Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

BH con ng

BHNT có những đặc điểm chủ yếu sau:

          + BHNT vừa mang tính rủi ro, vừa mang tính tiết kiệm.

          Tính rủi ro được thể hiện khi người được bảo hiểm bị chết trong thời hạn HĐ, khi đó hợp đồng BHNT hết hiệu lực. Người được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chi trả STBH trong trường hợp bảo hiểm cho sự kiện chết hoặc chấm dứt việc chi trả STBH trong trường hợp bảo hiểm cho sự kiện sống.

          Tính tiết kiệm được thể hiện trong BHNT thông qua việc chi trả định kỳ như những khoản tiết kiệm đối với bảo hiểm trong trường hợp sống hoặc chi trả cho NĐBH số tiền bảo hiểm nếu họ sống hết thời hạn hợp đồng. Với BHNT hỗn hợp đây hoàn toàn được coi như hình thức tiết kiệm gửi tiền cho bảo hiểm cũng giống như việc gửi tiền cho các tổ chức tín dụng. Ngoài ra các hợp đồng BHNT còn có thể được chia lãi tùy thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp BHNT.

+ Các loại hợp đồng BHNT rất đa dạng và phức tạp.

Để đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm thường đa đạng do đó hợp đồng BHNT cũng rất phúc tạp. Trước hết là đa dạng về loại sản phẩm như sản phẩm hỗn hợp, trọn đời, trả tiền định kỳ…; hoặc đa dạng về thời gian tham gia bảo hiểm như 5 năm, 10 năm… hoặc cả cuộc đời….Ngoài ra, trong hợp đồng bảo hiểm còn có nhiều bên tham gia như người bảo hiểm, người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm, người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm do đó còn phức tạp khi phải quy định rõ quan hệ các bên trong hợp đồng theo các quy định của pháp luật.

+ BHNT đáp ứng đa mục đích của người tham gia bảo hiểm.

Cũng giống như các loại hình BH khác, BHNT nhằm mục đích đầu tiên bù đắp những thiệt hại tài chính do rủi ro gây ra tuy nhiên do đặc thù của BHNT nó còn đáp ứng một số mục đích khác: tiết kiệm tiền cho con ăn học, tiết kiệm tiền để trang trải các nhu cầu tài chính trong tương lai, trang trải nợ nần, mua sắm các tài sản có giá trị lớn, bản thân hợp đồng bảo hiểm được coi là tài sản thế chấp để vay tiền…

+ Quá trình định phí BHNT rất phức tạp.

Do phí bảo hiểm phụ thuộc vào rất nhiền nhân tố (Như độ tuổi của người được bảo hiểm, tuổi thọ bình quân của con người, đặc thù của sản phẩm, điều kiện tăng trưởng hay lạm phát của nền kinh tế, lợi nhuận thực tế và ước tính của doanh nghip bảo hiểm…) nên quá trình định phí phải dựa vào rất nhiều giả định khác nhau. Hơn nữa do thời gian định phí BHNT thường dài, các sản phẩm BHNT lại đa dạng, để đảm bảo yếu tố cạnh tranh, các doanh nghiệp BHNT phải thực hiện chuyên môn hóa quá trình định phí.

+ Sự ra đời và phát triển của BHNT gắn liền với các điều kiện về kinh tế - xã hội và văn hóa.

Tương tự như nhu cầu về bảo hiểm thông thường, nhu cầu về BHNT chỉ có khi con người đã thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu như ăn, ở, mặc, đi lại… Do đó, chỉ khi kinh tế - xã hội phát triển đến một mức độ nhất định, con người mới phát sinh nhu cầu về BHNT. Nói khác đi, chỉ khi đủ điều kiện tài chính con người mới “dám” nảy sinh nhu cầu về BHNT.

1.1.2. Các loại hình Bảo hiểm nhân thọ.

Có nhiều cách để phân loại BHNT tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của người phân loại. tuy nhiên, cho dù theo cách phân loại nào thì BHNT cũng được chia thành 3 loại sau:

- Bảo hiểm trong trường hợp tử vong.

- Bảo hiểm trong trường hợp sống.

- BHNT hỗn hợp.

Ngoài ra, người bảo hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung cho các loại hợp đồng BHNT cơ bản;

- Điều khoản bổ sung bảo hiểm nằm viện và phẫu thuật:

- Điều khoản bổ sung bảo hiểm tai nạn

- Điều khoản bổ sung bảo hiểm sức khỏe

Thực chất, các điểu khoản bổ sung là các sản phẩm bảo hiểm con người phi nhân thọ, các công ty BHNT thường triển khai các điều khoản bổ sung cùng các điều khoản chính nhằm làm đa dạng hóa quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm và làm tăng tính hấp dẫn của sản phẩm bảo hiểm.

Ngoài các điều khoản bổ sung kể trên, trong một số các hợp đồng BHNT, các công ty bảo hiểm còn đưa ra những điểm bổ sung khác, như hoàn phí bảo hiểm, miễn thanh toán phí khi bị tai nạn, thương tật... nhằm tăng tính hấp dẫn để thu hút người tham gia.

1.1.2.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong.

          Bảo hiểm trong trường hợp tử vong là loại hình BHNT mà trong đó người bảo hiểm chi trả bảo hiểm trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong tại thời điểm đã ghi rõ trong hợp đồng. Có 2 nhóm cơ bản:

+ Bảo hiểm tử kỳ (còn gọi là bảo hiểm sinh mạng): Nghĩa là người bảo hiểm sẽ chi trả tiền bảo hiểm nếu người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm của hợp đồng. Nếu trong thời gian này, người được bảo hiểm vẫn còn sống, người bảo hiểm sẽ không phải chi trả bất kỳ khoản tiền nào.

          Loại hình bảo hiểm này chỉ có yếu tố bảo vệ, tức là khi người được bảo hiểm chết, gia đình hộ sẽ có một khoản tiền lớn để bù đắp những tổn thất tài chính như mất nguồn thu nhập từ người được bảo hiểm và các chi phí hậu sự. Vì chỉ có yếu tố bảo vệ, nên chi phí bảo hiểm thường ở mức thấp nhất phù hợp với những người có thu nhập thấp.

+ Bảo hiểm trọn đời: Nghĩa là người bảo hiểm sẽ chi trả tiền bảo hiểm nếu người được bảo hiểm tử vong tại bất kỳ thời điểm nào kể từ khi hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực. Một số doanh nghiệp BHNT chi trả trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong hoặc sống đến năm 100 tuổi về thực chất cũng thuộc loại hình bảo hiểm này.

Bảo hiểm trọn đời là loại hình bảo hiểm vừa có yếu tố tiết kiệm vừa có yếu tố bảo vệ. Yếu tố tiết kiệm thể hiện khi người được bảo hiểm sống tới mức trường thọ rồi mới qua đời, STBH coi như một di sản thừa kế cho con cháu. Ngoài ra, theo thời gian, hợp đồng cũng tích lũy được giá trị giải ước và họ có thể sử dụng số tiền này như một khoản tiết kiệm.

Đây là loại hình BHNT có thời hạn bảo hiểm dài nhất so với các loại hình bảo hiểm khác, được thiết kế để trả STBH khi người được bảo hiểm tử vong. Tuy nhiên khác với bảo hiểm tử kỳ, hợp đồng bảo hiểm này là hợp đồng chắc chắn được thanh toán với STBH.

1.1.2.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống.

Với loại hình bảo hiểm này, người bảo hiểm cam kết sẽ chi trả tiền bảo hiểm nếu người được bảo hiểm còn sống đến thời điểm quy định trong hợp đồng BHNT. Nếu người được bảo hiểm tử vong trước thời điểm ghi rõ trong hợp đồng, người bảo hiểm sẽ không phải chi trả bất kỳ khoản tiền nào.

1.1.2.3. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.

          Như tên gọi của nó, BHNT hỗn hợp là sự kết hợp giữa 2 loại hình bảo hiểm trên. Thực chất, BHNT hỗn hợp là loại hình bảo hiểm chi trả trong cả 2 trường hợp người được bảo hiểm tử vong hoặc còn sống. Do phạm vi bảo hiểm rộng và phù hợp với nhu cầu đa dạng của người tham gia nên BHNT hỗn hợp được hầu hết các nước triển khai

          Loại hình bảo hiển này vừa có yếu tố bảo vệ vừa có yếu tố tiết kiệm. Khi người được bảo hiểm sống đến hết thời hạn hợp đồng sẽ được nhận một khoản tiền lớn có được từ tiền phí bảo hiểm nộp đều đặn trong thời gian dài cộng với lãi.

