước để bạn đọc khỏi cằn nhằn hay phàn nàn sau khi đọc. Nhưng xin bạn đọc nhớ cho rằng “Nhiều khi để đạt được cái điều mà mình them khát, thì mạng sộng của chính mình cũng sẽ được đánh cược”.

Sau cái đêm gọi hồn về, thằng Khải vô cùng tức tối. Nó vốn là thằng gan dạ và cũng có thể nói là muốn được nhìn thấy ma một lần trong đời cốt là để thỏa mãn cái sự tò mò của nó. Về Phần đám bạn của nó, sau cái đêm hôm đó, đã bàn tán nhau về vụ gọi người chết về ăn cơm. Tin đồn lan nhanh đến mức mà hầu hết cả trường đã biết về thằng Khải. Khi không, Khải được đặt biệt danh là “Khải thầy bùa”. Lúc đầu thì thằng Khải nó không có khoái cái biệt danh này một chút nào. Nhưng rồi, càng ngày càng nhiều học sinh đến hỏi chuyện nó về ba cái vấn đề ma quỷ, cũng có một số thầy cô giáo ngồi tán gẫu với nó. Thằng Khải vốn có bít gì nhiều đâu, nhưng được đà thế là nó ba hoa bốc phét, khiến cho bọn học sinh cứ mê mệt mà nghe thằng Khải nó phán. Có thể nói, thằng Khải bắt đầu bước sang một ngã rẽ cuộc đời mà ngay chính nó cũng không ngờ. 

Cả một cuộc đời học sinh ở Việt Nam, tuy nói là học nhiều, đau đầu, rồi chán nản. Nhiều khi còn so sánh nền giáo dục nước nhà với các nước khác. Nhưng tôi phải nói thật, có lẽ nếu cho tôi chọn, tôi vẫn thích học ở Việt Nam hơn. Vì sao ư? Cái nền giáo dục ở Việt Nam tuy còn nhiều điều nhức nhối, chưa hợp lý. Nhưng cái môi trường học tập mà trường lớp ở Việt Nam tạo ra lại là rất tốt. Thay vỉ phải chạy loăng quăng trong trường như mèo hoang chó dại để tìm lớp học như bên Mỹ, ở Việt Nam, học sinh ngồi tại lớp và đợi giáo viên đến. Chính vì thế, mà dần dần học sinh trở nên thân nhau, và có một mối quan hệ vững chắc như một gia đình. Nói cái này để bạn đọc biết thêm, tôi phải hết lớp mười một mới đi du học bên này. Đã ở Arizona ba năm, nhưng tôi rất là thất vọng về một số học sinh Việt Nam mà đi du học như tôi. Có thể ở trường những bạn đã và đang đi du học khác với trường tôi. Nhưng mà làm sao mà chịu nổi, khi chúng nó là người Việt Nam mà không thèm nói tiếng Việt với mình. Ừ, thì luyện tiếng Anh, nhưng chả lẽ cái lúc *** nào cũng nói tiếng Anh à? Đã thế, chúng nó cũng là “da vàng máu đỏ, con rồng cháu tiên” như mình, tại sao lại phải tỏ ra vẻ ta đây là “White Person” cơ chứ? Tôi rất rất là thất vọng khi nhìn thấy những con người Việt Nam như thế. Đành rằng những người Việt đẻ ở đây thì không nói làm gì, ít ra họ còn cố học nói tiếng Việt. Còn cái loại kia á, mấy lần tôi gặp, tôi thề là nếu không kiềm chế bản thân, tôi chỉ muốn hét vào cái mặt chúng nó là “F*** YOU! VIET NAM DOESN’T NEED YOU! GO AND F*** YOUR SELF”. Dù sao thì cũng rất xin lỗi bạn đọc vì đã có những lời lẽ không hay kia, nhưng tôi cứ mỗi lần nhắc đến là bức xúc. Mà Tôi xin nói trước, tôi không có ý ám chỉ hay gán ghép bất kì một ai, vì tôi cũng có rất nhiều người bạn du học sinh học cùng và họ tạo cho tôi một cảm giác như ở Việt Nam, số còn lại thì là “REAL ASS***E”. 

Quay lại chuyện của thằng Khải, cuối cùng trường nó cũng tổ chức cho khối cấp ba đi thăm quan trước khi ra trường và thi lên đại học. Địa điểm là rừng Cúc Phương. Thằng Khải có nghe nhiều người nói rằng, rừng rú là nơi mà vong hồn hay lang thang, vảng vất, và ẩn náu nhất. Cho nên nhân dịp này, nó quyết định sẽ lại một lần nữa muốn thử nhìn thấy ma. Nó lên kế hoạch là vì đi cắm trại sẽ ngủ lại một đêm trên đó, nó sẽ kiếm một con mèo đen trên đó, và rủ mấy đữa khác chơi trốn tìm cùng nó. Theo nhưu người lớn nói, thì nếu chơi trốn tìm trong rừng buổi đêm mà có mang theo một con mèo đen, thì oan hồn sẽ tự động cùng nhập cuộc chơi. Đến nơi, hầu hết các học sinh đều nghỉ ngơi, hoặc ngồi tán gẫu sau một chuyến ngồi xe dài ê mông. Riêng có mỗi thằng Khải, nó tự tách ra và đi một vòng trong rừng để thám hiểm địa hình trước. Thấy rằng rừng Cúc Phương, nơi trường cho cắm trại, thì cũng không rậm rạp cây lắm, chỉ nếu như đi sâu vào nữa thì cây cối mới um tùm mà thôi. Sau khi đã nắm rõ địa hình, nó mới bắt đầu đi loanh quanh qua các hàng quán xung quanh để tìm coi coi có con mèo đen nào không. May thay cho nó, tại một quán ăn chủ nhà có xích một con mèo đen ngay trước cửa. Thằng Khải chạy lại, nựng con mèo và hỏi chủ quán có thể cho nó mượn vài giờ tối nay được không, nó sẽ giả hai trăm nghìn. Chủ quán nghĩ rằng mèo thì tự biết đường về nên cũng chả sợ lạc, hơn nữa lại được tới những hai trăm nghìn liền đồng ý. Thằng Khải đưa trước một trăm và nói rằng khi tới mượn mèo sẽ đưa nốt số còn lại. Tối hôm đó, trong lúc trường đang tổ chức một buổi lửa trại và những tiết mục văn nghệ, Khải đã tìm thêm được mười hai đứa bạn nữa cùng chơi với mình. Thằng Khải phổ biến luật chơi cho cả bọn và bắt đầu dắt cả bọn đi tới quán ăn và mượn con mèo đen mà hồi sáng nó đã thuê. Đến nơi, thằng Khải đưa nốt số tiền còn lại mà nó đã hứa, và ôm con mèo đen đi. Như thường lệ, con mèo đen này rất ngoan, không hiểu vì lí do làm sao, mà khi thằng khải ẵm nó trong tay, con mèo đen nằm im nogan ngoãn không nhúc nhích hoặc cựa quậy. Đến cái mảnh rừng thư thớt. Thằng Khải bảo đám bạn là không được đi quá sâu vào trong rừng, bây giờ nó sẽ quay mặt lại, và đợi đúng trong vòng mười phút. Đám bạn còn lại phải tìm chỗ trốn. Sau mười phút, nó sẽ đi tìm đủ mười hai người còn lại. Nghe xong, cả bọn cười rúc rich. Có đứa hỏi:

- Mảnh rừng lớn thế này, mà trời lại tối, làm sao mà ông tìm đủ hết được, bộ muốn bọn tôi chết héo đợi ông à?

Thằng Khải cười, nó trả lời:

- Các bạn cứ yên tâm đi, sẽ có người chỉ đường cho mình. Và để đề phòng, ai cũng có điện thoại di động, nếu sau bốn mươi lắm phút mà không thấy tôi, các bạn có thể tự động trở về vị trí này mà không cần đợi tôi đến tìm.

Một đứa nữa hỏi:

- Ông có chắc là tìm nhanh như vậy không, hơn thế nữa, tại sao lại phải ôm theo con mèo đen này làm gì?

Thằng Khải nâng niu con mèo, nó vuôt ve, rồi nói zọng rờn rợn:

- Rừng rú thường là nơi nhiều vong hồn nhất, Tôi phải ôm con mèo đen này, để nó chỉ đường cho tôi tìm các bạn, tránh cho các bạn khỏi bị vong hồn che khuất.

Nghe đến đây, cả lũ rợn tóc gáy, chúng nó có vẻ hơi nản khi nghe thấy vụ thằng Khải bảo là bị vong hồn che khuất. Nhưng rồi thằng Khải động viên mãi, đồng thời nó bảo là chơi trò này tuyệt đối an toàn, nên cả bọn đành nghe theo.

Thằng khải ôm con mèo đen quay lưng lại, cả bọn còn lại nháo nhác chạy đi tìm chỗ chốn. Vừa hết mười phút, thằng khải quay mặt lại, và bắt đầu tiến về phía khu rừng, tìm đủ mười hai đứa. Thằng Khải cứ đi, đi mãi, đến một đoạn, con mèo đen bắt đầu phát ra những tiếng ghừ ghê rợn. Thằng Khải đứng lại nhìn quanh, nó bắt đầu cảm nhận được con mèo càng ngày càng kêu những tiếng ghê rơn, nó có thể cảm nhận được lông của con mèo đang càng ngày càng dựng đứng lên. Rồi bỗng, thằng Khải nhìn thấy một bóng người đứng lấp ló phía sau cái cây xa xa, có vẻ như không thấy nó. Thằng Khải khẽ vuốt ve con mèo cho nó yên lại, rồi nó tiến tới vỗ vai người kia một cái. Anh bạn này té nhào, thằng Khải cười khoái trí, rồi nó dắt anh bạn này đi tìm những người kia còn lại. Đi được một đoạn nữa, nó thấy có một anh đang ngồi trên gốc cây, ngó ngang ngó dọc. Lần này con mèo lại càng kêu lên những tiếng còn rùng rợn hơn. Rồi Khải tiến lại, đứng dưới gốc cây, nó hét lên, làm cho cái anh trên cây tí thì ngã cắm đầu xuống. Thằng Khải cười như điên như dại. Nó Nghĩ mình thật là giỏi, rồi cứ như thế nó lần lượt đi tìm những người còn lại. Tuy có một điều mà thằng Khải không hiều là tại sao càng ngày nó càng cảm thấy lạnh, một cái lạnh rợn tóc gáy. Sau một hồi, nó đếm lại thì tổng cộng đã tìm được mười một người. Chỉ còn lại một cô gái duy nhất. Đi kiếm thêm một hồi lâu nữa, thằng Khải sợ là thời gian cho phép đã hết, và cô gái đó đã quay về trại. Nó đang tính bảo những người kia về, thì con mèo đen lúc này bỗng kêu gào thảm thiết, rồi lông trên người nó dựng đứng lên. Thằng Khải có cố giữ thế nào cũng không được, thằng Khải bị mèo cào mấy phát đau điếng, rồi con mèo nhảy khỏi lòng thằng Khải ù té chạy vô rừng. Thằng Khải vội chạy đuổi theo con mèo một đoạn, nhưng rồi cũng lác mất con mèo. Lúc này khi đứng lại nghỉ một chút, thằng Khải bỗng dựng tóc gáy, nó quay lại thì thấy chả có ai bên mình cả. Nó đi kiếm, gọi mãi cũng chả có ai lên tiếng. Chợt, nó rút điện thoại di động ra, nhưng không có một vạch sóng nào. Thằng Khải nghi hoặc, nó nghĩ lúc nãy ở chỗ gần trại, điện thoại nó còn đầy sóng, vậy mà mới vô sâu vào rừng một tí mà đã không còn vạch nào. Thằng Khải liện tiếp túc đi, nhằm tìm lối ra và để coi coi máy điện thoại của nó có thêm được gạch sóng nào không.

Còn trong lúc đó, mọi người đã tập chung hết ở trại. đủ mười hai người. Khi gặp mặt nhau, cả hội đều kêu ca vào bảo là đợi mãi mà chẳng thấy thằng Khải đâu, và nghĩ là mình bị thằng Khải cho leo cây. Tuy nhiên, có một hai người nói là đã thấy thằng Khải đến gần chỗ họ, nhưng thằng Khải lại như bị ma nhập vậy. Người đầu tiên nói là thấy thằng Khải đến ngay gần người đó, nhưng chợt nó tiến tới một gốc cây. Rồi động tác như vỗ vai ai đó, rồi nó cười phá lên sau đó đi tiếp. Người khác thì bảo là thằng Khải đến ngay trước mặt, nhưng thằng Khải dường như không hề nhìn thấy mình. Nó tự nhiên đứng lại, rùi hét toáng lên, làm người kia dật mình. Sau đó nó cười phá lên, rồi tự mình nói chuyện một mình và tiếp tục đi sau vào rừng. Nghe xong, mấy đứa còn lại bắt đầu dựng tóc gáy. Nếu đúng như những lời mà mấy đứa kia nói, thì thằng Khải đã bị ma dắt vô rừng. Đợi thêm một lúc sau, không thấy thằng Khải chở về. Chúng nói vội báo cho nhà trường biết, mọi người liện chia nhau ra tìm thằng Khải cả đêm nhưng không thấy gì. Sáng hôm sau, đến lượt cảnh sát và đội tìm kiếm vào cuộc, nhưng rốt cuộc cũng không thấy gì. Phải đến một lúc lâu sau, người ta tìm thấy điện thoại của thằng Khải nằm dưới một gốc cây cách chỗ chắm trại tầm hơn một tiếng đi bộ, và bên cạnh là một con mèo đen đã chết.

Bố mẹ thằng Khải vô cùng sốc khi nghe tin con trai mình đã mất tích. Bố mẹ nó dốc hết tiền của và treo giải thưởng cho ai tìm được thằng Khải, nhưng rồi tất cả đều vô vọng vì không ai tìm được nó cả. Phải hơn ba tháng sau. Bố thằng Khải nhận được một cú điện thoại báo rằng đã tìm thấy thằng Khải. Bố nó liền gọi ngay chó mẹ nó, cả hai người tức tốc thuể xe chạy thẳng ngay đến rừng Cúc Phương. Đến nơi, thì thấy công an cũng đã ở đó. Bố mẹ thằng Khải được một anh công an dắt đi vào nơi tìm thấy thằng Khải. Đến nơi, mẹ thằng khải ngất lịm đi, còn bố thằng Khải vội đỡ lấy mẹ nó, nhưng cũng sốc không kém. Họ thấy thằng Khải đang nằm dưới một cái hố sâu tầm có hơn một mét. Cả người nó chân tay zuỗi thẳng ra, riêng có mỗi đôi mắt là vẫn mở chừng chừng, và cái mồm há ra. Sau khi cho bố mẹ thằng Khải coi xong, công an bắt đầu nhấc xác nó ra và lập biên bản. Tuy nhiên, cái câu hỏi lớn ở đây là làm sao thằng Khải lại bị trôn như thế này? Hơn thế nữa là chỗ mà thằng Khải bị trôn cách chỗ cắm trại có gần nửa tiếng đi bộ, vậy tại sao hôm đi tìm kiếm, công an có dắt cả chó theo mà không đánh hơi ra được? Sau khi nhấc xác thằng Khải cho lên xe, bố mẹ thằng Khải ôm nhau khóc sướt mướt, những người trong quán ăn mà hôm nọ cho thằng Khải mượn mèo đang bàn tán về cái chết của nó. Có bà chủ đang ngồi tán gẫu, chợt bà ta hốt hoảng, quay ra bảo nhân viên:

- Chúng mày, tao vừa tính nhẩm, từ ngày thằng đó mất tích cho đến lúc tìm thấy xác nó vừa đúng một trăm ngày, chắc chắn là bị ma nó dắt về bên kia rồi.

*Chú Thích: Thứ nhất, nếu không làm gì sai trái, thì sẽ không bao giờ bị ma trêu quỷ ghẹo cả. Thứ hai, ma quỷ không bao giờ hại người, chỉ tạo ra ảo giác nhằm những người đó tự kết thúc đời mình. Thứ ba, nhân vật Khải trong truyện tự hại bản thân, nên không thể trách ai được. Vì lý do muốn được nhìn thấy ma mà đã bất chấp mấy lần vượt qua cái làn ranh giới mong manh, để đi sâu vào cõi âm, nhưng rồi khi đã thỏa mãn được cái ước vọng đó, thì lý trí lại không còn đủ mạnh để mà vượt qua, thoát khỏi ám trướng. 

Cách 6: Áp Vong. 

“Áp Vong” hay con có thể hiểu lên đồng hoặc nhập hồn. Tất cả tuy khác nhau ở cái tên, nhưng cùng chung một ý nghĩa đó là gọi hồn người đã chết lên, nhập vào thân xác của người đang sống. Cái khái niệm này, nếu nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau, ta sẽ có những lời giải thích rất thú vị. Nếu bạn theo đạo thiên chúa, thật đơn giản, người đó đang bị quỷ ám, quỷ Satan đang cố cướp vong hồn của người đó. Cách tốt nhất là mang người nay tới gặp cha sứ, để ngài vẩy nước thánh và đọc kinh xua đuổi quỷ Satan đi. Nếu bạn vô thần, câu trả lời ngắn gọn là cái người đó bị tâm thần, đánh cho nó tỉnh là xong hoặc không thì nhốt nó lại để đỡ làm ảnh hưởng đến người khác. Nếu bạn theo đạo phật, thì người đó đang bị oan hồn nhập xác với lý do là vì còn lưu luyến cõi trần, cách cứu chữa là tát vào mặt hoặc bôi nước hoa để hồn lìa xác. Còn theo như tôi, tuy là theo đạo phật, nhưng cũng không hẳn là tin hết, mà chỉ tin những điều căn bản như là: quả báo, ác giả ác báo thiện lai thiện báo, luân hồi, địa ngục, cầu Nại Hà, và vv. Nói về cái vụ áp vong, đơn giản là khi chết đi, vong hồn con người ta nếu còn oan ức, thì sẽ mãi mãi không bao giờ bước sang cõi khác, mà cứ luẩn quẩn tại trần gian. Cái việc áp vong là mời hồn người chết nhập vô xác sống, để giao tiếp và bày tỏ nỗi niềm. Nhưng xin cảnh báo trước, cái trò này cần ít nhất phải hơn hai người, là thứ nhất. Thứ hai, áp vong không được làm quá lâu, nếu để quá lâu zễ zẫn tới tâm thần hoàn toàn, có khi là bại liệt toàn thân, và thậm chí cả chết bất đắc kì tử. Tôi cá là đọc xong cái hậu quả trên, nhiều bạn cũng chả tin mấy đâu, nhưng xin hiểu cho rằng, con rất nhiều điều mà khoa học chưa thể hiểu hết về cơ thể con người. Nếu nói con người cũng y như máy tính, được bộ não lập trình và cứ thế mà hoạt động. Vậy tao sao cá tính, cách ứng sử, và nhiều cái khác nữa của từng người lại rất khác và riêng biệt? Nói tóm lại là, cũng có thể tôi đã sai hoàn toàn, nhưng nói chung, đây chỉ là một câu truyện, và tôi cũng phần nào đó, áp dụng những gì mà tôi hiểu, hay ý kiến của bản thân mà viết ra thôi.

Nói về chuyện của thằng Khải, nguyên nhân dẫn đến cái chết của nó giờ vẫn là một câu đố. Đáng lẽ ra việc này phải được đăng báo, nhưng bố thằng Khải là người có “máu mặt” trong trong bộ máy chính phủ. Cũng vì cái lý do đó, mà bố nó bị cấp trên gọi lên, và ra lệnh cấm làm ba cái chuyện gọi hồn hay mê tín dị đoan. Vì nếu bố thằng Khải làm, thì sẽ bôi tiếng xấu cho cả bộ máy chính phủ là mê tín dị đoan. Bố thằng Khải rất là thất vọng khi nghe điều đó, nhưng biết làm sao được bây giờ. Tuy nhiên, cái khát vọng muốn biết lý do vì sao con mình chết đã khiến bố thằng Khải làm trái lại lời cấp trên. Sau khi bàn bạc xong với vợ, bố thằng Khải ra lệnh cho đàn em đi tìm một ông thầy gọi hồn có tiếng và mong ông bầy cách gọi hồn cho. Thằng đàn em quay về, và báo lại rằng, ông thầy bảo thứ nhất cần sửa soạn bàn thờ, sau đó chuẩn bị đồ ăn, hoa quả, hương, nến, tiền vàng. Cái quan trọng là phải bốc được một nắm đất nơi thằng Khải chết, sau đó lấy một đồ dùng mà nó thường mang theo người. Kiếm trong đám bạn mà thằng Khải hay chơi, chọn ra đủ bẩy đứa. Trong đó hãy tìm ra đứa nào đẻ sát ngày thằng Khải sinh ra rồi xếp ba đứa đó ngồi trước ngay bàn thờ, sau đó là bốn đứa, cuối cùng là bố mẹ và người thân ngồi sau cùng. Tất cả hướng mặt về bàn thờ. Trên tay ba đứa đầu, mỗi đứa giữ hai bát cơm cúng, có thắp một nén nhang, bốn đứa ngồi sau, trên tay mỗi đứa cầm một nắm muối và một nắm gạo. Cuối cùng là người nhà thằng Khải, mỗi người câm một sập tiền vàng mã. Hễ người nhà cảm thấy mệt mỏi thì lập tức ném một tờ tiền âm phủ về phía đằng trước. Về phần đồ vật thân thích của thằng Khải, tốt nhất nên chọn một bộ quần áo, treo lên cạnh bàn thờ, nắm đất lấy tại chỗ thằng Khải chết để phía dưới. Sở dĩ phải làm nhiều thủ tục như vậy là vì thầy cúng không có mặt ở đó để gọi hồn về, nên phải làm lễ dụ cho vong tự về. Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ, ai vào chỗ người nấy, tất cả phải thả lỏng cơ thể, đầu óc thanh thản, không nghĩ ngợi gì nhiều, mắt nhắm tuyệt đối. Riêng nguời nhà thằng Khải miệng phải liên tục lập đi lập lại “Khải ơi, mọi người nhớ con lắm, mau về đây đi” cứ làm vậy cho đến khi nào vong về tự khắc sẽ biết. Ngoài ra, phải nhớ rằng có hỏi cái gì cũng không được quá mười lăm phút, hết mười lăm phút, cho dù vong có nhập vào ai trong đám bạn thằng Khải đi chăng nữa, phải đè nó ra, cầm muối và gạo mà ném lên người. Nếu làm như vậy mà vong chưa chịu xuất ra khỏi cơ thể thì phải lấy bộ quần áo của thằng Khải xuống đem đi đốt cùng với tất cả chỗ vàng mã. Còn cái nắm đất đặt ở dưới, chỉ việc hất ra khỏi nhà là xong. Ông thầy con dặn rất kĩ về cái việc sau mười lăm phút phải làm gì để xuất vong, ông còn dọa là nếu làm không đúng thì vong thằng Khải sẽ mãi mãi bị nhập vào người của bạn nó, khiến cho bạn nó điên zại, có khi là chết bất đắc kì tử nữa. 

Mọi thứ đã chuẩn bị xong, ngoại trừ việc tìm ra được đủ bẩy đứa bạn mà thằng Khải hay chơi thôi. Bố thằng Khải phải sai đàn em dò la mãi, mới kiếm đủ bẩy đứa. Bố thằng khải gọi cả bẩy đứa ra một quán cà phê bàn chuyện. Lúc đầu, chúng nó nghe đến vụ tìm người để cho vong thằng Khải nhập xác, chả đứa nào chịu cả. Nhưng bố thằng Khải van xin, công thêm vào đó ông ta hứa bảo toàn tính mạng. Thấy đám bạn thằng Khải chưa có về thuận ý lắm, bố thằng khải rút trong túi ra một cục tiện. Ông nói rằng nếu chúng nó đồng ý làm, mỗi đứa ông giả năm triệu. Nghe thấy vậy, cả bọn tuy còn có hơi sợ sợ nhưng rồi cũng nhận lời. Tất cả mọi thứ đã chuẩn bị xong. Đúng tối hôm đó, khi mọi thứ đã sắp xếp xong, ai vào vị trí của người đó. Tất cả bắt đầu thả lỏng cơ thể, mắt nhắm và thư giãn hoàn toàn. Riêng chỉ có người nhà thằng Khải ngồi sau cùng bắt đầu đọc lời gọi hồn về “Khải ơi, mọi người nhớ con lắm, mau về đây đi”. Cứ như vậy lập đi lập lại liên tục. Được một lúc, bỗng mẹ thằng Khải cảm thấy cả người nặng chĩu, mệt mỏi vô cùng, mẹ nó liền ném một tờ tiền về phía trước thì quả nhiên hết hẳn. Cứ như vậy, tiếng gọi vang vọng trong căn buồng. Chợt, cánh cửa sổ bật mở, khiến mọi người giật mình, một luồng gió lạnh thổi vào khiến cả hội bạn thằng Khải run lẩy bẩy. Đột nhiên, một trong ba đứa ngồi hàng đầu, người nó giẫy lên đành đạch. Làm rơi cả hai bát cơm xuống đất vỗ tan tành. Mọi người mở mắt nhìn về phía đó. Thấy con nhỏ người zẫy đành đạch co rúm lại, rồi bỗng nhiên cổ nó vặn qua hai bên phát ra những miếng răng rắc. Rỗi chợt con bé đó ngồi dậy, xếp chân lại vòng tròn, lưng đõ bắt đầu gập xuống về phía bàn thờ, đầu cúi xuống, hai tay thì thi nhau bốc cơm trên đất ăn. Cả hội trong đám ngồi gần nhìn thấy cảnh đó thì xanh mặt, lùi hết về phía tường, tránh xa con nhỏ đó. Người nhà thằng Khải thì tròn mắt nhìn vào con nhỏ đó, mọi người không thấy rõ mặt vì nó đang quay mặt về phía bàn thờ, chỉ thấy dáng nó ngồi thì đúng y như người bị ma nhập vậy. Người nó cứ rung rinh, tay bốc cơm, cả người cứ đung đưa từ phía trước ra phía sau, nhìn rất đáng sợ. Bố thằng Khải thấy có vể như hồn thằng Khải đã nhập vào người bạn nó, bố nó hỏi:

- Khải, có phải con đó không…

Một tiếng nói vọng ra từ phía cô gái, cái zọng rè rè, rất khó nghe:

- Con…. Đã…. Về ….. đây.

Mẹ thằng Khải bỗng khóc toáng lên, người nhà nó phải xúm lại zỗ zành. Bọn bạn thằng Khải thì mặt cắt không còn hột máu, chúng nó cứ ngồi đờ đẫn ra mà nhìn vô con nhỏ đó. Mẹ thằng Khải nói trong nước mắt:

- Con ơi, sao con chết thảm thế hả con?

Tiếng nói rờn rợn lại phát ra:

- Con … bị … bọn …. Nó …. Zắt… vô… rừng… chúng nó… lừa con … 

Bố thằng Khải nói lớn:

- Ai? Bọn nào lừa con?

Tiếng nói lại phát ra:

- Chúng nó… trả thù con … vì …. Hôm … bữa… con … phá ….. bữa …. Ăn …. Của chúng nó …. Nên giờ … chúng nó …. Dắt con …. Về …

Nghe xong, bố thằng Khải không khỏi ngỡ ngàng, bố nó gặng hỏi:

- Sao lại phá bữa ăn? Bố không hiểu?

Vong của thằng Khải đáp lời:

- Con … gọi … chúng nó … lên ăn … nhưng rồi … con phá … chúng nó … chúng nó… thù con … nhân … cái hôm đó….. chúng nó … dắt con về…

Bố thằng Khải tuy không hiểu lắm, nước mắt đã tuôn trào lúc nào không biết. Mẹ thằng Khải lại tiếp lời:

- Con ơi, bố mẹ xin lỗi, vì bố mẹ mà con chết oan ức như thế này…. Ôi con ơi ….

Nói đến đây, mẹ thằng khải lại lăn ra khóc nức nở, bố nó phải zỗ zành mãi. Bỗng thằng Khải nói:

- Bố …. Mẹ… không… có… lỗi … gì cả… tất …. Cả… là… con… nhưng … dù sao… con … cũng đã chết rồi …. Con …. Chỉ …. Tiếc là … chưa … phụ zưỡng được bố mẹ …

Sau đó, cả nhà thằng Khải súm vô hỏi thăm tình hình thằng Khải ở cõi âm. Đang nói, chợt con nhỏ bị thằng Khải nhập khóc rũ rượi, cái tiếng khóc đó rất là ai oán, mà không kém phần rùng rợn. Mọi người còn đang mủi lòng, chợt con nhỏ đó ngồi thẳng zậy, ngửa ra đằng sau, toàn thân co giật bất ngờ. Miệng nó sùi bọt mép đến ghê người, toàn thân co giật, mắt trợn trắng. Bố thằng Khải chợt nhớ tới lời thầy dặn là không được để quá mười lăm phút, liên hô hào đám bạn còn lại ném ngay gạo và muối vào người con này. Gạo và muối vừa ném xong lập tức người con nhỏ giẫy mạnh hơn, và bắt đầu rên rỉ như người động kinh. Thấy mọi việc có vẻ không lành, bố thằng Khải hô hào mọi người nhẩy lên zữ chân tay con bé đó lại. Đồng thời bảo mẹ thằng Khải và một số người đem quần áo và vàng mã ra đốt, tiện thể vứt luôn cái đống đất kia đi. Điều kì lạ là mấy người vào giữ một con nhỏ, vậy mà không tài nào giữ chặt được nó. Cả người nó cứ quằn quải như thể nó có một sức mạnh nào đó. Tưởng rằng con nhỏ này không qua khỏi, ai ngờ lúc quần áo và vàng mã cháy hết. Con nhỏ mới dần dần hết co giật, nó ngừng sủi bọt mép và bắt đầu tỉnh lại. Mọi người quay quần lấy nó hỏi rằng nó bị làm sao. Con nhỏ chỉ nhớ mang mang là đang ngồi thiền chợt có luồng khí lạnh lắm ùa lấy người nó. Rồi zường như có một cái gì đó nặng lắm đề lên toàn cơ thể. Nó có nghe thấy tiếng ai gọi tên nó sau lưng nhưng mà nghe xa vời lắm, một lúc sau thì nó hoàn toàn mất tự chủ và không nhớ gì hết, lúc nó gần tỉnh dậy thì thấy toàn thân đau đớn vô cùng. 

Cuối cùng mọi việc đã sáng tỏ, Thằng Khải do quấy rối vong hồn nhiều lần, cho nên mới zẫn đến kết cục như ngày hôm nay. Bố mẹ thằng Khải tuy vẫn còn buồn và thương nó, nhưng ít ra cũng đã nói được mấy lời cuối cùng với thằng Khải. Có thể coi như là linh hồn nó đã được an nghỉ mà bước qua một cai cõi khác tốt đẹp hơn. 

Cách 7: Đòi Tiền.

Ý nghĩa của việc hóa vàng là gì? Người xưa thường nói rằng “trần sao âm vậy” vốn để chỉ rằng con người lúc còn sống sinh hoạt ra sao, thì người chết cũng sinh hoạt y như vậy. Tuy nhiên cái khái niệm này không có mấy người tin hoàn toàn. Cái việc hóa vàng ở đây, là mua những thứ đồ dung hàng ngày được làm bằng giấy như nhà cửa, quần áo, tiền bạc và nhiều thứ khác. Sau đó đem đốt để gửi qua cái thế giới bên kia để những người đã mất còn có tiền mà tiêu, có đồ mà dùng. 

Thằng Tuấn là một đứa rất nghịch ngợm, và nó gần như là chả có sợ cái gì trên đời này cả. Cũng chính vì cái lý do đó mà đã nhiều lần, thằng Tuấn nghịch những trò tai quái khiến cho bố mẹ nó và nhiều người xung quanh phải đau đầu. Đến một ngày, nó nghe có đứa bạn thách thức nó lấy một tờ tiền vàng chuẩn bị hóa bỏ ra riêng và cầm để vào túi trong vòng một tuần, mà cái tờ tiền đó phải là tờ tiền dùng để hóa và cúng vong hồn chứ không phải người nhà. Thằng Tuấn nghe thấy vậy liền đồng ý lời cá cược ngay. Nó rình mãi đợi đến hôm cúng xá tội vong nhân, nó nói với mẹ nó là nó muốn phụ hóa vàng. Mẹ nó đồng ý và giao cho nó, trong lúc hóa vàng, thằng Tuấn rút ra một tờ đô la âm phủ năm nghìn đô, nó gập lại bỏ vô túi mình, xong quay ra nhìn vào chậu hóa vàng, hí hửng nói “Tiền này sẽ là của tao, lũ vong hồn chúng mày có đủ rồi”. Thật đáng thương cho thằng bé, nó không biết rằng nó đã làm một cái việc ngu xuẩn. Chắc chắn thắng lợi, đợi khi vàng mã cháy hết, nó mới vô trong nhà. Sáng hôm sau nó đi học, chạy lại chỗ thằng kia zơ tờ tiền lên khoe:

- Mày thua chưa, có nhìn thấy cái gì đây không?

Thằng bạn nó cười:

- Mày cứ đợi đến cuối tuần đi.

Thằng Tuấn quay ra cất tờ tiền đó vào trong túi và nói:

- Được, mày nhớ giữ lời đấy, cứ mỗi ngày đến lớp tao sẽ cho mày coi tờ tiền này để chứng minh là tao lúc nào cũng mang nó bên người.

Cái đêm đầu tiên, thằng Tuấn đang thức khuya học bài. Bây giờ đang gần tới thi học kì một rồi, nên đứa nào chẳng lo học. Thằng Tuấn có thể nói là nó học được và cũng không lười lắm, chỉ có điều là nó quá nghịch thôi. Đang ngồi ôn bài, chợt thằng Tuấn có cái cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lức. Nó cảm giác như có ai đó đang đứng sau lưng nhìn nó rất chăm chú. Thằng Tuấn quay đầu lại, không có ai. Nó lại tiếp tục làm bài, nhưng cái cảm giác đó vẫn luôn hiện diện. Thấy có vẻ khó học vô, nó liền rời khỏi bàn, nhảy lên giường, cầm cái psp lên chơi một lúc cho khuây khỏa đầu óc rồi sẽ học tiếp. Nó tuy là chơi rất say xưa, tuy nhiên cái cảm giác mà có một ai đó nhìn mình vẫn không tan biến. Chợt điện cúp, bốn bề tối om, giờ đây chỉ còn những tia sáng yếu ớt phát ra từ cái máy psp của nó. Thằng Tuấn mò mẫm tìm đường ra cửa. Bây giờ đây, đứng trong bóng tối zò zẫm, cái cảm giác sợ hãi đã được nâng lên một bậc. Không phải cái cảm giác mà có ai nhìn nó nữa, mà ngay tại chính trong căn buồn này đây, nó dường như cảm nhận được sự hiện diện của một người nữa. Nó run rẩy, cầm cái psp soi một lượt khắp phòng. Cái ánh sáng yếu ớt đó quét cả cả căn phòng, khi quét ngang qua cửa. Thằng Tuấn kinh hãi, nó hét rú lên khi nhìn thấy ở cửa có bóng một người đang đứng đó. Cái psp rơi đánh cộp xuống đất. Đúng lúc đó, thì điện lại có, cả căn phòng giờ đây sáng như ban ngày. Thằng Tuấn nhìn lại về phía cánh cửa, chẳng có gì ngoại cái bộ quần áo mà nó treo lên lúc về. Thằng Tuấn đang cố trấn tĩnh lại. Chợt bố mẹ nó chạy ùa qua, bố thằng Tuấn quát nó:

- Cái gì thế? Mày có biết mấy giờ đêm rồi không mà còn la lối om sòm là sao?

Thằng Tuấn cố giấu đi sự sợ hãi của nó:

- Không có gì đâu ạ, con nhìn nhầm.

Mẹ nó vẻ mặt uể oải:

- Liệu mà ngủ đi con ơi, muộn rồi đó, mai còn đi học nữa.

Nói xong, cả bố và mẹ thằng Tuấn lại đi về phòng ngủ tiếp. Còn thằng Tuấn, nó ngồi trấn tĩnh lại tinh thần một lúc, rồi tắt đèn đi ngủ. Nhưng làm sao mà nó ngủ zễ zàng được, khi àm cái hình ảnh bóng người đứng ở của cứ ám ảnh nó.

Sáng hôm sau, thằng Tuấn lại lò rò lên lớp, đi qua chỗ thằng bạn, nó lôi ra tờ tiền âm phủ như kiểu một thủ tục trước khi vào học. Tan học về nhà, nó liền gỡ cái móc treo quần áo xuống và để ra chỗ khác. Ăn cơm tối xong, bố mẹ nó đi có việc, nên nó ngồi một mình dưới tầng một coi ti vi. Trời đã vào đông nên rất nhanh tối, ăn quá nó, nên nó nằm phưỡn ra cái bộ ghế sofa mà coi ti vi. Đang nằm coi, chợt nó nghe có tiếng gõ cửa, thằng Tuấn đứng lên và ra mở cửa. Không có một bóng ai. Nó đóng cửa đi vô và lại nhảy lên cái ghế sofa nằm dài ra. Tiếng gõ cửa lại vọng lại lần nữa, nó điên tiết chạy ra, mở tung cửa, vẫn không có ai. Vì cổng chính nhà nó thông ngay với mặt ngõ lớn, nên thằng Tuấn nghĩ là có đứa nào đang cố tình trêu tức nó. Thằng Tuấn đóng cửa lại, nhưng lần này nó không đi lại vô gế sofa, mà đứng ngay góc tường. Nó đợi một lúc lâu, quả nhiên tiếng gõ cửa lại vang lên. Thằng Tuấn đứng đó nhòm qua khe cửa sổ, không có một ai cả, vậy mà tiếng gõ cửa vẫn vang lên. Thằng Tuấn như không tin vào mắt mình, lần này nó từ từ mở cửa. Vẫn như mấy lần trước, nó vừa đặt tay lên nắm đấm, thì tiếng kêu ngưng, nó mở từ từ, cánh cửa vừa mở, một luông khí lạnh ùa vào người nó. Thằng Tuấn chợt rùng mình, nó bắt đậu rờn rợn, đáng tính đóng cửa lại, bỗng có một lực đẩy tác động lên cánh cửa. Thằng Tuấn bắt đầu dựng đứng da gà, nó cố đẩy để đóng cánh cửa đó lại. Nhưng zường như nó quá yếu. Cánh cửa bật mở, thằng Tuấn ngã lăn quay xuống đất. Bố nó bước vào quát:

- Tuấn, con bị làm sao đây?

Lúc này nó mới thở phào nhẹ nhõm, cuối cùng bố mẹ nó cũng đã về. Bố nó mở nốt cánh cứa bên kia, rồi dắt xe vô nhà. Mẹ nó bước vô, thấy nó đang nằm lăn quay dưới đất, mẹ nó không nhịn được cười, rồi xoa đầu nó. Sau khi đóng cửa xong, bố mẹ nó đi lên gác. Cảm thấy không thể nào ở dưới tầng một một mình được nữa. Thằng Tuấn liền tắt ti vi, màn hình vừa tắt. Thằng Tuấn giật bắn mình, khi thấy cái màn hình ti vi phản chiểu hình ảnh một người mặc bộ đồ trắng đứng ngay sát sua lưng nó. Thằng Tuấn quay phắt lại, không có một ai, nó nhìn lại màn hình ti vi, cũng chẳng có gì ngoài hình ảnh của nó phản chiếu lên màn hình ti vi. Thằng tuần run cần cập, nó bật hết đèn ở cầu thang lên và chạy ù lên buồng nó. Đêm nay để đỡ sợ, nó bật hết cả đèn trong phòng lên, nhưng khổ nỗi, sáng quá nó cũng chả ngủ được. Đang trằn trọc mãi, chợt nó cảm thấy khát nước vô cùng. Thằng Tuấn lần mò tìm chai nước trên bàn học, nhưng đen đủi thay cho cái số của nó, chai nước đã hết rồi. Khát không chịu được, nó đành mở cửa, lần mò bật đèn cầu thang lên để xuống nhà tìm nước uống. Nó lần mần ra cầu thang, bật cái công tắc, đen hỏng. Thằng Tuấn điên lắm, nó cố thử bật đi bật lại nhưng không được. Thằng Tuấn bực mình nó lẩm bẩm “Mả mẹ nó, rõ ràng lúc nẫy còn sáng mà” và vô phòng tìm cái đèn pin. Ra đến cầu thang, đang hí hoáy bật đèn pin, thằng Tuấn bỗng để ý phía dưới cầu thang, có bóng một người tóc dài áo trắng đang ngồi đó. Nó rùng mình, da gà bắt đầu nổi lên. Nó bật đèn pin và rọi ngay xuống phía dưới, không có gì. Thằng Tuấn lần này thì nó sợ thật, nó nghĩ rằng những gì mà nó nhìn thấy chắc chắn là ma. Nó nuốt nước bọt, lấy hết can đảm cầm đèn pin đi xuống dưới. Vừa đi chầm chậm, vừa căng hết cả mắt ra để nhìn xung quanh, xuống đên nơi thì không một cái đèn nào hoạt động. Thằng Tuấn ngán ngẩm, nó lấy một li nước và đi lên. Đang đi gần lên đến nơi, chợt nó cảm nhận có một bàn tay lạnh lẽo túm lấy chân nó. Thằng Tuấn giật nảy mình, nó ngã đánh rầm, nước đổ tung tóe. Còn đang rối loạn trong sự sợ hãi. Bố mẹ nó lại mở cửa phòng, đi ra cầu thang và bật đèn lên. Bố nó nhìn thấy nó đang nằm xõng xoài trên cầu thang, liền cằn giọng quát:

- Lại cái gì nữa thế này?

Nó chưa kịp chả lời, thì mẹ nó đã để ý thấy mặt thằng con mình tái mét, vội đỡ nó dậy và hỏi:

- Con ngã có đau không, sao không bật đèn lên mà lại dùng đèn pin.

Thằng Tuấn không trả lời, mặt nó vẫn tái đi, giờ thì nó chắc chắn là nó đang bị ma trêu rồi. Nó đi vô buổng tắm, lấy cái khăn ra lau chỗ nước đổ và đi vô buồng. Cái đêm đó thằng Tuấn gần như thức trắng cả đêm với cái ý nghĩ bị ma trêu trong đầu.

Sáng hôm nay, nó đến lớp với cái bộ dạng uể oải vì thiếu ngủ. Nó lôi tờ đô la âm phủ ra cho thằng bạn coi. Thằng bạn nó để ý thấy thằng Tuấn có vể mệt mỏi lắm, nó hỏi bị làm sao thì thằng Tuấn chỉ lắc đầu và bảo là không có gì. Hôm nay mới là cái ngày thứ ba, nhưng thằng Tuấn đã gần nhi cạn kiệt sức lực. Nó bắt đầu thấy sợ và muốn bỏ ngang cái vụ cá cược này. Hôm nay nó qua nhà bạn chơi cho đỡ sợ, nhưng rồi cũng đến lúc nó phải về. Đi trên con ngõ vắng, nó nghe thấy có tiếng bước chân ai đó đang đi đằng sau, đầu tiên nó không để ý đâu, nhưng mà kì lạ thay ở chỗ, tiếng bước chân cứ đều đều và dường như đang đi theo nó. Thằng Tuấn quay lại, không có một ai. Như hiểu rằng đang bị ma trêu, nó chạy một mạch về nhà, nhưng tiếng bước chân kia cũng gấp gáp đuổi theo nó. Đến cửa, đang hí hoáy mở cửa, nó nhìn lại về phía sau, thì lại là bóng người hôm bữa ngồi ở cầu thang đang đứng xa xa. Thằng Tuấn càng gấp gáp, nó mở cửa rồi chạy ù lên gác quên cả kháo cửa. Chạy ù lên buồng, nó bật hết đèn lên và ngồi ở góc zường thở hổn hển. Thằng Tuấn nghĩ lại những gì mà nó vừa thấy thì lại càng sợ hãi và rờn rợn. Ngồi một lúc, nó thiu thiu chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết. Hôm sau thằng Tuấn bị bố mẹ nó chửi cho một trận vì tội quên không khóa cửa đêm qua. Quá mệt mỏi, nó lấy tờ đô la âm phủ ra, vò nát, rồi vứt đi trên đường đi học. Lên lớp, thằng Tuấn bảo với bạn nó là nó vứt tờ tiền đó đi rồi và chịu thua cuộc. 

Cứ tưởng rằng mọi việc sẽ êm đẹp, đêm hôm đó, thằng Tuấn tắt đèn lên giường ngủ ngon lành. Đang chuẩn bị thiu thiu ngủ, chợt nó cảm giác như có ai lay chân mình, nó hé mắt ra nhìn thì thấy cái bóng trắng hôm nào đang đứng ngay đầu giường. Nó giật nẩy mình, cầm cái gối ném về phía cái bóng trắng thì cái bóng tan biến trong chớp măt. Nó ngồi dậy, bật đèn thì chỉ còn thấy cái gối nằm dưới đát. Thằng Tuấn bắt đầu toát mồ hôi hột, giờ đây, nó hiểu rằng mình đã làm một trò thật ngu ngốc. Ngồi một lúc lâu, thằng Tuấn lại tắt đèn đi ngủ. Trong mơ, nó mơ thấy cái người áo trắng đó cứ đi theo nó mãi lại còn nghe người đó nói nào là “trả nợ cho tao”, “tiền của tao đâu”. Thằng Tuấn cứ chạy, chạy mãi, nhưng rồi người đó đã tóm được chân nó. Thằng Tuấn ngã bổ chửng thì cũng là lúc nó giật mình tỉnh dậy. Nhìn đồng hồ mới có năm giờ ba mươi sáng, nó nhảy khỏi giường, đánh răng rửa mặt rồi chạy ra chợ mua một ít tiền vàng mã. Về nhà, nó đem đống tiền đó đi hóa ngay. Vừa hóa vàng, nó vừa lẩm bẩm “Mong vong hồn thứ lỗi cho tôi, xin đốt ít tiền vàng để chuộc lỗi”. Sau hôm đó, quả nhiên mọi chuyện lại trở về như cũ, không còn có hiện tượng gì kì lạ xảy ra với thằng Tuấn nữa.

*Chú Thích: Theo tôi thấy, cái cách này là cái cách dễ làm nhất. Vì vậy, nếu bạn đọc nào mà gan dạ muốn thử thì xin mơi nhé. Và mong các bạn nhớ cho rằng, càng giữ nhiều tiền thì cái cơ hội mà gặp được ma càng tăng lên. Nhưng xin lưu ý cho, chẳng may các bạn có thử thật và có mệnh hệ gì, xin đừng hiện về bóp cổ tôi là được.

Cách 8: Gác Miếu.

Hình ảnh những ngôi miếu cổ đã phần nào gắn liền với đời sống và tâm tư của 

những ngồi làng tại Việt Nam. Cho dù bạn có đi bất kì ngôi làng nào trên đất nước Việt Nam này đi chăng nữa, thì bạn sẽ luôn luôn nhìn thấy hình ảnh những ngôi miếu cổ kính mà không kém phần uy nghiêm. Miếu thường được xây ngay cạnh những cây đa hoặc cổ thụ. Nếu bạn có thắc mắc tại sao, thì xin thú thực là tôi cũng chịu. Biết rằng miếu là để thờ cúng thần linh, nhưng tại sao, lại có rất nhiều người đồn thổi rằng dù miếu có to bé, rộng hẹp, hay ở bất kì nơi đâu đi chăng nữa thì cũng đều có vong hồn vảng vất. Lý do là vì sao vậy? Vì miếu thường được xây ngay cạnh cây đa, cây cổ thụ? Hay đơn giản chỉ là vì oan hồn không có nơi nương náu, mà tìm đến những ngồi miếu cổ để mà có chỗ nương thân? Nhưng dù có đồn thổi gì đi chăng nữa, vong hồn cũng chỉ ghẹo người trần thế mà thôi, chứ tuyệt đối không có ý gì là hãm hại trừ khi người trần súc phạm đến họ. Xin được nhắc lại một lần nữa là, đa số chuyện ma đều là do người kể bịa đặt hoặc tưởng tượng ra, số ít còn lại là do họ đã thực sự tình cờ bắt gặp, hoặc do cái tính tò mò mà đã đi vào cái cõi mà không thuộc về họ. Nói về tôi, đọc mấy truyện trước, bạn đọc đã quá quen thuộc với tôi. Tôi, trung thực mà nói, chỉ là kẻ đi nghe những người khác, rồi lấy cái ý chính đó mà viết lại và thêm vào một chút gia vị, nhằm giúp cho những câu truyện đó thêm phần găy cấn, ly kì, và hồi hộp mà thôi. Có nói gì đi chăng nữa, truyện vẫn chỉ là truyện, còn cái sự thực thì vẫn luôn chỉ là một cái gì đó mà chưa một ai biết được. Thử hỏi trên đời này, có mấy ai zám đứng lên, tự vỗ ngực mình và nói lớn rằng “Ma quỷ chỉ là điều viển vong” mà trong sâu thẳm tâm trí họ không có một chút gì đó nghi hoặc. Câu chuyện mà tôi sắp kể dưới đây, xin nói trước là không có ý xúc phạm, hay bang bổ bất kì một ngôi miếu nào. Xin mời bạn đọc cùng thưởng thức.

“Ất! Ất! tỉnh dậy đi con”, mẹ thằng Ất cố lay người nó dậy. Phải lay người nó mãi, cộng thêm việc vẩy nước lên mặt nó mãi thằng Ất mới bắt đầu tỉnh. Khi tỉnh dậy, Ất thấy mình đang nằm tại nhà mình, với rất nhiều người nữa. Mẹ Ất thấy nó tỉnh dậy thì ôm con vào lòng, khóc sướt mướt. Bố nó thì thở phảo nhẹ nhõm. Thằng Ất cũng ôm lấy mẹ nó, nó hỏi:

- Sao con lại về đây được thế ạ?

Bố thằng Ất chỉ vào bác Thuận nói:

- Con mau cám ơn bác Thuận đi, chính bác ý đã đưa con về đây đấy.

Bác Thuấn tiếp lời:

- May cho mày, bác có công chuyện, trên đường về đi ngang qua miếu, thấy mày vật vã ghào thét một mình. Nghĩ bị ma nhập, bác mới chạy lại vả vào mặt mày mấy cái, mãi mày không tỉnh. Nên đành bế mày về đến nhà. Mày cũng nên cảm ơn thầy Sử đi. May có thầy giúp, nếu không là mày điên dại cả đời rồi đó.

Nghe đến đây, thầy Sử mới chắp tay và nói “năm mô, a di đà phật”. Thằng Ất như nhớ lại mọi chuyện, nó rùng mình, da gà lại nổi hết lên, cái cảm giác đó lại trở về. Thấy mặt nó bắt đầu tái đi, mẹ thằng Ất hỏi rằng có chuyện gì đã sảy ra, thằng Ất mới bắt đầu kể lại zọng run run. 

Hôm đó, nó với thằng Mạo và con Ngọ đang đi chơi ngang qua miếu. Thằng Mạo kể rằng ngôi miếu làng mình có vong hồn hay lởn vởn và đã nhiều người bị trêu ghẹo rồi. Rồi nó dùng cái zọng rờn rợn để dọa con Ngọ và thằng Ất. Thằng Ất vốn là đứa chai lì, nên nó không zễ zàng gì tin vào ba cái chuyện đó. Thằng Mạo thấy vậy, nó liền nói với thằng Ất rằng nó nghe bố nó nói là đằng sau ngồi miếu có chôn một cái hộp gỗ, nếu nó có thể đào được cái hộp gỗ đó lên và mở ra, cầm về được một viên đá trong đó thì nó sẽ cõng thằng Ất một vòng quanh làng. Nghe thấy lời đề nghị quá zễ. Thằng Ất định chạy ra đào lên luôn, nhưng thằng Mạo zữ nó lại và bảo rằng:

- Lấy cái hộp đó là chuyện nhỏ, nhưng mày phải đi vào đêm mai, lúc mười giờ đêm, và không được cầm đèn, trừ một cây nến.

Thằng Ất chấp nhận lời thách thức mà không hề có chút gì sợ hãi. Tối hôm sau, nó chuẩn bị một cái cuốc nhỏ, một cây nến to và một hộp diêm. Đợi cho bố mẹ nó đã ngủ say, thằng Ất mới mò ra khỏi nhà và đi tới chô ngôi miếu. Vì cái làng này dân cư cũng không đông lắm, nên chỉ có hơn chín giờ tối là người nào về nhà người đó, đóng cửa hết. Con đường làng thì tối om om, và được chiếu sáng nhờ ánh trăng vằng vặc cộng với những ánh đèn hiu hắt phát ra từ nhà dân hai bên đường. Đi trên con đường làng này đây, thằng Ất mới hơi có một cái cảm giác rờn rờn, nó chưa từng một lần đi bộ một mình như thế này cả. Nó không hiểu được tại sao vẫn là con đường làng này, nó đã đi qua đi lại nhiều lần, mà tại sao cái đêm nay, nó lại có một cái cảm giác bất an đến lạ thường. Nhìn thấy ngôi miếu đã ở trước mặt, thằng Ất đứng lại, hít một hơi thật sâu và tiến về phía ngôi miếu. Lúc đang đến gần ngôi miếu, nó ngẩng lên nhìn cái cây đa to đùng ngã ngửa, cành lá um tùm, mà nhìn kĩ có thể liên tưởng tới hàng ngàng cánh tay đen xì đang vươn ra. Nó vừa tiến gần vào ngôi miếu, nhưng mắt vẫn chăm chú nhìn lên cây đa. Chợt nó giật mình đứng chững lại, khi mà trên cây đa giờ đây chợt xuất hiện một người mặc quần áo trắng xóa, tóc dài xuỗi ra đang ngồi đung đưa trên cành. Thằng Ất vội ù té chạy ngay ra ngoài đường lớn, đi được một quãng, nó dừng lại để thờ. Nó quá kinh hoàng vì đây là lần đầu tiên trong đời nó nhìn thấy cái mà mọi người vẫn thường gọi là ma. Nó trấn tĩnh một lúc, định thần lại, nó nghĩ chắc nó đã nhìn lầm. Nó cố lấy hết dũng khí, quay đầu lại ngôi miếu, lần này nó đi thật từ từ tiến vào trong ngôi miếu. Nó liếc nhìn lên cái cây đa đó. Người mặc quần áo trắng vẫn ngồi đó, đung đưa hai cái chân và tựa như đang nhìn nó. Nó run rẩy, từ từ tiến tiếp sâu vào trong miếu, một lúc sau nó quay đầu lại nhìn thì cái người mặc áo trắng đó đã biến mất từ lúc nào khôn biết. 

Thằng Ất đã vào tới gian chính của ngôi miếu, nó bước từ từ tới bàn thớ, vái lạy ba vái và bắt đầu tìm đường để đi vòng ra đằng sau của ngôi miếu. Đang tiến tới cái cửa dẫn ra đằng sau của ngôi miếu. Thằng Ất chợt nó giật bắn mình, nó lắng tai nghe kĩ thì thấy có tiếng ai đó đang khóc vọng lại, cái tiếng khóc ai oán mà não nề. Cái tiếng khóc làm cho thằng Ất phải lạnh xương sống, da gà nó lại bắt đầu dựng lên. Nó đứng im như phỗng cố lắng tai nghe thì đoán rằng cái tiếng đó phát ra từ sân sau của ngôi miếu. Thằng Ất lại càng sợ hãi hơn khi nó nhớ ra rằng cái hộp đó cũng nằm ở phía đằng sau ngôi miếu. Nó từ từ mò mẫm tiến lại phía cái cửa vòng ra sân sau, gần đến nơi, nó nấp vào một góc tường và ngó mặt ra để nhìn, quả nhiên như nó đoán. Ở cái góc sân sau, chính là cái bóng lúc nẫy trên cây, giờ đang ngồi ôm đầu gối, mặt cúi xuống và khóc. Thằng Ất phải nói là nó rất sợ, nhưng mà vì cái tính tò mò, nó cứ đứng đó và zòm cái bóng trắng đó. Được độ mấy giây, tiếng khóc bỗng đổi chỗ cho cái tiếng cười con gái rất thánh thót, nhưng lại rùng rợn đến muôn phần. Còn đang ngơ ngác, bỗng cái bóng người đó ngửng mặt lên nhìn về phía nó. Thằng Ất rú lên, rồi nó quăng cả cái quốc chạy nháo nhào ra ngoài. Vừa tới gian chính, nó chợt nhớ ra rằng mục đích nó đến đây làm gì. Lấy hết can đảm, nó lấy cây nến trong tui ra, rồi thắp lên, thật không ngờ, một cây nến thôi, mà có thể chiếu sáng rọi cả cái gian chính của miếu. Thằng Ất từ từ nhặt cái quốc con lên và tiến ra sân sau, nó ra đến nơi thì thấy cái bóng kia cũng đã biến mất từ lúc nào không hay. Rồi nó tiến lại cái góc tường đó, đặt cây nến to xuống, và bắt đầu đào. Nó đào được mấy nhát đầu, gió lạnh bắt đầu ùa về, làm cho ngọn nến lung lay suýt tắt mấy hồi. Một lúc sao nữa, nó nghe trong gió như có tiếng rên rờn rờn vọng về. Cuối cùng khi cái quốc con đã chạm vào cái hộp gỗ, gió bỗng lặng đi. Thằng Ất lôi cái hộp đó lên, hộp không khóa, nó hé mở thì thấy trong đó là mấy viên đá đủ mầu sắc. Nó đang nhìn chợt cây nến tắt lịm. Bốn bề bỗng tối hẳn đi, rồi thằng Ất chợt cảm nhận được như có cái dây thừng đang siết chặt lấy cổ nó. Thằng Ất mồm ú ớ, nó quằn quại lăn lóc, mà không tài nào kêu gào được. Lăn lộn ra đến tận sân trước của ngôi miếu. Chợt nó có cái cảm giác như sợi dây thừng ở cổ đã được nới lỏng ra, chợt nó lại có cái cảm giác ai đó đang giựt tóc nó, vô cùng đau đớn. Nó ghào thét và giằng co hết sức mãnh liệt. Được một lúc chợt nó lại nhìn thấy cái bóng người mặc áo trắng đó. Thằng Ất chưa kịp phản ứng, cái bóng nhanh như chớp, tiến lại và bóp cổ nó. Cái bản tay lạnh lẽo đó siết thật chặt vào cái cổ nó, khiên cho thằng Ất tưởng mình sắp chết đến nơi và cố gắng vẫy vùng.

Kể đến đây, nó vẫn chưa khỏi rùng mình, rồi nó quay ra hỏi bố nó:

- Con vẫn chưa hiểu, mấy viên đá đó là cái gì thế ạ? Và tại sao lại phải chôn ở đó?

Bố thằng Ất lắc đầu và thở dài. Bố nó mới nói rằng, từ lâu lắm rồi, cái lúc mới lập lên cái làng này. Trưởng làng có mời một thầy tầu về coi vị trí. Ông thầy tầu coi xong thì bảo đây là vùng đất sấu, âm khí tích tụ, nếu lập làng thì dân làng sẽ gặp nhiều rủi ro. Lúc đầu mọi người không tin, nên cứ lập làng ở đây. Được chưa có hai năm, thì mất mùa liên miên, cộng thêm bệnh dịch, lại còn dân làng thường bị ma trêu quỷ ghẹo cả ngày lẫn đêm. Thế là ông trưởng làng đành phải mời ông thầy tầu kia về, mong ông ta giúp đỡ, ông thầy tầu chỉ đưa cho trưởng làng một cái hộp gỗ và bảo đem về chôn ở sân sau của miếu và tuyệt đối không được mở ra. Kể từ đó mà làng ta mới được yên bình thế này. Hồi trước, cũng có người đào lên vì nghĩ trong hộp có vàng (vì người xưa hay dùng vàng để trừ tà). Nhưng khi đào lên, thấy chỉ toàn đá, thế là hắn thất vọng lắm. Chỉ nội một tuần sau, hắn tự treo cổ mình ngay gian chính của miếu. Có lẽ giờ oan hồn người đó cứ quanh quẩn tại miếu mà bảo vệ cái hộp đá đó.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: