CHƯƠNG 11: YẾN TIỆC HOA SEN
Kể từ sau tiết Thanh minh trở đi, mỗi khi tan triều, Lục Hòa lại tất tả ra bưu quán, nhưng lần nào cũng quay về trong thất vọng.
Cho đến tận hôm nay, nàng xiết chặt một phong thư hết sức bình thường trong tay mà xuân phong phơi phới, dường như đã vứt bỏ hết những nỗi lo sợ vì thân phận nữ tử bị bại lộ đã ôm trong lòng bấy lâu nay. Cố nén niềm vui sướng dâng trào, nàng vội vã về phủ, thắp đèn dầu, và dưới ánh sáng lờ mờ, trải bức thư ra.
Lục Hoà đọc từng chữ, từng câu, dường như muốn khắc từng nét bút vào đáy mắt, ghi vào tận đáy lòng, tạc vào cuốn sử thi có một không hai của riêng mình.
Tài đọc sách một lúc có thể lướt mười hàng trước đây bỗng trở nên vô dụng, dù trên tờ giấy màu vàng nhạt chỉ vỏn vẹn mấy chữ:
"Ta ở Vân Châu mọi thứ đều ổn, chớ nên lo lắng. Con phải thận trọng trong lời nói và hành động, cẩn thận hơn nữa. Ký tên: Sư, Cúc Mộng Bạch."
Lục Hòa đọc đi đọc lại, lắng nghe tiếng bấc đèn tí tách nổ, rồi cẩn thận gấp bức thư lại, tìm một chiếc hộp gỗ chạm trổ tinh xảo mà cất vào.
Mài mực, chuốt bút, cái đầu vốn dạt dào văn chương lại không sao viết được một câu chữ nào để giãi bày nỗi nhớ trong mấy tháng không gặp. Cho đến khi đèn dầu sắp tắt, nàng đã viết được năm trang giấy, chợt nhớ đến đôi mắt của Cúc Mộng Bạch đã không còn tinh tường nữa, nhờ người khác đọc thư cũng sẽ bất tiện, bèn cắt gọt lược bỏ bớt đi. Cuối cùng nàng gói hai trang giấy gọn gàng vào phong thư, dùng nghiên mực để đè lên, tự nhủ ngày mai sau lúc tan triều sẽ đến bưu quán để gửi đi.
Xong xuôi mọi việc, Lục Hòa mới nhớ ra mình chưa ăn gì, bèn vào bếp nấu cháo loãng, ăn liền hai bát rồi miễn cưỡng coi như đã xong.
Bước ra khỏi phòng, trăng treo lơ lửng, gió đêm hiu hiu.
Lục Hòa ngửa đầu, ánh mắt dịu dàng và ấm áp, khóe môi khẽ cong lên, nàng thì thầm thật khẽ khàng: "Xa nhau tin bặt như tờ, ước theo trăng tới cõi bờ người đi."[1]
[1] Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ của Trương Nhược Hư, hai câu gốc bên trên là "Thử thời tương vọng bất tương văn, nguyện trục nguyệt hoa lưu chiếu quân."
______
Ngày mười bảy tháng này, phủ Lỗ Vương mở tiệc.
Ngoài những văn nhân nhã sĩ có ý định xuất sĩ làm quan để bước chân vào chốn quan trường, khách được mời còn có các tiểu thư, phu nhân, mệnh phụ được Lỗ Vương phi chiêu đãi, đương nhiên, họ có chỗ ngồi riêng ở nội viện.
Trước buổi tiệc tối, tất nhiên là cùng nhau dạo chơi trong vườn, nào ngắm hoa, nào xem bắn vịt.
Ao sen xanh lá, sen hồng điểm xuyết, tô điểm cho cả vườn nhà thêm phần lộng lẫy. Hai ba cành liễu mềm mại rủ xuống, lả lơi khẽ chạm làm mặt nước gợn sóng lăn tăn.
Dọc theo hành lang chín khúc quanh co, các tỳ nữ thướt tha duyên dáng đứng thành hai hàng, hoặc phe phẩy quạt tròn làm mát bầu không khí, hoặc nâng trên tay đĩa quả tươi mát lạnh mời khách nhân thưởng.
Lỗ Vương đi trên hành lang, đầu đội mũ Dực Thiện, người mặc bào phục viên lĩnh vải tím thêu rồng phi trên ngực và sau lưng, tà áo bào nổi lên hoa văn phục sơn thọ hải che đi đôi giày đen. Ngũ quan của hắn vốn đã đoan chính thanh tú, nay lại khoác lên mình cẩm y hoa phục, chỉ tiếc rằng làn da vì bệnh tật mà vàng đi tái nhợt khiến cho khí chất ngọc ngà ngời ngời ấy bị bay biến rất nhiều. Bệnh tật quấn thân, đến cả râu ria trên mặt cũng trông héo hắt, thiếu hẳn vẻ nam tính và tinh anh.
Đi sau hắn là Tề Thái, trường sử của phủ Lỗ Vương.
Mỗi khi Lỗ Vương dừng lại trò chuyện và ngâm thơ với những văn nhân tài tử, mặc khách tuấn kiệt đang ngắm hoa, Tề Thái lại theo sát phía sau, đứng bên cạnh, chọn lấy một hai câu nói thể hiện phẩm hạnh, tài đức của họ mà ghi nhớ trong lòng. Sau khi tiệc tan, hắn sẽ ghi chép ra giấy cẩn thận, đề cử lại với Lỗ Vương xem ai là người đáng dùng, nên tiến cử vào vị trí ban văn hay ban võ.
Duy chỉ có một điều phá hỏng sự hoàn mỹ, đó là ở giữa ao sen thế mà lại có một đóa sen tàn chao nghiêng trong gió như sắp rơi rụng.
Chiều qua trời đổ mưa lớn, mãi đến sáng nay mới tạnh, có lẽ do nước mưa ào ào xối xả đã đánh gục đoá sen.
Vừa mới một lúc trước, người hầu phụ trách chăm sóc hồ sen đã đến tạ lỗi với Lỗ Vương, mà Lỗ Vương nhân từ chỉ răn dạy hắn vài câu, lại thương hắn tuổi cao sức yếu, còn cho hai thị vệ đỡ hắn đứng dậy rồi cáo lưu. Khách quý đến dự yến nhìn cảnh ấy không ai không cảm thán thành lời, ca ngợi Lỗ Vương là người từ ái nhân hậu, rất có phong thái của Đức Tông, cũng chính là Hoàng tổ phụ của hắn.
Đương nhiên, có hai người là ngoại lệ.
Lục Hòa và Đường Từ mỉm cười, cả hai không ai nói lời nào.
Trên giấy vẽ khổ lớn trải ở trên bàn chỉ có một mảng mực đen ở giữa, lại điểm xuyết son đỏ, đầu bút khẽ chạm rồi ấn xuống, mực loang ra nở thành vài bông mai. Lục Hòa cúi đầu thu bút, mắt thoáng thấy bóng dáng áo bào màu tím ở trong tầm mắt, nàng bèn không chút vội vàng hay hoang mang mà lấy ấn chương từ trong lòng ra, nhúng vào mực đỏ rồi đè lên trang giấy, đóng dấu xong xuôi.
Thong dong đi gần hết cả hành lang dài, Lỗ Vương thấy tất cả những bức họa ở đây đều vẽ bông sen tao nhã, lá sen thanh thoát, thế nên khi đi qua chỗ Lục Hòa liền cảm thấy tò mò và mới mẻ. Hắn nén lại những nghi hoặc trong lòng, đợi đến lúc này mới cất tiếng hỏi: "Sao Lục đại nhân lại vẽ mai mùa đông khi đang đứng giữa trùng trùng lá sen thế này?"
Từ xưa đến nay, những người đỗ Tam giáp trong kỳ thi Đình đều là những nhân tài không thể thoát được cuộc đảng tranh. Mặc dù Lỗ Vương thường ở trong phủ, ít khi ra ngoài, chưa gặp Lục Hòa, nhưng hắn vẫn có thể dựa vào ba câu hai lời mà Tề Thái nói với mình hằng ngày để đoán được thân phận của người môi đỏ răng trắng đang đứng trước mắt đây.
Lục Hòa chắp tay hành lễ, chỉ vào đóa sen đã tàn, mỉm cười nhẹ nhàng: "Gió lớn mới biết cỏ cứng. Đêm qua mưa lớn đến nỗi mái nhà ở tệ xá tồi tàn của thần cũng sập mất một góc, nước ngập cả phòng. Vậy mà đóa sen tàn này vẫn có thể trụ vững đến tận bây giờ để triển lộ phong tư trước mặt điện hạ và các quan khách, quả thực là không dễ dàng gì. Người khác ghét nó rũ rượi giữa những lá sen to lớn xanh tươi, thần lại chỉ thấy ý chí kiên cường bất khuất của nó thôi."
Dùng mai để ví với sen tàn, độc đáo là một chuyện, ẩn ý gió mạnh mới biết cỏ cứng, thời loạn lạc mới biết tôi trung, Lục Hòa tự tiến cử, muốn đầu quân về dưới trướng Lỗ Vương, ý ấy đã quá rõ ràng, sao Lỗ Vương lại không biết cho được.
Lúc ấy, hắn ngồi xuống chỗ đối diện để trò chuyện một hồi dưới làn gió mát, cảm thấy từng lời Lục Hòa nói đều là đích xác, tuyệt không phải là những kẻ ba hoa khoác lác chỉ biết đến phong hoa tuyết nguyệt. Được gặp người tài có lòng phò tá mình, trong lòng hắn đương nhiên thêm vui sướng.
Người bên cạnh Lục Hòa, chính là Đường Từ.
Đường Từ không vẽ tranh cũng không ngâm thơ, trước sau chỉ chống cằm ngắm sen, ánh mắt đôi lúc lại liếc về phía Lục Hòa và Lỗ Vương.
Một lúc sau, Lỗ Vương mới đứng dậy, dường như ý còn chưa tận, cứ ba bước một lại ngoảnh lại từ biệt Lục Hoà. Khi đi ngang đến chỗ Đường Từ, hắn dừng bước hỏi han ân cần xem các món điểm tâm có vừa miệng không, các thức trà rượu có đậm đà không. Chỉ hàn huyên vài câu rồi đi mà thôi, qua loa mà ra vẻ lễ độ, sở dĩ đều là hiền tài, đối xử bình đẳng với mọi người là được. Xét cho cùng, Đường Từ đến kinh thành đã ba năm, Lỗ Vương không thể không hiểu, không biết về nàng. Môn sinh của Tần Diên thực ra cũng là chuyện nhỏ thôi, chuyện quan trọng phải xem xét chính là thể chữ Liễu Phong mà Thuần Hữu đế vẫn luôn nghi kỵ và ghét bỏ kia đấy.
Quân tâm khó lường, hôm nay Hoàng đế có thể khiến Lỗ Vương được hưởng phú quý vạn người ngưỡng mộ thì ngày mai cũng có thể khiến hắn rơi vào vực sâu vạn kiếp bất phục. So với Thái tử, hắn là con trai thứ, lại mang bệnh trong người, bất luận là đế vương hay bầy tôi, vì giang sơn vĩnh cửu cũng sẽ coi thường những kẻ tàn nhược. Đã thế, hắn càng phải hết sức cẩn thận trong mọi việc, chỉ có vậy con thuyền này mới đi được vạn năm.
Bóng lưng Lỗ Vương dần đi xa, Đường Từ đưa một quả nho vào miệng, mắt thẳng phía trước, mặt không chút biểu cảm: "Nhà ngươi bị dột từ khi nào thế? Có cần ta kêu Ngư Đồng đi tìm thợ sửa chữa giúp không? Mùa hè ở kinh thành mưa nhiều lắm, đừng để nhà bị ngập mà sinh bệnh."
Lục Hòa đi đến bên cạnh, ngồi xuống, thân hình mảnh khảnh che khuất tầm nhìn của Đường Từ, cười nhẹ nhàng: "Ta còn chưa kịp hỏi ngươi, ngày đó đã nói không đến rồi, sao hôm nay lại đến?"
Lục Hòa biết rõ Đường Từ đang dùng lời lẽ để châm biếm mình, trào phúng mình rõ người tài lại không được trọng dụng, mà nàng không muốn giải thích, cũng tin rằng Đường Từ là người hiểu đạo lý. Năm xưa Quản Trọng và Bào Thúc Nha từng phò tá cho hai chủ khác nhau, thế mà chẳng phải cũng đã để lại một giai thoại vĩnh cửu về tình bạn đó sao?
Lòng Đường Từ vốn đã phiền muộn, giờ cảnh đẹp lá sen nhô mặt nước cũng đột nhiên bị che khuất, lại bị hỏi một câu như vậy.
Nàng bèn mân mê chén rượu vàng, mặt hơi trầm xuống, nói cho qua: "Nếu không dự yến thì cũng ở Hàn Lâm viện làm việc thôi, chi bằng ra ngoài đi lại cho tự do tự tại."
Đường Từ không thể nói với Lục Hòa rằng mình đến đây là vì việc riêng, là vì muốn gặp Nhu Kha một lần. Ngày đó ở phủ Thượng thư, nàng vì giận mà đã nói lời châm chọc phủ Dự Vương, Nhu Kha tuy không nói một lời nhưng dựa vào những gì nàng hiểu về Nhu Kha từ thuở nhỏ thì có lẽ đã là rất giận, chỉ là cơn giận ấy được kìm chế và chôn sâu trong đáy mắt. Lại nói, sau đó nàng còn bị thầy quở trách vài câu, lúc ấy mới biết rằng kể từ sau chính biến Đinh Dậu trở đi quan hệ cha con giữa Nhu Kha và Dự Vương đã tệ đi vô cùng, cớ sao còn phải nói những lời tổn thương làm gì.
Trời dần tối, tiệc bắt đầu.
Lỗ Vương ngồi ở vị trí chủ tọa, nâng chén mời khách.
Triều thần, hầu tước và văn nhân, chia ra làm hai bên đối diện nhau, khom lưng đối ẩm.
Các tiểu thư, nữ quyến và mệnh phụ nép mình sau tấm rèm mỏng trong điện, mỉm cười duyên dáng, chuyện trò hoà hợp, những thiếu nữ trẻ trung ríu rít bàn luận về những vị công tử thế gia chưa hôn phối mà lại anh tuấn hào hoa; còn những mệnh phụ đã thành gia thất thì đoan trang hiền thục, nhã nhăn hỏi thăm nhau về cái đạo giúp thê dạy con.
Lỗ Vương phi năm nay mới hai mươi tuổi, đã thành hôn với Lỗ Vương được năm năm. Hôm nay nàng trang điểm đậm, mặc lộng lẫy, cử chỉ trang trọng câu nệ, trông còn ra dáng thành thục ổn trọng hơn cả người ngồi bên cạnh - ấy chính là Nhu Kha. Nghĩ đến đã ba năm không gặp Nhu Kha, dẫu giao tình vốn không sâu đậm, Lỗ Vương phi cũng cố tìm ra chuyện để tâm tình với nàng. Sống trong phủ hầu tước đã lâu, những gì Lỗ Vương phi nói chỉ là chuyện nhà, không quá ba câu mà nói được chuyện gì khác ngoài Lỗ Vương, hai câu không ngoài việc nội vụ. Như thế làm sao có thể so sánh được với Nhu Kha, người đã xuất môn rong ruổi ngao du khắp nơi suốt mười hai năm qua, vốn sống phong phú, hiểu biết rộng rãi, kiến thức uyên bác.
Đương nhiên, Nhu Kha là người hiểu lễ nghĩa, mặc dù không hề hứng thú nhưng vẫn hợp tác tiếp lời Vương phi đặng giết thời gian, cũng là một cách giải sầu.
May thay cho Nhu Kha, chỉ không lâu sau, Lỗ Vương phi đã cáo lỗi đứng dậy đi giải quyết việc trong phủ.
Tấm màn che mỏng nhẹ, xuyên thấu, có thể lờ mờ nhìn thấy quang cảnh ở ngoài điện. Nhu Kha đảo mắt một vòng qua tất cả mọi người, bỗng dừng lại ở một bóng hình đang lặng lẽ uống rượu.
Dáng ảnh lờ mờ, ngồi ở nơi xa, ban đầu thấy có chút quen thuộc, sau lại nghĩ đến vị trí ngồi và phẩm trật của người đó, Nhu Kha khẳng định người này chắc chắn là Đường Từ.
Nhớ lại lời lẽ thẳng thắn đến mức quá giới hạn của Đường Từ ngày đó, lòng Nhu Kha dâng lên đủ loại cảm xúc hỗn độn. Quyết định năm đó của phụ vương đó là để bảo toàn huyết mạch gia tộc, dù nàng có oán trách thế nào đi chăng nữa thì nàng cũng vẫn cảm thấy bản thân mình là một trong những người được bảo vệ, được hưởng lợi, và nàng không có tư cách gì để oán trách cả. Nhưng, chung quy vẫn không thể vượt qua rào chắn tâm lý đó, nàng không thể đả thông tư tưởng của chính mình để mà thoát khỏi sự bế tắc đã giam cầm nàng bấy lâu nay. Hơn nữa, thân là con cái, khi nghe người khác công khai chỉ trích phẩm hạnh của cha mình, dù thế nào thì cảm giác cũng không mấy dễ chịu.
Một lát sau, các nhạc công lần lượt mang theo ống sáo, dây tơ, đàn tranh bước vào, ca hát mua vui.
Tiếng kèn đồng trong như tiếng trúc lạnh, khúc nhạc vẳng lên, chuyển ngón nhẹ nhàng. Các vũ nữ ai nấy diện nồng trang, da trắng như tuyết, chân điểm sen đỏ, bước chân nhẹ nhàng như dải lụa phấp phới bay.
Lại có hai hàng tỳ nữ đi trên những đôi giày lụa thêu mềm mại bước vào đây, tay nâng bầu rượu, thêm rượu vào ly, đôi môi đỏ mọng khẽ mấp máy, dịu dàng nói một tiếng "Mời dùng".
Thẩm Dật ngồi cạnh Lục Hòa và Đường Từ ngồi cạnh nhau, đôi mắt phượng dài hẹp hơi nheo lại mà nhìn cô tỳ nữ trong hàng một cái, ánh mắt xoay chuyển, như ẩn chứa điều gì. Tỳ nữ đó cười hết sức duyên dáng nhẹ nhàng mà đi về phía Đường Từ, cúi người rót rượu lại không cẩn thận làm đổ như cả nửa bình rượu ra ngoài, làm cho những giọt rượu bắn tung tóe lên trước ngực áo của nàng.
Cô ta thảng thốt kêu lên một tiếng như hoảng sợ tột độ, vội vàng lấy khăn lụa ra định lau cho Đường Từ. Tất cả mọi người đều bị tiếng kêu ấy thu hút sự chú ý, đồng loạt dồn ánh mắt về phía này.
Mà ngay khi những ánh mắt vừa bắn tới đây, không ai ngờ Đường Từ lại đột nhiên túm lấy cổ tay cô tỳ nữ rồi đổ cả người tới, những ngón tay lần lên khuôn mặt cô ta để vuốt ve mơn trớn, ánh mắt ngập tràn đam mê nhục dục, nói: "Mỹ nhân, đừng đi, nơi này rộng rãi đẹp đẽ, chi bằng chúng ta cùng nhau hưởng một đêm hoan lạc?"
Cả điện ồ lên, kinh ngạc tột độ.
Chỉ trơ mắt mà thấy Đường Từ đang thực sự đè cô tỳ nữ đang hoảng loạn gần như là muốn khóc ra, một tay lần xuống, đã cởi đai lụa ở thắt lưng mình.
Sắc mặt Lỗ Vương vô cùng khó coi, nhưng cũng vẫn chưa khó coi bằng sắc mặt của Thẩm Dật, hai bàn tay hắn giấu dưới bàn giờ đã siết chặt thành nắm đấm.
Lục Hòa vội vàng xông lên, phải dùng sức mới kéo Đường Từ ra nổi rồi đỡ lấy thắt lưng nàng, để nàng tựa đầu vào vai mình trong trạng thái mơ mơ mơ màng.
Lục Hoà nhặt đai lụa lên, tạ lỗi với Lỗ Vương: "Điện hạ, Đường đại nhân tửu lượng kém, cứ hễ say rượu là trở nên vô phép tắc như vậy. Hẳn là hôm nay có hân hạnh đến dự yến của Điện hạ nên y vui quá, lỡ uống quá chén. Để tránh làm điện hạ phật ý và quan khách mất hứng, xin cho thần đưa y về phủ trước."
Đường Từ đột nhiên giãy lên, đẩy Lục Hòa ra, lảo đảo gần ngã xuống đất, tay áo rộng vung lên: "Ai nói ta say? Ta không say! Lại đây, nào nào, mỹ nhân, uống với ta thêm ba chén nữa!" Nàng loạng choạng trên tấm thảm đỏ một lúc mới nhặt lên một chén rượu không biết ai đánh rơi, ôm nó trong tay như trân bảo, lại còn đưa lên môi mà hôn, ánh mắt mơ hồ, "Mỹ nhân à, sao tay nàng lại lạnh thế? Để ta sưởi ấm cho nàng vậy..." Nói xong là nhét chén rượu vào trong ngực áo, thế rồi lăn ra đất bất tỉnh nhân sự.
Từng có Nguyễn Phù đổi áo lông chồn lấy rượu, lại có Tám vị tiên tử say rượu thời nhà Đường, những kẻ phóng đãng tự do trong giới văn nhân thường yêu uống rượu, khi say rượu cũng ra muôn hình vạn trạng, cái hình dạng này thực ra cũng chẳng có gì đặc biệt hay đáng ngạc nhiên.
Trước mặt quan khách, Lỗ Vương đành nén sự bực bội, tỏ ra rộng lượng thấu hiểu, cho gọi hai thị vệ đi hộ tống Lục Hòa.
Lục Hòa tự đỡ Đường Từ dậy, khi cúi xuống, nàng vừa khéo che khuất cái ánh mắt dò xét đầy sự sốt sắng của Thẩm Dật.
Cũng đúng khoảnh khắc ấy, một cơn gió đêm thoảng tới, vén lên một góc của tấm màn.
Đường Từ thuận thế tựa tay lên vai Lục Hòa, đôi mắt đen láy thanh triệt lướt qua hàng mệnh phụ và nữ quyến ngồi trong kia, nhìn thẳng về phía Nhu Kha.
Cả sảnh đường đầy mỹ nhân ngồi, lại chỉ có hai người chạm mắt.
Bốn mắt chạm nhau, thế nhưng cảm giác tâm linh tương thông ấy bất quá cũng chỉ là thoáng qua. Nhu Kha dùng một ánh mắt lành lạnh mà liếc nhìn Đường Từ một cái rồi lại cúi đầu, lẳng lặng uống trà.
Một cái liếc mắt là đủ để Đường Từ đọc được sự ghét bỏ trong đó, tự nhủ, dĩ nhiên là người kia căm ghét loại hồ đồ háo sắc, trong bụng hẳn là đang thầm mắng mình cũng nên. Đường Từ cắn chặt hàm răng, vùi đầu vào vai Lục Hòa, khóe mắt nóng lên như sắp trào nước mắt, âu cũng chỉ tại trong lòng nàng có nỗi khổ không thể nói thành lời.
——— Hết chương 11 ———
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com