1.1.2.4. Bảo hiểm liên kết đầu tư.

          Ngoài 3 loại hình BHNT truyền thống kể trên, đến nay các Công ty BHNT đã kết hợp với các quỹ đầu tư để phát triển thêm loại hình BHNT mới – BHNT liên kết đầu tư. Khác với sản phẩm BHNT truyền thống, trong sản phẩm BHNT liên kết đầu tư, cơ cấu phí bảo hiểm và quyền lợi bảo hiểm được tách bạch giữa phần bảo hiểm rủi ro và phần đầu tư. Bên mua bảo hiểm được linh hoạt trong xác định phí bảo hiểm và STBH theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm.

          Hiện nay, có 2 loại sản phẩm BHNT liên kết đầu tư: sản phẩm BHNT liên kết chung (Universal Life) và sản phẩm BHNT liên kết đơn vị (Unit Link). Hai loại sản phẩm này có những đặc điểm khác nhau cơ bản.

          Đối với sản phẩm BHNT liên kết chung, bên mua bảo hiểm được hưởng toàn bộ kết quả đầu tư từ quỹ liên kết chung của doanh nghiệp bảo hiểm nhưng không thấp hơn tỷ suất đầu tư tối thiểu được các doanh nghiệp bảo hiểm cam kết tại hợp đồng bảo hiểm.

          Đối với sản phẩm BHNT liên kết đơn vị, bên mua bảo hiểm được quyền lựa chọn đầu tư phí bảo hiểm của mình để mua các đơn vị của các quỹ liên kết đơn vị do doanh nghiệp bảo hiểm thành lập, được hưởng toàn bộ kết quả đầu tư và chịu mọi rủi ro đầu tư từ các quỹ liên kết đơn vị đã lựa chọn tương ứng với phần phí bảo hiểm đã đầu tư.

2.3.3.2. Các loại bảo hiểm con người

1. Bảo hiểm nhân thọ

 Lịch sử ra đời và khái niệm bảo hiểm nhân thọ

Ở nước Anh, năm 1583, một thuyền trưởng nảy ra ý kiến yêu cầu công ty bảo hiểm phi nhân thọ đang bảo hiểm cho con tàu và hàng hoá của ông hãy bán thêm hợp đồng bảo hiểm cho sinh mạng của mình. Sự kiện này khiến các công ty bảo hiểm phi nhân thọ thấy rằng: “Con người cũng có thể được bảo hiểm như tàu bè và hàng hoá”. Các văn phòng bán bảo hiểm lần lượt ra đời.

Năm 1762, công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable là công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ở nước Anh áp dụng phương pháp tính phí bảo hiểm dựa trên yếu tố tỷ lệ tử vong.

Tại Việt Nam, năm 1996, Bảo Việt chính thức phát hành hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đầu tiên kể từ ngày thống nhất đất nước.

Bảo hiểm nhân thọ có thể được hiểu trên 2 phương diện: kỹ thuật và pháp lý. 

- Trên phương diện kỹ thuật, bảo hiểm nhân thọ là loại bảo hiểm bao hàm những cam kết mà sự thực hiện những cam kết đó phụ thuộc vào tuổi thọ của con người. Có hai loại cam kết chủ yếu trong bảo hiểm nhân thọ, đó là cam kết đóng phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm và cam kết trả tiền bảo hiểm hoặc trả trợ cấp định kỳ của doanh nghiệp bảo hiểm. Do thời hạn hợp đồng bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ kéo dài nhiều năm nên người tham gia bảo hiểm thường cam kết đóng phí làm nhiều lần. Thông thường, nếu người tham gia bảo hiểm bị chết trước khi hoàn thành nghĩa vụ đóng phí cho cả hợp đồng thì cam kết đóng phí những lần còn lại sẽ chấm dứt, nghĩa là không có ai trong phía bên mua bảo hiểm phải đóng thay họ. Khi người được bảo hiểm bị chết hoặc còn sống đến một thời điểm nhất định đã chỉ rõ trong hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện cam kết của mình, trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng một khoản tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp.

- Trên phương diện pháp lý, bảo hiểm nhân thọ bao gồm các hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, theo đó, để nhận được phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một khoản tiền nhất định hoặc những khoản trợ cấp định kì trong trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời điểm nhất định hoặc tử vong trước một thời điểm nhất định đã được ghi rõ trên hợp đồng bảo hiểm.

Ngoài ra, theo Luật  kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ 01/04/2001 thì “Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết”.

 Các loại bảo hiểm nhân thọ

Hiện nay tại Việt Nam cũng như trên thế giới có những loại sản phẩm bảo hiểm nhân thọ sau:

a) Bảo hiểm cho sự kiện tử vong của người được bảo hiểm:

- Bảo hiểm tử kỳ

- Bảo hiểm trọn đời

b) Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp

c) Bảo hiểm cho sự kiện sống của người được bảo hiểm

- Bảo hiểm sinh kỳ

- Niên kim nhân thọ

d) Bảo hiểm liên kết đầu tư

Hiện nay có các điều khoản bổ sung như:  bảo hiểm thương tật bổ sung (bảo hiểm miễn nộp phí do thương tật, bảo hiểm miễn nộp  phí đối với  người tham gia bảo hiểm, bảo hiểm trợ cấp thu nhập); các sản phẩm bảo hiểm tai nạn (bảo hiểm cho trường hợp chết do tai nạn, bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn); điều khoản riêng về trả tiền trước quyền lợi bảo hiểm (bảo hiểm bệnh giai đoạn cuối, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo, bảo hiểm chăm sóc y tế dài hạn)…

2. Bảo hiểm con người phi nhân thọ

 Khái niệm

Trong cuộc sống, con người luôn phải đối mặt trước các rủi ro có thể xảy ra như ốm đau, bệnh tật, tai nạn,…, làm tổn hại về sức khỏe, tính mạng, gây thiệt hại về mặt tài chính, ảnh hưởng đến cuộc sống của người gặp rủi ro và xã hội. Bảo hiểm con người phi nhân thọ đã ra đời và phát triển nhằm đảm bảo an toàn về mặt tài chính cho cuộc sống của mỗi người và xã hội.

Bảo hiểm con người phi nhân thọ là loại bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là tính mạng, sức khoẻ và khả năng lao động của con người.

Về phương diện kỹ thuật, bảo hiểm con người phi nhân thọ là loại bảo hiểm có mục đích thanh toán những khoản trợ cấp hoặc số tiền nhất định cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng bảo hiểm, trong trường hợp xảy ra những sự kiện tác động đến chính bản thân người được bảo hiểm.

Về phương diện pháp lý, bảo hiểm con người phi nhân thọ là loại bảo hiểm theo đó để đổi lấy phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm, người bảo hiểm cam kết sẽ trả cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định theo thỏa thuận khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.

Như vậy, Bảo hiểm con người phi nhân thọ đảm bảo cho rủi ro tác động trực tiếp đến người được bảo hiểm như tai nạn, ốm đau, bệnh tật,... Chỉ những tổn hại thân thể con người mới là đối tượng của HĐBH. Ví dụ: một vụ hỏa hoạn có thể vừa gây ra tổn hại về người, vừa làm thiệt hại về tài sản,…, những tổn hại về người thuộc đối tượng của bảo hiểm này, còn thiệt hại về tài sản thuộc đối tượng của loại bảo hiểm khác

 Các loại bảo hiểm con người phi nhân thọ

Có nhiều tiêu thức để chia các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ thành các loại khác nhau.

Theo rủi ro được bảo hiểm, các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ được chia thành ba loại:

+ Bảo hiểm sức khỏe

+ Bảo hiểm tai nạn con người: Bảo hiểm tai nạn hành khách, bảo hiểm tai nạn thuyền viên, bảo hiểm tai nạn người đi du lịch…

+ Bảo hiểm kết hợp: bảo hiểm con người toàn diện, bảo hiểm học sinh toàn diện (bảo hiểm cho cả bệnh tật và tai nạn)

Theo đối tượng người được bảo hiểm, có thể chia bảo hiểm con người phi nhân thọ thành bảo hiểm học sinh, bảo hiểm du lịch,…

2.3.3.3. Đặc trưng cơ bản của bảo hiểm con người

Bảo hiểm con người có những đặc trưng cơ bản sau:

 - Tính phức tạp trong quan hệ giữa người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng: Hợp đồng bảo hiểm con người có thể được ký kết cho từng cá nhân hoặc một nhóm người được bảo hiểm, thậm chí không xác định cụ thể trước về người được bảo hiểm (ví dụ: hợp đồng bảo hiểm tai nạn con người theo số chỗ ngồi trên xe cơ giới). Vì thế, có rất nhiều trường hợp, người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm và người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là những người khác nhau. Mặt khác, vì đặc tính của sự kiện bảo hiểm liên quan tới sự sống của con người nên pháp luật và các nhà bảo hiểm rất thận trọng trong giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhằm ngăn ngừa trục lợi, rủi ro đạo đức. Việc giao kết hợp đồng bảo hiểm phải tuân theo quy định về quyền lợi có thể được bảo hiểm. Bảo hiểm cho những người được bảo hiểm là trẻ em, người không có khả năng có thu nhập tự kiếm sống; việc chỉ định, thay đổi người thụ hưởng là những vấn đề hết sức nhạy cảm với rủi ro đạo đức, đòi hỏi phải có quy định nghiêm ngặt của pháp luật và sự tuân thủ khi giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm.

 - Việc trả tiền bảo hiểm có thể thực hiện theo nguyên tắc bồi thường hoặc nguyên tắc khoán:

Nguyên tắc bồi thường có thể được sử dụng đối với loại nghiệp vụ bảo hiểm con người có đặc tính là có phát sinh và xác định được hậu quả  thiệt hại về mặt vật chất, tài chính của người được bảo hiểm trong sự kiện bảo hiểm. Số tiền trả bảo hiểm sẽ phụ thuộc vào mức độ thiệt hại của đối tượng bảo hiểm - tối đa bằng thiệt hại và trong giới hạn trách nhiệm bảo hiểm thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Nguyên tắc bồi thường thường được sử dụng chủ yếu trong bảo hiểm các chi phí thuốc men và vận chuyển y tế cấp cứu.

Phần lớn các hợp đồng bảo hiểm con người, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ áp dụng nguyên tắc khoán. Xuất phát từ những đặc tính của đối tượng bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm: sự kiện bảo hiểm không phát sinh thiệt hại hoặc việc xác định thiệt hại vật chất, tài chính quá phức tạp; số tiền bảo hiểm, mức trách nhiệm được thoả thuận có thể không căn cứ vào sự ước lượng về giá trị thiệt hại có thể xảy ra... cho nên một số nghiệp vụ bảo hiểm buộc phải hoặc thích hợp cho việc trả tiền theo kiểu khoán (xem phụ lục 2). Một số trường hợp, số tiền trả bảo hiểm được ấn định cụ thể trong hợp đồng bảo hiểm, tiền trả bảo hiểm chỉ còn phụ thuộc vào việc xảy ra sự kiện bảo hiểm. Những trường hợp khác, số tiền trả bảo hiểm vì chỉ phụ thuộc vào giới hạn trách nhiệm đã thoả thuận và các quy định khoán trong hợp đồng bảo hiểm nên ngay cả đối với sự kiện bảo hiểm có phát sinh thiệt hại, tiền trả bảo hiểm cũng không mang tính bồi thường (đền bù thiệt hại vật chất xảy ra trong sự kiện bảo hiểm).

 - Không áp dụng thế quyền: Nhìn chung, trong bảo hiểm con người luật pháp không cho phép áp dụng thế quyền ngoại trừ  một vài trường hợp đặc biệt ( một số hợp đồng bảo hiểm con người phi nhân thọ ở Việt Nam hiện nay như là : bảo hiểm chi phí thuốc men và vận chuyển y tế cấp cứu vẫn có quy định về thế quyền, thông thường đó là những loại bảo hiểm con người áp dụng nguyên tắc bồi thường). Do không áp dụng thế quyền nên nếu có người thứ ba có lỗi trong thiệt hại của đối tượng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm con người thì việc trả tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm hoàn toàn độc lập với trách nhiệm bồi thường theo pháp luật của người thứ ba. Nếu người thứ ba đó lại được bảo hiểm bằng hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự tương ứng thì việc trả tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm con người cũng hoàn toàn độc lập với bồi thường của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự.

  - Không đề cập đến vấn đề bảo hiểm trùng: Một đối tượng bảo hiểm hoàn toàn có thể được bảo hiểm đồng thời bằng nhiều hợp đồng bảo hiểm con người. Cách nhìn nhận, giải quyết trường hợp đó không giống như đối với bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Trường hợp xảy ra sự kiện thuộc phạm vi bảo hiểm của nhiều hợp đồng bảo hiểm, việc trả tiền bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm mang tính độc lập hoàn toàn.

Ví dụ:

Một người tham gia bảo hiểm toàn diện tại công ty bảo hiểm A với số tiền bảo hiểm 20trđ, tham gia bảo hiểm chết tại công ty bảo hiểm B với số tiền bảo hiểm 100 trđ, tham gia bảo hiểm tai nạn hành khách tại công ty C với số tiền bảo hiểm 15 trđ.

Xảy ra sự cố tai nạn, anh ta chết.

Yêu cầu: Tính số tiền mà bảo hiểm trả cho người thân của anh ta trong trường hợp này.

Chính vì điều này mà vấn đề trục lợi trong bảo hiểm con người đã xảy ra.

* Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ

Riêng bảo hiểm nhân thọ, bên cạnh những đặc trưng của hợp đồng bảo hiểm con người nêu trên, so với bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng như bảo hiểm con người phi nhân thọ, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ còn có những điểm khác biệt , đó là:

 - Thời hạn bảo hiểm dài. Bao trùm lên nhiều năm tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm có thể là 5 năm, 10 năm và lâu hơn nữa.

  - Phí bảo hiểm có thể được nộp một lần hoặc thông thường nộp định kỳ trong  một thời hạn nhất định theo thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm. Lãi suất đầu tư  là một yếu tố chi phối trực tiếp kỹ thuật tính phí bảo hiểm nhân thọ.

  - Việc trả tiền bảo hiểm trong 1 số loại hợp đồng bảo hiểm là chắc chắn ( ví dụ: hợp đồng bảo hiểm tử vong trọn đời; hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp), trong khi đó khả năng nộp phí bảo hiểm ở một số hợp đồng bảo hiểm lại có tính bấp bênh.

  - Sự khác nhau trong mức độ ràng buộc các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm không được chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trước thời điểm kết thúc thời hạn bảo hiểm, ngoại trừ việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm rơi vào các trường hợp phải chấm dứt theo quy định của pháp luật. Trong khi đó, bên mua bảo hiểm lại có quyền chấm dứt hợp đồng bảo hiểm vào bất kỳ thời điểm nào và nhận được giá trị giải ước (nếu hợp đồng bảo hiểm đã có giá trị giải ước).

  - Tính đa mục đích của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đáp ứng nhiều mục đích khác nhau của công chúng (khắc phục khó khăn tài chính khi gặp sự cố bât thường; tiết kiệm, tích luỹ tài chính; bảo đảm tương lai, sự nghiệp, việc học tập cho con trẻ; ổn định mức sống, không phụ thuộc vào phúc lợi xã hội khi tuổi già; hưởng chính sách ưu đãi của nhà nước đối với bảo hiểm nhân thọ...). Nhìn chung, bảo hiểm nhân thọ có hai mục đích chính là chuyển giao rủi ro và sinh lời tiền nhàn rỗi.

Ví dụ:

Một hợp đồng bảo hiểm sinh kỳ có thời hạn 10 năm; số tiền bảo hiểm 100trđ, với điều kiện độ tuổi tham gia là 30 tuổi đối với nam.

Nếu công ty bảo hiểm nhân thọ chỉ thực hiện chuyển giao rủi ro căn cứ vào bảng tỷ lệ tử vong trong 10 năm đối với độ tuổi này đối với nam là: 100.000người sinh ra đến năm 30 tuổi còn 97931 người và đến năm 40 tuổi còn 96850 người. tiền phí được xác định là:

Nếu tính như thế này thì công ty bảo hiểm nhân thọ phải thu một khoản tiền phí khá lớn. Vì vậy, công ty phải tính một tỷ lệ sinh lời nhất định cho khách hàng để áp dụng tính phí. Ở Nhật áp dụng tỷ lệ sinh lời là 4% năm. Như vậy phí phải thu trong trường hợp này là:

Nếu việc kinh doanh của công  ty bảo hiểm có tỷ lệ sinh lời lên đến 6% thì số tiền chênh lệch 2% sẽ được chia cho khách hàng.

Với những đặc trưng cơ bản nói trên, từ chỗ chỉ bảo hiểm cho sự cố tử vong và còn sống, về sau này những quy định, điều khoản bổ sung như là cho vay theo hợp đồng; miễn nộp phí bảo hiểm; bảo hiểm thương tật vĩnh viễn; quy định về chuyển đổi hợp đồng... được bổ sung vào hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ngày càng phong phú, đa dạng và linh hoạt hơn, nhờ đó bảo hiểm nhân thọ đã có được vị trí quan trọng trong lĩnh vực bảo hiểm cũng như trong nền kinh tế các quốc gia.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: