CHƯƠNG 5: NHẤT KIẾN NHƯ CỐ
Khi hoa mai đỏ nở rộ, thoảng một cơn mưa Thanh Minh.
Một trăm linh năm ngày sau tiết Đông Chí là tiết Hàn Thực, và ngày thứ ba của tiết Hàn Thực mới là tiết Thanh Minh.
Cứ đến hai tiết này, dân chúng kinh thành lại sửa soạn vàng mã, nến sáp cùng hoa quả, bánh kẹo, để hoặc thì bày biện cúng tế ở các ngôi mộ ngoài ngoại ô, hoặc đến các chùa miếu gần đó thành kính khấn vái. Triều đình cũng có lệ nghỉ Hưu mộc, cho phép các quan lại về quê đi tảo mộ cho song thân phụ mẫu, hay thảnh thơi dạo chơi ngoài thành, câu cá đá cầu.
Đế kinh có dân cư đông đúc, dân thường đi bộ thì khó tránh khỏi cảnh chen vai thích cánh, người người tấp nập; quan viên thì đa phần cưỡi ngựa, đi kiệu, xe cộ như nước chảy, lừa ngựa như rồng bay. Những khi ấy, các ngã tư, cửa hiệu, hay thậm chí cả chùa chiền đạo quán đều bị người vây kín, chật cứng.
Duy có một ngôi chùa ở ngoại ô Yến Kinh mang tên chùa Bích Vân, chỉ nơi ấy mới có thể tìm được một chốn yên tĩnh, thanh bình.
Tiểu hòa thượng quét dọn trước cổng chùa tuy tuổi còn nhỏ nhưng các giác quan lại vô cùng nhanh nhạy. Từ xa đã nghe tiếng ngựa hý liền chạy nhanh ra đón dây cương, tươi cười nói với người trên ngựa:
"Ta biết thế nào huynh cũng đến mà! Sao hôm nay huynh lại muộn hơn mọi ngày thế?"
Đường Từ nhẹ nhàng nhảy xuống khỏi lưng ngựa, đứng đợi tiểu hòa thượng buộc ngựa cho xong. Sau đó, nàng cùng cậu bé bước lên bậc đá, rồi mới thong thả đáp lời:
"Đông Hoa môn bị người chặn mất rồi, xe ngựa chắn ngang, không ra được, ta phải đi đường vòng."
Sáng sớm nay vừa có một trận mưa nhỏ, không khí vẫn còn vương chút hơi se lạnh. Tiểu hòa thượng thấy trên trán nàng lấm tấm mồ hôi thì nghĩ hẳn là nàng đã rất vội vã trên đường đi, thế nên bước chân cũng nhanh hơn vài phần, băn khoăn hỏi:
"Tiết trời thế này, phủ Thuận Thiên nghỉ Hưu mộc đã đành, dân chúng cũng ra ngoại thành để tế lễ, là ai mà lại chắn đường thế?"
Đường Từ nhìn chằm chằm vào những vân đá xanh trên nền đất, cười mà như không cười:
"Vũ An hầu dẫn theo cả gia quyến ra ngoại ô tế tổ tiên. Chắc là nhà ấy núi vàng núi bạc chất cao quá, không chở ra hết nổi chăng."
Vũ An hầu không ai khác chính là Thượng thư Hộ bộ Hàn Nho, người năm xưa từng nhậm chức Trường sử Vương phủ của Tề Vương, ở Từ Châu.
Tiểu hòa thượng xuất gia từ khi còn là đứa trẻ, lục căn tuy chưa thanh tịnh nhưng cũng đã lánh xa thế tục rồi, biết rất ít về chuyện triều chính. Cậu thiếu niên cười hì hì lảng sang chuyện khác, trên đường đi cứ nằng nặc đòi Đường Từ kể mình nghe chuyện kinh thành náo nhiệt. Đường Từ cũng chẳng giấu giếm điều gì.
Mãi cho đến khi đi qua tiền điện, đến hậu viện, tiểu hòa thượng mới thu lại vẻ nghịch ngợm, nghiêm trang hành lễ rồi cáo lui.
Ngoài cửa viện có hai tên lính canh mặc giáp trụ trên người, đeo dao vàng bên hông. Họ liếc nhìn Đường Từ một lượt, kiểm tra kĩ hộp đồ ăn nàng mang theo, rồi mới nóng nảy cho nàng đi vào.
Trong sân, dưới gốc cây bồ đề có một bà lão đang cúi người lấy nước, tay xách thùng nước và bước chân đi lảo đảo, nước sóng sánh vương vãi khắp nơi. Lưng bà lão còng xuống, đi được vài bước lại phải dừng lại để chống gối thở dốc, ngẩng đầu lau mồ hôi.
Đợi khi bà mở mắt ra lần nữa thì thùng nước đã bị một người khác xách đi.
"Ấy ấy!" Bà lão đuổi theo ngăn lại, "Đường công tử, đây là việc nặng nhọc, để lão đây làm!"
Đường Từ một tay xách thùng nước, một tay xách hộp thức ăn, cười nhẹ nhàng mà nói: "Xuân Hoa bà bà, ta là người trẻ, không sao cả."
Xuân Hoa bà bà tranh giành mấy lần cũng không lại, thấy đã gần đến phòng bếp, cuối cùng cũng từ bỏ ý định ban đầu. Bà lão nhận lấy hộp đồ ăn, ngượng ngùng nói:
"Năm nào hễ ngày Thanh Minh con cũng đến, phu nhân nhìn thấy con là đã vui lắm rồi, không cần phải tốn tiền mua những thứ này đâu, lần sau đừng phí phạm nữa."
Đẩy cửa gỗ phòng bếp, bên cạnh bếp lửa có một phụ nhân ước chừng tuổi trung niên đang đứng. Bà có búi tóc đơn giản, chỉ dùng một cây trâm gỗ để cài tóc, y phục cũng là kiểu dáng và màu sắc rất bình thường. Thế nhưng, từng cử chỉ, từng động tác lại toát lên vẻ đoan trang và quyền quý không hề hợp với chốn cổ miếu đèn xanh, am chùa thanh tịnh. Bà đang dùng thìa gỗ để nếm canh, tay áo vén lên để lộ bàn tay phải, có thể thấy rõ ngón út đã bị khuyết.
Nghe thấy tiếng động bà mới đặt thìa gỗ xuống, thong thả đi tới, cười hiền hậu nói:
"Con đã đến rồi, đã dùng cơm trưa chưa? Bánh tử thôi yến ta nấu vẫn còn mấy cái, hâm nóng lại là ăn được, có muốn nếm thử không?"
Gương mặt không hề trang điểm ấy đã không còn vẻ lộng lẫy quý phái mà nàng vẫn thường dựa dẫm, vẫn luôn quyến luyến khi còn thơ bé, ấy nhưng giờ lại thêm vài phần thân cận và gần gũi với khói lửa trần gian. Giọng nói và ngữ điệu vẫn ấm áp, vẫn thân thiết như xưa. Trái tim Đường Từ lại tan chảy thêm vài phần, nàng khẽ ngẩng đầu, buộc mình không nhìn chằm chằm vào bàn tay phải của bà. May mắn thay, mấy năm nay nàng đã thành thạo được cái ngón nghề diễn xuất, gặp người nói chuyện của người, gặp ma nói chuyện của ma.
Một lát sau, nàng đưa tay ôm bụng, nhíu mày cười nhẹ: "Sáng nay con đã ăn một cái bánh bao và một bát cháo rồi, người không nói thì thôi mà vừa nói bụng con lại đói rồi."
Tĩnh Từ dặn dò Xuân Hoa bà bà vài chuyện rồi kéo Đường Từ đi về phía phòng bên, trong lời nói toàn là ngữ điệu của bậc trưởng bối.
Mấy năm trước Xuân Hoa bà bà cũng từng âm thầm cảm thán, phu nhân từ khi chuyển đến chùa Bích Vân thì tính tình thay đổi rất nhiều, rất khó để mở lòng và thân thiết với người ngoài. Vậy mà ba năm trước, có một thiếu niên trẻ măng xuất hiện, chỉ vài ngày sau phu nhân đã hết mực quan tâm chăm sóc, quan tâm đến cả sự nghiệp quan trường của y, khuyên y hãy bái Thượng thư Lại bộ làm thầy. Sau này, chính Xuân Hoa bà bà cũng dần hiểu ra vì sao lại thế, chỉ vì ngay cả bản thân bà cũng cảm thấy như đã từng quen biết Đường Từ từ lâu lắm rồi, rất hợp ý nhau.
"Khoa thi mùa Xuân năm nay có như ý nguyện không?" Tĩnh Từ rót một chén trà đưa cho Đường Từ, thoạt nhìn thấy y phục hôm nay của nàng đã đoán được nàng đã đỗ và xuất sĩ làm quan.
Đường Từ ăn bánh bột mì, đôi mắt tràn đầy sự thỏa mãn, gật đầu nói: "Nhờ có Tĩnh Từ sư phụ ngày đêm thắp hương bái Phật cho con mà cuối cùng cũng được vào Hàn Lâm viện rồi."
Ánh mắt chân thành, dáng vẻ ngoan ngoãn, Tĩnh Từ cũng không đoán xem trong đó có mấy phần là lời nói nịnh nọt. Bà xoa mu bàn tay nàng, cười nói:
"Nhà Phật giảng rằng tâm thành thì trời tỏ, lòng thành thì linh nghiệm. Ta biết con có chí chốn quan trường, không nỡ thấy con khóc nhè sụt sùi nữa, cho nên khi tụng kinh niệm Phật tự nhiên sẽ nghĩ đến con nhiều hơn một chút. Nói sâu xa hơn thì tất cả vẫn là phúc phận mà con tự mình tu được mà thôi. Thế, đã viết thư về nhà báo tin mừng này cho cha mẹ chưa?"
Đường Từ sững sờ, cúi đầu lẩm bẩm: "Chưa ạ."
Nghe tiếng ngón trỏ nhẹ gõ trên mặt bàn gỗ, Tĩnh Từ nghiêm nghị hơn vài phần: "Thế thì đáng đánh đòn lắm đấy."
Ngoài dự đoán, Đường Từ lại lập tức đặt bánh xuống, đứng dậy nghiêm chỉnh lắng nghe huấn thị.
Tĩnh Từ tuy ngập ngừng một chút, nghĩ người trẻ này tuy ăn nói già dặn, suy nghĩ thấu triệt, nhưng khi làm nũng thì vẫn như một thiếu niên thôi, bèn thuận miệng dạy dỗ:
"Người xưa nói rằng, cha mẹ còn sống thì con cái không đi chơi xa. Con lớn lên ở Vân Châu, nơi ấy cách Ký Châu xa nghìn dặm, đến kinh thành đã ba năm rồi nhỉ? Dù mang theo kỳ vọng lớn của cha mẹ và gia tộc, cũng đã chịu không ít khổ sở, hẳn là rất cô đơn và buồn bã. Bản thân con đã như thế, thì cha mẹ luôn canh cánh trong lòng về con sẽ có cảm giác như thế nào? Giờ đã công thành danh toại, tại sao lại không mau chóng báo tin cho cha mẹ, cùng họ chia sẻ niềm vui?"
"Người nói phải, con biết lỗi rồi, về con sẽ viết ngay, gửi thư ra trạm dịch." Đường Từ cúi đầu đứng thẳng, trong mắt Tĩnh Từ thì đúng là dáng vẻ thành tâm hối lỗi, nhưng nàng không hề biết người trẻ ấy làm vậy chỉ để che đi đôi mắt đã đỏ hoe của mình.
Tĩnh Từ biết nàng luôn nghe lời mình nên cũng không nói thêm gì nữa. Bà kéo nàng ngồi xuống, dùng đầu ngón tay lau đi những vụn bánh dính trên miệng nàng, thấy nàng vẫn còn buồn bã thì thầm nghĩ có phải mình đã nói quá lời rồi không, bèn an ủi:
"Con còn trẻ thế đã đỗ tam giáp, vào Hàn Lâm viện là ước nguyện của biết bao nhiêu học giả trên đời này? Chẳng riêng gì cha mẹ con, đến cả ta cũng vui mừng thay cho con, khen con còn không kịp, ta vừa nói đánh là nói yêu thôi, đừng để trong lòng."
Đường Từ nghiêng đầu, nhỏ giọng lẩm bẩm: "Con không để trong lòng. Người... là người mẹ nhân từ nhất thế gian này, sao lại đánh con được chứ?"
Bật cười, Tĩnh Từ suy ngẫm đứa trẻ này sao lại nói những lời ngớ ngẩn như vậy, nếu thân mẫu nghe thấy chắc sẽ buồn lắm. Dẫu vậy, lòng bà lại được những lời nói đơn giản ấy sưởi ấm và xoa dịu. Thấy từng giọt nước mắt rơi xuống bàn, bà lấy khăn tay ra lau nước mắt cho nàng, vừa buồn cười vừa nói:
"Mẫu thân con sinh ra con có phải là Long Vương phát lụt không? Một đấng nam nhi đội trời đạp đất, sao mà nước mắt cứ nói rơi là rơi thế này?"
Không nói thì thôi, nói rồi lại như đê vỡ.
Đường Từ vừa xấu hổ vừa bực mình, giật lấy khăn tay rồi quay mặt đi tự lau chùi, nhỏ giọng nói: "Để người chê cười rồi, từ nhỏ con đã có tật hay khóc, cha có quát mắng hay đánh đòn cũng không sửa được." Nàng ngừng lại một lát, nói tiếp, "Dù là vậy, trước mặt người ngoài con không như thế đâu."
Ý tứ trong lời nói là không coi Tĩnh Từ như người ngoài.
"Thế là cha con không đúng rồi, đánh trên người con, đau trong lòng mẹ. Lời nói dạy dỗ thôi là đủ rồi, cần gì phải động tay." Tĩnh Từ chỉ thấy đứa trẻ này da thịt mềm mỏng, cử chỉ lại toát lên vẻ quý phái, hẳn là một công tử con nhà thế gia quyền quý. Có thể nuôi dưỡng được tính cách ôn hòa, tiêu pha tiết kiệm, cư xử lễ phép đã là không dễ, lại nghĩ đến cảnh nàng chịu đòn roi không khỏi thấy lòng nhói đau, lời nói cũng trở nên vượt giới hạn.
Đường Từ vẫn sụt sùi nức nở, nhìn nghiêng thấy hàng mi mỏng dài như cánh quạt đã ướt đẫm hơi sương.
Tĩnh Từ nghĩ một lúc, mãi vẫn không tìm được chuyện gì vui vẻ từ trong cái đầu toàn kinh Phật của mình.
Bà đành lục lọi chuyện cũ từ sâu trong ký ức: "Ta đã kể với con chưa nhỉ? Ta có một cô con gái, từ nhỏ cô bé đã rất dũng cảm, không sợ chuyện gì, duy chỉ sợ bóng tối và tiếng sấm sét. Mỗi khi đến mùa hè mưa dông nhất định phải có ta ở bên cạnh dỗ dành mới có thể ngoan ngoãn đi ngủ, nếu không nước mắt cứ chảy, đưa chậu ra hứng là hôm sau có thể đem đi tưới hoa."
Đó thực ra không phải là chuyện vui, nhưng Tĩnh Từ lại đắm chìm trong đó không dứt ra được, khóe môi khẽ cong, ánh mắt dần trở nên mơ hồ và trống rỗng.
Đường Từ hít sâu lấy mùi hương quen thuộc trên chiếc khăn tay, xua đi nỗi chua xót và cay đắng đang vương vấn quấn siết trong lòng. Nàng quay người lại, cầm lấy bánh mì bột ăn ngấu nghiến rồi khen ngợi như rống lên: "Tay nghề của Xuân Hoa bà bà năm nay lại tiến bộ hơn nhiều rồi, lượng táo cho vào vừa vặn thế này này!"
Tĩnh Từ giấu nỗi buồn tái tê vào sâu trong đáy mắt, ôn tồn nói: "Năm ngoái con đã nói là chưa đủ ngọt còn gì? Bà ấy nghe thấy, ghi nhớ trong lòng, năm nay liền cho thêm chút táo nghiền."
"Làm phiền Xuân Hoa bà bà rồi, con ăn xong mấy cái này sẽ đi giúp bà làm việc."
Đường Từ chợt nhớ ra khung cảnh trong bếp lúc nãy giống như đang chuẩn bị tiệc để mời khách, trong lòng có chút hoảng hốt, "Hôm nay... có ai khác đến ạ?"
Thấy Đường Từ ăn đến má hai phồng lên, Tĩnh Từ khẽ đẩy chén trà, ý bảo nàng uống để giải khát, ánh mắt cong cong: "Đúng vậy, chính là vị cô nương ta đã nhắc đến với con mấy lần. Mẫu thân của cô ấy khi tại thế có tình cảm rất sâu nặng với ta, nếu không phải ta đã thề không bước chân ra khỏi ngôi chùa này nửa bước thì thực ra nên cùng đi thăm viếng. Thật khó cho cô gái trẻ như vậy phải ở nơi quạnh quẽ để chịu tang ba năm, những ngày tháng ăn chay khổ hạnh đối với người trẻ không hề dễ dàng chút nào cả."
"Hả... Cái...." Đường Từ ho khù khụ lên, ôm ngực, mày sắc nét nhíu lại, cổ thì đỏ bừng bừng.
Tĩnh Từ vội vàng đứng lên vỗ lưng cho nàng, trách móc: "Đứa trẻ này, sao ăn uống cũng có thể bị nghẹn thế này? Mau uống chút nước đi."
Đúng lúc này, tiếng Xuân Hoa bà bà từ ngoài cửa đã vọng vào đây: "Phu nhân, Nhu Kha tiểu thư đã đến."
Lời vừa dứt, cửa phòng mở.
Một mỹ nhân thong thả thướt tha đứng ngược ánh sáng, mặt như ngọc, mày như liễu, cổ tay như sương tuyết. Nàng nhẹ bước mà đến, cúi người hành lễ với Tĩnh Từ:
"Nhu Kha vấn an bá mẫu."
Tĩnh Từ đỡ nàng dậy, nắm lấy hai vai nàng mà săm soi, vẻ xót xa tràn ngập trong ánh mắt: "Gầy đi nhiều rồi, con hiếu thảo như vậy, mẫu thân con dưới suối vàng ắt hẳn là vô cùng mãn nguyện."
Nhu Kha khẽ gật đầu, lúc này mới chú ý đến thiếu niên xa lạ ở trước mắt.
Thiếu niên ấy dường như cũng cảm nhận được ánh mắt của nàng, ban đầu cúi đầu, đôi vai khẽ run. Không lâu sau, người ấy cố gắng ngẩng mặt lên, vẽ trên khóe môi một nét cười gượng gạo, chắp quyền nói:
"Nghe danh Nhu Kha quận chúa của Dự Vương phủ có dung mạo thanh nhã tú lệ, phẩm hạnh hiếu thảo lễ độ, thật may mắn được tham kiến."
Nhu Kha lớn lên trong vương phủ từ nhỏ, lại thường xuyên ra vào nơi cung cấm, gặp gỡ không biết đã bao nhiêu người. Bốn mắt chạm nhau, nàng như bị một luồng sóng vô hình đẩy cho khẽ giật lùi lại một bước, hơi thở rối loạn, cổ họng khô khốc.
Rất nhiều chuyện trên đời này, nếu chưa thực sự tự mình trải qua thì không thể nào đánh giá chủ quan, phán xét bừa bãi.
Giống như, Nhu Kha vốn không tin vào thuyết luân hồi trên đá Tam Sinh, giờ phút này lại chợt hiểu ra thế nào là 'nhất kiến như cố'.
Người này... là ai?
—— Hết chương 5 ——
Nhu Kha quận chúa lên sàn, Nhu Kha - nữ cường hàng real trong cái vỏ dịu dàng, hình mẫu mà 200 năm sau Kim Lăng Nhan thị Nhan Y mở ra đọc đọc để tính noi theo chọn ngôi Hậu cho Bệ hạ chồng chỉ (mà rồi chỉ tự chọn mình luôn).
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com