Chương 65: Thâu đắc phù sinh bán nhật nhàn, hay còn gọi là: Hẹn hò (3)
Vạn năm trước, có một thiếu niên yêu kiếm, lấy kiếm tu đạo. Sau gặp phải chướng ngại, mãi mà không sao đột phá. Hắn bèn rời nơi tu luyện, du ngoạn bốn phương tìm cách phá chướng. Đến vùng Tây Nam, dưới cơ duyên xảo hợp, hắn lạc vào mê cảnh. Tại nơi sâu nhất trong mê cảnh, hắn nhìn thấy một bức tường bạch ngọc không tì vết, trước bức tường có người múa kiếm.
Người ấy chỉ là phàm nhân, chiêu kiếm không mang bất cứ dấu hiệu linh khí lưu động nào. Nhìn thoáng qua, chiêu kiếm ấy tưởng chừng rất bình thường, nhưng càng nhìn kỹ lại càng thấy kỳ diệu vô cùng, khiến người ta không khỏi thán phục sâu sắc. Hiểu rõ trình độ của người ấy cao đến mức khó mà tưởng tượng nổi, hắn quyết tâm nhất định phải bái người ấy vi sư để tu tập kiếm đạo. Thế nhưng đến trước bức tường, hắn mới kinh ngạc nhận ra thứ mình nhìn thấy chỉ là bóng phản chiếu trên tường ngọc mà thôi.
Từng có người múa kiếm tại mê cảnh, bóng người ấy hoà vào tường ngọc. Tường ngọc ấy là linh vật, nên dù người múa kiếm đã rời đi từ lâu, kiếm ảnh vẫn còn lưu lại nơi đó. Trước tường ngọc đặt một hộp gỗ, kiếm tu mở hộp ra và phát hiện bên trong là một cuộn kiếm phổ.
Đó chính là Đại Hoang Kiếm Phổ trong lời hậu nhân.
Kiếm tu ở lại mê cảnh suốt ngàn năm, mỗi ngày đều xem kiếm ảnh trên tường ngọc và tập Đại Hoang kiếm pháp, mãi đến khi kiếm ảnh biến mất mới rời đi. Sau đó, hắn chợt nhận ra bản thân đã bất tri bất giác đột phá hai tầng cảnh giới, khi vào mê cảnh mới Hoá Thần kỳ mà lúc ra đã là Đại Thừa trung kỳ. Về sau hắn tiếp tục ngao du bốn phương, cuối cùng đạt được đại thành.
Người ấy là kiếm tu duy nhất phá giới phi thăng suốt mấy vạn năm qua. Người từng nói: "Ta cố gắng nhiều năm, chỉ lĩnh ngộ được hai, ba phần kiếm ảnh, mà chút cảm ngộ ít ỏi này đã giúp tu vi ta tiến bộ vượt bậc, có lẽ chỉ có Thiên Đạo Kiếm Thế có thể có dư uy như vậy."
Trong Lạc Thư từng viết một truyền thuyết khác về Đại Hoang Kiếm Phổ, ấy được cho là kiếm pháp Thiên Đế tu luyện. Tương truyền, Hạo Thiên thường hoá thân thành nam tử thế gian du ngoạn hồng trần, nên nhiều người suy đoán cuộn kiếm phổ kia là do người để lại, mà phàm nhân múa kiếm ấy chính là cố hữu của người ở trần gian.
Thời đại của kiếm tu nọ cách thời thượng cổ không xa, nên những chuyện xưa lưu truyền hiện nay tuy thoạt nhìn thật hoàn chỉnh, thực ra lại là được chắp vá lung tung từ các truyền thuyết khác nhau sau khi Hoang Liên Kiếm Tông thành lập.
Vì cùng tu kiếm đạo, Trường Ly hiểu rõ sự tích về vị Kiếm tiên kia hơn người khác một chút. Huống hồ, Thiên Đạo Kiếm Thế là cảnh giới mà mọi kiếm tu theo đuổi, nên khi được hỏi đến, nàng ấy mới thốt ra bốn chữ ấy.
"Thì ra là ở đây." Trường Ly nghe kể truyền thuyết về vị Kiếm tiên ấy không ít lần, nhưng chưa bao giờ nghĩ có ngày sẽ đích thân đặt chân đến mê cảnh. Ngẫm một lát, nàng ấy lại nghi ngờ bản thân đoán sai, "Nhưng nơi này có vẻ không ẩn nấp lắm mà?"
Lúc đi vào không gặp bất cứ kết giới ngáng đường nào, hơn nữa tuy hồ nước này bị dãy núi che khuất, nhưng từ trên không trung, chỉ cần cúi đầu là có thể quan sát từng ngóc ngách khắp dãy núi ao hồ. Sao Kiếm tiên kia lại gọi đây là "mê cảnh" được?
"Chắc thời ấy hồ nước tách biệt với bên ngoài, có thể Kiếm tiên đã tiện tay phá kết giới nơi này khi rời đi."
Trường Ly lại hỏi: "Nếu nói vậy, nơi đây hẳn là di tích thượng cổ, thì sao lại vắng người chứ?"
Di tích thượng cổ là cơ duyên mọi tu sĩ mơ ước. Nếu nơi này chính là chỗ Kiếm tiên ngộ đạo, lẽ ra phải có vô số người mộ danh tìm đến mới phải.
"Đây đều là chuyện từ mấy vạn năm trước rồi." Chung Minh Chúc nhìn về phương xa, khẽ nói, "Nơi này cũng từng giống Tu Di Chi Hải, ai ai cũng đổ xô đến. Nhưng kiếm ảnh đã tan, kiếm phổ cũng bị lấy rồi, tường ngọc cũng không còn trắng muốt, còn lại đều là hoa đào nước chảy, chỉ toàn vật phàm, đám tu sĩ tự nhiên chẳng còn hứng thú. Huống hồ, địa hình nơi này dễ công khó thủ, lại ngay gần thành trấn phàm nhân, không thích hợp khai tông lập phái. Dần dà cũng chẳng còn ai ghé thăm."
Lúc này trời đã hửng sáng, mặt trời từ từ nhô lên sau rặng núi. Mới đầu chỉ là vài tia sáng mỏng manh xé rách màn đêm dày đặc, rơi xuống mặt hồ, gột rửa mọi vẩn đục dưới dòng nước, biến nó về lại màu xanh xanh biếc trong veo. Rồi đột nhiên, ngọn lửa ánh sáng bùng lên, nhuộm đỏ cả bầu trời. Mặt hồ kéo dài ánh lửa, lay động theo từng gợn sóng, tựa như một vũ điệu uyển chuyển, lại như cả đám mây ráng đỏ bị kéo xuống hồ nước, phủ lên lớp sắc màu rực rỡ một tầng hào quang lộng lẫy.
Trường Ly ngắm màu đỏ rực cháy nơi chân trời mãi, đến tận khi cả bầu trời sáng bừng mới thu tầm mắt. Nàng ấy lơ đãng liếc qua sườn mặt Chung Minh Chúc, bắt gặp nụ cười lười biếng nơi khoé môi kia, lòng Trường Ly chợt dâng lên ý niệm: Như thế này cũng tốt.
Không nói rõ được là tốt ở chỗ nào, nhưng cứ cảm thấy thật tốt.
Qua một lúc, cuối cùng phao câu cũng lần nữa có động tĩnh, nhấp nhô nhấp nhô trên mặt nước, hẳn cá đang thăm dò mồi câu. Trường Ly nắm chặt cần câu, chỉ đợi phao câu chìm xuống là kéo cần. Bỗng bên tai vang lên tiếng gỗ cọ xát, kéo dài khá lâu. Phao câu nhanh chóng nổi lại lên mặt nước, cá chạy.
Trường Ly nhấc cần lên, phát hiện mồi câu bị gặm mất một mẩu, chắc hẳn cá chuẩn bị đớp mồi lại bị âm thanh kia dọa chạy. Nàng ấy lần nữa thay mồi câu, tiện thể liếc qua Chung Minh Chúc, phát hiện: chỉ trong chốc lát, các thanh trúc đều đã được ghép với nhau, tạo thành một đồ vật quen thuộc.
Hoá ra Chung Minh Chúc muốn chế một cây dù.
Cành trúc dày hai ngón tay làm cán, thanh trúc được vót mỏng và mài nhẵn làm khung dù, hai lỗ hai đầu các thanh trúc ngắn để nối các bộ phận với nhau, tổng cộng hai mươi tám nan dù. Chung Minh Chúc đang căng ra rồi thu lại nhiều lần để xem xem có vấn đề gì không. Nhận ra Trường Ly đang nhìn, nàng liền cong khoé môi đáp lại, như thể người vừa doạ chạy cá chẳng phải nàng.
Trường Ly lại quăng cần lần nữa, không biết là do hai lần để vuột mất cá hay vì lý do nào khác, nàng ấy vô thức thả lỏng đi nhiều, không còn nhìn chăm chăm mặt hồ nữa mà lỏng lẻo nắm cần câu, quay sang nhìn tỉ mỉ khung dù kia.
Nhìn một lúc, nàng ấy để ý thấy cây dù này cấu tạo phức tạp hơn hai chiếc màu đỏ với đen gặp trước đó, bèn hỏi: "Sao chiếc này lại khác hai chiếc trước thế?"
Cán dù gắn một vòng tròn dày, có thể trượt lên trượt xuống. Trên vòng đục hai mươi tám lỗ, dùng để cố định các nan dù bên trong. Phần đỉnh có một ống bọc, được xẻ hai mươi tám rãnh nhỏ để các nan dù trượt lên trượt xuống. Mà hai chiếc dù trước đó đều là nan dù liền với cán dù, không có nhiều bộ phận thế này.
"Khác?" Chung Minh Chúc đang quét dầu lên trúc, nghe Trường Ly hỏi vậy thì ngẩn ra, sau đó mới phản ứng lại, nàng cười đáp, "Đây mới là khung dù bình thường. Tu sĩ có pháp lực, dù nan dù gắn thẳng lên cán cũng có thể mở ra thu vào. Nhưng không có linh lực thì phải bẻ gãy khung dù mới làm được thế. Phải có thêm khung đỡ này, nan dù mới chuyển động được."
Vừa nói, nàng vừa đẩy vòng tròn dọc theo cán dù, Trường Ly thấy khung đỡ bên trong theo động tác từ từ nâng nan dù lên. Khi vòng tròn đến đỉnh dù, hai mươi tám nan đồng loạt xoè ra.
Từ tuổi ấu thơ Trường Ly đã bắt đầu tu luyện, gặp mưa chỉ cần niệm chú tránh nước là xong, chưa từng căng dù. Nghe Chung Minh Chúc giải thích, nàng ấy tức khắc cảm thấy chiếc dù bình thường này ẩn chứa bao huyền cơ chưa từng biết đến.
Dường như Chung Minh Chúc nhìn thấu tâm tư nàng ấy, nhưng lại chỉ cười rồi thở dài với khung dù trên tay: "Tay nghề công tượng(*) ở nhân gian cũng không thua kém gì luyện khí sư của Tu chân giới."
(*) Thợ thủ công
Trường Ly nghĩ một lúc rồi khẽ "ừm" một tiếng, đồng tình với lời này. Liếc qua phao câu, thấy vẫn không có động tĩnh, nàng ấy liền nhìn tiếp xem Chung Minh Chúc định làm gì nữa.
Chỉ thấy Chung Minh Chúc căng dù rồi đặt sang một bên, lấy một cuộn vải dầu cùng một vại thuốc nhuộm khỏi nhẫn trữ vật. Trường Ly thầm nghĩ: Hẳn vải dầu dùng làm mặt dù, nàng ấy tưởng Chung Minh Chúc định vẽ trận pháp lên trên.
Ai ngờ Chung Minh Chúc cầm thuốc nhuộm lên, lắc lắc rồi đổ cả vại lên vải dầu. Đây là thuốc nhuộm màu chàm, bên trong còn pha chút bồ hóng, làm màu than chì loang ra mặt vải. Chung Minh Chúc cầm bút tuỳ ý phẩy vài đường, rồi điểm nhẹ lên vải để cố định màu sắc. Cuối cùng, nàng giũ vải dầu ra, đắc ý nói: "Đây gọi là Giang Sơn Yên Vũ Đồ."
Nghe nàng nói vậy, Trường Ly mới nhận ra các gam màu trên vải quả thực như dãy núi giữa màn mưa, sắc xanh với xám đan xen như hình bóng núi non xa gần, lại bị nước mưa hoà vào nhau, ranh giới mơ hồ lẫn lộn, đúng là khung cảnh trong mưa.
Chung Minh Chúc cắt tấm vải ra, khéo léo cố định trên khung dù. Nàng xoay cán dù vài vòng, híp mắt cười cười, lại cầm bút đi thêm vài nét. Sau đó nàng gập dù lại, đưa cho Trường Ly: "Xong rồi."
Trường Ly cầm dù, nhưng tay còn đang nắm cần câu nên đặt tạm lên bàn, Chung Minh Chúc bèn hỏi: "Không căng ra nhìn thử sao?"
"Ta nhìn rồi."
"Người mới nhìn lúc nó nằm trong tay ta thôi, sao mà bảo là nhìn rồi được."
"Hiện giờ phải nhìn ngay?" Trường Ly do dự nhìn cần câu trong tay.
"Đương nhiên là phải nhìn ngay."
Có lẽ do ánh mắt Chung Minh Chúc quá đỗi nóng bỏng, Trường Ly cứ cảm thấy nếu không làm theo lời nàng, rất có thể bản thân sẽ không câu nổi cá. Lại nghĩ, căng ra nhìn xem cũng không lỡ mất chuyện gì, nàng ấy liền đáp ứng.
Trường Ly gác cần câu lên đầu gối, một tay cầm cán dù, hơi nghiêng về phía trước, tay kia từ từ căng dù ra, nhận ra mặt trong cũng dính một ít thuốc nhuộm, tựa như nước mưa bên ngoài thấm vào.
Sau đó, nàng ấy thấy một vệt trắng ở bên phải phía sau. Trường Ly xoay cán dù, đưa vệt trắng ấy lên trước mắt.
Thoáng chốc, Chung Minh Chúc thấy những điểm sáng li ti bừng lên giữa màn đêm. Nàng cong khoé môi, hơi nghiêng người về phía trước, nhấc chén rượu lên uống cạn, rồi gác khuỷu tay lên bàn, lười nhác chống cằm, lặng lẽ nhìn Trường Ly.
Lá xanh vươn ra giữa nan cùng viền dù màu than chì, tựa như khóm cỏ dại ở góc tường Trường Ly thấy mấy hôm trước, ở giữa nở một bông hoa, là một bông hoa trắng nhỏ.
Chung Minh Chúc vẽ một bông hoa trắng dưới tán dù.
Năm cánh hoa trắng ngần, nhuỵ hoa vàng nhạt, lặng yên nở rộ dưới màn mưa.
"Thích không?" Chung Minh Chúc nhẹ giọng hỏi.Trường Ly nhìn bông hoa dại phác hoạ từ vài đường đơn giản nhưng sinh động như thật, nhất thời như có vô số mảnh vụn ký ức xẹt qua tâm trí, ồ ạt lướt qua, thậm chí nàng ấy chưa kịp nhận ra chúng là gì. Những mảng màu hỗn độn rất nhanh lặng lại, chỉ còn lại một đốm lửa nhỏ tựa tia nắng ban mai khẽ rung rinh trong lòng.
Trường Ly gật đầu, đáp: "Thích."
Vừa dứt lời, Chung Minh Chúc bỗng vươn tay qua, ống tay áo khẽ lướt qua mu bàn tay Trường Ly, tựa lông chim phe phẩy. Trường Ly ngẩn ngơ, liền thấy Chung Minh Chúc cầm lấy cần câu đặt trên đầu gối mình, nhấc lên, âm thanh mang theo ý cười vang lên sát gần, kéo theo hơi ấm lượn lờ: "Cắn câu."
Con cá vược dài hơn một thước bị kéo khỏi mặt nước, giãy giụa ở đầu cần câu.
Đã gần giữa trưa, đúng độ cuối xuân đầu hạ, ánh nắng chính ngọ khá gắt, nắng vàng rực rỡ chiếu xuống mặt hồ, vô cùng loá mắt.
Chung Minh Chúc đi xử lý con cá vược kia, Trường Ly thì nhìn vầng sáng viền quanh bầu rượu men xanh, chạm chạm tay vào. Bầu rượu được khắc phù văn, vẫn luôn mát lạnh suốt thời gian dài.
"Hàn đàm hương..." Trường Ly khẽ đọc tên rượu này, do dự một lát, nàng ấy lấy từ nhẫn trữ vật một cái bát lớn hơn, ngưng mấy khối băng rồi bỏ vào trong, sau đó lại đặt bầu rượu vào.
Có lẽ thế này sẽ tốt hơn chút, nàng ấy thầm nhủ.
Vừa bỏ vào không bao lâu, Chung Minh Chúc liền quay về, tay bê đĩa, cũng làm từ sứ men xanh giống chén và bầu rượu. Mới qua một lát, Trường Ly còn tưởng nàng về lấy đồ gì, lại thấy nàng đặt đĩa rồi ngồi xuống, như thể đã đại công cáo thành.
Trường Ly liếc qua chiếc đĩa men xanh, nhận ra cá còn sống nguyên.
Phần đầu, đuôi, xương và da cá đều được lọc ra, thịt được thái thành từng lát mỏng như cánh ve, thịt trắng tinh gần như trong suốt, ở giữa nhuốm chút đỏ nhạt, là phần thớ đỏ gần xương sống. Ba lát cá giữa đĩa cuộn thành nụ hoa, các lát còn lại xếp xoè ra xung quanh, đan xen chồng lên nhau như cánh hoa nở rộ. Cả đĩa cá tựa như một bông hoa, mà đĩa men xanh bên dưới là lá xanh làm nền.
Khi Trường Ly đánh giá đĩa cá, Chung Minh Chúc lại lấy thêm hai đĩa men xanh nhỏ ra, bên trong có vẻ là gia vị, đã được nghiền mịn, mang màu vàng kim.
Chẳng lẽ định nấu ngay tại đây? Trường Ly nghi hoặc, lại thấy Chung Minh Chúc đặt chiếc đĩa nhỏ cùng một đôi đũa trước mặt nàng ấy, lần nữa rót rượu vào hai chén. Khi thấy bầu rượu được đặt vào bát đá lạnh, Chung Minh Chúc "hửm?" một tiếng, liếc nhanh Trường Ly một cái rồi cười khẽ, miệng nói: "Tốt lắm."
Trường Ly không hỏi Chung Minh Chúc thấy cái gì "tốt lắm" mà truy vấn về đĩa cá: "Không nấu chín sao?"
Gia vị, đũa cùng rượu đều đầy đủ, hiển nhiên tiếp theo là động đũa, nhưng trong ấn tượng, Trường Ly chưa từng ăn qua thịt sống. Tuy với nàng ấy, ăn cơm là việc có thể có có thể không, nhưng giờ đây nàng ấy dần nhạy cảm hơn với thế giới xung quanh, không còn gạt bỏ hết mọi thứ khỏi tâm trí như trước kia nữa, nên mỗi khi gặp điều khác với trước kia, nàng ấy đều nghi hoặc, rồi lên tiếng hỏi.
"Nấu chín cũng được thôi, nhưng ta thấy cá này vừa tươi lại không tanh, nếu nấu chín e sẽ mất đi vị vốn có." Chung Minh Chúc gắp một lát cá trước, chấm nhẹ vào đĩa gia vị rồi bỏ vào miệng, tinh tế phẩm vị xong thì nuốt xuống, kế tiếp nhấp một ngụm rượu, chỉ chốc lát sau liền toát ra vẻ cực kỳ vui sướng, "Gỏi cá vược cùng hàn đàm hương quả là tuyệt phối."
Trường Ly bắt chước nàng, kẹp lên một lát cá nhúng vào đĩa, miếng cá trắng ngần nhanh chóng phủ lên lớp bột vàng óng, nàng ấy nhìn nhìn rồi lại hỏi: "Gia vị vàng kim này là gì?"
"Tỏi, gừng, muối, bạch mai, vỏ quýt, thịt hạt dẻ chín và gạo tẻ." Chung Minh Chúc liệt kê: "Lý lão bản nói vừa hay đã trộn sẵn rồi, nên đưa cho ta một hũ."
Trong lúc nàng liệt kê nguyên liệu, Trường Ly đã đưa miếng cá vào miệng. Quả là không chút mùi tanh, thịt cá thanh đạm, thoạt đầu tưởng nhạt nhẽo vô vị nhưng chỉ một lát sau, hương vị tươi ngon từ đáy lưỡi toả ra, vị chua ngọt mặn cay trong gia vị như những nét chấm phá tinh tế tô điểm cho thịt cá. Nàng ấy muốn tính xem tổng có bao nhiêu tầng hương vị, nhưng nhận ra nhất thời không đếm xuể, chỉ biết tất cả đều tuyệt vời.
Nuốt miếng cá, nàng ấy lại nhấp một ngụm rượu, rượu lúc này lạnh hơn trước, đánh bay hương vị còn sót lại nơi đầu lưỡi. Sau đó, hương rượu nhàn nhạt hoà quyện cùng dư vị của lát cá, lại hoá thành một mỹ vị khác.
Rượu kia có tên hàn đàm hương bởi vì nước ủ rượu được lấy từ hàn đàm trên núi cao, khi ướp lạnh có hương vị tốt nhất. Vì nhiệt độ thấp nên vừa vào miệng, hương rượu thoang thoảng, nước rượu mát lạnh, rất thích hợp uống vào ngày nóng bức. Tuy nay chưa vào hè nhưng đã là cuối xuân, thái dương chính ngọ tương đối gay gắt, cá vược sống kèm hàn đàm hương quả là tương xứng. Trường Ly thân thể Nguyên Anh, không sợ mệt vì ngấm rượu, chỉ thấy càng về sau hương vị càng thêm đậm đà.
"Thế nào?" Chung Minh Chúc cười tủm tỉm hỏi.
Trường Ly ngước mắt, nhìn thẳng vào Chung Minh Chúc, đáp: "Ngon lắm." Lại ăn thêm một miếng, nàng ấy hỏi: "Cái này gọi là gỏi cá vược à?"
"Ừm, nhưng còn một cái tên nữa, là: kim tê ngọc khoái." Chung Minh Chúc lắc nhẹ chén rượu, một tay gõ gõ mặt bàn, bốn chữ ấy lập tức nổi lên trước mặt bàn Trường Ly.
"Kim tê ngọc khoái." Trường Ly đọc theo, như muốn khắc ghi bốn chữ này vào lòng, đọc hai lần xong mới khẽ gật đầu, "Ta biết rồi."
"Tiếc là mùa hoa qua mất rồi." Lời Chung Minh Chúc dày đặc nỗi tiếc nuối, "So với mê cảnh hay Kiếm tiên tường ngọc, ta càng thích gọi nơi này là đào nguyên. Đến tháng ba năm sau, hoa đào nở rộ, ắt hẳn đẹp không sao tả xiết, đây chính là cái gọi là "nhân thế phồn hoa", là cái gọi là..." Nàng gõ nhịp lên mặt bàn, "tửu tỉnh chỉ tại hoa tiền toạ, tửu tuý hoàn lai hoa hạ miên; bán tỉnh bán tuý nhật phục nhật, hoa lạc hoa khai niên phục niên.(*)"
Nghe nàng ngâm nga câu thơ như khẽ hát, Trường Ly bỗng hoảng hốt, trước mắt dường như thật sự hiện ra bầu trời đầy hoa đào, bay lả tả tựa tuyết rơi.
Thật đáng tiếc, trong lòng nàng ấy thế mà cũng khẽ than thở.
(*) Trích từ bài thơ "Đào hoa am ca"(桃花庵歌) - Đường Dần(唐寅)
Dịch nghĩa bốn câu thơ:
Tỉnh rượu, thấy một mình ngồi trước hoa
Say rồi lại nằm ngủ dưới hoa
Nửa say nửa tỉnh ngày lại ngày
Hoa rụng hoa nở năm này qua năm khác
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com