Bộ Bộ Sinh Liên Q13c16-Q14c55
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 16: Chiết lan vương
Nguồn: Sưu tầm
“Thế làm sao được? Chúng ta ra tay tuy nhanh, Chiết gia vẫn thả mồi lửa, giờ doanh trại quân đội ở đây, thủ quân của Thạch Chủy Dịch đang gấp rút tiếp viện cho nơi này, những kẻ quyền thế của nam thành đều tập kết các gia tướng thị vệ, ý đồ giết qua sông đấy, bất kỳ ai cũng không thể ngờ được đại nhân người đoạt được Bách Hoa Ổ, mau chóng xóa sổ toàn bộ Chiết gia như vậy, lúc này đưa chúng đi, an toàn còn chưa biết thế nào, huống hồ còn có mạt tướng đi cùng”.
Xích Trung vẫn chần chừ không quyết, Tiêu Thần lại nói: “Đại nhân, quân đội trung thành với Chiết gia để cứu được Chiết gia ra tất sẽ không bỏ qua mà tận lực tấn công Bách Hoa Ổ, tuy nói nơi này lương thảo dồi dào, dễ thủ khó công, đủ để chống đỡ viện quân triều đình đuổi tới, nhưng như vậy, thương vong sẽ rất thảm. Nếu như người của Chiết gia được đưa đi an toàn, giao cho Vương Kế Ân đại nhân, các lộ viện quân một khi biết Chiết gia đã được khống chế trong tay triều đình, lòng quân sẽ tan rã, không có chí khí chiến đấu, có họ làm con tin, đại nhân mới có thể dễ dàng khống chế được Phủ Châu, chúng ta cũng có thể giảm thương vong đi nhiều”.
“Điều này…được, ngươi mau đưa người đi đi, nhất định phải là đích thân ngươi giao cho Vương Kế Ân đại nhân đấy”.
“Đại nhân yên tâm, thuộc hạ dù chỉ còn một hơi thở cũng quyết hoàn thành sứ mệnh”.
“Được, bổn quan cho ngươi ba nghìn…không, cho ngươi năm nghìn người, có trách nhiệm áp giải trên dưới Chiết gia, tuyệt đối không được để sơ xuất nào xảy ra”. Xích Trung chần chừ giây lát, mắt lóe lên tia lửa hận, khẽ nói: “Nếu như thực sự có bị người ta chặn đứng, không có cách nào thoát vây, thì ngươi…”
Tiêu Thần hiểu ý, gật đầu mạnh một cái, hung dữ nói: “Mạt tướng hiểu, nếu như có điều đó xảy ra thì trên dưới Chiết gia một trăm cái miệng sẽ bị xóa sổ”.
“Được, ngươi đi đi”.
Xích Trung nhìn Tiêu Thần bước đi, lo nghĩ một chút, nhanh chóng gọi mấy tên thân binh rồi vội vàng ra ngoài.
Xích Trung ẩn ở một bên cửa thành, lẩn vào trong đám binh sĩ, mắt thấy đèn lồng cây đuốc thắp sáng, một loạt xe ngựa đã chuẩn bị sẵn để chở cả nhà Chiết gia đi, những nhân vật quan trọng như Chiết Ngự Huân, Chiết Ngự Khanh đều ở trên chiếc xe chở tù của mình, Xích Trung tận mắt nhìn thấy bọn họ bị gô cổ trói lên xe chờ đi úc này hắn mới yên tâm.
Xe chở tù chạy nhanh qua Bách Hoa Ổ, chỉ thấy duy nhất một tòa cầu kiều vừa trải qua chém giết, bờ bên kia xác chết chồng chất dạt vào bờ, Tiêu Thần trầm giọng dặn dò: “Tắt đèn lồng, bỏ đuốc đi mà chạy”.
Một đoàn xe dễ đến hai mươi ba mươi chuyên chở tù ẩn vào trong màn đen của bóng đêm, vội vã đi dọc sông, đi xa gần dặm, chỉ thấy xa xa trên sơn lĩnh một cây đuốc sáng rọi lục tục về phía Bách Hoa Ổ, vội vàng tới để tiếp viện, Tiêu Thần thấy cười lạnh lùng.
Chiết gia tứ thái gia, ngũ thái gia và Lão thất, Lão cửu còn có Chiết Duy Xương và Chiết Duy Trung ngồi ở cùng một xe, ngũ thái gia say ngà ngà, tinh thần giờ đã tỉnh, hắn dựa vào ánh trăng nhìn ngó bốn phía, lẩm bẩm: “Tên phản tặc Xích Trung này muốn đem chúng ta đi đâu đây?”
Trầm ngâm một lát, không có ý nghĩ nào hiện lên, ngũ thái gia quay đầu, căm tức nhìn cửu lão gia nói: “Lão cửu, ngày trước, Tùy Phong của chúng ta luôn do ngươi phụ trách, tuy nói giờ giao cho Duy Chính nhưng hắn còn trẻ, nhiều chuyện vẫn do ngươi quản, ngươi quản lý kiểu gì vậy hả, cả nhà Chiết gia ta bị người ta phá, một chút tin tức cũng không hay”.
Cửu gia cười mếu máo nói: “Lão ngũ ơi, Tùy Phong chúng ta tai mắt đều sắp xếp bên ngoài, lẽ nào dùng để quan sát người trong nhà sao? Ai ngờ Xích Trung hắn ăn cháo đá bát, làm phản chứ?”
Lão ngũ tức giận không kiềm chế được nói: “Bọn chúng vây lấy lễ đường, khi quân Chiết gia ta buông tha chống cự, chẳng phải nói rồi sao, triều đình đã điều An Lợi quân, Long Đức quân khống chế được Trần Thế Hùng quảng Nguyên, Vương Kế Ân dẫn Ninh Hoa quân, Tấn Ninh quân, Bình Định quân, Uy Thắng quân tiến vào Phủ Châu, Tuy Châu thứ sử Lý Phi Thọ bí mật bắc thượng, mai phục chặn đánh viện quân Dương Kế Nghiệp Lân Châu, chúng ta không nên vọng tưởng, nhanh chóng đầu hàng sao? Đó không phải bên ngoài, còn có ai là bên ngoài nữ? Sao không thấy chút tin tức gì báo về hả?”
Lão Tứ lúc này cũng buồn rầu nói: “Không sai, dựa vào mình Xích Trung hắn thì coi là phản, nào có thể trấn được toàn Phủ Châu. Chính vào lúc này mới không lo hắn phản. Giờ hắn phản thật rồi, thực không thể xem thường, sau lưng Xích Trung ắt có triều đình nhúng tay vào cho nên hán mới to gan làm thế. Lão cửu ơi, Chiết gia chúng ta lần này xem như gặp nạn, nếu tùy phong có phát hiện được điểm gì nghi hoặc thì tốt quá”.
Lão tứ, lão ngũ luôn bình tĩnh nghĩ ngợi nói: “Chiết gia chúng ta tuy có mật thám song không thể xâm nhập vào trong chỗ cao cấp của Tống quốc được, nhưng Tống quân nếu như có biến động gì đó, thời gian đại quân điều động, âm thanh đâu có nhỏ? Nói như vậy thì tuyệt đối không thể giấu tai mắt chúng ta được”.
Lão tứ trầm ngâm nói: “Nói thực là họ đã giấu được tai mắt của ngươi, lẽ nào ngươi muốn nói, binh mã triều đình về cơ bản không tiếp ứng Xích Trung, là Xích Trung phát điên lên mới dựa vào Thảo Thành Xuyên và dốc toàn bộ lực lượng cũng không quá một vạn tám nghìn binh mã, muốn thay đổi triều đại, chiếm Phủ Châu?”
Tiêu Thần ngồi trên lưng ngựa đi cạnh đoàn xe tù đã nghe ngóng được hết tin tức họ nói, Tiêu Thần nhếch miệng quay đầu nhìn về phía Bách Hoa Ổ, mặt kiêu căng cười nham hiểm…
Lấy quân phạt thần thực sự không phải là việc quang minh chính đại gì cho kham, bởi vậy quan viên cao cấp của triều Tống chưa từng biết được kế hoạch mà Triệu Quang Nghĩa chiếm Phủ Châu, chỉ có tại ngoại dẫn binh, Vương Kế Ân từng đồng mưu với hoàng đế hành thích vua. Bởi vậy ở phương diện là triều đình, mật thám của họ thành công dưới bóng của triều đình, việc lần này cũng nghe ngóng được chút tin tức.
Phi vũ của Dương Hạo ngoài tin tức cố định cần phải có ra còn nắm bắt được tình hình chiến tranh, nhưng mật thám Tùy Phong của Chiết gia tuy nắm được tình hình chiến sự hành lang Hà tây song giám sát trọng điểm vẫn nằm ngoài Phủ Châu.
Theo như lời Chiết cửu gia nói, Tùy Phong mặc dù không thể xâm nhập vào trọng tâm và những nơi quan trọng của triều đình, nhưng chỗ trọng điểm mà triều đình đóng quân quanh Phủ Châu nếu họ có biến động gì, thì chắc chắn là không thể qua mắt được các mật thám đã được tôi luyện trong Chiết gia, thế mà sự thực khiến người ta không ngờ tới là: binh biến cấu kết trong ngoài lần này, Chiết gia không thể phát hiện ra chút manh động nào, nguyên nhân do đâu đây?
Phong hỏa đài nửa đêm rực sáng, Bách Hoa Ổ như một con rồng ngủ say không nhúc nhích bỗng nhiên trong bóng đêm nó sáng rực lên, đứng nơi xa cũng thấy.
Lân Châu xây dựng trên núi cao, Trường Thành dài liên miên, trong bóng đêm tĩnh mịt bốn phương tám hướng, họ quan sát được con rồng phương Bắc ngủ say không nhúc nhích bỗng gồng mình dậy, dấy lên ngọn lửa. Dương Kế Nghiệp đang chìm trong giấc ngủ say bỗng nhiên ngồi dậy mặc áo, hắn nhìn về phía trận địa xa xăm, thấy Phủ Châu sáng rực, không khỏi kinh ngạc.
Hôm nay là ngày đại thọ của Chiết nhị thái gia, hắn còn mang món lễ vật đến tặng người, Dương Kế Nghiệp thực không ngờ Phủ Châu đếm nay xảy ra biến cố gì, lẽ nào Chiết Nhị thái gia uống say hứng lên muốn chơi trò phóng hỏa?
Đương nhiên Dương Kế Nghiệp sẽ không nghĩ tới việc Chiết nhị thái gia sẽ chơi trò mạo hiểm này, tình hình trước mắt còn chưa rõ, nhưng binh quyền trong tay không thể chần chừ khi biết chuyện mới phát binh, lúc ấy sao kịp nữa, bởi vậy Dương Kế Nghiệp lập tức ăn mặc chỉnh tề, gõ trống gọi binh sĩ dậy, chuẩn bị một lộ nhân mã dẫn mấy trăm thám mã đi trước tìm hiểu xem sự tình ra sao, rồi phái con trưởng Dương Diên Lãng, con thứ Dương Diên Phố mang tám nghìn quân đuổi tới Phủ Châu.
Đại quân lên đường ngày đêm, thiết kỵ rong ruooit, trưa hôm sau đã đến được biên giới Phủ Châu và Lân Châu, nghỉ ngơi một lúc lại lên đường tiếp tục đuổi tới Phủ Châu, song trên đường không gặp tên Lý Phi Thọ nào cả…
Trời đã sáng, Xích Trung dựa vào địa thế hiểm yếu của Phủ Cốc bắc thành bố trí phòng tuyến, Bách Hoa Ổ nơi nhân gian tiên cảnh là doanh trại. Từ chỗ cao của Bách Hoa Ổ nhìn xuống, sự thay đổi chỉ sau một đêm bờ đối diện đã la liệt đội ngũ được tập hợp.
Xích Trung thấy vậy, quyền quý thế tộc dưới tay Chiết gia đều đi về nam thành, toàn bộ bắc thành Bách Hoa Ổ giống như dinh tự của Chiết gia, ban ngày hôm qua còn mở tiệc, tối qua các hào gia Chiết phủ đều về nam thành, âm mưu của Xích Trung khó mà khiếp đảm, cho nên toàn bộ binh lực đều tập trung ở bắc thành, đến nỗi không bắt hết được quan viên.
Song bộ đội chủ lực của Chiết gia đều không ở ngoại tuyến, Phủ Cốc có trọng binh bảo vệ xung quanh, binh mã của Phủ Cốc thì có hạn, nơi có trọng binh chỉ có Thạch Chủy Dịch và Doanh Bàn Lĩnh thủ binh, gộp lại cũng không quá một vạn người, dựa vào địa thế hiểm yếu của Bách Hoa Ổ thì chẳng lo sẽ bị họ đánh bại.
Dạo bước chầm chậm trong Bách Hoa Ổ, Xích Trung nhất thời đắc ý tự mãn: Binh mã Chiết gia ở vòng ngoài không cần phải lo, giống như Trần Thế Hùng trọng binh ở ngoài đã bị An Lợi quân, Long Đức quân của triều đình khống chế, Vương Kế Ân đại nhân đích thân dẫn bốn đạo binh mã Ninh Hoa quân, Tấn Ninh quân, Bình Định quân, Uy Thắng quân tấn công Phủ Châu, quân đội Phủ Châu như rắn mất đầu, mà thứ sử Lý Phi Thọ Tuy Châu bí mật bắc thượng, mai phục chặn đánh viện quân Dương Kế Nghiệp Lân Châu, hắn nghiễm nhiên có thể yên tâm ngồi nghe tin thắng trận.
Giả trẻ trai gái Chiết gia đề bị bắt sống, đây chính là kỳ công mà hắn dâng lên cho triều đình, đợi cho đội quân triều đình đem các lộ binh mã bắt đầu hàng, Xích Trung hắn sẽ trở thành chủ nhân mới của Phủ Châu.
Toàn bộ người nhà của Chủ cũ Chiết Ngự Huân đã bị chở đi, hắn yên tâm rất hiều, hắn bắt đầu được làm chủ Phủ Châu rồi, nhìn từng ngọn cỏ, tòa thành, hắn chưa bao giờ vui đến thế.
Đến buổi trưa, Xích Trung vui sướng ngồi ở hoa đình của Chiết gia, là nơi mà Chiết Ngự Huân thường dùng bữa với các thân tín quan lại ăn một bữa thịnh soạn. Xích Trung vô cùng hài lòng, không khỏi vuốt rầu cười nói: “Còn nhớ trước chúc thọ chỗ Chiết Ngự Huân đã từng được ăn món ngon của đầu bếp Phủ Châu, mấy món ăn này, vị không giống với đầu bếp Phủ Châu lúc đó, lẽ nào Chiết gia đã đổi đầu bếp ư?
Doanh chỉ huy Ngũ Duy cười nói: “Đại nhân, đêm qua hỗn chiến, các đầu bếp của Chiết gia hoảng sợ chạy trốn, trong loạn binh đã bị chúng ta chém chết hết rồi, những người còn thừa lại chỉ là mấy tên đồ đệ, mạt tướng đã bắt được tiểu thiếp mới của Chiết Duy Chính Lý Thị đến làm cơm cho ngài, Lý Thị là ái nữ của Phủ Cốc, tay nghề khá là được đấy ạ”.
Nói đến đây, Ngũ Duy nháy mắt một cái, khẽ nói: “Đại nhân, Lý Thị của Chiết Duy Chính tuy chỉ có mười ba tuổi song rất là xinh đẹp, nếu như đại nhân thích…”
Xích Trung vội ho khan một tiếng nghiêm mặt nói: “Ồ, ta ngươi trung hiếu với triều đình, phản Chiết gia hắn, đó là đại nghĩa, nếu như làm nhục người thân của người ta, thì có khác gì cường đạo? Những lời nói đó, về sau không được nhắc đến nữa”.
Ngũ Duy vội nói: “Vâng, vâng ạ, đại nhân nói không sai, từ nay về sau mạt tướng sẽ không nhắc đến nữa, để nó làm người hầu nấu cơm nước là được ạ”.
Xích Trung trầm ngâm: “Thế cũng không ổn, ừm.. nữ quyến Chiết gia còn có bao nhiêu người ở lại đây?”
Ngũ Duy vội nói: “Theo lời dặn dò của đại nhân, chính thất nữ tử của Chiết gia có nữ thất, tất cả đều đã cho vào xe tù, đưa tới chỗ Vương kế Ân đại nhân, những người còn để lại đều là thiếp thất chưa từng sinh nở, ở Chiết gia không được coi là nhân vật quan trọng”.
Xích Trung xua tay: “Đưa chúng tập trung ở sau lầu, trông giữ cho cẩn thận, không được quấy rầy, còn Lý Thị ấy, dù sao cũng là người của Chiết gia, không được ức hiếp quá mức”.
Ngũ Duy hơi đắn đo, miễn cưỡng nói: “Vâng”. Mấy viên tướng khác nhìn nhau.
Xích Trung quan sát nét mặt họ, thấy tình hình như vậy đã hiểu được, sắc mặt trầm xuống.
Cưới vợ rước đức, đêm qua loạn quân xông vào Bách Hoa Ổ, Xích Trung đã tận mắt chứng kiến một a hoàn của Chiết gia bị các tướng lĩnh thuộc hạ của hắn xé rách quân áo cưỡng hiếp, giờ Ngũ Duy và các tướng lĩnh có bộ dạng như vậy, sợ rằng các tướng lĩnh cậy quyền cậy thế đã chiếm được vài nữ nhân của Chiết gia rồi, còn thiếp của thiếu chủ Chiết gia thân phận tương đối cao thì nhường cho hắn.
Xích Trung khẽ hắng giọng: “Đợi đại quân triều đình vào Phủ Châu, hàng phục các lộ loạn quân, bổn quan là Phủ Châu tiết độ. Từ xưa tới nay cho dù là thời đại nào thì phần mộ tổ tiên của triều trước, cung tần mỹ nữ cũng không phải là không giữ lại. Hiểu không? Nếu như giờ vừa mới không được lòng dân, về sau chúng ta làm sao có thể đứng vững ở phủ cốc được? Giờ vừa mới có được phủ cốc, các người chớ có làm bậy, để cho các bậc hào môn biết được? Ai còn dám hàng chứ? Thực thiển cận”.
Các mỹ nữ của Chiết gia thực sự đã bị các tướng lĩnh dưới quyền Xích Trung chia chác nhau, trong thời gian gấp gáp quá, suốt đêm bố trí phòng nghỉ. Có rất nhiều nữ nhân tạm thời còn ở phía sau. Đợi đến khi trời sáng, trật tự đâu vào đấy, không dễ gạt Xích Trung những việc này nữa, lúc này chúng mới xúi Ngũ Duy chọn ra Lý Thị đáng yêu xinh đẹp dâng lên Xích Trung. Sau đó muốn nhân cơ hội, chỉ cần Xích Trung đem nàng nhét vào trong phòng, bọn chúng cũng có thể đường đường chính chính phân chia nữ nhân, không ngờ Xích Trung một lòng một dạ nghĩ tới chuyện trở thành Phủ Châu tiết độ sứ, muốn tốt không ngờ còn bị giáo huấn cho một bài.
Ngũ Duy bị giáo huấn mặt mày xám xịt, vâng vâng dạ dạ, Xích Trung lạnh lùng nói: “Đợi khi bổn quan trở thành Phủ Châu tiết độ sứ, các ngươi đều sẽ được phong thưởng, mỗi người đều sẽ là đại tướng trấn thủ một phương, muốn tiền có tiền, muốn quyền có quyền, còn sợ không có mỹ nữ ư? Tập trung nữ nhân Chiết gia lại đi, không được động chạm đến, chớ nhìn cái lợi trước mắt”.
“Dạ vâng ạ…”
Ngũ Duy luôn mồm nói câu này, rồi một thám báo chạy vào bẩm: “Đại tướng quân, nam thành tập trung binh mã, dưới sự chỉ đạo của Nhậm Khanh Thư đang muốn tấn công chúng ta lần nữa ạ”.
Xích Trung ung dung cười nói: “Nhâm Khanh Thư ư? Ha ha, bổn quan đối xử với hắn đâu đến nỗi, tên này rượu mừng không uống muốn uống rượu phạt, nhưng tiền tài nằm trong tay, tương lai của bổn quan không thể thiếu đi nhân tài thế này được, đợi bổn quan đi chiêu hàng hắn”.
Hắn vừa đứng dậy, lại có một tên khác chạy vội vào bẩm báo: “Báo, đại tướng quân, bên Lân Châu đã phái viện binh rồi ạ, con trưởng của dknghiep Dương Diên Lãng dẫn ba nghìn khinh binh đi trước, đến Doanh Bàn lĩnh rồi ạ, hợp với thủ quân Doanh Bàn lĩnh rồi ạ”.
Xích Trung mặt mày tái nhợt, hỏi: “Sao thế được? Người của Lân Châu sao biết mà đến nhỉ? Ngươi nhìn thấy đúng không đấy?”
Tên thám báo đó nói: “Thuộc hạ nhìn không lầm đâu ạ, cách một đạo sơn lĩnh, cờ tung bay, chữ viết rõ ràng, đích xác là cờ hiệu của Dương Diên Lãng Lân Châu ạ”.
Xích Trung kinh hãi, lẩm bẩm: “Sao thế được nhỉ? Sao thế được? Theo như dự đoán, không phải Lý Phi Thọ Tuy Châu chặn đánh viện quân Lân Châu sao? Sao lại tới chỗ ta nhanh vậy được?”
Doanh chỉ huy, Lưu Tranh nhẩy dựng lên hét: “Con mẹ nó chứ, chẳng lẽ hoạn quan triều đình âm một đạo chúng ta?”
Xích Trung liếc nhìn hắn, quát: “Đồ ngu xuẩn không biết động não, triều đình có được tây bắc, dù có cơ hội, há lại dễ dàng bỏ qua, ngươi là đứa trẻ sao, đường đường một vị hoàng đế. Hao tổn tâm cơ như vậy lại không xuất một binh một tốt, vì xem nội loạn Phủ Châu ư? Phủ Châu tuy thủ lĩnh mất đi làm giảm nguyên khí, bên cạnh còn có Dương Hạo giương giương mắt hổ đấy, Triệu quan gia ngồi đó để cơ hội vụt đi sao?”
Lưu Tranh bị chửi không dám lên tiếng, Ngũ Duy đứng bên nói: “Không sai, triều đình hợp mưu với ta, há lại đùa dỡn? Theo quan sát của mạt tướng, sợ rằng binh mã Tuy Châu nan địch Dương gia tới”.
Hắn chắp tay nói: “Đại nhân, sau khi Tuy Châu tự Lý Phi Lộc chết đi, trong hai năm qua, lại chịu sự chèn ép của Lân Châu và Phủ Châu, tình hình càng không ổn, sĩ khí lòng quân sợ rằng đã sớm không chịu nổi rồi, mà hiện giờ Dương gia đông chinh tây phạt, là vô địch thủ của tây bắc, khi sĩ khí đỉnh cao, binh Tuy Châu kia sợ rằng không thể ngăn được họ”.
Xích Trung nghe phân tích của Ngũ Duy, cách nghĩ của mình không mưu mà hợp, đổi giận thành vui nói: “Không tệ, nghĩ lại đúng thế thật. Ha ha, đại quân Chiết gia không thể có cách nào mà hồi viện, dựa vào một đường nhân mã Lân Châu thì làm được gì chứ? Chúng không đến thì thôi, đã đến rồi thì đừng có nghĩ ngày trở về, Quan Gia muốn thôn hạ Phủ Châu, há lại tha Lân Châu, đợi đại quân triều đình đến, chúng ta nổi trống, giết gọn Lân Châu”.
“Tướng quân anh minh…”
“Ha ha ha…”
***
Nhâm Khanh Thư tổ chức các gia tộc quyền thế, tư binh gia tướng của các quan viên muốn liên hợp đóng quân Doanh Bàn lĩnh, Thạch Chủy Dinh, phát tấn công lần nữa tới Bách Hoa Ổ, tranh thủ cứu vài người Chiết gia, tin này truyền đi, Lân Châu Dương gia đã phái viện quân.
Lúc này nơi đay, Nhâm Khanh Thư là Bảo Đức quân tiết độ sứ và huynh đệ kết giao của Chiết Ngự Huân, là một quan chức tối cao của Phủ Châu, nghe tin lập tức ngừng tấn công, hội kiến thống lĩnh viện quân Dương Diên Lãng.
Hai bên gặp nhau, Nhâm Khanh Thư liền nói: “Thiếu tướng quân, Phủ Châu ta khi gặp nguy cấp, Lân Châu phái viện quân, Nhâm Khanh Thư thực rất cảm động, giờ ta thay mặt lệnh tôn của nha ta cúi đầu cảm tạ Dương soái”.
Dương Diên Lãng vội hoàn lễ: “Nhâm đại nhân quá khách khí rồi, hai nhà ta ngươi vui buồn có nhau, nói gì tới cảm tạ chứ. Chỉ là…Lân Châu ta thấy dấy hỏa vội phái binh mã, tới giờ vẫn chưa biết Phủ Châu xảy ra chuyện gì”.
Nhâm Khanh Thư cười mếu máo nói: “Nói ra khó có thể tin được, Thảo Thành Xuyên phòng ngự sứ Xích Trung không hiểu lên cơn điên thế nào quay ra binh biến chiếm Bách Hoa Ổ, vừa mới khống chế nam thành, không chế hết toàn bộ Chiết gia”.
Dương Diên Lãng thất thanh nói: “Ôi sao thế được chứ? Hắn…lẽ nào nghĩ vậy mà đến dễ dàng đổi chủ Phủ Châu, từ nay về sau sao quản thúc được?”
Nhâm Khanh Thư méo mó: “Chính là vì không thể cho nên ta cũng luôn nghi ngờ, có lẽ…Chiết soái làm gì đó khiến Thảo Thành Xuyên hắn không hài lòng, muốn loại chức quan của hắn cho nên hắn mới bí quá hóa liều chăng? Giờ trên dưới Chiết gia đều bị hắn khống chế, nguyên nhân rốt cuộc do đâu, ta khó mà hiểu được”.
Dương Diên Lãng lắc đầu, bỗng hỏi: “Bên triều đình có động tĩnh gì không?”
Nhâm Khanh Thư nói: “Thiếu tướng quân nghi ngờ Xích Trung đã bị triều đình thu phục ư? Không giấu gì ngươi, sau khi ta được tin Xích Trung tập kích Bách Hoa Ổ, điều đầu tiên nghĩ tới cũng là khả năng này, giờ đã phái thám mã và các chỗ đóng quân liên lạc với nhau, đồng thời vì các cửa Chiết gia đều đã bị khống chế, Tùy Phong cũng vừa bắt được liên lạc với ta, giờ do ta tiếp nhận quản lý. Theo như những gì ta nắm được, hiện giờ triều đình không chút gì là kỳ lạ cả, chỉ có một lộ nhân mã của Xích Trung khoảng bốn năm nghìn người vội vã quay về Thảo Thành Xuyên, khiến người ta không hiểu gì”.
Dương Diên Lãng nghe nói vậy cũng không chịu được nói: “Toàn gia tộc Chiết soái đều đã bị rơi vào tay hắn, khó giải quyết đây, không hiểu mục đích của hắn là gì, không thể liệu trước được. Nhâm đại nhân, Diên Lãng có ý kiến thế này”.
“Thiếu tướng quân mau nói đi”.
“Binh mã của ngoại vi phủ huyện của Chiết gia không thể dễ dàng rút về thế được”.
Nhâm Khanh Thư vuốt cằm nói: “Ta cũng nghĩ vậy cho nên bắt được lên lạc với họ, tin tình báo tạm thời không báo cho Dương thái úy vội”.
Dương Diên Lãng nói: “Việc này can hệ trọng dại, hẳn là tình hình nắm được hãy báo với Dương thái úy, việc này chúng ta chỉ sợ không kham nổi”.
“Ta hiểu, việc này tất nhiên phải nói với Dương thái úy, đồng thời có cái may trong ngàn cái rủi là, vì Chiết nhị thái gia đại thọ, trên dưới Chiết gia đều về Phủ Châu, kết quả bị Xích Trung tóm gọn, nhưng ngũ công tử của chúng ta lại không xuất hiện, ta nghĩ…sau khi được itn Phủ Châu xảy ra chuyện, nàng sẽ hiện thân thôi”.
Nhâm Khanh Thư tuy lo lắng song vẫn cố cười nói: “Giờ Dương thái úy ở tây vực, dù có biết tin cũng không kịp về, giờ quân Chiết gia chỉ có thể nhờ vào ngũ công tử xuất hiện chủ trì đại cục thôi”.
Dương Diên Lãng gật đầu nói: “Thứ ba tạm thời ngừng tấn công Bách Hoa Ổ, thử đi gặp Xích Trung một phen xem sao, hiểu nguyên nhân tại sao hắn nhốt Chiết soái là do ân oán cá nhân thấy lợi tối mắt, cố gắng bảo vệ lấy toàn gia Chiết soái, nghĩ cách cứu lấy bọn họ ra”.
Nhâm Khanh Thư vui vẻ nói: “Thiếu tướng quân nói không sai rất giống ý ta, chúng ta làm vậy đi”.
****
Nhâm Khanh Thư nghe theo lời Dương Diên Lãng nói, vừa thông báo cho các quân trấn bên ngoài của Chiết gia cần phải giữ nghiêm không được động thủ, vừa dặn dò Tùy Phong vội lên đường nghe ngóng tin tức triều đình, đồng thời thông qua tình báo báo tình hình mới nhất của Phủ Châu cho Dương Hạo, rồi lại phải một tên tới Bách Hoa Ổ gặp Xích Trung.
Đương nhiên, xét về lý, Nhâm Khanh Thư không làm gì cũng phải tông báo tin mới nhất cho Đại đương gia Thôi Đại Lang, song, giờ hắn tuy là nhân vật tướng lĩnh của Chiết gia quân nhưng Chiết gia kinh doanh ở Phủ Châu hơn hai trăm năm nay, đại thụ bén rễ sâu, hình thành nên một đoàn thể lợi ích, Nhâm Khanh Thư giờ tuy là người dẫn đầu của người ta, cũng không thể có chuyên quyền độc đoán được, vừa dựa vào chủ trương của Thừa Tự đường đi làm việc, giờ chưa có chỉ thị của Thôi Đại Lang thì hắn cũng không có thân phận chủ trì đại cục.
Nhâm Khanh Thư phái quan viên tới Bách Hoa Ổ, nhưng chưa vào cửa đã bị đuổi ra, Xích Trung không chấp nhận tiếp kiến.
Xích Trung đương nhiên là từ chối rồi, trên dưới Chiết gia đã bị hắn thâu tóm giao cho Vương Kế Ân rồi, là kẻ phản bội, nhưng vẫn có ba phần thiên lương, không còn mặt mũi nào gặp cố nhân, tình hình căng thẳng, hắn còn cần gì đàm phán với đám quan Chiết gia nữa.
Nhâm Khanh Thư được tin báo về, họp các quan lại Phủ Châu lại, Dương Diên Lãng và Dương Diên Phố vừa chạy đến cũng bị từ chối, kết quả thảo luận vẫn không nể nang gì, sẽ giao chiến với Bách Hoa Ổ.
Quân Dương gia không hề trở ngại, tức tốc xuất hiện ở phủ cốc, khiến Xích Trung sinh nghi, nhưng trong công phòng chiến tiếp theo, hắn phát hiện quân đội Nhâm Khanh Thư sử dụng chỉ có Doanh Bàn lĩnh, Thạch Chủy Dịch và do đội ngũ phủ cốc nam thành hào thân thế gia, quyền quý gia tướng, còn có nhân mã Lân Châu Dương Kế Nghiệp, quân đội vòng ngoài không lộ diện, lúc này mới yên tâm.
Với tình hình trước mắt cho thấy, binh mã Lân Châu xuất hiện ở đây không phải Lý Phi Thọ Tuy Châu bị lẫn, mà là quân đội của hắn không chịu nổi một kích, đại quân ngoại tuyến Phủ Châu không thấy hồi viện, có thể thấy Vương Kế Ân vẫn dựa vào điều động các quân để tấn công, tình hình lòng quân hỗn loạn rắn mất đầu, quân đội Phủ Châu không thể là đối thủ của binh mã triều đình được, hắn chỉ cần trấn thủ Bách Hoa Ổ, đợi tin chiến thắng của Vương Kế Ân.
Có thể thấy, Xích Trung lợi dụng địa thế hiểm yếu của Bách Hoa Ổ thủ mà không tấn, ở thế giằng co với binh mã Nhâm Khanh Thư.
Hôm nay, Tiêu Thần đã áp giải già trẻ trai gái của Chiết gia tới Thảo Thành Xuyên, Xích Trung dốc toàn bộ lực lượng, Thảo Thành Xuyên giờ là tòa thành trống, Tiêu Thần không thèm vào thành, đi vòng quanh thành, chạy về phía Tế Yêu Trại.
Tế Yêu Trại là nơi đóng quân của Ninh Hoa quân triều đình, dựa vào núi mà xây, núi này từ trên cao nhìn xuống, như một tiểu mỹ nhân, vì tòa núi đều nổi lên khác biệt với cái tên, Thảo Thành Xuyên Chiết gia ba chỗ tiếp giáp cửa ải hiểm yếu, lần lượt là Nhũ Sơn Cố, Hồng Thần Lĩnh và Tế Yêu Trại. Tế Yêu Trại ở giữa, là yếu đạo ra vào Trung Nguyên.
Lúc này sơn tây đạo quan sát sứ Vương Kế Ân đã đi từ đại châu tới, đóng quân ở Tế Yêu Trại, tin Tiêu Thần vừa mới đến đại trại, Vương Kế Ân không chờ đợi vội ra nghênh đón, vừa thấy có đến hơn hai mươi chiếc xe, Vương Kế Ân vừa lo vừa mừng, vội hỏi: “Tiêu tướng quân, người Chiết gia tất cả đều ở đây sao?”
Tiêu Thần đắc ý cười nói: “Mạt tướng may không làm nhục mệnh Chiết gia ngoài Chiết Tử Du thích cải trang thành nam nhi ra, trên dưới Chiết gia đều có ở đây không thiếu một ai ạ”.
Vương Kế Ân cười ha ha, vỗ vào vai Tiêu Thần nói: “Tiêu tướng quân có công lớn rồi đấy, chỗ Quan Gia không thể thiếu được chỗ ngồi vững chắc”.
Tiêu Thần vội nói: “Còn cần đại nhân chỉ bảo nhiều ạ”.
Vương Kế Ân rất vui, vội hỏi tình hình Phủ Châu, rồi dặn dò: “Người đâu, đem tất cả xe chở tù Chiết gia này trói lại trước lều nghe lệnh”.
Vương Kế Ân trở vào trong lều lớn, ghì tay lên bàn, bên trái của bàn là chiếc Vương kỳ, bên phải là thẻ lệnh, vẻ mặt nghiêm nghị, uy phong lắm, hắn hơi nhướn mày, nghiêm nghị quát: “Người đâu, cho mời…Bảo Đức tiết độ sứ Chiết Ngự Huân Chiết đại tướng quân”.
Không lâu sau, hai tiểu tốt dẫn Chiết Ngự Huân bị trói vào trong lều lớn, Vương Kế Ân vừa thấy, tức giận nói: “Buồn cười thật, Chiết đại tướng quân là mệnh quan triều đình, Quan Gia đối xử không tệ với hắn, sao ngươi dám gô cổ người ta lại thế hả? Mau mau mở trói, mời ngồi”.
Hai tiểu tốt vội vàng cởi trói cho Chiết Ngự Huân, rồi dọn chỗ lấy một ghế ra cho Chiết Ngự Huân ngồi, Chiết Ngự Huân cả chặng đường ngồi trên xe chở tù, có chút mệt mỏi, nhưng vừa thấy Vương Kế Ân, mắt hắn lóe tia lửa như muốn nuốt gọn Vương Kế Ân, hắn không thèm ngồi ghế, đứng đó tức giận quát: “Thì ra là thế, Xích Trung đã bị các người mua chuộc nên phản bổn soái”.
Vương Kế Ân vẻ mặt vô cùng kinh ngạc nói: “Chiết tướng quân, ngài nói gì vậy, Vương Kế Ân nghe không hiểu?”
Chiết Ngự Huân hừ lạnh nói: “Vương đại nhân, Chiết mỗ gặp hạn, muốn chém giết gì là do ngươi, đại nhân cần gì phải làm ra vẻ như vậy?”
Vương Kế Ân cười méo mó, nhìn xung quanh nói: “Chiết tướng quân đang nói chuyện gì, các người có hiểu không?’
Thị vệ đứng hai bên đồng thanh khom người: “Tại hạ không rõ”.
Vương Kế Ân xua tay cười nói: “Ta thì lại hiểu đấy, Chiết tướng quân chắc là đang tức giận nên có chút hồ đồ”.
Vương Kế Ân cười dài trên ghế, phất mạnh ống tay chậm rãi nói: “Chiết tướng quân chớ tức giận vậy, mời ngồi”.
Hắn ngừng một lúc lại nói: “Dương Hạo lòng muông dạ thú, âm mưu phản Phủ Châu đã lâu. Sau khi hắn chiếm được Lân Châu trước, sẽ bắt đầu dọn đến địa bàn Phủ Châu, lần này, đích thân hắn dẫn quân tây chinh, thế như chẻ tre, đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi, toàn bộ chỗ Hà tây dường như đã bị nằm gọn trong tay hắn, duy chỉ có Phủ Châu..hắc hắc, hai châu lân phủ la fmoon hộ của Hoành Sơn, hắn đã được tây vực, có Trung Nguyên, lần này, há lại bỏ qua Chiết tướng quân?”
Bởi vậy, hắn cấu kết với Xích Trung, ban đêm đánh lén phủ cốc, Lân Châu Dương Kế Nghiệp cũng tiếp ứng đúng lúc, thừa dịp Chiết soái không chuẩn bị, cuối cùng đã đoạt được phủ cốc. Đáng tiếc thay, cẩn thận mấy cũng có sai sót, vào thời điểm nguy nan, lại thể hiện rõ. Phó tướng của Xích Trung Tiêu Thần tướng quân rất hiểu đại nghĩa, không làm bạn với kẻ trộm, thời điểm đó, Tiêu tướng quân cứu lấy gia tộc Chiết tướng quân, chạy tới Tế Yêu Trại, rồi qua chỗ bổn quan nhờ cứu viện, Chiết tướng quân, hạ quan nói có đúng không?”
Chiết Ngự Huân hơi sững sờ, cặp lông mày nhọn lên: “Ta hiểu rồi, hiểu rồi, hắc hắc, ha ha…”.
Chiết Ngự Huân ngửa mặt lên trời cười như điên: “Một kế hoạch hay một hòn đá ném hai con chim, làm kỹ nữ rồi lập đền thờ, vừa chiếm được Phủ Châu ta, lại còn lấy cớ để tấn công Dương Hạo. Kế hoạch quá hay, thực là hay, đáng cười cho Xích Trung, một lòng một dạ nghĩ mình được trèo lên chỗ cao nhất, không ngờ, hắn chỉ là một tay sai bị người ta lợi dụng, ha ha ha…”
Vương Kế Ân cười bồi theo hắn, đợi hắn cười xong, Vương Kế Ân mới khẽ nói: “Chiết soái, nói lời gì vậy, ngài xem xem, đây là tấu chương ngươi cầm bút viết, Dương Hạo cấu kết với Xích Trung, tấn công chiếm Phủ Châu, mưu đồ gây rối, Chiết đại tướng quân cử gia đầu hàng triều đình, mời triều đình xuất quân bình định, giấy trắng mực đen, viết rõ ràng ra đây này, người đâu, mang cho Chiết tướng quân xem, nếu như không có vấn đề gì, thì hãy chép lại một bản, ha ha, Chiết tướng quân, ngài yên tâm, Quan Gia…nhất định sẽ chủ trì công đạo”.
“Nhổ vào cái mặt ngươi”. Chiết Ngự Huân mắt như tóe lửa, khuôn mặt đỏ đậm đã thành đỏ tím: “Ngươi đánh được lắm, hắc hắc, phải mưu Phủ Châu ta, các người đã được rồi. Lấy quân phạt thần, xuất sư bất chính, dễ dàng cho ngươi chiếm rồi, bêu danh này, ngươi cũng phải nhận lấy, còn muốn Chiết mỗ vẽ đường cho hươu chạy phải không?”
Vương Kế Ân mặt trầm xuống, gằn giọng: “Chiết Ngự Huân. Bản tấu chương này nếu như không phải ngươi viết, ngươi nói xem triều đình không có cách nào chính danh ư? Hắc, thiên hạ rộng lớn, muốn tìm vài tên có nét bút giống ngươi nào có khó? Triều đình vị tất cần ngươi làm chứng, di thư của ngươi, có thêm phó tướng Xích Trung Tiêu Thần làm nhân chứng, như vậy đã đủ rồi”.
Nếu như Chiết gia ngươi đều chết ở phủ cốc, dựa vào di thư ngươi, triều đình có thể danh chính ngôn thuận dẫn binh chiếm lấy Phủ Châu, thảo phạt Dương Hạo. Để lại cái mạng ngươi làm nhân chứng, chẳng qua là thêu hoa trên gấm thôi, ngươi nói thiếu ngươi thì sẽ không thể lấy được lòng tin cả thiên hạ sao? Để lại cái mạng ngươi, ngoan ngoãn theo ý Quan Gia, về sau cụp đuôi lại nghe Quan Gia, Chiết gia ngươi cả nhà ít nhất có thể bảo đảm tính mạng, Chiết đại tướng quân ngươi còn có chức quan mà Quan Gia ban cho. Nhưng nếu như ngươi không nghe, Chiết gia không chừa một ai sống sót, chẳng lẽ ngươi không hiểu điều này?”
Râu tóc Chiết Ngự Huân bay bay, tức giận nói: “Ngươi nói gì?”
Vương Kế Ân thản nhiên nói: “Chiết tướng quân, ngươi thấy rõ ràng giờ Chiết gia ngươi đều nằm trong tay ta, sinh tử của họ, chẳng lẽ ngươi không nhận thức được”.
Vương Kế Ân nhìn ra ngoài lều, Chiết Ngự Huân quay đầu lại nhìn thấy già trẻ trai gái của Chiết gia bị ấn đè thành hai hàng, Chiết Ngự Huân xót xa chạy ra ngoài, thấy già trẻ Chiết gia phía sau họ đều có hai binh sĩ áp giải và một tên đao phủ cầm chiếc đao sáng loáng, Chiết Ngự Huân mặt bệch như tờ.
Vương Kế Ân đẫn đám thị vệ đi ra ngoài, thản nhiên cười nói: “Chiết tướng quân, nếu như Chiết gia có trăm mười người, lần này chết cả thể với nhau, ngươi nói xem, có tưởng tượng được không?”
Chiết Ngự Huân run run không nói được gì, Chiết gia căn cứ theo đại vị sẽ biết ai quan trọng, đi ra ngoài lều, người thứ nhất bị trói là Chiết nhị thái gia tóc trắng xóa, Chiết nhị thái gia đau đớn xong vẫn cố nói: “Ngự Huân, đều là vì lão gia này mới hại cả nhà Chiết gia…”
Chiết tam thái gia đứng bên cạnh tức giận quát: “Lão nhị, lúc này còn nói chuyện này làm gì, chẳng có gì đáng chê cười cả. Ngự Huân, Chiết gia ta thống trị Vân Trung hai trăm năm nay, uy phong cả hai trăm năm, vinh hoa phú quý, quyền địa vị đều được hưởng rồi, chỗ tốt của thiên hạ chúng ta cũng đã chiếm được, giờ tình cảnh này, cũng không có gì cả, Chiết gia ta cho dù chết cũng không chịu thua người”.
Vương Kế Ân quơ quơ ống tay, mỉm cười: “Chiết tướng quân, có thể nói những lời đó sao?”
Mặt Chiết Ngự Huân trắng bệch, con ngươi đỏ đậm như máu, răng nghiến chặt không nói câu gì, khóe môi Vương Kế Ân nở nụ cười, hắn chậm rãi giơ tay lên, rồi vung mạnh lên, cụp một tiếng, một đao phủ giơ cương đao lên, không chút do dự bổ xuống.
Người Chiết gia bị chặt đầu không kịp nói tiếng nào, chỉ thấy máu me lênh láng, đầu người rơi phịch xuống đất, Chiết Ngự Huân lập tức nghiến chặt răng, hai mắt đỏ ngầu rơi lệ.
Cụp, lại một tiếng nữa bổ xuóng, tên đao phủ giơ đao lên lấy đà…
Đầu người nhuốm máu rơi lăn lóc, vào tiếng cụp thứ sáu vang lên, Chiết Ngự Huân tan vỡ, người thân của hắn, Chiết Ngự Huân như bị vẩy nước, thảm thiết nói: “Dừng tay”.
Vương Kế Ân mỉm cười: “Vương soái đã hồi tâm chuyển ý rồi đấy ư?”
Chiết Ngự Huân lườm mắt nhìn quắc sang Vương Kế Ân, Lão ngưu thở hổn hển nói: “Được,…ta…ta viết…”
Vương Kế Ân đắc ý cười một tiếng, Dương Hạo nói: “Người đâu, đưa một chiếc bàn đến cho Chiết soái”.
Lúc ấy có đến mấy binh sĩ bê bàn ra, người mang bồ đoàn, người mang văn phòng tứ bảo, giấy tờ, Vương Kế Ân lấy một vật trong ống tay đưa cho một tên thị vệ, mở to ra trước mặt cho Chiết Ngự Huân, Chiết Ngự Huân cầm bút, múa bút thành văn.
Người của Chiết gia không biết Vương Kế Ân bắt hắn viết gì, Chiết nhị lão gia giận dữ: “Chết cũng được, Chiết Ngự Huân ơi, không được đồng ý với bọn chúng bất kỳ cái gì”.
Chiết lão tứ trừng mắt nhìn Tiêu Thần: “Phủ Châu đã rơi vào tay các người rồi, Chiết gia ta cũng đã thành tù nhân, các ngươi còn muốn gì nữa?”
Vương Kế Ân nhếch miệng cười nói: “Mấy vị lão nhân gia chớ giận, việc Chiết soái giờ làm chính là đang bảo vệ toàn bộ Chiết gia đấy”.
Chiết Ngự Huân nhe răng, múa bút, không đáp lời nào, vội vàng viết viết bản tấu, Chiết Ngự Huân nhấc bút, nhìn chằm chằm tấu biểu, bình tĩnh một lúc sau, rồi mới đề tên mình.
Thị vệ lập tức cầm lấy tấu biểu giao cho Vương Kế Ân, Vương Kế Ân mở tấu biểu ra, nhìn từ đầu tới cuối một lượt, nhướn mày cười nói: “Được, được được lắm, Quan Gia đợi lâu lắm rồi, ha ha, triều đình hơn mười vạn quân đều đợi tấu biểu này của Chiết đại tướng quân”.
Vương Kế Ân phất tay, lập tức có người cho vào trong ống, Vương Kế Ân trầm giọng quát: “Lấy khoái kỵ tám trăm dặm, cấp tốc tới Biện Lương”.
“Tuân lệnh!” Tên thị vệ đó chắp tay tiếp nhận, thối lui vài bước, rồi xoay người nhẩy lên chiến mã đã chuẩn bị sẵn, cầm cương ngựa giật mạnh, mấy chục thị vệ đuổi theo rời khỏi quân doanh.
Vương Kế Ân vui sướng, quay sang cười với Chiết Ngự Huân nói: “Chiết tướng quân àh, chờ một chút nhé, bổn quan phái người đem nhà ngươi tới kinh sư. Ha ha, Chiết soái là người thông minh, ngươi nên biết, chỉ cần ngươi ngoan ngoãn nghe lời Quan Gia, thì…ngươi sống còn tốt hơn cả chết. Đợi Quan Gia nhận được thư của ngươi xong, thì cả nhà ngươi đều sẽ an toàn, Quan Gia sẽ ban thưởng cho ngươi nhà cửa hoa lệ, rồi chức quan công trạng…”
“Ha ha ha…” Chiết Ngự Huân phá lên cười, ngẩng mặt lên trời cười, Vương Kế Ân giật mình, chỉ sợ hắn đả thương người, vội thối lui lại vài bước, chỉ thấy hai chân Chiết Ngự Huân thẳng ra, lẩm bẩm: “Nhà cửa hoa lệ, chức quan công trạng…hắc hắc…ha ha…thế ta làm chức quan Chiết gia tổ thượng là hợp nhất, ta phải làm Chiết Lan Vương, ta muốn làm Chiết Lan Vương do Quan Gia ban chức, ha ha ha…”
Mẫy người Chiết gia thấy vậy kinh ngạc khôn cùng, đám người Chiết duy chính, Chiết duy tín lo lắng cho phụ thân, vội hét lên: “Cha, cha, người sao vậy?”
Tiêu Thần vừa lo vừa cười, kinh ngạc nói: “Vương đại nhân, hắn…làm sao vậy? Điên rồi phải không?”
Vương Kế Ân cũng ngạc nhiên, nghe Tiêu Thần nói vậy cười lạnh nói: “Đường đường là Chiết thị gia chủ, sóng gió còn chưa qua đã điên rồi ư?”
Hắn giảo hoạt liếc mắt cười đểu Chiết Ngự Huân: “Điên thì điên, nếu hắn muốn làm Tôn Tẫn, ta sẽ là Bàng Quyên, hắc hắc, kệ hắn, hắn điên kệ hắn điên”.
Chiết Ngự Huân cười to vài tiếng, bỗng than thở khóc lóc, điên cuồng hét: “Chiết Lan Vương, các ngươi nghe cho rõ đây, ta…Chiết Ngự Huân ta cần phải làm Chiết Lan Vương, Chiết Lan Vương…””
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 17: Bần Tăng Công Lực Còn Thấp
Nguồn: Sưu tầm
Khoái mã Vương Kế Ân giờ đã mang bản tấu chương của Chiết gia đi, lệnh cho Phan Mỹ vừa bình loạn Giang Nam thắng lợi trở về điều năm vạn binh, tuyên bố ra ngoài, sẽ tăng cường bao vây tiêu diệt phản loạn Thục, nhưng lại lần khân không phát binh, chờ mãi mới chộp được cơ hội này. Lúc này, vừa nhìn thấy bản tấu chương xin binh, hắn như nhặt được chí bảo, lập tức khởi động toàn bộ hệ thống tuyên truyền, cao giọng chỉ trích Dương Hạo bội bạc, vi phạm quốc pháp, ngang nhiên bất nghĩa dùng binh với Phủ châu. Đồng thời lệnh cho Vương Kế Ân điều An Lợi quân, Long Đức quân tấn công Quảng Nguyên Trình Thế Hùng, điều Ninh Hoa quân, Tấn Ninh quân, Bình Định quân, Uy Thắng quân tấn công Phủ châu, lại lệnh cho Phan Mỹ đích thân dẫn năm vạn cấm quân, không ngừng vó ngựa, tiến thẳng Lân phủ.
Tin lọt vào tai Khiết Đan, Tiêu Hậu vô cùng kinh ngạc. Dương Hạo làm sao lại có mưu đồ chiếm Phủ châu được. Theo nàng, người muốn thành đại sự há có thể để tình nghĩa ràng buộc. Nếu Dương Hạo thật sự tâm ngoan thủ lật như thế, thì cũng coi là một nhân vật kiêu hùng. Song, theo những gì nàng biết, Dương Hạo lại không phải là người như vậy. Hơn nữa, cho dù là thời di thế dịch(*), Dương Hạo biến hóa thành kẻ khác, cũng tuyệt đối không thấy lợi tối mắt. Ở quy mô tây chinh của hắn, thời điểmhành lang Hà Tây chưa tới tay. Ở đông tuyến đột nhiên tái khải chiến đoan, chẳng lẽ Lý Quang Duệ hai mặt dụng binh, đến nỗi kéo được từ mình sơn cùng thủy tận đích xác giáo còn chưa đủ sao? Mãi đến lúc này, Đại Tống nhanh chóng phản ứng lại. Quân Tống hành quân thần tốc, tấn công Phủ châu, Tiêu Xước cuối cùng mới hiểu rõ: Đại Tống động thủ với Tây Bắc rồi.
(*)Thời di thế dịch: thời thế thay đổi, lòng người cũng khác đi.
Lúc này, Đại Khiết Đan quốc mới đổi tên, từ Đại Khiết Đan quốc thành Liêu quốc. Đại Khiết Đan quốc vốn là lấy tên tộc làm tên nước, nhưng thành phần dân tộc của Khiết Đan lại hết sức phức tạp, rất nhiều tộc nhỏ, nhất là còn có U Vân mười sáu châu của người Hán chiếm một bộ phận rất lớn. Hơn nữa, thiếu chủ vừa lập, sửa quốc hiệu, cũng là một loại tình hình mới.
Tân quân đặng cơ, tuổi còn quá nhỏ. Tiêu Xước lấy thân phận thái hậu nắm quyền cai trị. Khiết Đan hiện giờ đang nghỉ ngơi, khôi phục nguyên khí, tích súc quốc lực, bởi vậy mới đổi quốc hiệu thành Đại Liêu. "Liêu" trong tiếng hán vốn có nghĩa là xa xôi, ý là cổ vũ mở mang lãnh thổ, lam cho lãnh thổ trở nên rộng lớn, bát ngát. Chẳng qua hiện giờ vừa mới bình ổn được nội loạn, nguyên khí còn chưa khôi phục, hành sự phải cẩn thận một chút, cho nên mới tuyên bố ra bên ngoài, "Liêu" là tiếng Khiết Đan, có nghĩa là sắt, lấy "Liêu" làm quốc hiệu là có ngụ ý phải ưu tiên xây dựng quốc gia bền vững.
Phương châm chính sách đã là nghỉ binh nuôi dân, thì lúc này tuyệt đối không thể nổ ra chiến tranh với Tống quốc. Nhưng nếu cứ ngồi xem Triệu Quang Nghĩa công chiếm Tây Bắc, hốt trọn của vùng Tây Vực nhét vào trong đế chế thống trị của hắn, thì chẳng những lãnh thổ Tống quốc càng ngày càng mở rộng mà người Tống còn có được cả vùng nuôi ngựa. Như vậy, ưu thế lớn nhất của người Liêu sẽ không còn sót lại chút nào. Đây cũng là chuyện thập phần khó giải quyết.
Tiêu Xước mặt một bộ cung y bình thường, rộng mềm thoải mái, nằm ngả người trên giường, một tay nhẹ nhàng phe phẩy quạt tròn, một tay vỗ nhẹ đứa con đang nằm ngủ say trong lòng nàng, trong lòng không ngừng suy nghĩ về thế cục Tây Bắc. Cuộc chiến này tuy không liên quan trực tiếp tới Liêu quốc, nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến tình thế tương lai giữa hai nước Tống - Liêu. Nàng há lại không coi trọng.
Tiểu hoàng đế đã có tên rồi, tên chính là Da Luật Long Tự, cúng cơm gọi là Lao nhi. "Thuấn trụ đào yên, kỳ niên nhi khí lao". Người bình thường đều đặt tên cho trẻ con theo kiểu "Thuyên trụ nhi thiết tỏa", ý tứ là đều mong đứa trẻ được bình an, thành người, trường sinh. Đương nhiên đây chỉ là cách giải thích của Tiêu Hậu đối với nhà mẹ đẻ, về phần cái tên "Lao nhi" còn có ý nghĩa gì khác hay không thì chỉ có mình nàng biết mà thôi.
(**) Giải thích một tí, lao ở đây có hai nghĩa, một là vững chắc, hai là lao ngục. Ý nghĩa thứ hai của cái tên Lao nhi chính là nhớ đến hồi Dương Hạo bị giam trong ngục.
Thuấn trụ đào yên, kỳ niên nhi khí lao: mình cũng không hiểu câu này lắm, chỉ biết câu này có ý nhĩa là vững chắc, bền vững.
Thuyên trụ nhi thiết tỏa: nói đại khái là cứ nhắm những người nổi danh, giỏi giang mà đặt tên.
Thiếu phụ trẻ tuổi mới hai mươi hai, lại cộng thêm cẩm y ngọc thực ( áo lụa cơm ngọc ), chăm sóc hợp lý, cho nên thân thể nhìn rất mượt mà đẫy đà. Da thịt trắng nõn, hấp dẫn vô cùng, hai cái chân thòn dài nửa co nửa duỗi trên giường, lại còn có thể nhìn thấy thấp thoáng một bức cảnh xuân mịn màng động lòng người bên trong nữa.
Lúc này trời triều đã ngả về tây, ánh mặt trời vàng rực chiếu lên khuôn mặt thanh tú mềm mại, trắng nõn của nàng, làm nổi lên một loại phong tình đặc biệt. Hai hàng lông mày kẻ đen của nàng khẽ nhíu lại, trong lòng khẩn trương tìm kiếm đối sách.
Hiện giờ Đại Liêu tuyệt đối không thể dễ dàng động binh với con quái vật lớn như Tống quốc. Nếu không, chỉ cần vô ý thì cục diện mà mình khổ tâm gây dựng hai năm trời sẽ bị hủy hoại trong chốc lát.
Đế quốc Đại Liêu quả thực là rất khổng lồ. Dương Hạo có thể dùng hai năm thời gian chỉnh hợp chư bộ, chấn hưng Hạ châu. Nhưng đối với một quốc gia khổng lồ như Khiết Đan mà nói, hai năm thời gian chỉ đủ để kinh tế khôi phục một ít nguyên khí, trên phương diện chính trị và quân sự cũng chỉ vừa đủ để điều chỉnh lại toàn bộ chức vị quan viên trọng yếu một lần, điều hòa mâu thuẫn bên trong, tiêu trừ tranh cái bên ngoài. Cho nên hiện giờ thực chất vẫn còn yếu ớt. Nhưng mà, cho dù Tây Bắc hiện giờ không phải là địa bàn của tên oan gia kia, nàng cũng quyết không thể ngồi nhìn Tống quốc nuốt trọn cả vùng Tây Bắc được. Đối với chuyện này, Đại Liêu nhất định phải xử lý thật khéo.
Tiểu Xước khổ tư suy nghĩ, xem ra, Liêu quốc chỉ có thể áp dụng biện pháp kiềm chế như trước, tận lực kiềm chế Tống quốc, khiến bọn họ không thể tung quá nhiều binh lực vào Tây Bắc, giảm bớt áp lực cho quân Hạ châu. Về phần hóa giải nguy cơ như thế nào, thì cuối cùng phải dựa vào tên oan gia kia của mình rồi. Nhưng tên oan gia kia hiện giờ đang ở Qua Sa Cổ Đạo, hắn kịp chạy trở về ư?
Nghĩ đến đây, Tiêu Xước khẽ thở dài. Oa nhi trong lòng nàng tựa hồ cảm thấy nóng quá, hai mắt vẫn nhắm nghiền, ngủ ngon lành, nhưng hai cánh tay lại khua khua, đẩy tay mẫu thân ra, hai cái chân nhỏ thì đạp đạp lên người mẫu thân, cả người nằm lăn ra giữa giường.
Tiểu Xước trừng mắt nhìn nhi tử đang ngủ say, trong mắt không khỏi có chút u oán: "Cái tên tiểu tử này, ăn uống no nê thì chẳng quan tâm đến mình nữa. Giống hết cái tên phụ thân không lương tâm của nó."
Tinh kỳ phần phật, đại quân của Dương Hạo cuối cùng cũng xuất phát tiến đến Đông Hoàng.
Đôn Hoàng nam gối Kỳ Liên sơn khí thế hùng vĩ, tây tiếp giáp La Bố Bạc mênh mông bát ngát., bắc dựa vào Bắc Tắc sơn, đông có Tam Nguy sơn cao sừng sững. Chính là con đường mà hồ thương Tây Vực vượt qua Ngọc Môn quan, đông tiến trung nguyên phải trải qua. Diện tích mảnh hoang đảo này không lớn, nhưng đất đai phì nhiêu, nằm trong bồn địa thiên nhiên sát sa mạc Qua Bích ( sa mac Gobi ) đảng hà tuyết thủy ruộng màu mỡ, cây xanh chặn Hắc Phong cát vàng, lương thực tràn trề. Dưa và trái cây bốn mùa thơm ngát.
Đôn Hoàng thành chính là một tòa thành kỳ tích trong đại mạc cổ đạo.
Vì cắt đứt hoàn toàn thông lộ liên hệ giữa Hung Nô và Tây Khương, bảo vệ an toàn của biên ải và con đương tơ lụa. Hán Vũ đế từng xây dựng Tửu Tuyền quận và Vũ Uy quận ở Hà Tây, đồng thời bố trí phòng vệ, đóng quân khai hoang, thi hành các chính sách di dân, không ngừng bổ sung, tăng cường kiến thiết Hà Tây. Sau đó lại lần lượt đổi Tửu Tuyền quận và Vũ Uy quận thành Đôn Hoàng và Trương Dịch hai quận. Lại lệnh xây dựng trường thành cùng phong hỏa đài từ Đôn Hoành cho tới tận Diêm Trạch - nay là La Bố Bạc, đồng thời xây dựng Dương quan, Ngọc Môn quan. Liệt Tứ quận dựa vào hai quan, bảo đam con đương tơ lụa thông suốt.
Từ đó về sau, kỹ thuật tơ lụa tiên tiến của Trung Quốc không ngừng truyền bá đến Trung Á, Tây Á và Châu Âu. Đồ ngọc, mã não, kỳ cầm dị thú của Châu Âu, Địa Trung Hải ven bờ Tây Vực cũng đồng dạng có thể truyền bá đếnTrung Quốc. Đôn Hoàng trở thành "Yết hầu mấu chốt" giao thông giữa Trung Quốc và phương tây. Trước đây, tướng quan Lý Quảng phạt Đại Uyển quốc, lấy được Hãn Huyết mã; Triệu Phá Nô đánh bại Cô Sư quốc, bắt được Lâu Lan vương, đều là dựa vào Đôn Hoang cung ứng binh mã lương thảo mới giành được thắng lợi.
Bởi vì vậy người Hán ở nơi này là nhiều nhất, cư dân bản xứ chiếm hơn tám phần, vì thế nơi này mới xuât hiện một tình cảnh rất kỳ lạ. Sau khi Tây Vực và Trung Nguyên bị ngăn cách thông thương, Qua Sa nhị châu có người Hán chiếm phần đông, trong khi đó, ở phía Đông Qua Sa, hướng gần với Trung Nguyên hơn lại bị người Thổ Phiên, Hồi Cật, Đảng hạng chiếm giữ. Nhưng chính bởi vì nguyên nhân như vậy, khiến cho người Hán ở Tây Vực mất hẳn quan hệ với Trung Nguyên, lại trải qua hơn trăm năm, những người Hán bơ vơ lạc lõng bên ngoài này liền xây dựng nghĩa quân, tự lập Kim Sơn quốc, tiếp tục truyền thừa văn hóa và huyết mạch người Hán.
Nhưng tầng lớp thống trị của Kim Sơn quốc lại thi hành chính sách sai lầm, luôn chèn ép dân tộc thiểu số địa phương, khiến cho bọn họ thụ địch khắp nơi. Vinh quang tổ tiên chẳng còn, Kim Sơn quốc dần dần xuống dốc, ngược lại phải cung kính tôn Cam châu Hồi Cật làm Khả Hãn. Cho tới tận lúc này, Dương Hạo đến đây, mang theo đại quân của hắn, hy vọng một lần nữa đả thông con đường thông với Tây Vực, trọng trấn văn minh Đông phương ở nơi này. Việc này đối với chính quyền Tào gia chấp chưởng Qua Sa mà nói, đây chính là ngày tận thế của bọn hắn, còn đối với nghĩa quân mà nói, lại là nửa vui nửa buồn.
Trong khi Tiêu Xước đang mải mê suy nghĩ, tinh thần chán nản, Dương Hạo đã thống lĩnh đại quân tới Hồ Lô hà . Từ đây nếu cứ tiến về phía trước thì chính là Qua châu rồi.
Hoàng hôn mờ mịt, trời chiều ngả về tây, đại quân của Dương Hạo hạ trại đóng quân ở cạnh Hồ Lô hà. Lều trường đột nhiên mọc lên sán sát khắp bờ sông, nhìn từ xa chẳng khác nào một rừng nấm, kéo dài liên miên bất tuyệt. Mặc dù khả năng nghĩa quân Qua châu mạo hiểm đánh lén là không lớn, song vẫn phải theo quy củ bố trí một lớp nhân mã bên ngoài, đào chiến hào, đặt cự mã ( hàng chông chống ngựa ), chuẩn bị phòng ngự đầy đủ.
Dọc đường đi,bọn họ được chứng kiến tượng Phật điêu khắc trên vách núi, chứng kiến đại mạc Đà Linh, ảo ảnh trên Hãn Hải ( sa mạc Gobi ), sắc thu Hồ Dương, phong cảnh thanh tuyền ốc đảo dị vực đương nhiên tuyệt đẹp, nhưng nhìn nhiều rồi cũng cảm thấy chán. Cảm giác sâu sắc nhất mỗi ngày ngược lại là ban ngày nóng như lửa đốt, ban đêm lại lạnh đến thấu xương, hơn nữa mỗi khi gió nổi lên là cát vàng bay rợp trời.
Đóng ở phía nam quân doanh chính là Túc châu Long gia binh. Dương Hạo lấy được Lương Châu, liền dẫn đi hai vạn binh mã của Lương châu thành chủ Lạc Nhung Đăng Ba. Lần này lấy được Túc châu, liền dùng Túc châu làm cứ điểm, khi tấn công Qua châu, lại y theo kế cũ, rút hết binh mã Túc châu ra ngoài. Long gia binh sống ở Tây Vực, nhìn phong cảnh ở Tây Vực quen thuộc đến không thể quen thuộc hơn, không hề cảm thấy mới lạ. Vất vả lắm mới vượt qua được sa mạc, tiến vào ốc đảo, những binh sĩ này thập phần vui sướng, ầm ầm nhảy vào Hồ Lô hà tắm rửa.
Ở trên thượng lưu Hồ Lô hà, đang có hai đại hán chỉ mặc độc một cái khố, người vạm vỡ tựa như hai tay đô vật, làn da đen rám như hai cái hắc thiết tháp, đứng mò cá trên sông. Cá ở đây mập to vô cùng, bởi vì không ngư dân đánh bắt, hoàn cảnh sinh sống lại vô cùng tốt, cho nên cá dài một hai xích thấy chỗ nào cũng có.
Song đối với quân Túc châu không am hiểu thủy tính mà nói, muốn tóm được mấy con cá thật chẳng dễ dàng gì.
Một trong hai hán tử đột nhiên hất tung bọt nước, hai tay nắm chặt một con cá lớn, cười ha ha nói: "Lão Chi, lão Chi, mau xem này, ca ca ta bắt được một con cá lớn chưa này."
Hán tử còn lại thấy vậy liền mừng rỡ, vội vàng nhảy tới, reo lên: "Hay quá, ăn mấy cái thứ thịt khô vừa cứng vừa khô khan thật là chán lắm rồi. Ha ha, lão Tạp, ngươi giữ chắt lấy nó, mau mau lên bờ, chúng ta nướng nó."
Lão Tạp vừa nghe vậy liền trừng mắt nói: "Nướng là nướng thế nào? Cá sông ngon như vậy, phải cho vào nồi hầm canh, hầm cho nó mềm thịt xốp xương. Sau đó ăn sạch thịt, gặm đầu, rồi lại uống một chén canh cá thơm phúc. Đó mới là mỹ vị."
Lão Chi lắc lắc đầu nói: "Ngươi thì biết cái gì, con cá này chớ có cạo vảy, cứ để nguyên cả nội tạng, đem xiên, nướng trên lửa, hương vị thơm mềm của cá mới không mất đi. Ta thấy thương nhân Tây Vực từ xa tới đều ăn cá như vậy."
"Nấu canh rồi ăn, vừa có thịt lại vừa có canh, canh tiên vị mỹ."
"Nướng ăn, tiên hương xông vào mũi, tuyệt vời vô cùng."
Hai người đứng chỗ nước cao đến thắt lưng, không ngừng tranh cãi. Lão Tạp giận tím mặt, cầm con cá đang giãy đành đạch trong tay hung hăng ném một cái, con cá rơi tõm xuống nước, nhưng nó chỉ hơi choáng váng một chút rồi tỉnh táo trở lại, lắc đầu quẫy đuôi chuồn mất.
Lão Chi trợn mắt líu lưỡi nói: "Sao ngươi lại thả cá đi?"
Lão Tạp tức giận nói: " Bảo nấu canh rồi ăn mà ngươi cứ khăng khăng nướng ăn. Được rồi được rồi, ăn với chả uống, không ăn nữa cho lành. Bực cả mình!"
Lão Chi nghe xong cũng tức đến sùi bịt mép: "Không ăn thì không ăn, hiếm lạ lắm à. Chẳng lẽ chỉ mình ngươi bắt được, hai tay lão tử chẳng lẽ chỉ để làm cảnh hay sao. Ta tự bắt!" Nói xong hắn liền thụp hai tay xuống sông, liều mạng khua khuấy loạn xạ, khuấy đến mức nước sông bắn tứ tung, cố ý hắt lên hết người lão Tạp.
Thị vệ đứng trên bờ thấy hai người trnah cãi cầm ĩ không khỏi che miệng cười trộm. Hai người kia, một người tên là Tạp Ba Tạp, hậu duệ của Yên Giả quốc, còn mang theo một chút huyết thống người Đột Quyết, là tả đô úy của Túc châu Long Vương quân. Người còn lại họ Chi, tên Phú Bảo, là người của Sơn Đông Lang gia. Thời Đương triều, tổ tiên hắn tòng quân nhập ngũ, trở thành một tên binh sĩ của An Tân Đô Hộ phủ. Sau này gặp phải trắc trở, cho nên mới rời xa gia hương, tới Tây Vực an cư lập nghiệp. Hai người này vốn là bằng hữu lớn lên từ nhỏ với nhau, lại cùng nhau gia nhập quân ngũ, cùng nhau làm quan, quan hệ có thể nói là cực kỳ thân thiết, nhưng lại rất thích tranh cãi. Thuộc hạ bọn họ đã sớm quen đến không thể quen hơn nữa rồi.
Bởi vì quân đội Túc châu chịu ảnh hưởng rất lớn từ quân đội Đại Đường An Tây Đô Hộ phủ, cho nên quan chế cũng giống hệt với Đường triều. Thủ lĩnh đứng đầu tự xưng vương gia, chỉ một cái châu nho nhỏ mà lại thiết lập, xây dựng cơ cấu quan lại như một quốc gia, cho nên hệ thống quan chế rất hỗn loạn. Ấn theo quan chế quân đội Đại Đường, cứ mười đinh lại có một thập trưởng, cứ năm thập lại có một hỏa trưởng, cứ tam hỏa lại có một đội trưởng. Chi bội đội của hai người này cũng tương đương với một đội, có một đội trưởng và một đội phó. Nhưng binh tướng của Túc châu Long Vương quân lại lạm phát quá lợi hại, cho nên chỉ một đội năm trăm năm mươi người đã có cả tả hữu quả nghị đô úy, hai giáo quan lục phẩm.
Bởi vì đang là thời gian chiến tranh, cho nên Dương Hạo không thể tiến hành cải tổ biên chế hoàn toàn quân đội của hắn. Vì để cho binh lính quen thuộc và thích ứng, hiện tại mới chỉ kịp thay đổi biên chế theo Tiết phủ đối với quan viên cao cấp. Về phần đa số những tướng tá trưởng quan phía dưới thì vẫn dựa theo chế độ cũ, tạm thời không thay đổi.
Chi Phú Bảo khuấy nước chán chê một trận, nhưng đến một con cá cũng chẳng bắt được. Hắn cảm thấy rất mất mặt, không khỏi tức giận nói: "Mẹ nó, không bắt nữa không bắt nữa, ta đi ăn thịt khô còn hơn." Nhưng vừa nói xong, hắn chợt phát hiện phía trước có một cái bóng đen nho nhỏ, đang từ phía trước xuôi theo dòng nước trôi xuống, hắn kinh hỉ nói: "Oa, một con cá thật lớn, có ai không. Người đâu, ném một cây mâu cho ta."
Binh lính trên bờ vội vàng ném xuống một cây trường mâu. Chi Phú Bảo chộp lấy thanh mâu, rón rén tiến đến gần bóng đen giữa sông đang không ngừng di động. Tạp Ba Tạp quay đầu lại, thấy thế cũng vội vàng đi theo.
Chi Phú Bảo dương dương đắc ý nói: "Hắc hắc, con cá này lớn à nhà. Một nửa dùng nấu canh, một nửa dùng để nướng. Thế nào, ca ca ta hào phóng hơn ngươi chưa?"
Tạp Ba Tạp cười nhạt: "Chờ ngươi thật sự bắt được rồi hãy hào phóng. Nhìn cái bộ dáng lóng nga lóng ngóng của ngươi kìa."
Chi Phú Bảo tức giận: "Thằng nhãi ranh nhà ngươi sao lúc nào cũng chọc tức ta thế hả? Được được được, cho ngươi xem thủ đoạn của mỗ gia!" Chi Phú Bảo giương cây mâu lên, đang định phi xuống thì Tạp Ba Tạp đột nhiên giữ tay hắn lại, vẻ mặt ngưng trọng nói: "Chờ một chút, hình như không phải cá, là người đó."
Tạp Ba Tạp ngạc nhiên nói: "Làm sao có thể? Ở cái nơi này lấy đâu ra người chứ?"
Hai người ngưng thần nín thở, nheo mắt nhìn thấy kỹ. Chỉ thấy bóng đen kia vừa nổi vừa chìm, dần dần trôi về phía bọn họ, quả nhiên là một người chết đuối. Tạp Ba Tạp kinh hãi nói: "Đúng là người." Dứt lời, hắn vội vàng thò trường mâu ra, khều người nói lại gần, chỉ thấy tóc người nọ rất dài, xõa tung trong nước, dung nhân thanh lệ tái nhợt, nhìn chẳng khác nào thủy yêu. Hắn lập tức hét lớn: "Còn là một nữ nhân nữa!"
Chi Phú Bảo ngoáy ngoáy hai cái lỗ tay, nói: "Ở cái nơi này, làm sao lại có nữ nhân rơi xuống nước mà chết đuối nhỉ? Chẳng lẽ là hồ thương gặp phải mã phỉ?" Tạp Ba Tạp nói: "Sao người biết nàng ta nhất định chết?"
Chi Phú Bảo nói: "Không chết thì chẳng lẽ sống à?"
Hai người lại khiêng xác nữ nhân kia lên, một người ôm chân, một người ôm tay, kéo lên bờ.
Tạp Ba Tạp lải nhải: "Nếu như là sống, từ nay về sau, tất cả cá chúng ta bắt được đều nấu canh ăn."
Chi Phú Bảo, nói: "Nếu như là chết, từ nay về sau, tất cả cá chúng ta bắt được đều nướng ăn."
Tuy nắng chiều tà đã đỏ như máu, nhưn trên mặt cát vẫn rất nóng, nữ nhân kia vừa mới bị đặt lên bờ cát, hơi nóng lập tức xông vào người, còn chưa kịp cứu chữa gì thì cánh mũi đã mấp máy mấy cái. Tạp Ba Tạp mắt tinh, vừa thấy liền mừng rỡ, kêu lên: "Sống, sống, nàng còn sống."
Chi Phú Bảo khinh thương nói: "Ngươi không thấy nàng ta bị thương à? Hiện giờ còn sống không có nghĩ là sau này còn sống."
Tạp Ba Tạp tức giận dậm chân: "Ngươi lại chơi trò chây ỳ phỏng? Cứ như ngươi nói, cho dù là nàng sống tiếp, qua mấy chục năm nữa rồi cùng phải chết. Vậy chẳng phải là ngươi luôn thắng à?"
Chi Phú Bảo nói: "Cái gì, ta đâu có nói là tới mấy chục năm? Ta chỉ nói là, có lẽ chỉ lát nữa là nàng ta sẽ tắt thở thôi. Mà kể cả như vậy, tac cũng không thua được."
Đám binh sĩ thụ hạ sớm không nhịn nổi nữa roiiof. Tham gia quân ngũ ba năm, gái gú không được động tới, huống chi nữ nhân này tuy dung nhan tiều tụy, nhưng lại cực kỳ tú lệ. Thế mà hai tên chủ tướng hỗn trướng này lại chẳng thương hoa tiếc ngọc chút nào, cứ đứng đó mà cãi nhai. Một gã thân binh không nhịn được chen miệng, nói: "Hai vị đô úy đại nhân, chúng ta có lẽ nên cứu người trước thì hơn."
Lúc này, thần chí nữ nhân kia tựa hồ hơi tỉnh táo lại một chút. Nàng khẽ mở mắt, yếu tới nói: "Đây là nơi nào?"
Tạp Ba Tạp cùng Chi Phú Bảo liếc mắt nhìn nhau một cái, ngồi xổm xuống, nói: "Nơi này là Hồ Lô hà, làm sao ngươi lại trôi theo dòng nước vậy? Còn người nhà ngươi đâu?"
Đôi mắt khẽ chớp chớp, thều thào hỏi: "Hồ Lô hà? Qua châu, phía đông Hồ Lô hà?"
Sau khi được xác nhận, nữ nhân nói: "Ta, ta là người của Sa châu Tào gia. Các ngươi, các ngươi cứu ta."
Tạp Ba Tạp cười ha ha nói: "Vậy phải xin lỗi rồi. Chúng ta tuy là đang ở Hồ Lô ha, nhưng chúng ta lại là người của Long gia Túc châu."
Nữ nhân kia hơi mờ mịt, sau một lát mới nhỏ giọng nói: "Túc châu Long gia? Lại.. lại khai chiến rồi ư? Long gia, Long Hàn Giang đại nhân... với... với gia phụ là lão bằng hữu... xin... xin hãy cứu viện."
Chi Phú Bảo khẽ uýnh Tạp Ba Tạp ra ngoài, chen vào nói: "Lão Tạp, sau này đừng có nói là người của Long gia nữa. Thái úy nghe xong nhất định không vui đâu. Khụ! Cô nương chúng ta hiện giờ là người của Hạ châu Dương thái úy, phụng mệnh tây chinh, thảo phạt Qua Sa."
Nữ nhân kinh ngạc: "Dương thái úy?"
Tạp Ba Tạp nói: "Không sai, Hạ châu Dương thái úy xua quân tây tiến, thế như chẻ tre, đã chiếm Lương, Túc hai châu. Hiện giờ đang tiến binh đến Qua châu. Long gia quân chúng ta giờ đã quy thuận thái úy rồi."
Trong mắt nữ nhân lập tức toát lên vẻ kinh hỉ, thân hình đột nhiên cựa quậy, giống như muốn ngồi dậy, nhưng đáng tiếc là người quá yếu ớt. Nàng thở hổn hền, chộp lấy tay Tạp Ba Tạp, hấp tấp nói: "Mau! Mau dẫn ta đi gặp Dương thái úy, ta là...." ( đáng ra câu nó thế này 'ta của thái úy là.....' cấu trúc bổ trợ 'của thái úy' xuất hiện trước, nhưng tiếng việt không viết như vậy được, cấu trúc bổ trợ phải đứng sau -> Ta là cái gì đó của thái úy, cho nên phải cắt như trên, mọi người tự hiểu nhé).
Nữ nhân gắng gượng nói được đến đây thì kiệt lực, lập tức hôn mê bất tỉnh.
Tạp Ba Tạp gãi đầu gãi tai, nghi hoặc nói: "Sao nàng ta ai cũng quen biết hết thế? Nàng nói nàng là cái gì của thái úy?"
Chi Phú Bảo ngồi xụp xuống, nhìn kỹ dung nhân nữ tử tiều tụy nhưng vẫn không mất đi vẻ xinh đẹp, sờ sờ cằm, trầm ngâm một lúc rồi nói: "Chẳng lẽ nàng ta là bồ của thái úy?"
Tạp Ba Tạp bừng tĩnh đại ngộ, nói: "Lão Chi à, cuối cùng ngươi cũng thông minh ra rồi đấy. Ta xem không mười thì cũng phải tám chín phần là như vậy. Bát long nữ đều là thị tỳ của thái úy. Thái úy là người vô cùng phong lưu. Ngươi xem nàng ta mà xem, cho dù bây giờ không phải là bồ thái úy, nhưng thái úy gặp rồi, không khéo cũng trở thành bồ cũng nên."
Thị vệ bên cạnh không thể nào nhịn nổi nữa, hét lên: "Hai vị đô úy đại nhân, chờ các ngươi biết rõ ràng rồi, nữ nhân này chết toi mất rồi."
Tạp Ba Tạp kinh hãi nói: "Đã là bồ của thái úy, không thể để chết trong quân ta được."
Chi Phú Bảo nhảy dựng lên: "Không sai, không sai. Nàng ta mà chết ở đây, chúng ta có nhảy xuống xông cũng không rửa sạch tội. Mau mau mau, lấy thảm ra đây, tranh thủ lúc nàng ta còn thở, khiêng đến chỗ thái úy đại nhân."
Hai tên dở hơi lấy một cái thảm, nhẹ nhàng quấy lấy nữ nhân kia vào bên trong, lại thử thử hơi thở của nàng, quả nhiên vẫn còn thở. Hai gã đại hán vội vàng nâng nàng lên, chạy như điên về phía trung quân của Dương Hạo.
Ngoài trướng trung quân, Dương Hạo lo lắng bất an, đi tới đi lui, cũng không biết Trúc Vận trong trướng hiện giờ còn sống hay đã chết.
Hắn vạn lần không ngờ tới lại có thể gặp Trúc Vân ở chỗ này. Xem thương thế của nàng, cũng không biết đã trải qua bao nhiêu tràng chém giết thảm thiết. Vừa rồi vội vàng cho nàng dùng chút canh nóng, hô hấp của nàng cũng vững vàng hơn một chút, nhưng rốt cuộc sinh tử thế nào, bây giờ vẫn còn là một ẩn số.
Dương Hạo đang mai mê suy nghĩ, chợt nghe trong trướng vang lên một tiếng quát: "Cút ngay, còn dám chạm vào ta, ta giết ngươi!"
Tiếp đó liền có một tiếng chén bát rơi xuống. Dương Hạo vội vàng xông vào, chỉ thấy lão lang trung trong quân đang nằm ngã ngửa ra mật đất, tiểu đồ đệ cầm hộp thuốc đứng bên cạnh của hắn thì kinh hoàng thất thố đứng đằng kia. Dương Hạo vội chạy tới đỡ lang trung dậy rồi đến bên cạnh giường, chỉ thấy Trúc Vận nằm ở mép giường, một tay chống bám vào thành giường, một tay cầm bội kiếm của Dương Hạo, nghiến răng, căm tức nhìn lang trung.
Dương Hạo nói: "Trúc Vận, ngươi làm sao vậy? Thế này là thế nào?"
Lão lang trung suýt chút nữa bị một kiếm chém rách bụng, bị dọa cho sắc mặt tái nhợt, lúc này vừa thấy Dương Hạo liền vội vàng kể khổ: "Thái úy đại nhận, lão hủ phụng mệnh đến khám, chữa thương thế cho vị cô nương này. Ai ngờ vị cô nương này lại quá hung dữ, lão hủ còn chưa kịp cởi quần áo nàng ta ra, đã suýt bị nàng ta vung kiếm lấy mạng. Người ta thường nói, có bệnh thì đừng kỵ húy lang trung. Lão hán ta lớn từng này tuổi rồi...."
Trong khi lão lang trung đang lải nhải, Trúc Vận vừa thấy Dương Hạo liền lập tức mềm nhũn người, ngã xuống giường: "Thái úy, Trúc Vận... Trúc Vận lần này tới Lũng Tây...."
Dương Hạo ngắt lời nói: "Có chuyện gì thì chờ băng bó vết thương rồi hãy nói: "
"Không, việc này can hệ trọng đại."
"Cho dù có trọng đại thế nào đi nữa thì cũng chờ bảo vệ tính mạng xong rồi hẵng nói."
Trên cánh tay Trúc Vận có một vết đao chém, cơ thịt lộ hẳn ra ngoài, bởi vì bị ngâm nước quá lâu, không còn rỉ máu ra nữa, nhưng nhìn lại rất đáng sợ. Dương Hạo vội vàng gọi lang trung lại, phân phó: "Mau mau bôi thuốc, băng bó cho nàng."
Trúc Vận vừa mới chạm đến miệng vết thương đã đau đến toát mồ hôi lạnh, trên trán đã lấm tấm mồ hôi, gượng cười nói: "Đại nhận, ta... không sao đâu."
Lão lang trung lập tức chen miệng nói: "Còn nói không có chuyện gì? Ôi trời đất ơi, cả người cũng không biết bị thương bao nhiêu chỗ nữa. Dưới xương sườn thì trúng hàng tá tên, trên đùi còn bị một đao nữa."
Đột nhiên gượng ngồi dậy, khuôn mặt tức giận đến đỏ bừng: "Tên hỗn đản nhà người? Ngươi nhìn thân thể của ta rồi? Ta... ta giết ngươi, ta phải giết ngươi."
Vừa thấy Trúc Vận giãy dụa, lão lang trung sợ quá vội vàng chạy ra ngoài trường nhanh như chớp, chỉ dám thò đầu vào nói: "Cô nương, lão hủ tuyệt đối không nhìn thấy thân thể ngươi. Đó là do nước mủ máu loãng thấm ra ngoài ái, lão hán ta hai mắt không mù, lại quen trị vết thương do đao kiếm, chẳng lẽ còn phải cởi áo mới chẩn trị được ư?"
Dương Hạo đỡ Trúc Vận nằm xuống, trách mắng: "Lại thế rồi, ngươi không muốn sống nữa phỏng?"
"Nhưng..."
"Được rồi, được rồi, hiện giờ đừng nói gì nữa. Trước tiên phải trị thương, có muốn nói gì thì chờ đắp thuốc, băng bó miệng vết thương rồi hãy nói, lang trung...."
Dương Hạo quay đầu lại gọi người. Lão lang trung đang thập thò ngoài trướng vừa thấy ánh mắt đằng đằng sát khí của Trúc Vận, làm sao dám đi vào cơ chứ. Dương Hạo khuyên can mãi không được, cuối cùng tức quá, đi tới túm lấy cổ áo hắn, lôi hắn vào mới xong. Lão lang trung run run nhặt hộp thuốc lên, đặt ở đầu giường, trước tiên cẩn thận nhìn sắc mặt Trúc Vận thế nào, lại quay đầu lại nhìn Dương Hạo. Dương Hạo gật đầu cổ vũ, lúc này lão lang trung mới run run cởi chiếc áo đã ướt đẫm của nàng ra. Trúc Vận nhắm chặt hai mắt, trên gương mặt tái nhợt chợt hiện lên một vầng ửng hồng khác thường.
Áo ngoài vừa cởi ra chỉ thấy bên hông buộc một mảnh vải đã biến màu. Mảnh vải này rõ ràng là được xé từ trường bào ra, quấn quanh hông mấy vòng rồi thắt nút ngay trước bụng. Lão lang trung run run rẩy rẩy, không dám tháo băng vài ngay, ngón tay ngẫu nhiên chạm vào bụng nàng, ngược lại còn khiến cho Trúc Vận cả người căng cứng.
Lão lang trung tháo mãi không xong, cả người ướt đẫm mồ hôi. Hắn thở hổn hển, cố gắng xốc lại tinh thần, cúi sát người xuống để nhìn cho rõ. Nhưng vừa mới cúi xuống, Trúc Vận bỗng nhiên hét lên một tiếng, gạt tay hắn ra, thở hồng hộc nói: "Không được đụng vào ta, còn dám động vào, ta sẽ giết ngươi."
Dương Hạo dở khóc dở cười, nói: "Trúc Vận."
Trúc Vân cầu khẩn nói: "Thái úy, để ta tự mình đắp thuốc có được không?"
Lão lang trung đã sớm như con thỏ bị chấn kinh, vội vàng nhảy ra, vẻ mặt khổ sở nói: "Lão hủ chưa bao giờ gặp phải bệnh nhân khó chơi như vậy. Thái úy đại nhân a, dù sao thì cũng chỉ là bôi thuốc kim sang thôi mà, thuốc ở trong hộp đó, không bằng ngài cho người đi tìm kiếm một chút, kiếm nữ nhân đến rịt thuốc cho nàng đi. Lão hũ thật sự là hầu hạ không nổi."
Dương Hạo cả giận nói: "Ở nơi khỉ ho cò gáy này thì tìm đâu ra người? Thương thế nghiêm trọng như thế này, còn kéo dài được nữa ư?"
"Nhưng mà lão hủ."
"Mau chuẩn trị đi."
Dương Hạo nổi giận quát lên một tiếng, lão lang trung đành kiên gắng gượng lại gần, nhưng Trúc Vận vẫn nắm chặt thành Tử Điện kiếm lấp lóe sáng ngời, quật cường nói: "Không cho hắn nhìn thấy thân thể ta, nếu không, nếu không ta phải giết hắn."
Lão lang trung vừa nghe được liền co vòi. Dương Hạo không khỏi cảm thấy đau đầu. Đáng tiếc trong quân không mang theo một nữ nhân nào. Bát long nữ kia đã để Mục Vũ đưa đi Cam châu rồi, chờ Diễm Diễm sắp xếp cho các nàng về nhà. Sớm biết thế này, đã dẫn các nàng theo rồi.
Mắt thấy Trúc Vận bị thương mà vẫn dữ như hổ, lão lang trung lại run rẩy như con mèo bệnh, Dương Hạo đành nhắm mắt lại, quát: "Để hộp thuốc lại, các ngươi ra ngoài cả đi."
Dương Hạo trầm giọng nói: "Trong quân thật sự tìm ra không ra một nữ tử, chuyện gấp phải tòng quyền. Bản thái úy tự mình rịt thuốc cho ngươi. Nếu ngươi cảm thấy tổn hại đến danh tiết, không thể chấp nhận, vậy người cứ một kiếm đâm chết ta là được!" Dứt lời hắn liền ngang nhiên đến bên người Trúc Vận, đưa tay cởi mảnh vải trên eo nàng.
"Ngươi.. ngươi...."
Thân thể mềm mại của Trúc Vận tựa như mắc phải bệnh sốt rét, cánh tay cầm kiếm run rẩy không thôi. Dương Hạo vừa mới tháo được nút thắt, Trúc Vận bỗng nhiên yêu kiều hô lên một tiếng. Đương một cái, thanh trường kiếm đã rơi xuống đất, hai tay vội vàng che mặt, giữa hai ngón tay lộ ra một làn da đã đỏ như máu....
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 18: Khẩn yếu quan đầu
Nguồn: Sưu tầm
Dương Hạo mặc dù nói có vẻ chính khí lẫm liệt, nhưng khi ngón tay vừa chạm vào eo Trúc Vận, trong lòng hắn vẫn không tránh được có chút căng thẳng. Quan hệ giữa hắn và Trúc Vận chính là thượng cấp thuộc hạ, tuy nói là rịt thuộc cho nàng, nhưng nam nữ thụ thụ bất thân, vừa chạm vào thân thể nữ sát thủ này, trong lòng đương nhiên rất không tự nhiên.
Nhưng khi tháo mảnh vải buộc ở thắt lưng, nhẹ nhàng vén lớp áo lót trên người nàng, nhìn thấy vết thương ghê người, một chút ý niệm băn khoăn trong lòng hắn liền lập tức biến mất, chỉ còn lại sự lo lắng và quan tâm.
Trúc Vận trôi theo dòng nước tới đây, cũng bớt cho Dương Hạo một công đoạn tẩy rửa vết thương. Vì không có máu, cho nên thương thế miệng vết thương hiện ra rất rõ ràng, bởi vậy càng khiến người ta nhìn thấy sởn tóc gáy. Dưới xương sườn là một vết thương thật sâu do mũi tên để lại, bởi vì nàng gắng gượng rút ra cho nên lưỡi câu cũng xé rách một phần cơ thịt, sau đó lại bị ngâm trong nước, nhìn cơ nhục miệng vết thương thật có chút dọa người. Mà hiện giờ ở đây lại không có thuốc đặc dụng, cho nên sau khi rịt thuốc nhất định không tránh khỏi lưu lại sẹo.
Dương Hạo lấy bình đựng thuốc kim sang, cẩn thận rắc lên miệng vết thương của nàng. Trúc Vận kêu lên một tiếng đau dớn, hai tay siết chặt, trên trán cũng lấm tấm rịn ra mồ hôi.
Dương Hạo khẩn trương nói: "Trúc Vận, cố gắng chịu đựng, nếu để miệng vết thương sinh mủ thì rất phiền toái."
Trúc Vận ừm một tiếng, cắn chặt răng chịu đựng, cố gắng không phát ra âm thành. Dương Hạo làm càng lúc càng nhanh, chỉ sau một lát, miệng vết thương của nàng đã được rắc đều thuốc kim sang. Tiếp đó hắn lại xé một mảnh vải trắng, nhẹ nhàng đặt lên vết thương, sau đó nhẹ nhàng luồn qua chiếc lưng mềm mại của nàng. Thân thể mềm mại của Trúc Vận khẽ run lên , hai mắt nhắm chặt, mặc hắn bài bố. Dương Hạo cẩn thận quấn mảnh vải trắng quanh mấy vòng, băng bó chặt miệng vết thương lại rồi mới thắt nút...
Vết thương trên người Trúc Vận không chỉ có một chỗ. Nhìn những vết thương ghê người này, Dương Hạo thật khó tin tưởng nổi, một người con gái lại cường hãn đến như vậy. Với võ công của nàng, còn bị trọng thương như vậy, cũng không biết là đã trải qua bao nhiêu cuộc chém giết thảm liệt, rốt cuộc là trải qua cái cảnh ngộ gì nữa. Dương Hạo chợt nhớ ra, lúc trước nàng từng kiêu ngạo khoe khoang với mình rằng, nàng đã bắt đầu giết người từ năm mười hai tuổi. Hắn đột nhiên cảm thấy, nàng nói như vậy vị tất đã là khoe khoang, mà dường như muốn thể hiện nỗi chua xót trong lòng nàng. Ai lại nguyện ý làm một sát thủ sống trên lưỡi đạo nhuốn máu chứ. Nhất là một nữ nhi như nàng. Trên người nàng còn thấy được một số vết thương cũ mơ hồ. Từ nhỏ đến lớn, cũng không biết nàng đã phải trải qua bao nhiêu lần hiểm nguy, ngàn cân treo sợi tóc như thế này nữa.
Trúc Vận cắn chặt răng, hai mắt nhắm chặt, khuôn mặt xinh đẹp nhuốm một màu ửng hồn. Nàng chưa bao giờ từng để lộ cơ thể mình trước mặt một nam nhân, nhất là nam nhân mộ nàng ái mộ. Cứ mặc hắn bài bố như vậy, nàng thật xấu hổ muốn chết. Nhưng... nếu nhất định phải lõa thân trước mặt một người nam nhân, nàng tình nguyện để người nhìn là hắn.
Miệng vết thương của Trúc Vận đã được rắc thuốc kim sang, nhưng phải băng bó vết thương lại, không thể không cởi cả y phục của nàng ra được, Dương Hạo khó xử một hồi lâu, cuối cùng nói: "Trúc Vận, chuyện gấp phải tòng quyền, thương thế của ngươi không trì hoãn được nữa, ta đành phải... Đắc tội."
Trúc Vận mở bừng mắt, chỉ thấy Dương Hạo biến chưởng thành đao, đang định chém xuống cổ nàng, không khỏi thật thốt kêu lên: "Không cần."
Dương Hạo vội ngưng lại, xấu hổ nói: "Tạm thời ngất đi.... sẽ dễ chịu hơn một chút, hơn nữa đau đớn cũng... cũng không cảm thấy nữa...."
Trúc Vận hô hấp dồn dập, lại quật cường nói: "Không cần, ta... ta không quen bị người ta bài bố lúc hôn mê..."
Nàng khẽ cắn răng, bỗng nhiên đem hết sức lực trở mình đi, run giọng nói: "Vậy làm phiến thái úy đại nhân... Xin.... xin hãy động thủ đi."
Dương Hạo hơi do dự, lúc này mới nhẹ nhàng tháo nút thắt áo ngực trên lưng nàng. Áo ngực đã bị nhiệt độ cơ thể nàng hong khô, nút thắt vừa được mở, áo ngực liền rơi xuống, đôi gò bồng đảo trước ngực bị thân thể nàng đè xuống, ở hai bên lộ ra hai đường cong uốn lượn, mềm mại động lòng người. Dương Hạo nhanh chóng rắc bột thuốc lên miệng vết thương, lấy ra băng vải, thấp giọng nói: "Đắc tội."
Hai tay Trúc Vận chống xuống giường, kiệt lực nâng thâ thể mình lên, cái eo nhỏ nhắn hơi trầm xuống, thân trên lại nhô lên. Cặp long đồn dưới hạ thân được chiếc quần lót ôm chặt lấy, bởi vì động tác này mà càng có vẻ nổi lên, đẫy đà, cả tư thế tràn đầy hương vị mờ ám.
Dương Hạo không dám nhìn nhiều, ánh mắt nhìn chằm chằm vào góc đại trướng, hai tay mò mẫm luồn băng vải qua bụng nàng. Đôi gò bồng đảo trước ngực Trúc Vận vị lực hút trái đất, nhẹ nhàng rung động dưới người nàng. Dương Hạo hai mắt nhìn ra chỗ khác, đôi tay vụng về cho dù muốn tránh chúng cũng không thể tránh hết lần này tới lần khác được.
Trúc Vận bị hắn chạm lầm thứ nhất, xấu hổ đến khẽ rên lên một tiếng, hai tay bủn rủn đến gần như tê liệt, chỉ gắng gượng chống đỡ, sau một hồi lâu sau mới thích ứng được. Dương Hạo vội vàng luống cuống cầm băng vải băng từng vòng từng vòng một, chỉ cảm thấy chỗ da thịt tiếp xúc nóng rực, trơn nhẵn. Cái cảm giác khác thường kia lập tức truyền lên não hắn, khiến trong đầu hắn dần dần huyễn hóa ra hình dạng đầy đủ của thứ kia... Ồ, như búp măng, đỉnh còn hơi hơi nhếch lên, hai hạt nhũ hoa nho nhỏ... Bị hắn động chạm không ngừng, cặp nhũ châu không ngờ lại dần dần nhô cao, cương cứng... Ôi trời ơi!
Dương Hạo cúi đầu nhìn thoáng qua, phần gáy sau tai Trúc Vận đã đỏ bừng, da thịt cả người đều lộ ra một màu hồng phấn, hô hấp bản thân cũng không nhịn được mà trở nên dồn dập, chân tay luống cuống băng chặt vết thương lại cho nàng. Trên trán Dương Hạo cũng nhịn không được khẩn trương đến độ toát cả mồ hôi hột.
Lúc này, trên người Trúc Vận đã được quấn chi chít băng vải, tuy một số chỗ vẫn lộ ra da thịt, nhưng cũng không lộ ra quá nhiều xuân quang để người ta nhìn thấy nữa. Dương Hạo lấy ra một cái áo sạch sẽ, nhẹ nhàng phủ lên người nàng, đỡ nàng nằm trở lại giường, sau đó vẻ mặt như lâm đại địch, nhìn về phía hạ thân của nàng...
Vừa rồi băng bó vết thương, những chỗ dễ băng bó đã được rịt thuốc và băng kỹ lưỡng hết, cho nên hai ống quần của Trúc Vận đã sớm bị xé bỏ. Vết thương trên chân nàng không nhiều lắm, chỉ có vài vết máu ứ do va chạm và vết chầy xước khi chạy trốn trong rừng cây. Nhưng trên đùi, một vết thương xéo ngang hình tam giác xuyên sâu vào trong bắp đùi, hẳn là vết thương do trường mâu tạo thành.
Hạ thân của nàng chỉ còn lại hai miếng vải che thân, nếu phải băng bó chỗ đó, không thể tránh được phải vén lên một chút. Nhưng một khi vén lên, vạn nhất nhìn thấy cái gì đó, thân thể nữ hài nhi người ta chẳng phải lộ hết ra trước mắt hắn hay sao?
Dương Hạo chần chừ một hồi lâu, mới run run thò tay về phía bắp đùi của nàng. Nhưng vừa tới gần, bàn tay đã cảm nhận được một hơi nóng hừng hực. Ngực Trúc Vận phập phồng kịch liệt, bỗng nhiên khàn khàn kêu lên: "Thái úy!"
Dương Hạo giật mình nhảy dựng lên, vội vàng thu tay lại, ngẩng đầu lên, chỉ thấy hai má Trúc Vận đang đỏ bừng, ngập ngừng nói: "Thái úy... xin người... chém ngất ta đi...."
Một chưởng hạ xuống, Trúc Vận đã được giải thoát. Dương Hạo cũng cảm thấy thoải mái. Hắn cẩn thận nhấc một góc mảnh vải che hạ thân Trúc Vận lên, để lộ ra một bắp đùi trắng nõn như đậu hũ. Hắn đột nhiên nghĩ: "không đúng nha, vết thương ở đùi mà... Chính cô ta cũng có thể tự băng bó được mà...."
Dương Hạo lại quay sang nhìn Trúc Vận đã hôn mê bất tỉnh, lắc đầu cười khổ một tiếng, đành gắng gượng làm tiếp....
Trúc Vận chậm rãi tỉnh lại, cảm thấy có một thìa canh thịt đang nhẹ nhàng bón vào trong miệng và một mùi thơm nồng xông vào mũi. Nàng theo bản năng mở mắt ra, chỉ thấy Dương Hạo đang bưng chén canh, ngồi bên giường nàng. Trên má Trúc Vận lập tức nổi lên hai vầng đỏ ửng: "Thái úy..."
Chỉ kêu lên một tiếng, nước mắt nàng đã tràn mi chảy ra. Nàng cũng không biết tại sao mình lại khóc, từ khi bước lên con đường này, nàng rất ít khi khóc, nhưng vào giờ khắc này, nàng mới biết, thì ra mình cũng chỉ là một nữ nhân mà thôi, khi muốn khóc cũng đâu cần lý do gì? Trúc Vận nước mắt lưng tròng nhìn Dương Hạo, chưa bao giờ phát hiện mình lại yếu đuối đến thế.
Dương Hạo vui vẻ nói: "Đừng khóc, nguy hiểm đã qua rồi." Vì tránh không khí xấu hổ, hắn lập tức khôn khéo thay đổi đề tài: "Trúc Vận, làm sao nàng lại trôi theo dòng nước đến đây, hơn nữa còn bị thương nặng như vậy?"
Dương Hạo vừa hỏi, Trúc Vận liền lập tức tỉnh táo lại, vội vàng hỏi: "Thái úy, Chiết cô nương vẫn chưa trở về ư?"
Dương Hạo cả kinh nói: "Chiết cô nương? Chiết cô nương là ai?"
"Chiết Tử Du Chiết cô nương đó."
Dương Hạo thất thanh nói: "Tử Du? Ngươi gặp nàng? Ngươi gặp nàng ở đây?"
Trúc Vận nói: "Thuộc hạ... tới Lũng Hữu nghe ngóng động tĩnh của người Thổ Phiên, thám thính được Thượng Ba Thiên kết minh với chư Thổ Phiên, cấu kết với Tống quốc tính kế gây bất lợi cho hành động của thái úy..."
Dương Hạo thản nhiên nói: "Cái này ta biết, kỳ thật bọn họ cũng giở ra được bao nhiêu trò gian trá, sớm biết việc này nguy hiểm như vậy, vô luận thế nào ta cũng không cho ngươi đi Lũng Hữu." Trúc Vận hé miệng cười: "Kỳ thật việc này cũng không nguy hiểm, thuộc hạ có thể dễ dàng toàn thân trở ra. Chỉ là... trong lúc vô ý thuộc hạ nghe thấy, Thượng Ba Thiên trong lúc say rượu đã khoe khoang với hắn một kiện bảo vật. Thuộc hạ nghĩ thấy, bảo vật này nhất định có tác dụng lớn đối với thái úy, cho nên định trộm về. Chỉ là hắn quá mức coi trọng bảo vật này, thuộc hạ không thể hạ thủ đánh cắp, đành phải xông vào cướp lấy, đến nỗi bại lộ hành tung, bị bọn họ đuổi giết không ngừng, thuộc hạ chạy được tới Lục Bàn sơn, vừa vặn lại gặp được Chiết cô nương."
Dương Hạo kinh ngạc nói: "Lục Bàn sơn? Thì ra là thế, nàng dùng kế dương đông kích tây, cố ý để lộ hành tung, giống như lén lút đến trung nguyên, nhưng thật ra là tới Lũng Hữu."
Trúc Vận nói: "Vâng, thuộc hạ gặp Chiết cô nương, cũng cảm thấy rất kinh ngạc. Lúc ấy thuộc hạ đã nhận được tin của Diễm phu nhân, biết Chiết cô nương dưới cơn tức giận đã rời khỏi Hạ châu, đang muốn khiến nàng trở về, nhưng đúng lúc đó thì truy binh đuổi tới, thuộc hạ đành mang theo Chiết cô nương cùng nhau chạy về hướng Bắc. Khi cúng ta chạy tới Tiêu quan, phía sau có truy binh, phía trước có cường địch, rơi vào đường cùng, thuộc hạ đành phải giao bảo vật cướp được cho Chiết cô nương, còn thuộc hạ lộ mặt dụ địch, tạo cơ hội cho nàng về Hà Tây."
Dương Hạo trầm giọng nói: "Chuyện này xảy ra bao giờ?"
"Ước chừng một tháng trước. Lúc ấy, thuộc hạ chỉ muốn càng nổi bật càng tốt, thoát được càng xa càng tốt. Có như Chiết cô nương mới dễ dàng vượt qua quan ải. Sau khi hấp dẫn được một lượng lớn truy binh, ta liền bỏ chạy về hướng tây, sau đó lại đoạt một thớt ngựa tốt của một người du mục, chạy chối chết một mạch, nhưng bọn họ vẫn đuổi theo không bỏ, thuộc hạ đành tiếp tục chạy về hướng tây, chạy tới Lan châu, lại từ Lan châu chạy tới Tây Ninh, muốn định vượt qua Cô Thịnh sơn, tới Lương châu trước sau đó mới trở về Hạ châu.
Chỉ là toàn bộ Lũng Hữu gần như đều là địa bàn của người Thổ Phiên, bọn họ biết ta là người của Hạ châu, bất kể là hướng đông hay hướng bắc đều có trùng trùng binh mã chặn đường. Thuộc hạ thủy chung không thể tránh được, lại càng không thể đột phá vòng vây, rơi vào đường cùng, đành tiếp tục chạy về hướng tây, chạy một mạch đến Thanh Hải hồ, mãi cho đến khi tiến vào địa bàn của người Hồi Cật, lúc này mới thoát khỏi truy binh của bọn họ.
Sau khi thuộc hạ vượt qua Đại Tuyết sơn liền tiến vào địa cảnh Qua châu, không nghĩ tới, vừa mới vượt qua được Đại Tuyết sơn, lại đụng ngay một đám mã tắc. Thấy ta một nữ tử thân cô thế cô, bọn chúng liền nảy lòng ác ý, thuộc hạ lúc đó sức cùng lực kiệt, vừa đánh vừa chạy, chạy mãi tới bên một bờ song, cuối cùng không gắng gượng nổi nữa mà rơi xuống nước..."
Nói đến đây, Trúc Vận nói: " Thuộc ha từ Tiêu quan chạy trốn một mạch tới đây, thời gian cũng trôi qua được gần một tháng rồi. Nếu Chiết cô nương có thể thuận lợi từ Vũ quan trở về Hà Tây thì đáng lẽ nên sớm gặp thái úy rồi, nếu không ít nhất... cũng nên báo tin cho thái úy chứ. Chẳng lẽ... nàng gặp điều gì bất trắc rồi?"
Thần sắc Dương Hạo trở nên ngưng trọng, theo lời kể của Trúc Vận, nếu như Chiết Tử Du thuận lợn quá quan, ít nhất cũng phải gặp mình sớm hơn Trúc Vận nữa tháng. Cho dù nàng không muốn gặp mình, nhưng với tính cách của nàng, nhận ủy thác của người khác, mang việc trên người, tuyệt đối không thể tiêu thanh biệt tích như vậy được. Rốt cuộc nàng đã xảy ra chuyện gì?"
Dương Hạo trong lòng lo âu, nhưng hắn cũng biết, lúc này có lo lắng cũng chẳng làm được gì, nhiều nhất cũng chỉ có thể cho người tăng cường tìm kiếm các nơi gần Tiêu quan thôi. Nhìn dung nhan tái nhợt tiều tụy của Trúc Vận, lúc này hắn mới hỏi: "Trúc Vận, ngươi cướp được bảo vật gì của Thượng Ba Thiên, đến nỗi khiến hắn không tiếc giá nào, bày ra trận thế lớn như vậy, vượt qua Thanh Hải hồ đuổi giết ngươi, mãi đến tận biên giới Hoàng Đầu Hồi Cật mới thôi?"
Trong mắt Trúc Vận lập tức tỏa ra quang mang, kích động nói: "Là truyền quốc ngọc tỷ!"
Dương Hạo hoảng sợ nói: "Truyền quốc ngọc tỷ?"
Trúc Vận nói: "Đúng, là truyền quốc ngọc tỷ, truyền quốc ngọc tỷ của Tần Thủy Hoang. Thật không ngờ tới, món bảo vật này lại rơi vào tay Thượng Ba Thiên. Sau khi Thượng Ba Thiên có được món bảo vật này, định dựa vào nó để hiệu triệu, trùng kiến lại đế quốc của dân tộc Thổ Phiên. Nhưng hắn cũng biết thực lực của mình có hạn, bởi vậy vẫn dấu kín bảo vật này không nói ra, chỉ muốn dựa vào sự giúp đỡ của người Tống, chiếm cứ toàn bộ Lũng Hữu, nhất thống chư bộ Thổ Phiên, sau đó lại đợi thời cơ chín muồi, dựa vào ngọc tỷ hiệu triệu, tự lập thành đế. Cuối cùng không ngờ truyền quốc ngọc tỷ lại bị thuộc hạ cướp mất...."
Nàng kích động đến hai má đỏ bừng, nói: "Thái úy tiếu ngạo Hà Tây, nắm giữ Tây Vực trong tay, tương lai còn phải xua quân xuống Nam, nhất thống Lũng Hữu. Nếu thứ này rơi vào tay thái úy, thì chẳng khác nào mãnh hổ thêm cánh...Nếu thái úy muốn kiến quốc xưng đế, cũng có thể dựa vào nó để hiệu triệu thiên hạ. Chỉ là... Chiết cô nương không hiểu sao đến lúc này vẫn không có tin tức..."
Thân hình Trúc Vận đột nhiên khẽ run lên, thất thanh nói: "Chẳng lẽ...Chiết cô nương mang ngọc tỷ về Chiết gia?"
Lời vừa thốt ra, Trúc Vận liền biết mình đã lỡ lời, lo lắng lén liếc mắt nhìn Dương Hạo một cái. Dương Hạo cũng không hề tức giận, chỉ mỉm cười ảm đạm: "Không đâu. Trước mặt lợi ích, con người và tính cách một người có lẽ không thể tin được... nhưng ít nhất trí tuệ của hắn cũng không mất đi. Khối ngọc tỷ truyền quốc này tuy là vô thượng bảo vật, nhưng cũng phải thực lực tương xứng mới có thể phát huy tác dụng của nó. Nếu không nó chỉ mang đến tai họa cho người sở hữu mà thôi. Thượng Ba Thiên mặc dù chiếm được bảo vật, nhưng lại giữ kín không nói ra cũng là vì lí do này. Chiết gia tuy là bá chủ Vân Trung, nhưng lại không có đủ thực lực xưng vương xưng đế. Nếu mang bảo vật này đến Phủ châu , đó chính mang đến tai họa chí mạng cho Chiết gia."
Trúc Vận cúi đầu nói: "Vâng, Trúc Vận sai rồi."
Dương Hạo cười cười: "Không nên nghĩ nhiều nữa. Tung tích Chiết cô nương, ta sẽ phát người đi dò la. Trời đã tối rồi, ngươi nghỉ ngơi cho tốt đi. Sáng sớm ngày mai, ta sẽ trở lại thăm ngươi."
Trúc Vận phục hồi lại tinh thần, nhẹ nhàng ừm một tiếng.
Dương Hạo đứng dậy, khẽ kéo chăn đắp lên người nàng, dặn dò: "Ban đêm trong đại mạc rét lạnh buốt xương. Chú ý nghỉ ngơi. Nếu như cần gì thì bên ngoài trướng có người hầu hạ. Người cứ nghỉ ngơi thật tốt trong trướng của ta đi. Ta chén chúc với lão Ngải một đêm vậy. ha ha, chỉ mong hắn ngáy to quá...."
Trúc Vận lặng lẽ nhìn bóng lưng Dương Hạo, chờ đến khi tiếng bước chân Dương Hạo dần dần đi xa, ánh mắt Trúc Vận lại chậm rãi ngước lên đỉnh trướng, ánh mắt mơ hồ, cũng không biết là đang nghĩ ngợi điều gì, sóng mắt đầu tiên là mông lung như biển sao, sau lại dần dần lưu chuyển, giống như hai dòng xuân thủy.
Nàng lặng lẽ nhấc chăn lên, nhìn thân hình đã bị băng bó kín mít của mình, đột nhiên kéo giật chăn lên, che khuôn mặt của mình, trước khi nó biến thành màu đỏ như táo...
Dương Hạo ra khỏi đại trướng trung quân, thị vệ dưới trướng lập tức khoác lên người hắn một cái áo khoác. Dương Hạo phất phất tay, xua đám thị vệ lui xuống, nhưng cũng không vội đi tới đại trướng của Ngải Nghĩa Hải. Hắn đi dạo trên mặt cát, chậm rãi bước đến bên bờ sông. Nhìn những con cá bơi dưới lòng Hồ Lô hà, ngây ngẩn một hồi lâu, hẵn bỗng ngoảnh đầu nhìn về phía đông: Tuy Tử Du giận dỗi, nhưng tuyệt đối sẽ không mang truyền quốc ngọc tỷ đến Chiết gia. Chỉ là vì sao đến giờ mà vẫn không có tin tức của nàng? Nàng trở về Phủ châu, hay là gặp bất trắc gì?
Ánh mắt Dương Hạo lúc này dường như đã xuyên qua không trung hoang mạc, bay đến Phủ cốc Bách Hoa Ổ.
Bách Hoa Ổ, Xích Trung uống rượu say bét nhè, hai chân bước lảo đảo, được người đỡ về phòng ngủ của hắn. Phòng ngủ của hắn vốn chính là phòng của Chiết Ngự Huân. Hắn đã sớm coi mình là chủ nhân Phủ châu rồi. Thế nhưng cái cảm giác thỏa mãn và đắc ý này chỉ kéo dài được bảy ngày.
Hôm nay, thị vệ tâm phúc của hắn vừa ra ngoài dò la tin tức trở về. Hắn lúc này mới biết, mình bị người ta đùa giỡn như con khỉ/ Triều đình thật sự xuất binh rồi. Nhưng binh mã hôm nay vừa mới phát động tấn công Phủ châu, bọn họ cầm chiếu lệnh của triều định và tấu chương xin binh do chính tay Chiết Ngự Huân viết, nói Xích Trung hắn phản bội Chiết Ngự Huân, đầu nhập kẻ gian nịnh như Dương Hạo, kêu gọi trên dưới Phủ châu lập tức quy hàng triều đình, cùng thảo phạt Chiết Xích hai nhà phản nghịch.
Bên ngoài hiện giờ đã rối như mớ bòng bong. Binh lính Chiết gia muốn chống cự ý chỉ triều đình, nhưng lại có thư tín do chính tay Chiết soái viết. Hơn nữa sứ giả triều chình và con trưởng của Chiết Ngự Huân - Chiết Duy Chính đích thân đến trước trận chiêu hàng. Quân lính Chiết gia lúc này căn bản chẳng thể phân rõ ai đúng ai sai nữa rồi. Dương gia quân lâm vào tình thế khó xử, bị bắt rút quân để chứng tỏ trong sạch. Đám người Nhậm Khanh Thư biết rõ triều đình tất có gian kế, nhưng phe triều đình lại có thư tín do chính tay đại soái và Chiết Duy Chính ra mặt, bọn họ căn bản không thể chống cự. Tình thế trước mắt thành ra cực kỳ khó xử, không biết nên theo ai.
Mà Xích Trung ở Bách Hoa Ổ cũng biết, hắn đã lâm vào bước đường cùng rồi. Triều đình không dung được hắn, Chiết gia không dung được hắn, Dương Hạo cũng không dung được hắn. Bất kể là đạo nhân mã nào đánh tới phủ cốc, hắn đều chỉ có con đường chết.
Hắn thậm chí còn không dám tuyên bố tin tức này với toàn quân. Nhưng cho dù như vậy, rất nhanh thôi, tất cả các tướng lãnh đều sẽ biết. Rồi ngay sau đó, tất cả binh lính cũng đều sẽ biết. Đến lúc đó, ai còn dám bước lên tuyệt lộ với hắn chứ? Hắn rất nhanh sẽ bị cô lập, đồng bọn xa lánh thôi.
Xích Trung vừa nghĩ đến chỗ đau, không khỏi quát lớn một tiếng, hai tay xô hai tên thị vê ra, hét lên: "Cút, cút hết cho ta! Cút, cút, cút!"
Hai tên thị vệ không hiểu vì sao tướng quân lại nổi cơn lôi đình, sợ quá vội vàng lui xuống. Xích Trung nghiến răng nghiến lợi nói: "Ta không cam lòng, ta không cam lòng. Xích Trung ta há lại để mặc người định đoạt? Cả nhà Chiết gia đều chôn vùi trong tay ta, lão tử dù sao cũng chẳng quay đầu được nữa rồi. Hừ hừ... Ngày mai ta sẽ tự mình đi gặp Nhậm Khanh Thư, tố cáo cái bản mặt đáng ghê tởm của Triệu quan gia người cho tất cả cùng biết. nhất định... nhất định sẽ có người tin.."
Hắn lảo đảo đi về phía trước vài bước, một cơn gió lạnh thổi tới, đột nhiên ôm lấy lan can bên hành lang, cúi đầu nôn thốc nôn tháo. Nôn thốc nôn tháo một hồi lâu, hắn bỗng nhiên giật mình, phát hiện có người tới gần. Hắn lập tức rút phắt bội kiếm, vung thanh bảo kiếm sắc bén do hoàng đế ngự tứ lên, hét lớn: "Ai? Đi ra cho ta?"
"Hắc hắc hắc, tướng quân, là ta đây."
Một người từ trong bóng hiện chậm rãi bước ra, hiện thân dưới ánh trăng mờ ảo. Xích Trung nheo mắt nhìn lại, lập tức nhận ra là doanh chỉ huy - Ngũ Duy, không khỏi thở hắt ra một hơi, run run chống cây kiếm xuống đất, liếc xéo hắn rồi nói: "Ngươi... ngươi không tuần thú doang trại quân đội.. mà đến đây làm gì?"
Ngũ Duy cười khẩy, nói: "Đại nhân, binh mã triều đình tới rồi. Khốn cục của chúng ta được giải. Đại nhân hiện giờ chính là chủ nhân Phủ châu, tiết độ một phương rồi. Đại nhận làm sao lại buồn bực không vui chứ?"
Xích Trung nghe xong, cười ha ha nói: " Không sai, không sai, binh mã triều đình đến rồi... khốn cục của chúng ta.... đượcgiải... ha ha ha."
Hắn cười mà như khóc, giống như tiếng cú rúc trong đêm, dọa cho mấy con chim nhỏ sợ hãi bay tán loạn. Ngũ Duy hơi cau mày, nói: "Đại nhân, đêm dài lại lạnh, nên sớm trở về phòng nghỉ đi. Ha ha, trong phòng của đại nhân, mạt tướng đã an bài cho đại nhân một diệu nhân để giải sầu tịch mịch rồi. Nếu đại nhân thích, tối nay cứ ngủ lại với nàng đi. Chuyện này chỉ có một mình mạt tướng biết, nên không ai biết được đâu. Đại nhân chính chiến vất vả, thỉnh thoảng cũng phải phóng túng một phen, không cần làm khổ bản thân như vậy...."
Nói xong, hắn liền bước tới dìu Xích Trung. Xích Trung gạt ra, quát: "Tránh ra, ta... ta không sao. Bản tướng quân còn chưa già, không ... không cần người đỡ."
Hắn rút thanh lợi kiếm sáng loáng lên, lảo đỏa bước về phía phòng ngủ của mình, miệng lẩm bẩm: "A.. không sai. không thể quá... quá đày ải mình được. Ồ... diệu nhân, diệu nhân..."
Ngũ Duy dừng lại cước bộ, nhìn bóng lưng Xích Trung, cười âm hiểm, sau đó lại tiến vào trong bóng đêm. Xích Trung chân thấp chân cao, loạng choạng xông vào trong phòng. Trong phòng đã thắp đèn từ trước, Xích Trung quẳng thanh lợi kiếm lên mặt bàn, cầm ấm trà lên tu ừng tực, mắt say lờ đờ đảo qua, lúc này mới phát hiện bên giường có một thiếu nữ trẻ tuổi. Tuổi tác thì trẻ măng, nhưng kiểu tóc lại búi theo kiểu phụ nhân, lông mày tựa xuân sơn, sóng mắt tựa thu thủy, tựa hồ thấy hắn tiến vào mới từ trên giường đứng lên, nép mình trốn bên giường, len lén nhìn hắn, vẻ mặt sợ hãi, giống như một con thỏ nhỏ nhắn đáng yêu.
Xích Trung ngẩn ra, chỉ vào tiểu phụ nhân, lớn giọng hỏi: "Ngươi... người là ai? Tên gì?"
Tiểu phụ nhân kia khiếp sợ nói: "Ta... ta họ Lý.. là thiếp của Chiết thiếu tướng quân..."
Xích Trung đập bàn rầm một cái, cầm lấy thanh trường kiếm, lảo đảo chĩa về phía nàng quát: "Lão tử hỏi tên ngươi, ngươi run rẩy cái gì. Có phải ngươi cũng muốn lừa gạt lão tử phải không? Ngươi cũng muốn phản bội lão tử có phải không? Ngươi.. người muốn hại ta ư?"
Tiểu phụ nhân thấy trường kiếm chĩa trước ngực, sợ đến hồn phi phách tán, run giọng nói: "Thiếp thân.. thiếp thân chỉ có một cái nhũ danh thôi. gọi là Tiểu Mị...."
Xích Trung vỗ trán một cái, đột nhiên tỉnh táo lại một ít: "A, ta biết ngươi, ngươi.. ngươi nấu ăn rất khéo, ngươi là nữ nhi của chưởng quỹ Tiểu Phàn lâu. ha ha, ta rất thích. Ủa, ngươi... ngươi ở đây làm gì?"
Thân thể Tiểu Mị run lên nói: "Là... là tướng quân đại nhân phái người bắt ta tới đây...bắt tới đây, muốn thiếp .... thiếp... thiếp thân hầu hạ tướng quân...."
"Ồ?" Xích Trung quan sát nàng từ trên xuống dưới một lượt, chỉ thấy tiểu phụ nhân năm nay mới mười ba tuổi, dáng mảnh eo thon, làn da láng mịn, mái tóc mềm mại... toàn bộ đều rất mê người, nhất là nàng còn rất nhỏ tuổi... cái loại hương vị non nót, tươi mát, quyến rũ này thật khiến người ta phải thèm thuồng.
Ánh mắt Xích Trung dần chuyển thành dâm tà. Hắn từng muốn cố gắng trở thành một đại nhân vật mà mọi người kính ngưỡng, làm một đại tướng quân mà trên dưới Phủ châu đều yêu mến. Chỉ là tất cả đều đã tan vỡ rồi. Trừ rượu ngon, đại khái cũng chỉ có tiểu mỹ nahan này là hắn có thể tranh thủ, có thể hưởng dụng thôi. Còn cái gì đâu? còn cái gì đâu...?
"Choang" một tiếng, thanh trường kiếm nằm lăn lóc dưới đất, thanh bảo kiếm quan gia ngự tứ kia đã bị hắn đạp dưới chân rồi. Hắn nhảo tới, hai tay tách ra, xoẹt một tiếng.. đã xé tan áo khoác ngoài của Tiểu Mị thành hai mảnh, để lộ ra chiếc áo ngực của tiểu mỹ nhân, da thịt hồng hào ngồn ngộn, mịn màng như tuyết, mê người đến cực hạn. Xích Trung nuốt nước miếng ừng ực, vội vàng ôm chầm lấy nàng, theo tiếng thét chói tai của tiểu phụ nhân, cùng nhau ngã xuống giường.
Những tiếng xoạt xoạt không ngừng vang lên, mảnh quần áo bay tứ tưng. Tiểu phụ nhân thét chói tai, bị lột sạch quần áo, chẳng khác nào một con cừu non chờ làm thịt. Xích Trung nghiến răng nghiến lợi nhào tới, tựa như gặp phải sinh tử cừu địch, ra sức tiến vào, tiểu phụ nhân rên rỉ, đau đến gần như ngất đi, Xích Trung lại càng điên cuồng tấn công.
Màn gấm lay động, tiếng kẽo kẹt vang lên, cùng với tiếng hô hấp ồ ồ của hắn, một tượng khó coi đang diễn ra trong phòng. Hô hấp của Xích Trung càng lúc càng trở nên dồn dập, mắt thấy sắp leo được được đỉnh phong cực lạc, một thân ảnh nhanh nhẹn đột nhiên xông vào. Xích Trung đang lâm vào thời khắc mấu chốt, sung sướng đến tận xương, muốn ngừng cũng không ngừng được. Người nọ xông tới phía sau lại càng không nói nhiều, một đao chém xuống, một cái đầu lâu lập tức bay ra ngoài.
Tiểu phụ nhân bị máu nóng phun đầy mặt, nhịn không được hết ầm lên một tiếng, người nọ cầm đao mà đứng, quay mặt về phía đám thị vệ đang xông tới, hét lớn: "Xích Trung phản bộ chủ thượng, hãm hiếp chủ thiếp, tội không thể tha. Ngũ Duy thân là nam nhi, há lại đi làm bạn với lũ phản nghịch. Nay ta lấy tính mạng của hắn, chúng tướng sĩ muốn theo bọn phản nghịch, hay nguyện theo bản quan bỏ gian tà theo chính nghĩa?"
Ban đên, nam thành Phủ cốc, chúng văn võ tập hợp trong phủ Nhậm Khanh Thư, nghị luận mãi mà không quyết định được. Trong đình viện, bọn thị vệ giơ cao đuốc, khiến cho đình viện sáng rõ như ban ngày, mà lòng mọi người cũng như bó đuốc kia, nóng nảy không yên.
Triệu Quang Nhĩa đã khống chế cả nhà Chiết gia, bởi vậy nắm được dư luận thiên hạ. Thân là một đế vương, hắn tất nhiên phải có cái cớ để giải thích với thần tử và con dân của mình. Còn đối với quân Phủ châu mà nói, tình thế hiện giờ thật sự là tiến thối lưỡng nan. Bọn họ đương nhiên biết Chiết soái không thể nào bỏ chạy tới tận Biện Lương cầu binh cứu viện được. Chiết Duy Chính xuất hiện, chỉ sợ là người dưới mái hiên, không thể không cúi đầu, chỉ là chủ công ở trong tay người ta, Chiết gia quân nên làm sao bây giờ?
Hàng thì không cam lòng, chiến thì không có lý lẽ, đám quan viên lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan, trái phải đều khó.
Đúng lúc này, chỉ huy sứ Mã Tông Cường vội vã đi tới, nói nhỏ vào tai Nhậm Khanh Thư mấy câu, Nhậm Khanh Thư vỗng nhiên đứng lên, vội vàng quát: "Nàng ở nơi nào?"
"Đang đón nàng tiến vào phủ"
Nhậm Khanh Thư vội vã chạy ra ngoài, chúng văn võ ù ù cạc cạc, đều không hẹn mà cùng chayj theo. Mọi người vừa đi tới trong viện thì thấy trung môn mở rộng, một đám thị vệ cầm đuốc, quây quanh một chiếc xe ngựa tiến vào, trên xe là một thiếu nữ áo đen, mặt trắng như tuyết, thần lạnh tựa băng.
Nhậm Khanh Thư vừa thấy, vừa kinh vừa hỉ, bỗng nhiên quỳ phục xuống đất, hô lớn: "Ngũ công tử, ngươi đã trở lại!"
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 19: Báo Mẹ Xinh Đẹp
Nguồn: Sưu tầm
Chuyển vận sứ phủ của Nhâm Khanh Thư tạm thời làm soái đường. Chiết Tử Du lẳng lặng ngồi ở trên, nhìn quan võ quan văn đi thành hàng vào. Nàng vẫn mặc huyền y, da trắng như tuyết, gương mặt có chút tái nhợt tiều tụy nói không nên lời, song đôi mắt lại bừng sáng, tựa như một con hắc báo bị thương, nhắm lúc nhảy lên đả thương người ta.
Trên đường yên ắng, chỉ có tiếng bước chân đi rất nhanh, đến tiếng động cũng không nghe thấy, các quan văn võ quan trọng của Phủ Châu đều đến cả lần lượt ngồi sang hai bên, dáng vẻ nghiêm nghị, Chiết gia đã đến thời khắc then chốt sinh tử tồn vong, tính mệnh của họ, tiền đồ số làm quan đã đến lúc gặp nguy hiểm nhất, mỗi người ai nấy đều lo lắng, sự xuất hiện của Chiết Tử Du mang lại ánh sáng rạng đông cho hắn.
Cho dù là chức cao đến mấy vào, hay là những bậc hư danh của Phủ Châu sĩ nhân vật đi vào đại đường, Chiết Tử Du ngồi phía trước có chiếc bàn. Ngồi đó bất động tựa hồ còn to hơn cả huynh trưởng của nàng, đám quan viên này đều biết chân ngũ công tử bị thương, không ai lộ vẻ không vui, huống hồ lúc này, tâm lý của họ đã đặt ở đại sự Phủ Châu.
Trúc Vận ngày đó dẫn nhân mã Thổ Phiên xong, quả nhiên giảm bớt thủ tiêu quan, nhưng Chiết Tử Du không lập sấm quan luôn, nàng bỗng nhiên nghĩ đến, quân địch cũng không phải là ngốc nghếch, nếu như Trúc Vận vừa hiện thân dẫn đại đội nhân mã, bản thân lập tức sấm quan, người Thổ Phiên vị tất sẽ không ý thức được đây là điệu hổ ly sơn, cuối cùng ngọc tỷ truyền quốc, trong dã tâm thực lực là của quý không thể kháng cự, nếu như phá vây, sợ rằng Trúc Vận mạo hiểm một phen sẽ bị uổng phí.
Chiết Tử Du kiên nhẫn ẩn nấp, dựa vào chỗ thức uống và thịt khô đã chuẩn bị sẵn, chờ đợi đến sáng sớm hôm sau, lựa chọn quan ải khác, lúc này mới nhân lúc trời sáng sương mù dày đặc và sấm quan yên lặng, như vậy, nàng vẫn làm kinh động thủ quân, thủ quân phái thủ đội truy sát, trong rừng mật và các tay cung giằng co nhau, võ nghệ của cá nhân đơn thuần là không đủ, Chiết Tử Du đem toàn bộ lực lượng chém giết mấy tên binh Thổ Phiên đuổi gần, sau đó né tên, trượt chân ngã nhào xuống vách núi, lúc đó đã tránh được sự truy bắt của địch, song một chân đã bị gãy.
Chiết Tử Du được tin truy binh tìm đến chỗ nàng, nhịn đau nâng xương đùi, rồi cột vào nhánh cây để nắn lại xương đùi cho đúng chỗ, sau đó tìm một đôi nạng, sau mấy ngày mới tìm được lối ra rừng rậm, gặp hộ săn bắn trong núi. Chiết Tử Du nghe ngóng nhà săn bắn này mới biết trước núi không xa là Hà Mô Trại, bên phải của Hà Mô Trại không phải hà tây, nói cách khác khi nàng trốn khỏi truy binh, ở trong rừng rậm bị mất phương hướng, nàng đi vòng quanh cuối cùng lại vòng về chỗ lũng hữu/bên phải núi.
May cho nàng là lúc này Trúc Vận đã thu hút được toàn bộ sức chú ý của thượng ba thiên thành công, truy binh trước chặn sau đuổi bị Trúc Vận thu hút đi về phía tây, tiêu quan đi đường hướng đông loại bỏ tất số nhân mã, cho dù như vậy, Chiết Tử Du vẫn vô cùng cẩn thận, nàng trốn mấy ngày nghe ngóng hộ gia đình nọ, nghe ngóng được đạo nọ vào thành đã vô cùng an toàn, lúc này mới lấy tiền đưa cho hộ săn bắn kia mướn chiếc xe đưa nàng vào thành.
Hộ săn bắn nọ theo lời Trúc Vận dặn dò, đi vòng qua Hà Mô Trại và đưa nàng vào thành, vì hộ săn bắn chưa bao giờ rời khỏi nhà trong bán kính một trăm dặm, khi đến đây cho dù Chiết Tử Du đưa bao nhiêu tiền chăn nữa cũng không dám đi tiếp, Chiết Tử Du bất đắc dĩ đành phải để hắn trở về, còn mình trước tiên phải tìm được chỗ nghỉ ngơi. Chân gãy không thể ngày một ngày hai mà khỏi được, nhưng Chiết Tử Du sốt ruột, không chần chừ liền itmf một phòng trọ, kết giao với ông chủ, để hắn giúp mình nghĩ cách.
Mấy ngày trôi qua, vị chủ khách điếm nghe ngóng được có một hộ thương nhân cần vận chuyển hàng hóa tới Trung Nguyên, thương nhân đó là người bản địa thông thuộc nơi này, gia cảnh giàu có, trượng nghĩa vô cùng, là thương nhân đứng đắn liền chạy lại báo cho Chiết Tử Du biết, Chiết Tử Du thông qua người chủ của khác điếm có được sự liên lạc với thương nhân đó, giả xưng mình là cháu gái của chủ quán khách điếm, để một khoản tiền nhờ thương nhân nọ chăm sóc đi theo đoàn thương nhân về hướng đông.
Cứ như vậy, Chiết Tử Du đi theo đoàn thương nhân đi về phía đông. Khi đén Định Hồ thành, nơi này có một trạm thông tin của Chiết gia, công khai thân phận là một nhà tạp hóa, Chiết Tử Du lúc này rời khỏi đội ngũ thương gia, họ tống về hướng bắc, chạy tới Phủ Châu gần nhất.
Nàng còn chưa tới địa phận Phủ Châu thì nghe thấy tin Xích Trung tạo phản, chiếm lấy Bách Hoa Ổ, tin tức lan truyền trên phố, người người nói ra nói vào khó phân biệt được thật giả. Chiết Tử Du vừa sững sờ vừa tức giận, lúc này tin đồn tung khắp nơi, Chiết Tử Du không biết các lộ binh mã của đạo Phủ Châu có phải bị triều đình thu mua hay không, lúc này trên đường không dám lộ thân phận chỉ chạy thẳng đến phủ cốc.
Hôm nay, vào thời khắc quan trọng cuối cùng nàng lại quay trở về kịp thời.
Trước khi triệu tập toàn bộ quan văn võ quan trọng lại, Nhâm Khanh Thư đã thông báo toàn bộ tin tức cho Chiết Tử Du biết, trong đó đương nhiên cũng bao gồm cả chuyện Chiết Ngự Huân bị điên, từng gào hiến Phủ Châu cho triều đình, rồi tin muốn làm Chiết Lan vương. Các nước Thục, Đường, Hán, Kinh, Hồ bị triều đình bình định, các vua kia chẳng qua chỉ là một viên tướng, thêm một hầu tước mà thôi.
Đại tống hiện giờ người đắc phong vương chỉ có một, đó chính là Ngô việt vương Tiền Xúc. Txuc luôn luôn tỏ ra cung kính với Tống quốc, lại còn là quốc quân chủ động xưng hàng, lúc này bị Triệu Quang Nghĩa phong cho làm Hoài Hải quốc vương. Chiết Ngự Huân tướng soái lãnh thổ không bằng ngô việt, thực lực đất nước không bằng ngô việt, hơn nữa về cơ bản cũng không phải là quốc quân một nước, chỉ là sớm đã có danh nghĩa quy thuận Tống quốc, dựa vào sự thừa nhận Triệu Khuông Dận đối với phụ thân hắn luôn được hưởng quyền trọng đại tự chủ của một vị tiết độ sứ.
Trần Hồng Tiến của Mân Nam cũng giống với hoàn cảnh của hắn, quyền vị cũng giống vậy, sau khi chủ động hàng Tống cũng không phong một chức thái ư, chương sự như vậy, xem ra, không đến ngày trí sĩ về hưu sẽ không gia tước, đến lúc đó nhiều lắm cấp cái công tước, để cho hắn mở mày mở mặt, về nhà dưỡng lão là được, Chiết Ngự Huân có đức có năng lực gì mà muốn xưng vương? Vì vậy, trong tin đồn mới nói hắn đã điên, cho nên mới cuồng ngôn. Trên dưới Phủ Châu đều không tin với tin đồn này, nhưng sau khi Chiết Tử Du nghe nói lại biết huynh trưởng tung tin này với mình, an bài hậu sự.
Chiết Ngự Huân là chủ nhân của Chiết gia, đề cập tới đường đi đại sự của tộc mình, nếu như không có thái độ của vị tộc trưởng này thì coi như muội muội của hắn Chiết Tử Du cũng không thể tự tiện lên làm chủ, giờ nghe lời này của huynh trưởng, nàng đã hiểu ý đồ của huynh trưởng, đối với sự chuẩn bị của Phủ Châu, trong lòng nàng đã hiểu thấu.
Mọi người đều tập trung đủ cả, Chiết Tử Du mặt trầm, đôi mắt khẽ đảo qua một lượt, hình ảnh các quan văn võ đều được thu vào tầm mắt của nàng, hắng giọng nói: “Chư vị, Vân Trung Chiết gia thế cư đã tồn tại hai trăm năm, giờ gặp nguy hiểm, là Chiết gia ta hai trăm năm trước, giờ gặp nguy. Triều đình có mưu đồ chiếm Phủ Châu ta vậy, giờ họ đã mua chuộc được Xích Trung, dùng thế lực bắt ép cả nhà Chiết gia ta, tìm cái lý do để Hoàng đế xuất xứ…”
“Giờ đại quân triều đình nguy cấp, nếu như để cho triều đình gian kế hại, vân trung Chiết gia ta đương nhiên sẽ bị xóa sổ, các vị cũng sẽ tan thành mây khói theo Chiết gia ta, không cần kể thêm cũng có thể tưởng tượng nổi. Song, Triệu Quan Gia tuy hiệp thái sơn chèn ép đáng tiếc Chiết Tử Du ta đã về, Chiết gia ta cũng không còn là quả trứng gà không chịu nổi một kích nữa, Chiết gia, sẽ không đổ”.
Các quan văn võ nín thở không chớp mắt nhìn Chiết Tử Du, khẩu khí Chiết Tử Du trầm xuống: “Chư vị theo phụ huynh ta bao năm nay, cũng là huynh trưởng thúc bá của Chiết Tử Du ta, Chiết Tử Du trước lễ hậu binh, giờ ở đây trước tiên cần phải nói rõ với các bậc tiền bối nếu như triều đình có là địch thủ, khả năng này có thể nghĩ đến, nếu như tự lo đường ra, không muốn tiến thối cộng hưởng với Chiết gia ta thì cũng là lẽ thường tình thôi, ngươi có thể giờ có thể đi ra tòa phủ đệ này, cho dù người đầu hàng triều đình cam chịu thân trâu ngựa cũng được, hoặc là ở ẩn cũng được, Chiết Tử Du chắc chắn sẽ không gây khó dễ, song…”
Chiết Tử Du đổi khẩu khí, nói: “Nếu để cho ngươi đi, ngươi không đi, ở lại, chần chừ, hai mặt, khi đó bị ta phát hiện, đừng trách Chiết Tử Du ta không nể tình”.
Các văn võ dưới đường chắp tay nói: “Chúng ta nguyện nghe lệnh của ngũ công tử, có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu với Chiết gia”.
Chiết Tử Du khẽ nhướn mày, hất cao giọng nói: “Được. Nếu như vậy, Chiết Tử Du ta đây cảm tạ chư vị. Chư vị, dụng tâm của triều đình quá rõ ràng rồi, thế thì không tiếc gì cả, không từ thủ đoạn nào để chiếm lấy Phủ Châu ta. Vương Kế Ân điều An Lợi quân, Long Đức quân vây khốn Trình Thế Hùng của Quảng Nguyên rồi lại dãn Ninh Hoa quân, Tấn Ninh quân, Bình Định quân, Uy Thắng quân tấn công Phủ Châu ta, rồi lại huy quân tấn công không ngừng. Tuy Châu Lý Phi Thọ tạm thời tuy không có động tĩnh gì, nhưng triều đình sẽ không cần họ, họ cũng sẽ không ngồi đó mà để cơ hội tuột khỏi tay. Đây cũng là chiếc gai trong mắt chúng ta.
Phòng tuyến của Phủ Châu Chiết gia ta không kịp thời ứng phó để mất đi mấy quan ải quan trọng, lúc này đã vỡ nát, thủ không thể thủ, minh hữu duy nhất của chúng ta Dương Hạo đại soái lúc này lại đang trên đường tây chinh, nếu như muốn hắn viện quân thì chẳng khác nào nước xa không cứu được lửa gần, vì vậy, ta áp dụng cách thế này: Thứ nhất, lập tức công khai cho toàn thiên hạ biết được hành vi ghê tởm của triều đình chiếm đoạt Phủ Châu ta, hành động này tất sẽ được ủng hộ về phe chính nghĩa, nhưng triều đình thế lực lớn, lần này đối chọi với triều đình, mất nhiều hơn được đây”.
Nhâm Khanh Thư nghe đến đây không nhịn được chen lời nói: “Ngũ công tử công khai bộ mặt xấu xa của triều đình, sợ rằng triều đình sẽ chẳng kiêng nể gì. Theo ý thuộc hạ thì chúng ta chi bằng công khai ngũ công tử đã khống chế được tin tức địa bàn Phủ Châu, dốc toàn lực bình ổn chiến loạn của Bách Hoa Ổ Xích Trung, khi triều đình đánh lại nhưng bị Chiết soái mời ngụy trang quân bình định, chiến loạn Phủ Châu đã bình yên, triều đình còn có cớ gì mà xuất binh”.
Lập tức có người gật gù hưởng ứng.
Chiết Tử Du cười nhạt nói: “Nhâm thúc thúc, lưỡi đao nhọn của Triệu Quang Nghĩa đã rõ, nó được nhét vào vỏ còn phát hiện ra được ư? Phủ Châu này, hắn thèm nhỏ rãi đã lâu, giờ miếng thịt béo đã ở miệng, hắn dễ dàng triệt binh ư? Người của Chiết gia ta đều nằm trong tay hắn, hắn muốn tìm cớ gì đó chẳng lẽ không tìm được ư? Diễn xuất của buổi kịch này thế nào không phải do triều đình định đoạt sao?”
Mặt nàng nghiêm nghị nhìn mọi người, trầm giọng nói: “Cho dù giờ chúng ta làm thế nào đi chăng nữa, triều đình đều sẽ tìm ra một lý do nào đó để tiếp tục tấn công Phủ Châu, mà đối với quân Phủ Châu ta mà nói, triều đình căn cứ vào bức thư của huynh trưởng ta và người cháu Duy Tín của ta làm con tin, nếu lúc này chúng ta vẫn che giấu, lấp liếm, không công khai hành tung xấu xa của triều đình, triều đình sẽ đục nước béo cò, chỉ hươu là ngựa, trong muôn vàn thủ đoạn, các lộ binh Phủ Châu ta làm sao phân rõ được địch ta? Cảnh đao binh, việc đã nguy cấp đến chân rồi, lửa cháy đến chân mày rồi, chúng ta nên chiến hay không đây? Nếu chiến lấy danh nghĩa gì mà chiến với triều đình đây?”
Nhâm Khanh Thư nhíu hai hàng mày, nặng nề gật đầu.
Chiết Tử Du lại nói: “Thứ nữa, mưu đồ của triều đình đã có động, mà cơ hội của ta đã mất, Bách Hoa Ổ là nơi quan trọng của Phủ Châu giờ nằm trong tay Xích Trung, còn phòng tuyến vòng ngoài Phủ Châu do các lộ binh tướng không rõ cho nên đã để tuột thời cơ, thất thủ mấy nơi quan ải trọng yếu, toàn bộ phòng tuyến đã có trăm ngàn lỗ hở, các nơi quan ải, phong toại, làng đã bị cắt đứt liên hệ, ở tình hình như thế này, bộ đội tuyến đầu của các tự là địch chỉ có thể bị binh mã triều đình đánh cho một nhát là toi.
Bởi vậy, ta quyết định, lệnh cho Trình Thế Hùng bỏ qua Quảng Nguyên, trước khi viện quân của triều đình đến, lập tức phải phá được vây lấy lại Phủ Châu, nếu không thì, Quảng Nguyên cô độc đợi viện quân triều đình đến, Quảng Nguyên tất sẽ thất thủ. Ngoài ra, quan ải, phong toại, làng ngoại tuyến nhất của Phủ Châu đã bị binh mã triều đình cắt mất liên hệ, mấy lộ binh mã từng người tự chiến, cần nhanh chóng thu hẹp, xung quanh phủ cốc cấu thành hai phòng tuyến.
Thứ ba, tập trung quân đội nội tuyến, dốc toàn lực giải quyết nhân mã Xích Trung ở Bách Hoa Ổ, ổn định nội bộ, không nghe bất kỳ cớ gì của triều đình.
Thứ tư, lập tức liên hệ với Dương soái viễn chinh tây vực, triều đình tây tiến, ngoài việc của Phủ Châu ta, hai nhà Chiết Dương vui buồn có nhau, có họa cùng chịu, cho nên phương sách quan trọng này cần phải được sự thống nhất của hai nhà Chiết Dương.
Thứ năm, lập tức liên lạc nhanh với Dương Kế Nghiệp Lân Châu. Ta nói cần công khai hành vi xấu xa của triều đình, đây cũng là một nguyên nhân, nếu chúng ta vẫn lấp liếm, che giấu thì chân tướng không được công khai ra, lân châu sẽ không có lý do mà viện quân, như vậy sẽ trúng kế tan rã của triều đình, tiêu diệt từng gian kế một. Hai nhà lân phủ xét về mặt địa lý như môi với răng, hai nhà không thể mất một, không thể không giữ, cho nên hai nhà cần hiệp sức đồng tâm đồng lòng tiêu diệt kẻ thù.
Thứ sáu…”
Chiết Tử Du chậm rãi nói, cho thấy nên ứng biến thế nào, sau khi nàng nói xong hết kế hoạch của mình, liền hỏi các văn võ bá quan: “Đây là kế hoạch của Tử Du, chư vị xem xét xem có ý kiến gì không?”
Đô chỉ huy sứ Mã Tông Cường bước ra một bước, nói: “Ngũ công tử, mạt towngs còn có một băn khoăn là, chúng ta công khai đối nghịch với triều đình như vậy đã gọi là phản nghịch rồi, nói như vậy, Chiết soái còn nằm trong tay triều đình, an nguy của họ…tính sao đây?”
Chiết Tử Du nhướn hai hàng lông mày, cười nhạt nói: “Sự an toàn của nhà Chiết gia…hừ hừ…chúng ta cần phải càng trở nên hung dữ, đánh cho triều đình một trận thì trên dưới Chiết gia ta mới có thể càng thêm an toàn, hiểu không?”
Mã Tông Cường tỉnh ngộ, hai tay Chiết Tử Du để trên bàn, chậm rãi đứng lên, các văn võ quan trong đường không hẹn mà cùng đứng dậy, Chiết Tử Du nhìn quanh một lượt, con ngươi tràn ngập sát khí, tuyên bố: “Cuối cùng, ta xin sửa đổi câu nói của Mã chỉ huy: Từ giờ trở đi, chúng ta không phải là phản loạn, mà là thực sự phản rồi”.
Tuy Châu, thứ sử phủ yên lặng hai năm đã lâu giờ bỗng nhiên có chuông vang lên.
Mấy năm nay Tuy Châu dưới sự áp bức của hai châu Lân Phủ, Tuy Châu bị tơi tả, người đói la liệt khắp nơi, nó gần như biến thành một tòa tử thành, trong tòa thành này, duy chỉ có năm người tòng quân, còn có thể có cơm mà ăn, cho nên dân chúng Tuy Châu được tòng quân, ngay cả người già trẻ nhỏ, Tuy Châu lúc này sợ không có đến đội quân trên bốn vạn.
Lý Kế Quân xem binh sĩ càng nhiều càng tốt, chỉ cần giương cung, khiêng được thương phần lớn đều chiêu nạp vào, lương thực dự trữ trong phủ kho đã cạn, dã phân hết cho các nhà giàu, tất cả vàng bạc châu báu đều cầm ra buôn lậu đổi lấy lương thực, ưu tiên cung ứng quân đội. Lương thực ngày một thiếu thốn, nếu như không phải triều đình mua chuộc thành công Xích Trung, phát động tập kích với Phủ Châu, Tuy Châu thực sự là không thể kiên trì nổi nữa.
“Các vị tướng quân, Tuy Châu chúng ta khốn khó chịu đựng đã hai năm rồi, giờ…cuối cùng cũng có ngày nổi danh”.
Lý Kế Quân hưng phấn nói với các vị tướng lĩnh. Tin triều đình xuất binh chiếm Phủ Châu, ngoài mấy tướng lĩnh thân tín của hắn ra, tất cả những người khác đều không biết gì, lúc này nghe Lý Kế Quân nói vậy, mọi người đều đổ dồn ánh mắt nhìn hắn.
Hơn hai năm chịu mọi sự dày vò thống khổ đã khiến cho Lý Kế Quân có thay đổi rất lớn. Vẻ ngoài của hắn không có gì khác so với trước đây, nhưng khí chất đã vững vàng hơn rất nhiều, trước đây thần thái của hắn vô hồn, tính tình thì thô tục cuồng ngạo, mà nay, hắn cho dù có nhìn về phía ai, thì đôi mắt của hắn long lanh hung tợn như quỷ, gặp chuyện gì cũng rất bình tĩnh.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 20: Tử chiến tới cùng
Nguồn: Sưu tầm
Hắn mỉm cười, lúc này mới nói các tướng lĩnh tin cực độ bế tắc, đã lâm vào tuyệt vọng: “Chư vị, đại thù của chúng ta là Dương Hạo, cấu kết với Xích Trung ttxuyen, mưu đồ chiếm phủ cốc, sự việc bại lộ, liên minh hai nhà Chiết dương đã tan thành tro bụi, Chiết Ngự Huân Phủ Châu chạy trốn tới kinh sư, xin Triệu quan gia quân bình định. GIờ Triệu Quan Gia đã tập trung điều động sáu lộ đại quân, binh phạt Phủ Châu, rồi phái Phan Mỹ thống lĩnh năm vạn đại quân, giờ đang trên đường đến, hắc hắc, triều đình và Dương Hạo, cuối cùng đã phải dậy rồi”.
Các tướng lĩnh vừa nghe không khỏi xôn xao, rùng người, Lý Kế Quân lại nói: “Các ngươi cho rằng bổn quan chí khí tiêu ma, hai năm nay chỉ sống khổ mơ chết ư? Hia năm nay, bổn quan cũng bí mật liên hệ với triều đình, lần này triều đình phát binh tấn công Phủ Châu, bổn quan cũng theo lệnh của triều đình, bổn quan sẽ tập kích bất ngờ Phủ Châu, làn cho đầu đuôi Dương gia kkhoong được chiếu cố, tạo cơ hội cho Phan Mỹ đánh hai châu Lân Phủ”.
Doanh chỉ huy sứ Tiếu Phong Hàn mừng rỡ nói: “Đại nhân, nếu như chúng ta đoạt được Ngân Châu lại, kiên thành thôi cũng đã có chỗ đứng, tây bắng lấy người Khương Đảng Hạng ta làm chủ, triều đình muốn khống chế tây bắc, cần nâng đỡ một thủ lĩnh có thể được các bộ người khương tiếp nhận. Dương Hạo vừa lật, còn cáo ai có tư cách hơn đại nhân ngài, được sự giúp đỡ của triều đình, Dương Hạo và Chiết Ngự Huân lại suy sụp nữa, tây bắc này, định nan ngũ châu này nhất định có thể về tay đại nhân”.
Các tướng lĩnh dưới quyền Lý Kế Quân ngoài Sở Vân Thiên có ý kiến có ích ra, tất cả những thân tín mà trong hai năm Lý Kế Quân đề bạt có phó tướng Tiếu Phong Hàn là đội trưởng thị vệ của Lý Kế Quân, đề bạt làm doanh chỉ huy sứ. Nghe Tiếu Phong Hàn nói xong, Lý Kế Quân nói: “Phong Hàn, điều ngươi nghĩ thực đơn giản”.
Tiếu Phong Hàn ngây người, kinh ngạc nói: “Đại nhân, thuộc hạ nói có gì không phải sao?”
“Đương nhiên không đúng”.
Lý Kế Quân tỳ vào bàn, mãn nguyện nhìn chúng tướng kính cẩn đứng trước bàn, trầm giọng nói: “Triều đình sở dĩ luôn không thể khống chế tây bắc trong tay chính là vì tây bắc ta tự thành nhất cách, kẻ làm tướng nắm quyền sinh sát trong tay, nghiễm nhiên trở thành chư hầu một phương. Mà giờ triều đình có cơ hội tiến quân tây bắc, thế nào cũng phải tan rã, há lại để lãnh thổ và con dân trong tay mình trao cho người khác ư? Hừ hừ, tất cả các đời Hoàng đế từ xưa tới nay còn có ai cầm giữ quân quyền như Triệu Quan Gia hắn đây?”
Tiếu Phong Hàn vâng vâng dạ dạ đồng ý, Lý Kế Quân chớp chớp mắt, cười dữ tợn nói: “Nếu như thực lực của chúng ta đủ mạnh, nếu như triều đình không nuốt nổi miếng mồi ngon tây bắc này, bình định được chiến loạn tây châu, thì…Quan Gia mới cam tâm tình nguyện chăm sóc một người, đưa ra kế sách ràng buộc với tây bắc. Điều mà chúng ta cần làm hiện giờ chính là nghĩ cách rút củi trong lửa, chiếm được cơ hội này”.
Hành vương tư mã Ngô hỏa hỏa cũng là một tướng lĩnh được Lý Kế Quân đề bạt, nghe vậy lớn tiếng nói: “Con mẹ nó chứ, trong hai năm qua ở cái thành Tuy Châu này, sống không giống sống, mà chết không giống chết, thuộc hạ sớm đã nhẫn nhịn đủ rồi. Đại nhân, thuộc hạ là người thô tục, không hiểu được sự tình quanh co, ngài nói phải làm thế nào thì chúng tôi sẽ làm vậy thôi.
Lý Kế Quân mỉm cười nói: “Ý của bổn quan là…chúng ta tấn công ngân châu như này, nửa đường đổi hướng chiếm lấy hạ châu. Đoạt về mảnh đất Lý Thị ta. Chư vị đều biết, ý của hạ châu đối với người Khương Đảng Hạng ta thế nào, hạ châu đối với người Khương hạ châu giống như lô châu đối với mảnh đất thánh tây bắc tăng lữ vậy.
Chỉ cần chúng ta đoạt được hạ châu, Dương Hạo đã đắc tội triều đình, quân địch lớn nhất của hắn dưới cây lại mất đi hạ châu thành một con chó nhà có tang, dã lợi, tế phong với các tộc trưởng há không thể suy nghĩ vận mệnh tiền đồ của tộc mình? Đến khi đó, họ chỉ rơi rụng quay đầu lại, trung thành với chúng ta…hắc hắc”.
Biệt giá tòng sự ngô mặt nhăn nhó, không nhịn được nói: “Đại nhân, hạ châu quan trọng như thế nào chúng ta đều biết, Dương Hạo đương nhiên cũng biết, chỉ sợ..hạ châu sẽ khó đánh hơn cả Ngân Châu ấy?”
Lý Kế Quân lườm hắn, cắn răng nghiến lợi nói: “Hạ châu giờ không ở hạ châu, dã tâm hắn như vậy muốn tống nhất Hà tây. Đã dẫn một lộ binh giết hướng ngọc môn quan rồi, cam châu Hồi Hất binh cường mã tráng không dễ đối phó, Dương Hạo phải vòng qua cam châu
Hắc hắc, cùng với chiến sự, lương thảo của hắn tiếp tế sẽ bị ngắt quãng, đương lúc lòng quân Dương Hạo đại loạn, trong lúc vội vã ngươi cho rằng cam châu hhat sẽ bỏ qua cơ hội ngàn năm có một này ư? Ngươi cho rằng Quy Nghĩa quân sẽ bỏ qua cơ hội này? Tất cả truy binh, trước có cường địch, Dương Hạo có thể sống sót mà trở về chém lấy đầu bổn quan thực khó nói lắm”.
Ngô hữu đạo nhìn sở vân thiên, đều ngầm hiểu điểm không hợp lý: Nếu như Xích Trung bị Dương Hạo mua chuộc, có ý muốn chiếm đoạt Phủ Châu, thì vào thời khắc quan trọng này, Dương Hạo há sẽ đưa tinh nhuệ ra hết, tây chinh ngọc môn quan? Đây cũng là chuyện bình thường, cho dù hắn tưởng dương đông kích tây, cho nên sắp xếp quân trận cũng sẽ không thực bất lưu một quân phục binh ứng phó chứ?
Song, tuy trong lòng hoài nghi vậy, hai người cũng không dám nói ra, hia người họ có thể sống hoàn toàn là Lý Kế Quân bí danh Lý Phi Thọ, nguyên nhân cần hai người họ Tuy Châu quan sứ sung môn diện, quyền lực của hai người sớ đã bị tước quyền rồi, giờ người nắm quyền là thân tín của Lý Kế Quân, họ há dsam làm tức giận hắn.
Lý Kế Quân rất đắc ý lại nói tiếp: “Dương Hạo trước khi lên đường, đã lấy toàn bộ đại quân hạ châu điều động hết đi tây chinh, còn tuyến đông, chủ lực thì bố trí ở Ngân Châu và lân châu, hắn vốn cho rằng hạ châu ở đất thân tín, an toàn nhất, ai ngờ tới giờ khắp nơi đều đã dấy hỏa rồi? Chúng ta đánh hạ châu, chính là xuất kỳ bất ý. Xem ra Ngân Châu và hạ châu đều kín cổng cao tường như nhau. KHông dễ đánh nhưng Lý gia ta toạn trấn hạ châu hơn trăm năm, sĩ tộc hào thân trong thành há lại nhanh chóng quy tâm về Dương Hạo nhanh chóng được, chỉ cần bổn quan mau chóng đến hạ châu, lộ ra biệt hiệu của Lý Kế Quân ta…”
Lý Kế Quân nói đến đây, nắm chặt tay, oán giận nói: “màn này, có tương tự như hai năm trước không? Ha ha…ban đầu, Dương Hạo hắn đoạt được hạ châu ta thế nào thì giờ ta sẽ đoạt về thế đó, ban đầu cha con ta chật vật khôn tả, lâm vào cùng đường, giờ…ta cũng sẽ để cho Dương Hạo nếm mùi”.
Thông chính tham vị ngô long là lão nhân của Tuy Châu, song người này tùy thời đắc sớm, vừa thấy tình hình không ổn, liền nhìn Lý Kế Quân, ở bên cạnh hắn tham mưu, coi trọng hắn, nghe đến đây không khỏi lo lắng nói: “Đại nhân, dù triều đình lệnh ta đi đánh Ngân Châu, khống chế Dương Kế Nghiệp, nếu như chúng ta tùy tiện chuyển hướng sang hạ châu, sẽ làm Quan Gia tức giận đấy”.
Lý Kế Quân cười nham hiểm: “Ai nói chúng ta không đi Ngân Châu nào? Song chỉ là…mắt thấy binh Ngân Châu, sớm có chuẩn bị, rơi vào đường cùng, chúng ta mới chuyển tấn công hạ châu mà thôi. Hắc hắc, thủ hạ châu là chưa bao giờ mang binh, cái loại chỉ biết lý luận xuông, một tên quan văn thi trúng tiến sĩ, chúng ta đi đánh hạ châu, há không phải có thể phối hợp với binh mã triều đình, không chế Dương Kế Nghiệp sao?”
Ngô tham nghị băn khoăn lại nói: “Loài đại nhân nói là thực, song…nếu như triều đình được hai châu lân châu, còn nếu chúng ta đánh lén hạ châu trong tay, đến khi đó, hạ châu, Phủ Châu, lân châu, Tuy Châu nằm trong tay triều đình, triều đình sẽ không tiếp tục tây tiến sao? Nếu như triều đình bức đại nhân giao ra hạ châu, lúc đó chúng ta phải ứng phó sao đây?”
Lý Kế Quân cười ha ha lắc đầu nói: “Không, chắc chắn không như vậy đâu, đến lúc đó, triều đình nhất định sẽ nhâm mệnh cho bản quan là định nan tiết độ sứ, thủ tây bắc cho triều đình”.
Mục tham nghị kinh ngạc nói: “Địa nhân sao lại chắc chắn vậy?”
Lý Kế Quân cười như không cười, quay sang nói với hắn: “Các tướng sĩ, lập tức về doanh, điểm đủ binh sĩ, mang theo tất cả lương thảo, giờ tỵ canh ba, toàn quân nhổ trại”.
Hắn hoắc mắt đứng lên, trầm giọng nói: “Thành bại hay không, chúng ta cần chặn đường lui, có sống phía trước, thối lui là chết, tam quân một lòng, đồng mưu nghiệp lớn, cho nên…bổn quan cần phải chiến”.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 21: Tố Thủ Điều Canh
Nguồn: Sưu tầm
Từng đám bọt sôi sục bắn vọt lên, thịt bò ngon lành lăn lộn chìm nổi trong nước sôi. Gia vị đã chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước được bỏ vào, lập tức loại trừ đi mùi tanh trong thịt bò, mùi thịt thơm mồng nặc xông vào mũi.Trúc Vận cười hài lòng, đây là canh thịt bò do nàng đích thân nấu, thơm như vậy, nhất định sẽ hợp khẩu vị của đại soái đi?
Trên lò bên cạnh, nước trong nồi đã bốc lên hơi nước nghi ngút, Trúc Vận đang muốn đem nồi bê xuống, chợt nghe tựa hồ có người đang kêu từ rất xa:"Đại soái trở về doanh trại rồi, đại soái đã trở về doanh trại rồi."
Loáng thoáng, một chút tiếng hô đàm tiếu hỗn loạn của binh sĩ canh cửa vang lên, thanh âm vui mừng cùng với tiếng ngựa hí ồn ào truyền đến, cũng không quá rõ ràng, nhưng chẳng qua Trúc Vận lập tức nghe thấy được, thính lực của nàng tất nhiên vượt xa thường nhân, nhưng là các loại âm thanh hỗn tạp vang lên cùng một chỗ, muốn từ đó lấy ra một chút thanh âm đặc thù có ý nghĩa cũng không dễ dàng, song những thanh âm đặc biệt như " Thái Úy, đại soái, Dương Hạo" này, chỉ cần rơi vào trong tai của nàng, nhất định lập tức khiến cho nàng chú ý. Trúc Vận lập tức đứng dậy, bước đi thong thả ra khỏi lều trướng. Nàng mặc trên người một bộ thường phục, đeo dây buộc như đuôi ngựa, môi hồng, răng trắng, mắt sao, tựa như một mỹ thiếu niên. Thương thế của nàng còn chưa tốt, gương mặt do mất máu quá nhiều còn có chút gầy gò tái nhợt, vết thương mới vừa đóng vảy còn chưa chịu được vận động mạnh, nhưng là nàng không chịu cả ngày nằm ở trong trướng dưỡng thương, hoạt động thích hợp cùng đầy đủ ánh sáng trợ giúp thân thể nàng khôi phục, thân thể hơi khởi sắc, nàng liền cố hết sức làm một chút hoạt động đủ khả năng.
Lúc này trời chiều như lửa, ráng màu đầy trời, cát vàng kim sắc trên mặt lều trướng chi chít như sao trên trời, có một ít chiến sĩ cởi trần đang đấu sức đẩy nhau, rất nhiều người vây quanh trầm trồ khen ngợi ủng hộ bọn họ, có người dỡ yên xuống cho ngựa ăn uống, cắt tỉa lông ngựa, có người bận rộn đứng ở phía trước đống củi lửa, từng sợi khói bếp lượn lờ dâng lên. Ánh mắt của Trúc Vận xuyên qua những hình ảnh tuyệt đẹp đó, trực tiếp dừng tầm mắt ở trên người của Dương Hạo.
Dương Hạo cỡi đại mã cao to, mang theo hơn mười tên thị vệ, đang phi ngựa băng qua một con sông nhỏ trong doanh, nước sông tóe lên từng tia cao hơn thân người, nhìn dưới ánh chiều tà, tựa như từng giọt hổ phách mỹ lệ. Một nụ cười vui mừng mà dịu dàng, lặng lẽ hiện lên trên gương mặt của nàng, má lúm đồng tiền nhợt nhạt như mỉm cười ngọt ngào, đột nhiên cười một tiếng, bách mỵ tùng sinh.(trăm cái đẹp sinh ra)
Người như hổ, ngựa như rồng, phi ngựa dong ruỗi, thân thủ mạnh mẽ, Dương Hạo vòng qua một chóp lều trướng, hướng phương hướng này bay nhanh mà đến, Trúc Vận chợt nhớ tới cái gì đó, vội vàng tập tễnh chạy về trướng, pha một bình trà nóng tỏa mùi thơm ngát bốn phía, sau đó lại nhanh bước ra ngoài trướng nghênh đón.Khi nàng lần nữa đi ra, đoàn người Dương Hạo đã hoàn toàn không còn tung tích, Trúc Vận mơ hồ cảm thấy mất mát, nhìn chung quanh, mới phát hiện ở trước lều lớn Trung Quân cách đó không xa có hơn mười con tuấn mã dừng lại..
"A, có lẽ Thái Úy còn có việc phải làm. "
Trúc Vận thoải mái, nàng nghiêng đầu suy nghĩ một chút, rồi trở lại trong trướng. Đem củi dưới lò rút ra một chút, dùng lửa từ từ hầm thịt, sau đó đem bàn, ghế trở lại bên cửa trướng ngồi xuống. Hai tay nâng cằm, một đôi mắt to nhấp nháy nhìn chăm chú về phía lều lớn Trung Quân. Ánh chiều tà rực rõ choàng lên trên người của nàng, tựa như một tầng sa mỏng không màu mơ hồ, vẻ mặt nàng điềm tĩnh, thân thể an nhàn, tựa như một tiểu phụ nhân kiên nhẫn chờ lang quân của nàng về nhà.
Đúng vậy, kể từ khi Dương Hạo nhìn thân thể của nàng, ở trong lòng của Trúc Vận, nàng đã là người của Dương Thái Úy. Nàng một cái mạng hèn, không có gì cả, chỉ có một thân thể sạch sẽ này, bây giờ thân thể này đã bị Dương Thái Úy nhìn một cái, vậy nàng không phải là người của hắn, còn có thể là người của ai? (DG: người của ta )
So với Đông Nhi đoan trang rộng lượng , Diễm Diễm phong tình vạn chủng cùng Oa Oa, Diệu Diệu xinh đẹp quyến rũ, nàng vô cùng tự ti, Đông Nhi là vợ chính thức của Dương Hạo, từng đồng cam cộng khổ, Diễm Diễm là đại tỷ Đường gia, Đường gia phú xưng địch quốc (giàu đến mức nước địch cũng biết), nàng tự nhiên là nghe qua. Oa Oa cùng Diệu Diệu là người đứng đầu nổi danh trong đám kỳ nữ Biện Lương, cầm kỳ thư họa, thi từ ca phú không chỗ nào không hiểu, cô gái như vậy, chính là vưu vật mà thế gia hào môn, người quyền cao chức trọng thích đem làm của riêng. Nhưng nàng là cái gì?
Nàng chỉ là một sát thủ hai tay nhuộm đầy máu tươi, những thứ thủ đoạn giết người làm một người giang hồ cho là kiêu ngạo kia kia, ở trước quyền thế cùng địa vị đều không đáng giá, Dương Thái Úy quyền cao chức trọng như vậy, trước mặt nam nhân uy nghi nhật thịnh này, nàng là một thủ hạ kiệt xuất, nhưng là nếu làm một nữ nhân, nàng không có phát hiện ra một chút tiền vốn để lấy làm kiêu ngạo, cho dù là một người bình thường, cũng sẽ không thích đem một nữ sát thủ chỉ biết múa đao, tung kiếm giết người như ngóe thu vào nhà, huống chi Dương Hạo vốn là chư hầu một phương tay cầm trọng binh.
Nàng không dám hướng Dương Hạo muốn lấy cái gì. Thậm chí ngay cả dũng khí biểu lộ cũng không có, song khi Dương Hạo nhìn hết thân thể của nàng, trong lòng nàng, nàng đã là người của Thái Úy, trong lòng nàng, nàng đã coi hắn là nam nhân của mình, điều này đã làm cho nàng đủ hài lòng. Nàng không dám hy vọng xa vời những thứ khác. Chỉ hy vọng có thể đi theo bên cạnh hắn, thấy khuôn mặt hắn tươi cười, nghe hắn cùng mình nói vài lời, nàng muốn, chỉ có như vậy.
Từng lôi kéo Dương Hạo cùng nhau ở trên Lô Vi Hà băng thiên tuyết đếm sao, từng ở thời điểm nàng cho là mình sắp chết đi, được nam nhân nàng thích đích thân băng bó vết thương cho nàng, những hồi ức ấm áp này, đã đủ cho nàng vui mừng một đời. Ở bên cạnh Dương Hạo, nàng không chỉ là một công cụ giết người không chớp mắt; trong lòng hắn, Dương Hạo đã không chỉ là một thương cấp thân thiện, như vậy đã đủ rồi.
Nàng rất hài lòng với cuộc sống bây giờ, phụ thân lớn tuổi, gân cốt có thể đã không còn tốt, nhưng hắn hiện tại không cần bán mạng giống như trước kia như vậy nữa. Hắn hôm nay là sư phụ giáo thụ của Lô Châu Giảng Vũ Đường, là một người có thể diện được người tôn kính, mà nàng, cũng không còn là một kẻ chỉ núp ở trong góc âm u tùy thời lấy đi tánh mạng người ta, bị kẻ khác ra lệnh lấy đi tánh mạng người khác, tuy nàng vẫn phải thi hành một ít nhiệm vụ nguy hiểm, nhưng đây là hoàn toàn từ tự nguyện, tánh mạng của nàng đã bắt đầu nắm giữ ở trong tay mình, mà không phải là một thích khách được nuôi dưỡng, mạng như bèo tấm mặc cho người định đoạt.
Dương Hạo, chính là một luồng ánh sáng thay đổi cuộc đời của nàng.
Trúc Vận ngồi ở bên trướng, kiên nhẫn chờ đợi, không có một tia không nhịn được, nàng có là thời gian, có là kiên nhẫn để chờ hắn, cho dù vẫn chờ đợi như vậy, nàng cũng không phiền.
Gió đêm nổi lên, trong tiếng kèn Khương nức nở, một luồng ánh mặt trời cuối cùng dần dần nhanh chóng biến mất ở cuối chân trời. Ngọn lửa đỏ hồng trong bếp lò, thay thế ánh mặt trời, vẫn đem ánh sáng, đưa đến trước mắt của nàng.
***
Đại trướng Trung Quân, một đội võ sĩ vác thương áo giáp rực rỡ tuần tra bên ngoài, thân quân thị vệ của Dương Hạo như chúng tinh phủng nguyệt (sao quanh trăng sáng), đem cả đại trướng bao bọc vây quanh, cầm đao đứng mặt ngoài, trong trướng, các tướng lĩnh các lộ dưới trướng Dương Hạo đều nêu ý kiến của mình, đang không ngừng tranh luận.
Lúc bắt đầu ý kiến của tướng lãnh các lộ khác nhau rất lớn, cái ý nghĩ kỳ dị gì cũng đều có, dần dần, có một ít người bị thuyết phục, ý kiến từ từ thống nhất. Tạo thành hai loại hoàn toàn bất đồng, một bên có ý kiến nán lại, một bên đề nghị đi, hai phái nêu ý kiến đối chọi gay gắt. Đều hết sức bảo vệ ý kiến của mình, tranh luận đến mức mặt đỏ tới mang tai.
Dương Hạo ngồi ở trên ghế chủ soái cố gắng duy trì tĩnh táo. Nghe nhân mã hai phe trình bày lý do riêng của mình, một bình tham trà đã liên tục châm nước nhiều lần, nước trà đã uống đến không còn mùi vị gì cả, hắn vẫn không nói một từ.
Chuyện đang thương nghị hiện tại có quan hệ trọng đại, có ảnh hưởng rất lớn, thậm chí có thể quan hệ đến việc chính quyền Dương thị của hắn có thể tiếp tục xưng bá Tây Bắc hay không, mà lại liên quan đến lợi ích thiết thân của các tướng lĩnh các tộc dưới trướng hắn cùng với các tướng lĩnh trực thuộc hắn, quyết không phải là hắn có thể tùy tiện nói một tiếng đi hoặc là lưu lại là có thể thống nhất ý kiến, hắn phải đợi cho đầy đủ ý kiến.
Chuyện phát sinh thật sự là quá nhanh, lúc Xích Trung chiếm lĩnh Bách Hoa Ổ, rất nhiều dân chúng Nam Thành còn mờ mịt không biết vì sao. Đồng thời chiến tuyến Tây tiến của hắn cũng quá dài, mà Phủ Cốc cũng không phải là đối tượng trọng điểm giám sát ở Đông tuyến mà hắn ở lại giữ, cho nên, tin tức đưa đến đầu tiên, không phải thư do bồ câu đưa thư của hắn đưa tới, ngược lại là Nhâm Khanh Thư trong ngày kế tiếp đã phái người mang tin tức một đường nhanh như tên bắn mà đến.
Trước mắt, tình huống hắn nắm giữ trong tay là: Xích Trung làm phản, đêm khuya xông vào Bách Hoa Ổ, Chiết gia trên dưới đã hết ở tại trong lòng bàn tay của Xích Trung. Ngoại tuyến Phủ Châu tạm thời không có tin tức, nguyên nhân Xích Trung mưu phản cũng chưa điều tra rõ. Tin tức như thế, làm cho người ta như lâm vào trong sương mù, khó phân biệt rõ ràng, nhưng là ai cũng không tin Xích Trung lại đột phát cơn điên, lấy quân lực ít ỏi của hắn ngang nhiên khống chế Bách Hoa Ổ là có thể thay đổi triều đại.
Không cần nghi ngờ chút nào, ở sau lưng của hắn tất phải có một người ủng hộ cường đại, lực lượng cường đại đến mức đủ để khiến cho Xích Trung tin tưởng, có thể tại dưới sự giúp đở của cỗ thế lực này khống chế Phủ Châu.
Có thể trực tiếp nhúng tay vào Tây Bắc, thế lực cường đại như vậy ở Phủ Châu chỉ có ba cỗ, Liêu, Tống cùng Dương Hạo hắn, mà trong chuyện này khả nghi nhất chính là Tống. Dương Hạo dĩ nhiên rõ ràng, mình tuyệt đối không có hạ lệnh thâu tóm Phủ Châu, hơn nữa cũng không từng cấu kết với Xích Trung, như vậy còn lại chỉ có thể là hai cỗ thế lực: Liêu cùng Tống.
Quốc sách trước mắt của Liêu Quốc rất rõ ràng, hoàn toàn là nghỉ ngơi lấy lại sức, tiêu hóa mâu thuẫn nội bộ, khôi phục lại nguyên khí tổn hao nặng nề sau mấy lần nội loạn. Ngoài ra, mặc dù Liêu ngang nhiên quyết định khuếch trương đối với bên ngoài, khả năng có thể lựa chọn Tây Bắc cũng không lớn, Tây Bắc không có thứ mà Liêu Quốc muốn. Bọn họ muốn chính là giang sơn Trung Nguyên cẩm tú, khắp nơi phồn hoa.
Còn đối với Tống Quốc mà nói chính là hiềm nghi rất lớn. Tống Quốc muốn chinh phục nhất chính là U Yến, muốn chinh phục U Yến nhất định phải cùng Liêu Quốc là địch, nếu cùng Liêu Quốc là địch, nhược điểm lớn nhất của Tống Quốc chính là thiếu hụt chiến mã cùng đất nuôi ngựa, mà cái thiếu khuyết này, một khi chiếm được Tây Bắc sẽ có thể đền bù.
Thưc lực kinh tế cùng khoa kỹ võ bị, tố chất quân đội trên thực tế của Tống Quốc đều mạnh hơn Liêu Quốc, thiếu hụt duy nhất đúng là binh chủng cường đại nhất trên chiến trường. . . Kỵ binh, ở trên lãnh thổ quốc gia bát ngát, chiến tuyến chạy dài trên lãnh thổ, nếu như thiếu lực lượng kỵ binh cơ động mạnh nhất, cho dù là Sát Thần Bạch Khởi, Quan Quân Hầu Hoắc Khứ Bệnh làm chính phó Thống soái, như vậy phần thắng cũng mong manh.
Cho nên, Dương Hạo phán đoán. Lực lượng sau màn thu mua Xích Trung, tập kích bất ngờ Phủ Châu hẳn là Triệu Quang Nghĩa, điểm này đã nhận được sự đồng tình của tất cả tướng lãnh lớn nhỏ. Trong khoảng thời gian người mang tin tức chạy tới nơi này, trời mới biết Phủ Châu đã xảy ra biến hóa long trời lở đất như thế nào?
Ngải Nghĩa Hải vội vàng nói: "Đại soái, mặt tướng cho là. Hẳn là nên vì Hạ Châu, lấy tốc độ nhanh nhất quay về. Triệu Quang Nghĩa nếu như mưu Phủ Châu, lúc đó tuyệt sẽ không dừng tay. Phủ Châu tới tay, tất sẽ tấn công Lân Châu. Hai châu Lân Phủ tới tay, liền tiến quân thần tốc, tấn công Hạ Châu ta rồi, Hạ Châu là đất nền tảng của đại soái, hai châu Qua Sa này hôm nay không lấy, ngày sau còn có thể tái chiến, nếu như mất đi đất cơ sở, vậy chúng ta mới là thất bại thảm hại."
Mộc Ân cũng gấp gáp nói :" Đại soái, ta cũng đồng ý với ý của Ngải tướng quân. Lưu được núi xanh.Lo gì không có củi đốt? Năm châu Định Nan mới là chỗ quan trọng nhất của chúng ta."
Lí Hoa Đình cũng nói: "Đại soái, Lý Quang Duệ ngày đó bại trận là vết xe đổ, không nên do dự, hay là lập tức nhổ trại, đi sớm về khuya chạy về Hạ Châu đi."
Chỉ Huy Sứ quân Lương Châu Lưu Thức lớn tiếng nói: "Đại soái, tình hình Phủ Châu hôm nay như thế nào, mặt tướng cũng không biết, bất quá mạt tướng từng nghe tiếng người, Dương tướng quân trấn thủ Lân Châu là danh tướng thiện thủ, mà Chủng đại nhân trấn thủ Hạ Châu cũng là nhân vật tinh thông dụng binh, hai vị đại nhân này tuyệt sẽ không ngồi chờ chết. Mà chúng ta vội vàng trở về Hạ Châu, trước mắt chính là có mấy việc khó xử !
Tào Duyên Cung thống trị hai châu Qua Sa cũng không phải là kẻ đầu đường xó chợ. Nếu quân ta vộ vàng rút quân. Hắn sẽ không bỏ qua cơ hội này, quân ta vừa lui, lòng quân tất loạn . Địa lý nơi này không có ai quen thuộc hơn được Tào Duyên Cung, nếu là hắn từ phía sau đuổi giết, quân đội chúng ta cũng không thể đâm xuống doanh trại để triền đấu, chỉ có một đường bị hắn đuổi theo đánh. Mà trên đường lui của chúng ta còn có người Hồi Cật ở Cam Châu, bọn họ như loại thú đang ngủ còn đang vùng vẫy giãy chết, quân ta vừa lui, Hồi Cật Cam Châu tất cũng hết sức đánh chặn đường, e rằng đại quân ta chưa đến Hạ Châu, đã bị mất năm thành.
Tướng lĩnh Túc Châu Quân Đặng Hoằng đồng ý nói: "Không tệ, là chuyện tàn bại, cho dù chúng ta chạy về Hạ Châu thì thế nào? Huống chi khi đó binh mỏi ngựa mệt, bất quá là chạy trở về chịu chết thôi. Theo ý kiến của mạt tướng, chính là để quân tủ thành Lân Châu, Hạ Châu tự thủ, cố hết sức phòng ngự, chúng ta thì nhanh sớm đánh lấy Qua Sa. Lại quay về diệt Cam Châu Hồi Cật. Đến lúc đó, sĩ khí đại thắng như mặt trời. Lúc đó một lòng hăng hái trở về Hạ Châu, mới có phần thắng.
Nếu như năm châu Định Nan có bị chiếm đóng, khi đó đại soái lấy Linh Châu làm đầu mối, tây theo năm châu Qua, Sa, Túc, Cam, Lãnh, bắc vây năm châu Thuận,Tĩnh, Hoài, Định, Hưng, hướng đông còn có các châu Diêm, Trụ, Hạ, cũng chưa chắc không thể ngóc đầu trở lại, một lần nữa đánh chiếm lại lãnh thổ bị chiếm đóng. Nếu là giờ phút này vội vàng lui binh, chỉ sợ hai đầu thất bại, đây là tự loạn trận cước."
Phần lớn tướng lĩnh Dương Hạo mang đi từ Hạ Châu đã đại loạn trong lòng, một lòng một dạ khuyên Dương Hạo lập tức lui binh.Đêm tối gấp rút tiếp viện Đông tuyến, giải quyết nguy cơ nổi lên từ loạn Phủ Châu. Mà tướng lãnh một đường thu phục từ các châu Cam Lãnh, thì có khuynh hướng tiếp tục tấn công Qua Sa. Tình hình Đông tuyến hôm nay như thế nào thực khó đoán trước. Theo bọn hắn xem ra, buông tha hai châu Sa Qua dễ như trở bàn tay, nhưng dưới tình huống dẫn binh mỏi mệt, ở phía sau có truy binh, trước có cường địch một đường giết trở về Hạ Châu, không cần người ra tay, mình đã tự suy sụp."
Dương Hạo trầm ngâm một lúc lâu, chậm rãi hỏi: "Chúng ta có thể có biện pháp gì, lấy tốc độ nhanh nhất nắm giữ tình hình Đông tuyến hay không? .
Ngải Nghĩa Hải nhíu mày nói: "Đại soái, tin tức truyền lại của chúng ta, chủ yếu là dựa vào loài chim Hùng Ưng bay ở thảo nguyên thường xuyên qua sa mạc, bồ câu đưa tin rất khó có tác dụng, mà ưng mặc dù mau lẹ an toàn, nhưng là lộ trình bay của nó không xa, bản lĩnh nhận thức đường lại yếu, cần phải thiết kế trạm tin tức dọc đường, để cho Hùng Ưng trải qua huấn luyện lấy pương thức tiếp sức truyền lại tin tức. Tốc độ Tây chinh đoạn đường này của chúng ta quá nhanh, trạm tin tức Diệp đại nhân mới vừa rải đến Linh Châu. Còn cách nơi này rất xa."
Dương Hạo thở ra thật dài , từ từ đứng dậy, chúng tướng trong trướng cũng ngưng cãi vả, lặng yên nhìn chăm chú vào cử động của Dương Hạo.
Chạy về Hạ Châu? Nếu như bên kia thật sự lâm vào thế nguy, bây giờ trở về chỉ sợ cũng là nước xa khó khăn cứu được lửa gần. Huống chi còn có Tào Duyên Cung cùng đám sói thảo nguyên hung mãnh Hồi Cật kia, bọn họ sao có thể để vuột mất thời cơ chứ? Vội vàng trở về lời mà nói, chẳng những là thành quả thu được của đoạn đường Tây chinh này trôi theo dòng nước, hơn nữa một khi vô ý, mình sẽ lâm vào cảnh giống như Lý Quang Duệ ban đầu nóng lòng về Hạ Châu, chúng bạn xa lánh, cùng đường mạt lộ.
Lựa chọn tin tưởng Dương Kế Nghiệp cùng Chủng Phóng, buông tay để cho bọn họ ứng phó Đông tuyến, mình tiếp tục tấn công Qua Châu? Xích Trung đã chiếm cứ Bách Hoa Ổ, khống chế cả nhà Chiết gia, đại quân triều đình vừa đến, Phủ Châu trăm phần trăm là không thủ được, một khi Phủ Châu mất, Dương Kế Nghiệp tự mình trấn thủ Lân Châu liền cô chưởng nan minh( một tay không vỗ nên tiếng kêu), tuy nói hắn là danh tướng đương thời, nhưng nhân tố quyết định thằng bại một cuộc chiến tranh tuyệt không chỉ là chiến thuật cao minh cùng quyết sách khôn khéo, dưới thực lực khác biệt khổng lồ, hơn nữa đã mất địa lợi, nếu là hắn còn có thể ngăn cơn sóng dữ, vậy Dương Vô Địch trong lịch sử cũng sẽ không bị quân Liêu bắt sống ở Trần Gia Cốc. Nếu như Phủ Châu đại loạn làm cho Lân Châu có một chút sơ xuất. Như vậy Chủng Phóng còn có thể thủ ở Hạ Châu được sao, rốt cuộc hắn cũng thiếu hụt kinh nghiệm mang binh.
Dương Hạo trong lòng không quyết định được, cước bộ trầm trọng đi dạo ở trong trướng, rất lâu sau đó vẫn là không quyết được chủ ý, mắt thấy chúng tướng đều đang nín thở chờ quyết định của hắn, Dương Hạo rốt cục đứng dậy, trầm giọng nó: "Chuyện này quan hệ trọng đại, không thể khinh suất được. Chờ bổn soái suy xét được tốt hơn rồi quyết định tiếp. Bây giờ tất cả giải tán đi."
Mộc Ân vội la lên: " Đại soái."
Dương Hạo trầm mặt phất phất tay, Mộc Ân đành phải nhịn xuống lời đã ra đến khóe miệng, chắp tay thối lui đi khỏi trướng. Chúng tướng vừa thấy vậy, rối rít chắp tay trở lui, một mình Dương Hạo đứng ở trong trướng, đèn cầy mỡ bò lớn đem cái bóng của hắn kéo dài đến vài trượng, chiếu ở trên lều vải . Hắn ngửa đầu nhìn đỉnh trướng, trầm tư một lúc lâu, mới kêu: " Ám Dạ!"
Một người ở bên ngoài trướng đáp tiếng nhanh chóng tiến vào, người này một thân áo xám, cùng màu với lều trướng, hắn vốn là vẫn đứng ở một bên cửa trướng, nhưng hắn đứng ở nơi đó không nhúc nhích, thế nhưng các tướng lĩnh ra vào lại không có lưu ý đến chổ đó còn có một người.
Người áo xám nhẹ nhàng đi vào, nhanh nhẹ như một con mèo nhỏ, thấy Dương Hạo chẳng qua là hai tay ôm quyền, cúi đầu nghe lệnh, cũng không nói lời nào.
Dương Hạo nói: "Ám Dạ, mau truyền lệnh xuống, tất cả trạm tin tức ở Lân Châu, Phủ Châu, Ngân Châu đình chỉ tất cả những nhiệm vụ khác, toàn lực dò thăm tình hình tiến triển của Phủ Châu, nhưng có bất cứ tin tức gì, không cần chi tiết, toàn bộ đều thông qua chim bay truyền hướng tới Hạ Châu, làm cho Linh Châu cùng Hạ Châu mỗi ngày liên lạc năm lần, tiếp thu tất cả tin tức Hạ Châu truyền đến, đồng thời chuẩn bị khoái mã. Mỗi ngày hai lần mang đến lều lớn Trung Quân của ta."
"Dạ!"
"Còn nữa... "
Ám Dạ như bóng u linh vừa muốn lóe ra ngoài trướng, nghe tiếng liền lập tức ngừng lại, chính xác là động như thỏ chạy, tĩnh như xác chết.
Dương Hạo trầm giọng nói: "Lập tức bắt lấy liên lạc cùng Mã Diễm thống lĩnh, ta cần nắm giữ động thái mới nhất bên kia của nàng!"
"Dạ!" Người kia cũng không có nói nhiều, chỉ khẽ đáp lại một tiếng, liền lóe ra ngoài lều lớn, nhập vào trong bóng đêm mịt mờ. Dương Hạo bước đi thong thả đến cửa trướng, ngửa đầu nhìn về vô số ngôi sao treo trên màn trời thấp, tâm sự nặng nề thở dài.
Đêm càng khuya càng cảm thấy lạnh, gió thổi tới, Trúc Vận rùng mình một cái. Siết thật chặc áo choàng đắp lên người, ngẩng đầu hướng phía lều lớn Trung Quân thoáng qua, đang thấy Dương Hạo đạp trên một vệt ánh trăng chậm rãi đi tới, Trúc Vận vừa mừng vừa sợ, vội vàng đứng lên nói: "Thái Úy!"
Dương Hạo tâm sự nặng nề lửng thững nghĩ tới là đi hay là lưu lại. Hai ý niệm đối chọi gay gắt lần nhau ở trong đầu của hắn, trước sau cũng khó có thể quyết định. Chợt nghe được tiếng người nói chuyện, Dương Hạo nhìn chăm chú này mới phát hiện Trúc Vận đứng ở bên cạnh trướng, Dương Hạo có chút ngoài ý muốn nói: "Trời đã khuya thế này. Làm sao còn chưa ngủ?"
Trúc Vận vui mừng nói: "Ta. . . Ta dọa."
"Hù dọa?" Dương Hạo nghe xong ngẩn ra.
Trên mặt Trúc Vận nhất thời nóng lên, may nhờ bóng đêm sâu kín, không nhìn rõ trên mặt nàng đỏ ửng, Trúc Vận vội vàng quay lưng đi, giành chạy về trong trướng trước nói: "Thái Úy bàn bạc việc công, còn chưa có ăn cái gì đi, ta hầm một ít thịt bò, Thái Úy ăn một bát đi."
Dương Hạo thở dài nói: "Ai, không cần bận rộn. Ta ăn không vào."
" Ít nhiều hãy ăn một chút đi, từ gần tối đến bây giờ, Thái Úy còn chưa ăn gì đó."
Dương Hạo ở trong trướng khoanh chân ngồi vào chỗ của mình, thuận tay cầm qua Tiểu Tiễn Đao trên bàn. Gạt gạt bấc ngọn đèn, ngọn lửa cao lên rất nhiều, trong trướng nhất thời sáng rõ. Trúc Vận bưng bát canh thịt bò, nhẹ nhàng đưa đến trước mặt của hắn, thấy vẻ mặt hắn như có điều suy nghĩ, không nhịn được nói: "Thái Úy, đây là. . Đây là ta hầm, cũng không biết hợp khẩu vị của Thái Úy hay không."
"Ừm. " Dương Hạo đáp một tiếng. Cầm lấy thìa, quấy vài cái ở trong bát, lại hứng thú nhìn thịt trong cái thìa, Trúc Vận thấy vậy, ngồi chồm xuống ở đối diện, hai tay nâng đầu gối, nhẹ giọng hỏi: "Thái Úy, có tâm sự sao?"
Dương Hạo lắc đầu, theo bản năng ngẩng đầu nhìn nàng một cái. Ánh đèn chiếu vào trên mặt của Trúc Vận, mắt to trắng đen rõ ràng, một đôi mày ngài nhỏ cong như trăng lưỡi liềm, cánh môi mềm mại phấn nhuận, hơi thở mùi đàn hương tỏa ra từ miệng môi anh đào. Vẻ mặt cùng khí chất kia, tuy là một thân nam trang, cũng rất giống phụ nhân ở nhà. "
Bị Dương Hạo nhìn kỹ, Trúc Vận bỗng nhiên lại có cái loại cảm giác xấu hổ kia xích lõa ở trước mặt hắn. Nàng co lại một chút, có chút không quá tự tin buông đầu xuống, gương mặt xinh đẹp tuyệt trần nhu hòa, đường cong một bên sáng ngời, một bên u ám, cực kỳ giống như một hình ảnh cung nữ thanh tao lịch sự xinh xắn.
Dương Hạo bị vẻ mặt xấu hổ cùng e sợ của nàng chọc cười, tuy lo lắng ẩn ở hai đầu lông mày không bỏ đi được nhưng trên mặt chính là nở ra một nụ cười khó có được: "Ha hả, nhìn bộ dáng bây giờ của ngươi, ai có thể tin ngươi là nữ sát thủ nhất lưu của Thừa Tự Đường chứ. Nếu như ngươi xuất hiện với bộ dáng này ở trước mặt ta. Ngay cả ta cũng sẽ hoàn toàn mất đi phòng bị."
Trúc Vận lập tức nhẹ giọng biện bạch: "Thuộc hạ... thuộc hạ chưa bao giờ từng lấy nhan sắc giết người."
Dương Hạo xua tay nói: "Ừ, vậy cũng được, bằng một thân bản lĩnh xuất thần nhập hóa của ngươi, lại có ai có thể chạy thoát dưới kiếm của ngươi đây?"
Trúc Vận nghiêm nghị nói: "Trúc Vận phụng mệnh đi ám sát, không phải là do mình có một thân bản lĩnh cực cao minh, cho dù là được che chở cực cao minh trong nhà Tần Dưỡng, Trúc Vận cũng không phải là mỗi một lần đều may mắn như vậy, không chỉ một lần, ta đây đi hành thích người lại trở thành người bị người ta đuổi giết, ta vốn là bố trí tốt bẫy rập rồi, nhưng mình lại biến thành rơi vào bẫy rập của người ta, rất nhiều lần, ta cũng cho là mình chết chắc. . ."
"Vốn là đã bố trí tốt bẫy rập, nhưng mình lại biến thành kẻ rơi vào bẫy rập..." Dương Hạo lập lại những lời này, xa vời xuất thần. "Đúng vậy." Trúc Vận cũng có chút xuất thần: "Khi đó thật sự là khó, đi về phía trước, có địch nhân, có bẫy rập; lui về sau, cũng đồng dạng có địch nhân, có bẫy rập. Bất kể tiến hay lùi, cũng là sát cơ trong từng bước, không thấy đường sống. "
"Vậy làm sao ngươi... "
"Liều mạng đi qua, cố gắng vì mình chế tạo cơ hội, đem quyền chủ động nắm giữ ở trong tay mình, không để cho đối thủ của ta dự liệu được mỗi một bước hành động của ta, không để cho đối thủ của ta nắm mũi của ta, lại dựa vào một thân võ công cùng nhanh trí đối phó với địch, cuối cùng là tìm được đường sống trong chỗ chết. Nhưng là, người giết người, rồi sẽ bị người giết, đây là kết cục tất nhiên của một sát thủ. Thừa Tự Đường còn chưa từng có một sát thủ nào sống thọ và chết tại nhà, mà ở bên trong đám nữ sát thủ, người sống dài nhất, cũng chỉ có ba mươi bảy tuổi. "
Trúc Vận chua xót cười cười: "Ta biết, ta cũng sẽ không vĩnh viễn may mắn như vậy, có lẽ ngày tiếp theo, có lẽ tháng tiếp theo, liền sẽ là tử kỳ của ta, ta vẫn thật tò mò, muốn biết mình có thể vượt qua ba mươi bảy tuổi hay không, trở thành nữ sát thủ sống được lâu nhất trong Thừa Tự Đường hay không. Buồn cười sao? Ta dùng mạng của mình, cùng chính mình đánh cuộc, đúng là rất nhàm chán, cuộc sống đối với ta vốn là đủ nhàm chán. "
Bỗng nhiên có một ngày, ta nhận được mệnh lệnh khẩn cấp của đại công tử truyền đến. Gọi ta cùng các vị tiền bối sát thủ của Thừa Tự Đường lập tức chạy tới Biện Lương, hộ tống Dương Hạo đại nhân an toàn trở về Tây Bắc Lô Châu, chúng ta lúc ấy nhận được lệnh là: chúng ta có thể chết, cho dù tất cả chết sạch cũng không sao, nhưng phải bảo vệ an toàn của hắn. Sau đó, ta liền giả trang làm một tiểu nha hoàn đến bên cạnh ngươi, ngươi và những người ta bảo vệ trước kia khác nhau, rất khác nhau.
Nàng ngưng mắt nhìn thật sâu vào Dương Hạo, ẩn chứa nhu tình, chân thành thấp giọng nói: "Thái Úy, cám ơn ngươi, ta thật hy vọng để đao xuống, vì ngươi bưng trà dâng nước, chăm sóc cuộc sống hàng ngày, làm tiểu nha hoàn của ngươi cả đời."
Dương Hạo từ từ đứng lên, trong mắt lóe quang mang kỳ dị, chậm rãi nói: "Ta hiện tại cũng muốn làm một sát thủ thân lâm tuyệt cảnh, ta chỉ hy vọng, ta cũng có thể may mắn giống như ngươi như vậy."
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 22: Bửa cơm Khó Làm
Nguồn: Sưu tầm
Bởi vì một lời của Dương Hạo, tác động tới Trúc Vận tâm sự, tự thuật thân thế, ngoài tự hối tiếc tự thương ra, nàng bỗng nhiên tâm cơ vừa động, nói ra nguyện vọng muốn hầu hạ Dương Hạo cả đời, phải biết rằng thời đại này nha hoàn thị tỳ dành riêng cho nam nhân, đây chính là thân phận nửa thiếp nửa tỳ, cũng không giống với thị tỳ bình thường, lời này của Trúc Vận đã hướng về phía hắn uyển chuyển biểu đạt tâm nguyện của mình.
Nói xong những lời này, Trúc Vận vừa sợ hãi vừa ngượng ngùng, bỗng nhiên có chút hối hận vê sự đường đột của mình, vạn nhất Dương Hạo không đáp ứng thì sao đây? Vậy sau này làm sao còn có mặt mũi xuất hiện ở trước mặt hắn, bất quá... Bất quá... Vạn nhất Thái Úy đáp ứng... Trái tim nhỏ bé của Trúc Vận giống như một con nai con bị hù dọa thình thịch nhảy lên.
Không nghĩ tới Dương Hạo nghe xong những lời này của nàng thì hai mắt sáng lên, vội vã đứng lên, nói một câu mà cùng lời nàng muốn nghe không có chút liên hệ nhau nào, đã cất bước chạy đi.
"Thái... Thái Úy... Thái Úy... Ngươi..."
Trúc Vận trợn tròn mắt, mình chẳng qua là hơi tỏ ý, lại đem Dương Thái Úy hù dọa chạy sao? Chẳng lẽ mình thật sự không thể chịu được như thế sao?
Dương Hạo chạy đi ra ngoài trướng, bỗng nhiên lại vòng trở lại, thò đầu hướng vào trong trướng, cười nói: "Trúc Vận, ngươi sớm đi nghỉ ngơi đi, bản quan chợt nhớ tới một cái đại sự, phải lập tức đi làm. Thịt bò kia ngửi rất thơm, cứ hầm tiếp đi, chờ ta trở lại thưởng thức tiếp."
"A, được.." Trúc Vận lập tức lộ ra nụ cười vui mừng.
Nhìn Dương Hạo như có lửa đốt ở mông chạy ra ngoài đại trướng, Trúc Vận nhặt thìa lên, nhẹ nhàng quấy đều mấy thìa ở trong bát, múc một muỗng canh tới miệng, nước canh trong veo, thịt bò đỏ lòm, trong nước canh còn phiêu đãng một mảnh hành màu trắng ngà, nhẹ nhàng đem canh thịt đưa vào trong miệng, nhất thời hương đặc đầy miệng, đôi mắt của Trúc Vận liền cong thành một đôi trăng lưỡi liềm: "Thật ra thì... Người ta không chỉ biết giết người, nấu canh làm cơm cũng rất có thiên phú đó, chỉ cần cho ta cơ hội, ta nhất định có thể làm được tốt hơn..."
Nàng nho nhã quyến rũ lại múc thìa canh thịt bò đặc hương xông vào mũi đưa vào trong miệng, sau đó chống cằm, si ngốc mà nghĩ: "Nhưng là... Hắn rốt cuộc là đáp ứng hay là không đáp ứng đây? Hay hoặc là... Mới vừa rồi căn bản chưa có nghe vào trong lòng đi?"
Dương Hạo rời khỏi tẩm trướng, bước nhanh đi tới đại trướng Trung Quân phía trước, đột nhiên bước chân dừng lại, giương mắt nhìn một cái quả cầu đỏ treo thấp trên trời cao kia, đã là sáng sớm, hít vào một hơi thật dài, chỉ cảm thấy thần thanh khí sảng, trong lòng cực kỳ sảng khoái.
Hắn là quan tâm nên bị loạn, kể từ khi biết Phủ Châu xảy ra chuyện, trong lòng của hắn vẫn dây dưa được mất thiệt hơn giữa đi cùng ở lại, cho nên thủy chung không quyết được, mà nay Trúc Vận nói một câu như là đánh thức người trong mộng, làm cho hắn bỗng nhiên ý thức được, phương thức mình suy tư đối với loạn ở Phủ Châu, từ cái căn bản nhất đã liền là sai lầm.
Người dụng binh vô tình, kẻ dụng mưu vô tâm. Trong loại thời khắc mấu chốt này, hắn hẳn là giữ vững tỉnh táo tuyệt đối, làm cho mình đứng ở trên một góc độ cao hơn, mắt nhìn xuống tràng nguy cơ này, điều hắn hiện tại cần làm nhất không phải là so đo được mất một thành một đất, không phải là quyền hành hơn thiệt khi đi cùng lưu lại, mà là phải suy nghĩ ở dưới tình huống đã mất tiên cơ, lấy phương thức như thế nào thi thố tới hóa giải loại cục diện bất lợi này, thay đổi cục diện bất lợi đối với hắn, đem quyền chủ động một lần nữa nắm giữ ở trong tay mình.
Chỉ có nắm giữ chủ động, không để cho Triệu Quang Nghĩa tính toán được mỗi một bước hành động của hắn, như vậy mặc dù thất lợi nhất thời, hắn cũng có thể dần dần thay đổi loại xu hướng suy tàn này, nếu không, mỗi một bước phản ứng đều ở trong lòng bàn tay của đối phương, hắn chỉ biết đi một bước sai, từng bước sai, bị Triệu Quang Nghĩa nắm mũi dẫn đi. Ban đầu Lý Quang Duệ nghe tin bất ngờ Hạ Châu có sơ thất liền vội vã triệt binh, đang ở trong lòng bàn tay của hắn, mà lúc Lý Quang Duệ trốn tới Vô Định Hà lại đột nhiên mai phục phản kích, giết từng con ngựa một, liền ra ngoài dự liêu của hắn, trận chiến ấy nếu không phải hắn lúc nguy hiểm nhanh trí, mượn nước sông trốn ra tìm đường sống, Lý Quang Duệ cũng sẽ chuyển bại thành thắng đi?
Dương Hạo vốn am hiểu nhất là tìm cơ hội trong nghịch cảnh, chế tạo cơ hội, nắm chặt chủ động. Bất kể là ban đầu hắn dẫn năm vạn dân chúng Hán Quốc lấy phương pháp giương Đông kích Tây trốn hướng Phủ Châu, hay là tương kế tựu kế cho Lý Kế Quân phục kích lại trí mạng, hay là khơi mào dân tộc Thổ Phiên, Hồi Cật cùng cuộc chiến Hạ Châu, kiềm chế Hạ Châu phát triển Lô Châu, hay hoặc là ám sát ở Đường Quốc, hoặc là ở trong đại lao Thượng Kinh bày mưu nghĩ kế phản chế Tiêu Hậu, đó cũng đều là thân lâm tuyệt cảnh sau đó lại khởi tử hồi sinh.
Nhưng lần này, hắn suýt nữa từng bước đại loạn, bởi vì, đơn giản là gia nghiệp của hắn càng lúc càng lớn, gánh nặng cũng càng ngày càng nặng, nguyên lai là vua cũng thua thằng liều, hồi trước cùng lắm thì thua không còn một mống, một lần nữa làm trở về một bạch đinh, cho nên hắn lúc nên liều mạng thì dám liều mạng, lúc nên buông tha cho thì dám buông tha, mà bây giờ hắn hùng cứ Tây Bắc, thế lực khổng lồ, trong lòng ràng buộc quá nhiều, cố kỵ cũng là quá nặng, kém xa thoải mái như trước kia.
Hôm nay bởi vì Trúc Vận kia nói một phen, lo lắng trong lòng Dương Hạo tiêu tan hết, nhất thời thoải mái hơn rất nhiều.
Đêm nay, tướng lĩnh các lộ mới vừa nằm ngủ liên tục bị Dương Hạo phái người gọi dậy, gọi mọi người đến đại trướng Trung Quân. Dương Hạo giơ lên ánh đèn, cùng bọn họ cầm đuốc soi bàn chuyện thâu đêm, nêu rõ từng việc gấp rút, phân tích thế cục trước mặt, cân nhắc thiệt hơn được mất giữa đi cùng lưu lại, nghiên cứu đủ loại phương án đối phó, thống nhất tư tưởng của mọi người, cho đến khi trời sáng chưng, Dương Hạo nói tới miệng đắng lưỡi khô, nhưng cũng câu thông một lần đối với tất cả các tướng lĩnh quan trọng, mà cách nghĩ của hắn khi cùng mọi người tham thảo bàn luận về cũng càng ngày càng hoàn thiện trưởng thành.
Mặt trời âm thầm nhô lên từ phía Đông, Trúc Vận nằm ở trên bàn ngủ thật say bị một trận tiếng trống đánh dồn dập làm thức tỉnh, mở mắt vừa nhìn, trời đã sáng choang, đứng dậy đi tới ngoài trướng vừa nhìn, chỉ thấy tướng lĩnh các lộ đang đội mũ mặc giáp vội vã chạy tới đại trướng Trung Quân, trong lòng Trúc Vận kinh ngạc không thôi: "Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, Thái Úy tựa hồ một đêm không ngủ, cả đồ ăn sáng cũng không cần, đã lại triệu tập các tướng lĩnh nghị sự rồi?"
"Ai a!"
Trúc Vận chợt nhớ tới canh thịt bò kia, vội vàng trở vào bên trong trướng. Nàng vốn tưởng rằng Dương Hạo nói quay lại ăn nữa là lập tức trở lại, vốn là ở vừa tăng thêm bó củi vào lò, hi vọng đem thịt bò kia hầm đến mềm vụn thơm ngon, để cho Thái Úy làm bữa ăn khuya, ai ngờ thêm củi xong, chờ đợi để hàn huyên, thế nhưng lại đã ngủ quên mất, Trúc Vận vội vàng chạy tới bên cạnh lò, chỉ thấy ngọn lửa dưới lò đã tắt, chỉ có tia lửa chợt lóe chợt lóe, tựa hồ cũng không bao lâu nữa sẽ tắt.
Nhấc nồi lên vừa nhìn, canh thịt vốn trong veo giờ đã trở nên vẩn đục rồi, múc một khối thịt bò nếm thử, đã mất đi cảm giác thơm thơm ngon miệng khi được hầm nhừ rồi, cảm thấy đã có chút xơ, Trúc Vận có chút chán nản nhìn nồi thịt bò kia mà phiền muộn.
Đang lúc này, hai thanh âm ầm ĩ truyền đến trong tai nàng:
"Nếu hầm mấy con cá này rồi ăn, hầm thành canh đặc mày trắng ngà, uống vào là bổ thân nhất."
"Nói hươu nói vượn. Đem cá hầm thành canh uống bổ thân thể, chẳng lẽ đem cả con cá ăn vào bụng đi lại không bổ thân thể sao? Người tham thích ăn canh, người lười yêu ngủ, Trúc Vận cô nương có tham ăn như ngươi như vậy sao? Muốn ta nói, phải là nướng rồi ăn, ngươi nhìn con cá này, mỗi chiều đều lớn cỡ bàn tay, cạo vẩy rồi cho lên lửa nướng, vàng chín rộm, hương thơm xông vào mũi, Tây Bắc ta thiếu ăn, coi trọng là đốt cùng nướng. Tổ tiên ngươi không phải là sói chuyển thành người sao? Cũng không phải là người Giang Nam, lại thích ăn canh như vậy."
"Nói nhảm, ta đây không phải là giúp Trúc Vận cô nương suy nghĩ sao, một nữ tử võ công cao cường xinh đẹp như vậy, ngươi đưa cho nàng cá nướng cháy đến khét lẹt, gặm xong một con cá, bộ dáng tuấn tú liền bị phá hủy toàn bộ, mặt quệt than đến giống như con mèo con, rất đẹp mắt phải không?"
"Di? Lão ca, ta nghe lời này có cái gì đó không đúng, chẳng lẽ ngươi coi trọng Trúc Vận cô nương rồi sao? Ta nói rồi, tự dưng sáng sớm sao ngươi lại chặn sông bắt cá chứ, hóa ra là vì để Trúc Vận cô nương người ta vui vẻ sao?"
"Nói hưu nói vượn! Lão ca ta phải lấy lòng nữ nhân sao? Ta muốn coi trọng cô nương nhà ai, chỉ cần ngoắc ngoắc ngón út, nàng còn không vội vàng trang điểm lập tức nhảy lên kiệu hoa chứ? Khụ! Bất quá nói đi thì nói lại, ngươi nói. . . Ta thật sự có ý tứ kia, địa vị quan chức của ta, còn không xứng đôi với nàng sao? Nghe nói nàng là Phi Vũ Bí Điệp của đại soái, lão ca ta cũng đường đường là Túc Châu Quân Tả Quả Nghị Đô Úy đại nhân. . ."
Hai người đi tới còn xa, nhưng là giọng nói của bọn hắn vốn lớn, thính lực của Trúc Vận lại đặc biệt xuất sắc, lời nói này cũng bị nàng nghe vào ở bên trong tai, khóe miệng Trúc Vận nhếch lên, liền lộ ra một tia thần sắc như cười mà không phải cười.
"A! Trúc Vận cô nương. . ."
Tạp Ba Tạp cùng Chi Phú Bảo đi tới trước mặt Trúc Vận, chỉ thấy đại cô nương người ta đang cười xinh đẹp đứng ở cửa trướng, khuôn mặt đen to mập mạp kia của Tạp Ba Tạp lại đỏ lên hiếm có, ánh mắt Trúc Vận rơi vào trên tay hắn, trên tay Tạp Ba Tạp có một cái cành hồng liễu, trên cành buộc ba con cá trắng lớn cỡ bàn tay, dưới ánh mặt trời, lân phiến kia lấp lòe quang mang, má cá còn đang mấp máy, hết sức tươi sống.
Bặc Ba Tạp vội vàng tựa như hiến vật quý, giơ lên xuyên cá kia, cười hắc hắc nói: "Trúc Vận cô nương, đây là cá mà lão ca sáng sớm mò được từ trong sông, nghĩ tới thương thế của Trúc Vận cô nương chưa lành, đưa tới cho cô nương thay đổi khẩu vị, bồi bổ thân thể, con cá này vô cùng tươi ngon, hầm canh là tốt nhất."
"Trúc Vận cô nương đừng nghe hắn, con cá này nướng lên ngon nhất, rồi phối chung với rượu ngon. . .
"Ngươi đừng nói, cũng không phải là ngươi bắt." Tạp Ba Tạp giận tím mặt, hung hăng trợn mắt nhìn người bạn già của mình một cái.
Trúc Vận đưa tay nhận lấy con cá hắn đưa tới, dịu dàng nói: "Tạp tướng quân có lòng rồi, Trúc Vận thật không biết nên tạ ơn tướng quân như thế nào cho phải."
Tạp Ba Tạp nghe được thanh âm dịu dàng đó của nàng, khuôn mặt kích động phát ra hồng quang, xoa xoa tay nói: "Không cần cám ơn với không cám ơn, hắc hắc, một chút ý tứ nhỏ, không nói lên được kính ý."
"A!" Trúc Vận thở nhẹ một tiếng, dường như đột nhiên nhớ ra cái gì đó: "Đúng rồi, tối hôm qua ta hầm một nồi canh thịt bò, một mình ăn không vào, tướng quân có ý tốt như vậy, ta liền đem nồi canh thịt kia làm quà đáp lễ tướng quân đi."
"Ôi, không dám nhận, đó là không dám."
Tạp Ba Tạp luôn miệng từ chối, Trúc Vận không nói nhiều đã đi vào trướng, trướng ngủ của đại cô nương người ta, Tạp Ba Tạp cũng không dám mạo muội đi vào, chẳng qua là áp cổ ở cửa trướng nhìn, chốc lát thời gian, Trúc Vận lấy ra một nồi đi ra ngoài, cười nói: "Tạp tướng quân, đây là canh thịt Trúc Vận đích thân hàm, không còn nóng, tướng quân lấy về thường thức đi."
"Ôi, thế này không tốt. " Tạp Ba Tạp còn đang giả vờ từ chối, Chi Phú Bảo đã một phen nhận lấy cái nồi ôm ở trước ngực.
"Ô. . . Ô ô. . ."Tiếng kèn thê lương vang lên, Trúc Vận nghiêng tai vừa nghe, nói: "Nghe tiếng kèn này, chẳng lẽ là có chuyện quân sự gì quan trọng sao?"
Tạp Ba Tạp cười nói: "Không có gì, không có gì, đây là tiếng kèn gọi dậy, còn chưa có ăn điểm tâm, sẽ không công thành sớm như vậy."
Trúc Vận thản nhiên cười: "Cũng không thể nói như vậy, nước không thể một ngày không có vua, quân không thể một ngày không có tướng, hai vị tướng quân chính là Đại tướng quân thống lĩnh nhất phương rồi, vạn nhất có cái chuyện gì gấp gáp, binh sĩ tới cửa lại không thấy hai vị đại nhân thì làm sao bây giờ? Trúc Vận cũng không dám trì hoãn việc công của hai vị tướng quân đại nhân, xin mời trở về đi.
"Ách. . . Được được, ta trở về." Tạp Ba Tạp lưu luyến không rời, rồi lại không muốn bị Trúc Vận xem nhẹ, hắn liền cẩn thận mỗi bước đi đi.
Hai người đi thật xa, tai Trúc Vận giật giật, đã nghe được Tạp Ba Tạp vô cùng vui vẻ nói: "Hắc! Ngươi nói Trúc Vận cô nương đưa ta canh thịt, không phải là cũng có chút ý tứ đối với ta sao. . . Này! Làm sao ngươi uống rồi?"
"Sách sách sách, lửa đã quá rồi, canh không ngon rồi, thịt cũng xơ rồi, thế này làm sao ăn a. . ."
"Nói nhảm! Ngươi còn nói sao? Ai cho ngươi ăn chứ, đây là canh thịt Trúc Vận cô nương tặng cho ta thịt canh, đưa đây. . . , "
Hai người tranh nhau cướp đoạt, Trúc Vận từ xa xa nhìn thấy, không nhịn được "Phốc xuy" cười một tiếng, nhưng ngay sau đó lại hiện lên vẻ mặt u oán: "Ai, làm sao thức ăn cũng là kém như vậy chứ? Chẳng lẽ ở trong mắt Thái Úy đại nhân, bổn cô nương không tính là nữ nhân sao?"
Ấm ức trở lại trong trướng, nhớ tới xiên mấy con cá kia, Trúc Vận nháy mắt mấy cái, bỗng nhiên nổi lên nỗi buồn tới : "Con cá này, là hầm cho hắn ăn, hay là nướng cho hắn đây?
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 23: Quy Nghĩa (1+2+3)
Nguồn: Sưu tầm
Kiến trúc Sa Châu phần nhiều là lấy vật liệu ngay tại chỗ, lấy cát, đất làm tài liệu, cho dù là hào môn thế gia cũng không ngoại lệ, đại trạch của Trương gia chiếm diện tích cực kỳ khổng lồ, phong cách kiến trúc phòng xá khác hẳn Trung Nguyên, khuôn vườn đình viện rất lớn, quây quanh bốn phía là tường đất cao cỡ nửa người, từ rất là có thể đem toàn bọ cây cối trong viện thu hết vào mắt.
Vừa vào cửa phủ, trước mặt chính là một cái hành lang dài, bắt đầu hành lang đặt một cái giá gỗ, phía trên là từng chuỗi dây nho bò lên, cành lá đã thành thục, đầy quả treo ở giữa cành, nặng trịch, tỏa ra hương vị tươi ngon, dụ dỗ khiến người chảy nước miếng.
Dưới bóng cây trước cửa có rất nhiều kỵ sĩ tụ tập, đó là đám thị vệ của gia chủ các đại thế gia, trong viện dưới dàn nho lại đặt vài cái thảm nỉ cùng bồ đoàn, lại bày mấy cái bàn nhỏ, trên bàn bày đầy rượu ngon, thịt thơm cùng trái cây, "Chưởng môn nhân" của cửu đại thế gia đều lấy lễ thức quỳ ngồi thẳng lên, trừ lão gia chủ Trương gia Trương Thừa Tiên ra, sau lưng mỗi người đều có thị vệ sau lưng giắt hai cái loan đao.
Trương Thừa Tiên thân mặc Khúc Cư Thiền Y màu đen, đầu đội mũ cao, chân đi guốc gỗ, không ngờ là một trang phục Hán triều, nhìn hắn xanh xao mà tinh thần lại sáng suốt, nhìn quanh sinh uy. Ở phía sau Trương Thừa Tiên, chỉ có một tiểu đồng môi hồng răng trắng tuổi trăng tròn đứng đó, mắt mi như vẽ, vừa giận vừa vui, hết sức chào đón mọi người. Tiểu đồng khoanh tay mà đứng, thái độ kính cẩn. Khắp mọi nơi thì có rất nhiều gia nhân áo xanh mũ quả dưa đi hầu hạ.
Lệnh Hồ gia chủ Lệnh Hồ Thượng Thiện đã hơn lục tuần, khuôn mặt đỏ thẫm, hết sức khôi ngô, hắn nhìn chung quanh, vuốt râu cười nói: "Trương lão đã nhiều năm không hỏi thế sự rồi, không biết hôm nay vừa sáng sớm đã vội vả gọi chúng ta tìm đến, có cái chuyện quan trọng gì muốn thương lượng chăng?"
Trương Thừa Tiên cười nhạt, con mắt chăm chú nhìn vào một nam tử áo bào trắng hơn ba mươi tuổi, vẻ mặt ôn hoà nói: "Tử Việt, lệnh huynh Tử Ngôn tại sao không tới vậy?"
Người ba mươi tuổi kia lộ mặt ra, cái mũi như móc câu, hốc mắt rất sâu, làm cho người ta cảm thấy một loại cảm giác âm độc. Người này tên là Tào Tử Việt, là con trai thứ hai của Tào Duyên Cung, vẻ mặt hắn không vui nói: "Gia huynh có trọng trách thủ thành Sa Châu, sao lại có thể rời khỏi vị trí trấn thủ. Không biết Trương lão mời chúng ta tới, rốt cuộc có chuyện gì, có lẽ là nên nói nhanh đi, đại quân Dương Hạo dã tới trước dưới thành, tình thế nguy cấp, gia huynh không dám rời đi một chút, Tử Việt một chút nữa cũng phải chạy về tọa trấn phòng thủ thành."
Tào gia bây giờ khống chế nghĩa quân, là vương xứng đáng của Đôn Hoàng, hôm nay Trương Thừa Tiên cậy già lên mặt, lần này làm to chuyện mời cả đầu lĩnh cửu đại thị tộc tới, trước đó cũng không thông báo cho tào gia, trong lòng Tào Tử Việt cực kỳ không hài lòng, chỉ có điều bây giờ trong giới tôn giáo, tầng lớp trăm họ bình thường, thậm chí cả binh sĩ cùng quan quân cấp thấp của nghĩa quân, đều có lực lượng riêng của những người này, về việc xử lý nguy cơ nguy hiểm của nghĩa quân, cửu đại gia tộc Sa Châu là trụ cột vững vàng của Sa Châu, lúc này, Tào gia nhất định cần phải tranh thủ mượn hơi lôi kéo các đại gia tộc, Tào Tử Việt đành phải tạm thời ẩn nhẫn.
Trương Thừa Tiên ha hả cười, vuốt râu nói: "Lão phu tuổi đã lớn, mỗi ngày chỉ cần một hồ trà, một chén rượu, ngậm kẹo đùa cháu, bảo dưỡng tuổi thọ, sớm không nên hỏi thế sự mới đúng. . ."
Tào Tử Việt cắt đứt lời hắn nói, tiêu sái cười nói: "Trương lão nói có lý, Trương lão tinh thần quắc thước, thân thể khoẻ mạnh, nếu là phụng dưỡng tuổi thọ cho tốt, qua hai mươi năm nữa, chính là người may mắn của Sa Châu ta, có chuyện gì, những vãn bối như chúng ta sẽ giải quyết giúp, Trương lão có lẽ ít hao tâm mới thật là tốt."
Ánh mắt Trương Thừa Tiên ngưng lại, nhìn chăm chú vào hắn nói: "Hôm nay Dương Hạo quân vây bốn mặt, chỉ huy mười vạn quân, như sóng mênh mông cuồn cuộn mà đến, Tử Việt đã chuẩn bị giải quyết ra sao? làm cho trên dưới Sa Châu ta ngọc đá ùng tan hay sao? Hay là nên nói. . . Noi theo dân tộc Hồi Cật Cam Châu ngày đó, lúc nguy cấp khó khăn, cùng Dương Hạo kết thành quốc gia phụ tử? "
Tào Tử Việt thẹn quá hóa giận, mắt nhìn thẳng đứng bật dậy cả giận nói: "Ngươi... ngươi..."
Tác thị gia chủ ngồi ở một bên giơ tay nhấn vào đấu gối Tào Tử Việt một cái, trong mắt lóng lánh ánh mắt cảnh giác, trầm giọng cười nói: "Tử Việt hà tất phải nóng nảy chứ, có thể Trương lão gia chủ sẽ có chút giải thích không tầm thường, giúp đỡ cho Tào đại nhân, chúng ta ngại gì không nghe một lần."
Tác thị là là bạn tốt của Tào Tử Việt, hắn vừa ra mặt trấn an, Tào Tử Việt liền hừ lạnh một tiếng, không hề nói gì nữa. Có điều là đến lúc này, các thủ lĩnh các đại gia tộc mới vừa tới thì bầu không khí vui cũng đã không còn sót lại chút gì, cục diện nhất thời trở nên khẩn trương lên.
Nói lên, giữa cửu đại gia tộc Sa Châu đều có quan hệ thân thích rắc rối khó gỡ, Tác gia là Sa Châu đệ nhị đại gia tộc, nguyên bản cùng Trương gia đi lại gần nhất, có quan hệ mật thiết nhất. Năm đó lúc Trương Nghĩa Triều tuổi già, khi sáu mươi chín tuổi tuổi vẫn lặn lội đường xa, vào Trường An làm binh phù, đem về nghĩa quân giao cho cháu trai Trương Hoài Thâm của mình, khi đó gia chủ Tác thị Tác Huân chính là một trong những con rể của Trương Nghĩa Triều.
Sau khi Trương Nghĩa Triều chết, Tác Huân nổi lên chính biến, giết chết vợ chồng Trương Hoài Thâm cùng sáu con trai của họ, cướp đoạt lấy binh quyền của nghĩa quân, lúc đó con gái thứ mười bốn của Trương Nghĩa Triều là con dâu của Lý gia, một đại gia tộc khác của Sa Châu, trượng phu của nàng là Lương Châu Tư Mã, Lý Minh Chấn, đối với việc phản nghịch của tỷ phu, Thập Tứ cô nương cực kỳ bất mãn, nàng cùng trượng phu Lý Minh Chấn lần thứ hai xuất động binh biến, máu nhuộm cả nhà Tác Huân, ủng lập cháu trai Trương Thừa Phụng cả Trương Nghĩa Triều, cũng chính là anh trai Tiết Độ Sứ nghĩa quân của Trương thị lão gia chủ Trương Thừa Tiên.
Từ đó về sau, hai nhà Trương, Tác bắt đầu trở mặt, cho đến sau nàyi, đệ tam đại gia tộc Tào thị dần dần nắm giữ quân chính quyền lớn của Sa Châu, lấy phương thức bài xích, xa lánh từng bước một dùng phương thức hòa bình đem Trương gia đuổi ra khỏi trung tâm quyền lực, tại trong quá trình này, Tào gia cùng Tác gia liền thành minh hữu có quan hệ mật thiết nhất, mà Âm gia, Lý gia lại cùng Trương gia đi lại càng gần hơn một ít, về phần mấy nhà Tỷ, Diêm, An, Lệnh Hồ còn lại là mạnh vì gạo, bạo vì tiền, qua lại giữa hai đại phe phái, thuộc về loại người đánh đu.
Đối với vẻ mặt biến hóa của Tào Tử Việt cùng Tác, Trương Thừa Tiên đều thu hết vào đáy mắt, hắn chỉ là cười nhạt một tiếng, không đỏi sắc mặt cười nói: "Chư vị, ngày trước khi loạn An Sử, Huyền Tông Đại Đường tị nạn vào Thục, điều tinh binh Hà Tây Lũng Hữu hộ giá, đến nỗi binh lực Hà Tây Lũng Hữu trống rỗng, dân tộc Thổ Phiên nhân cơ hội sấn tới, Hà Tây suy bại, đường xá ngăn trở tiêu điều, những binh sĩ nàh hán chúng ta liền không còn qua lại cùng quê hương. Nhưng là những binh sĩ nhà Hán đơn độc xứ người chúng ta, lại chưa bao giờ quên đi quê hương. Liền tại Sa Châu này. . ."
Trương Thừa Tiên phất tay áo một cái, chỉ chỉ vào mặt đất dưới chân, trầm giọng nói: "Sau khi các châu Cam Lương Túc Qua lần lượt rơi vào tay giặc, quân dân nhà Hán ta đã thủ vững một khối đất Hán Sa Châu này, cuối cùng mười một năm sau, Thứ Sử Sa Châu lúc đó là Chu Đình mắt thấy đợi viện binh vô vọng, muốn đốt thành chạy về phía Đông, hắn cũng không có ý đầu hàng, bất quá là muốn bỏ quên mảnh đất này, trở về đất tổ tông, kết quả thì sao? Vứt bỏ đất Hán ta, trời đất không dung tha! Đô Tri Binh Mã đại tướng quân Diêm Triêu Các tại ải giết Chu Đình, dẫn dắt quân dân tiếp tục chống lại dân tộc Thổ Phiên.
Cho đến hai năm sau khi hết lương thực, Diêm Đại tướng quân mới sai người cùng tướng lĩnh dân tộc Thổ Phiên là Khi Tâm Nhi hội đàm, nhìn trời mà thề, trịnh trọng ước định: sau khi Phiên binh vào thành, không được giết một binh sĩ nhà Hán ta, không được làm nhục một nữ tử nhà Hán ta, thu được sự thừa nhận trịnh trọng của Khi Tâm Nhi, lúc này mới hiến thành đầu hàng, bảo toàn quân dân Sa Châu ta, bảo toàn cửu đại gia tộc ta, khiến cho củi lửa nhà Hán ta không dứt tại Sa Châu.
Để đoạn duyên phận huyết mạch của người Hán ta cùng Đại Đường, người Thổ Phiên không cho chúng ta mặc y phục tổ tiên truyền xuống, muốn chúng ta tết tóc đuôi sam, cùng một dạng như chúng. Hàng năm, đến ngày Nguyên Sóc (đầu năm mới), người Hán chúng ta mới có thể mặc y phục ngày xưa của nhà Hán, từ xa tế bái tổ tiên mình ở phương Đông, chúng ta ngóng nhìn một bậc Vương Sư có thể cứu bọn ta khỏi cảnh nước lửa, nhưng là Đại Đường thế yếu dần, Trung Nguyên thường xuyên chiến loạn, không còn lực bận tâm tới chúng ta !"
Trương Thừa Tiên nói đến đây, nước mắt đã tuôn đầy mặt, thủ lĩnh các đại gia tộc cũng không khỏi có chút động dung, trong đình viện một mảnh yên lặng, chỉ nghe Trương Thừa Tiên khẳng khái kể lại: "Cho đến sau này, Tán Phổ Đạt Ma Thổ Phiên bị tăng lữ ám sát, người Hán Sa Châu ta không phụ khổ tâm ngày xưa của Diêm tướng quân, gia tổ Nghĩa Triều nhân cơ hội dựng cờ đứng lên, dẫn Quy Nghĩa Quân người Hán ta nhất cử khôi phục Sa Châu, một con chim bay vút lên, trăm con chim bay phóng theo, nghĩa quân lấy khí thế hút sông nuốt núi, như gió cuốn mây tan, chưa đầy hai năm, liền thu lại được mười một châu Sa Áp. Trăm năm tả nhẫm, khôi phục thành mũ lớn, dân đen mười quận sót lại toàn bộ thoát khỏi nước lửa, gia tổ phế đi chế độ của bộ lạc Thổ Phiên, xây dựng lại châu huyện hương lý, lập hộ tịch, dọn dẹp đất đai, tu bổ thuỷ lợi, phát triển nông canh, từ đó Hà Tây đi không trở ngại, phong tục văn hoá lại như Trung Nguyên, nhưng là. . . Con cháu bất hiếu, từ sau gia tổ Nghĩa Triều mất, Quy Nghĩa Quân chúng ta ngày càng sa sút, mười một châu dần dần bị xâm chiếm từng bước, đến hôm nay, người Hán ta tại Tây Vực, chỉ còn hai châu Qua Sa, còn muốn hướng Đại Châu Hồi Hột tự xưng là vương nhi (nhi thần)!"
Tào Tử Việt cũng không kìm nén được nữa, sắc mặt xanh mét, ấn đao quát lên: "Trương Thừa Tiên, ngươi có ý gì, đây là chỉ trích Tào gia ta sao?"
Hai gã đao khách sau lưng hắn lập tức tiến lên trước một bước, trên mặt lộ ra vẻ dữ tợn, Trương Thừa Tiên chớp mắt một cái, thản nhiên nói: "Quy Nghĩa Quân, là ở xuống dốc ở trong tay Trương gia ta, làm sao chỉ trích được Tào gia ngươi? Bất quá sau khi Tào gia ngươi nhận lấy Sa Châu, Quy Nghĩa Quân ta cũng chưa thấy chút nào khởi sắc, đây là sự thật, lão phu luận chuyện mà thôi. Lão phu hôm nay đã tám mươi bốn, đã tới tuổi chôn dưới cát vàng, tiểu tử ngươi này, muốn hù dọa lão phu sao?"
Tào Tử Việt giận đến run rẩy cả người, tức giận quát lên: "Lão thất phu, ngươi đây là cậy già lên mặt sao?
Đám con cháu, gia phó Trương gia nghe vậy, tất cả đều lộ ra sắc mặt giận dữ, Tác vội vàng ấn Tào Tử Việt lại, cười u ám nói: "Trương lão, hôm nay bảo chúng ta tới, chính là để nghe Trương lão nói tổ tiên nhà ông là uy phong như thế nào, nói những thứ chuyện cũ năm xưa này của Sa Châu sao? Phải không?"
Trương Thừa Tiên nghiêm mặt nói: "Lão phu nói những lời này với những loại vãn bối như các ngươi, là muốn cho các ngươi biết, tiền bối chúng ta vì bảo vệ y bát nhà Hán ta, đã từng làm qua những chuyện gì, là muốn các ngươi biết, chúng ta tại Tây Vực phía, cùng cố thổ trời Nam đất Bắc, không phải là Sa Châu ta không muốn quy về cố thổ, cũng không phải là Trung Nguyên muốn vứt bỏ người Hán Tây Vực ta!
Đại Đường diệt vong, Quy Nghĩa Quân suy tàn, bọn ta đều thành cô thần dư nghiệt không nước không nhà, trải qua trăm năm nữa, chúng ta sẽ quên mất tổ tông, coi như người Hồ rồi.Nhưng là, hôm nay Dương Thái Úy đem quân Tây chinh, thế như chẻ tre, đạp nát củi khô, Thổ Phiên, Hồ Hồi cực kỳ sợ hãi, lần này là cơ hội hiếm có khôi phục hồi đất Hán ta.Chẳng lẽ bây giờ chúng ta ngược lại muốn quên đi ý chí của liệt tổ liệt tông, cùng Thiên Quân là địch sao? (ý nói vua do trời định tới)
Tào Tử Việt nghe thế liền hiểu ra tất cả, bỗng nhiên đứng lên, quát lớn :"Trương Thừa Tiên, ngươi gọi chúng ta tới đây là muốn mê hoặc chúng ta vứt bỏ vũ khí đầu hàng, thần phục Dương Hạo hay sao?"
Trương Thừa Tiên nói: "Chư vị, Dương Thái Úy lần này tới đây, là vì nhất thống Hà Tây, khôi phục đất Hán ta. Chư vị đều là đại tộc Sa Châu, từ khi Trung Nguyên bị ngăn cách tới nay, chúng ta ngày đêm trông đợi chờ mong, ngóng nhìn Trung Nguyên khởi binh, đuổi Hồ bắt làm nô lệ, khôi phục đất Hán ta, hôm nay Dương Thái Úy thật sự tới rồi, chẳng lẽ chúng ta lại lấy việc binh đao tới gặp nhau sao? Thái Úy binh cường mã tráng, cho dù là Cam Châu Hồi Hột cũng đóng thành không dám đánh, không dám coi thường lưỡi đao của Thái Úy, chẳng lẽ hai châu Qua Sa chúng ta chống đỡ được đại quân của Thái Úy sao?
Đầu hàng là trên thuận theo ý trời, ở giữa kế thừa di chí của tổ tông, dưới hợp lòng lê dân, gia tộc các vị cũng sẽ không bị tổn hại một chút nào, thương lộ Tây Vực được thông suốt, ngược lại sẽ đem tới lợi ích cực lớn. Đánh, tinh thần quân dân đều không thể dùng, nhất định, kết quả của các đại gia tộc chúng ta, bất quá là cùng Sa Châu ngọc đá cùng vỡ. Lão phu thực không đành lòng nhìn bọn ngươi rơi vào vực sâu, hôm nay mời tới, chính là chỉ điểm cho cửu đại thế gia Sa Châu một con đường sáng, đi con đường nào, chư vị tộc trưởng nghe lời lão phu nói, hôm nay có thể có quyết định được rồi đi?" Thủ lĩnh các đại thế gia hai mặt nhìn nhau, không nghĩ tới Trương Thừa Tiên đi thẳng vào vấn đề, lại là giúp Dương Hạo chiêu hàng.
Tào Tử Việt vừa sợ vừa giận, kể từ hơn mười năm trước, khi Tào gia bắt đầu chấp chưởng quyền to của Quy Nghĩa Quân, Trương gia đã rất ít tham dự vào đại sự quân chính của Sa Châu, hắn vô luận như thế nào cũng không nghĩ tới lão già Trương Thừa Tiên này lại ăn tim gấu mật báo, dám công khai mê hoặc lòng người, khuyên mọi người từ bỏ Tào gia đầu hàng Dương Hạo. Hắn vội vã thoáng nhìn lại, thấy trong nội viện này mọi nơi đều nhìn rõ, rất khó giấu được phục binh, thị vệ các đại gia tộc mang đến cũng hỗn tạp đứng ở chung một chỗ đứng hầu ở ngoài viện, tổng số cũng bất quá chỉ gần trăm người, trong lòng nhất thời bình tĩnh, không chờ các đại gia tộc tỏ thái độ, liền giành trước đứng lên, quăng đao nói: "Tào gia ta đã có quyết định, đó chính là chém lão thất phu ăn cây táo, rào cây sung, mê muội vô năng ngươi này!"
Tào Tử Việt vừa nói ra, Tác cũng vọt người nhảy lên, hai người nắm lấy cương đao, thị vệ phía sau cũng lập tức rút đao hướng ra phía ngoài, lúc này Âm thị gia chủ Âm Sở Tài, Lý thị gia chủ Lý Tịch Vũ chậm rãi đứng dậy, hướng Trương Thừa Tiên nhích tới gần hai bước, thiếp thân thị vệ của bọn họ lập tức quăng đao ngăn trước người bọn họ.
Vóc người Âm Sở Tài béo ục ịch, một khuôn mặt tròn tròn toàn thịt bao quanh, mang theo một vẻ mặt điềm đạm hòa khí, cười dài nói: "Quy Nghĩa Quân ta hôm nay ngày càng xuống dốc, tuyệt không phải đối tủ của Dương Thái Úy, coi như vì một nhà một tộc mình mà suy nghĩ đi, ta cảm thấy đề nghị của Trương lão cũng đúng, bỏ thành đầu hàng mới là hành động sáng suốt.Các đại gia tộc chúng ta cũng sẽ không vì vậy mà có cái tổn thất gì đi. Ha hả, đương nhiên rồi, Tào gia tất nhiên phải nhường binh quyền lại, nhưng binh quyền này. . . Nếu đánh tiếp mà nói..., cũng không phải là phải nhường lại sao?"
Lý thị gia chủ Lý Tịch Vũ ngoài cười nhưng trong không cười, nói: "Đến lúc đó, kết cục tốt nhất, cũng bất quá là giống như Túc Châu Long Vương giống nhau, đột nhiên đi về hướng đông, không còn huy hoàng nữa. Ngươi nhìn Lương Châu Lạc Nhung Lăng Ba, hôm nay chính là chấp chưởng Thứ Sử Lương Châu, trừ không nắm binh quyền ra, thì cùng trước kia có cái gì khác nhau đâu? Nói đi thì phải nói lại, nắm binh quyền vì cái chuyện gì? Còn không phải là vì bảo vệ bình an cho mỗi nhà, bình an cho một thành sao? Tử Việt huynh, mấy chuyện nhức đầu đó, giao cho Dương Thái Úy lo nghĩ, không phải tốt hơn sao?"
Mấy nhà Tỷ, Diêm, An, Lệnh Hồ thờ ơ lạnh nhạt, trong lòng đã chợt hiểu ra, nhìn bộ dáng kia, Trương Thừa Tiên đã cùng Âm gia, Lý gia thông qua tin tức rồi, thật ra thì đối với mấy nhà Tỷ, Diêm, An, Lệnh Hồ mà nói, Sa Châu là do Tào gia nắm binh quyền hay là Dương Hạo nắm binh quyền, đối với bọn họ mà nói cũng không có khác nhau. Hôm nay mắt thấy thực lực quân đội Dương Hạo cường đại, binh sĩ tới tây Sa Châu, dân chúng cùng giới Phật giáo đối với việc hắn đến có nhiều người tỏ thái độ hoan nghênh, lại nghe lần Trương Thừa Tiên lấy tình tác động, lấy lý mà nói này, bọn họ khó tránh không động tâm.
Song, loại chuyện tỏ rõ lập trường này, chính là liên quan đến trọng đại. Hướng xa mà nói, Dương Hạo binh cường mã tráng, hai châu Qua Sa có thể đối kháng hay không, bọn họ chính là vẫn giữ thái độ bi quan.
Hướng gần mà nói, nếu Trương gia cùng Âm gia, Lý gia đã sớm có dự mưu, như vậy cũng sẽ không thể không âm thầm làm chuẩn bị, nếu không đáp ứng, sợ rằng sẽ phải lập tức biến thành quỷ dưới đao, từ phương diện này nói, bọn họ liền muốn tỏ thái độ tán thành.
Nhưng là Trương gia rời khỏi trung tâm chính quyền Sa Châu đã nhiều năm, môn hạ con cháu đã vứt bỏ luyện võ từ nhỏ, ở trong quân không có quyền bính gì, nơi này khắp nơi thông thoáng, căn bản không giấu được phục binh, Trương gia chỉ sợ là không giữ được Tào Tử Việt cùng Tác, chỉ cần bọn họ vừa chạy đi ta, không đợi mấy đại thế gia tập hợp con cháu, gia tướng cùng đám nô phó phản kháng thì đại quân đã có thể lập tức đạp bằng Trương gia, nếu mình biểu lộ thái độ, liền trở thành một phái loạn đảng, nếu bị thanh tẩy sạch thì sao?
Gia nhân bốn nhà Tỷ, Diêm, An, Lệnh Hồ nhìn chung quanh, do dự, Tào Tử Việt thấy rõ mọi nơi đều không có phục binh, lập tức liền quyết định bắt giặc bắt vua giặc trước, Trương Thừa Tiên năm nay đã hơn tám mươi, già nua lớn tuổi, động tác vô cùng kém linh hoạt, nhất cử chém giết trước, rồi bắt giữ Âm Sở Tài cùng Lý Tịch Vũ, là có thể làm những đại gia tộc ngu xuẩn khác kinh sợ, nhanh chóng bình ổn lại trận làm phản này.
Kế hoạch trong lòng đã định, Tào Tử Việt lập tức hướng Tác ném tới một ánh mắt, nhe răng cười nói: "Trương Thừa Tiên, niệm tình tổ tiên ngươi là vua lập nên Kim Sơn Quốc ta, Tào gia ta mới lễ kính ba phần đối với ngươi, không nghĩ tới Trương Thừa Tiên ngươi không có lòng báo đáp ơn vua, lại có ý đồ làm phản. Lão gia u mê kia, còn vọng tưởng Trương gia hôm nay còn có thể hô phong hoán vũ ở Sa Châu được sao? Hôm nay vua Đôn Hoàng Quốc, là cha ta, Dương Hạo thì tính là cái thứ gì chứ! Hôm nay, nhị thái tử Tào Tử Việt ta liền thay mặt phụ vương ta thi hành quốc pháp, chém cái đầu chó của lão thất phu ngươi!" Tào Tử Việt dứt lời, chỉ tay một cái, lớn tiếng quát lên: "Xông lên, làm thịt hắn cho ta!"
Thị vệ của Tào Tử Việt cùng Tác thị lập tức lao lên một loạt, bốn chuôi loan đao trước tiên hướng về thị vệ của Âm Sở Tài cùng Lý Tịch Vũ, thừa dịp mấy thị vệ kia vung đao ngăn cản thì nhân cơ hội như gió lốc chuyển qua , bốn chuôi loan đao lần lượt thay đổi hướng, mang theo tiếng gió gào thét nghẹn ngào hướng về phía Trương Thừa Tiên, uy lực của một đao kia, dường như muốn đem đầu hắn cắt thành bốn nửa.
Huýt gió lên một tiếng, như hạc kêu giữa không trung, Trương Thừa Tiên không nhúc nhích, tiểu nha đầu đồng tử môi đỏ răng trắng thanh tú phía sau hắn lại đột nhiên như quỷ mị vọt đến trước người của hắn, vung tay một vòng ."Khanh khanh khanh khanh!" Bốn tiếng binh khí va chạm vào nhau thanh thúy vang lên, mảnh nhỏ của ống tay áo bay múa đầy trời, tiểu đồng lộ ra một cánh tay trắng như tuyết, trong tay cũng cầm một thanh đoản kiếm sắc bén rét lạnh lộ ra ngoài.
Đám con cháu Trương gia mắt thấy gia chủ gặp tập kích, cũng không khỏi kinh hãi, bọn họ đã sớm được chứng kiến võ công xuất thần nhập hóa của tiểu đồng này, cũng tin tưởng nàng có đủ lực lượng bảo vệ gia chủ, chính là bởi vì như thế, mới đem lần tụ hội này bố trí tại một nơi quang đãng như vậy, không có chỗ cho phục binh mai phục, dĩ nhiên, nếu không phải như thế, những kẻ có chút thù hằn với Trương gia như Tào Tử Việt cùng Tác cũng sẽ không khinh suất đi dự tiệc mà không có chút phòng bị nào. Nhưng cho dù là như thế, khi thấy bốn gã đao khách thị vệ kia phóng tới ánh đao như sét đánh, bọn họ vẫn là toát ra một thân mồ hôi lạnh, cho đến khi tiểu đồng hóa giải thành công thế công của đối phương, bọn họ mới rất thở phào nhẹ nhõm.
Mấy người con cháu Trương gia chạy lên trước muốn đem lão gia chủ đở xuống tới, Trương Thừa Tiên trái lại xua tay áo, đứng thẳng bất động nguyên tại chỗ.
Tiểu đồng đỡ xong bốn đao, xoay eo về phía bên trái ra một hư chiêu, đột nhiên trong nháy mắt thêm chiêu, đánh thẳng về phía chính diện của kẻ địch, kiếm quang ngang trời, giống như một đường ánh bạc phất phới, lúc giao kích không ngừng truyền ra ánh bạc, một đạo ánh đao như dải lụa, một đạo kiếm quang như mũi tên bạc xuyên qua, hai đạo tia sáng xuyên không nhảy múa, lúc thấy phía trước, khi chợt hiện ở phía sau, xem bên trái, chợt lóe bên phải, chớp ở trên cao, chợt lóe phía dưới, nhanh đến mức không kịp nhìn, ba tên đao khách còn lại vốn muốn chạy tới bên cạnh Trương Thừa Tiên, lúc này đã bị thị vệ của Âm Sở Tài cùng Lý Tịch Vũ ngăn cản, vừa thấy đồng bạn gặp nguy cấp, vội vàng quay người giết tới đây, nhưng là ba người mặc dù nhanh, nhưng so với tiểu đồng đang cùng một người thị vệ khác một tấn công một lui lại kia vẫn là kém một bậc, đao phong cương liệt chỉ có thể gào thét ở phía sau tiểu đồng, luôn là sai một ly, không thể đả thương hắn nửa phần.
Võ công của đao khách bị tiểu đồng áp chế kia kỳ thực cũng rất cao, đáng tiếc loại đao pháp Tây Vực đại khai đại điền của hắn đụng phải kiếm thuật mau lẹ như điện, căn bản không thể thi triển ra, đao khách kia liền lùi lại bảy bước, đao đao chém xuống nhanh chóng, vừa lui lại bảy bước, đột nhiên hét lớn một tiếng, bỏ qua phòng thủ, một chiêu Lực Bích Hoa Sơn, bỗng nhiên mãnh liệt đánh xuống, tiểu đồng kia vội vàng bứt ra thối lui, nhanh đến mức để lại nguyên tại chỗ một đạo hư ảnh.
Ánh đao chém qua hư ảnh, mũi nhọn đâm thẳng xuống mặt đất "Phanh" một tiếng, cát vàng tung bay, hai tay đao khách kia nắm chặc chuôi đao, trợn mắt tròn xoe, không nhúc nhích, máu tươi đã ồ ồ trào ra nơi cổ họng. Tiểu đồng kia cũng không thèm nhìn tới, thân hình vừa lui, kiếm trong tay lập tức biến ảo thành bóng kiếm trầm trọng, một tiếng kếm minh kinh tâm động phách đột nhiên vang lên, kiếm quang huyễn lệ chợt xẹt qua cổ họng một tên đao khách.
Nhưng ngay sau đó thân thể người kia bị tiểu đồng cuốn ném tới trước một cái, thẳng thắn đón nhận lấy ánh đao của một gã đao khách khác quét tới, hồng quang chợt hiện, máu tanh tóe ra, đao khách kia không ứng phó kịp, một đao đem đồng bọn của mình chém thành hai nửa.
Chỉ còn lại có hai đao khách, động tác của tiểu đồng kia ung dung nhàn nhã như đi chơi, khuôn mặt tiểu đồng mày mắt như hoa, cánh tay trần trắng như tuyết, trong tay một đạo chỉ bạc phấp phới, chỉ đông đánh tây, tung hoành tự nhiên, chợt vào lui nhanh, phiêu du như gió, động tác cử chỉ quỷ lê không nói nên lời, cặp mắt to trong suốt như nước kia còn có lúc rỗi rãi thỉnh thoảng nhắm vào Tào Tử Việt cùng Tác liếc một cái.
Lúc này người ở ngoài viện cũng đã động thủ, tuy nói Âm Sở Tài cùng Lý Tịch Vũ đã có chuẩn bị trước về nhân sự, nhưng là thị vệ các nhà cũng một mình đứng chung một chỗ, vừa thấy trong viện bắt đầu hành động, bọn họ bất ngờ đánh lén cũng chỉ có thể làm bị thương một hai người, những người còn lại cũng quấn vào nhau ở chung một chỗ, mà thị vệ những nhà khác thấy gia chủ mình bàng quang, tất cả cũng lấy ra binh khí, lui qua một bên, không biết mình có nên động thủ hay không.
Tào Tử Việt cùng Tác thấy kia võ công đáng sợ của tiểu đồng kia, không khỏi sợ hết hồn, vài chục năm nay Trương gia ngày càng xuống dốc, vì tránh họa nên môn hạ con cháu đã bỏ luyện võ từ nhỏ, Trương gia cũng chưa từng chiêu nạp các nhóm môn khách cùng gia tướng lớn, bọn họ thực sự không ngờ đến một đồng tử nho nhỏ lại có võ công như thế, hai người bỗng nhiên nổi lên thối ý, liếc nhìn nhau, Tào Tử Việt quát lên: "Lùi lại, rút binh!"
Hai người chạy đi xông về ngoài cửa, chỉ cần qua được cửa phủ, không người nào có thể ngăn cản được đường đi của bọn họ. Ai ngờ lúc này những tên gia nhân áo xanh đội mũ quả dưa kia đột nhiên tung cánh tay phải lên, ống tay áo "Xuy lạp" vang lên một tiếng, người người đều để trần cánh tay phải, trên cánh tay buộc tụ nỗ(tên giấu trong tay áo), nhắm ngay thân thể của bọn hắn, tại trong khoảng cách gần như vậy, cho dù hai người hóa thành phi điểu, cũng đừng mơ tưởng bỏ chạy.
Tụ nỗ này xuất hiên ở Trung Nguyên cũng chưa được bao lâu, Tào Tử Việt cùng Tác chưa từng thấy qua loại vật này, mắt thấy những người đó vung lên cánh tay phải, dưới cánh tay buộc một cái ống tròn nhỏ, mặc dù biết hẳn là đồ bất lợi đối với mình, nhưng không rõ đó rốt cuộc là cái thứ gì, hai người vẫn là tăng nhanh tốc độ, chạy như điên hướng ra phía ngoài, lúc này bỗng nghe phía sau có tiếng quát: "Không được bắn tên, phải bắt sống! Giải quyết thị vệ của bọn hắn đi!"
Ngay sau đó chợt nghe hai tiếng kêu thảm thiết vang lên, hai người nghe thấy rõ ràng, chính là thị vệ của mình, không khỏi trong lòng lạnh lẽo, tăng lực dưới chân, tốc độ chạy cự ly ngắn còn nhanh hơn tuấn mã. Tiểu đồng kia giải quyết hai đao khách xong, một thân Yến Tử Tam Sao Thủy đuổi theo, Tào Tử Việt cùng Tác tựa như chạy thi ra bên ngoài, mắt thấy cách cửa lớn chỉ có xa ba bước, đã nghe tiếng áo phất xé gió vang lên, sau lưng hai người đồng thời bị trúng một cước, cả người đều hướng phái trước ngã đi ra ngoài, đầu chính là gục ở ngưỡng cửa.
Áo trước ngực cùng da thịt của Tào Tử Việt đều bị mài xước, đau rát, đầu đập vào cánh cửa dày, đụng đến váng đầu hoa mắt, hai tay hắn chống xuống vừa muốn nhảy lên thì một mũi giày nhọn liền đạp đến trên lưng, tuy chân không lớn, nhưng nặng giống như tòa núi cao, đem cả người hắn mạnh mẽ ấn xuống ở trên mặt đất.
Tiểu đồng dẫm chân đạp Tào Tử Việt, kiếm chỉ Tác, tay trái vuốt mũi một cái, thanh âm trong vắt nói: "Ngươi mà là nhị thái tử sao? Người như ngươi, mặc long bào vào cũng không giống thái tử, thái giám thì còn không sai biệt lắm, đấu với đại thúc ta sao? Hừ!"
Nửa thành, lấy Quy Nghĩa Đại Nhai làm giới tuyến, phía đông là đội ngũ con cháu, gia tướng, hộ viện của bát đại thế gia Trương, Tác, Âm, Lý, Tỷ, Diêm, An, Lệnh Hồ thế gia, phía tây là nhân mã Quy Nghĩa Quân, song phương giương cung bạt kiếm.
Bởi vì Tiết Độ Lưu Hậu Sa Châu Tào Tử Ngôn thay phụ thân trấn thủ Sa Châu, không có tự mình dự tiệc, Trương gia không thể đem Quy Nghĩa Quân khống chế ở trong tay, bọn họ khẩn cấp điều động tất cả các chiến sĩ có thể điều động được của các đại gia tộc, tạm thời hợp thành một đạo dân quân, dựa vào địa thế, chiếm cứ nửa thành, đồng thời phái người ra khỏi thành liên lạc cùng Ngải Nghĩa Hải, điều khinh kị binh của hắn chạy tới Sa Châu.
Tác thị gia chủ bị Trương Thừa Tiên khống chế, lấy hắn làm con tin, bức Tác gia cũng tham dự vào phản loạn, bây giờ hình thành cục diện giằng co giữa tám đại gia tộc Sa Châu cùng gia tộc Tào thị nắm giữ quân đội. Tào Tử Ngôn hạ thông điệp cuối cùng : trong vòng một giờ, phải thả nhị đệ Tự Việt của hắn, bỏ khí giới đầu hàng, bằng không sẽ lập tức động tiến công.
Trương phủ, Trương Thừa Tiên chắp tay phía sau lưng, chậm rãi bước đi thong thả, nghe cháu trai Trương Khiên đem tình hình giằng co đầu đường kể lại một lần, bỗng nhiên đứng im nói: "Tuy nói Trương gia ta từ lâu không hỏi việc Sa Châu việc, nhưng mà Quy Nghĩa Quân dù sao cũng là một tay tổ tiên Trương gia ta thành lập, ta cũng không tin, binh lính Quy Nghĩa Quân, sẽ hướng lão phu bắn tên. Ta đi, đến chiêu hàng Tử Ngôn!"
Con cháu Trương gia vừa nghe cực kỳ kinh hãi, con trai thứ tư Trương Vũ của hắn biến sắc nói: "Cha, trăm triệu lần không thể, bây giờ chúng ta đã đem tám đại gia tộc lôi vào, chiếm nửa Sa Châu, chúng ta chỉ cần bảo vệ được nửa tòa Sa thành này, đã là đại công cáo thành rồi, chờ binh mã của Dương Thái Úy vừa đến, thế cục tất nhiên xoay chuyển, cha đã lớn tuổi như vậy, sao có thể đem thân vào chỗ hiểm?"
" Thằng con ngu ngốc!!"
Trương Thừa Tiên quát lạnh một tiếng, nhìn quanh đám con cháu cùng gia nhân, trầm trọng nói: "Tào Tử Ngôn không có tự thân đến dự theo lời mời của lão phu, đây là một cái biến số lớn. Năm đó, chỉ một Tác Huân, một con rể của Trương gia ta, là đã có thể phát động binh biến, cướp đoạt quyền to, huống hôm nay Tào gia đã khống chế Quy Nghĩa Quân hơn mười năm? Trương gia ta, bây giờ dựa vào chỉ là phúc ấm của tổ tông, chỉ là uy danh của Nghĩa Triều Công, chúng ta phải cường thế một chút, khí phách một chút, mới có thể tăng mạnh ảnh hưởng của chúng ta đối với tướng sĩ Quy Nghĩa Quân, hoàn toàn khống chế cục diện của Sa Châu.
Nếu như chúng ta ngồi đợi Dương Thái Úy đem tới viện binh mà không hành động tiến thêm một bước, chấn động chúng ta tạo thành đối với Quy Nghĩa Quân sẽ dần dần biến mất, không đợi viện quân của Dương Thái Úy chạy tới, Tào Tử Ngôn sẽ phát động tiến công, tuy nói tám đại giạ tộc chúng ta đã liên kết chung tay, nhưng - quân đội ở trong tay của Tào Tử Ngôn, con cháu, gia tướng, người làm thuê của chúng ta, thật sự muốn đánh thì làm sao có thể là đối thủ của quân đội được huấn luyện quy củ chứ? Một khi vô ý, sẽ kiếm củi ba năm thiêu một giờ đó."
Trương Thừa Tiên đưa tay đặt ở trên vai con trai, vỗ vỗ nhẹ nhẹ, mắt lão đã ươn ướt: "Con à, hôm nay, con cũng là người sắp bảy mươi, mặt đã xanh xao, đầy nếp nhăn rồi, đại ca, nhị ca, tam ca của con, đều đã đi trước phụ tử ta rồi. Vi phụ tại trong cuộc đời này, chỉ có hai cái tâm nguyện, một cái, là muốn đi Trường An, tế bái lăng mộ của Nghĩa Triều Công, kính dâng một chén rượu, làm tròn đạo hiếu của bậc con cháu; một cái, chính là muốn cho Trương gia ta một lần nữa thịnh vượng lên, các gia tộc Âm gia, Lý gia bọn họ vốn là là đại tộc ở Sa Châu, an lòng với hiện trạng, nhưng mà Trương gia lại khác, Trương gia chúng ta, một tay sáng lập Quy Nghĩa Quân, tổ tiên của Trương gia chúng ta, là đã từng xưng hoàng đế, dù thế nào, cũng không thể lưu lạc thành một gia đình thương nhân, sống cho qua ngày tại Sa Châu này, con cháu của Trương gia ta, cho dù không thể xưng hùng một đời, cũng phải làm anh hùng một lần, thế mới không làm mất thể diện của tổ tiên Trương gia ta.
Trương Thừa Tiên thổn thức một hồi, lại nói: "Công được nửa thành, có khả năng kiếm củi ba năm thiêu một giờ, vi phụ muốn đoạt lấy toàn bộ thành Sa Châu, đem một tòa thành trì hoàn hoàn chỉnh chỉnh giao đén tận tay cho Dương Thái Úy, điều này mới có thể trở thành bước đệm tiến thân cho Trương gia, con hiểu chưa?" Trương Vũ chấn động nói: "Cha, để con đi thay cha đi!"
Trương Thừa Tiên lắc đầu, lông mi bạc rung lên nói: "Trương gia dần dần xuống dốc, thân là con cháu của Trương gia, vì nghĩa khó tránh cái chết. Nếu như có thể kế tục oanh liệt của tổ tiên, vung tay lên, khởi dậy vì chính nghĩa, thì khi về nơi chín suối, ta mới có mặt mũi đi gặp liệt tổ liệt tông, con à, không nên tranh cùng vi phụ!"
Mã Tích nghe thấy chủ ý của Trương Thừa Tiên, lập tức lắc đầu nói: "Không được, làm như vậy quá mạo hiểm, cho dù binh sĩ Quy Nghĩa Quân bình thường không dám gây bất lợi đối với lão tiên sinh, nhưng mà Tào gia thống trị Sa Châu nhiều nă, khó tránh khỏi có một ít binh sĩ tâm phúc, chỉ cần có một người bắn tên trộm, lão tiên sinh sẽ có nguy hiểm tới tính mệnh. Trăm triệu lần không thể."
Trương Thừa Tiên lại cười nói: "Ta tin tưởng, Dương Thái Úy đóng tại Qua Châu, mà không công thành, cũng là không muốn cùng huynh đệ Quy Nghĩa Quân tương tàn, nếu như có thể không chiến mà hàng được Quy Nghĩa Quân, đây là một cái công đức to bằng trời, nếu là một mình lão phu chết, mà có thể tránh cho trăm nghìn tướng sĩ phải chết, thì cũng đáng giá. Chủ ý của lão phu đã định, ngươi không cần ngăn cản."
Mã Tích nhiều lần khuyên can, Trương Thừa Tiên cố ý muốn đi, rơi vào đường cùng, Mã Tích không thể làm gì khác hơn là nói: "Nói như vậy, xin lão tiên sinh mặc nhuyễn giáp( áo giáp mềm) bên trong, để tại hạ cùng ngài đi ra, tiên sinh không thể đi quá tâm lòng đường, nếu như có cái bất trắc gì, Mã Tích sẽ toàn lực ứng phó, dù sao bảo đảm an toàn cho tiên sinh mới tốt, bằng không nhất định đại thúc sẽ trách cứ ta."
Trương Thừa Tiên ha hả cười nói: "Thấy ngươi, lão phu liền biết được Dương Thái Úy là một nhân nghĩa người, được, ta nghe lời ngươi, mặc một thân nhuyễn giáp, có gắng bảo trụ cái mạng già này của ta mà thôi, ha hả.."
Hai bên Quy Nghĩa Nhai chật kín là binh sĩ cùng bách tính giơ thương ngắm cung sẵn sàng đón quân địch, cả con đường cái rộng lớn cũng yên tĩnh vắng vẻ đi rất nhiều, ngay cả tiếng một con chó sủa cũng không có.
Bỗng nhiên, từ thành Đông bị tám đại gia tộc chiếm lộ ra một thông đạo, một lão nhân mắc áo vài trắng chậm rãi đi ra, phía sau chỉ có một tiểu đồng thanh tú đi theo, tướng sĩ Quy Nghĩa Quân ở trận thế sẵn sàng đón quân địch đối diện đều không khỏi kinh ngạc, đều ngẩng đầu dóng tai lên, dần dần, có người nhận ra than phận của lão nhân kia, thanh âm khe khẽ nho nhỏ dần hội tụ thành một tiếng gầm, đội hình của Quy Nghĩa Quân nhất thời rối loạn lên.
Tào Tử Ngôn cầm đao nhìn lại, chỉ thấy lão giả kia mặc y phục dạng tà áo cong, đầu đội mũ cao, chân đạp hài gỗ cao, y hệt cổ nhân Hán Đường, đi tới chính giữa đường đứng lại, nhìn hai bên đường cái đao kiếm sâm nghiêm, trận tuyến rõ ràng, bỗng nhiên song chưởng rung lên, cao giọng nói: "Lão phu là hậu nhân của Tiết Độ Sứ Quy Nghĩa Quân, Quan Sát Sứ mười một châu Qua Sa Túc Cam Lãnh, Kiểm Giáo Lễ bộ Thượng thư, Kim Ngô Đại Tướng Quân Trương Nghĩa Triều, Trương Thừa Tiên!"
Tiếng gầm ở phía đối diện càng mãnh liệt, Trương Thừa Tiên ngừng lại một chút, lại nói: "Các tướng sĩ của Quy Nghĩa Quân, các ngươi cũng biết cái gì gọi là Quy Nghĩa hay không? Đại Đường Tuyên Tông, đã từng cảm khái trước hành động vĩ đại của Quy Nghĩa Quân ta, từng thừa nhận, chính là đã viết: "Kháng lại lòng son của trung thần, xương gãy đầu rơi. Chuyện cũ Đậu Dung Hà Tây, thấy khi hưng thịnh, Lý Lăng dạy bắn cho chi kỳ binh, chẳng qua là nghĩa khí. Đó là Quy Nghĩa!"
Quy Nghĩa Quân là do một tay gia tổ Nghĩa Triều Công sáng lập, Nghĩa Triều Công vốn ôm chí lớn, thuở nhỏ đã vui mừng ham thích hiểu rõ Tạ Tử Biểu Văn: Vì xã tắc phục an, nghịch Hồ bại phúc, thần nguyện tận tâm hết sức. Ngửa mặt lên trời uống rượu chậm, hướng trời dâng tấu, thần tử liều chết hướng thánh thượng can gián. Nếu một mai có chết, cũng tất kết cỏ quân tiền( dù chết cũng tạ ơn vua), kiếp sau quay về trên chiến trận, dẫn theo trống cờ Vương Sư, bình giặc cướp. Sống chết cũng báo đền nợ nước, không hối tiếc. . .
Nghĩa Triều Công một lòng khôi phục đất Hán ta, giương cao chí khí người Hán ta, dáng tiếc con cháu như ta bất tài, đến nỗi xuống dốc như vậy, hôm nay Vương Sư ở xa tới, con cháu chúng ta, không cần kiếp sau mới quay về xung phong trên chiến trận, dẫn theo trống cờ Vương Sư, mà chỉ cần mở thành chào đón, để về cố quốc, để đón cố nhân, chẳng lẽ còn không làm được sao? Chúng ta lại tại dưới sự rình mồi của bọn sói mà tự giết lẫn nhau sao?" Tào Tử Ngôn hô hấp gấp gáp lên, hét lớn: "Bắn chết hắn! Bắn chết hắn cho ta!"
Trên đường cái, gió thổi rền vang, thổi tung lên bộ râu dài dưới cằm Trương Thừa Tiên đón gió bay lượn, giống như thật sự có anh linh tổ tiên quanh quẩn phía trên, chúng tướng sĩ Quy Nghĩa Quân nhìn thấy hào hùng, không có người nào dám động thủ, Tào Tử Ngôn tức giận tới đỉnh điểm, vồ một cái liền đoạt lấy một cây cung, giương cung cong lưng, nhắm ngay Trương Thừa Tiên.
Trương Thừa Tiên giương cao giọng nói: "Dương Thái dùng mười vạn giáp sĩ, cờ giương phía Tây, đi qua khắp nơi, ai cũng thần phục, hôm nay, đường đường Quy Nghĩa Quân, lại vì phú quý của một nhà tào thị mà muốn châu chấu đá xe, chống cự Thiên Quân sao?" "Sưu!" Một mũi tên bắn lén ngắm thẳng mặt phóng tới, thân hình tiểu đồng phía sau lưng Trương Thừa Tiên chợt lóe, liền đã tới phía trước của hắn, tay áo cuốn một cái, mũi tên bắn lén kia liền vô tung vô ảnh. Tào Tử Ngôn thấy dị trạng như vậy, không khỏi ngẩn người ra nhìn.
Trương Thừa Tiên quát to: "Các tướng sĩ, ai nguyện làm Quy Nghĩa Quân, thì tới đây! Nguyện làm Tào gia Quân, liền đem tên của ngươi, hướng lão phu, hướng trăm họ Sa Châu đã nuôi dạy các ngươi mà bắn tới đi!"
Rối loạn ở phía đối diện đột nhiên ngừng lại, yên lặng một lát, bỗng nhiên có người xông qua hướng phía đường bên này đi nhanh tới, chỉ cần có một người hành động, liền có người lục tục đi theo, rất nhanh, Quy Nghĩa Quân tựa như thủy triều giống nhau, hướng phía Đông thành trút xuống, trong tiếng khôi giáp leng keng, truyền ra tiếng hét phí công, tuyệt vọng, khàn cả tiếng của Tào Tử Ngôn: "Đứng lại! Đều đứng lại cho ta!"
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 24 : Giang sơn mỹ nhân
Nguồn: Sưu tầm
An Lợi Quân, Long Đức Quân hôm nay tại chỗ này, Trình Thế Hùng phụng mệnh của Chiết cô nương, đã vứt bỏ thành Quảng Nguyên, toàn quân giết trở về Phủ Châu, hôm nay đã đột phá được trại Tĩnh Khương ngăn cản của An Lợi Quân cùng Long Đức Quân, đã vượt qua được công sự chằng chịt, có điều là bọn họ muốn đi xa hơn trở lại Phủ Châu, tất nhiên phải đánh lên chiếm Đại Bảo Tân của Trữ Hóa Quân.
Trữ Hóa Quân là biên quân Đại Tống, chiến lực rất mạnh, mà Đại Bảo Tân lại là một quan ải quan trọng của Phủ Châu, được xây dựng gia cố nhiều năm qua, hiểm đến khó tấn công, nếu như Trình Thế Hùng muốn mạnh mẽ đột phá, vậy tất phải bỏ ra hi sinh thật lớn. Các ngươi nhìn ở đây, Tấn Trữ Quân tiến vào chiếm giữ Trấn Xuyên Bảo, chặt đứt liên hệ giữa chúng ta cùng Phủ Châu, bọn họ chỉ thủ chứ không tấn công, cũng không tiếp thụ khiêu chiến của chúng ta, chúng ta muốn mở lối đi giữa hai châu Lân Phủ một lần nữa thì cực kỳ khó khăn.
Bình Định Quân đã chiếm cứ Sa Cốc Tân, Uy Thắng Quân chiếm Hoành Cốc Trại, đối với Phủ Châu hình thành thế vây kín, mà Phan Mỹ tự mình suất lĩnh cấm quân tinh nhuệ hùng hổ đi đến Hà Hợp, kẻ tới bất thiện, chúng ta cho dù muốn đi viện trợ cho Phủ Châu, có cường địch này ở bên, cũng không thể không chú ý, còn có nhân mã Tuy Châu của Lý Phi Thọ, đã xuyên thẳng Điểu Long Trại, một đường hướng Ngân Châu uy hiếp, Lý Nhất Đức , Kha Trấn Ác của Ngân Châu đã hướng bản soái đưa tới thư cầu viện khẩn cấp. Tình hình ở đây. . ."
Dương Kế Nghiệp hít vào một hơi thật dài, nói: "Trong thành Phủ Cốc, Tiêu Thần đã giương lên ngọn cờ Dại Tống, giết hết, Xích Trung thay thế vị trí kia, trở thành thủ lĩnh Hà Lam Quân, theo chỗ hiểm mà thủ. Bách Hoa Ổ có địa thế hiểm yếu, một người đã đủ giữ quan ải, vạn người không thể khai thông, Chiết cô nương cùng Nhâm tướng quân mỗi ngày không ngừng công thành, cho tới nay vẫn không thể đánh hạ tòa thành cứng này,
dưới tình hình như vậy, chúng ta nên đi nơi nào?"
Chúng tướng dưới trướng Dương Kế Nghiệp đều xúm lại tại bên cạnh hắn, trong sảnh là một cái sa bàn cực lớn, Dương Hạo hao hết tâm lực, đem địa lý Tây Bắc vẽ lại cực kỳ tinh tế, chế tác sa bàn quân sự cực lớn, các tướng lĩnh bao quanh sa bàn, vừa xem liền hiểu ngay thế địch ta.
Bọn họ đều lo lắng nói: "Triều đình thật đúng là tính toán giỏi, bọn họ trước tiên lợi dụng Xích Trung chiếm Bách Hoa Ổ, cướp cả nhà Chiết gia, lại một đao nữa kết liễu hắn, lần này ngay cả nhân chứng cũng bị mất, chúng ta khắp người là miệng cũng không nói rõ được. Tiêu Thần kia càng làm tuyệt hơn, hắn giết Xích Trung, công khai xuất ra cờ hiệu triều đình, cũng may Chiết cô nương đã nhìn rõ dụng tâm hiểm ác của triều đình, dứt khoát đem chuyện xấu xa của triều đình công khai thiên hạ, trực tiếp hướng triều đình khiêu chiến.
Bằng không, Tiêu Thần chiếm cứ Bách Hoa Ổ tất nhiên là lý lẽ chính đáng, được Chiết Suất mời, đại quân triều đình chạy tới bình định Trú Phủ Cốc lại càng là chính đáng, tay chân của chúng ta cũng bị chuyện không giải thích được danh phận đại nghĩa trói lại, đánh thì không thể đánh, lui lại không thể lui, giờ phút này chẳng những cả Phủ Cốc rơi vào trong tay triều đình, đại quân lại càng làm bánh bao cho người ta bóp nặn."
Dương Kế Nghiệp khẽ thở dài: "Bất quá, cái này hẳn là đã nằm trong kế hoạch của Quan Gia, hắn là đoán chắc, chúng ta không phản, Lân Phủ tất mất; nếu chúng ta phản, thì hắn có danh phận đại nghĩa, có cớ có xuất binh. Hôm nay, Chiết cô nương chỉ trích triều đình phá bỏ hứa hẹn của tiên đế, mưu tính Lân Phủ, triều đình thì truyền bá Chiết cô nương cùng với đại soái chúng ta sớm có tư tình, nàng chính là kẻ đầu độc Xích Trung mưu phản, là thủ phạ chủ mưu trợ giúp bọn ta thâu tóm Phủ Châu, có tấm màn này che giấu, triều đình nện bước Tây tiến chắc là vì biết loại trận chiến nước miếng này là đánh không ra kết quả, chúng ta bây giờ phải suy nghĩ, làm như thế nào để hóa giải thế công của quân địch. Hiện tại chúng ta có là vài phương diện bất lợi chủ yếu như sau :
Thứ nhất, đại soái Tây chinh, mang đi phần lớn tinh nhuệ, lực lượng phòng ngự Đông tuyến trống không, mà triều đình thì binh cường mã tráng, tùy thời có thể tiếp tục tăng binh.
Thứ hai, đại soái thống mười vạn đại quân Tây chinh, mang đi lượng lớn lương thảo, dự trữ trong hai năm qua của các tòa thành trì đã bị mang đi hơn phân nửa, chỗ còn lại không đủ để chống đở thủ thành lâu dài. Mà về mặt này, khó khăn của triều đình là ít hơn nhiều so với chúng ta.
Thứ ba, Phủ Châu cùng Lân Châu dựa vào địa thế hiểm yếu, tự thành bố cục một phương. Sau đó giữa hai châu, bất kể là núi non sông ngòi, hay là công sự đến thành dài, chính là đều tương thông, mà nay triều đình đột nhiên xuất binh, thừa dịp cơ hội quân Chiết gia đang là quần long không đầu, đã chiếm cứ Đại Bảo Tân, Trấn Xuyên Bảo, Sa Cốc Tân, Hoành Cốc Trại, tạo thành thế vây kín đối với Phủ Châu, đồng thời chặc đứt liên lạc giữa hai châu Lân Phủ.
Thứ tư, Tiêu Thần mang theo hơn vạn quân phản loạn, đã vững vàng khống chế được Bách Hoa Ổ, Bách Hoa Ổ bị chiếm, lòng quân Chiết gia bị ảnh hưởng lớn, hơn nữa Bách Hoa Ổ chẳng những dễ thủ khó công, địa thế hiểm yếu, mà còn là đầu mối thông đạo của đường thủy, tùy thời có thể hướng ra bất kỳ một cái phương hướng nào nổi lên công kích, tiếp ứng cho binh mã triều đình đến. Bọn họ hôm nay án binh bất động, hiển nhiên là đang đợi Phan Mỹ, khi Phan Mỹ vừa đến, chính là lập tức ăn luôn Phủ Châu, khi đó Bạc Châu chính là cánh cửa mở rộng, không hiểm nhưng có thể thủ."
Đến chỗ này, Dương Kế Nghiệp thần sắc ngưng trọng: "Chư vị, điều ta lo lắng, không chỉ là Phủ Châu cùng Lân Châu, quân coi giữ Đông tuyến chúng ta không có bao nhiều, mà lại vừa phân đóng ở các châu Bạc, lô, Phủ, Lân, Hạ, Thạch, nếu như Phủ Châu cùng Lân Châu có gì sơ sót, chúng ta mất đi không chỉ là hai tòa thành trì, mà đồng thời mất đi còn có rất nhiều tinh nhuệ Lân Châu cùng Phủ Châu, khi đó, triều đình tiếp tục xua quân Tây tiến, hợp với sáu đạo biên quân sáu vạn tám ngàn người, hơn nữa quân Tuy Châu có hơn ba vạn người, Cấm Quân triều đình hơn năm vạn người, đó chính là mười lăm vạn đại quân, chúng ta cũng không đủ binh lực trú đóng ở các nơi cửa ải hiểm yếu, triều đình chính là có thể dựa vào ưu thế binh lực tiêu diệt từng bộ phận, đem thành trì các nơi của chúng ta ăn từng cái một. Tình hình như, ai có diệu kế nào hay không?"
Chúng tướng nghe vậy tất cả đều yên lặng, hồi lâu, Lô Vĩnh Nghĩa nói: "Tướng quân ngày xưa có thể một mình chống đỡ Nguy Thành Hán Quốc, ngăn cản hoàng đế Tống Quốc ba lần ngự giá thân chinh, chẳng lẽ lần này. . . tình hình chúng ta so với lúc đó còn hung hiểm hơn hay sao?"
Dương Kế Nghiệp lắc đầu nói: "Không thể đánh đồng hai cái, hôm nay lương thực dự trữ ở các thành trì là có hạn, đây là một cái khó. Thứ hai, lúc đó là hai nước tranh nhau, không phải là ngươi thì là ta làm, bởi vì đó gọi là mọi người đồng tâm hiệp lực, sức mạnh như thành đồng, mà nay, Chiết cô nương phản rồi, nhưng chúng ta còn chưa biết được ý tứ của đại soái, cho nên tình cảnh khó tránh khỏi lúng túng, sĩ khí lòng quân, chưa chắc hownd được Vấn Quân đánh một trận Bối Thành ngày đó.
Các châu phủ Tây Bắc ta, cũng không phải cũng là thành trì hiểm trở khó trèo, nếu như triều đình tấn công vào chỗ yếu của ta, vây thành ta, lấy binh lực cường đại của bọn họ, đủ để khống chế tình thế các châu Lân Phủ trước khi đại soái suất binh trở về, đây là thứ ba." Dương Duyên Phổ không nhịn được nói: "Cha, chẳng lẽ chúng ta cả một chút cơ hội cũng không có sao?
"Cơ hội. . . Cũng không phải là không có. . ."
Ánh mắt Dương Kế Nghiệp dần dần chuyển qua Hoành Sơn của sa bàn, ánh mắt ở trên địa thế Hoành Sơn dừng lại một lúc lâu, rồi lại khẽ lắc đầu.
Hắn là một thành viên tướng lĩnh, chỉ biết là quân lệnh như núi, hôm nay đại soái đem việc phòng ngự Đông tuyến giao cho hắn, ở trước khi được đại soái cho phép, hắn sao có thể tự làm chủ, lấy lui làm tiến, tập trung binh lực, triệt phòng Hoành Sơn, nếu là nói ra ý tứ này, sợ rằng trái lại làm lòng quân dao động.
Dương Kế Nghiệp ý chí kiên định, ngón tay chỉ sa bàn, trầm giọng nói: "Chúng ta xin điều quân coi giữ Hạ Châu đi viện binh cho Ngân Châu, Lô Châu, tăng cường lực lượng phòng tuyến Hoành Sơn. Về phần chúng ta, nhất định phải vững vàng bảo vệ cho Lân Châu, đây là cánh cửa triều đình Tây tiến, không thể để mất, chúng ta cùng cấm quân tinh nhuệ của Phan Mỹ quyết một trận tử chiến ở chỗ này, tranh thủ thời gian cho đại soái trở về viện trợ.
Về phần Phủ Châu bên kia, Chiết cô nương đã chỉnh đốn Chiết gia quân, nạp dưới trướng nàng. Ta có thể viết một lá thư, đề nghị Chiết cô nương phá hủy cầu Hoàng Hà, chặc đứt liên lạc hai thành Nam Bắc, từ bắc Hoàng Hà, giắng co cùng địch, mà binh mã của Trình Thế Hùng tướng quân cũng không thể bởi vậy tiếp tục lên phía Bắc thượng, ta có thể liên lạc Chiết cô nương hạ lệnh cho hắn, lệnh cho Trình tướng quân hướng chúng ta đi vào, đi đường vòng từ Lân Châu ta trở về Phủ Châu, tăng cường lực lượng phòng ngự bên kia của Chiết cô nương. . ."
Hắn mới vừa nói đến đó, một gã tiểu tốt vội vã chạy vào, ôm quyền nói: "Tướng quân, Chủng Phóng đại nhân đến." Dương Kế Nghiệp ngẩn ra, giật mình nói: "Ngươi nói cái? Ai tới rồi?" Tiểu tốt kia nói: "Chủng Phóng Chủng đại nhân từ Hạ Châu chạy đến." Dương Kế Nghiệp thất kinh, trăm triệu lần không nghĩ tới Chủng Phóng cạnh đột nhiên bỏ qua Hạ Châu tự mình chạy đến Lân Châu, hắn vội vàng hỏi: "Chủng đại nhân đang ở nơi nào? Bổn quan tự thân đi nghênh đón."
Lời còn chưa dứt, Chủng Phóng đã bước vào sảnh, cất cao giọng nói: "Quân tình khẩn cấp, Dương tướng quân còn khách sáo làm gì, cũng là Chủng mỗ không rõ từ trước đến nay, tướng quân chớ trách."
Dương Kế Nghiệp vội vàng bước lên phía trước đón chào nói: "Chủng đại nhân, ngài làm sao lại tới? Phải chăng là đại soái đã truyền tin tức trở về?"
Chủng Phóng nói: "Thái Úy Tây chinh ngọc môn, một đường cát vàng dài rộng, quan ải hiểm trở, chim bay khó lọt, tuấn mã khó đi, nào có thể đưa tin tức trở lại nhanh như vậy. Thực ra là bởi vì trước khi Thái Úy Tây chinh, đem việc quân chính quan trọng của Đông tuyến phó thác cho ta, mà nay gặp phải cường địch, nguy cơ trùng trùng, mắt thấy tình hình như vậy, Chủng Phóng thực khó có thể yên tâm ngồi phía sau, có lòng cùng tướng quân thương nghị, lại sợ rằng thư tín đường dài làm mất thời cơ chiến đấu, nên lúc này mới tự mình chạy tới."
Chủng Phóng vừa thấy chúng tướng đang đứng ở trước sa bàn, lại nói: "Hướng đi của binh mã triều đình, Chủng mỗ đã nhận được thư từ chim bồ câu truyền báo, không biết tướng quân đối với cục diện lần này đã có tính toán đối phó như thế nào?"
Dương Kế Nghiệp cũng không khách sáo, đưa dẫn tới trước sa bàn, đem kế hoạch vừa rồi của mình cẩn thận nói lại một lần, Chủng Phóng vẻ mặt phong trần, áo choàng cũng không bỏ ra, liền đứng ở trước sa bàn nghe Dương Kế Nghiệp giải thích, sau khi nghe xong hắn nhíu mày một cái, trầm giọng nói: "Dương tướng quân, Chủng mỗ một đường chạy tới, đối với tình thế Lân Phủ đã từng cân nhắc nhiều lần, Chủng mỗ cảm thấy, phương pháp đối phó này của Dương Quân quá mạo hiểm rồi, nếu như đáng được tốt, bất quá là lưỡng bại câu thương thôi, nếu như đánh không tốt thì phiến lãnh thổ mà Thái Úy giao phó vào tay ta và ngài này cũng phải tiêu tan."
Chúng tướng ở bên cạnh vừa nghe nhất thời mặt lộ vẻ không vui, uy danh của Dương Vô Địch, tướng lĩnh Tây Bắc không ai không biết, Chủng Phóng này luyện binh quả thật có thủ đoạn, bất quá người luyện binh giỏi không nhất định am hiểu đánh giặc, hắn một văn nhân chưa bao giờ dẫn binh lại dám chỉ trích chủ tướng nhà mình là không đúng, chẳng lẽ hắn so sánh với Dương Vô Địch còn cao minh hơn sao?
Dương Kế Nghiệp cũng không cho là ngang ngược, hỏi ngược lại: "Tại sao Chủng đại nhân lại nói lời này?"
Chủng Phóng cũng không khách khí, vươn bàn tay ra hướng địa hình Hoành Sơn trên sa bàn dùng sức kéo một đường, lớn tiếng nói: "Chũng mỗ đã cân nhắc nhiều lần trên đường, cảm thấy nếu như chúng ta lấy nhược binh Nguy Thành chiến cùng kẻ địch mạnh, thực là cái được không bù đắp được cái mất. Dưới tình huống chúng ta đã không thể bảo vệ được Phủ Châu còn muốn tham, muốn giữ được tất cả lãnh thổ của chúng ta, sợ rằng ngược lại cả một chỗ cũng giữ không được, hơn nữa Thái Úy vội vàng chỉ huy trở về cứu viện, Cam Châu Hồi Hột cùng Quy Nghĩa Quân Qua Sa cũng sẽ không buông tha cơ hội này đả kích Thái Úy, nói như vậy Dông tuyến chúng ta hao binh tổn tướng, lãnh thổ rơi vào tay giặc, mà Thái Úy bên đó, cũng phải tổn thương nguyên khí nặng nề.
Cuối cùng rất có thể tạo thành một loại cục diện như này, chúng ta bị đánh thành nguyên hình, hành lang Hà Tây một lần nữa lại bị người Hồi Hột, Thổ Phiên chiếm cứ, tái diễn cục diện Thổ Phiên, Hồi Hột kiềm chế áp bách Hạ Châu. Mặt đông, còn lại là binh lực hai phe triều đình cùng chúng ta cài răng lược, trực tiếp giao phong, qua một thời gian, Thái Úy nhất định sẽ bị làm cho suy sụp, không có hy vọng tiếp tục quật khởi, kết cục tốt nhất, cũng chỉ là khôi phục cụ diện lúc Lý Quang Duệ thống trị Hạ Châu."
Dương Kế Nghiệp mặc dù tự phụ về bản lĩnh phòng ngự, tự tin tại trước mặt đại quân triều đình, chưa chắc đã có là như thế, bất quá thắng bại khó nói, liên lụy rất nhiều, cũng không phải chỉ dựa vào sách lược thích đáng của viên chủ tướng chỉ huy thành liền nhất định có thể chiếm thượng phong, kết cục theo lời Chủng Phóng, cũng không phải là cục diện không thể xuất hiện, tưởng tượng tới tình cảnh quẫn bách như vậy, trán Dương Kế Nghiệp không khỏi toát ra mồ hôi lạnh, buột miệng nói ra hỏi: "Nếu theo cái nhìn của Chủng đại nhân thì phải làm như thế nào?"
Chủng Phóng nói: "Chủng mỗ cho là, thay vì như thế, chúng ta không bằng cầu sự ổn thỏa, chủ động rút quân, bỏ qua Lân Phủ, tập trung binh lực khắp nơi, dựa vào địa thế hiểm yếu của Hoành Sơn, xây dựng phòng tuyến thứ hai đem quân Tống vững vàng ngăn cản ở Hoành Sơn. Như thế, chúng ta mặc dù mất đi Lân Phủ, nhưng giữu được năm châu Định Nan, giữa được thảo nguyên Hà Tây, nguyên khí Hạ Châu ta sẽ không bị thương tổn, như vậy, chúng ta tùy thời có thể lần nữa xua quân Đông tiến, đồng thời, Thái Úy bên kia cũng không cần vội vàng điều quân trở về, để đến nỗi bị Cam Châu cùng Quy Nghĩa Quân thừa cơ hội, chi bằng thong dong rút quân, thậm chí, đem Cam Châu cùng Qua Sa nắm bắt vào tay trước, lại hợp với xu thế toàn thắng điều quân trở về Hạ Châu, nói như vậy, thực lực của chúng ta chẳng những sẽ không bị hao tổn, ngược lại sẽ có khuếch trương bốn phía, nói như vậy. . . Chúng ta cần gì phải so đo được mất ở chỗ này đây?"
Dương Kế Nghiệp nghe tim đập thình thịch, thật ra thì lời Chủng Phóng nói, đúng là điêu hắn nghĩ trong lòng, lại không nghĩ rằng, Chủng Phóng lại cùng hắn không mưu mà hợp, chẳng qua là hôm nay Chủng Phóng trước nói ra, hắn cũng không tiện nói mình đã từng có suy tính như vậy. Trầm tư chốc lát, Dương Kế Nghiệp không khỏi do dự nói: "Nhưng là. . . , trước khi đại soái đi, đã đem việc phòng ngự Đông tuyến giao vào trong tay của chúng ta, Dương mỗ là một kẻ vũ phu, chỉ biết quân lệnh như sơn, trước khi được ra lệnh, cho dù là đánh tới người cuối cùng, cũng không thể cải lời quân lệnh. Hôm nay chúng ta không đánh một trận, thắng bại không thấy, liền đã chủ động rút quân, bỏ qua Lân Phủ đi xây dựng phòng tuyến thứ hai ở Hoành Sơn, cách làm này thỏa đáng sao?"
Chủng Phóng trợn mắt nói: "Chẳng lẽ chờ đại quân Phan Mỹ đuổi theo ở phía sau cái mông chúng ta, mới vội vàng hấp tấp dẫn bọn hắn trốn hướng Hoành Sơn sao? Tướng ở bên ngoài, có thể không tuân lệnh vua, nếu như Dương tướng quân băn khoăn chẳng qua là không được Thái Úy cho phép, chuyện như vậy cũng không cần nghĩ. Chủng mỗ cho là, chúng ta bây giờ phải là suy nghĩ, làm như thế nào để tránh khỏi hy sinh lớn nhất, bảo tồn thực lực được nhiều nhất, ngăn trở đường Tây tiến của binh mã triều đình, bảo đảm thành quả Thái Úy Tây chinh sẽ không trôi theo dòng nước chảy. Nếu là tướng quân lo lắng Thái Úy quở trách, vậy tất cả hậu quả, Chủng mỗ nguyện một mình gánh chịu, chỉ cầu tướng quân quyết đoán rút quân, đoạt được tiên cơ, chế tạo cục diện có lợi cho Hạ Châu ta."
Dương Kế Nghiệp phật ý đột nhiên nói: "Chủng đại nhân đây là nói tới chuyện này ? Dương mỗ là Thống soái ba quân, vô luận tiến thối, tướng lãnh một ngàn, nếu có trách nhiệm, Dương mỗ tự nhiên một mình gánh chịu, há có thể đẩy cho người khác? Bất quá... "
Hắn lại đem ánh mắt quăng đến trên sa bàn, trầm giọng nói: "Chủng đại nhân, Chiết gia quân còn đang ở Phủ Châu ác chiến cùng quân phản loạn cùng binh mã triều đình, chúng ta có thể buông tha cho một Lân Châu, nhưng nếu Chiết gia bỏ qua Phủ Châu, có thể là hai bàn tay trắng rồi, Chiết cô nương nàng. . . Nàng chịu đáp ứng sao? Nếu là Chiết gia quân không triệt, chẳng lẽ chúng ta một mình bỏ qua Lân Châu, lui lại phòng thủ Hoành Sơn, vứt bỏ quân liên minh không để ý tới sao? Rồi lại nói. . ."
Hắn giảm thấp tiếng nói xuống, thấp giọng nói: "Thái Úy cùng Chiết cô nương. . . , khụ khụ, Chủng đại nhân nói vậy cũng có nghe nói. . .
Chủng Phóng trời sinh vốn một tính cách thư sinh ngay thẳng quật cường, hắn liếc Dương Kế Nghiệp một cái, nói: "Dương tướng quân, ngươi nói Thái Úy thụ sư năm châu, thống lĩnh chư tướng, chiêu binh mãi mã, đánh dẹp Tây Vực, là tính toán cái gì?"
Điều Dương Hạo làm này, chư tướng Tây Bắc còn có ai không biết rõ trong lòng, có điều biết thì biết, một khi Dương Hạo chưa có công khai cờ hiệu, ai dám to gan phạm húy, nói ra cái bí mật không phải là bí mật này, Dương Kế Nghiệp do dự nói: "Cái này. . ." Chủng Phóng chánh khí nghiêm nghị, tiếng nói chấn động mái nhà nói: "Giang sơn mỹ nhân, cái gì nhẹ cái gì nặng? Giang sơn nơi tay, mỹ nhân tự có.
Nếu mất giang sơn, cả tánh mạng người nhà cũng không bảo vệ được rồi, còn muốn mỹ nhân là dụng ý gì? Nếu như Thái Úy vì một nữ tử mà không biết lợi hại, không biết nặng nhẹ, vậy Thái Úy quật khởi lên được ở Tây Bắc lại không phải là một trận cười to sao? Hàng nghìn hàng vạn nam nhi tụ tập đến dưới trướng Thái Úy như ta và ngươi chẳng phải tất cả cũng thành một trận cười to đi? Cho dù Chiết cô nương là vợ chính của Thái Úy, trước mặt giang sơn xã tắc, trăm họ thiên hạ, thì cũng đã là cái gì? Ta và ngươi phụ tá vua trên, trong lòng chỉ có một chữ công, tuân theo chỉ là một chữ "Trung", há có thể bởi vì tiếc một vị phụ nhân mà mất đạo nghĩa?"
Dương Kế Nghiệp liên tục cười khổ, Chủng Phóng tháo càng nói càng tức, vung tay lên nói: "Dương tướng quân, binh quý thần tốc, sớm làm ra quyết định trước một bước, là có thể tranh giành thêm một phần tiên cơ, cũng không thể chần chờ được nữa. Nếu là ngươi không yên lòng, chỗ Chiết cô nương, Chủng Phóng ta tự đi một chuyến, đem này lợi hại được mất giữa tiến lùi, nói rõ ràng cùng vị Chiết cô nương kia cho nàng hiểu, nếu là nàng biết đến đại thể, hiểu được đại nghĩa, vậy liền dẫn Chiết gia quân cùng bọn ta đồng loạt lui lại phòng ngự Hoành Sơn, nếu không phải như thế, vậy thì một chém tan làm làm hai, nếu là Thái Úy trở lại muốn chỉ trích, kêu hắn chém đầu của ta được rồi, Chủng mỗ một lòng trung can, chết cũng can gián chủ thượng, lưu danh sử xanh cũng tốt."
Dương Kế Nghiệp toát mồ hôi, cái bộ dáng này của Chủng Phóng, nếu thật để cho hắn đi gặp Chiết cô nương, không nói nứt toác ra mới là lạ, Dương Kế Nghiệp vội vàng nói: "Chủng đại nhân, tuy nói Hạ Châu còn ở hậu phương, tạm thời không lo việc binh đao, nhưng là đại nhân cũng không thể rời đi lâu, đó là đất cơ sở của Thái Úy, vô cùng trọng yếu, kính xin đại nhân chạy về trấn giữ Hạ Châu. Dương mỗ liền theo lời đại nhân nói, cố hết sức rút quân phòng thủ Hoành Sơn. Về phần chỗ Chiết cô nương, liền để cho Duyên Phổ con của ta đi một chuyến, cùng nàng thương lượng kế hoạch là được rồi."
Chủng Phóng tuy là thư sinh, nhưng trong xương có một cổ khí xấc láo bướng bỉnh, một khi phạm vào chỗ ương bướng này, thật sự là cả hoàng đế cũng dám kéo xuống ngựa, bất quá Dương Kế Nghiệp nhắc tới Hạ Châu, đây cũng là chỗ hắn coi trọng nhất, bởi vì thấy Dương Kế Nghiệp đã đáp ứng chủ trương của hắn, dưới ngàn khuyên vạn khuyên, Chủng Phóng rốt cục đáp ứng nhanh sớm chạy về Hạ Châu.
Dương Kế Nghiệp lúc này mới yên tâm, lùa Chủng Phóng đi xong, Dương Kế Nghiệp đã định quyết tâm, khi trở lại thành Bạc Châu liền bắt đầu bố trí quân dân di chuyển về Hoành Sơn, đồng thời bảo con trai lớn tùy cơ hành động, một mặt phái người liên lạc cùng Trình Thế Hùng, một mặt để cho con trai lớn dẫn khinh kỵ binh chạy tới Phủ Châu gặp Chiết Thủ Dụ, thuyết phục nàng bỏ qua Phủ Châu, cùng dời tới Hà Tây.
Bởi vì binh sĩ triều đình sắp tới, giữa lúc chư tướng dưới trướng Dương Hạo tranh chấp, bên trong đại trướng chóp vàng của Khả Hãn Cam Châu cũng bởi vì vây khốn quân đoàn Dương Hạo, lương thảo hao hết mà lâm vào trong một mảnh buồn rầu.
Khả Hãn Cam Châu Hồi Hột Dạ Lạc Hột tinh thần chán nản dựa tại trên giường, lo lắng nói: "Không nghĩ tới lương thảo binh sĩ Hạ Châu lại đầy đủ như thế, ta muốn cùng hắn chiến hao tổn để thủ thành, ngược lại trúng kế của bọn hắn. Lương thực tồn tại trong thành vốn là có hạn, cho người ăn ngựa ăn, chút lương thực đã hao hết sạch, hiện tại đã bắt đầu giết dê bò, mà quân coi giữ ngoài thành vẫn bất động, mỗi ngày ta đi lên trên đầu thành ngắm nhìn, khói bếp lửa trong quân doanh Hạ Châu cũng không giảm xuống, nhưng thấy lương thực bọn họ còn có thể chống đở hồi lâu, nếu còn tiếp tục như vậy, hơn mười vạn người trong thành ta, không cần người đánh, tất cả đều tự chết đói rồi."
Vương tử A Lý suất quân trở về thành nói: "Phụ hãn, chúng ta vốn là bộ tộc du mục, cho dù bỏ qua tòa thành trì này, chẳng lẽ lều trướng chúng ta không thể đâm vào trên thảo nguyên sao? Con đã sớm nói, người Hán giỏi về công thủ thành trì, chúng ta dùng thành tới chiến, đây là lấy sở đoản của mình, nghênh sở trưởng kẻ địch. Nếu như chúng ta thừa dịp người đông thế mạnh, đột xuất vòng vây, quân Hạ Châu còn có thể đuổi theo chúng ta tới thảo nguyên mà đánh sao? Cho dù mất đi Cam Châu, Dương Hạo có thểthu lấy bao nhiêu trọng binh ở chỗ này chứ? Đến lúc đó, chúng ta liên hiệp vớ Lũng Hữu Thổ Phiên ngóc đầu trở lại, còn sợ không thể chiếm cứ Cam Châu một làn nữa sao?"
Thất Vương Phi A Cổ Lệ không nhịn được mở miệng phản bác: "Phá vòng vây? Nói dễ vậy sao, thiết giáp trọng kỵ cùng Mạch Đao đại trận của Hạ Châu gắt gao ngăn chặn bốn cửa, chúng ta ra bao nhiêu chết bấy nhiêu, còn nói nhiều tới phá vòng vây?" Vương tử A Lý lạnh lùng nhìn chằm chằm nàng một cái, hừ nói: "Dương Hạo phân binh qua phía Tây, vây ở bên ngoài chúng ta đã không còn có bao nhiêu người rồi, bằng vào một Mạch Đao trận, một đội trọng giáp thiết kỵ, chúng ta dùng mạng người xông ra một chuyến, cũng có thể mở ra một con đường đi?"
Hắn quay về nhìn về phía Dạ Lạc Hột, nói: "Phụ hãn, nghe nói quân đội Dương Hạo đã đánh xuống Túc Châu, hiện tại tấn công nước Đôn Hoàng. Ý tứ của hắn vô cùng rõ ràng, bởi vì Cam Châu chúng ta là khó đánh nhất, cho nên hắn vây nhưng không đánh, đem chúng ta đặt ở phía sau cùng, chờ hắn giải quyết xong nước Đôn Hoàng, tất nhiên sẽ hợp thế thắng đánh trở về Cam Châu, mạnh mẽ công kích thành Cam Châu ta, lúc này nếu không phá vòng vây, sau này muốn đi cũng không đi được.
Vương phi A Cổ Lệ lại nói: "Đại hãn, mặc dù Dương Hạo chia binh đi tấn công hai châu Qua Sa, nhưng khi hắn Tây chinh, được xưng có mười lăm vạn đại quân, cho dù có khuyếch đại, thì ít ra cũng phải có mười vạn đại quân, đánh được Lương Châu, hắn được thêm hai vạn quân Thổ Phiên, đánh Túc Châu, lại đem hai vạn Long Vương Quân đi theo mình, tổng binh lực lúc này thật sự có mười lăm vạn người.
Quy Nghĩa Quân không chịu nổi một kích, nhân mã Dương Hạo phân đi tấn công Qua Sa, có chừng năm vạn người, như vậy có ít nhất mười vạn đại quân vây ở ngoài thành Cam Châu. Điểm này, từ số lượng khói bếp mỗi ngày trong quân doanh Hạ Châu mà nhìn, cũng có thể tính ra được. Mười vạn đại quân đóng ở đó, ta cũng không tin lương thảo chúng dùng là vô tận, ta thấy bọn hắn bây giờ là cố ý trấn tĩnh, phô trương thanh thế thôi, kiên nhẫn nhịn chút ít thời gian nữa đi, khi lương thảo bọn hắn hao hết, lòng quân không yên, mà quân Tây chinh chưa chạy về, chúng ta lại. . ."
Vương Phi dân tộc du mục cũng có tộc trướng, lãnh địa, con dân của mình, có quyền thế rất lớn, vì vậy giữa vương tử A Lý trường tử của Dạ Lạc Hột cùng vương phi A Cổ Lệ bởi vì đủ loại nguyên do hiềm khích từ đất chăn thả riêng của mình nắm giữ, sớm đã có oán hận chất chứa lẫn nhau, lúc này ý kiến bất đồng, vương phi A Cổ Lệ một mực hắn làm đối nghịch, vương tử A Lý càng thêm phẫn nộ, không đợi vương phi A Cổ Lệ nói xong, vương tử A Lý liền nói: "Dương Hạo giữ một thế thân ở chỗ này, tự mình chạy tới Túc Châu tiếp tục đường Tây chinh, hắn là chủ soái quân Hạ Châu, lại để mười vạn đại quân ở lại chỗ này, mà mình chỉ đem ba thành nhân mã một mình viễn chinh sao? Buồn cười, hắn nếu thân chinh, nhất định sẽ mang đi chủ lực, quân đội ngoài thành phô trương thanh thế, chưa chắc đã có mười vạn."
Vương phi A Cổ Lệ thản nhiên cười, nghiêng mắt nhìn vương tử A Lý nói: "Vương tử A Lý, binh pháp người Hán có một câu nói, gọi là thực thì là hư, bảo là hư thì lại thực. Không tệ, ban đầu Dương Hạo đúng là giữ một thế thân, tự mình chạy tới tấn công Túc Châu rồi, nhưng là sau khi lấy được Túc Châu, tin tức hắn đang ở Túc Châu đã truyền ra, ngươi nói hắn còn tiếp tục tự mình Tây chinh? Hắn đã trở lại." Vương tử A Lý ung dung nói: "Thất Vương Phi tại sao lại chắc chắn như thế?"
Dạ Lạc Hột chán nản nói: "A Lý, A Cổ Lệ nói không sai, Túc Châu Long Hàn Hải vì bảo toàn tánh mạng, đã chọn lựa tám mỹ nhân trong gia tộc tới hầu hạ Dương Hạo, lấy lòng hắn, ngày hôm trước A Cổ Lệ đã thử phá vòng vây, tấn công quân doanh Hạ Châu, từng thoáng thấy một công tử áo bào trắng dứng dưới đại kỳ chữ Dương đang xem cuộc chiến, tám Long nữ đứng hầu ở phía sau hắn, A Cổ Lệ nhận ra được một người trong số đó gọi là Long Linh nhi, nếu Dương Hạo không trở về Cam Châu sau khi đánh được Túc Châu, thì sao tám Long nữ lại xuất hiện ở chỗ này?" A Cổ Lệ thấy Dạ Lạc Hột phụ họa lời của nàng, quyến rũ liếc vương tử A Lý một cái, trong mắt không khỏi đắc ý. Vương tử A Lý thấy vậy trong lòng nảy sinh ác ý, đột nhiên nói: "Phụ hãn, con chợt nhớ tới một kế có thể trừ Dương Hạo, khiến cho Hạ Châu Quân quần long vô chủ, không chiến mà thua." Dạ Lạc Hột vừa mừng vừa sợ, liền vội vàng hỏi: "Kế gì vậy?"
Vương tử A Lý nói: "Long Hàn Hải xin hàng, hối lộ mỹ nhân, Dương Hạo vui lòng nhận lấy không cự tuyệt, cho thấy hắn là một tên háo sắc. Nếu như chúng ta làm ra bộ dáng cùng đường, giả vờ hướng hắn xin hàng, đồng dạng đưa mỹ nhân cho Dương Hạo trong doanh, tùy thời ám sát hắn, cho dù là Hạ Châu có trăm vạn đại quân, còn không phải là tan thành mây khói trong khoảnh khắc sao?"
Dạ Lạc Hột bỗng nhiên ngồi dậy, rất là động tâm nói: "Ngô. . . , ta thấy kế này quả thật có thể làm được , cho dù thất bại, cũng không tổn thất quá mức. Bất quá. . ."
Hắn do dự một chút nói: "Muốn tìm một nữ tử trẻ tuổi xinh đẹp, võ nghệ cao cường, mà vừa trung thành cảnh cảnh, cam chịu vì bản Vương quên mình phục vụ chính là không dễ dàng, chúng ta đi chỗ nào tìm một nữ nhân phù hợp với những điều kiện này chứ?" Vương tử A Lý âm hiểm cười một tiếng, liếc nhìn vương phi A Cổ Lệ nói: "Người thích hợp xa cuối chân trời, lại gần ngay trước mắt, cũng không biết phụ hãn có bỏ được hay không." Gương mặt xinh đẹp của vương phi A Cổ Lệ nhất thời biến sắc, đôi mắt đẹp lập tức cả chớp mắt cũng không chớp trong nháy mắt liếc về phía Dạ Lạc Hột.
Dạ Lạc Hột theo ánh mắt vương tử A Lý nhìn lên, thấy chính là Thất Vương Phi A Cổ Lệ, trong lòng rất là nuốc tiếc không thôi, nhất thời do dự. Chiến trường chém giết, chưa chắc sẽ chết, nhưng là làm thích khách ám sát Dương Hạo, chắn là phải chết không thể nghi ngờ, thậm chí. . . Còn phải hy sinh chút ít nhan sắc. A Cổ Lệ dù sao cũng là nữ nhân mình sủng ái, Khả Hãn Hồi Hột luôn luôn kiêu ngạo, cho dù tới mức sơn cùng thủy tận, cũng khó có thể bỏ qua . .
Vương tử A Lý khẽ thở dài, nói: "Nếu như lần này thật sự bại trong tay Hạ Châu Quân, Cam Châu Hồi Hột nhất mạch ta từ nay sẽ phải biến mất trên đời, Đại Hãn Dạ Lạc Hột anh dũng thần võ, giống như mặt trời chiếu sáng cả Hà Tây cũng phải nhận lấy khuất nhục mà chết, vì Đại Hãn, mỗi con dân bộ lạc Hồi Hột ta, người nào lại không muốn giống như trâu ngựa kính dâng tất cả của mình chứ? Vì Đại Hãn mà chết, đó là vinh quang vô thượng. Đáng tiếc A Lý là thân nam nhi, không cách nào thi hành cái kế hoạch ám sát này, nếu không thì, vì Đại Hãn, vì hai mươi vạn tộc nhân Cam Châu Hồi Hột ta , cho dù tan xương nát thịt, A Lý ta cũng sẽ không nhăn mặt chau mày." Dạ Lạc Hột lúng ta lúng túng nói: "A Cổ . . . A Cổ Lệ..." Nghe hắn gọi tên của mình, trong lòng A Cổ Lệ liền run lên bần bật, nàng cắn chặt đôi môi anh đào phấn nhuận, đỏ hồng mắt nói: "Được, ta đi!"
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 25: Kính Hoa Thủy Nguyệt
Nguồn: Sưu tầm
*Kính Hoa Thủy Nguyệt : bóng trăng in trên mặt nước
Hai phần Nam Bắc thành Phủ Châu, lấy cầu nối trên Hoàng Hà làm trận địa, ngày đêm chém giết, vô cùng thảm thiết.
Thi thể nằm ngổn ngang, máu tươi bôi khắp cả tòa cầu đá, đầu cầu ban ngày có ánh nắng mạnh mẽ chiếu, ban đêm có gió điên cuồng gào thét, máu sẽ biến thành vệt kết lại đen nhánh, nhưng là máu ở trong khe hở, lại vĩnh viễn là chất lỏng, bởi vì trước sau luôn có máu mới mẻ không ngừng bổ sung vào. Từ rất xa nhìn lại, cầu đá vốn là màu xám trắng, đã biến thành màu đỏ sậm.
Trong Bích Hà Viện cũng là một cảnh tượng khác, cả tòa đạo quan này đã được Chiết Tử Du coi là chỗ chỉ huy mặt trận, chỉ thấy bên ngoài giáp sĩ đứng thẳng, bên trong các quan viên văn võ cấp dưới vội vã qua lại, không dám cao giọng, một bầu không khí khẩn trương mà trang nghiêm.
Bích Hà Viện, đã từng là chỗ Chiết Tử Du cùng Dương Hạo kề sát đầu gối tâm sự, hôm nay mấy năm đã trôi qua, cảnh trí Bích Hà Viện vẫn như cũ, cũng đồng dạng là lúc đầu thu, nửa ao bích thủy, lá sen tươi tốt, hoa sen nửa héo, từng bát lớn đài sen nặng trịch đọng lại trên thân. Chiết Tử Du một thân nam trang, dựa vào lan can mà đứng, thần sắc tịch mịch.
"Chúng ta đi Bích Hà Viện ngồi một chút đi, phong cảnh nơi đây rất là u nhã, ta từng đi ngang qua nơi đó, rất thích không khí yên tĩnh nơi đó, chỉ là chưa có cơ hội đi vào thưởng lãm một phen, ngươi đi xem coi thế nào?"
"Ngươi nói đi chỗ nào thì liền đi chỗ nào đó, dù sao ta đi ra một chút, vốn không xác định nơi đi đến."
"Ta đây trực tiếp đem ngươi bắt trở về Lô Châu làm áp trại phu nhân, ngươi cũng không có ý kiến sao?"
Chiết Tử Du sâu kín thở dài: "Tên tiểu tử kia, cũng chỉ là hắn mới có phần đảm phách này, làm một cường đạo mạnh mẽ bắt áp trại phu nhân, coi như là có chút ngang ngược không nói đạo lý đi, coi như là người đàn ông, nhưng là lấy tính tình không đánh không động của hắn, khi nào thì có thể làm một Đại Sơn Vương bá đạo cậy mạnh chứ?"
Lời tâm tình năm đó ngày đó, khi nàng giả trang làm một dân nữ thanh sam vũ mị, giả vờ vô tình vô tình gặp được Dương Hạo ở đầu đường, cùng đi Bích Hà Viện liếc mắt đưa tình tựa như loáng thoáng vọng ở bên tai, nhưng là cảnh còn người mất, hôm nay trong tình cảnh này, sao không khiến cho tinh thần người ta chán nản.
Chiết Tử Du khẽ tựa vào trên lan can bằng đá, chỉ cảm thấy cả người một mảnh mỏi mệt : "Hôm nay cục diện Phủ Châu diện thối nát không chịu nổi, nên xử lý như thế nào? Người nhà đều ở triều đình trong tay, tuy nói bên này thanh thế ầm ĩ càng lớn, người nhà bên kia càng là an toàn, không lo có lo lắng tới tính mạng, mà nếu. . . Nhưng là như thế nào mới có thể giải cứu bọn họ ra, một đời một kiếp này, chẳng lẽ phải cùng bọn họ vĩnh viễn xa cách, không còn gặp được nhau nữa sao?"
Chiết Tử Du đang tịch mịch xuất thần, một đợt tiếng bước chân truyền đến, Chiết Tử Du thu thập tâm tình, quay đầu nhìn lại, cước bộ vội vã, trước mặt tiến đến, hẳn là Tần gia công tử Tần Dật Vân. Đi lên chỗ ban đầu nàng cùng Dương Hạo dựa vào lan can mà ngồi, nhớ lúc phẩm trà thưởng thức hoa sen, Tần Dật Vân vì Đường Diễm Diễm mà say khướt xông vào, muốn cùng Dương Hạo tranh phong ẩu đả, nhưng bởi vì say rượu một côn đánh trúng trán mình mà ngã vào trong ao, bên mép Chiết Tử Du không khỏi lộ ra một tia cười khổ sở.
Ngày đó, Diễm Diễm vốn cùng Dương Hạo quan hệ không quá sâu, hiện tại thật sự thành phu nhân của hắn; Tần công tử từ lâu đã có tình thương, cưới vợ sinh con, thành gia lập nghiệp, mà mình. . . lại vẫn là cô đơn chiếc bóng, cảnh còn người mất a.
"Ngũ công tử." Thấy Chiết Tử Du, Tần Dật Vân vội vàng hướng nàng liền ôm quyền, nghiêm nghị thi lễ.
Tần Dật Vân đang mặc giáp nhẹ, trên môi lộ vẻ hiển hách, thiếu niên trẻ tuổi năm đó, đã ít đi vài phần nhanh nhẹn, lại thêm vài phần ngưng trọng.
Chiết Tử Du khẽ xua tay, hỏi: "Đối với thế công Bách Hoa Ổ, có thể có cái tiến triển gì?"
Tần Dật Vân phun ra một ngụm trọc khí, lắc đầu nói: "Bách Hoa Ổ hiểm không thể leo tới, chỉ có một đường qua cửa, quân coi giữ Bách Hoa Ổ theo thế hiểm mà giữ, có thể nói một người đã đủ giữ quan ải, chúng ta nhiều lần tranh đoạt, một ngọn cầu đã chiếm lại mất, đã mất lại chiếm, tử thương vô số, dụng cụ công thành đắc lực trước sau không chở qua được, sợ rằng. . . Không làm lương thực tồn tại trong thành hao hết, cuối cùng là một lần mà đánh gục."
Lông mày Chiết Tử Du cau lại, trầm ngâm nói: "Người Tống làm ra trận chiến lớn như vậy, quyết sẽ không dễ dàng hành quân lặng lẽ, lương thực tồn tại trong Bách Hoa Ổ, ít nhất còn có thể cung cấp bọn họ tiêu một tháng, mà đại quân triều đình tiến sát từng bước, không ngừng viện quân, quân ta mặc dù cố hết sức tử chiến, nhưng cửa ải hiểm yếu như thế đã mất, chỉ sợ khó kéo dài, một tháng. . . Tuyệt đối không được . Ngươi tới, chẳng lẻ Nhâm đại nhân cùng Mã tướng quân bọn họ có cái đề nghị gì?"
Đám tướng lĩnh Nhâm Khanh Thư cùng Mã Tông Cường lúc này đang ở đầu cầu đốc chiến, Tần Dật Vân tới, Chiết Tử Du tự nhiên cho là bọn họ có ý tưởng mới đối với cuộc chiến trước mặt, bởi vì nhất thời không thoát được thân, cho nên để cho Tần Dật Vân đến đây thông báo.
Tần Dật Vân nói: "Nếu không phải Ngũ công tử hỏi, tại hạ sẽ không nói lên tình hình chiến tranh phía trước. Tại hạ lần này tới, là bởi vì Dương tướng quân Lân Châu phái con hắn, mang một đội khinh kỵ binh đột phá phòng tuyến trùng điệp binh mã Tống Quốc, đã đến trước quân."
Chiết Tử Du động dung nói: "Đã từ bọn họ biết được gì chưa? Làm sao không rõ Thiếu tướng quân tới nơi này?"
Tần Dật Vân cười khổ nói: "Tại hạ cũng không biết Dương thiếu gia tướng quân nói cái gì, hiện tại tinh thần chúng tướng trong quân hết sức hung hãn, hết sức kích động, Nhâm đại nhân cùng Mã đại nhân cũng không đàn áp được, tại hạ cảm thấy không ổn, lúc này mới chạy tới hướng Ngũ công tử bẩm báo."
Chiết Tử Du cả kinh, vội vàng nói: " Đi, chúng ta đi xem một chút."
Đầu cầu lúc này đã loạn thành một đám hỗn loạn, chẳng những tướng lĩnh trong quân đều ở, kể cả là rất nhiều quan viên phục vụ dân chính chịu trách nhiệm vận chuyển mũi tên quân giới, điều động tráng đinh lúc này cũng tụ ở đầu cầu, tình cảm quần chúng kích động, mãnh liệt trào dâng.
Bích Hà Viện cách đầu cầu bất quá hai tầm tên bắn, cũng không tính là xa, Chiết Tử Du suất lĩnh quan viên các lộ đang làm việc trong Bích Hà Viện vội vã chạy tới trận tiền, chỉ thấy Dương Duyên Phổ bị vây ở trong, rất nhiều quan viên văn võ Phủ Châu đang lớn tiếng chỉ trích cái gì đó, vừa thấy Chiết Tử Du chạy tới, người đang xúm lại phía trước lập tức nhanh chóng tránh ra một con đường.
"Ngũ công tử, ngài tới đúng lúc lắm. . ." Nhâm Khanh Thư vừa thấy Chiết Tử Du, lập tức đoạt bước lên trước, vừa cùng với nàng đi vào trong, vừa thấp giọng đem ý Dương Duyên Phổ tới đây vội vã nói một lần.
"Nga?" Chiết Tử Du không đổi sắc mặt lắng nghe, đi tới bên cạnh Dương Duyên Phổ, Dương Duyên Phổ vội vàng tiến nhanh tới nói: "Lân Châu Dương Duyên Phổ ra mắt Ngũ công tử, Duyên Phổ phụng mệnh gia phụ mà đến, có một đại sự. . .
Bàn về riêng tư, Dương Duyên Phổ là cháu trai của Chiết Tử Du, đừng thấy hắn còn lớn hơn Chiết Tử Du hơn vài tuổi, nhưng Chiết Tử Du lại là dì ruột thật sự của hắn, chỉ bất quá trước mắt hắn đại biểu chính là nhất phương thế lực Dương Hạo, mà Chiết Tử Du cũng là nhân vật đại biểu Phủ Châu, làm trò trước nhiều văn võ bá quan Phủ Châu như vậy, hai người vẫn là lấy quan phương mà gọi cho thỏa đáng một chút, cũng khó mà nói lên quan hệ riêng giữa bọn họ.
Chiết Tử Du cười nhạt, xua tay nói: "Thiếu tướng quân đường xa mà đến, một đường trải qua hung hiểm, chẳng lẽ Chiết gia ta ngay cả một chén trà cũng dâng thiếu sao? Xin mời, chúng ta đến Bích Hà Viện nói chuyện."
Ánh mắt nàng nhẹ nhàng đảo qua, nói: "Chư vị đại nhân, tất cả cũng đến đây đi."
Một phòng tĩnh thất của Bích Hà Viện tùy thời đổi thành tiểu sảnh, Chiết Tử Du, Dương Duyên Phổ, Nhâm Khanh Thư, Mã Tông Cường cùng mấy vị quan văn thân ở chức vị quan trọng Phủ Châu đều an vị trong đó, Dương Duyên Phổ tường tận phân tích thế cục trước mặt, đem suy nghĩ của Chủng Phóng cùng Dương Kế Nghiệp cùng tính toán bước kế tiếp hợp bàn đưa ra, nghiêm mặt nói: "Ngũ công tử, ta biết chúng ta làm như vậy, sẽ làm quân dân Phủ Châu thất vọng, cho là chúng ta đối đầu với kẻ địch mạnh, bỏ qua bằng hữu của mình.
Nhưng là trên chiến trường, quyền hành chính là thực lực, đấu chính là thắng bại, phòng ngự Phủ Châu đã trăm lỗ ngàn hở, bên trong có một vạn Hà Lam Quân vững vàng bám trụ tại chỗ yếu hại của Phủ Châu, tùy thời có thể xuất binh tiếp ứng quân Tống, tạo thành thế lưng bụng giáp công, ngoài có binh mã Tống Quốc cuồn cuộn không dứt, đang lục tục chiếm các cửa ải hiểm yếu, bảo trại, thành lũy phía trước, nếu như đợi đến khi bọn họ an bài xong, chúng ta mới ứng biến vậy thì không còn kịp rồi.
Khi đó, cho dù Ngũ công tử chịu bỏ qua Phủ Châu, binh mã triều đình nối đuôi nhau nhanh chóng đuổi theo, chúng ta cũng không còn kịp xây dựng phòng tuyến thứ hai ở Hoành Sơn nữa, kết quả của nó chỉ có là thất bại thảm hại. Ngũ công tử, cổ nhân có nói: rắn hổ mang ẩn đầu, tráng sĩ tách cổ tay. Lúc này nếu không quyết định thật nhanh, tên rắn độc Vương Kế Ân kia, sẽ đem độc khuếch tán đến tất cả chỗ yếu hại hai châu Lân Phủ, kiềm chế khiến chúng ta không thể động đậy, đợi đến khi Phan Mỹ chạy tới, vậy thì đại thế đã mất.
Gia phụ bảo ta tới đây, trình bày rõ lợi hại trong đó, chân thành mời Ngũ công tử suất lĩnh quân Chiết gia cùng chúng ta cùng tiến lùi, cùng nhau trở về phòng thủ Hoành Sơn.
Lưu được núi xanh, lo gì không có củi đốt, ngày sau chúng ta súc tích lực lượng, chưa chắc không thể ngóc đầu trở lại, Ngũ công tử, tại hạ hi vọng Ngũ công tử có thể xuất phát từ đại cục, đưa ra lựa chọn sáng suốt, thì quân dân Phủ Châu được bảo toàn, cũng là phúc của Thái Úy nhà ta."
Chiết Tử Du theo dõi hắn, mặt ngọc lạnh xuống, trầm giọng hỏi: "Theo Thiếu tướng quân mới vừa nói, bất kể Chiết gia ta lấy hay bỏ ra làm sao, Dương tướng quân cũng muốn buông tha Lân Châu, lui lại phòng thủ Hoành Sơn rồi?"
"Đúng!" Dương Duyên Phổ không chút do dự trả lời một tiếng, quay lại nói tiếp: "Bất quá, đây là vì tình thế bức bách, không thể không làm ra lựa chọn có lợi nhất để bảo tồn thực lực, thay đổi xu hướng suy tàn của chúng ta. Nếu như Ngũ công tử nguyện tỷ suất lĩnh quân đội sở thuộc cùng lui lại phòng thủ Hoành Sơn, cha ta nguyện chạy chậm một bước, dẫn quân Lân Châu, phát động công kích đối với Đại Bảo Tân Trữ Hóa Quân, Trấn Xuyên Bảo Tấn Trữ quân, Cát Cốc Luật Bình Định Quân, kiềm chế hành động của bọn họ, để cho quân độ sở thuộc Ngũ công tử thong dong rút lui."
Mắt Chiết Tử Du trong nháy mắt cả chớp không chớp theo dõi hắn, trầm giọng lại hỏi: "Đây là chủ ý của Dương Thái Úy?"
"Dương Thái Úy đang ở phía xa Tây Vực, hôm nay đang dụng binh với Kim Sơn Quốc, về phần Phủ Châu lần này, đại khái Thái Úy mới vừa nhận được tin tức, Thái Úy có chủ trương gì, còn chưa tới trong tay của chúng ta, đây là sách lược của Chủng Tiết Độ Hạ Châu cùng gia phụ cùng chung tay định ra."
Chiết Tử Du nhẹ nhàng thở ra , nói: "Tốt, mời Thiếu tướng quân tạm thời nghỉ ngơi một chút, cho ta cùng với văn võ Phủ Châu thương lượng một chút. Mã đại nhân, an bài chỗ nghỉ chu đáo cho Thiếu tướng quân, mời Thiếu tướng quân cùng các tướng sĩ Lân Châu hộ tống đến đây hảo hảo nghỉ ngơi một chút, an bài một chút đồ ăn thịnh soạn. "
"Dạ." Mã Tông Cường lên tiếng đáp lại, hướng Dương Duyên Phổ chắp tay nói: "Thiếu tướng quân, xin mời."
Dương Duyên Phổ vừa ra đi, mấy vị văn võ quan trọng Phủ Châu liền đồng loạt đứng lên, cướp lời nói: "Ngũ công tử, bổn quan cho là. . .
Chiết Tử Du bỗng nhiên giơ tay lên, ngăn lại tiếng kêu la miệng năm miệng mười của bọn họ, nàng rời khỏi chỗ ngồi, trong phòng chậm rãi đi qua đi lại, qua một hồi lâu, mới nói: "Dương Kế Nghiệp tướng quân có ý muốn chủ động buông tha Lân Châu, mời chúng ta cùng nhau lùi lại phòng thủ Hoành Sơn, chư vị đối với ý này có giải thích gì, cứ nói từng chuyện, không nên gấp."
Phủ Châu Thông Phán Tiêu Thiết nổi giận đùng đùng nói: "Cường địch chưa đến, đã thối ý trước, bọn họ đây là muốn bỏ qua Phủ Châu ta, Dương Hạo hôm nay có hơn mười châu Tây Vực, buông tha cho một Lân Châu, đối với hắn mà nói cũng không bị thương căn bản, nhưng đối với Phủ Châu ta mà nói, bỏ qua Phủ Châu, chúng ta còn có cái gì?"
Nhâm Khanh Thư cau mày, chậm rãi nói: "Theo ý ta, phương pháp của Dương tướng quân cũng là không thể dị nghị, đã không thể giữ hai châu Lân Phủ, sẽ liên lụy đến các châu phía tây của Hoành Sơn cùng nhau tan nát, nếu da không còn, thì cố giữ lông làm gì? Nếu như tranh thủ ở trước khi quân đội Phan Mỹ tới, chủ động triệt thoái về phía sau, chúng ta có thể đứng vững gót chân."
Một viên quan văn đứng dậy: "Tại sao Nhâm đại nhân có thể nói giúp Dương gia? Lãnh địa gia tộc chúng ta đều ở Phủ Châu, nếu như lúc này rời đi, thì phải ăn nhờ ở đậu, quân Phủ Châu còn có thể tồn tại sao? Chiết gia còn có thể tồn tại sao?"
Hành Quân Ti Mã Thân Trạch Tháp xem thường nói: "Tình thê Phủ Châu hôm nay đã bộc phát nguy cơ, đợi khi viện quân Phan Mỹ vừa đến, còn thủ được sao? Huống chi cả Lân Châu cũng còn phải chủ động vứt bỏ, bọn họ vừa đi, không cần viện quân Phan Mỹ chạy tới, sáu lộ biên quân Vương Kế Ân mất đi kiềm chế, lại thêm Lý Bất thọ Ninh Châu, là có thể lập tức phát động tấn công toàn diện đối với Phủ Châu ta."
Phủ Châu Biệt Giá Hồng Tử Dật hừ lạnh nói: "Trạch Tháp huynh, ta xem Dương Kế Nghiệp đây là hư thanh hù dọa, muốn cho chúng ta phải cùng hắn cùng nhau hành động, hắn là tỷ phu (anh rể) của Ngũ công tử, nếu như chúng ta không đi, hắn thật sự có thể bỏ qua một lòng, vứt bỏ không để ý tới Ngũ công tử sao? Mới vừa rồi ngươi cũng nghe thấy rồi, Dương Thái Úy ở phía xa Tây Vực, đối với việc Phủ Châu, còn chưa có lời đưa tới.
Chiết gia ta hết lòng quan tâm giúp đỡ đối với Dương Thái Úy, Dương Thái Úy là nghĩa đệ Chiết Suất, quang minh lỗi lạc, chữ nghĩa đi đầu, sao lại cho phép bộ hạ làm chuyện sỉ nhục bất nhân bất nghĩa như thế chứ ? Cho dù Dương Kế Nghiệp thật sự muốn, hắn cũng không dám đem danh nhơ bất nghĩa này lên lưng Dương Thái Úy, kiên quyết mà đi, hắn phái Dương Duyên Phổ tới làm thuyết khách, chính là nghĩ khiến cho chúng ta đáp ứng, chỉ cần Ngũ công tử đồng ý bỏ chạy, đó cũng không phải là Lân Châu chủ động rút lui, mà là Phủ Châu ta phải gánh, Lân Châu cô chưởng nan minh(một người không làm nên được chuyện), bọn họ sẽ có thể ăn nói đối phó, ta thấy đây là kế gỡ tội của hắn."
Thân Trạch Tháp nói: "Tử Dật hiền đệ, nói như ngươi vậy, không khỏi có chút phiến diện. Dương Kế Nghiệp nửa đời chinh chiến trên ngựa, không biết đã trải qua bao nhiêu cục diện cực kỳ hiểm ác, nếu là hắn khi lâm chiến , nên ngừng lại không ngừng, bất kể được mất, chỉ nghĩ đến lợi hại của bản thân, còn có thể xưng tên Vô Địch sao? Đã sớm bỏ mình nơi sa trường rồi. Bởi vì cố kỵ Ngũ công tử là thân quyến của hắn, cố kỵ Dương Thái Úy nghĩa khí sâu nặng mà không dám triệt binh? Đáng chê cười.
Dật hiền đệ chẳng lẽ đã quên mất, chuyện ngày đó dưới thành đô Hán Quốc, Dương Kế Nghiệp đem thê nhi (vợ con) cho vào trong thành làm con tin, tự mình dân hơn vạn tử sĩ, suýt nữa lấy thủ cấp Triệu Quang Nghĩa trong loạn quân rồi sao? Khi hiệu trung với chủ thượng, cả tánh mạng của hắn, tính mạng của thê nhi hắn cũng vứt bỏ tới không để ý, hắn sẽ bởi vì chút cố kỵ này do dự mà tự loạn trận cước sao?"
"Thân Tư Mã, lời ấy sai rồi. . ."
"Hồng Biệt Giá, sai cái gì mà sai? Ta thấy là đám văn nhân các ngươi không hiểu chuyện võ, lại muốn đi ra ngoài vung tay múa chân."
"Di, Thân Tư Mã, ngươi nói như vậy cũng không đúng, chúng ta là văn nhân thì làm sao, bằng vào đám vũ phu các ngươi này, làm sao có thể bày mưu nghĩ kế, làm sao có thể. . ."
"Được rồi, được rồi, không cần ầm ĩ nữa."
Chiết Tử Du bỗng nhiên cắt đứt lời của bọn hắn, nghiêng mắt nhìn bọn hắn một cái, tựa cười mà không cười nói: "Cục diện hôm nay, võ tướng chủ lui, quan văn chủ chiến, thật sự là thú vị."
Nàng nhẹ nhàng ngồi lên trên ghế, trì hoãn rồi nói: "Chủng Phóng cùng Dương Kế Nghiệp thương nghị, ý muốn thừa dịp đại quân Phan Mỹ chưa đến, chủ động rút lui, tập trung binh lực một đường xây dựng phòng tuyến Hoành Sơn. Ta cho là, bọn họ đây là nghĩ bỏ qua được mất một tòa thành, lấy địa hình có lợi cùng quân Tống vật lộn, tìm kiếm thời cơ chiến đấu, trì hoãn, kìm chế địch nhân, tiêu hao nhuệ khí quân Tống, tích tiểu thắng thành đại thắng, chế tạo điều kiện phản thủ thành tấn công, nếu như Phủ Châu không phải thuộc về chúng ta mà là thuộc về Dương Thái Úy, nếu như chư vị đang ngồi tại đây cũng là quan lại Dương gia, như vậy các ngươi bình tâm tĩnh khí suy nghĩ một chút, bọn họ lựa chọn điều này, còn có cái chỗ gì có thể chỉ trích được sao?"
Hồng Tử Dật vội la lên: "Nhưng là. . . Ngũ công tử. . ."
Chiết Tử Du giơ tay ngăn hắn lại, lại nói: "Về mặt khác, loại suy nghĩ này của bọn họ, cũng không chỉ là vì ứng phó với biến hóa của Lân Phủ, ứng phó đại quân Tống Quốc thế tới hung hãn, hơn nữa còn là suy nghĩ đến Dương Thái Úy đang viễn chinh vội vàng điều quân trở về có thể gặp phải hung hiểm, tập trung quân đội phân tán đóng ở khắp các nơi tạo thành hợp lực, chủ động bố phòng cho Hoành Sơn, ít nhất cũng có thể cùng binh mã Tống Quốc giằng co một thời gian ngắn.
Như vậy, đại quân Dương Thái Úy viễn chinh Tây Vực sẽ không phải lập tức điều quân trở về, thậm chí có thể ở sau khi thâu tóm hai châu Qua Sa, đánh bại Cam Châu Hồi Hột, mới từ từ cho điều quân trở về, lấy khí thế đại thắng, xây dựng Hoành Sơn cho thành phòng thủ kiên cố, thậm chí thu phục lại Lân Phủ cũng chưa chắc là không thể. Nếu như ta không phải là Chiết gia Ngũ công tử, đối với tính toán này của bọn họ, thật sự muốn vỗ tay tán thưởng."
Nhâm Khanh Thư vui vẻ nói: "Ngũ công tử, nói như vậy ngài tán thành chủ trương của Dương tướng quân?"
Phủ Châu Học Chính Hác Đại Đỗ vừa nghe ý trong lời Chiết Tử Du nói, cũng là đồng ý bỏ qua Phủ Châu, không khỏi nổi giận lôi đỉnh, sắc mặt hắn đỏ lên như heo bị chọc tiết, thở phì phò lên, lạnh lùng nói: "Ngũ công tử hôm nay còn tính là người Chiết gia sao? Một chút ngôn luận của Tống Quốc, lão hủ vẫn cho là bội nhọ đối với Ngũ công tử, hôm nay xem ra, chưa hẳn là tin đồn vô căn cứ rồi!"
Hành Quân Ti Mã Thân Trạch Tháp giận dữ nói: "Hác Học Chính, ngươi nói lời này là có ý gì?"
Hác Đại Đỗ quát lên: "Các ngươi muốn đi thì cứ đi, Hác mỗ thề cùng Phủ Châu cùng chết sống, là ai nói cũng đều không đi!"
Lão đầu tử dứt lời, phất tay áo một cái, lửa giận hừng hực ra, Thân Trạch Tháp vội vàng xoay người lại nói :"Ngũ công tử xin bớt giận, Hác Học Chính là người trung tâm cảnh cảnh với Chiết Suất, nhất thời nóng giận, ngôn ngữ vô lễ, cũng không phải là muốn bất kính đối với Ngũ công tử."
Chiết Tử Du cười nhạt: "Hác Học Chính cũng không nói sai, ta việc gì phải giận chứ?"
Thân Trạch Tháp thất kinh, thất thanh nói: "Chuyện gì, Ngũ công tử ngươi. . . Ngươi. . ."
Chiết Tử Du chậm rãi nói: "Chúng ta Phủ Châu. . . Đã phản rồi, không phản thì phải bó tay chịu trói, dù chính phản rồi, cũng là bị triều đình Tống Quốc chỉ trích. Chúng ta đã phản rồi, nhưng là bằng thực lực của chúng ta, đủ để cùng Tống triều đối phó sao? Nếu là chỉ khoe khí phách nhất thời, vậy thì giết tới oanh oanh liệt liệt, bỏ mình sa trường thôi. Nếu muốn có một lần hành động chân chính, quy thuận Dương Thái Úy đã thành tất nhiên."
Một câu này vừa ra, làm cho tất cả văn võ đều ngạc nhiên, ai cũng không nghĩ tới thì ra là trong nội tâm nàng đã sớm có phần tâm tư nỳ, nhất thời cũng không biết nên chuyện gì cho tốt.
Chiết Tử Du vẫn là tự nhiên, nói: "Dương Hạo nổi dậy ở Tây Bắc, cũng đều là phản, nhưng là Tây Bắc cường phiên xưa nay đã như vậy, chỉ cần không xưng vương, không tự lập quốc, Trung Nguyên luôn luôn bày ra kế sách mềm mỏng, sẽ không hưng binh chinh phạt, mà hiện nay, triều đình đã quyết như vậy, chúng ta phải phản, Dương Thái Úy đã không thể nào lấy danh Tống thần nữa, trở thành bá chủ Tây Bắc thực sự thống ngự một phương rồi, hắn là phản cũng phải phản, không phản cũng phải phản. . ."
"Người Chiết gia, cũng bị triều đình bắt, đem Phủ Châu chắp tay dâng lên? Ta không cam lòng! Điều duy nhất hiện tại ta có thể làm, chính là báo cái thù này, cho Triệu Quang Nghĩa hắn hiểu được cái gì gọi là cái được không bù đắp đủ cái mất."
Chiết Tử Du nói đến đây, thần sắc ảm đạm đi chút ít, nhẹ nhàng mà nói: "Chư vị đối với Chiết gia ta đều là trung thành cảnh cảnh, tất cả lo lắng đều là suy nghĩ cho Chiết gia, mà nay Tử Du đã hướng các ngươi biểu lộ cõi lòng, lợi ích Phủ Châu cùng lợi ích Hạ Châu đã cùng nhau, chư vị nên biết phải làm sao rồi chứ?"
Tất cả chúng văn võ đều yên lặng, Chiết Tử Du trầm mặc chốc lát, khoát tay nói: "Các vị giải tán đi, sau khi trở về, đem tâm ý của ta nói cho bộ thuộc, chuẩn bị theo kế sách của Dương tướng quân, triệt phòng Hoành Sơn, dân chúng Phủ Châu nguyện cùng bọn ta đồng hành thì tận lực che chở chu toàn. Chờ một chút nữa, ta sẽ thông báo thiếu gia Dương tướng quân, xin Lân Châu hiệp trợ về mặt rút lui."
Chiết Tử Du nói như chém đinh chặt sắt, ý chí kiên quyết, chúng văn võ vừa thấy không thể khuyên, chỉ đành phải từng người cáo lui. Nhâm Khanh Thư cũng chưa đi, đợi mọi người yên lặng lui ra, trong sảnh không còn ai, Nhâm Khanh Thư liền hướng Chiết Tử Du thấp giọng hỏi: "Tử Du, ngài thật sự quyết định như vậy?"
"Ừm!"
Ánh mắt Chiết Tử Du có chút mờ mịt, vẫn nhìn cửa sảnh như cũ.
Trầm mặc chốc lát, nàng bỗng nhiên cười một tiếng cổ quái, từ từ nói: "Nhâm đại nhân, về lời đồn gia huynh bị điên, ngài có tin hay không ?"
Nhâm Khanh Thư lắc đầu nói: "Không tin, Chiết Suất thống ngự Phủ Châu, uy chấn một phương, từng trai qua vô số chuyện, sao lại bởi vì cả nhà bị triều đình bắt, liền lo sợ mà điên chứ?"
Chiết Tử Du nói: "Đúng, gia huynh không có điên, hắn dùng lời điên khùng, chỉ là vì nói cho ta biết một chuyện. . .
"Gia huynh cuồng ngôn, nói chuyện hiến Phủ Châu cho triều đình, xin phong Chiết Lan Vương, lời đó. . . Là cho ta nghe. Những lời này, liên quan đến một câu cười giỡn của gia huynh khi cùng Dương Thái Úy nói đại thế thiên hạ, lúc ấy. . . Gia huynh nói, nếu như một ngày kia Dương Thái Úy đại thế đã thành, xưng vương xưng bá, thì Phủ Châu nguyện cả tộc quy thuận, nếu Dương Thái Úy thật sự có một ngày như vậy, Dương gia sẽ không phụ Chiết gia ta, nguyện phong gia huynh làm Chiết Lan Vương, Chiết gia truyền đời thế tập, kế tục Vương hiệu của tổ tông, gia huynh giả điên nói ra câu này, lời điên khùng đó chính là nói cho ta biết, phải đem quân Phủ Châu, đất Phủ Châu, hiến cho Dương Thái Úy, giúp thành hắn nghiệp lớn, cũng có thể thừa dịp lần này, báo thù một mũi tên của Chiết gia ta. . ."
Nhâm Khanh Thư động dung nói: "Thì ra là trong đó lại có một đoạn duyên cớ như vậy, sao mới vừa rồi ngài không nói cho mọi người cùng biết được?"
Chiết Tử Du ha hả cười một tiếng, thản nhiên nói: "Chuyện này trời mới biết, cho dù ta nói ra, họ sẽ tin, hay là không tin, chỉ tăng thêm một truyện cười mà thôi, nói nó làm gì? Nếu ta hiểu tâm ý gia huynh, làm mọi chuyện đều không thẹn với lương tâm cũng đã được rồi, cần gì nhất định phải làm chuyện không thể nào kia, để cho người trong thiên hạ đều tin tưởng sự trong sạch của ta sao?"
Nhâm Khanh Thư thầm nghĩ: "Chiết Ngự Huân là nghĩa huynh của ta, tuy nói ban đầu cùng hắn kết bái, là vì tiện nghi cho Kế Tự Đường ta làm việc, nhưng nhiều năm trôi qua, luôn có một phần giao tình, nếu như Chiết gia không muốn quy thuận Dương Hạo, ta ở giữa cũng là thế khó xử, nếu đây là tâm nguyện của nghĩa huynh, thì cũng giảm đi một phen làm khó ta. Dương Thái Úy nhất thống Tây Vực, Kế Tự Đường ta sẽg được đến rất nhiều chỗ tốt, đối với cái này, Đại Lang tất nhiên là vui mừng thấy chuyện kia thành, từ cá nhân ta mà nói, tiền đồ cũng có thể không lo, cho nên. . . ta phải tận hết sức lực, thúc đẩy chuyện này mới tốt."
Nhâm Khanh Thư suy nghĩ một chút, chắp tay nói: "Nếu Ngũ công tử tâm ý đã quyết, Nhâm mỗ nhất định toàn lực trợ giúp người đạt thành tâm nguyện."
Mắt thấy Chiết Tử Du có chút mặt mày thảm đạm, trong lòng Nhâm Khanh Thư cũng không khỏi dâng lên một cổ ý thương tiếc, bất kể như thế nào, hắn hơn phân nửa cuộc sống cũng tiêu ở Phủ Châu, Chiết gia đối với hắn không tệ, đối với Chiết gia, hắn là có lòng muốn cố hết sức chu toàn, hôm nay cả nhà nghĩa huynh bị bắt, chỉ còn lại có một nữ tử như vậy, Nhâm Khanh Thư thân là trưởng bối, tự nhiên nổi lên tâm ý bảo vệ.
Nhâm Khanh Thư liền nói: "Ngũ công tử, nên vì Chiết gia báo đại thù này, chi bằng mượn lực Dương Thái Úy; phải bảo tồn hương khói quân Chiết gia, càng cần quy thuận Dương Thái Úy, hợp hai nhà thành một nhà. Bất quá, Chiết gia sẽ không cứ như vậy mà hết, người cùng Dương Thái Úy tình đầu ý hợp, chuyện này ta đã sớm nhìn thấy ở trong mắt, nghĩa huynh cũng thường nói với ta, có lòng tác hợp ngươi cùng Dương Thái Úy, không bằng chờ Dương Thái Úy từ Tây Vực trở lại, do ta ra mặt nói tốt cho người, bảo hắn cưới người làm phu nhân, làm thỏa mãn một cái tâm nguyện của nghĩa huynh đi."
***
Vương phi A Cổ Lệ đưa một bàn tay trắng nõn mềm mại như hoa sen nhẹ nhàng kéo mạng che mặt lên, nhẹ nhàng nâng gót ngọc đi tới bên cạnh "Dương Hạo", cặp mắt đẹp kia làm ra bộ dáng e lệ không chịu nổi len lén liếc hướng khuôn mặt của hắn, vừa thấy rõ bộ dáng "Dương Hạo" kia, vương phi A Cổ Lệ không khỏi hơi ngẩn ra. .
Ngũ quan mặt mày Diễm Diễm thật sự là vô cùng đẹp đẽ, nếu nàng muốn giả trang thành một nam nhân hoàn toàn không có sơ hở, tất phải trải qua sự dịch dung của bậc thầy cải trang như Trúc Vận, phải tiến hành thiết kế cùng tân trang hết sức tỉ mỉ đối với màu da, lông mày, hình mắt của nàng, cả những điểm nhỏ như vai, thể hình, yết hầu cũng không thể bỏ qua, thêm cả phối hợp khẩu kỹ, mới có thể dấu diếm được người khác.
Mà lúc này Trúc Vận không ở bên người, Diễm Diễm học được Dịch Dung Thuật từ chỗ nàng ấy tự cho là đã hết sức cao minh. Nhưng là trình độ vừa so sánh cùng Trúc Vận, vẫn chỉ là tài nghệ nghiệp dư, Trúc Vận có thể cùng Chiết Tử Du đồng hành lâu như vậy, bất kể là thanh âm, cử chỉ, khí chất, cho tới chỗ rất nhỏ trong hình dạng, cũng làm cho người tinh tế như Chiết Tử Du không nhìn ra sơ hở, Đường Diễm Diễm là chạy theo cũng không kịp.
Rồi lại nói, nàng lại không làm được việc vẽ loạn lên trên da thịt của mình chút ít khiến cho da thịt biến sắc, làn da biến chất thành thô ráp, để tránh làm tổn thương da thịt mềm mại của nàng, tự nhiên cũng là không thể gạt được ánh mắt của vương phi A Cổ Lệ. Mới vừa rồi còn cách tầng tầng màn tơ, nhìn không quá rõ ràng, khẩu kỹ của nàng cũng là rất có mấy phần hỏa hầu, còn có thể dấu diếm được, lần này tới gần, liền làm cho trong lòng người sinh khả nghi.
Vương phi A Cổ Lệ mặc dù thấy râu mép mọc ra, nhưng là da thịt vô cùng mềm mại trắng trẻo. Ở trong khí hậu nơi đại thảo nguyên này, quả thực làm cho cả nữ nhân cũng đều phải ghen tỵ, một người đàn ông bảo dưỡng cũng thật tốt quá đi? Nhất là trên mặt mày ngũ quan của hắn, cả khí son phấn cũng có chút ít, người như vậy là bá chủ đệ nhất Tây Vực thụ sư năm châu thống lĩnh chư tướng Dương Hạo?
Vương phi A Cổ Lệ chợt nhìn lên nam tử như người ngọc này. Trong đôi mắt đẹp cũng là liên tiếp xẹt qua dị thái, cực kỳ kinh ngạc, kế tiếp cũng là nổi lên lòng nghi ngờ, thầm nghĩ: "Dương Hạo vậy mà lại tuấn mỹ như thế, ôn nhu như xử nữ như vậy? Không thể nào, không thể nào, trên đời sao có thể có nam tử mỹ lệ như thế. Bất quá, cũng chưa chắc không thể, nghe nói thời Hán triều, Tây Vực ta có Lâu Lan Vương, xinh đẹp như xữ nữ, mỹ nhân cũng không thể so sánh, cho nên hắn đành phải đúc một mặt nạ quỷ dử tợn che kín dung nhan của hắn, tại trên chiến trận mới tăng thêm màu sắc uy vũ, chẳng lẻ Dương Hạo cũng là nhu vậy? Nhưn nếu Dương Hạo có bộ dáng như vậy, tất nhiên cực kỳ hấp dẫn sự chú ý, làm sao chúng ta cũng chưa từng nghe người ta bình phẩm bàn luận đối với dung mạo Dương Hạo chứ?"
Vương phi A Cổ Lệ đứng ở trước mặt Đường Diễm Diễm, trong lòng kinh nghi bất định, nàng mặc một bộ y phục sa mỏng, thân thủ lả lướt, hướng tới trước người Diễm Diễm vừa đứng, chân dài eo nhỏ, ngực cao tú hạng, nếu là hán tử thật sự, lúc này nhìn thấy eo nhỏ của nàng, đã sớm ôm vào trong ngực đi. Diễm Diễm lại vẫn ung dung ngưỡng mặt lên mà nhìn, từ giữa hai vú cao sừng sững của vương phi A Cổ Lệ nhìn qua, lại nhìn kiều nhan của nàng, cười dài nói: "Mỹ nhân, còn không ngồi xuống cùng bản Thái Úy uống một chén?"
Vương phi A Cổ Lệ cúi đầu vừa nhìn, lúc này Đường Diễm Diễm vừa vặn ngưỡng mặt lên, ánh mắt A Cổ Lệ có thể nhìn vào cần cổ Diễm Diễm, chỉ thấy cần cổ của nàng không có một chút hiện tượng yết hầu nhô ra, trong lòng vương phi A Cổ Lệ nhất thời chấn động, ánh mắt hơi có chút bối rối, nhưng ngay sau đó trở nên lạnh lùng hung ác.
Đường Diễm Diễm phát hiện thần sắc của nàng biến hóa, trong lòng không khỏi cả kinh, mới vừa phát ý cảnh giác, vương phi A Cổ Lệ đã nhấc chân, liền hung hăng đá vào hướng ngực của nàng, cùng lúc đó, A Cổ Lệ đưa tay rút ra châm vàng, thừa dịp Đường Diễm Diễm ngã người về phía sau mở rộng người ra, lấy tay đâm về phía cổ họng của nàng, động tác vô cùng tàn nhẫn."
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 26: Ca Thư Dạ Đái Đao
Nguồn: Sưu tầm
*Ca Thư Dạ Đái Đao : anh cầm đao tới trong đêm^^
Vương phi A Cổ Lệ lần này làm thích khách, thấy rằng bất kể thành bại, tánh mạng của mình cũng khó mà bảo toàn, song lệnh vua khó trái, nàng chỉ đành phải đánh bạc tánh mạng này, cho dù không vì Dạ Lạc Hột, coi như là vì tộc nhân của mình tranh thủ một cơ hội sinh tồn. Nàng cũng biết mưu giết một người đàn ông, cơ hội tốt nhất chính là chờ lúc hắn triền miên cùng mình, song tê hợp hoan, khi đó hắn kém phòng bị nhất, đề phòng thiếu nghiêm mật nhất, nhất định có thể một kích đắc thủ, vương phi A Cổ Lệ nguyên cũng quyết định chủ ý muốn lấy thân làm mồi nhử. Bất quá lúc này nhìn ra Đường Diễm Diễm là thân nữ nhi, nàng cũng biết kế hoạch lúc đầu không thể thực hiện được rồi, người này thật sự không phải là Dương Hạo, nàng ta lại có thể là một nữ nhân, như vậy nàng ta làm sao có thể bị vẻ đẹp của mình mê hoăc? Vương tử A Lý ngày mai căn bản là không thể nào tới chế đặt cái khế ước gì, căn cứ theo kế hoạch lúc trước của bọn họ, nếu như nàng có thể ám sát Dương Hạo thành công, vậy thì thừa dịp thời điểm lòng quân Hạ Châu đại loạn toàn lực vồ đến, nếu như hành thích thất bại, như vậy tối nay trong thành sẽ phải tập trung tinh nhuệ, vứt bỏ già yếu, toàn lực phá vòng vây, phân tán bốn phía trốn vào đại mạc thảo nguyên.
Cứ như vậy, mình đã thành một thứ đồ bỏ đi vô dụng, bây giờ chỉ có kế, giết một người đủ vốn, giết hai người là buôn bán lời, vương phi A Cổ Lệ là cô gái trên thảo nguyên, một thân võ nghệ cưỡi ngựa bắn cung. Trời sanh tính dũng cảm. Tâm ý đã định lập tức động thủ, không còn chú ý tới cái gì nữa.
Cú đá này của vương phi A Cổ Lệ chọc tới một cái nhanh chóng như điện, châm vàng trên búi tóc của nàng cũng không phải vàng thật sự, kim vốn có tính chất mềm, không thể làm làm vũ khí, cái châm vàng này chẳng qua là bôi bột vàng lên, mũi nhọn lại ngâm dược vật kịch đôc, thật sự có hiệu quả kiến huyết phong hầu(gặp máu là chết).
Đường Diễm Diễm hôm nay có một thân võ công cũng không giống bình thường, hơn nữa nàng đối với vương phi A Cổ Lệ chẳng qua là tồn tại chút ít ý diễn trò , tuyệt đối không thể vì nàng mà ý loạn tình mê, vương phi A Cổ Lệ bất chợt xuất thủ, Đường Diễm Diễm phản ứng cũng cực kỳ nhanh, ở trong chớp mắt điện xẹt, dồn hết sức ngàn cân, hóp bụng ngửa người một cái, liền tránh được một cước bén nhọn kia, hai tay đẩy ở trên giường y, cả người liền trơn trượt hướng về dưới đũng quần vương phi A Cổ Lệ.
Vương phi A Cổ Lệ đá một cước vô ích, độc châm trong tay cũng đâm vào khoảng không, Đường Diễm Diễm hiểm lại càng hiểm trượt đến dưới đũng quần nàng, động thân hướng về phía trước vác lên một cái. Vương phi A Cổ Lệ kêu "ai nha" một tiếng, cả người liền hướng về bên cạnh ngã nhào.
Đường Diễm Diễm giống như một đầu báo nhỏ mãnh liệt nhảy dựng lên, thoăn thoắt cực kỳ linh hoạt, giơ lên chân ngọc liền hướng vương phi A Cổ Lệ đập mạnh tới, lúc này tám mỹ nhân kia ở bốn phía cùng nhau đánh tới, tám Long nữ cũng không phải là ngọc nữ kiều oa mềm mại e sợ không hiểu võ nghệ, vương phi A Cổ Lệ là nữ tử, cho nên bọn họ động thủ không có chỗ nào bận tâm, đều bổ nhào về phía trước, tám đôi tay khóa khóa móc lại, thân thể đè lên nhau cũng không phải là không có, một đống mỹ nhân chặt chẽ xoay quấn lại với nhau.
Đường Diễm Diễm vốn muốn một cước đá mạnh, không nghĩ Long gia bát nữ phản ứng nhanh hơn, không ngờ đã khóa chặt vương phi A Cổ Lệ lại . . Các nàng vốn là giả trang làm thị thiếp của "Dương Hạo". Khi hắn ăn ngủ mặc trong trướng cũng đều tùy ý khinh bạc, lúc này đánh nhau cùng nhau, áo rách váy tung lên, chỉ thấy bắp đùi hoa trắng rất tròn thẳng tắp, eo thon phấn nhuận mềm mại trơn bóng, hai vú đẫy đà cao thẳng như ngọc cuộn thành một đoàn, lộ ra đẹp tuyệt vời, nếu là một đống nam nhân đánh nhau cùng nhau như vậy, đó là cùng hình ác tượng, nhưng nếu là một ít mỹ nữ, chính là diễm lệ vô biên.
Vương phi A Cổ Lệ mắt thấy bị người chế trụ. Trong lòng khẽ kêu một tiếng bi thiết, liền muốn cố gắng thay đổi cánh tay, đem châm vàng đâm tới trên người mình, chỉ cầu chết thống khoái. Nhưng thân thể nàng bị khống chế cực chặt, không thể nhúc nhích được rồi .
Long Linh Nhi chộp đoạt được châm vàng trong tay nàng, để vào dưới mũi hít hà, nói đối với Đường Diễm Diễm: "Diễm phu nhân, trên châm có kịch độc."
Đường Diễm Diễm lúc này mới từ thở hổn hển chuyển thành vững vàng, nàng nhìn ra được, công chúa A Ngõa Nhĩ Cổ Lệ này cũng không biết được công phu thượng thừa, sở học thổ nạp nội gia lại càng một chữ cũng không biết, bất quá cung mã thành thạo, thân thể mạnh mẽ, bất ngờ đánh khó, vô luận là độ mạnh yếu, độ linh hoạt, cũng đều đã có thể nói là thượng thừa, cho nên nàng mặc dù không am hiểu thuật đánh lộn gần người, cũng vẫn làm cho mình luống cuống tay chân.
Nghe thấy trên châm vàng kia có kịch độc, nghĩ lại mới vừa rồi nếu phản ứng hơi chậm chút, lúc này có thể đã có lo lắng về tính mạng, trong lòng rất là tức giận, mặt nàng giận dữ ngó vương phi A Cổ Lệ , trầm giọng quát lên: "Dạ Lạc Hột lại có thể phái con gái thân sinh ngươi làm một thích khách có đi không về sao?"
Vương phi A Cổ Lệ bị đè chặt tại trên mặt đất, hô hấp dồn dập, hai vú phập phồng , bởi vì châm búi tóc bị rút ra, cho nên tóc dài chợt xõa ra, nàng cắn chặc hàm răng xốc xếch, hai tròng mắt buồn hung ác nhìn chằm chằm Đường Diễm Diễm, tràn đầy tia cừu hận.
Long Oánh Nhi chọc một cái ở trên bộ ngực to phình của nàng, ha ha cười nói: "Diễm phu nhân, A Ngõa Nhĩ Cổ Lệ năm nay vừa mới mười bảy, chưa lấy chồng, ta thấy nàng chưa chắc chính là vị công chúa kia."
Đường Diễm Diễm có chút ghen tỵ với hai vú tuyết ngọc cao vút hút mắt của vương phi A Cổ Lệ, hừ lạnh nói: "Ta nghĩ cũng đúng, Dạ Lạc Hột dù gì cũng là một vị Khả Hãn, bá chủ một phương Tây Vực, cho dù tình cảnh hung hiểm như thế đi nữa, cũng sao bỏ được để cho người thân của mình lấy thân đưa trước kẻ địch, ngươi có liên hệ thế nào với hắn, lại cam chịu hy sinh như thế?
A Cổ Lệ nghe thấy vậy trong lòng bi thảm, buồn bã cười nói: "Ta là vương phi A Cổ Lệ , có tính là thân nhân của hắn hay không đây?"
Đường Diễm Diễm thầm cả kinh, nàng nhìn thấy vẻ mặt vương phi A Cổ Lệ bỗng nhiên trở nên có chút thê lương cô đơn. Vừa nhìn tám Long nữ khống chế nàng một chút, từ từ hít vào một hơi, thần sắc tức giận trên mặt dần dần biến mất.
Tào thị Quy Nghĩa Quân, trưởng nữ gả cho Dạ Lạc Hột làm phi, thứ nữ gả cho cho Mân quốc vương làm hậu, bọn họ là thân thích rồi, nhưng là lúc Cam Châu cùng Đôn Hoàng nổi lên chinh chiến. Túc Châu Long Vương xưng bá nhất phương, coi như là một bá chủ không lớn không nhỏ ở Tây Bắc, một khi thành bị phá, chính là nhưng lập tức mặt dày đem tám con gái cháu gái kín đáo đưa cho quan nhân nhà mình, bất quá là muốn dùng đám nữ nhân dung mạo xinh đẹp trẻ tuổi này để giữ được quyền thế của mình. Mà nay, bá chủ đệ nhất hành lang Hà Tây Dạ Lạc Hột Khả Hãn cùng đường. Liền để cho phi của mình tới ám sát tướng lĩnh quân địch. "
Các nàng có thân phận tôn quý, dung mạo thiên kiều bá mị, cao cao tại thượng, phong quang vô hạn, nhưng đột nhiên một khi có chuyện cần thiết, thân phận tôn quý, vẻ xinh đẹp thùy mị của các nàng liền đã thành công cụ quyền mưu. Loại tiết mục cá lớn nuốt cá bé trong thế giới này đã trình diễn vô số lần, người thất bại, chính là một kết quả như vậy.
Nhớ tới Phủ Châu sinh biến cố, nhớ tới phu quân mình ở trên thảo nguyên nơi Tây Vực nam chinh bắc chiến đông ngăn tây giết, trải qua bao khó khăn nặng nề, Đường Diễm Diễm trong lòng cảm thấy địch ý đối với vương phi A Cổ Lệ cũng giảm bớt đi rất nhiều.
"Diễm phu nhân, chúng ta xử trí nàng như thế nào ?"
Long Thanh Nhi xé ra một mảnh tơ lụa, đem vương phi A Cổ Lệ ngồi dậy, nhanh chóng trói hai tay của nàng. Hướng Đường Diễm Diễm hỏi.
Đường Diễm Diễm vuốt vuốt châm vàng, như có điều gì suy nghĩ nói: "Dạ Lạc Hột căn bản không có ý đầu hàng, chúng ta kế tiếp xem ra cũng phải thay đổi một lần rồi. "
Thành Qua Châu giống như dưa hấu bị một thanh đao bổ ra tan nát, đã là trăm lỗ ngàn hố, rách nát không chịu nổi, vô số binh sĩ Hạ Châu từ bốn phương tám hướng giống như muỗi hành quân chen chúc vào thành, lầu trên thành Qua Châu tiếng chân như sấm, người hô ngựa hý, mũi tên xuyên không. Dê bò kêu loạn, hò hét loạn lên thật giống như là muốn trời sập đất sụt.
Quy Nghĩa Quân vẫn có một số ít binh tướng trung thành với Tào thị đang liều chết chống cự, tiến hành chiến đấu trên đường phố, mà đại bộ phận tướng sĩ Quy Nghĩa Quân đã đem binh khí vứt trên mặt đất, giơ cao hai tay đứng ở bên tường, đồng ý đồng hàng quân Hạ Châu. Đại thế Tào thị đã mất.
Chúc cháu Tào Duyên Cung, Tào Tử Đào suất lĩnh đám thủ hạ trung thành nhất chật vật trốn vào bên trong thành, vội vã đóng chặt đại môn, đại môn chợt ở trong tiếng va chạm nặng nề ù ù vang lên, chấn động đến cát đá trên thành tuôn rơi xuống, cũng không biết cửa thành dưới sự va chạm mãnh liệt này còn có thể chống cự được bao lâu, binh mã bên ngoài thật sự là nhiều lắm, binh lính thủ thành trên đầu thành dưới đối diện với binh sĩ phía dưới đột nhiên bắn tên như mưa căn bản không ngẩng đầu lên được, còn áp chế như thế nào được đối với binh sĩ Hạ Châu phá cửa dưới thành chứ?
Tào Duyên Cung vừa hận vừa hối hận, hận là hận mình hồ đồ, không nên đem người trốn tới từ Sa Châu thả vào thành. Cũng không biết những binh tướng trốn từ Sa Châu này là thật sự con mẹ nó trung thành, hay là gian tế được Dương Hạo sai khiến chuẩn bị vào thành, vừa vào thành đã đi phao tin Sa Châu đã là họ Dương, hơn nữa đem lời mê hoặc lòng người của lão thất phu Trương Thừa Tiên kia lan truyền khắp nơi, khi hắn cảm giác không ổn, muốn khống chế những người này, tin tức đã giống như một loại lửa cháy truyền ra toàn thành.
Quy Nghĩa Quân đối mặt với quân Hạ Châu vốn là không có chiến ý kiên quyết gì lại càng tiêu cực, Dương Hạo tựa như cũng nhận được tin tức Sa Châu vào tay, lúc này một mặt hô khẩu hiệu làm thủ quân trong thành vứt bỏ khí giới đầu hàng, một mặt chủ động công kích mãnh liệt, kết quả của nó không hỏi cũng biết. Tựa như một loại kiến đào sụp đê dài, có một nơi bị phá thì cả thành Qua Châu liền nhanh chóng lâm vào trạng thái thất thủ toàn diện, quân Hạ Châu vào thành.
"Oanh!" Một cánh cửa thành ở dưới sự va chạm với khúc gỗ to bị vỡ ra thành bốn năm phần, khúc gỗ to văng ra một cái, còn không đợi thủ quân trong thành bắn tên, những binh sĩ nâng khúc gỗ to đụng thành kia liền hướng hai bên chạy a , ở phía sau bọn họ, một đội kỵ binh giơ lên cương đao sáng như tuyết, cưỡi ngựa giương đao, nhào một cái đi vào, lập tức lại là một trận đại chiến trời đất mù mịt, ngựa đạp phố dài, gót sắt dẫm thi thể, dữ dằn quát mắng, tiếng kêu khóc thê thảm nổi lên bốn phía.
"Thúc, không được rồi, chúng ta đầu hàng đi."
Búi tóc Tào Tử Đào bị bắn rối loạn, hắn quên cả tóc rối, hồn bay phách lạc dẫn đao xông vào bên trong thành lũy cuối cùng trong thành, tòa Phong Hỏa Đài này cao cao, trên thân đầm đìa máu tươi.
Phong Hỏa Đài hoàn hảo không tổn hao gì, một hầm kho cây ngải, phân sói, phân trâu, để ban ngày phóng ra khói báo động, một hầm kho gỗ lớn tẩm dầu, để ban đêm phóng hỏa. Nhưng là, lúc này còn có hữu dụng gì đâu? Ngay cả khi đốt Phong Hỏa Đài, thì có ai đến giúp? Dưới Phong Hỏa Đài nổi trống trận ù ù, thiết kỵ gào thét. Hiển nhiên binh sĩ Hạ Châu càng đánh càng hăng, cờ bay phấp phới, người ngã ngựa đổ, huyết nhục bay ngang, thế tới không thể đở, cho dù muốn đốt phong hỏa đài làm mỹ nhân cười một tiếng, sợ rằng cũng không ai cười được đi.
"Hàng? Tại sao muốn hàng, tại sao muốn hàng?" Tào Duyên Cung như điên như dại, ánh mắt nhìn thẳng vào Tào Tử Đào, thấy vậy Tào Tử Đào liên tiếp lui về phía sau.
"Vứt bỏ khí giới không giết! Đầu hàng không giết!" Tiếng reo hò liên tiếp vang lên, tiếng phản kháng chém giết bên trong thành càng ngày càng nhỏ rồi, Tào Tử Đào vịn lan can Phong Hỏa Đài vừa nhìn xuống phía dưới, lo lắng quay đầu lại kêu lên: "Thúc à, bên trong thành cũng đã bị chiếm toàn bộ, chúng ta đã không có cơ hội, đầu hàng đi, đầu hàng đi" .
Tào Duyên Cung đầu tóc tán loạn, giơ lên thanh kiếm trong tay điên cuồng mà hét lớn: "Cút! Cút đi xuống cho ta! Tất cả cút xuống cho ta!"
Tào Tử Đào cùng mấy tên thị vệ chật vật không chịu nổi bị đuổi xuống khỏi Phong Hỏa Đài, lúc này một đội võ sĩ Hạ Châu đã như sói như hổ đánh tới, như sư tử vật lộn với thỏ, Tào Tử Đào cùng mấy tên hoàn toàn không có ý chí chiến đấu, vội vã chống đỡ chốc lát. Liền vừa hướng trên Phong Hỏa Đài lui bước, lúc này bọn họ đột nhiên phát hiện những binh sĩ Hạ Châu kia chợt ngưng công kích. Toàn bộ ngửa đầu hướng về phía trước nhìn lại, Tào Tử Đào chợt có điều nhận ra, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy lửa cháy mạnh trên Phong Hỏa Đài sáng rực trong màn đêm.
Tào Tử Đào quá sợ hãi, xoay người hướng Phong Hỏa Đài chạy lên., vừa chạy vừa kêu to: "Thúc !"
Mấy thị vệ nhìn lừa cháy cuồn cuộn trên Phong Hỏa Đài, binh khí trong tay"đương" một tiếng rơi xuống, nhưng là bọn hắn đã hồn bay phách lạc, toàn bộ đều không phát hiện ra.
Tào Tử Đào vội vàng hấp tấp địa chạy lên Phong Hỏa Đài, lửa cháy ngút trời), sóng nhiệt rừng rực đập vào mặt, nhào một cái lảo đảo, Tào Tử Đào lao vào trước bậc thềm, chỉ thấy Tào Duyên Cung đứng ở phía trước cách đó không xa, sóng nhiệt nướng cho đầu tóc xõa ra của hắn cũng bị quăn xoắn, sóng nhiệt bóp méo ánh sáng, thân ảnh Tào Duyên Cung thoạt nhìn tựa như cái bóng chập chờn trong nước.
Thúc Tào Tử Đào chỉ kịp hô nửa tiếng, sóng nhiệt đập vào mặt cuốn vào cổ họng, thanh âm của hắn bị sặc lại, sau đó hắn liền trơ mắt nhìn Tào Duyên Cung lấy tay áo che mặt, bỗng nhiên hướng phía trước chạy nhanh tới hai bước. Một cái tung người, liền nhảy vào trong lửa cháy hừng hực kia, thân ảnh trong nháy mắt liền bị lửa mạnh cắn nuốt hoàn toàn.
Tào Tử Đào kêu thảm thiết nói: "Thúc!
Ở sau lưng của hắn, một người binh sĩ Hạ Châu cao lớn vạm vỡ đã đánh tới, con ngươi hung hãn như hổ, cương đao đầm đìa máu chảy trong tay từ sau lưng của hắn giơ lên cao...
Dương Hạo mang kiếm bước vào phủ Thứ Sử Qua Châu, một đường đi tới thi thể nằm ngổn ngang, máu tươi bắn khắp nơi.
Ngải Nghĩa Hải đi theo bên sườn, vội vã bẩm báo: "Tào Duyên Cung tự sát ở Phong Hỏa Đài, trải qua người chỉ ra và xác nhận, Tào Tử Đào cũng đã chết trong khói lửa, tất cả thân tín dòng chính Tào Duyên Cung, trừ người chết trận ra, người bị đả thương chịu trói hoặc vứt bỏ khí giới đầu hàng đều đã bị khống chế ở hậu trạch phủ Thứ Sử này."
Dương Hạo đứng lại tại trong đại sảnh vốn lộng lẫy, lúc này lại máu tươi tung tóe này, đưa mắt nhìn quanh, trầm giọng nói: "Quét dọn chiến trường, trấn an dân chúng, lỷ luật nghiêm túc, nếu có cướp bóc, cưỡng gian giết người lạp tức giết ngay không cần hỏi, quấy nhiễu dân ức hiếp dân phạt nặng ba mươi quân côn. Bổn soái lập tức chạy tới Qua Châu, muốn nhanh chóng ổn định hai châu Qua Sa, thật ra thì lúc thống trị không thể thiếu được các đại gia tộc trợ lực. Một khi giải quyết xong chuyện nơi đây, lập tức thì phải suất lĩnh đại quân, điều quân trở về."
"Rõ, đối với những kẻ tâm phúc dòng chính Tào Duyên Cung thì xử trí như thế nào? Tào gia là đại thế gia thứ ba Sa Châu. Gia tộc cực kỳ to lớn."
"Áp giải toàn bộ hướng Hạ Châu, làm tù binh, người họ Tào bất luận nam nữ toàn bộ sung làm quan nô, phân phối đi làm công, nông canh!"
Dương Hạo dựng kiếm mà đứng, lãnh khốc nói: "Ta muốn nhổ tận gốc Sa Châu Tào thị, thiên địa xóa sạch, đánh tan toàn bộ. Có ân cũng phải có uy, thăm hỏi bát đại gia tộc Sa Châu. Mà Tào gia phải xóa tên khỏi Sa Châu, xóa đi sạch sẽ, sau này bất kể gia tộc nào, muốn xé cờ nổi lên, đều làm như vậy cho ta!"
Cát vàng mênh mông, mười mấy tên võ sĩ giáp nhẹ có thú văn sư tử ở bụng dưới sự hướng dẫn của một người tướng lãnh mặc giáp trắng, giúp đỡ nâng một người mang mũ màu đen, thân mặc áo bào văn sĩ cổ tròn cùng một hòa thượng đầu mang lư mão, thân mặc áo cà sa đỏ thẫm, chật vật từ dưới A Nhĩ Kim Sơn hướng phía trước chạy như điên, trang phục của bọn hắn, lại có thể là trang phục từ lâu của Đại Đường.
Ở phía sau của bọn họ, là hơn trăm tên võ sĩ Hồi Hột mặc điều văn trường bào, đầu mang khăn, tay nâng loan đao, gào thét mà đến, thỉnh thoảng có người bắn ra mủi tên. Võ sĩ Đại Đường phía trước một bên chạy trốn một bên ở trên ngựa lén bắn tên, trên đường song phương tiến tới, không ngừng có người trúng tên té xuống.
Một người bộ dáng giáo úy mắt thấy truy binh càng ngày càng gần như vậy, đột nhiên dừng ngựa kêu to: "Tướng quân. Khó có thể thoát khỏi truy binh, cứ tiếp tục như vậy đi xuống nữa, chúng ta đều xong hết. Xin đem quân bảo vệ Lý đại nhân cùng Tuệ Sinh đại sư tiếp tục đi về phía trước, bọn ta sẽ liều chết ngăn trở truy binh!"
Hắn vứt bỏ cung xuống đất, rút ra Hoành Đao thẳng tắp sáng như tuyết, một đạo quang mang lạnh lẽo nổi lên trong màn đêm, lớn tiếng quát to: "Các dũng sĩ Sư Tử Vương, chúng ta tuyệt không e ngại bất cứ địch nhân nào, vì hoàn thành sứ mạng Đại vương giao phó cho chúng ta, cùng bọn họ liều mạng!"
"Giết! Giết! Giết!" Đám võ sĩ vội vàng ghìm chặt chiến mã, bỏ qua cung tên, rút ra Hoành Đao, mười mấy chuôi Hoành Đao vô cùng sắc bén nhắm thẳng vào trời cao, nhanh chóng xếp thành một cái trận nho nhỏ, đột nhiên tăng tốc, hướng về phía sau phóng ngược lại.
"Đan Đan Ô Lý Khắc!"
Một người tướng quân mặc giáp trắng dừng ngựa điên cuồng kêu một tiếng, bọn thị vệ kia đã mắt điếc tai ngơ, đã là làm việc nghĩa không chùn bước, chạy về phía truy binh nghênh đón, hắn thở một tiếng thật dài, rưng rưng nói: "Lý đại nhân, Tuệ Sinh đại sư, chúng ta đi!"
Hai tay Tuệ Sinh đại sưy hợp thành chữ Thập, cao giọng tụng một tiếng Phật hiệu nói: "Phật tổ phù hộ các ngươi!" Dứt lời quay chiến mã, ra roi thúc ngựa theo văn sĩ áo cổ tròn chạy về phía trước.
"Nga nga a a ba ! Nga nga a a ba !"
Truy binh kêu lên quái dị, mắt thấy mười mấy tên võ sĩ mặc áo giáp nhẹ nửa người, thắt lưng thú văn sư tử thẳng mặt đánh tới, bọn họ cũng thu hồi cung tên, rút ra loan đao sáng như tuyết, dùng tiếng Hồi Hột hét lớn: "Nhật Nguyệt Thần chỗ nào cũng có, tín đồ Chân Thần bách chiến bách thắng, giết sạch những thứ dị giáo đồ này, xông lên!"
Hơn trăm tên võ sĩ cầm loan đao thúc ngựa như bay, quấy lên cát vàng đầy trời, trong cát bụi cuồn cuộn, giống như một đầu thổ long hướng về những võ sĩ mặc trang phục nhà Đường kia vọt tới, thiết kỵ gào thét, đao kiếm tương giao, người người đều quyết ý chịu chết, máu nhuộm cát vàng.
"Ta... ta không được rồi, chúng ta... chúng ta nghỉ một chút đi."
Bởi vì những võ sĩ kia liều mình ngăn trở, tướng quân bảo vệ văn sĩ cùng hòa thượng kia tạm thời thoát khỏi truy binh. Cũng không biết chạy ra bao xa, chỉ thấy thế núi vẫn liên miên không dứt, cát vàng vẫn như cũ không có giới hạn. Cũng không biết bao lâu mới có thể đi ra được nơi mặt trời cay độc nướng bọn hắn này, đôi môi văn sĩ triệt rách. Sức cùng lực kiệt, hai bắp đùi đã bị mài phá, cũng không vung roi ngựa nữa, không đi được một bước. Hắn lắc lắc túi nước nhưng cả một giọt nước chảy ra cũng không có, tuyệt vọng kêu lên.
"Đại nhân, không thể nghỉ ngơi. Ba trăm võ sĩ, dưới một đường đuổi giết, cũng chỉ còn lại có ba người chúng ta. Máu của ba trăm tướng sĩ không thể chảy vô ích."
Người tướng quân mặc giáp trắng đem túi nước còn dư lại non nửa của mình đưa cho hắn, nóng lòng như lửa đốt nói: "Đại nhân, bên trái chúng ta là người Hồi Hột Cao Xương Quốc, bên phải là người Hồi Hột Hoàng Đầu, tuy nói bọn họ đều là Phật Quốc, vương quốc Khách Lạt Hãn thờ phụng Chân Chủ bất đồng, nhưng là dù sao đều là một hệ Hồi Hột, trời mới biết bọn họ có thể nhờ người Khách Lạt Hãn tham gia lùng bắt chúng ta hay không, ở lâu một khắc, liền thêm một phần hung hiểm.
Tuệ Sinh đại sư liếm liếm đôi môi rớm máu, cũng lên tiếng nói: "Đúng vậy, không thể nghỉ ngơi, đại nhân, nhất định phải chống đỡ, nhanh đi. Đường đã không còn xa. Chờ chúng ta chạy tới Sa Châu, khi đó nghỉ cũng không muộn."
Lý đại nhân thấy hai người như vậy, cắn răng một cái cái, quát lên: "Tốt, chúng ta tiếp tục lên đường. "
Một nhóm ba người đem hết khí lực cuối cùng, liều mạng chạy tới phía trước. Rất nhanh, thân ảnh của bọn họ đã biến thành ba điểm nhỏ, biến mất tại đường chân trời. Lúc này, một đám võ sĩ đầu đội hãn cân mặc áo bào tro chạy tới, bụi đất cuốn đầy trời, bây giờ bọn hắn mới vừa tới chỗ ba người kai vừa ngừng nghỉ, một võ sĩ cưỡi dại mã hùng tuấn, cả người che phủ kín, chỉ lộ ra một đôi mắt hung ác, hắn thúc ngựa chạy mấy vòng tại chỗ. Cúi đầu nhìn một chút xíu dấu vó ngựa mà bão cát còn chưa hoàn toàn xóa đi, đưa tay chỉ về phía trước, quát lên: "Đuổi theo!"
Truy binh như châu chấu dưới sự dẫn dắt của hắn, dọc theo phương hướng ba người kia bỏ chạy mà mau chóng đuổi theo.
Kể từ khi vương phi A Cổ Lệ tiến vào đại doanh Dương Hạo, Dạ Lạc Hột Khả Hãn đã chọn lựa mười mấy người mắt tinh tường đứng ở chỗ cao đầu tường, không hề chớp mắt, nhìn chằm chằm về phương hướng của Dương Hạo trong quân danh, quan sát nhất cử nhất động nơi đó.
Thị lực của người trên thảo nguyên so sánh với thường nhân cũng nhìn xa được hơn một chút, thị lực của những người được cố ý chọn lựa ra này lại càng cao, hơn nữa mỗi người đều có tiễn kỹ thiện xạ, muốn trở thành một thần tiễn thủ có tài bắn cung siêu phàm nhập thánh, thị lực nhạy cảm như chim ưng tự nhiên là không thể thiếu.
Sắc trời dần dần ảm đạm xuống, trong quân doanh Dương Hạo vẫn là một mảnh yên lặng, tuần tra tuần tra, canh gác canh gác, nhưng khi một luồng ánh mặt trời cuối cùng biến mất ở trên đường chân trời, cả vùng đất quy về yên lặng. Đại trướng Trung Quân của Dương Hạo đột nhiên có chút rối loạn, đầu tiên là tiếng thét chói tai mơ hồ theo gió bay tới, nhưng ngay sau đó một loạt ánh lửa dấy lên, đó là từng cây đuốc.
Từ đầu tường nhìn lại, theo những cây đuốc di động mà xem, lộ ra vẻ hỗn độn mất trật tự, có thể thấy được người cầm cây đuốc là kinh hoàng như thế nào, bọn họ giống như con ruồi mất đầu nhảy loạn lên chung quanh, dưới ánh đuốc chiếu rọi xuống, còn thấy ẩn hiện bóng ảnh mấy đạo đao quang sáng choang hàn khí bức người, những tên Thiên Lý Nhãn " đang quan sát động tĩnh quân doanh Dương Hạo kia lập tức đem tin tức đó bẩm báo cho Dạ Lạc Hột đang lo lắng đợi chờ động tĩnh ngoài thành.
Dạ Lạc Hột vội vã chạy lên thành đầu vừa nhìn, quả thấy bên trong đại trướng trong quân doanh Dương Hạo rõ ràng xuất hiện cục diện hỗn loạn, Dạ Lạc Hột đầu tiên là mừng như điên một hồi, nhưng ngay sau đó liền nghĩ đến vương phi A Cổ Lệ có thể đắc thủ vào lúc này, tất đã bị tên háo sắc kia cho lên giường, vào thời khắc khi hắn dục tiên dục tử mới có thể đánh lén, mỹ nhân yểu điệu này, vốn là phi tử mình sủng ái nhất. Hôm nay lại...
Nghĩ tới đây, tinh thần Dạ Lạc Hột chán nản một chút, nhưng Dương Hạo là uy hiếp đối với hắn, phân lượng khát vọng đối với quyền lực địa vị ở trong lòng hắn cuối cùng vẫn nặng hơn so với một nữ nhân A Cổ Lệ, cảm giác tinh thần chán nản chẳng qua là chớp mắt đã trôi qua, vội vàng không kịp chờ đã hạ lệnh : "Mau, mau mau, thủ quân nhanh ra khỏi thành, triệu tập!"
"Phụ hãn chậm đã" .
Vương tử A Lý kịp thời ngăn trở hắn, hắn hướng phía trong doanh Dương Hạo, nơi những cây đuốc đang bối rối chạy qua lại mà nhìn thoáng qua,.trầm giọng nói: "Tin tức Dương Hạo bị đâm còn chưa truyền ra, lúc này xuất chiến, thủ tướng các doanh vẫn có thể thong dong phản kích, những ngày qua bọn họ đào hào sâu, dựng tường cao, ở bên ngoài xây dựng phòng ngự nặng nề, nếu mạnh mẽ công kích thì sẽ tổn thất quá lớn, chờ khi tin tức Dương Hạo bị đâm truyền ra các doanh, lòng quân đại loạn, không có tâm ham chiến. Chúng ta hãy tới. "
Dạ Lạc Hột bừng tỉnh đại ngộ, khen: "Con ta suy nghĩ thật chu đáo, lời nói thật đúng. Các bộ lạc nhanh chóng chuẩn bị yên cương, thắng ngựa đầy đủ chuẩn bị chiến tranh, tùy thời chờ lệnh bản Đại Hãn. "
Trong đại doanh Dương Hạo các đốm lửa vội vàng khuếch tán, cuối cùng cả đại doanh tựa hồ cũng xôn xao, các cây đuốc giống như sao băng chớp động, phàm là nơi cây đuốc dày đặc nơi, tất nhiên cũng là chỗ ở của chủ tướng các doanh. Trên thành, Dạ Lạc Hột cùng các tướng lĩnh dưới trướng nín hơi đang đợi, lại qua khoảng nửa canh giờ nữa, sao đầy trời. Cả vùng đất vắng vẻ, các cây đuốc trong doanh Dương Hạo dần dần ổn định lại, dừng tại chỗ bất động.
Dạ Lạc Hột đang kinh ngạc, một binh lính có thị lực xuất chúngh bỗng nhiên chỉ vào nơi xa hô: "Đại Hãn, bọn họ đào tẩu."
"A? Ở nơi đâu?" Dạ Lạc Hột vội vàng theo phương hướng hắn chỉ nhìn lại, nhưng chỗ kia xa như vậy. Căn bản cái gì cũng không nhìn thấy. Binh sĩ kia kích động nói: "Đại Hãn, ở nơi đó, nhìn kìa, có một đạo âm ảnh. Liền giống một con rồng dài, đang nhanh chóng theo hướng Đông mà đi, bọn họ tắt đuốc đi, đang thừa dịp lúc ban đêm lẩn trốn."
Dạ Lạc Hột vẫn là không nhìn thấy, nhưng là nghe lời hắn vừa nói, mơ hồ cảm thấy nhìn qua sa mạc hoang vu phập phồng sáng tối kia, quả thật tựa hồ có một đại đội binh mã đang lặng lẽ tiến về phía Đông.
Vương tử A Lý cười âm hiểm nói: "Được, ban đêm hành quân. Rút quân trước kẻ địch, là một điều đại kỵ. Chủ tướng bị đâm, quần long vô chủ, lại càng tối kỵ. Mười vạn đại quân Hạ Châu, trong lúc này đã từ mãnh hHổ, hóa thành một đám cừu đợi làm thịt. Phụ hãn, chúng ta có thể xuất binh rồi!"
Tinh thần Dạ Lạc Hột rung lên, run giọng kêu lên: "Thổi lên kèn lệnh, đuổi theo! Đuổi theo cho ta!"
Vương tử A Lý nắm chặt chuôi đao, lớn tiếng nói: "Phụ hãn xin bảo vệ chặt thành trì, chờ tin chiến thắng, chúng tướng sĩ, đi theo ta" .
Hắn liền cất bước hướng dưới thành chạy nhanh đi tới!
Đêm giết người không trăng, tiếng gió mạnh phóng hỏa.
Cửa thành Cam Châu mở rộng ra. Vương tử A Lý tự mình dẫn thiết kỵ, giống như một đám dã lang cực đói , hướng phía quân doanh của Dương Hạo đánh tới, không ngoài dự liệu, quân doanh Dương Hạo đã thành một tòa doanh trống không, cây đuốc cắm trên mặt cát, lấy làm kế nghi binh.
Dạ Lạc Hột giơ loan đao trong tay chỉ về phía trước, khí thế quát to: "Đuổi theo!"
Xung trận ngựa lên trước, ngựa đạp thẳng đi tới.
Bắc Đẩu Thất Tinh trên cao, ca thư dạ đái đao (anh cầm đao tới trong đêm^^) .
Đường Diễm Diễm mặc một thân chiến bào màu lửa đỏ. Tư thế oai hùng, tuấn mã yên cao, bát nữ Long gia cũng đều mặc giáp nửa người, áo choàng đỏ, theo hầu ở trái phải nàng, giục ngựa phi nhẹ, một đường đàm tiếu.
Ngoài ra còn có một người, là Cam Châu vương phi A Cổ Lệ . Hai tay nàng bị bắt chéo sau lưng, cưỡi ở trên một con ngựa, bị lôi theo ở trong bát nữ Long gia, theo Đường Diễm Diễm Trung Quân cùng nhau tiến về phía Đông.
"Mỹ nhân, ngươi nói Dạ Lạc Hột Đại Hãn có thể nhân cơ hội đuổi theo hay không?"
Vương phi A Cổ Lệ hừ lạnh một tiếng không nói gì, Đường Diễm Diễm dùng tay xinh đẹp nhẹ nhàng nâng cái cằm trắng nhọn xinh đẹp của nàng lên, cười nói: " Đại Hãn của ngươi sẽ phải đi tìm cái chết rồi, ngươi không quan tâm sao?"
A Cổ Lệ thản nhiên nói: "Từ một khắc vào trong doanh của ngươi kia, Cam Châu Hồi Hột vương phi A Cổ Lệ đã chết. Điều ta có thể làm thì đã làm, sinh tử của Đại Hãn, tương lai của Cam Châu, đã không còn một phần quan hệ với ta."
Đường Diễm Diễm cười ha ha, quay về nói với chung quanh: "Lấy lên được, thả xuống được, hợp khẩu vị của ta, nếu như ta là nam nhân, nhất định sẽ cưới nàng."
Long Linh Nhi cười làm lành nói: "Nếu phu nhân thấy thích, hãy thu nhận nàng, tựa như một loại đám tỷ muội chúng ta, làm hầu gái của phu nhân cũng được đi?"
Đường Diễm Diễm quay đầu vừa nhìn về phía A Cổ Lệ, đánh giá trên dưới một phen, nói: "Vương phi A Cổ Lệ tựa như một chủng ngựa hoang kiêu ngạo bất tuân, lại chịu biết điều mặc lên yên cương, làm hầu gái của ta sao?"
Tròng mắt Vương phi A Cổ Lệ xoay chuyển , bỗng nhiên làm ra một bộ dáng điềm đạm đáng yêu, thấp giọng nói: "Vào doanh hành thích, vốn là nhất định là chỉ có tới chứ không có lui, Dạ Lạc Hột bỏ qua một mạng ta để cho ta đến đây làm thích khách. Tình nghĩa vợ chồng của ta cùng với hắn vợ liền từ một khắc kia đã xóa bỏ rồi, ở trong trướng phu nhân, mặc dù A Cổ Lệ vẫn chưa làm xong sứ mạng, nhưng ta đã đem hết khả năng, không thẹn với lương tâm. Hôm nay ta cùng với Cam Châu đã không còn liên quan, Dạ Lạc Hột cũng không còn một vị Vương Phi A Cổ Lệ. Nếu như phu nhân nguyện ý thu nhận, A Cổ Lệ nguyện giống như tám Long nữ, làm một người hầu gái bên cạnh phu nhân."
Đường Diễm Diễm trầm ngâm một chút, hỏi: "Ngươi thật sự nguyện ý?"
Vương phi A Cổ Lệ mừng thầm trong lòng, vội vàng biết điều đáp: "Cam tâm tình nguyện."
Đường Diễm Diễm rút kiếm ra khỏi vỏ, kiếm quang chợt lóe, đã đâm về vương phi A Cổ Lệ , A Cổ Lệ kinh hãi kêu một tiếng, nhưng không tránh né, cũng không phản kháng, tay của Đường Diễm Diễm chém ngang tới mắt nàng, hơi ngừng lại, kiếm quang khẽ quấn, liền chặt đứt dây thừng trói ở sau lưng nàng, hôm nay Đường Diễm Diễm đã cùng Cẩu Nhi, Trúc Vận nhiều ngày ở chung một chỗ, kiếm thuật đột nhiên tăng mạnh, đã không phải là tay mơ, một kiếm xuất thủ, không bao giờ có chuyện gây ra sai lầm chê cười ban đầu khi thay Dương Hạo chém rắn nữa.
Vương phi A Cổ Lệ hoạt động tay chân một cái, kinh ngạc nhìn về phía Đường Diễm Diễm. Long Thanh Nhi ở một bên đã vội la lên: "Phu nhân, dù sao cũng nên mang nàng trở về Hạ Châu rồi hãy nói, bây giờ đã thả nàng.."
Đường Diễm Diễm cười nói: "Nghi ngờ người thì không dùng người. Dùng người thì không nên nghi ngờ người. Lại nói tiếp, nàng tay không tâc sắt, hừ hừ, có thể từ trong đại quân ta mà chạy đi sao? A Cổ Lệ, ta bây giờ giải khai trói buộc cho ngươi, không nên vọng tưởng sống lại, biết điều thì theo ở bên cạnh ta đi."
Hai tay A Cổ Lệ được tự do, mặc dù Đường Diễm Diễm không cho nàng một thanh binh khí như các thị nữu khác, nàng vẫn là vui mừng không chịu nổi, vội vàng đáp ứng một tiếng.
Lúc này, tiếng chém giết nổi lên từ phía sau, Đường Diễm Diễm dừng ngựa nghỉ chân . Hướng về nơi phát ra tiếng gầm lên nhìn chốc lát, chuyển về hướng A Cổ Lệ cười nói: "Thân là Vương Phi, ngươi thật sự không lo lắng cho Dạ Lạc Hột sao?"
Trên mặt A Cổ Lệ hoàn toàn không thay đổi sắc mặt, nhẹ nhàng nói: "Tiểu nữ bây giờ là thị nữ A Cổ Lệ Mãi Mãi Mãi Đề ben người Diễm phu nhân, không phải là Thất Vương Phi của Dạ Lạc Hột."
Đường Diễm Diễm nhìn nàng khẽ gật đầu nhẹ nhàng cười một tiếng. Ở đại trướng Trung Quân, nàng cũng là cúi đầu ôn thuần như vậy, giống như một đóa hoa sen e ngại gió mát thẹn thùng, nhưng nàng phát ra ngoài cũng là độc châm kiến huyết phong hầu (gặp máu là tỏi), lần này, nàng là thật sự phục tùng sao?
Trong mắt Đường Diễm Diễm chợt lóe lên dị thái rồi biến mất, bỗng nhiên nàng dừng ngựa xoay người lại, trầm giọng quát to: "Phục binh ra hết, toàn bộ đuổi theo kẻ địch" .
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 27: Lấy Lui Làm Tiến
Nguồn: Sưu tầm
*Đứng ở một bên, A Cổ Lệ nhạy bén ngó ngó khắp nơi, chậm rãi bước đi thong thả đi ra , một đội binh lính áp giải tù binh vội vã từ bên cạnh đi qua, A Cổ Lệ hướng ra phía ngoài đi ra, nhân cơ hội đội binh lính này che khuất tầm mắt của người khác, A Cổ Lệ vội vàng nhặt lên một áo giáp cùng đầu khôi bị vứt trên mặt đất rồi mặc vào, đi vội mấy bước, đã nhập vào trong trận hình nhân ảnh binh mã tán loạn.
Vương tử A Lý dẫn quân điên cuồng vội vã, phạm vào tứ đại kị cũng không phải bởi vì hắn chủ quan, mà là vào niên đại lúc ấy, hiệu suất chỉ huy từ trên truyền xuống bị các nhân tố khác quan như tố chất binh lính cùng hệ thống chỉ huy hạn chế, bất luận kẻ nào dưới tình huống như vậy mà truy kích quân địch cũng là thắng lợi ổn định. Bất kể địch nhân là thất bại thảm hại hay là chủ động rút lui, chỉ cần cường địch vẫn có lực vồ đến, dưới tình huống này mở lệnh kỳ ra, toàn quân rút lui, cho dù là tướng lãnh xuất sắc cũng không cách nào hoàn toàn điều động được quân đội, để cho bọn họ ở trong khi rút lui còn có thể giữ vững, tràn đầy ý chí chiến đấu, tiến hành phản kích đâu ra đấy.
Nếu như là rút lui ban đêm, như vậy cần suy nghĩ thêm tới nhiều nhân tố hơn nữa, hệ thống chỉ huy cơ hồ rơi vào tê liệt, nếu như quân đội ở trong khi rút lui bị đuổi kịp. Dưới tình huống này cùng cường địch giao phong, liền đã nhất định là thất bại, hơn nữa chủ soái bị đâm, quần long không đầu. Như vậy cho dù phía chạy tán loạn có trăm vạn đại quân, ở trước mặt truy binh có binh lực kém xa cũng nhất định là thất bại thảm hại.
Cho nên vương tử A Lý không chút nào cố kỵ khi hắn đuổi theo đại quân Dương Hạo đang thừa dịp lúc ban đêm vội vàng thối lui, cả người hưng phấn đến run rẩy, hắn nắm thật chặt lấy loan đao trong tay, quát to: "Xông qua, giết sạch bọn họ!"
Quân Hạ Châu đang hướng phía Đông vội vàng đi tới khi nghe được tiếng chân ngựa của bọn họ lúc đã nhanh chóng dừng bước lại, bằng tốc độ nhanh nhất bày ra một trận thế phòng ngự trận đơn giản, lúc này đốm lửa như rồng đã xuất hiện ở trên sa mạc hoang vu, trận hình phòng ngự yếu kém hiển nhiên không cách nào ngăn cản đại quân Cam Châu, bọn họ vội vàng biến hậu trận thành tiền trận bố trí thành phòng tuyến, nhưng nhanh chóng bị xé mở ra một vết rách, binh lính Hồi Hột ngang nhiên vọt vào, tiếp tục mở rộng miệng đột phá, chế tạo sát thương cùng hỗn loạn lớn hơn nữa.
Quan sĩ Hạ Châu tự nhiên biết mục đích thực sự của lần đột nhiên rút quân tối nay này, cho nên sĩ khí toàn bộ lòng quân không ảnh hưởng, mặc dù như thế, nhưng trong quá trình hành quân gấp đột nhiên dừng lại biến hóa thành trận hình phòng ngự, các bộ phận không cách nào phối hợp tác chiến được ăn ý, nhân mã của vương tử A Lý thành công đột phá tiến vào trận địa của địch, giống như một thanh đao nhọn hướng phía trước đâm tới.
Lúc này ở hai bên sa mạc đột nhiên xuất hiện một mảnh binh mã, lặng lẽ hướng về bọn họ đánh lén tới. Binh mã đột ngột xuất hiện ở hai bên cũng không la cũng không kêu, lại càng không giơ cây đuốc lên. Tiếng vó ngựa của bọn họ cũng bị tiếng người hô ngựa hý ở hiện trường che lấp đi rồi, nếu như lúc này có người chú ý tới tình hình hai bên, bọn họ sẽ phát hiện, đang có một tấm thảm đen kịt che trời che cả một vùng đất, lặng lẽ hướng nơi này phủ tới, một tấc một tấc làm cho màu sắc sa mạc thay đổi.
Rốt cục có người phát hiện ra nhân mã ở hai bên đột nhiên giết ra, bởi vì theo đại quân mà đến còn có cát bụi tung cao cao lên xông giữa màn đêm. Đem cả trăng sao sáng ngời trên bầu trời cũng che đậy đi rồi, trong lúc nhất thời giống như là có một yêu ma quỷ quái ở sa mạc đột nhiên đem ánh sao ánh trăng đều cắn nuốt, may là ở chỗ song phương hỗn chiến còn có cây đuốc của truy binh Hồi Hột giơ lên cao cùng với cây đuốc giơ lên của binh sĩ Hạ Châu bị đuổi kịp.
Cho nên, những đốm lửa này trở thành là ánh sáng duy nhất trong sa mạc, mà binh sĩ song phương giống như là những con bươm bướm vờn lửa, thành từng chuỗi kéo dài liên tục, vô cùng vô tận.
Binh sĩ Hồi Hột trăm triệu lần cũng không nghĩ tới bọn họ vốn là sắm vai người thợ săn lại đột nhiên biến thành đối tượng bị săn giết, giữa lúc kinh hoàng thất thố cuống quít nghênh chiến, đã bị nhân mã hai bên đánh lén đi lên cắt thành vài khúc. Binh sĩ Hạ Châu nổi lên vừa không cờ xí, cũng không kèn lệnh, cũng không lớn tiếng kêu giết, cũng không cần chỉ huy điều hành, mặc dù tập kích bất ngờ có tác dụng cực lớn ở trong chiến tranh, nhưng là một chuyện đánh giáp lá cà kia, chính là không cần suy nghĩ, chỉ cần ngươi quyết đoán cùng dũng khí, chỉ cần không ngừng xông về phiá trước, chỉ cần ngươi có thể chém người giỏi hơn so với đối phương.
Binh sĩ Hạ Châu nhào ra từ hai bên cầm đao đúng là đao thích hợp nhất dùng để chém người, một thanh Cương Đao mang theo tiếng gió gào thét, chiếu ra từng đạo hồ quang trong ngộn lửa, theo từng đạo điện quang hiện ra cùng biến mất, sẽ thấy vang lên những tiếng vang "Phốc phốc" đâm vào thịt trầm muộn, tiếng binh khí giao kích chạm vào nhau leng keng, tiếng reo hò chém giết kêu thảm thiết, còn có thanh âm hí dài của những con ngựa may mắn.
Người cầm đao hung mãnh chém giết, giết người rất đẹp! Một trận huyết đồ thật hung mãnh tàn nhẫn! Một cuộc đột kích lôi đình vạn quân!
Vương tử A Lý đang xung phong liều chết ở phía trước bỗng nhiên nghe thấy tiếng chém giết ngựa hý xôn xao ở hậu trận so với nơi này của hắn càng thêm thảm thiết hơn, vương tử A Lý vội vàng quay đầu nhìn lại, lập tức liền phát hiện ra vấn đề: đây là một cái bẫy!
Một khi biết rõ ràng điểm này, lòng vương tử A Lý lập tức chìm đến đáy cốc, hắn lập tức liền nghĩ đến phá vòng vây, nhưng là, hắn đi quá sâu vào trong trận quân Hạ Châu rồi, người ngựa phía sau đã bị chặt đứt. Quân địch phía trước đang bổ nhào ngược trở lại, mà ở hai cánh trái phải, là đông nghịt căn bản không nhìn thấy có bao nhiêu quân địch.
Khi quân địch mãnh liệt xông tới, hắn giống như một đóa bọt sóng bị chôn vùi ở trong biển, vương tử A Lý chợt nhớ tới một câu châm ngôn của người Hán:
Gậy ông đập lưng ông!
"Quân ta thương vong..."
"Nói cho ta biết số thương vong của quân địch!"
Mộc Khôi vội vã chạy tới trước mặt Đường Diễm Diễm. Mới vừa mở miệng nói chuyện, liền bị cắt đứt.
Mộc Khôi, ngừng lại một chút nói: "Con số tỉ mỉ còn đang trong thống kê, căn cứ phỏng đoán sơ bộ, quân địch chết hơn chín ngàn người, bị thương và bị bắt làm tù binh là hơn một vạn năm ngàn người." Tỷ lệ chết cùng bị bắt được nhiều đến như thế. Có thể thấy được trận đánh phục kích lần này thảm thiết như thế nào.
Đường Diễm Diễm nhíu nhíu mày: "Thành Cam Châu có thể nói là hầu như toàn dân giai binh, người biết cưỡi ngựa bắn cung có ít nhất bảy vạn người, nếu như chẳng qua là thủ thành mà nói, có thể sử dụng còn nhiều hơn. Nói như vậy binh lực cao hơn mấy con số chữ này nhiều, nói cách khác, trận chiến phục kích dụ xà xuất động này, chúng ta chỉ tiêu diệt được một phần ba địch nhân? .
Mộc Khôi nói: "Phu nhân, cũng không phải là sĩ tốt sợ kẻ địch không tiến, một cuộc chiến trong đêm, có thể tiêu diệt ba thành quân địch. Chiến tích này đã là hết sức khó có được rồi!
Chiến đấu trong đêm, mặc dù chúng ta chiếm tiên cơ, nhưng quân địch cũng dễ dàng bỏ chạy tứ tán, cho nên đánh tan bọn họ dễ dàng, nhưng muốn tiêu diệt toàn bộ thì cực kỳ khó."
Đường Diễm Diễm thở dài, lo lắng nói: "Mộc tướng quân, ta cũng không phải là trách cứ tướng sĩ không chịu phục vụ quên mình. Chẳng qua là, chiến quả như vậy cũng không lý tưởng, nếu như chúng ta lập tức trở về kinh sư, rồi lại vây thành Cam Châu. Dựa vào binh lực hiện có trong thành, vẫn là không thể nhanh chóng đánh hạ nó, nhưng thời gian không đợi người a."
Mộc Khôi nói: "Không thể đánh một trận công được thành, đó cũng là không có cách nào, ngày xưa Lý Quang Duệ mấy bận dẫn binh Tây chinh, chiến quả còn chưa được hiển hách bằng một nửa chúng ta dó, trận đánh này đánh xuống, đã đủ để uy hiếp các bộ lạc Tây Vực rồi, chúng ta không thể chờ đợi thêm nữa, Thái Úy đã ra lệnh điều quân trở về, quân lệnh đã hạ , chúng ta phải nhanh chóng sớm điều quân trở về Lương Châu mới tốt."
Vương phi vương phi A Cổ Lệ vẫn im lặng đứng ở trong góc nhỏ, bởi vì trận đại chiến này, nàng cơ hồ bị mọi người quên lãng đi, lúc này nghe được những lời này của Mộc Khôi, thân thể mềm mại của nàng không khỏi chấn động: "Thái Úy hạ lệnh sớm điều quân trở về Lương Châu? Lương thảo của bọn họ quả nhiên không còn nhiều nữa ! Ta không đoán sai, nếu như tiếp tục chịu đựng tiếp nữa. Bọn họ nhất định đi trước rút quân, chúng ta căn bản không cần tứ tán phá vòng vây, căn bản không cần chủ động đánh ra!" A Cổ Lệ reo hò ở trong lòng, hận không thể lập tức vọt tới trước mặt Dạ Lạc Hột, bảo hắn trợn to mắt chó của hắn mà nhìn cho rõ ràng, rốt cuộc là con trai bảo bối của hắn anh minh, hay là A Cổ Lệ nàng thông minh.
Đường Diễm Diễm lo lắng nặng nề nói: "Đúng vậy, quân coi giữ thành Cam Châu bị tiêu diệt ba thành, chỉ cần cho chúng ta thêm chút thời gian, tiếp tục vây nó một thời gian ngắn nữa, Cam Châu tất nhiên tới tay. Đáng tiếc! Triều đình vì thâu tóm chúng ta, lại cấu kết Xích Trung phản bội Phủ Châu. Vừa giá họa cho chúng ta, khiến cho chúng ta trăm miệng cũng không thể bào chữa, hôm nay đại quân triều đình đã sắp tới, mà Thái Úy lại đang từ Qua Châu rút quân, cũng không biết bao lâu mới có thể chạy tới, chúng ta không thể làm gì khác hơn là đi trở về trước trợ giúp. Nếu như trở về trễ, căn cơ có gì sơ thất, hậu quả thực là thiết nghĩ không chịu nổi."
"Cái gì? Tống Quốc hạ thủ đối với hai châu Lân Phủ, hơn nữa còn giá họa cho Dương Hạo, tiến sát Hạ Châu?"
Trái tim A Cổ Lệ nhất thời "phanh phanh" ngỗ nghịch nhảy lên, chỉ nghe Đường Diễm Diễm quả quyết nói: "Không thể đợi thêm nữa rồi, chúng ta lập tức chạy tới Lương Châu, nghỉ ngơi và hồi phục sơ qua, lập tức gấp rút tiếp viện cho Hạ Châu. Bất quá, Cam Châu Hồi Hột có thể tiếp tục đuổi tới hay không?"
Mộc Khôi nói: "Phu nhân yên tâm, chúng ta rút lui không xa, hắn mới dám ra khỏi thành truy kích, hôm nay bọn họ trúng mai phục, giờ phút này thành Cam Châu thế tất đóng chặt bốn cửa thành, sẵn sàng chiến đấu, sợ chúng ta đánh tới đi, nào còn dám xuất binh. Chúng ta bây giờ lập tức hành quân. Đợi đến hừng sáng, khoảng cách cùng bọn họ đã kéo ra xa. Dạ Lạc Cật tuyệt không dám đem tinh nhuệ ra hết, để Cam Châu trống rỗng. Thái Úy ở bên kia tùy thời có thể điều quân trở về, nếu hắn dám xa Cam Châu, không sợ bị Thái Úy đánh úp hang ổ sao?"
Đường Diễm Diễm khen: "Mộc tướng quân nói rất có đạo lý, tốt, lập tức nghiêm túc chỉnh đốn quân đội, sau nửa canh giờ nữa, nhanh chóng về Lương Châu."
"Tuân lệnh!"
Lúc này Long Linh Nhi mang kiếm chạy tới, vội vàng nói: "Phu nhân, có một người Hồi Hột đầu tiên là nằm xen lẫn trong đống xác chết, sau lại thừa dịp người chưa chuẩn bị mà đoạt ngựa trốn đi, có binh sĩ Hồi Hột bị bắt nhận ra được, người nọ là đại vương tử Hồi Hột A Lý."
Vẻ mặt Đường Diễm Diễm biến đổi: "Thật không? Đã sai người đuổi theo chưa?"
"Đã phái người đuổi theo rồi, bất quá đại chiến mới vừa kết thúc, khắp nơi đều đang xử lý thi thể, cứu trị thương binh, giam giữ tù binh, trong đêm tối, ai cũng không ngờ rằng người giục ngựa phi qua lại là dư nghiệt Hồi Hột, lúc đó còn không biết nên đuổi theo hay không."
Đường Diễm Diễm nói: "Thì ra là lãnh binh truy kích là vương tử Hồi Hột, đáng hận, đuổi theo! Nhất định phải bắt được hắn!"
Mộc Khôi nhắc nhở: "Phu nhân, cứu binh như cứu hỏa. Chúng ta không thể lưu lại ở chỗ này lâu được!"
Đường Diễm Diễm cắn răng nói: "Đại quân chờ nửa canh giờ, nếu không có kết quả thì lên đường."
Nàng vừa nói vừa vội vàng đi thẳng về phía trước, vừa đi vừa nói: "Tù binh mang đi toàn bộ, nói không chừng trong đó còn có nhân vật quan trọng gì của Cam Châu Hồi Hột."
Đứng ở một bên, A Cổ Lệ nhạy bén ngó ngó khắp nơi, chậm rãi bước đi thong thả đi ra , một đội binh lính áp giải tù binh vội vã từ bên cạnh đi qua, A Cổ Lệ hướng ra phía ngoài đi ra, nhân cơ hội đội binh lính này che khuất tầm mắt của người khác, A Cổ Lệ vội vàng nhặt lên một áo giáp cùng đầu khôi bị vứt trên mặt đất rồi mặc vào, đi vội mấy bước, đã nhập vào trong trận hình nhân ảnh binh mã tán loạn.
Đường Diễm Diễm cùng Long Linh Nhi đứng ở một chỗ cao trên sa mạc hoang vu, Long Minh Nhi từ mặt sau vội vã chạy tới, ôm quyền nói: "Phu nhân, quả nhiên nàng đã chạy."
Đường Diễm Diễm gật đầu, quay về nói với Long Linh Nhi: "Làm sao lại không nói chuyện dẫn ta rời đi theo như kế hoạch của chúng ta, để tạo cơ hội cho nàng? May mà ta phản ứng nhanh, bằng không thật đúng là tin ngươi."
Long Linh Nhi cười khổ nói: "Phu nhân, Linh Nhi không nói láo, thật sự có người giả mạo tử thi, đoạt ngựa chạy đi, trải qua sự phân biệt của tù binh, nói người nọ chính là vương tử A Lý."
Đường Diễm Diễm ngẩn ra, thất thanh nói: "Lại có thể là thật? Đã thật sự phái người đuổi theo rồi?"
"Dạ"
Đường Diễm Diễm nhìn xa nhìn gần xem một chút, khắp nơi là một mảnh tán loạn, đều là mấy tên lính đi tới đi lui quét dọn chiến trường, những cây đuốc như biển sao, dưới tình hình như thế đột nhiên có một người quất ngựa phóng đi, người bên cạnh sợ là hỏi cũng không hỏi, muốn bắt hắn trở lại nói cũng khó.
Đường Diễm Diễm lắc đầu, lẩm bẩm: "Muốn bắt hắn trở lại, rất khó, đáng tiếc. "
Long Linh Nhi an ủi: "Nếu như không bắt được trở lại. Vậy coi như là hắn mạng lớn, dù sao không ảnh hưởng tới đại cục, phu nhân cần gì để ở trong lòng."
Đường Diễm Diễm liếc nàng một cái, mỉm cười khen: "Kế sách của ngươi rất hay, nếu quả thật có thể có hiệu quả, ngươi liền lập được một cái công lao thật to trước mặt Thái Úy ."
Thì ra là, sau khi lương thực tồn ở Cam Châu hầu như không còn, Dạ Lạc Hột ba bốn phen thử phá vòng vây, bất quá binh sĩ Hồi Hột rơi vào trong tay Đường Diễm Diễm, trải qua dùng hình đã thú nhận ý ý muốn phá vòng vây của Dạ Lạc Hột, Đường Diễm Diễm nghe xong vô cùng lo lắng, nếu như Dạ Lạc Hột thật sự chạy đi, đại mạc mờ mịt, thảo nguyên mênh mông, khi đó còn muốn tiêu diệt hắn có thể nói là rất khó khăn.
Đánh rắn không chết sẽ bị cắn, thả hổ về núi hại nhà mình, đến lúc đó dân chúng Cam Châu Hồi Hột sẽ không thần phục dưới trướng Dương Hạo, Dạ Lạc Hột lại có thể cấu kết với Lũng Hữu Thổ Phiên, tùy thời ngóc đầu trở lại.
Xét theo việc lần này, sau khi Dương Hạo nhận được tin tức Đường Diễm Diễm truyền báo, liền nhắn trở lại nói muốn nàng không tiếc hết thảy trì hoãn ở chỗ Dạ Lạc Hột đợi hắn điều quân trở về, nếu không một khi Dạ Lạc Hột đột phá vòng vây chạy trốn, như vậy tòa thành trống không này cũng không có bao nhiêu hữu dụng. Thực sự quan trọng là ... người, là ba mươi vạn dân Cam Châu Hồi Hột. Nếu như không thể thu phục bọn họ, ở hành lang Hà Tây sẽ tăng thêm ba mươi vạn du kích âm hồn bất tán, khi đó Dương Hạo sẽ thật sự lún sâu vào vũng bùn chiến tranh ở hành lang Hà Tây.
Song lấy binh lực trong tay Đường Diễm Diễm, phân binh ra vây khốn một tòa thành trì lớn như thế, muốn ngăn trở Dạ Lạc Hột bỏ thành mà chạy thực sự là không dễ, Đường Diễm Diễm đã vài lần triệu tập các tướng lĩnh nghị sự, cũng không có nghĩ ra được phương pháp xử lí nào bảo đảm Dạ Lạc Hột sẽ không chạy trốn, cùng lúc đó tần suất Dạ Lạc Cật tiến hành thử dò xét tính phá vòng vây càng ngày càng cao, tình thế hết sức cấp bách. Lúc này Long Linh Nhi được Dương Hạo phái đến Cam Châu vì Đường Diễm Diễm hiến một kế, nàng phân tích nói: nếu như ép Dạ Lạc Hột, thật sự đẩy hắn bất kể hy sinh bỏ thành mà chạy, lấy binh lực an bài ở bên ngoài Cam Châu trước mắt là không vây được hắn, mà Dạ Lạc Hột hôm nay đã nóng nảy, Thái Úy lại chẳng biết lúc nào mới có thể giải quyết hai châu Qua Sa, nói như vậy, không bằng chủ động bỏ qua Cam Châu, rút về Lương Châu, xuất ra tin tức triều đình công kích hai châu Lân Phủ cho người Cam Châu Hồi Hột biết, làm ra bộ dạng giả bị buộc trở về viện binh, dù sao tin tức này mấy ngày nữa cũng nhất định sẽ truyền vào trong tai của bọn hắn, chính là có thể lợi dụng.
Ngoại địch vừa lui, cho dù Cam Châu cả một hạt gao cũng không còn. Dạ Lạc Hột cũng sẽ không bỏ thành chạy nạn nữa, hắn sẽ tận lực điều động lương thực gạo thịt từ các bộ lạc du mục bên ngoài để ăn để giải quyết việc Cam Châu thiếu lương thực. Mà sau khi Đường Diễm Diễm lui binh về Lương Châu, có thể tạm thời ở nơi đó nghỉ ngơi và hồi phục. Làm ra tư thế chuẩn bị gấp rút tiếp viện Lân Phủ, nhưng là cũng không thật sự lên đường, chờ tới thời điểm Dương Hạo giải quyết xong hai châu Qua Sa, thắng lợi điều quân trở về, sẽ báo cho Diễm Diễm, hai quân từ hai phía Nam Bắc lấy khí thế sét đánh không kịp bưng tai bao vây Cam Châu một lần nữa . Vây mà không tấn công, chủ động triệt binh, lại vây khốn một lần nữa như thế, cho dù thần kinh Dạ Lạc Hột hắn làm bằng thép, như vậy rất nhanh cũng sẽ phải hỏng mất dưới đại hỷ đại bi (vừa vui quá xong lại buồn ngay=
Đường Diễm Diễm đem việc Long Linh Nhi thiết kế nhưu thế rõ ràng rành mạch ghi lại rồi trình báo cho Dương Hạo. Dương Hạo tụ tập chư tướng, hơn nữa chú ý nghe ý kiến của các tướng lĩnh quen thuộc với tình hình Cam Châu, liền đồng ý với một kế này.
Đám người Đường Diễm Diễm cùng Mộc Khôi thương nghị chủ động lui binh, đồng thời khéo léo mà đem ký do lui binh truyền tới trong tai của Dạ Lạc Hột. Kế nhẫn tâm hiến mỹ nhân của Dạ Lạc Hột thất bại, Đường Diễm Diễm liền biết một khi tin tức thất bại này truyền trở về, Dạ Lạc Hột tất nhiên sẽ lập tức mạnh mẽ phá vòng vây.
Cho nên nàng tương kế tựu kế, dẫn xà xuất động, nếu như có thể một lần tiêu diệt chủ lực của Dạ Lạc Hột thì cũng không cần đại quân đi tới đi lui nữa.
Bất quá kết quả chiến đấu cũng không quá lý tưởng. Vẫn theo như kế hoạch đã sớm định ra rút về Lương Châu, lúc này làm như thế nào đem tin tức khi giả rút quân tiết lộ cho Dạ Lạc Hột, lại không làm cho hắn sinh lòng nghi ngờ, chính là một cái vấn đề khó khăn, tin tức quan trọng như vậy cũng không thể tùy tiện để một sĩ tốt trùng hợp có thể nghe thấy được đi?
Long gia là ở dưới tình huống bị đại quân tiếp cận bị buộc đầu hàng, Long Linh Nhi trải qua biến hóa tâm cảnh như vậy, cho nên đối với vương phi A Cổ Lệ đồng dạng bị buộc đầu hàng là thật tâm đầu hàng hay là lá mặt lá trái có thể tháy rõ hơn so với người bên cạnh, nàng căn bản không tin tưởng con ngựa hoang kiêu ngạo bất tuân này có thể thoải mái mà đầu hàng như vậy, liền hiến kế: mọi người cùng nhau ở trước mắt vương phi A Cổ Lệ diễn một vở kịch, tạo cho nàng cơ hội chạy trốn, vương phi Hồi Hột tự mình đưa tin tình báo trở về, nhất định có thể trấn an Dạ Lạc Hột, làm cho hắn an tâm canh giữ ở thành Cam Châu.
Long Linh Nhi khiêm tốn nói: "Túc Châu cùng Cam Châu ở gần nhất, lần này có cường địch bên người, làm sao không để tâm. Cho nên Long gia ta mỗi ngày cũng đều nghiên cứu Cam Châu, đều suy nghĩ về tên Dạ Lạc Hột này, có thể nghĩ ra biện pháp như vậy, là bởi vì Linh Nhi hiểu rõ Cam Châu, hiểu rõ tính tình Dạ Lạc Hột, nhưng cũng không coi là chuyện gì, cũng là nhờ phu nhân người có thể tùy cơ ứng biến, biết thời biết thế lợi dụng kế hành thích, để cho Dạ Lạc Hột ăn phải thiệt thòi lớn như vậy, Linh Nhi thật là khâm phục từ đáy lòng."
Đường Diễm Diễm hì hì cười nói: "Cái miệng ngươi thật ngọt a, chỉ một cô nương Long gia các ngươi cũng đa mưu túc trí, cũng tính là nhân tài đông đúc ."
Long Linh Nhi càng thêm nhún nhường: "Có nhân tài, cũng cần phải có thực lực, mới có cơ hội chí khí được mời rượu, Long gia đã thành tâm quy thuận, sau này kính xin phu nhân nâng đỡ nhiều hơn."
Đường Diễm Diễm mỉm cười nói: "Lời này ngươi nên đợi đến lúc khánh công tự mình nói với Thái Úy đi. Trải qua một chuyện lần này, Thái Úy nhất định sẽ nhìn ngươi với con mắt khác."
Long Linh Nhi tự nhiên nói: "Phu nhân, nếu không phải tình thế bất đắc dĩ, con gái nhà ai lại nguyện ý bị đem thành lễ vật tặng tới đây? Cũng là gia phụ nhất thời hồ đồ, mới nghĩ ra biện pháp vụng về đáng cười như vậy ; thật ra thì Dương Thái Úy anh minh thần võ, tâm hoài chí lớn. Dùng nữ sắc lấy lòng, trái lại sẽ bị Thái Úy xem thường. Long gia phải theo khuôn phép cũ, thật tình làm việc, mới có thể nhận được sự ưu ái của Thái Úy."
Đường Diễm Diễm đảo đôi mắt đẹp, xinh đẹp nói: "Như vậy nếu như quan nhân nhà ta thật sự là một tên háo sắc thì sao đây?"
Long Linh Nhi giật mình trong lòng một cái, do dự một chút, quyết định vẫn là đàng hoàng trả lời ở trước mặt nàng thì tốt hơn, liền nói: "Nếu như thế, Linh Nhi cùng các tỷ muội khác, vì cả nhà Long gia, cũng là cam tâm tình nguyện hầu hạ bên người Thái Úy cùng phu nhân."
Đường Diễm Diễm ra vẻ kinh ngạc nói: "Một người như vậy mà, ngươi nguyện ý giao thân cho hắn?"
Long Linh Nhi làm ra một bộ dáng đáng thương, sâu kín nói: "Linh Nhi là con gái hàng thần, sao có tư cách nói một tiếng nguyện ý hay là không muốn chứ, bất quá là vì tiền đồ của phụ thân cùng gia huynh, an nguy của cả nhà, chủ thượng háo sắc thì lấy sắc để hiến, chủ thượng trọng tài, thì lấy tài bày ra."
Đường Diễm Diễm lại cười nói: "Nói như vậy, ngươi là đồng ý rồi?"
Long Linh Nhi nói: "Vâng, trên đời có mấy người có thể không làm việc mình không thích đây? Long gia hưng vong, đều ở giữa một ý niệm của Thái Úy, tự nhiên phải nhìn sắc mặt Thái Úy mà làm việc. Thật ra thì ngưu tầm ngưu mã tầm mã .Bá chủ một phương là hạng người gì, thích làm những thứ dạng chuyện như thế nào, thì hội tụ đến bên cạnh hắn sẽ là những người như thế, những người này sẽ thích làm một chút chuyện đồng dạng, đây vốn là chọn thứ chủ thượng yêu thích. Linh Nhi nhìn bên cạnh Thái Úy có quan văn thanh liêm có khả năng, võ tướng dũng mãnh thiện chiến, Diễm phu nhân lại là hiền thê văn võ song toàn, cũng biết gia phụ dùng sai biện pháp rồi, xem thấp Thái Úy."
Đường Diễm Diễm cười nói: "Một cô nương thật có tài. Giỏi văn giỏi võ, dung mạo xinh đẹp, lại có thể nói như vậy, nếu ta là nam tử, cũng phải sinh lòng trìu mến đối với ngươi. Hắc hắc, lần này ngươi lập công lớn, cũng thể hiện ra tài năng của ngươi, chờ sau khi Thái Úy trở về, ta sẽ tiến cử ngươi đi Ngân Châu làm Trưởng Sử Kiêm Tham Nghị được chứ, quản lý Ngân Châu chính là Lý Nhất Đức cùng Kha Trấn Ác, đang cần một hiền tài phụ tá
Long Linh Nhi lắp bắp nói: "Ta , ta là một cô bé, cũng có thể làm quan sao?"
Đường Diễm Diễm nói: "Làm sao không thể? Dương Thái Úy trị vì, cũng không cấm nữ nhi xuất đầu lộ diện làm việc, cũng không cầm nữu nhi tham gia khoa cử, vào làm quan. Hiện tại dưới quyền Tiết Suất cũng có nữu quan của ta, chỉ bất quá làm tới cấp bậc cao như Trưởng Sử Tham Nghị như vậy chính là trước nay chưa từng có."
Long Linh Nhi thán phục nói: "Thái Úy làm việc, quả nhiên là khác với thường nhân, nữ nhân cũng có thể làm việc ở quan nha."
Đường Diễm Diễm cười nói: "Đó là tự nhiên, nữ nhân của Dương gia chúng ta, hôm nay đã chịu trách nhiệm chức vị quan trọng ở trong Soái phủ rồi, bất quá Thái Úy nói nữ quyến của hắn nhậm chức ở quan phủ có quá nhiều tệ nạn, đang định sau khi thống nhất Hà Tây, liền hủy bỏ chức vị của chúng ta ở hai giới quân chính, bất quá những người khác nhậm chức thì không sao, Thái Úy chỉ nhìn tài, không phân biệt nam nữ."
"A! Đa tạ phu nhân khen thưởng."
Đường Diễm Diễm cười hắc hắc nói: "Nói như vậy. Ngươi là đáp ứng đi? Tốt, chờ giải quyết nguy cơ cho Lân Phủ. Ta liền tiến cử ngươi. Dứt lời, Đường Diễm Diễm liền xoay người rời đi.
Long Minh Nhi lập tức chạy đến bên cạnh Long Linh Nhi, hưng phấn mà nói: "Tỷ tỷ, phu nhân muốn cho ngươi làm Trưởng Sử Tham Nghị? Wow! Tỷ tỷ một nữ nhi, lại có thể làm quan, còn có thể làm quan lớn như vậy, xem ra phu nhân thật là rất thưởng thức ngươi."
Long Minh Nhi chính là cô bé có vóc người xinh xắn lanh lợi nhất Long gia, tuổi cũng là nhỏ nhất, Long Linh Nhi liếc nhìn bóng lưng của Đường Diễm Diễm, trên mặt trái lại là một vẻ tựa như cười nhưng không cười: "Phu nhân chưa chắc là thưởng thức ta, muội muội ngốc, ta thấy nàng là sợ Thái Úy thưởng thức ta mới đúng."
Long Minh Nhi nháy mắt mấy cái, kinh ngạc nói: "Lời này là như thế nào? .
Long Linh Nhi thở dài nói: "May mà địa bàn của Thái Úy chỉ có lớn như vậy, nếu là Nam Chiếu Quốc cũng là thiên hạ của Thái Úy, Linh Nhi tỷ tỷ của ngươi sẽ bị điều đến Nam Chiếu, để cả đời cũng không nhìn thấy nữa đi? "
Long Minh Nhi nhìn bóng lưng Long Linh Nhi khoan thai rời đi, không hiểu ra sao.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 28: Chỉ Định Sa Châu(2)
Nguồn: Sưu tầm
Tình cảm của dân chúng trăm họ là mộc mạc nhất, cũng là dễ dàng cảm động nhất, mà đám quan lại sĩ thân Sa Châu có kinh nghiệm nhiều hơn, cũng không vì mấy câu thân thiết liền xuất phát từ nội tâm cảm động đến rơi nước mắt, bọn họ đã nghe ra được từ đó một chút ý bất thường: hoàng đế Đại Đường đã mất, nhưng là hiện tại Trung Nguyên còn có một hoàng đế Đại Tống, mà Dương Thái Úy lại chỉ nói người Hán Trung Nguyên không quên người Hán bị quẳng đi ở Tây Vực, cũng không nói tới hoàng đế Tống Quốc, cái này có ý vị sâu xa.
Giờ phút này, dân chúng trăm họ hô to vạn tuế, mà Thái Úy Dương Hạo hắn, lại theo bản năng nhìn về phía Đông.
Hắn cũng đã từng trải qua một màn như vậy, khi đó, hắn thấp thỏm lo âu, thành tâm thành ý xuống ngựa, mặt ngó phương Đông mà quỳ, dẫn dắt mọi người hô to vạn tuế, đem lòng biết ơn cùng kính yêu của dân chúng . chuyển đạt cho vị hoàng đế bệ hạ ở phương Đông kia, mà bây giờ, hắn còn có thể một lần nữa hạ kiệu, suất lĩnh mọi người hướng phía Đông mà quỳ sao?
Trong tiếng "Vạn tuế!" , Dương Hạo chậm rãi ngồi xuống, nhẹ nhàng hướng phái trước vung tay lên, nghi trượng một lần nữa đi về phía trước, dân chúng trăm họ cũng tự giác nhanh chóng hướng ra hai bên, hết sức cung kính đưa mắt nhìn nghi trượng Dương Hạo đi trước.
Phía sau, là đại quân mênh mông, bọn họ bỗng nhiên không hẹn mà đồng, cùng cao giọng hát lên khúc "Đại Trận Nhạc" (mừng đại trận) .
Đại Trận Nhạch là hành khúc Đại Đường. Trung Nguyên đã không còn mấy người hát hành khúc này rồi, nhưng là ở trong lòng những người Hán bị chia tách ở Tây Vực, bất kỳ một chút ý tứ của tổ tông truyền xuống, cũng là vô cùng trân quý, chính là những thứ này, khiến cho bọn hắn vẫn duy trì được tư niệm cùng liên lạc với cố thổ, khúc "Đại Trận Nhạc" này bọn họ tự nhiên là nghe nhiều nên thuộc.
Bất đồng chính là, ca khúc vẫn là ca khúc kia, nhưng lời ca của đám bộ hạ Dương Hạo cũng đã được loại đi rất nhiều thứ không hợp thời đại để thay đổi.
Trống trận tưng bừng, kèm theo tiếng ca khí thế ngất trời của bọn lính: "Bốn biển áo choàng bay, nước xanh mãi ngàn năm; nhung y càng không lấy, hôm nay công thành trở về nhìn đê Tần Tắc thấp như ngựa, thấy Hoàng Hà chảy thẳng về phía Bắc. Thiên uy cuốn thẳng ngọc môn, vạn dặm người Hồ hát Hán ca... "
Năm đó, Thổ Cốc Hồn xâm chiếm Sa Châu, Trương Nghĩa Triều đánh bại quân địch, đuổi theo hơn một ngàn dặm . Bắt sống tể tướng Thổ Cốc Hồn, đem giặc cùng xâm phạm bắt được, cùng nhau chém đầu thị chúng, vô cùng hãnh diện, ngạo thị thiên hạ, khi chiến thắng trở về, toàn quân hát vang đúng là "Đại Trận Nhạc", uy phong như vậy đã bao lâu chưa từng có rồi?
Chẳng biết từ lúc nào, dân chúng Sa Châu đã trăm miệng một lời tùy theo hát lên:"Bốn biển áo choàng bay, nước xanh mãi ngàn năm; nhung y càng không lấy, hôm nay công thành trở về nhìn đê Tần Tắc thấp như ngựa, thấy Hoàng Hà chảy thẳng về phía Bắc. Thiên uy cuốn thẳng ngọc môn, vạn dặm người Hồ hát Hán ca... "
Nhịp hát lời ca bọn họ hát cùng lời của đám bộ hạ Dương Hạo không hoàn toàn giống nhau, nhưng là hai cổ thanh âm lại có thể dung hợp hoàn mỹ lại với nhau, quanh quẩn ở trên đầu thành Sa Châu, ở trên sa mạc cát vàng.
Ở bên trong một chiếc xe phía sau, Trúc Vận khẽ nghiêng thân thể, nghe khúc "Đại Nhạc Trận" hùng tráng dũng cảm kia, liền ngưng mắt nhìn về bóng lưng của Dương Hạo ngồi ngay ngắn ở trên minh kiệu phía trước, sóng mắt ẩn khuất hai hố rượu lâu năm, chưa uống liền đã say.
Rất lâu sau đó, nàng mới tỉnh táo lại, bỗng nhiên ngoái đầu nhìn lại, chợt phát hiện Cẩu Nhi ngồi ở bên người nàng đang si ngốc ngưng mắt nhìn về phía trước, trên mặt có loại điềm tĩnh an tường trước kia chưa từng thấy qua, đôi tròng mắt kia, mông mông lung lung, dường như ánh sao trong sương mù, trái tim Trúc Vận không khỏi nhảy lên : "Chẳng lẽ tiểu nha đầu này cũng đã động xuân tâm?"
"Ta.. ta tại sao lại nghĩ là... cũng?" Hai má Trúc Vận đột nhiên đỏ lên như cây lựu.
"Di! Trúc Vận tỷ tỷ, tỷ làm sao vậy?"
Cẩu Nhi tựa hồ đã nhận ra nàng nhìn chăm chú, quay về nhìn lên, kinh ngạc hỏi.
Trúc Vận không đổi sắc mặt lấy từ trong tay áo ra một cái khăn tay vuông, nhẹ nhàng phẩy phẩy, bình thản ung dung nói: "Ánh mặt trời nắng quá, ta đem mành để xuống."
Xuyên qua phố dài, đoàn người chạy tới vương phủ Đôn Hoàng.
Dương Hạo được mời vào sảnh, các nhân viên quan trọng quân chính giới, đương gia các đại gia tộc, rối rít tiến lên hành lễ một lần nữa.
Dương Hạo hôm qua còn là địch nhân của bọn họ, hôm nay đã biến hóa nhanh chóng, trở thành thủ lĩnh bọn họ sắp sửa thần phục, lần tấn kiến này liền có chút ý tứ hàng thần nhận chủ, cho nên Dương Hạo cũng là không hề từ chối, thản nhiên an vị, nhận đại lễ của bọn hắn.
"Chư vị, mời ngồi."
Đợi khi quan lại, các nhân vật quan trọng của Sa Châu làm lễ ra mắt hoàn tất, Dương Hạo nở nụ cười chân thành nói: "Các vị đã hiểu đại nghĩa, tránh cho Sa Châu một cuộc binh đao, bổn quan ở chỗ này thay mười vạn quan binh chinh của ta cùng những tướng sĩ cùng dân chúng Sa Châu, tạ ơn chư vị."
"Đâu có đâu có, Thái Úy khách khí rồi, Tào gia không hiểu đại nghĩa, không biết đại thể, bọn ta há có thể tới làm bạn. Trương lão đã khẳng khái nói rõ một phen. Chẳng những khiến cho bọn ta hoàn toàn tỉnh ngộ, còn kêu gọi Quy Nghĩa Quân, theo Tào thị là sai lầm nghịch thiên mà đi, cùng Thái Úy là địch sẽ đem cổ thành tám trăm năm Sa Châu ta hủy hoại chỉ trong chốc lát."
Dương Hạo ha hả cười nói: "Trương lão là hậu nhân của Kim Vệ đại tướng quân Nghĩa Triều Công, đương nhiên là rất hiểu đại nghĩa, nhưng là chư vị vì Sa Châu, đó cũng là công lao không thể bỏ qua. Lần này chư vị đồng tâm hiệp lực, ở dưới sự hiệu triệu của Trương lão tiên sinh, cùng hưởng ứng, khiến cho cổ thành Sa Châu tránh được chiến hỏa, cứu giúp vô số tánh mạng bên trong thành Sa Châu. Qua nhiều năm như vậy, Sa Châu đứng vững vàng tại đất hổ sói, thủy chung truyền thừa ý bát Trung Nguyên ta, các quan lại văn võ, các sĩ phu, đương gia các đại gia tộc cũng đồng dạng là có công lao to lớn.
Bản Thái Úy sớm nghe nói Đôn Hoàng cổ thành nhân tài đông đúc, các đại thế gia lại ngọa hổ tàng long, bản quan sau này muốn thống trị Qua Sa, không thể thiếu được các vị, còn muốn trong cậy vào các vị cùng mưu nghiệp lớn!"
Nghe được câu này, rất nhiều người vốn thấp thỏm bất an trong lòng liền hơi an định lại.
Dương Hạo lại nói: "Từ xưa tới nay, muốn cai trị một mảnh đất, không có gì hơn là đóng quân trấn thủ, lập đồn khai hoang, phân chia quan chức, bưu dịch(bưu điện bây giờ) thông suốt, nhập hộ khẩu cho đủ dân, nạp lương thực hoàn chỉnh thuế, thuế khóa công thương, trưng thu binh lính, xây dựng trường học, khoa cử quốc gia, đổi lại tiền tệ... Chư vị quan lại Qua Sa, bản Thái Úy vốn tận lực tái bổ nhiệm chức vụ ban đầu, nhưng cơ cấu bản quan trị phủ, về chính lệnh pháp luật và kỷ luật, cùng Tào thị cũng có chỗ bất đồng, nói như vậy, có một chút chức vị công sở sẽ phải tiến hành điều chỉnh một lần nữa, có một chút chức vị để trống cũng phải một lần nữa tiến hành cắt cử, hi vọng các quan viên liên quan đến việc điều chỉnh có thể hiểu được một phen khổ tâm của bản Thái Úy, mong rằng các nhân sĩ tài trí được trọng dụng cũng đừng từ chối.
Dương Hạo vì nhanh chóng ổn định lòng người, đối với các quan viên cũ cùng các đại tộc thế gia Qua Sa tất nhiên muốn tận lực giúp nhận vào, nhưng là nói tuyệt không xúc động, đó là không có khả năng. Chín đại gia tộc là Trương, Tác, Tào, Âm, Lý, Ký, Diêm, An, Lệnh Hồ gia tộc, trong đó Tác thị mặc dù cũng tham gia vào chính biến lật đổ thế lực của Tào gia, nhưng Tác gia là bởi vì gia chủ bị quản chế mới phải theo, chủ động cùng bị động là khác nhau, đoạt được hồi báo tự nhiên cũng khác nhau, bọn họ vốn là đại thế gia thứ hai Sa Châu, mà cùng Tào thị đi lại gần, chiếm cứ rất nhiều chức vị quan trọng của Qua Sa, lúc này không thể không đẩy đi để nhường người hiền, người hiền này đương nhiên là Trương gia xuất lực lớn nhất trong chính biến Sa Châu.
Còn nữa, Tào gia chiếm cứ nhiều chức vị trọng yếu trong hai giới quân chính nhất ở Qua Sa đã ngã, những chức vị này tất nhiên cần phải có người đi bổ khuyết, Dương Hạo có thể chọn ra người mới từ các thế lực tương đối yếu như các gia tộc Ký, Diêm, An, Lệnh Hồ gia tộc, để tăng cường quan chế các đại gia tộc, cũng có thể bổ nhiệm thêm một ít quan viên thân tín của hắn, gia tăng lực khống chế trực tiếp đối với Qua Sa. Tóm lại tất nhiên là phải rung động phía trên một lần.
Song Dương Hạo nắm đại quân, nếu như hắn hạ quyết tâm, hoàn toàn có thể dùng hai ba năm làm rung chuyển cùng tiêu điều làm giá cao, diệt trừ tất cả giai tầng thống trị vốn có hai châu Sa Qua, coi như chưa từng có mà thành lập lại một lần nữa, mà các đại thế gia thì bất kể ngươi đang ở Qua Sa bắt nguồn xa, dòng chảy dài, mở cành xòe nhánh như thế nào, trụ cột quần chúng thâm hậu đến cỡ nào, có bao nhiêu ảnh hưởng uy vọng nhưng không có đủ điều kiện tiến hành quân sự chống lại được Dương Hạo, như vậy dưới loại tình huống phân phối ích lợi trước mặt này chỉ có thể tỏ vẻ đồng ý, huống chi bọn họ vốn cũng không có hy vọng xa vời rằng Dương Hạo có thể để trống quyền vị của Tào gia suy sụp, Tác nhà thất thế.
Chỉ bất quá ai cũng nghĩ lên nghĩ xuống, hiện tại cũng là không biết số lượng, mọi người cũng không tiện tỏ thái độ ưng thuận, Trương Thừa Tiên thấy thế, vội vàng đứng dậy cười nói: "Sĩ trọng Sa Châu ta vì nghênh đón Thái Úy, đã cố ý chuẩn bị tiệc rượu thịnh soạn, mọi người có lẽ là đi dự tiệc trước đi, Thái Úy vào làm chủ Đôn Hoàng, Qua Sa có hi vọng phục hưng, mọi người hôm nay không say không về, ha hả, lão hủ mặc dù tuổi già, nhưng ngày đại hỉ như vậy, cũng là muốn uống nhiều lên."
Lần đầu gặp mặt quan lại thân sĩ Sa Châu, thật ra thì những thứ an bài này đều không cần lập tức nhắc tới, mọi người không bằng cố gắng triển khai thịnh yến, lần lượt thay đổi chén bát, vui mừng mà tán ra, sau đó dựa theo cách làm ổn thỏa của Dương Hạo. Trước tiên chia ra nói chuyện, thống nhất tư tưởng, rồi công khai thương nghị, chính thức tuyên bố.
Nhưng là Dương Hạo hiện tại thật sự rất nóng ruột, trước khi đánh hạ được hai châu Sa Qua, hắn ngày đêm mong đợi bước vào hai châu Sa Qua, hôm nay rốt cục đánh hạ được hai châu Sa Qua, hắn lại mong đợi lập tức rời đi, tại phía sau cái mông của hắn còn có một cái đinh chờ hắn đi nhổ ra. Mà khói lửa hai châu Lân Phủ cũng đang chờ hắn đi cứu hoả, hắn có thể không nóng ruột được hay không, cho nên hắn chỉ có thể tận lực tăng nhanh bước chân thao tác của mình ở Sa Châu, lập tức bắt tay vào tiến hành phân phối quyền lực.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 28: Chỉ Định Sa Châu(3)
Nguồn: Sưu tầm
Dĩ nhiên, hôm nay vừa mới tới, vô luận như thế nào cũng không cần lập tức tiến hành các loại ủy nhiệm cùng điều đi, đây bất quá là cho các đại thế gia cùng với đám quan lại Sa Châu một luồng gió trướcó, điểm đến là dừng, mặc dù như vậy, đám quan lại thế tộc hai châu Sa Qua vẫn là cảm nhận được đầy đủ sự mạnh mẽ vang dội của Dương Thái Úy.
Sau khi tiệc rượu ăn uống giải tán, Dương Hạo đã đi tới hạ tháp của Vương Phủ.
Vừa về tới chỗ ở của mình, Cẩu Nhi liền lướt tới hiện ra ở trước mặt của hắn, trong tay đang cầm một chồng đồ thật dày, nói: "Đại thúc, đã giam giữ toàn bộ những người có liên quan tới Tào gia, chờ chuyển đi. Chỗ này là sổ sách về những điền trang điền sản, cửa hàng, mục trường, tiền tài vàng bạc... của Tào gia, xử trí như thế nào, còn phải chờ đại thúc chỉ thị."
"Ta không xem, xử trí cụ thể thì chỉ cần ngươi đi làm là tốt rồi. Ý kiến của ta là: phàm là tài sản Tào gia, lập tức tịch thu tất cả, ta muốn ở đặt riêng Thứ Sử hai châu Qua Sa, mở nha môn xây phủ, chẳng những phải dùng người, cũng là lúc dùng tiền, của cải Tào gia tích góp trăm năm, vừa đúng lúc cho tất cả. Tiền bạc có thể trực tiếp dùng tới thì niêm phong cất vào kho trước, còn các điền sản trang viện, mục trường, cửa hàng thì xem một chút các đại thế gia Qua Sa ai muốn mua thì làm giá bán sạch đi. "
"Dạ."
Cẩu Nhi lắc mình muốn đi, Dương Hạo bỗng gọi nàng lại: "Đúng rồi, Trúc Vận tỷ tỷ của ngươi đâu? "
"Dạ?"
"Trúc Vận từ sau khi trở về Lũng Hữu liên tiếp bị thương, thương thế rất nặng, hôm nay mặc dù chuyển biến tốt, nhưng là còn phải chú ý cẩn thận một chút mới được, nàng ở đâu? "
Cẩu Nhi chợt nói: "Đại thúc yên tâm đi, Trúc Vận tỷ tỷ hiện tại đang cùng Tiểu Diễm ở cùng một chỗ. Thật ra thì Trúc Vận tỷ tỷ đã tốt lên không sai biệt lắm rồi, đã nhiều ngày không tắm, nàng vừa thấy thùng tắm, hai mắt liền sáng lên, vèo một cái liền bổ nhào tiến vào, động tác rất nhanh nhẹn."
Dương Hạo ha ha cười một tiếng, nói: "Vậy thì tốt, đại thúc cùng đám thân sĩ Sa Châu uống mấy chén, hiện tại có chút choáng váng đầu hoa mắt, ta đi nghỉ ngơi một chút trước. " " Dạ!" Cẩu Nhi đáp ứng một tiếng, nhưng không lập tức rời đi, mắt thấy Dương Hạo vẫn mặc quần áo nằm lên trên giường, bỗng nhiên bỏ chồng sổ sách kia xuống, rón ra rón rén đi tới bên Dương Hạo.
Chân nặng chân nhẹ, hai tay mềm mại bỗng nhiên nhẹ nhàng mà đáp lên trán của hắn. Lực đạo phát ra không nhẹ không nặng, thủ pháp nhẹ mà không nở, nặng mà không ngừng; trong mềm có cứng, trong cứng có mềm, làm người ta bồng bềnh. Dương Hạo không mở mắt, hắn chẳng qua là thở phào thật dài một cái, bày ra tư thế thoải mái hơn, hoàn toàn buông lỏng thân thể.
Lập lại chính quyền Sa Châu đúng là vô cùng phức tạp, chỉ là về mặt an bài nhân sự liền đã suy nghĩ đau hết cả đầu, vừa muốn trọng dụng Trương gia, để cho hậu nhânTrương gia huy động sức nóng còn lại, lợi dụng uy danh Trương Nghĩa Triều triệt tiêu ảnh hưởng của Tào gia thống trị Quy Nghĩa Quân vài chục năm nay, bảo đảm Quy Nghĩa Quân ổn định, lại phải cân nhắc thiệt hơn, an bài thích đáng vị trí của các đại gia tộc ở trong chánh phủ mới, khiến cho bọn hắn vừa có thể chung sức hợp tác, vừa có thể chế hành qua lại, đồng thời còn sắp xếp cài quan lại Hạ Châu vào, gia tăng khống chế trực tiếp đối với hai châu Sa Qua. Về phương diện quyết định tiền lương thuế phú cũng phải hết sức cẩn thận, vừa phải cho dân chúng Qua Sa cảm nhận được chỗ Dương thị trội hơn Tào thị, lại không thể không hạn chế rộng rãi, làm cho dân chúng Sa Qua đem chuyện đóng thuế là đương nhiên, các chi phí nuôi quân tác chiến, quan phủ thống trị cần thiết chính là phải thông qua thuế má mà thu lấy. Bất quá về phương diện này thật sự cũng không cần quá lo lắng, sau khi hành lang Hà Tây thống nhất, con đường thông thương hoang phế từ lâu có thể tươi đẹp trở lại một lần nữa, đánh thuế thu vào, đủ để triệt tiêu tổn thất thuế nông mục, hơn nữa còn rất có sung túc.
Đồng thời, Dương Hạo lấy hai châu Sa Qua làm trung tâm, gia tăng tuyên truyền đối với vùng xung quanh, chư tộc các châu Hà Tây ở xen kẽ, Cam Châu là địa bàn của người Hồi Hột, Lương Châu là địa bàn người Thổ Phiên, nhưng là trong lãnh địa cũng có lượng lớn người Hán, mà khu Qua Sa là người Hán nắm chính quyền, nhưng ở bên trong cũng có lượng lớn người Thổ Phiên, người Hồi Hột, đối với những người này dĩ nhiên cũng phải đặt vào thống trị, hơn nữa sau khi lợi dụng danh vọng lớn lao chiếm lĩnh Qua Sa, còn phải cố hết sức chiêu nạp dân chúng ở thôn trấn lớn nhỏ chi chít như sao trên trời cùng các ốc đảo lớn nhỏ trên sa mạc.
Hoàn cảnh tự nhiên của hành lang Hà Tây gian khổ, chỗ có người tập trung ở đều là nhiều chỗ chi chít như sao trên trời ở một số thành phụ trên sáu châu, như Thạch Bản Đôn, thành Tỏa Dương, Du Lâm Quật, Thạch Bao Quật, Hồng Liễu Hạp. Mặc dù chúng do Qua Sa trị, nhưng là đường xá cực kỳ xa xôi, nếu đặt ở Trung Nguyên, khoảng cách tương đương vượt qua mấy huyện mới có thể thấy người ở. Đối với những chỗ này, phải nhanh chóng thu nạp hết. Đưa vào thống trị, sẽ phải nhờ vào các lực lượng lệ thuộc vào các đại gia tộc Sa Qua, bọn họ đi gặp các quan viên ở địa phương nói một tiếng, nói rõ tình hình Qua Sa hôm nay, liền có thể rất thuận lợi đem cái chỗ đó đưa vào bản đồ, nếu như dựa vào binh đi đánh, cho dù những chỗ này hoàn toàn không có lực đối kháng, lui tới bôn ba, điều binh các nơi, không có một năm nửa năm cũng không thể lấy được, còn phải phí lượng lớn trú binh mới có thể trấn áp, lúc này các đại gia tộc ở địa phương nổi lên tác dụng.
Phương diện thay đổi chế độ quân đội có phạm vi lớn nhất, Quy Nghĩa Quân đã tiến hành chỉnh đốn hoàn toàn. Sắp xếp người khỏe mạnh gia nhập Phi Báo Quân của Ngải Nghĩa Hải, rời Sa Châu phòng thủ Ngọc Môn Quan, cứ như vậy hai châu Sa Qua liền thành thành trì nội tuyến, người già yếu của Quy Nghĩa Quân còn lại liền sắp xếp làm quân đội phòng thủ thành cũng đã đủ dư dả.
Trừ cái đó ra, Dương Hạo còn sai người dán bố cáo chung quanh, chiêu nạp lượng lớn dũng sĩ các tộc đi đầu quân. Quy Nghĩa Quân không nuôi nổi nhiều quân đội như vậy, nhưng Dương Hạo đang trong lúc cổ động khuếch trương, đạt được lấy chiến nuôi chiến, hơn nữa hắn mạnh mẽ phát triển nâng cao công thương cùng nông canh, lấy Linh Châu làm trung tâm, dựa vào Hạ Lan Sơn, mượn nước Hoàng Hà, phát triển mảng lớn lương thực gạo, cũng là chống đở được rất tốt đối với sự chiêu nạp khuếch trương quân đội..
Về phần sửa chữa mở rộng đường núi vốn có, khai thác xây dựng đường núi mới, để nhân mã lui tới cũng thành lập dịch ký bưu truyền, phong hỏa truyền báo, bảo đảm truyền phát quân tình, buôn bán chuyển vận cần có thì tạm thời không thể bắt tay vào làm, bởi vì ở ỏ trên tuyến đường còn có một Cam Châu, khi nào quay đầu lại nhổ cái đinh này đi, hành lang Hà Tây mới xem như chân chính thông suốt.
Tại trong lúc này, tin tức liên tiếp không ngừng đưa tới Hạ Châu, Chủng Phóng cùng Dương Kế Nghiệp liên danh báo lên chủ động triệt phòng, kế hoạch lấy Hoành Sơn để thành lập phòng tuyến thứ hai, ngăn chặn quân Tống đi qua Hoành Sơn, đang cùng Dương Hạo đăm chiêu không mưu mà hợp, Dương Hạo thấy trong lòng tin tưởng đại định, chẳng những không trị tội, còn ra lệnh ngợi khen.
Việc an bài chiến lược, an bài quân sự, hậu cần cung cấp nặng nhẹ vốn có của quân Tống, cũng là dựa theo thiết kế chiếm lĩnh Phủ Châu, kiềm chế Lân Châu, tiêu diệt từng kẻ địch đến giúp. Vứt bỏ quân đội Đông tuyến đã thối nát không chịu nổi, Phủ Châu đã trở thành gánh nặng của Lân Châu, chủ động triệt phòng Hoành Sơn, tiến hành một lần đại chiến lược dời đi, chủ động buông tha chiến trường Lân Phủ, lấy Hoành Sơn hai châu Lô Ngân làm phòng tuyến thứ hai. Cái an bài này hoàn toàn làm rối loạn quân Tống, mặc dù là rút lui, cũng là hóa bị động thành chủ động, bắt đầu thay đổi hoàn cảnh xấu. Cứ như vậy, cho dù Đông tuyến không thắng, ít nhất cũng có thể tạm thời duy trì giằng co, vì Dương Hạo đang hành động quân sự ở Tây Vực mà tranh thủ thời gian quý giá.
Sau khi hoàn thành an bài những chuyện này, trước khi hoàn toàn khống chế hai châu Sa Qua, Dương Hạo không muốn công khai tin tức Tống Quốc xuất binh Lân Phủ, chinh phạt, song an bài nhiều như vậy, vô số các mặt, cho dù hắn làm ngày tiếp nối đêm như thế nào đi nữa, cũng không thể một lần là xong, những ngày qua thật đúng là mệt chết hắn.
Một ngày, Dương Hạo đến Dương Quan tuần tra binh phòng ngự, Tây Bắc của Đôn Hoàng là Ngọc Môn Quan, Tây Nam là Dương Quan, nắm hai tòa hùng quan này, là có thể bảo đảm Đôn Hoàng không sẽ phải chịu sự quấy nhiễu đến từ Tây Bắc Hồi Hột cùng người Hồi Hột ở phía nam Qua Sa.
Các phương diện an bài hai châu Qua Sa đã hoàn thành căn bản, Dương Hạo đã nắm chắc sau khi hắn rời đi, vẫn có thể đem nơi này vững vàng khống chế ở trong tay, chỉ cần hắn điều quân trở về không có gặp thất bại đến nỗi tổn hại thế lực lớn, là có thể thủy chung giữ vững khống chế đối với nơi này.
Đứng ở trên thành cao, ngắm nhìn đại mạc cát vàng mênh mông bát ngát, Dương Hạo đang suy tư tới chuyện trở về Hạ Châu, cũng thuận đường nhổ Cam Châu Hồi Hột, Mộc Ân bỗng nhiên bước đi vội vã đi tới bên cạnh hắn, rỉ tai mấy câu với hắn, Dương Hạo theo tay của hắn chỉ hướng về phía Đông ngắm, chỉ cảm thấy ánh mặt trời chói mắt, Dương Hạo đưa tay lên lên trán, nheo mắt lại, nhìn chăm chú, đợi khi thấy rõ cảnh tượng chậm rãi xuất hiện phía sau tấm sa mạc hoang vu kia, không khỏi ngạc nhiên kêu lên: "Làm sao có thể! Đó là thứ gì? Ảo ảnh sao?
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 29: Bạt tiền chí hậu
Nguồn: Sưu tầm
*Bạt tiền chí hậu : lặn lội từ trước ra sau
Quân đoàn La Mã ngừng lại ở ngoài một tầm tên bắn, cự ly một tầm tên này là dựa theo tầm bắn cung nỏ truyền thống Tây Vực mà tính toán, binh sĩ của Dương Hạo đã được trang bị Cung Nhất Phẩm mới nhất, lúc này hoàn toàn có thể bắn loạn tên giết địch, có điều là bởi vì Dương Hạo đang trợn mắt há hốc mồm, vẫn chưa hạ lệnh bắn cung, cho nên bọn lính chỉ là đao ra khỏi vỏ, lên dây cung, trận địa sẵn sàng nghênh đón quân địch.
Ngừng lại chỉ chốc lát, một bách phu trưởng la Mã mặc áo choàng đỏ thẫm, đầu đội mào gà màu đỏ, tựa như một con hùng kê cao ngạo, một tay kiếm, một tay thuẫn, ngang nhiên bước dài về phía trước đi tới, Dương Hạo thấy thế vội vã phân phó nói: "Không được bắn cung, để cho hắn tới gần trả lời.Mẹ ơi, bên người ta nào có ai biết tiếng La Mã . . ."
Ra mệnh lệnh xong, Dương Hạo mới nghĩ đến việc khó khăn khi câu thông, có điều là làm hắn càng giật mình chính là, bách phu trưởng La Mã kia đi tới dưới thành, ngẩng lên hướng đầu tường thành lớn tiếng la lên lại có thể là một câu tiếng Hán rõ ràng: "Chúng ta là dân chúng Ái Tuyền Dục, nghe nói Dương Hạo Thái Úy đang chiêu mộ binh mã, toàn bộ tráng niên chúng ta đều tới giúp sức, không biết vị tướng quân kia có thể giới thiệu cho chúng ta hay không." Dương Hạo sửng sốt trong chốc lát mới tỉnh táo lại, vội vàng hạ lệnh nói: "Mở cửa thành ra, để hắn đi vào nói chuyện."
Ở bên trong binh tướng thủ hạ của Dương Hạo, lúc này bỗng nhiên có người la hoảng lên: "A! Ta nhận ra hắn, đây không phải là Long Đức Tư đại thúc bán đồ ăn sao? Ông trời của ta ơi, làm sao hắn hóa trang giống như một con gà trống vậy? Đây là cái trang phục gì!"
Lợi dụng trong khoảng thời gian ở Sa Châu này, Dương Hạo đã đem thành phần phức tạp của quân đội dưới tay hắn tiến hành chỉnh biên một lần nữa, người Yên Kỳ, người Thổ Phiên, người Hồi Hột, người Đảng Hạng, người Khương, người Thổ Cốc nước ngoài, cùng với người Hán, toàn bộ đánh tan đi, tạo thành quân đoàn mới, binh lính tinh tráng trong Quy Nghĩa Quân toàn bộ sắp xếp làm quân đội chủ lực của hắn, già yếu thì trở thành quân đội phòng giữ hai châu Sa Qua.
Làm một dạng như thế này, quân coi giữ Dương Quan cùng Ngọc Môn Quan cũng không phải là toàn bộ đều là quân tốt, quân coi giữ Ngọc Môn Quan cùng Dương Quan vốn là có hạn, Dương Hạo tiến hành chỉnh biên đối với quân đội, sau đó phái trọng binh canh gác hai quan, quân sĩ địa phương trấn thủ Dương Quan vốn lác đác không có mấy, cho nên lúc này mới có một binh sĩ địa phương nhận ra thân phận người ngoài thành kia.
Dương Hạo không rảnh hỏi nhiều, kêu mở cửa thành ra, để họ nhanh tiến vào, Long Đức Tư nghe nói Dương Hạo Thái Úy đang ở Dương Quan, không khỏi vừa mừng vừa sợ, vội vàng bước lên phía trước tham kiến, Dương Hạo vừa nhìn người này, quả nhiên là mắt xanh, mũi lõ, là một người châu Âu chân chính, Dương Hạo kinh ngạc không thôi, nghe hắn tự kể lại thân phận, bọn hắn là dân chúng trấn Ái Tuyền Dục dưới sự quản lý của chính quyền Sa Qua, bởi vì thấy quan phủ dán bố cáo, liền dẫn thanh niên cả tộc đi đầu quân.
Dương Hạo không kềm nén được, hỏi: "Hình dáng tướng mạo của các ngươi cùng các tộc nơi đây có nhiều sự khác nhau, trang phục của các ngươi, hình như là của quân đội của một cái quốc gia ở cực Tây, đây là có chuyện gì ?"
Vị bách phu trưởng Long Đức Tư đại thúc bán đồ ăn kia rất là kinh ngạc, khâm phục nói: "Thái Úy đại nhân quả nhiên là có kiến thức rộng rãi, thế mà lại nhận ra được trang phục của chúng ta, không sai, tổ tiên của chúng ta vốn là đến từ một cái quốc gia ở cực Tây. . ."
Đại thúc bán đồ ăn này rất là khéo nói, đem lai lịch của bọn họ nói ra êm tai, Dương Hạo mới biết được rõ ràng. Thì ra là ngay từ lúc mấy trăm năm trước, người La Mã cũng đã đã đến phương Đông, khi đó chính là năm đầu Hán triều,một trong tam cự đầu của đế quốc La Mã là Khắc Lạp Tô suất lĩnh đệ nhất quân đoàn La Mã tới Đông chinh vương quốc Mạt Đề Á, cũng chính là nước mà Hán triều gọi là Tây Vực An Tư Quốc.
Đệ nhất quân đoàn của Khắc Lạp Tô trúng phải kỵ binh mai phục của An Tức Quốc, không cam lòng ngồi chờ chết, Khắc Lạp tô vạn bất đắc dĩ, không thể làm gì khác hơn là ra lệnh cho bộ hạ riêng của mình chạy trối chết. Bản thân của hắn chết trận sa trường, liều chết suất lĩnh bộ hạ giết mở ra một con đường máu, vì tránh quân đội Mạt Đề Á phong tỏa nên không thể làm gì khác hơn là tiếp tục hướng phía Đông mà phá vòng vây, chạy trốn đến gần Đôn Hoàng, cũng trở thành vương quốc của lính đánh thuê.
Sau đó, quân Hán Tây chinh, chinh phạt Chất Chi Đan Vu cùng Hán là địch, mới phát hiện người Hung Nô chẳng những hiểu được xây dựng thành gỗ nặng ở đất ngoài thành, bảo vệ xung quanh chủ thành, hơn nữa đội ngũ của bọn họ biết sử dụng vài loại trận pháp phòng ngự cùng tiến công như Ngư Phiêu Trận, đối với người Hung Nô lúc đó mà nói, đây là kỹ thuật bọn hắn không thể nào nắm giữ, cho nên quân Hán rất là ngạc nhiên.
Bất quá mặc dù có chi lính đánh thuê này tương trợ , nhưng thực lực của người Hung Nô lúc ấy đã phân liệt so sánh cùng quân Hán chênh lệch quá xa, hơn nữa cho dù quân đoàn La Mã không bị thương nặng, bằng vũ khí của bọn hắn cùng chiến thuật đối mặt, kể cả ngang hàng về số lượng thì cũng không phải là đối thủ của du kỵ binh quân Bắc Hán được trang bị nỏ, cho nên bọn họ trở thành tù binh của Hán triều.
Những tù binh này bị sắp xếp ở một vùng của hành lang Hà Tây, mấy trăm năm qua, bọn họ ở chỗ này sinh sôi nảy nở. Bởi vì giao thông bất tiện, hơn nữa các bộ lạc bị thiên nhiên ngăn cách, cho nên những hậu duệ của quân đoàn La Mã này giữ vững được rất nhiều văn minh của tổ tiên, không bị những văn hóa khác đánh sâu vào, con cháu bọn họ vẫn duy trì phương thức tác chiến cùng phương thức sống độc lập.
Mới đầu, cuộc sống của bọn họ coi như là ổn định, bất quá sau khi Hán triều tự lo không xong, Tây Vực liên tục bị vùi trong chiến loạn, cuộc sống của người La Mã liền bị chấn động rất lớn, bất kể tộc nào xưng vương xưng bá, là dân tộc thiểu số trong các dân tộc thiểu số, đám hậu duệ của chi La Mã đệ nhất quân đoàn này cũng là thuộc về giai tầng bị thống trị, lại càng là đối tượng bị những bộ lạc khác ức hiếp, cuộc sống cực kỳ khó khăn.
Các tộc Hà Tây chinh chiến không ngừng nghỉ, bình thường đều sử dụng chiến sĩ bản tộc, hơn nữa chiến sĩ bản tộc đều là thời chiến làm binh, lúc bình thời làm dân, không có quân lương duy trì. Khó có được lần này Dương Hạo trưng binh số lượng lớn ở Tây Vực, hơn nữa không phân biệt chủng tộc, đối xử bình đẳng, nhập ngũ còn có đãi ngộ tương đối cao, cho nên sau khi thấy quan phủ địa phương Sa Châu dán bố cáo, người La Mã ở Ái Tuyền Dục liền động tâm.
Bọn họ cảm thấy đây là một lần cơ hội hiếm có để thay đổi vận mệnh của bộ tộc, nếu muốn thay đổi hoàn cảnh cuộc sống gian khổ khốn khó của tộc nhân bọn hắn, chỉ có đầu quân nhập ngũ, nếu như có thể lập nhiều chiến công, xuất ra mấy vị tướng quân, như vậy cảnh ngộ của cả bộ lạc mới có thể thay đổi theo, cho nên bọn họ lấy ra các thứ để dành, dựa theo quân dung của tổ tiên bộ tộcbọn họ, làm hết sức đem trang phục của mình làm ra ấn tượng một chút, để nhận được sự ưu ái của Dương Thái Úy, có thể ủy thác trách nhiệm nặng nề cho bọn họ.
Tuy nói bọn họ đã sớm hóa quân làm dân, bất quá an cư lạc nghiệp ở chỗ rung chuyển bất an này, tài nghệ chém giết chinh chiến chắc chắn là chồng chất không thể kể hết, hơn nữa trong bộ tộc bọn họ thường xuyên tổ chức phong trào thể dục thể thao như chạy cự li dài, ném thương, tố chất thân thể tộc nhân rất là tốt, dân chúng cả bộ tộc bọn họ thủy chung noi theo huấn luyện quân sự tổ tiên truyền xuống, nói đến kỷ luật quân sự cùng tố chất quân nhân nghe thấy là trở lui, nghe lệnh mà tiến hơn xa khi so sánh với đội ngũ mã tặc Ngải Nghĩa Hải mới vừa thu phục.
Dương Hạo đang lúc cần dùng người, một chi quân đội chỉ cần huấn luyện thêm một chút là có thể gia nhập chiến đấu như vậy tự nhiên là sẽ không cự tuyệt ngoài cửa, một khi biết rõ lai lịch của những người này, Dương Hạo liền xúc động đáp ứng, đồng ý cho bọn họ gia nhập đội ngũ của mình, đồng thời sẽ lập tức phân một phần quân lương cùng gạo, để cho tộc nhân của bọn hắn không phải lo việc ở nhà. Được Dương Thái Úy chính miệng tiếp nhận, Long Đức Tư cũng cực kỳ hưng phấn, lập tức đi ra khỏi thành hướng tộc nhân của bọn hắn nói rõ tình huống, sau đó dàn trận vào cửa, tiếp nhận sự kiểm duyệt của Dương Hạo.
Dương Hạo ra khỏi thành trước, chỉ dẫn theo ba trăm tên khinh kỵ binh, sau khi trở về thành phía sau đã có một chi quân đoàn La Mã hơn ngàn người theo sau, Mộc Ân không yên lòng, cố ý tăng thêm binh lính hộ tống Thái Úy chạy về Đôn Hoàng.
Dân chúng Sa Châu đối với người phương Tây mắt xanh cũng không xa lạ gì, nhưng là đối với loại trang phục như con gà trống lớn này của bọn họ, hơn nữa còn là tràng diện hoành tráng hơn ngàn con gà trống lớn đồng loạt hiện thân như vậy cũng là chưa từng thấy qua, quân đoàn La Mã vào thành, liền đưa tới rất nhiều cư dân trong thành hiếu kỳ vây xem, dân chúng Sa thành dọc đường theo tới xem đến náo nhiệt, càng ngày càng nhiều, những binh lính La Mã kia vừa thấy nhiều người vây xem như vậy, mọi người đều ưỡn ngực ưỡn bụng, bày ra bộ dáng uy phong lẫm liệt, vóc người cao lớn, đội ngũ chỉnh tề, cũng khiến cho vang lên một mảnh tiếng hoan hô.
Dương Hạo mang theo chi đội ngũ hùng kê này đi hướng tới Vương Phủ. phía trước trên đường cái đột nhiên lại có một chi đội ngũ chạy tới. phía sau đồng dạng cũng đều là dân chúng Sa Châu hối hả xem náo nhiệt. Nhìn đám người kia. trong đó không thiếu người châu Âu mắt xanh, cũng có ngưỡi da đen thân đen thui như mực. chỉ bất quá đám bọn hắn mặc đủ loại trang phục cũng không chỉnh tề, ở trong tay cũng không có binh. khí.
Hai chi đội ngũ gặp nhau, mắt to trợn mắt nhỏ, đều có chút giật mình, Dương Hạo đang kinh ngạc, lúc này chợt nghe có ngưỡi hét lớn: "Dương Thái úy, Dương Thái úy, ha ha ha. Dương Thái úy rất rất tốt, đã vậy còn quá mau đã đánh hạ Sa Qua cổ thành, thống nhất cổ đạo Hà Tây, thật là đáng mừng."
Dương Hạo nghe tiếng nhìn lại. hắn là thương nhân Đại Thực Quốc Tháp Lợi Bặc, Dương Hạo lập tức hiểu ra, không khỏi cực kỳ vui mừng: "Tháp Lợi Bặc tiên sinh, ngài đây là... Cái này là..
Tháp Lợi Bặc cười nói: "Đúng vậy. những ngưỡi này chính là nông nô ta mang tới từ bỉ quốc cho Thái úy đại nhân." Hắn nói xong liền nhìn nhân mã phía sau Dương Hạo một cái, ngạc nhiên nghi ngờ hỏi: "Thái úy đại nhân, chi đội ngũ phía sau ngài kia..
Dương Hạo cưỡi nói: "Bọn họ sao, ha ha. bọn họ là dân chúng bản địa Sa Châu, mấy trăm năm trước, tổ tiên của bọn hắn viễn chinh An Tức. sau khi binh bại liền lưu lại ở đó, nghe nói bản quan đang chiêu binh, cả tộc liền tới đầu quân."
"Thì ra là như vậy." Tháp Lợi Bặc thấy bộ dáng cùng trang bị của những binh lính này cùng binh sĩ Đại Tần đế quốc có chút tương tự. vốn là trong lòng cực kỳ kinh ngạc, vừa nghe nguyên nhân như thế. thì thấy quá để tâm rồi, hắn ngược lại chỉ hướng nguời mà mình mang đến, dương dương tự đắc nói khoác nói: "Thái úy, ngài xem một chút, những người này đều khỏe mạnh cường tráng, chịu được khổ nhọc. Lần này ta mang đến cho ngài tổng cộng 1500 người, ai nha, dọc theo đường đi mang theo nhiều người như vậy, hỏi thăm quân qua thành, khơi thông giao nộp. hao tốn cũng không ít, Thái úy ngài cũng không thể để cho ta lỗ vốn chứ, ha hả , lần này thời gian gấp gáp. chẳng qua là nô bộc tù binh ở các địa phương gần đây mà chúng ta trên thương lộ Đông tiến mang tới thôi, nếu ngài là hài lòng, số người đưa tới tiếp theo còn có thể nhiều hơn."
Dương Hạo cười nói: "Cái này ngài cứ yên tâm. dọc theo Hạ Lan Sơn xuống, bản Thái úy đã mở mang lớn đất màu mỡ ở hai bờ sông Hoàng Hà. sau khi bình định cổ đạo Tây Vực, trên thảo nguyên đã an tĩnh lại. nông canh, chăn nuôi, cũng cần lượng lớn nhân thủ. thương lộ được khai thông, sẽ từng bước thịnh vượng lên. một đám khách sạn tiệm rượu cũng cần lượng lớn nhân thủ, mà phòng thủ biên cương gìn giữ đất đai, thành lập chính phủ. cũng cần lượng lớn thanh niên cường tráng bản địa, cứ như vậy. hết sức thiếu người lao động, muốn chiêu mộ từ Trung Nguyên là không thể. bọn họ vốn chính là khó xa quê hương, huống chi Tây Bắc hôm nay chung quy so với Trung Nguyên còn nghèo khó hơn. cho nên, ngài đưa tới ta bao nhiêu. ta thu bấy nhiêu.
Hắn nhìn người Tháp Lợi Bậc mang đến một chút, lại nói: "Lần sau có thể đem cả một chút nữ nhân mang đến. dân cư sinh sôi nảy nở. cũng không thể chỉ dựa vào nam nhân, những chuyện như trồng bông dệt vải, chế luyện da, áo lỏng, cất rưọụ buôn bán. chăn nuôi..., nữ nhân cũng đều làm được, có một số việc còn có thể làm tốt hơn cả nam nhân.
Tháp Lợi Bặc do dự nói: "Cái này . . . Giá tiền nữ nô. so với nam nô phải cao hơn..." Dương Hạo cười nói: "Chuyện này có khó khăn gì? Để Soái Phủ trả tiền chênh lệch giá đi, cũng khõng thể để ngài lỗ được."
Tháp Lợi Bặc nghe vậy mừng rỡ, lập tức hai người hai bên đi cùng nhau, Tháp Lợi Bặc vui mừng nhướng mày, trước kia hắn kinh doanh mua bán. mỗi khi qua một thành đô gặp thế lực một phương ở cổ đạo Tây Vực, mỗi một phương thế lực đều lấy thuế nặng đối với những thương nhân người Hồ như hắn. nếu như vận khí không tốt đi qua các phương thế lực đang đại chiến khắp nơi. thì rất có thể cả hàng cũng mất. cho nên Tháp Lợi Bặc cực khổ một chuyến, tài vật dám mang theo cũng không nhiều lắm. Hôm nay Dương Hạo thống nhất hành lang Hà Tây. thuế thu từ Ngọc Môn Quan đi hướng Đông, cho đến bên trong Tống Liêu hạ thấp rất nhiều, trong đó có thể gia tăng bao nhiêu lợi nhuận. Tháp Lợi Bặc biết rõ, dĩ nhiên vui sướng vô cùng.
Dọc theo đường đi, rất nhiều tù binh. Tháp Lợi Bặc mang đến nhìn thấy binh La Mã dưới trướng Dương Hạo . cũng lộ vẻ mặt kinh dị. mặc kệ bọn hắn làm ra kiểu dáng quân phục khỉ gió có biến hóa lớn gì. nhưng là một ít chiến phục của các nước cổ xưa bọn hắn tự nhiên cũng không xa lạ gì. đi vào ở bên trong, bọn họ có người to gan thử thăm dò hỏi thăm những binh lính này, trong những binh sĩ Ái Tuyền Dục này còn có một ít người biết nói chút ít tiếng tổ tiên đơn giản, biết được những binh lính này là đồng tộc mấy trăm năm trước lưu lạc ở Đông Phương của bọn họ. những nông nô kia rất là khiếp sợ. đồng thời cũng nổi lên ý muốn đầu quân viễn chinh, làm lính tự nhiên phải mạnh hơn so với làm nô lệ rất nhiều.
Rất nhanh đã đến Vương Phủ, Tháp Lợi Bặc liền hướng Dương Hạo cáo từ. đi trước tới khách sạn dàn xếp thuộc ha của mình cùng với chuẩn bị tiếp tục vận chuyển tài vật hướng Tống Quốc cùng Liêu Quốc buôn bán. hai bên chắp tay cáo từ, Tháp Lợi Bặc mới đi ra mấy bước, tung người lên ngựa, trong lúc vô tình, quay đầu nhìn lại. bỗng nhiên lại ghìm chặt lại dây cương. Dương Hạo mang theo thân binh vệ đội dừng lại tại bên ngoài cửa phủ. trước cửa phủ có ba người đứng, lại là một tướng quân, một văn sĩ. một hòa thượng. Tháp Lợi Bặc cực kỳ ngạc nhiên, vội vàng nhảy xuống ngựa, mang theo mấy võ sĩ mang đao đi theo đi lên.
Hòa thượng, văn sĩ. tướng quân, tổ hợp như vậy đã rất là không thể tưởng tượng nổi rồi, ly kỳ hơn nữa chính là trang phục của hắn. Hòa thượng kia mặc áo cà sa đỏ thắm, mũ bì lô. trong tay cầm một cây thiền trượng, giống như Đông Thổ Đại Đường Đường Tam Tạng đi Tây Thiên thỉnh kinh. Mà văn sĩ kia vận khăn màu đen, áo bào trắng cổ tròn, dưới chân là một đôi giày da ngựa, vừa đủ khí nho nhã, vừa mang theo làn gió dũng mãnh. Trên tay áo cột buồm còn thêu đại bàng bay liệng trên mây.
về phần võ quan kia. lại là quái giáp mũ trụ có đinh, trẽn mũ trụ đính lên dựng thẳng chùm tua đỏ, che bên ngoài hai bên tai. thân giáp lộ ra che trán, choàng lên cánh tay giống như rồng. ở trước sau ngực giáp đều có một khỏa Hộ Tâm Bảo Kính, bụng giáp như vẩy cá, chiến bào rủ xuống đầu gối. dưới chân là một đôi chiến ngoa, ôm cả bắp chân khâu cuộn vào chân, như kiếm mà đứng, không nhúc nhích. Trang phục hòa thượng từ xưa tới nay cũng không có biến hóa gì lớn thì cũng thôi, nhưng một văn một võ này lại đều là mặc trang phục đời Đường.
Dương Hạo thấy ba quái nhân kia mặt hướng Vương Phủ mà đứng, cũng có chút không giải thích được, bất quá hôm nay ngay cả quân đoàn La Mã mấy trăm năm trước cũng xuyên việt đến trước mặt hắn. cho dù nhảy ra mấy người thời Đường nữa. vậy cũng không coi là chuyện gì. Dương Hạo lấy lại bình tĩnh, cất bước tiến lên. trầm giọng hỏi: "Các ngươi có chuyện gì ?"
Ba người đứng yên trước cửa lớn Vương Phủ kia quay đầu nhìn lại, thấy Dương Hạo tuy còn trẻ tuổi, nhưng vẻ mặt khí độ cũng là bất phàm, hơn nữa ở phía sau có rất nhiều thị vệ mặc giáp cầm đao đi theo, liền hiểu được ngưỡi này nhất định có chức quan không thấp ở Sa Châu, hòa thượng kia rủ xuống hàng lông mi trắng, cao giọng niệm Phật hiệu nói: "A di đà Phật, đám bần tăng muốn ra mắt Hà Tây Lũng Hữu Binh Mã Đại Soái Dương Hạo Dương Thái úy, không biết tiểu thí chủ giữ chức gì trong quân Dương Thái úy. có thể giúp bần tăng giới thiệu gặp mặt hay không?" Dương Hạo vừa muốn trả lời. từ bên trong cửa lớn có một tiếng la: "Thái úy đại nhân đã trở lại!"
Lệnh Hồ Thượng Thiên vóc người khôi ngô. bước nhanh đi ra. Lệnh Hồ Thượng Thiện hôm nay là Sa Châu Biệt Giá. chức quan không thấp. Dương Hạo nhíu nhíu mày, chỉ một ngón tay vào hòa thượng kia hỏi: "Lệnh Hồ đại nhân, bọn họ là ai?"
Lệnh Hồ Thượng Thiện ha ha cười một tiếng, nói: "Mời đại nhân về phủ. chúng ta từ từ nói." Vừa nói liền không nói lời gì nữa, liền kéo Dương Hạo đi, lúc này ba người kia nghe rõ tên nam tử áo xanh trước mắt này chính là Dương Hạo. trong lòng không khỏi run lên, lập tức quay người lại. đứng thành hình chữ phẩm đem Dương Hạo ngăn ở trong. Mấy thị vệ phía sau Dương Hạo vừa thấy vậy nhất thời tiến lên. chỉ nghe tiếng "Soạt soạt soạt" vang lên không dứt. mười mấy chuôi đao kiếm đã dồn ép uy hiếp ba người gắt gao. Ba người kia mặt không đổi sắc. văn sĩ đứng giữa hướng Dương Hạo xá dài thi lễ. vẻ mặt nghiêm túc nói: "Kẻ hèn là Vu Khuynh Quốc Hoàng Môn tướng quân, Quốc Tử Thiếu Giám Lý Tòng Lâm. phụng mệnh hoàng đế trung hưng Đại Triều Vu Khuynh Quốc, tiến tới Sa Châu."
Dương Hạo cũng không biết Đại Triều trong miệng Hoàng Môn tướng quân Lý Tòng Lâm này chỉ chính là Trung thổ. đem Đại Triều đặt ở phía trước Vu Khuynh Quốc là thủy chung cho thấy Vu Khuynh Quốc là nước phụ thuộc của Trung Nguyên. Quốc vương Vu Khuynh Quốc Lý Thánh Thiên là một kẻ tôn thờ Đường tộc điên cuồng, từ cách ăn mặc. quan chế, kiến trúc, văn hóa. cái gì cũng noi theo Đại Đường, ngay cả tên. hắn cũng bỏ tên Úy Trì Tăng của mình đi, lấy tên khác của Đường triều là Lý Thánh Thiên.
Dương Hạo còn tưởng rằng Đại Triều trong miệng Lý Tòng Lâm là Vu Khuynh tự xưng, tuy nói Vu Khuynh Quốc ở Tây Vực xác thực cũng được coi là một nước lớn. hơn nữa lịch sử đã lâu, trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất sáu nước xưng Thủy hoàng đế. Vu Khuynh Quốc đã thành lập rồi, bất quá tự xưng Đại Triều không khỏi có chút cuồng vọng, hắn chỉ cười một tiếng, nhưng cũng không tức giận, chỉ hỏi nói: "Các ngươi là sứ giả của Vu Khuynh Quốc chủ. cầu kiến bản Thái úy làm cái gì?"
Lệnh Hồ Thượng Thiện ung dung nói: "Bọn họ đâu phải tới cầu kiến Thái úy, bọn họ muốn gặp chính, là Tào Duyên Cung, đáng tiếc bọn họ đến chậm một bước. Tào Duyên Cung không tự lượng sức. cuồng vọng cùng Thái úy là địch, đã thất thủ trong khói lửa Qua Sa. hắc! Những người Vu Khuynh Quốc này bệnh cấp tính nên chạy chữa loạn, lại vọng tưởng van xin Thái úy tường tra, Đi đi. Thái úy chớ để ý tới bọn họ."
Lệnh Hồ Thượng Thiện kéo Dương Hạo đi. Dương Hạo thấy cử động của Lệnh Hồ Thượng Thiện cực kỳ khác thường, như vậy hắn tất có nguyên do. cho nên cũng không cự tuyệt nữa, ba người kia bị đao kiếm ép thật chặt không thể động đậy, mắt thấy Dương Hạo sẽ đi vào Vương Phủ. dưới tình thế cấp bách, Lý Tòng Lâm cao giọng hô: "Vu Khuynh Quốc ta xưa nay lấy Trung Thổ là chính thống phụng vụ. thi hành biện pháp chính trị xây dựng chế độ. chức quan nha thứ, văn vật giáo hóa. kiến trúc đô thành, cái gì cũng lấy phong phạm phía Đông, tự cho mình là thần chúc (thần tộc)Trung Nguyên. Thái úy dẫn binh vào Sa Châu, từng nói trước mặt mọi người. muốn vâng theo di chỉ của Trương Nghĩa Triệu tướng quân, cứu giúp dân chúng, bảo vệ biên cương vỗ về dân chúng, nay Vu Khunhh ta. nguy ở sớm tối, cầu ở dưới cửa Thái úy, Thái úy lại đem bọn ta cự tuyệt ngoài cửa, chẳng lẽ muốn nuốt lời?"
Lệnh Hồ Thượng Thiện giận tím mặt. quay lại cáu giận nói: "Buồn cười. Thái úy nhà ta cùng Vu Khuynh Quốc có quan hệ gì sao.cứu giúp dân chúng, bảo vệ biên cương vỗ về dân chúng, thì cùng Vu Khuynh có gì liên quan? Còn dám nói loạn nữa. liền đem các ngươi đem xiên đi xuống, đánh gần chết, trục xuất khỏi lãnh thổ!"
Lý Tòng Lâm sầu thảm nói: "Lý mỗ lần này, vốn dẫn theo ba trăm thị vệ, dọc đường bị người đuổi giết, ba trăm dũng sĩ lấy thân hi sinh cho Tổ Quốc, chỉ giữ được tánh, mạng ba người chúng ta chu toàn, một nắng hai sương chạy tới Sa Châu, nếu như không thể hoàn thành sứ mạng, cần gi Lệnh Hồ đại nhân phải động thủ. ba người chúng ta cũng không còn mặt mũi trở về, sẽ tự vẫn luôn cho tiện."
Lý Tòng Lâm dứt lời. rút ra chủy thủ để ở ngực, cả tướng quân kia cùng tăng nhân cũng ung dung lấy ra chủỵ thủy (dao găm) tùy thân để ở chỗ yếu hại của minh, nhìn bộ dáng kia, Dương Hạo vừa đi một chân bước vào cửa. ba người sẽ lập tức tự vẫn.
Dương Hạo liền biến sắc. lập tức ngăn lại động tác của Lệnh Hồ Thượng Thiện, quay nguời đi tới trước mặt ba người kia. trầm giọng hỏi: "Các ngươi cầu kiến bản quan, rốt cuộc có chuyện gì?"
Lý Tòng Lâm gặp trở lại. vội vàng nói: "Vài ngày trước. Khách Lạp Hãn Quốc bắt đầu một cuộc chiến không báo trước, bất ngờ tập kích Vu Khuynh, bọn họ tiến sát từng bước, đốt Ngã Phật Tự, giết tăng lữ ta, cướp tài sản dân ta, đốt nhà dân cư ta, bắt nam dâm nữ. không chuyện ác nào không làm. Vu Khuynh ta để mất tiên cơ. đến nỗi từng bước bị quản chế. cần ngoại viện tương trợ khẩn cắp . Lý Tòng Lâm cùng Tuệ Sinh đại sư ở dưới sự bảo vệ của Tô Lạp tướng quân đi tới Sa Châu, chính là muốn xin Thái úy viện binh, giải vây cho Vu Khuynh ta."
Dương Hạo nghe thế nhất thời nhíu mày, hắn tự mình còn có vấn đề khó khăn hai châu Cam Châu cùng Lân Phủ khó khăn chưa giải được, nào có lòng thanh thản giúp Vu Khuynh giải nạn, Dương Hạo liền nói: "Ta cùng với quốc chủ Vu Khuynh không quen biết, cũng chưa có cái giao tình gì. tại sao lại phải vì Vu Khuynh ngươi mà xuất binh, hao tổn tướng sĩ dưới trướng của ta ?"
Tuệ Sinh đại sư kia cao giọng đọc một tiếng Phật hiệu, nói: "A di đà Phật. Dương Thái Úy nói lời ấy sai rồi. Thái úy xuất binh viện trợ cho Vu Khuynh ta. vừa là giúp người, cũng là giúp mình. Giúp người, làm như vậy là vì chỗ đại nghĩa. Giúp mình, là vì hàng vạn hàng nghìn dân chúng cổ đạo Tây Vực, tại sao có thể nói chuyện này cùng Thái úy không có chút nào liên hệ chứ?"
Dương Hạo ung dung nói: "Giúp Vu Khuynh. làm sao lại chính là giúp người giúp mình, đại nghĩa đi đầu. kính xin đại sư nói rõ."
Tuệ Sinh đại sư chậm rãi mà nói: "Thái úy, Vu Khuynh ta cùng Khách Lạp Hãn Quốc chiển tranh đã hơn mười năm rồi, ban đầu. lúc mới đại chiến, ba vị thái tử Vu Khuynh tạ từ, liền chia nhau đi Sa Châu cùng Khai Phong cầu xin lấy cứu binh, lúc ấy Sa Châu xúc động giúp binh, mà Trung Nguyên bởi vì đường xá xa xôi, ở giữa lại cách nhiều bộ lạc Thổ Phiên. Hồi Hạt. Đảng Hạng, Khương, khó có thể viện binh, hoàng đế Tống Quốc bệ hạ chỉ đành phái một trăm năm mươi bảy tên tăng lữ chuyên cần đi hướng Tây Vực, ủng hộ trên đạo nghĩa. Khõng thể phái binh đến giúp, hoàng đế bệ hạ quý quốc cũng là rất đáng tiếc.
Thái úy là Sử Tương Tống Quốc, nay lại đóng quân ở Sa Châu, cùng Vu Khuynh ta gần trong gang tấc. lại không thể xuất binh tương trợ sao? Thái úy vừa nói muốn cứu giúp dân chúng. Vu Khuynh ta từ trước đến giờ phụng vụ Trung Nguyên, vô luận là Đường Lương hay Tống, làm chủ Trung Nguyên, tức là chánh thống Vu Khuynh ta, cô thần ở Tây Vực. một lòng trung can. hôm nay quốc sự nguy cấp, không phải là Thái úy muốn cứu giúp dân chúng sao? Đây không phải là trên hợp ý vua. dưới hợp lòng dân. phù trợ chánh nghĩa, chiếu ra quân uy sao?
Còn nữa. Khách Lạp Hãn Quốc có thể đánh bại chúng ta, lại không thể diệt được chúng ta. ngay cả khi Thái úy không chịu xuất binh tương trợ. Vu Khuynh ta cùng là muốn cùng địch nhân chiến đấu tới người cuối cùng. Biên giới Vu Khuynh ta Tây Nam chống đỡ Thông Lĩnh cùng Bà La Môn. kéo dài ba nghìn dặm. Nam tiếp giáp Thổ Phiên. Tây chỉ Sở Lặc hơn hai ngàn dặm, lãnh địa bát ngát, quốc gia rộng lớn. một khi dấy lên chiến hỏa. khắp nơi ngoài Ngọc Môn Quan khói báo động, không còn một mảnh đất sạch, thương nhân Hồ khó khăn, thương nhân Hán cũng khó khăn. Thái úy cho dù nhất thống Hà Tây, thì như thế nào để làm được thương nhân Hồ. Hán khách liên tục lui tới qua lại. tái hiện thịnh vượng phồn vinh của cô chứ? Đây không phải là thất tín với thiên hạ sao?
Vu Khuynh có Phật giáo hưng thịnh, là quốc gia sùng Phật. Khách Lạp Hãn Quốc đốt chùa miếu ta. giết tăng lữ ta, đốt cuốn kinh ta. kỳ hình kỳ trạng, thê thảm không nói nổi, ta nghe thấy Thái úy là hộ pháp Phật gia ta, kính Phật sùng Phật, dịch kinh in kinh, công đức vô lượng, được chư Hoạt Phật Tây Vực ủng hộ. các cao tăng tin cậy. được trăm vạn tín đồ Phật giáo Tây Vực ủng hộ. nay tín đồ tăng lữ Vu Khuynh gặp tai vạ đến nơi. Thái úy há có thể ngồi yên không lý đến sao?"
Một lời thật sắc bén, Tuệ Sinh đại sư oang oang mà nói. lưỡi chói lọi hoa sen, dân chúng ở hiện trường vây xem nghe thế nhất thời xôn xao một trận, tiếng bàn luận xôn xao hội tụ thành một cỗ tiếng gầm ong ong, Dương Hạo mặt không mừng không giận, hoàn toàn không nhìn ra tâm tư của hắn, ánh mắt lại đột nhiên sắc bén.
Tháp Lợi Bặc ở một bên nghe vậy sắc mặt lại trở nên rất khó coi, hắn là người nước Đại Thục, cùng người Khách Lạp Hãn có cùng tín ngưỡng, vương quốc Khách Lạp Hãn vốn là quốc gia sùng Phật. mới vừa thay đổi tín ngưỡng mới hơn ba mươi năm. đây chính là thành quả kiệt xuất của Đại Thực dùng phương thức quân sự chinh phục cùng kinh tế thẩm thấu hướng phương Đông mở rộng. Mà nay, đối mặt với cuộc chiến tranh của Vu Khuynh cùng Khách Lạp Hãn này, lập trường của hắn không hỏi cũng biết.
Bất quá Tháp Lợi Bạc mặc dù hết sức khẩn trương, nhưng là hắn cũng rõ ràng lấy thân phận thương nhân của mình, đối với chuyện như vậy là không nên xen vào, cho nên hắn chẳng qua là cẩn thận ngó chừng Dương Hạo. nhìn xem hắn quỵểt định như thế nào.
Dương Hạo đưa mắt nhìn Tuệ Sinh đại sư hồi lâu, bỗng nhiên cười nhạt, phân phó nói: "Lệnh Hồ đại nhân, đem ba vị sứ giả Vu Khuynh vào trong quân dịch tạm thời thu xếp đi."
Lệnh Hồ Thượng Thiện ngẩn ra, theo bản năng hướng vào trong vương phủ nhìn thoáng qua. lúc này mới đáp: "Vâng, hạ quan sẽ lập tức an bài." Lý Tòng Lâm thấy Dương Hạo xoay người muốn đi, vội kêu lên: "Dương Thái úy!"
Dương Hạo nghỉ chân . trả lời: "Việc quân cơ đại sự. sao có thể khinh suất? Xin ba vị vào dịch quán nghỉ tạm. chờ bản quan truyền kiến."
Dương Hạo dứt lời liền vào bước vào cửa lớn Vương Phủ. vừa bước cửa phủ. bước chân hắn nhìn như nhẹ nhàng bỗng nhiên trầm trọng. Tháp Lợi Bặc đem một màn này hoàn toàn nhìn vào trong mắt. chân mày hắn nhíu một cái, ánh mắt co rụt lại như kim chàm, bỗng nhiên vội vàng xoay người, hướng bọn thị vệ làm thù hiệu, lặng lẽ gia nhập vào trong biển người.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 30: Nê Bồ Tát Cũng Là Bồ Tát (1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Dương Hạo rảo bước tiến vào cửa phủ, bước chân nặng nề, đi được không xa, liền gọi một người căn dặn nói: "Lập tức đi mời Trương Vũ đại nhân tới trong phủ một chuyến."
Trương Vũ là con trai thứ tư của Trương Thừa Tiên, sau khi Dương Hạo vào làm chủ Qua Sa, phong Trương Vũ Trương Thiên Sư làm Thứ Sử Sa Châu, về phần Trương lão tiên sinh Trương Thừa Tiên, tuổi đã lớn như thế, tự nhiên sẽ không ra làm quan, nhưng vẫn cho vào trong danh sách tướng lĩnh, đảm đương lãnh tụ tinh thần của Quy Nghĩa Quân Sa Châu.
Được tới phòng chính, Dương Hạo nhìn thấy Cẩu Nhi cùng Trúc Vận đang di động dưới bụi hoa cây xanh, Trúc Vận vốn là luyện ngoại gia công phu, kể từ khi từ trong miệng Cẩu Nhi biết được Khôn Đạo Chú Đỉnh Công, nội ngoại kiêm tu, võ công tiến nhanh, nội khí trung hoà, thương thế khỏi cũng nhanh hơn so vơi thường nhân, bất quá ở trước mặt Dương Hạo, nàng cũng không dám lộ ra một tia đầu mối, giờ phút này luyện tập vẫn là ngoại gia công phu, chẳng qua là thương thế chưa khỏi hẳn, chỉ lựa chọn một động tác mềm nhẹ hoạt động thân thể.
Dương Hạo thấy hai người tỷ thí đến nhập thần, liền không cao giọng, đi thẳng chuyển hướng tới phòng chính. Còn chưa uống hêt một chén trà thơm, Trương Vũ liền vội vã chạy tới, Dương Hạo vội vàng đứng dậy đón chào, đem Trương Vũ tiếp vào an vị trong sảnh, Trương Vũ trà chưa dính miệng, đã liền chắp tay hỏi: "Không biết Thái Úy vội vàng triệu kiến, có chuyện quan trọng gì phân phó?"
Dương Hạo cười một tiếng nói: "Trương đại nhân, đây chỉ là nói chuyện kín, không cần câu lệ lễ tiết."
Hắn mời trà, rồi mới lên tiếng: "Trương đại nhân, hôm nay có sứ giả Vu Khuých, hướng Sa Châu ta xin chi viện, bọn họ vốn là muốn hướng Tào thị cầu viện, lại không biết hôm nay đã là bản Thái Úy thống ngự Sa Châu. Nghe bọn hắn nói đến tình hình Vu Khuých trước mắt, tình hình đó thật sự là đáng thương, nhưng mà bản Thái Úy cùng Vu Khuých Quốc chưa từng lui tới, hiểu biết về tình hình trước mắt của bọn họ cũng hết sức có hạn, cho nên đối với việc bọn họ khẩn cầu, cũng không đáp ứng ngay. Hôm nay mời Trương đại nhân tới, bản Thái Úy chính là muốn biết cặn kẽ tình hình Vu Khuých Quốc này, cùng với quan hệ cùng Sa Châu ta."
Trương Vũ nghe xong liền thoải mái nói: "Thì ra là như vậy, là vì chuyện sứ giả tới Sa Châu."
Hắn vê râu suy nghĩ một chút, rồi mới lên tiếng: "Nói đến Vu Khuých, diệt rồi lại lập, lập rồi lại diệt, lặp lại như thế đếm không hết, bất quá vì thế nên nước thủy chung bất diệt, cũng là một cái kỳ quái. Thời Đường Huyền Tông, hắn gả cháu gái tôn thất cho quốc vương Vu Khuých Quốc Úy Trì Thắng, từ đó Vu Khuých tự xưng là thần chúc Trung Nguyên(dòng dõi thần), sau đó các đời quốc vương viết thư cho hòang đế Trung Nguyên, đều tôn hoàng đế Trung Nguyên là cậu, tự xưng là cháu trai.
Sau khi Úy Trì Tăng Ô Ba xưng đế, hướng tới văn hóa Trung Nguyên, tất cả thể chế quốc gia, kiến trúc, văn hóa đều phỏng theo Trung thổ, lúc ấy Đại Đường đã diệt vong, nhưng Vu Khuých ở tại phía xa Tây Vực, không nghe thấy tin tức, vẫn tự cho mình là con cháu Đại Đường, Úy Trì Tăng Ô Ba còn lấy cho mình họ Lý tên Hán, sau lại cùng Sa Châu ta bắt đầu kết giao, lúc ấy Sa Châu là do Tào thị cầm quyền, Tào Nghị Kim đem thứ nữ gả cho Vu Khuých Vương Lý Thánh Thiên làm hoàng hậu, Lý Thánh Thiên lại đem con gái thứ ba gả cho Tào Duyên Lộc cháu Tào Nghị Kim làm vợ. Từ đó trở đi, cùng Sa Châu ta qua lại thân mật, sứ giả, tăng lữ hai bên không ngừng qua lại."
Đến chỗ này, Trương Vũ bưng lên chén trà lên uống, lại nói: "Vu Khuých là đại quốc Tây Vực, thương nhân người Hồ từ nam mà đến vượt qua Thông Lĩnh, cần phải đi qua Vu Khuých mới tới Ngọc Môn Quan, các nước ở bên trong Tây Vực, hôm nay có quan hệ mật thiết nhất cùng Sa Châu ta đúng là Vu Khuých Quốc, nếu như Vu Khuých rung chuyển bất an, có lẽ thương nhân có chút ít thủ đoạn có thể đi lối tắt khác, không phải chịu ảnh hưởng lớn, nhưng là đối với phần lớn thương nhân Hồ mà nói, quả thật e sợ đi về phía Đông. Mà Khách Lạp Hãn Quốc. . .
Trương Vũ chậm rãi mà nói, Dương Hạo chỉ là ngưng thần yên lặng nghe, khi có điều nghi vấn liền mở miệng hỏi thăm, Trương Vũ không gì không biết, hai người nói hơn một canh giờ, Dương Hạo chẳng những đã nắm giữ căn bản đối với tình hình Vu Khuých Quốc, mà ngay cả tình hình của các quốc gia thế lực phân bộ quanh nói cũng hiểu rõ đại khái. Bất quá trong lúc nói cùng Trương Vũ, Dương Hạo không lộ ra một chút ý có trợ giúp Vu Khuých hay không, đợi đến khi Trương Vũ đem tình huống giới thiệu rõ ràng, Dương Hạo đứng dậy đưa tiễn Trương Vũ, rồi lại trở về phòng chính, Lệnh Hồ Thượng Thiện đã đợi ở đó.
Dương Hạo hỏi: "Đã sắp xếp sứ giả Vu Khuých cho tốt rồi chứ?"
Lệnh Hồ Thượng Thiện vội nói: "Vâng, bọn họ đã được an bài ở Hồ Dương Quán, vị Hồ thương nhân Tháp Lợi Bặc cùng Thái Úy quen biết kia đã vào ở Hồ Dương Quán, chiếm phòng xá tốt nhất, hạ quan ra mặt hòa giải, để cho bọn họ dọn ra ba gian phòng hảo hạng, lại dặn dò chủ quán phải hầu hạ cho tốt, tất cả phí tổn đều do phủ Thứ Sử trả tiền, lo xong những chuyện này hạ quan mới trở lại."
Dương Hạo gật đầu, nói: "Mời Lệnh Hồ đại nhân ngồi, mới vừa rồi ở trước cửa Vương phủ, Lệnh Hồ đại nhân liên tục ngăn cản bản quan cùng mấy vị sứ giả Vu Khuých kia nói chuyện với nhau, chẳng lẻ. . . bên trong có cái duyên cớ gì?"
Lệnh Hồ Thượng Thiện cười khổ nói: "Hạ quan nơi nào có duyên cớ gì, thực sự là Mã thống lĩnh cố ý dặn dò hạ quan, nói người Vu Khuých tơi để van cầu Tào thị, liền cùng chúng ta không liên quan đến nhau, Thái Úy bận rộn chính vụ, nào có rỗi rãi để ý tới những nhân vật không liên quan này, muốn hạ quan đem bọn họ trục xuất ra khỏi phủ."
Dương Hạo ngẩn ra, như có điều suy nghĩ nói: "Mã Thán?"
***
Hậu trạch, chỗ ở của Mã Thán cùng Trúc Vận.
Dương Hạo nhấc chân vào sân, vừa muốn đi về phía cửa, cánh cửa "két" một tiếng mở ra, bên trong lộ ra một tiểu cô nương mặc tiểu y màu xanh, trong tay bưng một chậu gỗ, một chậu nước "ào"tới. . . Một tiếng "roạt" dội ra hướng sân, Dương Hạo thân thủ linh hoạt, nhanh chóng tránh ra, giả vờ cả giận nói: "Tiểu Thán, muốn xối cho đại thúc thành ướt sũng sao?"
"A! Đại thúc!"
Mã Thán lè ra cái lưỡi nhọn, cười hì hì nói: "Ai biết được đại thúc muốn tới, người bước đi giống như mèo vậy, không mang theo một chút thanh âm nào."
Mã Thán đẩy cửa phòng ra, cười nói: "Đại thúc vào đi."
Ánh đèn bên trong phòng chiếu đi ra ngoài, cho thân thể của nàng phủ thêm một lớp ánh sáng nhu hòa, tiểu nha đầu dường như mới vừa tắm xong, bộ dáng xinh đẹp, thân thể linh hoạt, nàng không mặc áo ngoài, thân thể còn chưa trưởng thành, nhưng bộ ngực đã thấy được rất tròn đội lên, căng lên tiểu y màu xanh nhạt bằng vải bông của nàng, giống như một đôi ngọc thố khả ái .
Mã Thán một mực gọi Dương Hạo là đại thúc, tuy nói hôm nay dần dần lớn lên, nhưng ở trong lòng Dương Hạo, nàng bây giờ cùng tiểu nha đầu hoàng mao kia tựa hồ như không có gì khác nhau, cho tới bây giờ cũng không đem nàng thành một nữ nhân mà đối đãi, cho nên mặc dù thấy nàng không mặc áo ngoài, nhưng cũng chưa thấy có cái gì không ổn, liền thản nhiên rảo bước tiến vào phòng.
Mã Thán bình thường quen đánh võ, tóc dài đơn giản phân ra hai bó rủ ở trên vai, tiểu y màu xanh nhạt, quần lụa lồng đèn, ống quần rộng rãi nới lỏng phất phơ ở bên mắt cá chân, hai chân bó nhỏ trắng như tuyết đi một đôi guốc gỗ, mười ngón chân tựa như tằm nằm bày ra một loại cảm giác long lanh đáng yêu, lông mày như vẽ, mang theo vẻ ửng hồng sau khi tắm, nhìn tới trước mắt thật sự là một tiểu cô nương ngây thơ vô hạn.
"Làm sao tối nay đại thúc lại rãnh rỗi tới đây vậy?"
Mã Thán xếp cái chậu gỗ chất tốt lên, lập tức ân cần rót chén trà đưa tới cho hắn, vui mừng hỏi.
"Tốt!"
Dương Hạo sắc mặt nghiêm nghị, vẻ mặt cứng rắn nói: "Đại thúc là tơi hưng sư vấn tội. Ta hỏi ngươi, ta sớm đã phân phó qua trách nhiệm các ty trong nha môn, không được lợi dụng chức quyền nhúng tay hỏi tới chuyện của những người khác, hôm nay có sứ giả Vu Khuých đến thăm, tại sao ngươi nói Lệnh Hồ Biệt Giá đem hắn đuổi ra ngoài? Ngươi là người bên cạnh ta, nhất cử nhất động, mỗi tiếng nói mỗi cử động cũng phải càng thêm cẩn thận, nếu không người bên cạnh chẳng phải cho là ý của ta sao?"
Mã Thán thấy hắn giận thật, khuôn mặt nhỏ nhắn lập tức khẩn trương lên, hai tay buông thỏng, nghiêm chỉnh đứng ở trước mặt hắn, hai mắt ngó mũi chân của mình, lắp bắp nói: "A, ta. . . Ta là nghe Trúc Vận tỷ tỷ nói, những người Vu Khuých này đến, đối với đại thúc cũng không có một chút chỗ tốt nào, trái lại muốn cho đại thúc lâm vào chỗ lưỡng nan, không bằng thừa dịp đại thúc không có ở đây, đem bọn họ đuổi đi, cũng có thể bảo vệ thể diện Sa Châu ta thể diện, cho nên mới. . . mới. . ."
Dương Hạo hừ một tiếng, trầm giọng nói: "Trúc Vận đâu?"
Mã Thán vội vàng hấp tấp nói: "Mới vừa tắm rửa, đang trang điểm, ta. . . Ta đi gọi nàng. . ."
Mã Thán chạy nhanh như chớp đến bên cạnh cửa, nhấc lên mành, ló đầu đi vào, nhỏ giọng kêu lên: "Trúc Vận tỷ tỷ, mau tới, mau tới. . ."
Dương Hạo đưa con mắt nhìn lên, quần thụng sa mỏng không thể che hết tư thái xinh đẹp kia của nàng, thân thể hướng vào trong phòng tìm tòi như vậy, eo nhỏ nhắn hơi trầm xuống, phía dưới nổi lên một đường cong, cái mông nhô lên, tinh xảo đẹp đẽ, tuy nói thoạt nhìn tựa hồ một cái bàn tay là có thể phủ kín, nhưng là mơ hồ đã có chút ít mùi vị mượt mà của nữ nhân, trong lòng không khỏi chợt động: "Tiểu nha đầu đã bắt đầu trưởng thành rồi, ta sau này nói với nàng phải chú ý một chút, tiểu hài tử sẽ không để trong lòng, nhưng với một cô nương, lời lẽ nghiêm khắc quở mắng như vậy, khó bảo đảm nàng sẽ không cảm thấy ủy khuất. . ."
Bên trong phòng, Trúc Vận đã nghe được thanh âm của Mã Thán gọi nàng, nàng vội vã mặc áo ngoài vào, liền lên tiếng đi ra.
Trúc Vận mặc áo bào màu trắng thêu hạc, mái tóc nhẹ quấn thành một búi tóc, màu da trong trắng lộ hồng, trong kiều có mỵ, thương thế của nàng mới khỏi, anh khí ít đi vài phần, cũng là thêm vài phần mềm mại đáng yêu rã rời ánh đèn dặm , phảng phất một nụ hoa chớm nở, cho người ta một loại cảm giác mỹ lệ rực rỡ.
Nàng cười nhợt nhạt nói: "Thái Úy đại nhân, chúng ta đều là có lòng tốt, Tiểu Thán làm việc lại càng khắp nơi chỉ biết suy nghĩ vì Thái Úy, cần gì phải thanh nghiêm sắc lệ như vậy, chớ gây sợ hãi cho nàng."
Dương Hạo trừng mắt nhìn nàng một cái nói: "Tiểu Thán vốn là rất biết nghe lời, chính là theo chân ngươi, học một bụng cơ trí cổ quái.
Tại sao ngươi chưa được ta cho phép, liền đã tự tiện đuổi sứ giả Vu Khuých đi?"
Trúc Vận thiện quan sát ngôn sắc nhất, một người là giận thật hay giả giận, sao có thể dấu diếm được ánh mắt của nàng, cho nên Dương Hạo giả vờ giận, nàng căn bản cũng không để ở trong lòng, nàng đi tới bên cạnh Dương Hạo, cười xinh đẹp nói: "Đại lão gia của ta, ngươi cũng đừng có giả bộ nữa có được hay không? Chẳng lẽ ngươi thích nhìn thấy mấy người Vu Khuých kia? Quan lại Sa Châu còn không biết chuyện phát sinh ở Lân Phủ, nhưng là ta còn không biết sao? Đại nhân những ngày qua ở Sa Châu làm việc quên ăn quên ngủ, suốt ngày suốt đêm, làm như vậy là vì cái gì? Còn không phải là vì nhanh chóng ổn định Sa Châu, xua binh giải trừ loạn Lân Phủ sao ?"
Nàng nâng lên chén trà Mã Thán châm cho Dương Hạo, nhẹ nhàng đưa tới trong tay Dương Hạo, dựa vào gần một chút, Dương Hạo ngửi thấy được một cổ hương thơm nhàn nhạt như tảo đậu, làm tâm thần người ta sảng khoái, Trúc Vận mặc áo bào rộng rãi, ống tay áo vừa trợt ra, lộ ra một đoạn cổ tay như tuyết, trên cổ tay lại có một đạo vết thương mới lành, da non mới sinh còn lộ ra màu hồng nhạt, Dương Hạo trong lòng mềm nhũn, liền nhận lấy chén trà, nói: "Các ngươi ngồi đi."
Mã Thán vâng lời đáp tiếng, nàng vỗ vỗ ngực, vội vàng trượt đến trên một cái ghế, biết điều ngồi xuống.
Dương Hạo nói: "Nói tiếp."
"Dạ!"
Trúc Vận thấy hắn nghe vào trong lòng, cười nhợt nhạt một tiếng, lại nói: "Đại nhân, Vu Khuých cùng chúng ta có quan hệ gì, huống chi hoàng hậu của tiên vương Vu Khuých Lý Thánh Thiên vẫn là người Tào gia, bọn họ hôm nay là bệnh cấp tính chạy chữa loạn, nhưng ngày sau làm sao biết được sẽ không lấy oán trả ân chứ? Cho dù chúng ta hiện tại đều thái bình, cũng không cần thiết đi viện trợ cho Vu Khuých. Rồi lại nói, căn cơ của đại nhân ở Hạ Châu, tuy nói lấy Hoành Sơn hiểm yếu làm cửa ải ngăn bước chân quân Tống Tây tiến, bọn họ chưa chắc có thể đánh hạ hai châu Ngân Lô, bảo vệ Hạ Châu thì không có việc gì, nhưng mà một khi để cho bọn họ đứng vững ở hai châu Lân Phủ, đem nơi đó làm của riêng, liền ngăn chận đường chúng ta Đông tiến."
Dương Hạo cũng nhìn nàng một cái, hừ nói: "Đông tiến? Ai nói ta muốn Đông tiến?"
Trúc Vận nhíu lông mày, hướng hắn quyến rũ cười một tiếng, cũng không phản bác.
Dương Hạo hít một hơi rồi thở dài, đặt chén trà xuống đứng dậy, chậm rãi đi dạo, trầm ngâm nói: "Ngươi cho là, ta hẳn là bỏ mặc đối với khó khăn của Vu Khuých?"
Trúc Vận nói: "Đó là tự nhiên, chẳng những ta nghĩ như vậy, cho dù Chủng đại nhân, Trương tướng quân ở chỗ này, sợ rằng cũng phải nghĩ như vậy đi. Đừng nói chúng ta cùng Vu Khuých không có giao tình, cho dù có giao tình thâm hậu với nhau, hôm nay chúng ta tự lo không xong, sao có thể vì hắn giải vây?"
Dương Hạo chậm rãi lắc đầu, lẩm bẩm: "Cũng nghĩ như vậy sao. . ."
Trúc Vận nhìn sắc mặt của hắn, đột nhiên động dung nói: "Chẳng lẽ. . . Thái Úy thật sự muốn xuất binh tương trợ Vu Khuých?"
Dương Hạo hỏi ngược lại: "Nếu như ta quả thực có ý đó thì sao?"
Trúc Vận kinh ngạc nói: "Như thế là tự mình chuốc lấy cực khổ, tại sao phải thế? Thái Úy, hiện tại đại quân triều đình đã tiếp cận, chúng ta là Nê Bồ Tát sang sông, tự thân khó bảo toàn, nào còn có thể bận tâm tới bọn họ?"
Dương Hạo đột nhiên nói: "Nê Bồ Tát. . . Cũng là Bồ Tát, nếu không, sẽ thật sự chỉ là một đống than bùn. Trúc Vận, đối với chuyện này, ta đã nghĩ rất lâu, chúng ta bây giờ là rất cực khổ, loạn trong giặc ngoài, nguy cơ trùng trùng, nhưng cho dù chúng ta có khổ nữa, trận chiến này vẫn phải đánh, cần phải đi đánh."
"Cần phải đánh?"
"Không sai, cần phải đánh, có bốn nguyên do bên trong: thứ nhất, là lợi ích. Tây Nam Vu Khuých chống đỡ Thông Lĩnh cùng Bà La Môn, dài ba nghìn dặm. Nam tiếp giáp Thổ Phiên, phía Tây xa hơn hai ngàn dặm , lãnh địa bát ngát, lãnh thổ quốc gia rộng lớn, nếu như cái chỗ này có chiến hỏa liên miên, như vậy cho dù chúng ta thống nhất Hà Tây, cũng không cách nào làm được lời hứa chấn hưng Hà Tây, con đường tơ lụa Trung Tây được khai thông, hành lang Hà Tây của ta chẳng qua là một đoạn phía Đông trong đó thôi. . .
Trúc Vận phản bác: "Thái Úy, cuộc chiến Vu Khuých cùng Khách Lạp Hãn Quốc vẫn lúc đứt lúc nối chưa từng dừng lại, nhưng thuộc hạ nghe nói, thương nhân Tháp Lợi Bặc của Đại Thực đã mang theo hơn một ngàn nông nô cùng lượng lớn tài vật đã tới Sa Châu, hơn nữa lúc trước hắn đã chở trộm bảo mã Đại Thực tới đây, có thể thấy được, bọn họ cũng không bị chiến hỏa ảnh hưởng . . ."
Dương Hạo lắc đầu nói: "Không chỉ như vậy, đó chỉ là một Tháp Lợi Bặc, hắn có huyết thống Vương tộc Đại Thực, tất có liên lạc cùng vua Đại Thực, mà thương nhân bình thường thì không có đặc quyền như vậy, cũng không có bản lĩnh như vậy. Trọng chấn Hà Tây, không thể nào chỉ dựa vào một Tháp Lợi Bặc, vả lại. . . , "
Mắt của hắn khẽ híp mắt lên: "Trúc Vận, nếu như mạch sống kinh tế của ta nằm ở trong tay một người, ngươi nói đó là may mắn, hay là bất hạnh đây?"
Trúc Vận không nói, Dương Hạo lại nói: "Thứ hai, là an toàn! Tống Quốc đánh Lân Phủ ta, tin tức vẫn còn một mực trong sự khống chế của chúng ta, nhưng là theo việc cổ đạo Hà Tây khai thông, là sẽ không che dấu được bao lâu, nhất định sẽ truyền đến nơi đây. Nếu như tin tức đó truyền ra, các thế lực khắp nơi mới vừa quy thuận chúng ta có thể ngo ngoe hay không ? "
***
Trời đã sáng, gà trống gáy vang.
Dương Hạo một thân áo xanh tiễn tụ, mới vừa ở trong viện đánh quyền hai lần, trán thấm ra một chút mồ hôi, đang muốn đang luyện kiếm pháp hai lần, Lệnh Hồ Thượng Thiện bỗng nhiên vội vã chạy vào hậu viện, vừa chạy vừa gọi: "Thái Úy, Thái Úy đại nhân, đã xảy ra chuyện, Hồ Dương Quán đã xảy ra chuyện."
Dương Hạo ngẩn người, thu kiếm hỏi: "Hồ Dương Quán? Hồ Dương Quán là cái chỗ nào?"
Lệnh Hồ Thượng Thiện gấp đến độ dậm chân: "Đuó là chỗ an trí cho ba sứ giả Vu Khuých kia, bọn họ đã xảy ra chuyện.
Dương Hạo thất thanh nói: "Sứ giả Vu Khuých? Bọn họ đã xảy ra chuyện gì?"
Lệnh Hồ Thượng Thiện gấp đến độ đầu đầy mồ hôi: "Giết, bị người giết, hạ quan vừa muốn tới phủ nha xử lý chính vụ, liền nghe được tin tức kia, một khắc không ngừng lập tức tới tìm Thái Úy, Thái Úy, cái này chính là nguy rồi, bất kể nói thế nào, bọn họ là sứ giả của Vu Khuých Quốc, sứ giả bỉ quốc chết ở Sa Châu, chuyện này. . ."
Sắc mặt Dương Hạo nghiêm trọng, cắt đứt lời của hắn nói: "Ta từng nhậm chức Hồng Lư Thiếu Khanh, tự nhiên biết đại sứ một nước bỏ mình là có ý nghĩa như thế nào, không nên sợ, là phúc thì không phải là họa, là họa thì không tránh khỏi, chuyện đã xảy ra, nóng ruột có tác dùng gì, chúng ta đi xem một chút."
Dương Hạo vừa nói vừa sải bước mà đi, Lệnh Hồ Thượng Thiện cầm theo vạt áo, một mực chạy chậm theo ở phía sau, hai người ra khỏi cửa phủ, tung mình lên ngựa dưới sự hộ vệ của các thị vệ vội vàng đi tới Hồ Dương Quán.
Hồ Dương Quán là một trong những khách điếm lớn nhất Sa Châu, điều kiện cũng tốt nhất, chiếm diện tích cực kỳ rộng lớn, Dương Hạo chạy tới, nha dịch công sai phủ nha Sa Châu đã tiến vào Hồ Dương Quán, khách sạn bên ngoài lại có quân tướng Sa Châu phòng giữ bao bọc vây quanh nơi dó, Dương Hạo vội vàng xuống ngựa, cùng Lệnh Hồ Thượng Thiện đi vào đại môn, chủ quán Hồ Dương Quán sắc mặt như đất chạy tới đón chào, dẫn hai vị đại nhân thẳng tới chỗ ở của ba vị sứ giả Vu Khuých, vừa đi vừa lải nhải biện giải ầm ĩ: "Đại nhân, tiểu lão nhi luôn luôn giữ bổn phận, kinh doanh khách điếm này chưa từng có xảy ra chuyện, sáng sớm hôm nay, tiểu lão nhi đi tiểu đêm thì nghe thấy có người hét thảm một tiếng, tiểu lão nhi vội vàng chạy tới vừa nhìn. . ."
Hai người Dương Hạo cũng không để ý đến hắn, trầm mặt đi lên, ở trong sân viện, đã sớm có mấy người nha dịch nghênh đón nói: "Thái Úy đại nhân, Biệt Giá đại nhân, cửa sân này vốn là đóng từ bên trong, leo tường vào mới mở ra, tặc nhân là trực tiếp leo tường đi vào. . .
Dương Hạo gật đầu, chân không ngừng trực tiếp đi vào sân, vừa vào cửa đã giật mình đứng lại, vị tướng quân Vu Khuých kia đứng ở cạnh cửa, đang mặc quần áo ngủ, lông mày giận dữ, trợn mắt, tựa như một con mãnh hổ muốn nhắm người mà cắn xé, nhưng là hắn cũng không thể động đậy nữa rồi, một cây trường mâu xuyên thủng lồng ngực của hắn, ghim chặt hắn tại trên tường.
Cửa bên cạnh mở rộng ra, Dương Hạo bước nhanh đi vào, chỉ thấy vị văn sĩ Lý Tòng Lâm kia đồng dạng cũng không mặc áo ngoài, tựa hồ hắn mới vừa nghe tiếng rời giường, đi ra gian ngoài muốn xem rõ động tĩnh, liền bất ngờ bị hung thủ xông vào dùng một kiếm đâm xuyên qua cổ. Một kiếm này chặt đứt động mạch cần cổ của hắn, máu tươi phun tung toé lên thân, thi thể mềm nhũn tựa vào trên vách, trên mặt của hắn còn mang theo một tia kinh ngạc cùng mờ mịt.
Ánh mắt Dương Hạo yên lặng nhìn hai người Lý Tòng Lâm đã không còn sinh khí, chính là chết không nhắm mắt, hồi lâu vẫn không chuyển động.
"Đại nhân, hòa thượng này còn có một hơi thở." Nha sai bên trong kêu lớn, Dương Hạo cơ trí, lập tức bắn người lướt vào gian trong, chỉ thấy vị Tuệ Sinh đại sư kia mặc một bộ tăng bào màu xanh nhạt, khẽ nghiêng ở trên giường che lại bộ ngực chảy máu, một đôi mắt vô thần hướng hắn nhìn ra.
Dương Hạo lập tức xẹt qua, cúi người đỡ hắn dậy, tức giận hỏi: "Đại sư, là người phương nào hành hung?"
Khóe miệng Tuệ Sinh đại sư lộ ra một nụ cười thản nhiên, hắn khó khăn nói: "Lão nạp. . . Có thể chịu đựng được đến khi Thái Úy đại nhân chạy tới, cũng là ngã phật. . . có linh. Không biết Thái Úy suy nghĩ một đêm, hôm nay. . . có. . . quyết định xuất binh, giải quyết khó khăn cho hàng vạn hàng nghìn. . . Chúng sanh Vu Khuých hay không ?"
Dương Hạo vội la lên: "Đại sư, rốt cuộc là người phương nào hành hung?"
Tuệ Sinh nói: "Ba người...Lão nạp. . . lần này, đã ôm lòng chịu chết , . . . Đã thấy Thái Úy, chết có ý nghĩa rồi. Lão nạp. . . Thân là sứ giả Vu Khuých. . .chỉ muốn biết. . . Thái Úy có thể nói. . . đi?"
Dương Hạo nặng nề nắm tay một cái, trầm giọng nói: "Bản Thái Úy tâm ý đã quyết, tất xuất binh cứu viện Vu Khuých!"
Trong mắt Tuệ Sinh hòa thượng lộ ra vẻ vui mừng, hắn run rẩy thu về hai tay nhuốm máu, bảo tướng trang nghiêm, bộ dạng trang trọng: "Thái Úy. . . Từ bi trong lòng, tìm theo tiếng cứu khổ cho chúng sanh Vu Khuých, có ý nguyện vĩ đại lần này, chính là tâm Phật, lòng mang tâm Phật, tức là Phật sống đạp đất, tâm nguyện của lão nạp đã hoàn thành, có thể đi. . ."
"Đại sư!"
Dương Hạo gọi một tiếng, lại thấy khóe môi Tuệ Sinh mỉm cười, ý thái an tường, không ngờ đã tọa hóa Bồ Đề.
Dương Hạo từ từ đứng lên, lặng yên lui lại hai bước, hướng vị cao tăng Phật Môn chỉ có duyên gặp mặt một lần, nhưng lại làm kẻ khác nghiêm nghị kính nể này đưa hai tay hợp thành chữ thập, trịnh trọng làm một lễ, lại trầm lặng một khắc, quay người đi ra ngoài. Lệnh Hồ Thượng Thiện kinh nghi đưa mắt nhìn bóng lưng của hắn, cũng vội vã hướng Tuệ Sinh đại sư đưa tay hợp thành chữ thập thi lễ, theo sát Dương Hạo đi ra ngoài.
Dương Hạo một đường đi ra khỏi Hồ Dương quán, tung mình nhảy lên chiến mã, kéo dây cương, rồi mới hướng Lệnh Hồ Thượng Thiện nói: "Tang sự của sứ giả Vu Khuých Quốc, liền nhờ cậy Lệnh Hồ đại nhân, xử lý cho tốt, chuẩn bị đưa thi hài về Vu Khuých Quốc."
"Vâng, hạ quan sẽ xử trí thích đáng, Thái Úy cứ yên tâm, hạ quan cung kính tiễn Thái Úy."
Lệnh Hồ Thượng Thiện vái chào, khi ngẩng đầu lên thì Dương Hạo đã dẫn thị vệ nghênh ngang rời đi.
Dương Hạo cầm cương ngựa, quẹo vào phố dài, lúc này mới dừng lại ngựa đang chạy nhanh, nhẹ nhàng mở ra bàn tay của hắn, ở trong lòng bàn tay của hắn, có một chiếc nhẫn bị máu tươi nhuộm dần, mặt nhẫn rất rộng, chế bằng vàng ròng, rất nặng, dùng hai ngón tay nhẹ nhàng nhón lên, có thể thấy được trên mặt có một chút chữ châm bàng thật nhỏ, chợt nhìn, tựa như một chuỗi hoa văn.
Dương Hạo cẩn thận suy nghĩ, trong mắt dần dần nổi lên một loại quang mang sắc bén như kim châm, cười lạnh nói: "Lại có thể là hắn. . . Cũng chỉ có thể là hắn, thế nhưng ta không nghĩ tới. Ám sát sứ giả Vu Khuých , hừ! Ám sát Vu Khuých sứ giả làm gì. . . Ngươi nghĩ làm Tư Mã Ban Siêu sao? Đáng tiếc, Dương Hạo ta cũng không phải là Trịnh Thiện Vương!"
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 31:Mưa gió Nổi Lên (1+2+3)
Nguồn: Sưu tầm
Trở lại thư phòng, Dương Hạo lấy ra chiếc nhẫn vàng mặt rộng kia ra, cẩn thận lau đi vết máu trên nhẫn. Chiếc nhẫn này là Tuệ Sinh đại sư nhét vào trong tay của hắn trước khi tọa hóa, một loại nhẫn làm thủ công, nhưng là nhẫn vàng to lớn tinh khiết, mang theo trên tay sẽ lộ ra vẻ đại khí, chính diện chiếc nhẫn không có khảm gì nhưng mặt bên cùng phía sau lại khắc một loại văn tự nhỏ như kim châm.
Hắn không hiểu loại văn tự này, nhưng là lúc hắn ở kiếp trước, thường thấy có văn tự giống như thế ở trên tấm biển ở trong một tiệm cơm. Hắn cũng đã thấy loại nhẫn này ở trên người Tháp Lợi Bặc cùng tùy tùng của hắn. Hắn biết thứ điêu khắc phía trên kia chính là kinh văn hoặc thánh huấn.
Về địa điểm, lai lịch xuất thân của Tháp Lợi Bặc, hơn nữa thêm cái giới chỉ này, liên lạc giữa ba cái, hung thủ là người nào đã được miêu tả sinh động.
Dương Hạo thở ra một hơi thật dài, hắn vạn lần không ngờ, một thương nhân lại thành kính đối với tín ngưỡng đến như thế, hắn lại không sợ chọc giận mình, cực kỳ mạo hiểm động thủ giết người, tín ngưỡng lực thật sự là đáng sợ. Có lẽ, Tháp Lợi Bặc là ỷ vào quan hệ mật thiết giữa mình với hắn, cho là Dương Hạo hắn sẽ không đến nỗi vì mấy người ngoài không có liên hệ nhau mà cùng hắn quyết liệt, nên mới không kiêng nể gì như thế đi?
Tuệ Sinh đại sư khi vào ở Hồ Dương Quán, đã tận mắt nhìn thấy Lệnh Hồ Thượng Thiện cùng Tháp Lợi Bặc tiến hành giao thiệp, Lệnh Hồ Thượng Thiện rất khách khí xin Tháp Lợi Bặc nhường một phòng hảo hạng cho bọn hắn ở lại, tự nhiên hiểu được quan hệ mật thiết giữa song phương bọn họ, Tuệ Sinh đại sư đến chết cũng không nói ra hung thủ là người nào trước mặt mọi người, mà chẳng qua là đem vạt chứng hắn có được lặng lẽ nhét vào trong tay mình, chỉ sợ cũng có loại này kiêng kỵ, hắn sợ phức tạp, gia tăng biến số khi Dương Hạo xuất binh đi viện trợ.
Đang nghĩ ngợi, ngoài cửa bỗng vang lên một hồi tiếng bước chân, Dương Hạo thu lại chiếc nhẫn, nhẹ nhàng ngẩng đầu. Tiếng bước chân dừng lại ở cửa, thị vệ cao giọng bẩm báo: "Sa Châu Biệt Giá Lệnh Hồ đại nhân đến."
"Cho mời vào."
Lệnh Hồ Thượng Thiện cất bước đi vào, hướng Dương Hạo thi lễ: "Thái Úy, thuộc hạ đã xử trí thỏa đáng, ba vị sứ giả Vu Khuých đều đã nhập quan(vào quan tài), bên trong có hương liệu lưu giữ thi thể, hiện đang để trong chùa."
Dương Hạo gật đầu, nghiêm nghị nói: "Ta bảo ngươi điều quân tướng phòng giữ bao vây Hồ Dương Quán, tra án tìm hung thủ, trước khi chưa rõ chân tướng, không được để một người nào ra vào, đã làm thỏa đáng rồi chứ?"
Lệnh Hồ Thượng Thiện nói: "Vâng, tuân theo Thái Úy phân phó, Hồ Dương Quán đã bị vây đến nước chảy không lọt, một ngày vụ án này chưa có kết quả, không cho một người nào chạy. . ."
Dương Hạo lạnh lùng cười một tiếng, nói: "Rất tốt! Bản thân ta muốn xem hắn còn có thể giữ được bình thản nữa hay không. . ."
Một đội thị vệ, mỗi người cưỡi đại mã cao lớn, lưng mang đao, vai khoác cung, khoác áo choàng màu đỏ tươi, từ xa xa chạy tới giống như một mảnh mây đỏ, cả trong ngoài Đôn Hoàng, vừa phong cách vừa đốt tiền như vậy, trừ đầu lĩnh mã tặc Ngải Nghĩa Hải thì không có người thứ hai.
Ngải Nghĩa Hải dẫn một đội khinh kị binh vội vã vào thành, cả chốc lát cũng không ngừng, chạy thẳng tới Vương Phủ.
Ngải Nghĩa Hải vốn là đang đốc quân xây công sự, tu sửa thành lũy, sau nhận được tướng lệnh của Dương Hạo, lập tức ngựa không ngừng vó câu chạy về Đôn Hoàng, đến phía trước Vương Phủ, hắn tung mình xuống ngựa, đem áo khoác vén lên, hấp tấp chạy thẳng tới phòng chính, vừa vào đã hỏi Dương Hạo: "Đại soái, vội vàng điều mạt tướng trở lại, chẳng lẽ là có trận chiến muốn đánh sao?"
Dương Hạo cười nói: "Tính tình của ngươi này vẫn là nóng như lửa, đến đây, trước tiên ngồi xuống, việc phòng ngự Ngọc Môn Quan thế nào rồi?"
Ngải Nghĩa Hải lau mồ hôi, đặt Đại Mã Kim Đao lên trên ghế ngồi xuống, nhếch miệng cười nói: "Ngọc Môn Quan có rất nhiều chỗ mục nát đổ sụp, Phong Oa cổ thành đã lâu không tu sửa, trước mắt đang tiến hành tu sửa gia cố, thật sự không có gì hay để nói. Đại soái à, ngươi muốn lão Ngải xung phong hãm trận thì nói đi, loại cuộc sống an nhàn này thật sự rất nhàm chán. Nhắc tới tu sửa công sự, gia cố phòng thủ thành, vẫn là lão Kha kia làm được lành nghề, không bằng Thái Úy đem hắn điều tới đấy đi, nếu là nơi nào có trận chiến muốn đánh, đại soái ngài đem ta phái đi qua đó mới thống khoái."
Dương Hạo ha ha cười nói: "Rất tốt, bổn soái hôm nay, đang có một cuộc ác trận chiến muốn ngươi đi đánh!"
Ngải Nghĩa Hải vọt một cái nhảy dựng lên, hưng phấn mà nói: "Thật không? Quả nhiên là thật? Ha ha ha ha, cuối cùng không cần đợi ở Ngọc Môn Quan uống gió Tây Bắc nữa rồi, Thái Úy thật là tri âm của lão Ngải, ha ha ha, đại soái, chúng ta muốn đánh người nào? Muốn đánh chỗ? Xin đại soái chỉ thị, lão Ngải lập tức đi ngay."
Dương Hạo cười nói: "Không nên gấp, uống chén trà trước đi, lấy hơi rồi hãy nói."
Ngải Nghĩa Hải cầm chén trà lền rầm rập một ngụm uống cạn, thở hổn hển phì phì ra hai hơi thở mạnh, khẩn cấp nói: "Đại soái hiện tại có thể nói rồi?"
Dương Hạo dở khóc dở cười nói: "Gấp cái gì, chờ Mộc Dịch cùng Lí Hoa Đình đến, bổn soái sẽ giải thích cặn kẽ."
Thời gian khoảng một nén hương sau, Mộc Ân cùng Lí Hoa Đình cũng từng người chạy tới, lúc này Dương Hạo mới lộ ra sắc mặt nghiêm túc, đem chuyện phát sinh trước sau về sứ giả Vu Khuých tới Sa Châu cầu viện, cùng với các lý do xuất binh hôm qua mình phân tích với Trúc Vận nói một lần, Mộc Ân cùng Lí Hoa Đình để tâm lắng nghe, Ngải Nghĩa Hải lại là nhìn chung quanh, căn bản không để vào trong lòng, loại chuyện lục đục với nhau này muốn cho hắn suy nghĩ nhiều một chút cũng cảm thấy nhức đầu, hắn chỉ hiểu đánh trận, một lòng muốn sớm đứng lên, ngồi ở đó xoa tay hăm he chỉ chờ Dương Hạo hạ lệnh xuất binh.
Tính tình Mộc Ân cùng Lí Hoa Đình so với hắn thì trầm ổn hơn, Dương Hạo dứt lời, Lí Hoa Đình nhíu mày trầm tư một hồi lâu, không nhịn được nói: "Đại soái, hôm nay chư châu Lãnh Cam Túc Sa Qua mới vừa quy thuận, lực khống chế của chúng ta đối với quân đội kia còn có hạn, nếu như lúc này đem bọn họ điều tới Đông tuyến, để cho bọn họ đối mặt với quân đội triều đình, khó bảo toàn sẽ không có người phản đối khí xuất trận.
Nếu như đặt bọn họ ở lại Hà Tây thì cũng không ổn.
Nếu như các thế lực phản đối còn sót lại ở các châu nhân cơ hội triều đình tấn công Lân Phủ ta mê hoăc lòng quân, quạt gió thổi lửa, rất khó nói sẽ không có người bất ngờ làm phản. Muốn khắc chế bọn họ, trước khi chúng ta Đông Hành phải để lại lượng lớn quân đội. Hiện tại đem bọn họ điều tới Vu Khuých, thứ nhất có thể giương uy quân ta tại Tây Vực, thứ hai cũng là rút củi dưới đáy nồi, mượn binh sĩ Lạp Hãn kiềm chế họ, đám người lòng dạ khó lường ở các châu Hà Tây liền không quậy lên nổi sóng gió gì, cái này thật sự là diệu kế. . ."
Dương Hạo cười nói: "Ngươi là một viên võ tướng, nói chuyện thoải mái chút ít đi, chớ vòng tới vòng lui, cuối cùng muốn nói cái gì thì cứ mở miệng. . ."
Lí Hoa Đình lúng túng, ngượng ngùng cười một tiếng, rồi mới lên tiếng: "Thuộc hạ lo lắng chính là, tình hình cụ thể hôm nay Khách Lạp Hãn Quốc cùng Vu Khuých giao chiến là như thế nào, xuất binh bao nhiêu? Người nào dẫn quân? Chiến lực như thế nào? Binh lực được an bài như thế nào? Chúng ta tất cả đều không biết. Mà tình hình trước mắt của Vu Khuých chúng ta cũng đều không biết, lao sư viễn chinh, cung cấp lương thảo có thể gánh chịu nổi hay không? Từ đây đi tới Vu Khuých, cát vàng ngàn dặm, đường xá khó đi, có thể bảo đảm chuyển vận hay không? Đây đều là vấn đề. Vạn nhất nếm mùi thất bại, chính là làm suy yếu uy tín của Đại soái, các nước Tây Vực mới vừa nổi lên kính sợ đối với Thái Úy cũng khó tránh khỏi sinh ra ý lạnh nhạt."
Dương Hạo nói: "Điểm này, ta tự nhiên cũng đã nghĩ tới, hai phe Khách Lạp Hãn cùng Vu Khuých chiến tranh đã hơn mười năm rồi, binh lực của Khách Lạp Hãn Quốc có bao nhiêu, chiến lực như thế nào, tướng lãnh nổi danh,quan viên Sa Châu cũng không phải là không biết gì, về phần binh lực an bài cụ thể, tình hình chiến đấu hôm nay, ha hả, cho dù sứ giả Vu Khuých đem những thứ này nói ra hết thì cũng có hữu dụng gì?
Tình thế chiến trường thay đổi trong nháy mắt, khi bọn họ chạy tới Sa Châu ta, tình hình Vu Khuých Quốc đã sớm long trời lỡ đất, cùng điều bọn họ biết hoàn toàn bất đồng, chờ khi nhân mã của chúng ta chạy tới, hết thảy những điều kia đã sớm thay đổi hoàn toàn. Nếu như chúng ta tính toán trước, trước khi xuất binh cứ dựa theo sự hiểu biết tình hình đó mà định ra chiến lược, vẽ ra trận đồ, đánh giặc y nguyên như thế, vậy không phải lý luận suông rồi sao? Câu nệ không thay đổi, sao còn có phần thắng?"
Mộc Ân đồng ý nói: "Đại soái nói đúng, chúng ta chỉ cần tính ra binh lực đại khái của bọn họ, hiểu rõ tình hình căn bản là đủ rồi. Điều thuộc hạ lo lắng chính là, hoàng hậu của quốc vương Vu Khuých Quốc Lý Thánh Thiên là con gái Tào gia, hôm nay ba vị sứ giả Vu Khuých Quốc lại vừa bỏ mạng ở Sa Châu, triều đình Vu Khuých đối với đủ loại những thứ này, trong lòng há có thể không có khúc mắc sao? Chúng ta tùy tiện xuất binh, mặt nóng dán lên cái mông lạnh, nếu như Vu Khuých lại có địch ý đối với chúng ta . . ."
Dương Hạo bật cười nói: "Có thể sao? Lúc Vu Khuých gặp nguy cơ, đại quân ở xa tới tương trợ , chẳng lẽ quốc vương Vu Khuých điên rồi? Sẽ chọn cự tuyệt viện binh để mất nước?"
"Cái này. . ."
:
Dương Hạo lại nói: "Bổn soái đã từ Trương Thứ Sử hiểu rõ được tình hình Vu Khuých Quốc, quốc chủ Vu Khuých Quốc Lý Thánh Thiên đã qua đời hơn mười năm rồi, con trai Lý Tòng Đức năm ngoái cũng vừa mới băng hà, hôm nay là cháu trưởng Úy Trì Đạt Ma của Lý Thánh Thiên tại vị. Vua mới lên ngôi, thực lực quốc gia không yên, lúc này mới liên tiếp bại trận, phải hướng Sa Châu vội vàng cầu viện. Giang sơn, cơ nghiệp, cùng một chút ân oán cá nhân của Hoàng Thái Hậu kia bên nào nặng bên nào nhẹ, ta nghĩ Úy Trì Đạt Ma này vẫn là hiểu được rĩ ràng.
Huống chi, hôm nay nắm giữ quyền to Vu Khuých là Tể tướng của Lý Tòng Đức, nguyên lão trọng thần hai đời phụ tử Úy Trì Đạt Ma là Trương Kim Sơn, Trương Kim Sơn này nói lên lại là hậu nhân của Sa Châu Trương gia, năm xưa Lý Thánh Thiên cùng Quy Nghĩa Quân Sa Châu Trương thị kết nhân duyên lẫn nhau, gả con gái cưới con dâu, Trương gia có một vãn bối làm phò mã Vu Khuých, lúc đó ở lại Vu Khuých, Trương Kim Sơn chính là hậu nhân của hắn, bàn về bối phận, Thứ Sử Sa Châu Trương Vũ Trương đại nhân là tộc thúc của hắn, ngươi nói hắn có biết nên là lập trường gì hay không?"
Nói đến đây, Dương Hạo nhẹ nhàng cười khẽ: "Ngày xưa Vu Khuých Vương cùng Trương thị kết giao sâu, cũng là quan hệ thông gia. Sau khi Tào thị thay thế Trương thị trở thành thủ lĩnh Quy Nghĩa Quân, Vu Khuých Vương đã làm thế nào? Cùng Tào thị kết thân, hắn có từng bởi vì Tào thị thay thế Trương thị mà nổi lên địch ý đối với Tào thị hay không ? Cho nên, chuyện này không cần lo lắng. Về chuyện sứ giả Vu Khuých Quốc bị đâm, nếu là bọn họ bị ta giết chết, đó là hướng về Vu Khuých Quốc công khai tuyên chiến, nhưng Dương Hạo ta lại phái viện quân tới giải vây cho Vu Khuých, Vu Khuých Vương cũng không phải là ngu ngốc, tốt xấu còn không phân rõ được sao?"
Nói đến đây, thân sắc Dương Hạo nghiêm túc lên: "Điều chúng ta thực sự cần phải suy nghĩ, thật ra thì chỉ có một, đó chính là đại chiến viễn chinh như thế nào."
Dương Hạo lui lại thân thể, kéo ra màn che bên tường, trên tường treo một bức bản đồ Tây Vực hết sức đơn sơ. Dương Hạo đến lúc này do thời gian ngắn ngủi, giải thích đối với tình hình ngoài Ngọc Môn Quan có hạn, còn chưa làm ra được bản đồ sa bàn làm cho người ta vừa xem liền hiểu ngay.
"Ba vị tướng quân, các ngươi nhìn xem, trước tiên là nói về hành quân cùng hậu cần. Nếu như chúng ta muốn đi viện trợ cho Vu Khuých, chỉ có hai con đường có thể đi, một cái đi ra Dương Quan, dọc theo A Nhĩ Kim Sơn Mạch chạy thẳng tới thành Ước Xương của Vu Khuých Quốc, con đường này thẳng tắp, đường xá gần đây, bất quá dọc đường không phải là núi thì là sa mạc, về mặt tiếp tế có rất nhiều vấn đề. Con đường thứ hai chính là ra phía Tây Ngọc Môn Quan, trước tiên tới Để La Bô Chu, mượn đường Cao Xương Quốc, dọc theo sông Nhược Nhĩ đi thẳng tới thành Ước Xương. Con đường này đi xa hơn một chút, bất quá nếu thật sự muốn đi, trái lại dễ đi hơn so với con đường thứ nhất, sau khi tới Để La Bố Chu, vấn đề tiếp tế cũng có thể được giải quyết."
Ngải Nghĩa Hải nhảy bật lên nói: "Tốt, vậy chúng ta đi con đường thứ hai, ra phía Tây Ngọc Môn Quan đi, quân đội của ta đang ở Ngọc Môn Quan, đại soái hạ lệnh đi, mạt tướng lập tức xuất binh."
Dương Hạo nhìn chằm chằm hắn, nói: "Ngươi sẽ bổ sung lương thảo như thế nào?"
Ngải Nghĩa Hải hợp tình hợp lý nói: "Cướp đoạt con mẹ nó đi! Chuyện này lão Ngải thường làm, đại soái yên tâm, những tên lính kia vô cùng láu cá, gào thét mà đến, gào thét đi, qua như gió, hành tung khó lường, người Cao Xương Quốc nằm mơ cũng không ngăn được đường đi của chúng ta. . ."
Dương Hạo tức giận hừ một tiếng nói: "Ngươi cho rằng lần này đi cứu viện Vu Khuých, chỉ có năm ngàn du kỵ binh của ngươi sao?"
Mộc Ân nhíu mày nói: "Mạt tướng nghe nói người Cao Xương cùng người Lạp Hãn đều là Hồi Hột nhất tộc, mượn đường Cao Xương, có thể được sao?"
Dương Hạo nói: "Vốn cùng một tộc, nhưng cũng là quốc gia khác nhau. Cao Xương sùng Phật, mà Khách Lạp Hãn Quốc lại sùng bái Nhật Nguyệt Thần, bọn họ vì phổ biến giáo nghĩa, thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết, làm việc hết sức bá đạo.
Hôm nay bọn họ xuất binh tấn công Vu Khuých, cố nhiên là vì khuếch trương quốc thổ, nguyên nhân tín ngưỡng cũng là thứ nhất, Cao Xương há có thể không sinh ra kiêng kỵ sao?
Còn nữa, Cao Xương Quốc là một tiểu quốc bị Vu Khuých, Sa Châu, Lạp Hãn thành hình chữ phẩm bao vây vào giữa, nước tiểu thế yếu, cho nên luôn luôn an phận thủ mình, không dám ngông cuồng sinh sự, đối với Vu Khuých, Quy Nghĩa Quân cùng Lạp Hãn, Cao Xương luôn luôn lấy cống nộp là chính, mỗi khi Trung Nguyên lập một triều mới, tất cả bọn họ đều nghĩ hết biện pháp sau sứ tiến cống, cho nên bọn họ sẽ không chủ động phát sinh tranh đấu đối với chúng ta.
Dĩ nhiên, nếu như là ở dưới sự áp bức của Khách Lạp Hãn Quốc, Cao Xương Quốc cũng chưa chắc sẽ không nổi lên ác ý đối với chúng ta. Nếu chúng ta chọn tuyến đường đi A Nhĩ Kim Sơn, lặng lẽ chạy tới Ước Xương, chính là tráng kỳ thành tâm, mượn đường Cao Xương, ngược lại có thể khoe ra quân uy của ta, xua tan vọng tưởng của bọn họ, hắc! Các nước Tây Vực, có ai không phải là bắt nạt kẻ yếu chứ!
Một khi ta mượn đường bọn họ, vậy thì ta nhích tới gần một bước đi về phía họ, đơn giản mà nói, bọ họ cũng sẽ không nghiêng về hướng Lạp Hãn Quốc nữa, đồng thời, ta tính toán phái một đoàn thương nhân buôn bán cùng viện quân cùng nhau đi tới, cây gậy cùng củ cà rốt(cái này là chính sách của Bush đó^^), ha hả, cũng chính là ý tứ vừa đấm vừa xoa . . ."
Dương Hạo trước đó đã làm đủ việc lớn, chậm rãi nói đến dự tính trong lòng: "Cao Xương lấy chăn nuôi mà sống, Cao Xương Vương, hoàng hậu, thái tử đều có lãnh địa cùng bãi chăn ngựa riêng, ở chỗ bọn hắn, ngựa tốt trị giá bảy trượng lụa một con(bảy mét lụa), ngựa kém chỉ cung cấp thịt để ăn, mỗi con chỉ trị giá một trượng lụa, quý tộc ăn thịt ngựa, bình dân ăn một số thức ăn như thịt dê cùng vịt hoang, nhạn.., bởi vì các quốc gia chung quanh đều có bãi nuôi ngựa của mình, ngựa của bọn họ tiêu thụ ít, cho nên cuộc sống cực kỳ nghèo khổ.
Bản soái thông qua một tiểu lâu, từ đó lấy giá rẻ mua vào lượng lớn tơ lụa, vốn là muốn sung làm quân dụng, lần này vừa đúng lúc dùng tới, ta có thể sai một sứ đoàn, mang đeo tơ lụa, đồ sứ, lá trà, muối ăn mà Cao Xương Quốc thiếu, đi tới trước mua bán, đổi lấy ngựa, vải vóc, ngọc khí, hổ phách, Thất Đao, Trấn Thiết Kiếm dược liệu.. của bọn họ, một mặt lấy quân uy chấn nhiếp bọn họ, một mặt lấy buôn bán ngon ngọt ràng buộc bọn họ, Cao Xương sẽ có thể trở thành trụ sở tiếp liệu hậu cần cho quân viễn chinh của ta. Sau khi đến Vu Khuých, quân nhu tự nhiên phải để Vu Khuých Quốc tới gánh chịu, điểm này cũng đừng lo. Về phần tác chiến như thế nào . . .
Dương Hạo chuyển tới hướng ba người, khẽ mỉm cười: "Quân Khách Lạp Hãn từ Tây mà đến, thành Ước Xương lại là thành thị gần phía Đông nhất của Vu Khuých Quốc, người Khách Lạp Hãn là không thể nào đánh tới Ước Xương, nếu như bọn họ đã đánh tới Ước Xương, vậy Vu Khuých cũng đã là mất nước, chúng ta trực tiếp đi trở về phủ. Cho nên, chỗ quân viễn chinh sau khi tiến vào Vu Khuých đặt chân lên đầu tiên, sẽ không có hung hiểm, kế tiếp, chính là bắt liên lạc cùng người Vu Khuých Quốc, cùng chung tác chiến, nghênh chiến giết quân Khách Lạp Hãn."
Mộc Ân nghe đến đó, mới vừa khẽ gật đầu, tiến lên trước một bước, phấn chấn chờ lệnh nói: "Mạt tướng đã hiểu, mạt tướng nguyện lĩnh quân tới cứu viện Vu Khých. . ."
Ngải Nghĩa Hải kêu lên quái dị: "Mộc tướng quân, ngươi không thể đoạt a, lần phái đi này đại soái đã cho phép ta đi."
"Nga?"
Mộc Ân cùng Lí Hoa Đình nhìn Ngải Nghĩa Hải một chút, lại nhìn hướng Dương Hạo, vẻ mặt đều có chút kỳ dị, Ngải Nghĩa Hải thiện đánh mãnh liệt, trên chiến trận đánh ác liệt, ở trên chiến trường là một nhân vật hết sức khó dây dưa, bọn họ tự nhiên đều biết cái này, nhưng là tên Ngải Nghĩa Hải này tính tình táo bạo, tác phong cuồng dã, từ trước đến giờ có trước không sau, để cho hắn một mình dẫn quân xa ngàn dặm , ai có thể yên tâm được chứ?
Hai người không quá tin tưởng Dương Hạo cắt cử Ngải Nghĩa Hải làm chủ soái tam quân cứu viện Vu Khuých Quốc, cũng đều hướng hắn trông lại, Dương Hạo cười nói: "Lần này đi Cao Xương, Vu Khuých, tự nhiên cần một vị sứ giả, vị sứ giả này, tùy Trương gia đưa ra. Về phần chủ tướng cầm binh, không sai, bản soái đúng là hướng vào Ngải tướng quân."
Lí Hoa Đình là hàng tướng, tư lịch mỏng, không tiện tỏ thái độ gì, nhưng Mộc Ân lại đoạt trước một bước, nói: "Đại soái, Ngải tướng quân. . ."
Dương Hạo xua tay nói: "Một mình chiến đấu nơi xa, tình cảnh hiểm ác, đối thủ lại là người Khác Lạp Hãn dũng mãnh thiện chiến, tình hình như thế, Ngải tướng quân chính là sự lựa chọn tốt nhất, đại quân ta đi lần này, nếu có thể trở thành khắc tinh của Khách Lạp Hãn, uy chấn Tây Vực, viên đại tướng này, không thể không là Ngải tướng quân."
Ngải Nghĩa Hải vừa nghe rất là đắc ý, nhìn hai đồng đội một cái, trên mặt tràn đầy vẻ mặt đắc chí.
Dương Hạo khích lệ xong, rồi lại nghiêm mặt, nói với hắn: "Ngải tướng quân, lần này viễn chinh Vu Khuých, ta chính là đem tinh binh Lương Châu, Túc Châu, Qua Sa giao cho ngươi, tha hương nước khác, đất người khác biệt, đánh thắng trận không dễ dàng, làm như thế nào để bảo toàn cho toàn bộ tướng sĩ chúng ta, lại càng không dễ, ngươi không nên nghĩ tới đánh giặc có thể lập chiến công, cần phải cẩn thận suy nghĩ như thế nào đánh được một trận thắng lớn, có thể đem chi quân đội này của chúng ta hoàn hoàn chỉnh chỉnh mang về, bản soái đem trách nhiệm nặng nề này giao cho ngươi, đem những tinh binh này giao cho ngươi, ngươi chớ làm cho bản soái thất vọng."
Ngải Nghĩa Hải liền ôm quyền, lớn tiếng đáp: "Đại soái yên tâm, Ngải Nghĩa Hải tuyệt sẽ không để cho đại soái thất vọng."
Mộc Ân mờ mịt nói: "Đại soái, ngải tướng quân thu Vu Khuých, kia mạt tướng làm cái gì?"
Dương Hạo nói: "Ngươi, vì bản soái bảo vệ cho Dương Quan cùng Ngọc Môn Quan! Ngải tướng quân vừa lên đường, bản soái phải điều quân trở về Cam Châu. Nếu như Ngải tướng quân thảm bại ở Vu Khuých, mất mạng nơi đất khách, nói không chừng chiến hỏa sẽ trực tiếp thiêu tới Ngọc Môn Quan, khi đó phải bảo vệ cho hai quan, không để ngoại địch xâm lấn một bước, không được để nội bộ mâu thuẫn, trọng trách nặng nề, toàn bộ muốn trông vào ngươi."
Ngải Nghĩa Hải vừa nghe thì cực kỳ không cam lòng, vừa định cãi vã mấy câu, nhưng là lời nói mới đến khóe miệng, trong lòng bỗng nhiên lật lại. Hắn cẩn thận thử nghĩ lời Dương Hạo nói..., vẻ xấc láo nóng nảy điên cuồng trên mặt dần dần thu lại, đổi lại là một bộ mặt cẩn thận ngưng trọng, trầm giọng nói: "Đại soái, Ngải Nghĩa Hải đi lần này, chắc chắn sẽ cẩn thận, không làm nhục sứ mạng!"
Dương Hạo nở nụ cười hớn hở, nói: "Như vậy là tốt nhất, nếu bản soái không tin ngươi, cũng sẽ không đem cái trách nhiệm nặng nề này giao cho ngươi. Các ngươi hiện tại hãy đi chuẩn bị đi, ba ngày sau, Ngải tướng quân viễn chinh Vu Khuých, Lý tướng quân theo bản soái trở về Hạ Châu, xem tình hình tác chiến hai tuyến một chút, so sánh một lần, xem ai có thể đánh một trận thắng thật lớn!"
Trong vương cung của Đại Hãn ở Cam Châu, song phương cãi nhau đã đến mức gay cấn.
Vương tử A Lý cùng vương phi A Cổ Lệ công kích lẫn nhau, bài xích lẫn nhau, đã hoàn toàn không để ý đến thân phận mẫu phi cùng vương tử.
Mà các đại bộ lạc Bộc Cố Đục thị, Bạt Dã Cổ thị, Đồng La Tư Kết thị, Động La Cát thị cũng khẽ gia nhập chiến đoàn, ủng hộ một phe riêng của mình, đối chọi gay gắt, không chút nào yếu thế.
Vương phi A Cổ Lệ kích động đến khuôn mặt đỏ ửng, lớn tiếng nói: "Đại Hãn, sự thật chứng minh, suy đoán từ đầu của A Lý đã hoàn toàn sai lầm. Quân Hạ Châu phô trương thanh thế, vốn đã không thể đánh lâu, nếu như chúng ta vẫn thủ vững thành trì, quân Hạ Châu đã sớm tuyệt vọng lui bước rồi, nhưng vương tử A Lý lại nói như thế nào? Hắn một mực khuyến khích Đại Hãn bỏ thành trốn vào đại mạc, năm lần bảy lượt thúc dục các bộ lạc ta mạnh mẽ phá vòng vây, nếu như không phải là hắn khư khư cố chấp thì các bộ lạc Cổ Cố Hồn, Động La Cát làm sao lại tổn thất thảm trọng như thế chứ?"
Vương phi A Cổ Lệ vừa nói lời này, các tộc trưởng cùng đám đầu lĩnh bộ lạc Cổ Cố Hồn, Động La Cát nhất thời đều liên tục phụ họa, thủ lĩnh Tô Nhĩ Mạn của Cổ Cố Hồn lại càng là nước mắt tuôn đầy mặt, hai đứa con trai hắn đều chết thảm ở trong lúc mạnh mẽ phá vòng vây dưới trận Mạch Đao của quân Hạ Châu, người ngựa đều tan nát, hình dáng kia thê thảm đến mức không nỡ nhìn. Nam nhi dại mạc bọc thây trong da ngựa là chuyện tầm thường, nhưng sự hy sinh này vốn là có thể tránh khỏi a, già đưa tang con, có thể nào không nhỏ ra giọt nước mắt đau lòng sao.
Dạ Lạc Hột Đại Hãn khoanh chân ngồi ở trên vương tọa da gấu trắng, hai mắt tựa như khép mà không phải là khép, trước sau không nói một lời.
Dạ Lạc Hột chiếm cứ Cam Châu những năm gần đây, đã dần dần hơi đón nhận một chút tập quán sinh hoạt của người Hán, mặc dù trong thành hắn còn không có lều trướng, bất quá đã sớm xây một ngọn vương cung kim bích chói lọi, tòa vương cung này tự nhiên thoải mái hơn với ở trong lều trướng, cho nên Dạ Lạc Hột Đại Hãn bình thời đều ở trong vương cung, lều trướng Đại hãn kia chẳng qua là làm dáng một chút, đã nhiều năm không có bước vào một bước.
Tòa cung điện này là thợ thủ công người Hán xây dựng, chẳng những tráng lệ, hơn nữa hiệu quả tập hợp âm thanh lại vô cùng tốt, vương phi A Cổ Lệ đứng ở trong đình nói chuyện, thanh âm từ xa truyền ra, mọi người đứng ở mỗi góc nhỏ của đại điện đều nghe được rõ ràng. Có người lên tiếng ủng hộ, tự nhiên có người lên tiếng phản đối, thủ lĩnh Bạt Dã Cổ thị cùng với Đồng La Tư Kết đứng về phía vương tử A Lý lập tức liền đứng ra tiến hành phản bác.
Vương tử A Lý không nóng không lạnh nói: "Trước mắt mặc dù quân vây thành đã lui lại, nhưng chủ lực của Dương Hạo còn đang ở Qua Sa bên kia, làm sao biết được trên đường hắn điều quân trở về, sẽ không thuận tay chộp lấy thành Cam Châu chứ? Lấy an nguy của phụ hãn cùng tánh mạng của mười vạn quân dân thành Cam Châu ta ra đánh cuộc, cuộc đánh cá này đánh cuộc thật sự là quá lớn, Thất Vương Phi có thể không cần, nhưng thân là con trai của phụ hãn, A Lý ta lại không thể không cần ."
Vương phi A Cổ Lệ cả giận nói: "An nguy của Đại Hãn, an nguy của quân dân Cam Châu, làm sao ta lại không cần chứ?"
Vương tử A Lý cười lạnh một tiếng, khoanh lại hai tay, nhìn lên long che trên đỉnh điện, từ từ nói: "Phụ hãn đem ngươi vào quân doanh hành thích Dương Hạo, bọn họ lại khám phá ra kế sách của chúng ta, ngược lại tương kế tựu kế mai phục đánh chúng ta, chủ tướng trong doanh bọn họ có thể bấm độn tính ra được phải không ? Mà vương phi A Cổ Lệ ngươi, nếu bị đoán ra thân phận, lại còn có thể từ trong vạn mã ung dung chạy trốn, không bị thương chút nào, phần bản lãnh này, liền càng cao siêu rồi."
A Cổ Lệ giận đến thân thể mềm mại run rẩy, trả lời lại một cách mỉa mai nói: "Trong doanh Dương Hạo không có người nào có thể bấm độn, nhưng là nếu có người bày kế vụng về, người ta còn không nhìn ra được sao? Ta là một nữ tử, giả vờ đầu hàng, thừa dịp hỗn loạn chạy trốn cũng không có gì lạ, nhưng là vương tử A Lý ngươi, ở trong loạn quân bị thương bị bắt, lại vẫn có thể một mình đoạt ngựa, chạy ra tìm đường sống, lúc này mới thật là không thể tin tưởng."
Vương tử A Lý giận dữ, trợn mắt quát lên: "Ngươi nói vậy có ý gì? Ta là con trai của phụ hãn, chẳng lẽ có thể phản bội phụ hãn sao?"
Vương phi A Cổ Lệ cả vú lấp miệng em, nũng nịu phản bác: "Ta là Vương Phi của Đại Hãn, chẳng lẽ ta lại đầu nhập vào người Hán sao?"
"Được rồi, được rồi, ồn ào như thế còn ra thể thống gì!"
Dạ Lạc Hột quát lên một tiếng, quắc mắt đứng lên, hắn chậm rãi bước đi thong thả mấy bước ở trước vương tọa, hỏi lại: "A Cổ Lệ, theo ý kiến của ngươi, hiện tại bản vương nên làm như thế nào?"
Vương phi A Cổ Lệ vội vàng nói: "Đại Hãn, nếu kẻ địch chưa tới, chúng ta đã bỏ thành mà chạy trước, uy phong giảm đi rất nhiều, còn xưng hùng Tây Vực như thế nào nữa? Nếu để cho Dương Hạo thuận lợi có được tòa thành trống không này, rồi phái một chi binh mã đóng ở đây, nếu chúng ta còn muốn thu hồi, chẳng phải là khó như lên trời sao? Hôm nay Tống Quốc chinh phạt Lân Phủ, đúng là cơ hội tốt trời ban cho chúng ta. Dương Hạo mặc dù mang trọng binh Qua Sa, nhưng là đất căn cơ của hắn đang bị công kích, hắn há có thể không vội vàng chạy về Hạ Châu sao? Nào có rỗi rãi đánh Cam Châu ta nữa.
Theo ý thiếp, chúng ta hẳn là đem lưỡng thảo ở trong các bộ lạc tích trữ tại Cam Châu, từ Cam Châu mà xem tình thế của Hà Tây. Dương Hạo gấp rút tiếp viện Hạ Châu, chúng ta có thể xuất binh ngăn đường lui của hắn, nếu như Dương Hạo đề phòng nghiêm mật, không có cơ hội, chúng ta nên động tay động chân sau khi hắn lui binh, liên lạc với các thế gia quyền quý không chịu thần phục với Dương Hạo ở các châu Túc, Qua, Sa, Lương, xúi giục bọn hắn cùng phản lại Dương Hạo, lặp lại thế cũ của Hà Tây.
Đối với Đông Đường, thì có thể ngắm nhìn cảnh tượng chiến sự Hạ Châu, mặc dù Dương Hạo thế lớn, nhưng là so sánh với Tống triều có thực lực hùng hậu mà nói, tựa như sói vật lộn đọ sức với sư tử mạnh mẽ, khó có phần thắng, đợi đến Dương Hạo rơi xuống hạ phong, xuất hiện thế thất bại, chúng ta có thể lập tức tiến binh, thừa dịp khi hắn tự lo không xong thâu tóm các châu Linh, Hưng, Thuận, Định, đến lúc đó, Đại Hãn thay thế Dương Hạo, trở thành bá chủ Hà Tây."
Dạ Lạc Hột nghe vậy đột nhiên động tâm, từ việc mắt thấy sẽ phải bỏ thành mà chạy, mất nước lưu lạc ở đại mạc, nhảy lên trở thành bá chủ Hà Tây, có khả năng này sao? Có thể bắt lấy cơ hội này sao? Chuyện như vậy, trước kia cũng không phải là chưa có qua. . ." Nghĩ đi nghĩ lại, tim của hắn dần dần nóng lên.
Vương tử A Lý cả giận nói: "Bộ lạc của ngươi có nhiều tộc nhân chấp nghiệp công thương ở Cam Châu, tự nhiên không muốn rời xa. Thật là một nữ nhân ngu xuẩn, vì những thứ xoong chảo chum vại kia của ngươi, lại để cho phụ hãn gánh lấy hung hiểm vô tận sao ?"
Vương phi A Cổ Lệ không chút nào yếu thế nói: "Vương tử đóng tại Cống Ung, hôm nay một mực khuyến dụ Đại Hãn vứt bỏ Cam Châu giàu có và đông đúc chuyển nhà tới đại mạc, lại là có ý gì, chẳng lẻ ngươi muốn áp chế Đại Hãn sao?"
Vương tử A Lý nghe vậy không kềm được lửa giận, chợt rút loan đao ra, mũi chỉ vào vương phi A Cổ Lệ, lớn tiếng quát lên: "Ngươi dám chia rẽ quan hệ của ta cùng với phụ hãn ư?"
Dạ Lạc Hột quát to: "Đủ rồi! Ở trước mặt ta mà rút đao soàn soạt còn ra thể thống gì, trong mắt ngươi còn có phụ hãn ta đây sao?"
Vương tử A Lý vội vàng thu đao thỉnh tội: "Phụ hãn, con là bởi vì nhất thời phẫn kích. . . Phụ hãn, ngươi vạn vạn không thể tin nàng nói, ở lại giữ Cam Châu rất nguy hiểm. . .
Dạ Lạc Hột mặt trầm như nước, lạnh lùng thốt lên: "Lần trước, ta tin nhầm ngươi, lần này, ngươi còn muốn ta tin tưởng ngươi sao?"
Vương tử A Lý sợ hãi mà ngẩng đầu lên, đợi khi thấy rõ cặp con ngươi băng lãnh kia của Dạ Lạc Hột, trong lòng nhất thời chìm vào vực sâu. . .
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 13
Chương 32: Đại Mạc Hùng Phong(1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Ngoài thành Sa Châu, mây trắng lơ lửng trên trời xanh.
Cát vàng vạn dặm làm giáo trường, từng sợi mây trắng làm tinh kỳ, từ trong tinh binh quân Lương Châu Thổ Phiên, quân Túc Châu Long Vương, Qua Sa Quy Nghĩa Quân tuyển lựa ra một vạn thiết kỵ tinh nhuệ, thêm năm ngàn kiêu kỵ binh bản bộ của Ngải Nghĩa Hải hợp thành đại quân viễn chinh, trải qua ba ngày chỉnh đốn chuẩn bị chiến tranh, cho ngựa ăn, khích lệ binh lính, hôm nay diễu võ dương oai, đang chờ lệnh xuất ra
Ngựa hí rền vang, gió thổi vi vu, mặt trời đỏ theo đại kỳ!
Một cây cờ có chữ "Dương" lớn như lửa đỏ tung bay, gió thu thổi qua, có tiếng phần phật. Binh sĩ dừng cương đứng nghiêm lập tức đồng loạt nhìn về phía đông, một vòng mặt trời đỏ hiện lên, Dương Hạo tự mình đến tiễn bọn họ đi chinh phạt.
Hộ tống Dương Hạo là quan lại, thân sĩ, hương lý thương dư hai châu Qua Sa, trừ những người trong sứ đoàn đội ngũ thương nhân chuẩn bị hộ tống đại quân đi Cao Xương Quốc ra đều đến. Phía sau còn có mười mấy chiếc xe, chở thịt trâu cùng rượu, để cho quân sĩ sử dụng.
"Ô sách ô. "
Chữ Dương lớn vừa xuất hiện, trong quân trận liền binh giáp leng keng. Tinh kỳ tung bay, mấy vạn tinh kỵ yên tĩnh như rừng, hướng phía lũy đất cát vàng cao một trượng dựa vào.
Lần xuất binh này, Dương Hạo điều động tất cả các nhân vật nổi tiếng, hương lý phụ lão của Qua Sa, đánh ra cờ hiệu bảo gia vệ Sa, kháng Khách viện Vu (bảo vệ nhà giữ Sa Châu, kháng Khách Lạp Hãn viện trợ cho Vu Khuých), lại lợi dụng ba ngày thời gian làm đủ việc tuyên truyền, đem ý nghĩa việc cứu viện cho Vu Khuých trực tiếp cùng hưng suy của hành lang Hà Tây cùng tồn vong của phụ lão Qua Sa móc vào với nhau.
Từng dân chúng, từng binh sĩ, hiện tại cũng đều biết Vu Khuých đại loạn, Đông Tây tắc nghẽn, bọn họ chẳng những không cách nào tái hiện được thịnh vượng của cổ đạo Tây Vực. Hơn nữa con đường thương nhân bị tắc nghẽn, không thông thương được, sẽ dần dần trở nên nghèo khó lạc hậu giống như Cao Xương Quốc.
Từng dân chúng, từng binh sĩ, hiện tại cũng đã biết, người Khách Lạp Hãn vô cùng tàn ác, một khi bọn họ chiếm lĩnh Vu Khuých, sẽ tiếp tục Đông tiến, uy hiếp an nguy Đôn Hoàng, Đôn Hoàng Phật Tự, Tháp Lâm cũng sẽ bị phá huỷ, tất cả tăng lữ cùng tín đồ thành kính cũng sẽ bị thiêu đốt, cả Hà Tây sẽ lâm vào chiến hỏa vô tận, tất cả dân chúng đều phải biến thành nô lệ của người khác.
Trong đó có bao nhiêu suy đoán khuyếch đại không ai biết, tuyên truyền là rất có hiệu quả, lòng cùng chung mối thù đã tràn ngập khắp cả Qua Sa, một tràng chiến tranh vốn xa không chạm tới đột nhiên biến thành một đại sự sóng còn với bọn họ, phụ lão, hương thân dân chúng Qua Sa tự nhiên cố hết sức lực ủng hộ, thái độ của bọn hắn trực tiếp ảnh hưởng đến chi quân viễn chinh này, mỗi binh sĩ đều từ nhất cử nhất động, mỗi tiếng nói cử động ở bên trong dân chúng, cũng cảm thấy sứ mạng mình mang quan trọng đến cỡ nào, trường cung mâu sắc của bọn hắn, không phải đi đất khách Tây Vực tác chiến, mà bọn hắn là trực tiếp bảo vệ phụ lão hương thân của mình, tinh thần dâng cao chưa từng có.
Mà hôm nay, Dương Hạo mang theo bát đại thế gia, quan lại địa phương, si phu, các nhân vật nổi tiếng, cùng với hương lý hào hiếu đức cao vọng trọng long trọng kiểm duyệt quân đội viễn chinh, lại càng đem loại cảm giác vinh dự, cảm giác tự hào này cùng ý chí chiến đấu tràn đầy đến không thể phá vở nâng cao tới cực hạn.
Dương Hạo từ từ đi lên đài điểm tướng, mọi người đi theo đến đều đứng nghiêm ở dưới đài, mặt ngó đại quân viễn chinh.
Từ trên đài mà nhìn tiếp đi, đối diện đài điểm tướng chính là năm ngàn kỵ binh dũng mãnh của Ngải Nghĩa Hải, áo choàng tung bay phía dưới đại kỳ, chiến bào áo giáp là cùng sắc cùng kiểu dáng, đao thương sắc bén thống nhất kiểu chế luyện, quân dung uy vũ hùng tráng.
Ngựa là ngựa Tây Lương hùng tráng khôi ngô, hộ giáp che cánh tay, áo choàng màu lửa đỏ, theo gió thu nổi lên, tựa như một mảnh lửa đốt. Thời điểm thổi tung áo choàng lên, có thể thấy loan đao dưới sườn bọn họ, trường mâu cầm trên tay, bên hông đeo tấm thuẫn tròn, trên vai của bọn hắn đều đeo Cung Nhất Phẩm, hai hộp tràn đầy Lang Nha Tiễn.
Bên trái bên phải cùng sau trận, chính là quân trận ba đường Lương Châu, Túc Châu, Qua Sa. Võ trang cùng vũ khí của bọn họ cũng không chỉnh tề, giáo mác, đao thương kiếm kích, gậy gộc roi không giống nhau, trong cùng đội ngũ, có đủ loại binh khí ngắn dài, binh khí nặng nhẹ, sử dụng cung tên cũng là bất đồng, nhưng là cái loại khí thế uy nghiêm bén nhọn , vạm vỡ như hổ biểu hiện ra kia, cũng là không kém trung quân của Ngải Nghĩa Hải chút nào.
Đồng dạng vẫn là những đội ngũ này, khi đang cùng Dương Hạo là địch, tinh thần bọn họ sa sút lười biếng uể oải, tinh thần xuống thấp, mà sau khi rơi vào trong tay Dương Hạo, thêm chút bài bố, tinh khí thần liền thay đổi hoàn toàn. Trong mắt những người ở phía sau nhìn Dương Hạo kia, bọn họ không khỏi bọn họ không khỏi càng sinh ra mấy phần kính ý đối với Dương Hạo.
Dương Hạo luyện binh, tất nhiên chú trọng quân kỷ quân pháp, nhưng là sĩ quan cấp cao từ Lô Châu luyện tập võ nghệ một đường luyện ra được lại vốn là xuất thân bình dân, bọn họ phai nhạt hơn về cấp bậc trên dưới, chú trọng quan binh một thể hơn. Quan quân tướng tá có tố chất nhất lưu, cùng chung chí hướng bảo vệ nhà bảo vệ dân, hơn nữa tuyệt không khất nợ cùng khấu trừ quân lương, khiến cho chi đội ngũ này ở trong tay Dương Hạo nhanh chóng thoát thai hoán cốt, thay đổi hình dáng.
Đám người đứng ở phía sau Dương Hạo mặc dù cũng là chạy tới ủng hộ quân đội, nhưng là chưa chắc tất cả bọn hắn đều toàn tâm toàn ý với Dương Hạo, ví dụ như Tác gia vốn là đại thế gia thứ hai Sa Châu, hôm nay đã là hư danh, tuy nói gia tộc Tác gia bọn họ khổng lồ vẫn có ảnh hưởng tương đối lớn ở Sa Châu, nhưng là người của gia tộc bọn họ đã từ trên những chức vị quan trọng trong quân chính Qua Sa lui xuống, giống như Lệnh Hồ thế gia vốn xếp chót nhất trong cửu đại thế gia, hôm nay gia chủ cũng làm Sa Châu Biệt Giá, nếu như sau này Tác gia không thể xuất ra mấy nhân vật kiệt xuất, không thể mưu cầu mấy chức vị quan trọng ở trong hai giới quân chính Qua Sa, như vậy không thể tránh khỏi là năm ba năm sau, đứng cuối cùng ở trong cửu đại thế gia Sa Châu rất có thể chính là Tác gia, thậm chí không gượng dậy nổi, hoàn toàn xuống dốc, bị đẩy ra khỏi hàng ngũ thế gia đại tộc.
Các gia tộc khác giống như vậy dù không kêu trách nhưng bọn họ cũng chưa chắc chịu cam tâm thần phục, dùng sự trung thành cùng hành động tới duy trì địa vị gia tộv, nếu như Dương Hạo đem quân chủ lực rút về Hạ Châu, hơn nữa tin tức Dương Hạo cùng chính quyền Trung Nguyên cường đại phát sinh chiến tranh truyền đến, bọn họ rất có thể sẽ liên thủ tới phát động chính biến, phá vỡ sự thống trị của Dương Hạo đối với Qua Sa. Mà bây giờ, bọn họ chính là không thể không cùng Dương Hạo đồng tâm hiệp lực.
Dương Hạo điều quân trở về Hạ Châu, quân tinh nhuệ các châu Qua Sa Lãnh Túc viễn chinh Vu Khuých, lúc này bọn họ còn có thể quấy lên sóng gió gì đây ? Cho dù còn có cái dư lực kia, bọn họ cũng không dám vọng động, trong đại quân viễn chinh có không ít tướng lĩnh cũng là con cháu thế gia quyền quý các châu, nếu như Hà Tây có chút gió thổi cỏ lay gì, chi quân đội lẻ loi bên ngoài này liền có nguy hiểm toàn quân bị diệt, mọi người đứng sau các tướng lĩnh là các thế gia danh môn căn cơ thâm hậu, người đứng phía sau binh sĩ là dân chúng trăm họ, những người này cho dù chỉ vì người nhà của mình, cũng tuyệt đối không cho phép Hà Tây đại loạn, làm tắc nghẽn con đường trở về nhà của con cháu bọn hắn.
Dương Hạo hôm nay mặc một thân nhung trang, đội khôi quải giáp, uy vũ bất phàm.
Hắn đứng nghiêm ở trên đài điểm tướng, chậm rãi nhìn tiếp đón quân tướng sĩ ba quân trước đài, bỗng nhiên nhẹ nhàng giơ tay lên một cái, ba quân lập tức yên lặng, dừng ngựa lại, nghiêm nghị mà đứng, quả nhiên là chậm thì như rừng, bất động thì như núi.
Ngải Nghĩa Hải cùng những quân tướng thống lĩnh ba đường binh mã quất ngựa xuất trận, hướng tới trước đài phi nhanh mà đến.
Dương Hạo từ từ thu hồi lại ánh mắt, cao giọng nói: "Hỡi tướng sĩ ba quân, Dương mỗ từ Hạ Châu mà đến, từng giương ra "Cáo Hà Tây Phụ Lão Thư" , hướng thiên hạ tuyên ngôn. Thề thống nhất Hà Tây, khôi phục cố thổ. Cho phụ lão Hà Tây một thế giới thái bình. Dương mỗ làm được!"
Hắn bước đi thong thả cất bước ở trên đài, đột nhiên nhìn chăm chú các quân đội: "Hôm nay, chỉ còn một Cam Châu đau khổ chống đở, bọn tôm tép nhãi nhép, không đáng để lo. Bản soái xua quân điều quân trở về, đạp bằng Cam Châu chẳng qua chỉ là chuyện xảy ra trong nháy mắt. Hiện tại, bản soái muốn hướng các nước cùng các bộ lạc Tây Vực, tuyên bố trí "Cáo Tây Vực Chư Quốc Thư" , hướng thiên hạ tuyên ngôn" .
Ba quân trang nghiêm, chiến kỳ rủ xuống. Ngay cả bát đại gia tộc, thân sĩ Qua Sa đứng phía sau Dương Hạo, tất cả cũng cảm nhận được sát khí đằng đằng nổi lên trong lời nói, đúng vậy, Dương Hạo quật khởi là một dị loại, hắn như kỳ tích quật khởi ở Hà Tây. Như kỳ tích đánh bại vương Hà Tây là Lý Quang Duệ, trước đó, hắn vẫn đè thấp mình. Chẳng qua đó là vùi đầu phát triển quân chính của mình, lần đầu tiên hắn có lòng tin mười phần hướng về phía cả Hà Tây mà tuyên bố thực lực cùng chủ quyền của hắn, chính là lúc xuất binh Tây tiến, thống nhất Hà Tây.
Lời thề dõng dạc "Thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết " còn văng vẳng bên tai. Hắn làm được, hắn như kỳ tích nhất thống Hà Tây, hắn dùng thời gian ngắn nhất, thực hiện lời tuyên ngôn thứ nhất của hắn, đây là lần thứ hai Dương Hạo hướng thiên hạ tuyên cáo, lần này, hắn muốn nói gì?
Khi đó tướng soái nói với toàn quân, chỉ sợ cho dù thanh âm lớn hơn nữa, la đến khàn cả giọng, cũng không thể tuyên bố toàn quân, trong quân đã có lính liên lạc, dùng tốc độ nhanh nhất đem lời đại soái truyền đi xuống, cho nên tướng soái nói chuyện, thường một câu một lần, như vậy tự nhiên có thể gia tăng giọng nói, làm cho các tướng sĩ hiểu được, đồng thời cũng là để tiện nhắn nhủ. Dương Hạo ngừng lại một chút, mới cất cao giọng nói: "Vu Khuých Quốc, là nước phụ thuộc của Trung Nguyên.Trung Nguyên là thượng quốc vạn bang, gặp gỡ các nước, lấy hoà thuận hữu hảo láng giềng mà giúp đỡ trong lúc gian nan như vậy, cũng là nhiệm vụ của mình. Bồ Tát từ bi, cũng có Tu La hộ pháp, nay Khách Lạp Hãn ngang nhiên hưng binh, độc hại ngàn dặm, sứ giả Vu Khuých Quốc cầu ở dưới thềm bản soái, bản soái là Hà Tây Lũng Hữu Binh Mã Đại Nguyên Soái, sao có thể bỏ qua không chú ý đây? Đám ngông cuồng kia dám đối nghịch thiên uy, nếu ta lui một thước, vậy chúng liền vào một trượng."
Trong Hồ Dương Quán, Tháp Lợi Bặc vẫn tự nhiên ngồi yên, bỗng nhiên dựng lên: "Hắn đã quyết định xuất binh?"
Một tên tôi tớ của hắn khom người nói: "Mới vừa nghe binh sĩ canh ngoài quán nói, Dương Thái Úy đã ra sa trường điểm binh, sắp xuất chinh."
Hai hàng lông mày của Tháp Lợi Bặc nhíu lên, sau khi xông vào giết chết ba vị sứ giả Vu Khuých, hắn đã dự đoán trước rằng lấy sự khôn khéo của Dương Hạo sớm muộn gì cũng đoán được hung thủ là hắn, cũng đoán được xúc phạm quyền uy của Dương Hạo như vậy tất nhiên đã chọc giận hắn, chẳng qua Vu Khuých đối với Dương Hạo mà nói, thực sự không cần phải bảo vệ, mà hắn lại là đồng bạn hợp tác quan trọng của Dương Hạo, về phần loạn Vu Khuých sẽ làm trở ngại giao thông, ảnh hưởng đến hưng suy của Hà Tây, đây là điều Dương Hạo lo lắng nhất rồi, mà cái vấn đề này đối với thương nhân Hồ khác là vấn đề lớn bằng trời, nhưng đối với hắn mà nói thì không là gì.
Hắn tự cho là đè lên mệnh môn của Dương Hạo, Dương Hạo sớm muộn gì cũng phải ăn mềm. Đợi đến khi Dương Hạo ỷ lại đối với việc thông thương Tây Vực càng ngày càng nặng, mà mấu chốt thông thương Tây Vực hoàn toàn nắm giữ ở trong tay gia tộc của hắn, hắn có thể vung ra ảnh hưởng lớn hơn nữa đối với Dương Hạo, không đánh mà thắng để cho vị bá chủ Tây Vực này dựa theo tín ngưỡng của hắn, trở thành đồng bạn cùng người phát ngôn có lực mạnh nhất ở phương Đông. Đối với Khách Lạp Hãn, bọn họ chính là làm như vậy, hơn nữa lấy được thành công lớn.
Sau khi hành thích thành công, hắn liền kiên nhẫn chờ Dương Hạo chủ động tới tìm hắn, bất kể Dương Hạo giận đến không kềm chế được như thế nào, hắn cũng tin tưởng lấy điều kiện động lòng người, nén cơn giận lôi đình của Dương Hạo xuống, từ đó tiến thêm một bước gia tăng khống chế đối với hắn, nhưng là không nghĩ tới Dương Hạo lại phong tỏa Hồ Dương Quán, căn bản không gặp mặt cùng hắn. Tháp Lợi Bặc vẫn không đoán ra dụng ý của Dương Hạo, chỉ đành phải yên tĩnh ở lại, xem một chút là người nào không kềm nén được trước.
Trăm triệu lần cũng không nghĩ tới, Dương Hạo ở trong thời gian vài ngày ngắn ngủi sau khi ba vị sứ giả Vu Khuých bỏ mình, đã chuẩn bị sẵn sàng, không chút do dự xuất binh viễn chinh. Trong lúc nhất thời, Tháp Lợi Bặc hoàn toàn không đoán ra được ý định trong lòng của Dương Hạo, không khỏi đại loạn trong lòng, hắn đi qua đi lại một hồi lâu, đột nhiên dừng chân lại, vội la lên: "Chuẩn bị ngựa, thay quần áo, ta muốn đi gặp Dương Hạo" .
Trên đài điểm tướng, thanh âm Dương Hạo dõng dạc có lực nói: "Khách Lạp Hãn xâm lấn phiên thuộc của ta, chính là khiêu chiến quyền uy Trung Nguyên ta, nếu bản soái ở chỗ này, thì chấp hành trách nhiệm của Trung Nguyên, có nghĩa vụ viện trợ phiên bang. Nay tuyên bố với các nước Tây Vực, chớ cho rằng ở phía Tây Ngọc Môn Quan là đất không thuộc Trung Nguyên ta.
Nay đại nạn trước mặt, đại nghĩa đi đầu, thực hành đại ái, thi hành đại thiện, hướng về đại đức, không quay đầu lại nhìn, Dương Hạo ta đem nghĩa binh, thi hành mệnh trời, vùi lấp địch Khắc Hãn, lấy làm răn đe thiên hạ" .
Mặt Mã Thán như tiểu tinh tinh tràn đầy sùng bái, đưa tay sờ lên ngực, Trúc Vận thấy nàng móc ra cuốn vở, không nhịn được buồn cười nói: "Tiểu Thán, từ khi nào muội lại có mao bệnh như vậy chứ.Lời hắn nói cũng không phải là thánh chỉ, cũng không cần nhớ kỹ."
Mã Thán mỉm cười hạnh phúc nói: "Muội chính là thích ghi lại lời đại thúc đã nói, hắn trước kia ít nói, ta nhớ được, bấy giờ thì không nhớ được nữa, wow! Mới vừa hắn nói gì rồi? Nói rất nhiều, muội không nhớ được."
Trúc Vận liếc mắt, thuận tay đưa qua một tờ giấy được gấp chỉnh tề đưa tới : " Này."
Mã Thán mờ mịt nói: "Đây là cái gì?"
Trúc Vận tức giận nói: "Bố cáo dán đầy đường đó, phía trên cũng viết đấy. "
***
Dương Hạo dứt lời, lớn tiếng nói: "Chúng tướng sĩ, lần này xuất chinh, mong rằng tướng sĩ ba quân anh dũng tranh lên trước, lập nên công lao, đánh ra một trận uy phong, không nên phụ kỳ vọng của bản soái, không nên phụ kỳ vọng cua phụ lão Hà Tây!"
Đám tướng soái Ngải Nghĩa Hải ở trên ngựa nhất tề chắp tay, ầm ầm thưa đáp, tướng sĩ khắp nơi đồng loạt hưởng ứng, thanh âm chấn động không trung.
Dương Hạo vung tay lên, quát to: "Xuất !"
Trung quân di động, tinh kỳ như mây, tiếng kèn vang dội khắp đại mạc.
"Đại trận nhạc" dõng dạc vang vọng ở trên vạn dặm bầu trời đại mạc mênh mông: "Bốn biển áo choàng bay, nước xanh mãi ngàn năm; nhung y càng không lấy, hôm nay công thành trở về nhìn đê Tần Tắc thấp như ngựa, thấy Hoàng Hà chảy thẳng về phía Bắc. Thiên uy cuốn thẳng ngọc môn, vạn dặm người Hồ hát Hán ca... "
Trường mâu chỉ về trước, vạn mã tung hoành, giống như một cơn gió lốc. Vô số tướng sĩ dũng mãnh gào thét Tây tiến.
Vương phu Kim Sơn Quốc Sa Châu, Dương Hạo nhung trang chưa cởi, cầm Đại Mã Kim Đao ngồi ở trên ghế, thấy Tháp Lợi Bặc đi tới, hai mắt chẳng qua là nhìn qua một chút, hoàn toàn không đối xử trọng hậu như lần trước.
Sắc mặt Tháp Lợi Bặc hết sức khó coi, sau khi đi vào liền xá dài thi lễ, cũng không nói chuyện gì.
Dương Hạo cũng không mời ngồi, bưng chén trà lên, nhẹ nhàng nhấp một ngụm trà, lúc này mới liếc hướng hắn, nhàn nhạt nói: "Vụ án sứ giả Vu Khuých Quốc bị đâm chưa điều tra được rõ, tất cả nghi phạm không được rời xa, Tháp Lợi Bặc tiên sinh là hảo hữu của bản soái. Lần này phá lệ đồng ý cho ngài tới gặp. Không biết Tháp Lợi Bặc tiên sinh có cái chuyện quan trọng gì? Bản soái sẽ lập tức phải chỉ huy quân trở về Hạ Châu, nếu như Tháp Lợi Bặc tiên sinh chỉ là có cái gì không tiện lợi trên vấn đề sinh hoạt mua bán, có thể trực tiếp nói với Trương Thứ Sử, về những phương diện này, chúng ta sẽ cố sức thỏa mãn."
Tháp Lợi Bặc vừa nghe, sắc mặt càng thêm khó coi: "Thái Úy cần gì biết rõ rồi còn cố hỏi, ý của tại hạ tới, nói vậy trong lòng Thái Úy đã sớm biết rõ rồi? .
Dương Hạo lạnh lùng cười một tiếng: "Bản soái chỉ biết là, Tháp Lợi Bặc tiên sinh là thương nhân Tây Vực bản soái hết sức coi trọng, một thương nhân nên tự biết thân phận, không nên vọng tưởng tham dự vào chánh sự của ta!"
Tháp Lợi Bặc hít vào một hơi, vẻ tức giận trên mặt dần dần thu liễm lại: "Ha hả, Thái Úy cần gì phải tức giận như vậy, vì Vu Khuých làm tổn thưởng hòa khí giữa ta và ngài, có đáng giá không? Không sai, ta là một thương nhân, nhưng là khác với thương nhân Trung Nguyên các ngài, ở Đại Thực chúng ta, thương nhân cũng có thân phận địa vị không thấp. Mà ta, còn có thân phận hoàng tộc, ở hai giới quân chính Đại Thực đều có rất nhiều quan hệ, giúp ích đối với Thái Úy, tại hạ tin tưởng, vượt xa không biết bao nhiêu lần so với Vu Khuých .
Dương Hạo đặt chén trà xuống, trầm giọng nói: "Xem ra Tháp Lợi Bặc tiên sinh vẫn là không hiểu tâm ý của bản soái. Đây không phải là vấn đế người nào hữu dụng người nào vô dụng, mà là quyền lực của ta, tuyệt đối không thể xâm phạm. Tháp Lợi Bặc tiên sinh cùng ta hợp tác, chỉ ở ích lợi tiền bạc giữa song phương, ngoài cái này thì không có gì khác.
Tháp Lợi Bặc a a cười nói: "Ha hả, nơi này không có người ngoài, tại hạ liền nói trắng ra đi, Thái Úy là lưới bảo vệ Kim Cống, là Pháp Vương hộ giáo của Phật giáog, song theo suy nghĩ nông cạn của ta, Thái Úy chẳng qua là lợi dụng lòng sùng Phật của dân chúng Hà Tây thôi, nếu như Thái Úy là một Phật tử kiên thành, mà ta ở quý phủ của Thái Úy lại chưa từng thấy qua một pho tượng Phật nào, cũng chưa từng thấy Thái Úy đi bất kỳ một ngọn miếu chùa nào dâng hương lễ Phật, chưa từng thấy Thái Úy tụng qua một câu kinh văn nào, đeo qua một pháp khí nào. Thái Úy, thật ra thì lực hiệu triệu ước thúc của Phật gia đối với dân chúng là rất có hạn, nếu như Thái Úy... "
Dương Hạo giơ tay một cái, ngăn lại lời hắn nói, khẽ mỉm cười, nói: "Quả thế, ta nghĩ ta đã hiểu ngài muốn nói gì rồi, mục đích của ngài là cái gì rồi, ha hả, ngài không cần nói nữa."
Ánh mắt Tháp Lợi Bặc nghiêm túc nói: "Chẳng lẽ Thái Úy muốn đỡ Bồ Tát mà diệt Thánh A La ta?"
Dương Hạo hừ lạnh nói: "Quang huy của Nhật Nguyệt Thần còn chưa từng hất tới đất Hà Tây ta, lời này của Tháp Lợi Bặc tiên sinh từ đâu mà nói đến?"
Tháp Lợi Bặc ngạc nhiên nghi ngờ nói: "Như vậy, Thái Úy có ý gì?" Dương Hạo chậm rãi đứng lên: "Ngài muốn thẳng thắn, ta đây sẽ đem ý của ta nói rõ ràng cho ngài hiểu. Nếu như Tháp Lợi Bặc tiên sinh nguyện dẫn dân quý quốc vào Hà Tây ta truyền bá giáo nghĩa, Dương Hạo hết sức hoan nghênh."
Tháp Lợi Bặc vừa nghe liền vui mừng nhướng mày, vội vàng nói: "Thật không?"
Dương Hạo nói: "Bản soái nhất ngôn cửu đỉnh, tự nhiên là thật. Bất quá, ta có một lời nói trước: Vào lúc triều Đường, thương lữ quý quốc đi từ đường biển mà đến, tụ tập lượng lớn dân cư ở Nghiễm Châu, Tuyền Châu, Hồng châu, Dương Châu. Nhiều người đạt tới mấy vạn người, xây tự truyền giáo, tự do tín ngưỡng, Đại Đường cũng không cấm. Đường chinh phạt Tây Vực, Đại Thực Quốc từng đem quân một đường tương trợ , sau lại phái một đạo nhân mã đến Trường An, lừa gạt vua Đường ban thưởng, đồng ý cưới phụ nữ người Hán, trú tại Trường An, tín ngưỡng giáo phái kia, cũng theo tùy tiện.
Bản soái cũng là có ý tứ này, noi theo cách thời Đường, thu gom tất cả, tín ngưỡng tự do, tuyệt không độc tôn một thuật. Đạo Phật Nho Thích, đều không chèn ép. Nếu như giáo đồ Thiên Chúa Giáo muốn tới đất của ta truyền giáo, ta cũng đồng dạng hoan nghênh, đối với các ngài, tự nhiên cũng sẽ không cự tuyệt, bất quá, ta tuyệt không cho phép các ngài duy ngã độc tôn, lấy thủ đoạn máu tanh đồ diệt những tín ngưỡng khác, nếu tín ngưỡng của các ngài thật sự làm dân chúng tin, dân chúng tự nhiên liền là tín đồ của các ngài. Tất cả chỉ có thế thôi, ở chỗ này của ta, ngài không nên vọng tưởng tái diễn chuyện xưa Khách Lạp Hãn.
Sắc mặt Tháp Lợi Bặc khó coi lên.
Dương Hạo nói: "Nếu như Tháp Lợi Bặc tiên sinh có thể đồng ý, như vậy ta cùng với các hạ, ta cùng với quý quốc, vẫn là bằng hữu thân mật."
Nếu như Tháp Lợi Bặc tiên sinh vẫn quyết giữ ý mình, như vậy, đạo mà bản soái muốn cấm tiệt ở đất của ta, đó chính là tín ngưỡng của ngài. Bản soái hi vọng Tháp Lợi Bặc tiên sinh có thể đưa ra lựa chọn sáng suốt, chờ sau khi ngài có quyết định, bất cứ lúc nào cũng có thể tới gặp ta. Hiện tại, xin mời trở về đi."
Dương Hạo dứt lời, đã quay người, Tháp Lợi Bặc vội kêu lên: "Thái Úy chậm đã."
Dương Hạo dừng bước, cũng không quay đầu lại nói: "Làm sao, Tháp Lợi Bặc tiên sinh đã có quyết định nhanh như vậy sao?"
Tháp Lợi Bặc nén giận hỏi: "Hôm nay người của ta đều bị bao vây ở Hồ Dương Quán, khi nào thì được tự do."
Dương Hạo ha hả cười một tiếng, nói: "Cái này sao, chờ tới lúc đại quân Tây chinh của ta tới thành Ước Xương của Vu Khuých Quốc, các ngài sẽ được tự do. Bất quá, bất kể Tháp Lợi Bặc tiên sinh có đáp ứng điều kiện của ta hay không, sau này là địch hay là bạn, thì ta vẫn cần mấy hung thủ, đây là bản Thái Úy bởi vì giao tình quá khứ giữa ngài với ta, làm ra nhượng bộ lớn nhất rồi!
Tháp Lợi Bặc bị thị vệ dẫn đi, hầm hầm hướng đi ra ngoài Vương Phủ, đi tới tiền viện, chạm mặt với mấy người, hai quan viên Sa Châu dẫn mấy tên võ sĩ thân mặc áo choàng đỏ thẫm đang đi vào trong, bọn họ mang mũ giáp bờm màu đỏ, bắp chân cùng cánh tay đep giáp màu trắng bạc, da thịt nổi múi như rồng, da màu cổ đồng ẩn chứa lực đạo mạnh mẽ. Trong đó có hai người, thậm chí chính là tù binh La Mã mà Tháp Lợi Bặc vận chuyển đến Hà Tây lần này.
Tháp Lợi Bặc ngây ngốc, theo bản năng hướng sang bên cạnh tránh đi, mấy người kia tựa hồ toàn bộ không chú ý tới Hồ thương nhân này, một người trong đó nói: "Long Ba Tư, ngươi thật sự là hậu duệ của quan chấp chính Khắc Lạp Tô sao?Ha ha ha, vậy từ từ nói chuyện, năm đó sau khi đế quốc la Mã chúng ta cùng vương quốc Mạt Đề Á nghị hòa, từng hướng bọn họ yêu cầu muốn chiến sĩ đệ nhất binh đoàn chúng ta. Chúng ta biết các ngươi không chết trận toàn bộ, các ngươi là công dân La mã, chúng ta sẽ không bỏ qua các ngươi, nhưng là người An Tức cũng không biết tung tích của các ngươi, chuyện này đã thành tiếc nuối vĩnh cửu của chúng ta. Lần này, Thái Úy đại nhân cho chúng ta cùng đi La Mã, hậu nhân quan chấp chính Khắc Lạp Tô trở lại cố hương, nhất định sẽ oanh động cả La Mã ."
Mấy người vừa nói, cực kỳ hứng thú đã đi qua.
Tháp Lợi Bặc trong lòng cả kinh, dưới chân nhất thời trầm trọng, đừng thấy hắn ở trước mặt Dương Hạo trước mặt đem đế quốc Đại Thực nói lên vô cùng cường đại, tựa hồ tung hoành phương, vô địch khắp chốn, nhưng đây chẳng qua là mượn việc tin tức không nhanh nhạy mà thôi. Trên thực tế đế quốc Đại Thực cùng đế quốc La Mã đánh đã mấy trăm năm, ở đoạn thời gian vài chục năm trước kia, đế quốc Đại Thực đúng là chiếm thượng phong, kế tiếp tiến sát, thắng trận vô số.
Nhưng là sau khi đế quốc La Mã phân liệt thành Đông Tây đế quốc, ở trên các mặt quân sự, chánh trị, văn hóa cũng xuất hiện khác nhau, đế quốc Tây La Mã là phái thủ cựu, vẫn tiếp tục sử dụng phương thức tác chiến bộ binh là chủ lực, ở trước mặt kỵ binh của đế quốc Đại Thực thường bị thua trận, mà đế quốc Đông La Mã đã bắt đầu coi trọng lấy kỵ binh làm phương thức tác chiến chủ lực Hơn một trăm năm qua, đế quốc Đông La Mã ở thương du sống Ấu Lạp Đế toàn diệt quân đội Đại Thực, trước sau thu phục các lãnh địa Ba Lý, Tháp Lan Thác cùng Tạp Lạp Bố Lý Á. Vừa cướp lấy Mỹ Tác Bất Đạt Mễ Á, đảo Khắc Lý Đạt, Tắc Phổ Lộ Tư, An Điều Khắc, A Lặc Pha, Ai Đức Tát, Đại Mã Sĩ Cách, Bối Lỗ Đặc Cập Tư Lợi Á, đế quốc La Mã đã bắt đầu một lần nữa đạt được ưu thế ở Phương Đông. Đây cũng là nguyên nhân bọn họ khẩn cấp muốn giương tín ngưỡng ở các quốc gia phương Đông.
Đế quốc Đông La Mã một lầ'1n nữa đi về phía đường xuống dốc, là khi bọn hắn mất đi đất sản sinh ngựa tốt là An Nạp Thác Lợi Á, mà đó là chuyện mấy trăm năm sau. Tháp Lợi Bặc đối với cái này tự nhiên không biết gì cả, hắn chỉ biết là, hiện tại đế quốc Đông La Mã tựa như mặt trời mọc lên ở phương Đông, sau khi để Dương Hạo hiểu rõ hết thảy điều này. Hắn liền sẽ hiểu rõ. Nếu như hắn cùng đế quốc La Mã thiết lập quan hệ ngoại giao, sẽ thu được trợ giúp không ít hơn đế quốc Đại Thực, còn đối với đế quốc Đại Thực mà nói, mất đi Dương Hạo có ảnh hưởng to lớn ở Tây Vực, bọn họ sẽ phải nhận lấy tổn thất nặng nề.
Hai chân Tháp Lợi Bặc nặng tựa như chì, bước chân càng ngày càng là trầm trọng , hắn vốn là tuyệt không chịu tiếp nhận đề nghị của Dương Hạo, mà bây giờ ý chí của hắn đã dao động.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 33 Cửu nguyệt nhạn phi (1+2+3)
Nguồn: Sưu tầm
Text :
Chương 33: Cửu Nguyệt Nhạn Phi
Thời điểm săn cáo tốt nhất thường là vào tháng chín, lúc đó trời mùa thu thoáng mát, trên thảo nguyên bao la, đám thợ săn thả chim săn đầy trời, khi chim săn đang cánh bay lên thì cho dù là những con cáo giảo hoạt nhất cũng tưởng rằng trên đất có mỹ vị liền ùn ùn kéo khỏi chỗ ẩn nấp, chạy tứ tung đi tìm con mồi trong giả tưởng, nhưng lại không biết mình đã trở thành lễ vật của người đi săn. Chỉ cần có một con cáo xuất hiện thì sẽ có vô số con chim ưng bay đến, chỉ cần có một con chim ưng bay đến thì con cáo đó nhất định chết chắc.
Đây có lẽ chính là nguồn gốc của câu “tháng chín ưng bay”.
Tháng chín là tháng mà thịt thỏ rừng béo và thơm ngon nhất, cũng là mùa cáo đi tìm mồi, tháng chín là mùa hùng ưng tung cánh, càng là mùa của cánh thợ săn. Tất cả sinh linh đều dốc hết sức, dũng mãnh trong mùa thu thoáng đãng chỉ để chuẩn bị một chút thức ăn trước khi mùa đông đến. Như vậy trong cuộc chiến sinh, từ này rốt cuộc ai mới là cáo, ai mới thật sự là chim ưng?
Ưng bay lên bầu trời bao la, chiến mã rầm vang chiến trường, đại quân Dương Hạo tập kết, tiến hành đông hạ.
“Tống quân ngàn dặm, cuối cùng cũng phải từ biệt, chư vị không cần tiễn xa nữa. Đợi khi bình định Cam Châu, Dương mỗ sẽ tìm cơ hội tuần Đôn Hoàng, đến lúc đó cũng sẽ mời chư vị đồng hành”.
Dương Hạo ngồi trên lưng ngựa, tươi cười chắp quyền. Lúc này hắn tuy mang cung mang kiếm, lại mặc một thân thanh y, trên đầu đội chiếc mũ lông chuột, nhìn dáng vẻ thì không giống một đại tướng quân thống lĩnh đại quân đang muốn đạp bằng Cam Châu, lại giống như một thiếu niên cưỡi ngựa ra ngoài đi săn cáo.
“Ta cũng chúc đại nguyên soái lần này đến Cam Châu, kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công!”.
Bát đại gia tộc, quan lại địa phương, sĩ thân danh lưu Sa Châu và các vị quan, tộc trưởng của các tộc trại người Hán, Hồi Hột, Thổ Phồn đã quy phục Dương Hạo lần lượt chắp quyền, chúc phúc cho hắn.
Phía sau Dương Hạo là đội quân đang ngày càng lớn mạnh của hắn. Trong đó có binh Hạ Châu, binh Lương Châu, binh Túc Châu, Quy Nghĩa quân và quân đoàn La Mã mới chiêu nạp cùng với quân Thổ Cốc, ngoài ra còn có lượng lớn sĩ lâm Sa Quả, cũng những nhân vật quan trọng đích hệ tộc trưởng các đại gia, bọn họ những người muốn cùng đi theo Dương Hạo đến Hạ Châu làm quan. Những người này còn có một thân phận khác chính là con tin, là do các đại gia tộc phái ra những người quan trọng làm con tin của Dương Hạo, là một hình thức thể hiện thái độ trung thành với hắn.
Những thủ lĩnh gia tộc, tù trưởng địa phương tuy địa sở ở Tây Vực, tính tình tục tằn, nhưng có thể là trưởng của cả một bộ thì tất nhiên tâm cơ trí tuệ phải hơn người, Dương Hạo cả chặng đường từ Lương Châu tây tiến thật sự đã làm được việc “thuận ta thì sống, chống ta thì chết”.
Thế lực các địa phương ai chịu quy phục, ai chịu vì hắn mà chiến thì có thể đạt được lợi ích vượt xa người khác, Trương thị Sa Châu bây giờ quân trong quân chính lưỡng giới thật sự đã trở thành đại gia đệ nhất Sa Châu, chỉ thấp hơn Dương Hạo. Ngay cả Mộc Ân, người nắm giữ ba vạn tinh binh, đóng quân ở Dương Quan, Ngọc Môn quan, một tướng lĩnh thân tín nhất của Dương Hạo cũng chỉ có thể ngồi ngang hàng với Trương gia.
Lần này, với sự quyết đoán cực lớn, loại trừ tất cả những ý kiến khác xoay quanh chuyện viễn chinh. Nếu đã thể hiện rõ thực lực và tự tin về quân sự cường đại của hắn trước mặt bách tính chư châu Tây Bắc và chư quốc Tây Vực thì cũng phải làm loạn nguồn lương thực củi lửa Hà Tây. Nhưng cách hắn dùng lại là cách đường đường chính chính, một mũi tên trúng hai con chim, lấy thủ đoạn làm mạnh sĩ khí quân mình để bài trừ những nỗi lo tiềm ẩn khi tán binh đông phản.
Thủ đoạn làm mạnh kinh thế, cương nhu cùng dùng như thế này đủ cho thấy thủ đoạn trị vì khống chế của đại soái. Trước đây trong cái cách mà hắn vận đụng cụ thể với bát đại gia tộc, càng thể hiện rõ tâm thuật khéo léo, khích lệ, vừa khống chế vừa phụ trợ cho nhau của hắn. Đối với những đại hào Tây Vực này mà nói, một mãng phu thống trị trăm vạn hùng binh không đủ đáng sợ, mà một thủ lĩnh thâm hiểu chính trị, tâm cơ thâm sâu, trong lòng chứa trăm vạn binh giáp mới càng làm cho người ta phải kính sợ.
Những anh hùng một phương này đều đã lọt vào trong mắt, cảm ngộ trong lòng, sự kính sợ và sùng tín đối với Dương Hạo cũng ngày càng gia tăng. Lần này đi Cam Châu, bọn họ tin tưởng Cam Châu chắc chắn sẽ bại. Dạ Lạc Hột ở hành lang Tây Bắc đã từng là một thế lực lớn mạnh nhất, sự giàu có tích lũy nhiều năm chỉ cần nghĩ cũng biết, sau khi chinh chiến, Dương Hạo sẽ càng giành được thế lực hùng hậu và chiến lợi phẩm: Vô số vàng bạc, châu báu, nô lệ, trâu dê, ngựa... Là bộ hạ của Dương Hạo, bọn họ cũng có thể có một chút phần trong đó, vậy còn có lý gì mà không ủng hộ?
Dương Hạo đang muốn quất ngựa rời đi thì phía Sa Châu đột nhiên có mấy khoái mã phi như bay tới. Dương Hạo và sĩ thân Sa Châu đang đưa tiễn đều quay lại nhìn, mấy con khoái mã đó càng lúc càng gần. Người đi đầu xem ra là một quan viên, quan bào có lẽ là thuộc lại quan châu từ thất phẩm trở lên. Còn mấy người đi sau hắn đều ăn mặc giống như người của nha dịch. Quan viên phẩm cấp như thế này không có tư cách đi tiễn Dương Hạo, mọi người đều không khỏi ngầm bàn tán.
Một lát sau, mấy người đó đã tới trước quân, Dương Hạo giơ tay ra, ngăn đám thị vệ cản họ lại, mấy người đó cưỡi ngựa đi thẳng tới trước mặt Dương Hạo, xoay người xuống ngựa.
Vị quan viên đi đầu đó khoảng ba mươi tuổi, để râu hai phết, có chút buồn cười, nhìn lại có chút lão luyện trầm ổn, chỉ là cứ như thế này mà xông qua nghi trượng của thái úy, thì thật không nhìn ra hắn trầm ổn ở chỗ nào. Gia chủ Diêm gia đưa mắt nhìn qua, ai biết được đó lại là đứa cháu nhà mình, tên Diêm Túc, bây giờ đang đảm nhận chức Lục Lý Tham Quân ở châu phủ, bất giác sắc mặt ông ta trầm xuống, quát: “Diêm Túc, trước mặt thái úy mà dám đi thẳng qua, ngươi thật là to gan”.
Diêm Túc ngẩng đầu lên thì thấy gia chủ nhà mình, không khỏi có chút kinh ngạc, có lòng giải thích, nhưng Dương Hạo đang ở trước mặt, nào có lý gạt hắn ra để đi trả lời gia chủ mình. Trong lúc không biết làm thế nào thì Dương Hạo lại cười nói: “Ồ, hóa ra là Diêm tham quân. Ha ha ha, Diêm lão tiên sinh không cần trách tội, Diêm tham quân đến đây tất có công vụ khẩn”.
Diêm Túc thở phào một cái, vội buông cương ngựa, bước lên trước hành đại lễ: “Tham quân ti lý Sa Châu tham kiến thái úy”.
Dương Hạo ngồi trên ngựa, gật gật đầu: “Có chuyện gì, ngài nói đi”.
Diêm Túc vội vàng bẩm báo: “Thái úy, vụ án sứ thần nước Vu Khuyết bị thích sát đã có manh mối, sự việc liên quan đến sứ thần nước hộ, han hệ trọng đại, thuộc hạ không đám chậm trễ bẩm báo”.
Mắt Dương Hạo hơi dừng lại, hỏi: “Nói rõ xem nào”.
“Vâng, từ sau khi quốc sứ Vu Khuyết gặp thích khách, phủ nha đã phong tỏa mọi hướng, nhanh chóng rà soát điều tra tìm tung tích hung thủ, không dám có chút trễ nải. Hôm nay trong Hồ Dương quán, có mấy người Hồ Thương uống rượu nói chuyện, đề cập đến tiền bạc của sứ giả Vu Khuyết, vì phân chia không đều nên đã ra tay đánh nhau, trưởng quầy khách điếm Hồ Dương đứng bên cạnh nghe thấy liền vội vã đến phủ nha báo. Hạ quan đã nhanh chóng bắt mấy tên đó về quy án, và lấy lại được những vật tùy thân của sứ giả Vu Khuyết từ chỗ ở của chúng.
Mấy tên người Hồ Thương đó đã chịu khai nhận là bọn chúng nghe được tin sứ giả Vu Khuyết đến cầu viện Sa Châu ta, lại ở phòng bên cạnh bọn chúng, nghĩ rằng quốc sứ đi cầu viện tất sẽ mang theo trọng bảo, vì thể đã nảy ra ý đồ đen tối, nửa đêm lén vào phòng ở của sứ giả Vu Khuyết, giết người cướp của. Bây giờ có nhân chứng là trưởng quầy quán Hồ Dương và tiểu nhi cùng những vật chứng là báu vật tìm được trong phòng của mấy tên hung thủ”.
Dương Hạo nghe rồi liền quay sang nhìn thứ sử Sa Châu Trương Vũ, nói: “Trương đại nhân, bản soái xuất chinh không thể chậm trễ, mong Trương đại nhân để ý tới cái án này, vì án này liên quan đến sứ tiết Vu Khuyết, phải tra cho rõ ràng mới có thể ăn nói với Vu Khuyết, không thể bất cẩn”.
Dương Hạo sau khi làm chủ Sa Châu đã thay đổi hệ thống đường luật ty pháp. Trên cơ sở Tống luật lại cộng thêm mấy phần cải tiến theo cách nghĩ của mình. Ti lý tham quân thẩm lý án, ty pháp tham quân phán án định hình, cộng thêm hai ti thượng cúc ti và trật nguyệt cùng thẩm tra lại nội bộ, hết sức lợi dụng nguồn quan lại vốn có. Trên một trình độ nhất định, thực hiến phân chia thẩm quyền, phán quyền và kiểm sát quyền theo hình thức cổ điển, ba bộ phận này kết hợp với quyền truy nã của tuần kiểm ti cấu thành hệ thống ty pháp châu nha.
Trương Vũ nghe vậy vội vàng đáp: “Hạ quan tuân mệnh, án này nhất định sẽ cẩn thận điều tra”.
Dương Hạo cười nhạt, nhẹ lướt mắt về phía Sa Châu, trong lòng thầm nghĩ: “Tháp Lợi Bốc, ông cuối cùng cũng chịu nhượng bộ rồi?”.
*
* *
Đêm đen gió thổi trên cao, thảo nguyên mênh mông thỉnh thoảng truyền đến tiếng của lang sói, tất cả hiện rõ sự tĩnh mịch. Còn trên hai yếu đạo đông tây thông tới Cam Châu, lưỡng lộ đại quân đang hành quân vội vã trong màn đêm.
Để làm cho Hồi Hột Cam Châu sau khi nhận được tin cảnh báo sẽ tháo chạy, hai đội quân một đông một tây đã đồng thời từ Túc Châu và Lương Châu đánh úp Cam Châu, ban ngày nghỉ, hành quân ban đêm, hành quân lặng lẽ, trang bị gọn nhẹ, còn có một vài nhóm khinh kỵ đã hành quân đi trước mấy bước, chặn ở con đường hiểm yếu giữa đại mạc phía bắc và núi non trùng điệp ở phía nam. Hình thành một thế hợp vi giữa chúng. Khi cách thành chỉ còn năm mươi dặm, quân lệnh nghiêm mật đã được hạ xuống, tam quân yên lặng dừng bước, bắt đầu yên doanh kết trại. Bọn họ muốn lấy trạng thái tốt nhất, mạnh nhất, ý trí đồi dào nhất để xuất hiện trước mặt kẻ địch. Khi bình minh lên, Hồi Hột Cam Châu sẽ đột nhiên phát hiện, bốn phương của chúng đều là phong hỏa, tám hướng đều là địch.
Quân đội của Dương Hạo tản ra bốn phía, rà soát hết tất cả những nơi xung quanh như bãi cát, sơn cốc, sông hồ, thảo nguyên, rồi bắt đầu đóng quân dựng trại, du kỵ ngầm bí mật bài bố thám mã dò xét dưới chân thành Cam Châu.
Đại trướng trung quân nhanh chóng được đựng lên, bên ngoài doanh trại, các chiến hào cũng đồng thời được đào, rồi sừng hươu, bẫy lún, cự mã thương đều được bố trí dày đặc, trong khoảnh khắc, bên ngoài ngoại vi thành Cam Châu đã hình thành một tòa thành thành ngoại. Cho dù đêm đã khuya, nhưng đại trướng trung quân của Dương Hạo lại rất bận rộn, hắn xem xét tiến độ sắp xếp các doanh, cùng liên hệ tình báo với đội quân phía đông mà Đường Diễm Diễm đem tới từ phía đông, ra chỉ thị cho các tướng lĩnh, thiết lập qua lại mật thiết... Tất cả đều cho Dương Hạo hắn định đoạt.
Khi tất cả mọi thứ dừng lại, bóng dáng vội vã qua lại của binh mã trong doanh dần ít đi thì Dương Hạo mới nằm xuống giường của mình. Đêm đã khuya rồi, đám thị vệ đứng gác cũng đã lui xuống, xung quanh đại trướng trung quân của hắn vô cùng yên tĩnh. Nhưng hắn nằm trên giường lại không có một chút mệt mỏi nào. Bận rộn cả một ngày, người vừa nằm xuống, nhưng trong đầu lại giống như chiếc đèn kéo quân, rất nhiều suy nghĩ ùn ùn kéo về.
Lần tây chinh này, đến tận bây giờ cả tiến trình nhất thống Hà Tây vô cùng thuận lợi. Tất cả những khó khăn và cản trở mà hắn gặp phải nhỏ hơn nhiều so với tiền nhiệm Lý Quang Duệ của hắn. Đặc biệt là khả năng giỏi dùng cách thuyết phục của hắn làm cho những người đó nhanh chóng trở thành người của hắn. Trong quá trình này, thế lực mà hắn vừa mới thông qua thủ đoạn chiến tranh buộc họ phải quy thuận đã nhanh chóng trở thành vũ lực phục tùng mình, cũng đã bảo đảm rằng thế lực của hắn sẽ không vì chiến tranh liên miên mà suy yếu. Ngược lại, còn giống như một quả cầu tuyết, càng lăn càng lớn.
Đơn thuần chỉ dựa vào lực lượng nòng cốt bổn tộc, đối với Dương Hạo mà nói là không sát thực tế, đối với một quốc gia cơ bản nhất thống như Tống Quốc cũng không sát thực tế. Tống Quốc bây giờ cũng cần một thời gian dài để loại trừ, dung hợp thế lực bất đồng trong bản tộc, triệt để dung hợp chúng, đế quốc này nhanh nhất cũng cần khoảng thời gian mấy mươi năm cho tới mấy trăm năm.
Nhưng, không ai có thể bảo đảm được rằng đế quốc của mình luôn là minh quân xuất thế, cũng không có cách nào đảm bảo được đế quốc của mình từ đầu đến cuối đều ở trong thời kỳ thẳng tiến, thế lực thịnh vượng, vì thế thật sự trải qua trăm mấy chục năm, sau khi đạt được hai điều kiện là nội bộ đế quốc đã dồi dào nhân lực và nội bộ thống nhất thì ngược lại rất ít công tích lớn xuất hiện. Vũ lực cường đại, chính trị thanh minh, tràn đầy đã tâm... Thông thường đều tập trung ở thời đầu khai quốc. Khi để quốc đã ổn định lại, một bộ máy thống trị đã hoàn thiện, văn thần võ sĩ, bách tính đều ổn thỏa thì các phe trong triều đình sẽ hình thành một loại hợp lực, áp chế sự dao động tất yếu mà bên ngoài tạo thành, hưng binh sẽ bị coi là hiếu chiến, bất luận là hoàng đế, quan lại, sĩ thân, bách tính, đều sẽ mất đi động lực mở rộng đối ngoại.
Cho nên, thời kỳ ban đầu quật khởi chính là thời cơ khuếch trương tốt nhất, còn nếu muốn nhanh chóng khuếch trương thì chinh phục một địa phương, rồi lại dùng quân dân của địa phương này để tiếp tục xuất chinh. Phương thức khuếch trương nối đuôi này đã trở thành kiểu mẫu tốt nhất, nó có thể tránh được khuyết điểm nhân lực, vật lực bản tộc không thể cung ứng liên tục, có thể dùng tốc độ nhanh nhất để mở rộng. Hán, Đường, Arabo, đế quốc Mông Cổ đều đã linh hoạt dùng phương pháp này, và cũng giành được thành công cực đại từ nó.
Đương nhiên, phương pháp này nguy hiểm như chơi với lửa, phải khống chế độ lửa. Có hai vấn đề nhất định phải chú ý, một là lực lượng nòng cốt phải đảm bảo đủ sức khống chế những lực lượng mới. Nếu không có thể sẽ gặp phái nguy hiểm bị lực lượng mới cân trả lại. Thứ hai chính là không thể khuếch trương vô hạn, cho dù là một công ti. Nếu nó nhanh chóng được khuếch trương thì những tệ nạn trong nó còn lớn hơn cả lợi nhuận, huống hồ là một chính quyền.
Sự thống trị và loại trừ của toàn bộ hệ thống quản lý đối với khu bị chinh phục cùng cương vực nhanh chóng mở rộng sẽ dẫn đến con đường thông báo tin tức gặp trở ngại, trong những vấn đề này. Bất kỳ một vấn đề nào gặp trở ngại đều có thể thúc đẩy làm cho tập đoàn thống trị vừa mới xây dựng được sẽ rơi vào sụp đổ. Những nguyên nhân này chính là nguyên nhân vì sao trước mắt Dương Hạo đã khống chế thế lực của mình trong phạm vi Ngọc Môn Quan. Đồng thời hết sức suy trì bộ đội trực thuộc mình sẽ không bị mỏng và yếu đi.
Những điều này Dương Hạo làm rất tốt, cho nên hắn tạm thời không cần phải lo lắng những mặt này sẽ gặp vấn đề. Điều hắn lo lắng bây giờ chính là đông tuyến. Lấy Hoành Sơn làm phòng tuyến chủ đạo, có thể tập trung được binh lực hữu hạn, dựa vào địa thể hiểm yếu, xây đựng một phòng tuyến hoàn mỹ, lại có một chiến thuật gia thiện thủ như Dương Kế Nghiệp, một chiến lược gia như Chủng Phóng, cho dù hắn có ở Hoành Sơn cũng chưa chắc có thể làm tốt hơn hai người này.
Nhưng... Đối thủ là một đại nhân vật Tống Quốc, đây là cường địch trước nay chưa từng có mà hắn gặp, tướng lĩnh dẫn binh lại là danh tướng Tống Quốc, thiện tiến công - Phan Thế Mỹ. Đông tuyến rốt cuộc có xảy ra vấn đề không? Dương Hạo thật không yên với nơi này.
Điều càng làm cho hắn khó quyết đoán chính là hắn lấy thân phận gì để đổi mặt với Tống Quốc? Hắn rất khâm phục sự quả quyết và dũng khí của Chiết Tử Du, nếu như Chiết Tử Du không quyết định thật nhanh, quyết đoán vứt bỏ Phủ Châu, theo Dương Kế Nghiêp tản về Hoành Sơn thì quân Chiết gia sẽ toàn bộ phải đưa tang ở Phủ Châu. Nếu như Chiết Tử Du không đứng vững trước lợi ích nội bộ và áp lực tập đoàn cực đại thì đối với một cô nương mà nói, không có cách nào chấp nhận được sự chửi rủa và sỉ nhục nặng nề đó. Trên chiến trường, một tiên cơ cũng có thể quyết định được thắng bại toàn quân, khi rơi vào cảnh khó khăn, nếu còn do đự không quyết thì cuối cùng sẽ có kết quả gì, chỉ cần nghĩ cũng biết.
Đổi lại mà nói, nếu như mình là Chiết Tử Du, Dương Hạo không đám khẳng định hắn sẽ có dũng khí và gan lớn như vậy, đưa ra quyết định giống Chiết Tử Du. Tính cách của hắn thực ra luôn có chút do dự thiếu quyết đoán, mặc dù bây giờ đã nắm trong tay hơn mười vạn binh, trở thành bá chủ một phương, nhưng kỳ thực cái nhược điểm này vẫn không hề thay đổi. Nếu như Chiết Tử Du không phải sinh ra đã là nữ nhi thì Dương Hạo tin tưởng rằng, nàng ấy sẽ còn giành được thành công hơn mình.
Dương Hạo có thể tưởng tượng được, một cô gái vốn không nên gánh nhiều trách nhiệm như vậy, một tiểu công chúa tâm cao khí ngạo, một cô nương luôn coi trọng sự thanh bạch danh tiếng mà lại chịu áp lực và trách nhiệm nhiều như vậy, chịu lời phỉ nhổ, tủi nhục nặng nề như vậy thì áp lực trong lòng sẽ lớn đến mức nào. Nàng đã bỏ Phủ Châu, giao ra binh Chiết gia, đối với nàng mà nói đó không phải là hạ bớt gánh nặng mà là đeo thêm vào trách nhiệm, còn có cả sự tủi nhục.
Nàng cho dù có kiên cường thì cũng có thể chống đỡ được bao lâu nữa?
Tử Du - Dương Hạo hận không thể chắp thêm đôi cánh để ngay lập tức bay đến bên nàng, dùng đôi vai kiên cường của hắn để làm cây đại thụ che mưa gió cho nàng, nhưng nếu như lúc này lại thể hiện nhiều sự nồng nhiệt với nàng thì quân Hạ Châu sẽ nghĩ sao? Chiết gia quân sẽ nghĩ sao? Triều đình sẽ nói sao? Hắn có thể không để ý đến những thanh âm đó sao? Tử Du có thể không để ý đến sao? Cho dù tất cả đều không phải là vấn đề thì hắn cũng không có cách nào lập tức bay đi, hắn chỉ có thể nhẫn nhịn, giải quyết trước chuyện của Cam Châu.
Đồng thời còn một vấn đề lớn nhất, lớn nhất, một vấn đề mà hắn vẫn chưa chuẩn bị tâm lý. Tử Du đã phản rồi, hắn phải làm sao? Phản hay không phản, không phản thì phải tự xử lý thế nào? Nếu phản rồi thì lấy đanh nghĩa gì? Thân phận gì? Bây giờ các thế lực mà hắn khống chế liệu có còn trung thành với hắn nữa không nếu như hắn mất đi cái thân phận hợp pháp đại nguyên soái Hà Tây Lũng Hữu này, và trở thành kẻ địch với đế quốc cường đại nhất Trung Nguyên?
Ngọn lửa này còn phức tạp hơn gấp trăm lần so với việc hắn nuốt các thế lực Hà Tây hay tiến hành nhanh chóng khuếch trương thế lực cùng những nhân tố phải suy nghĩ đến. Nếu làm, lực độ không đủ thì trên danh phận đại nghĩa hắn đành phải hạ phong, trên chiến trường cũng không thể đánh một cách hùng hồn. Nếu như độ lửa quá lớn, hắn thay thế được Liêu Quốc, trở thành đại địch đệ nhất mà Tống Quốc muốn đối phó, thì hắn có thể ứng phó được với quân đội Đại Tống cuồn cuộn không đứt không? Với thế lực của hắn, hắn chống đỡ nổi không?
Cho dù bây giờ hắn đã bắt đầu ra tay chuẩn bị đủ mọi mặt, nhưng đó đều là những cách bất đắc dĩ, khi chưa tới lúc cùng đường thì hắn sẽ không dùng tới. Hắn có thể coi thường Triệu Quang Nghĩa, nhưng hắn không thể coi thường thực lực cường đại Tống Quốc và chiến tướng tài giỏi nhiều như mây của Tống Quốc.
Dương Hạo càng nghĩ càng đau đầu, hắn cuối cùng đã từ Sa Châu trở về, nhưng một chút cũng không nhẹ nhàng hơn, bây giờ hắn phải đối mặt với rất nhiều vấn đề nan giải hơn.
Liêu Quốc sẽ can dự chứ? Giống như hắn sẽ không ngồi nhìn Vu Khuyết bị diệt, một chính trị gia có con mắt chiến lược sẽ không cho phép Hà Tây dễ dàng rơi vào tay người Tống, Tiêu Xước cũng không phải là một mỹ nhân chỉ biết đến ngọc ngà châu báu. Có điều... Nàng ấy sẽ tiến hành như thế nào? Bên Thục địa, nếu như Tiểu Lục và Thiết Đầu thành công giành được quyền lãnh đạo, thì bây giờ chắc cũng nên có hành động rồi chứ? Bọn họ có thể thành công giành được quyền lãnh đạo từ trong thay Triệu Đắc Trụ không?
Đông nhi... Lần trước tình báo tới nói nàng ấy đã xuất hiện mấy cơn đau, bây giờ chắc đã sinh rồi chứ? Mẹ con bình an cả chứ, là trai hay gái?
Quốc sự, gia sự, thiên hạ sự, đủ thứ việc, Dương Hạo giống như một chiếc bánh trong nồi, lật qua lật lại, khó mà ngủ được.
Nhưng điều duy nhất mà hắn không nghĩ tới chính là Cam Châu ngay dưới mắt hắn.
Đối với vật ngay trong túi còn có gì mà phải nghĩ nữa?
*
* *
Đêm nay, đối với khả hãn Cam Châu Dạ Lạc Hột mà nói cũng là một đêm không ngủ.
Thám mã chạy như sao băng, đem liên tục các tin tức kinh động tới vương cung của hắn. Trên cung điện, ngọn đèn dầu sáng rực, tất cả các nhân vật trọng yếu đều tập trung ở đó, người người đều đầy vẻ kinh sợ.
“Sao có thể... Sao có thể... Tin tức hai châu Lân Phủ bị công kích tuyệt đối không phải là giả, Dương Hạo sao có thể bình thản mà đánh Cam Châu ta?”. Vương phi A Cổ Lệ có chút hoảng loạn, lẩm bẩm nói, dung mạo ảm đạm.
Đây là cơ hội tốt nhất để hạ thấp giá trị của nàng ta trước mặt đại hãn, nhưng vương tử A Lý đã không còn bận tâm đến việc trêu chọc nàng ta nữa, hắn lo lắng nói: “Phụ hãn, Dương Hạo hồi sư, nhất lộ quân mã Lương Châu cũng đã đuổi giết về, Dương Hạo quyết đánh như thế tất muốn lấy được Cam Châu ta mới cam tâm. Theo con thấy hắn thà vứt bỏ Lân Phủ, nhất thống Hà Tây, việc này không thể chậm trễ, nhân lúc binh mã hắn mới đến, còn chưa ổn định, chúng ta lập tức phá vây, bằng tất cả mọi giá để có một con đường sống”.
“Đi ư? Đi đâu?”.
Dạ Lạc Hột hai mắt vô thần, mờ mịt ngẩng đầu lên: “Dương Hạo không tiếc điều động hai lộ đại quân đến lấy Cam Châu ta, rõ ràng nhất định phải lấy được. Hắn cách thành năm mươi dặm đã bắt đầu hạ doanh cắm trại, rõ ràng lo lắng đại quân nếu xông thẳng tới chân thành thì sẽ bị du tốt, thám mã của ta phát hiện, bản khả hãn sẽ lập tức đột phá vòng vây, làm cho hắn không kịp hạ doanh cắm trại, thiết lập phòng ngự. Bây giờ chúng ta nhân đêm tối xông ra, liệu còn kịp không? Hướng nào thế lực quân địch mỏng nhất, màn đêm dày đặc thế này, chúng ta có thể tra rõ được không?”.
Vương tử A Lý vội nói: “Phụ hãn, lẽ nào chúng ta phải ngồi chờ chết sao?”.
Hắn lo lắng nói: “Phụ hãn đã sai lầm tin tưởng vào lời của thất vương phi, không nhân cơ hội Dương Hạo lui binh chạy trốn xa vào đại mạc, ngược lại còn đem toàn bộ nguồn lực các bộ lạc ta tập trung đến Cam Châu, Dương Hạo nếu như đã bày ra cái thế này thì lần này sẽ tuyệt đối không tản binh, cho dù Dương Hạo động binh với thành thì lương thực còn tồn trong thành sớm sẽ hết, rồi sẽ tới lúc tự diệt, huống hồ đại quân của hắn lại như mây, sao có thể không đánh?
Nếu như kéo dài tiếp, chúng ta sẽ chỉ có thể ngồi trong thành chờ chết, bộ lạc trên đại mạc, thảo nguyên của chúng ta vừa mất đi vũ lực tinh nhuệ, vừa mất đi lương thực trâu dê, cũng tất bị cường tộc thâu tóm, toàn bộ tộc Hồi Hột Cam Châu của ta sẽ bị tiêu diệt cả. Phụ hãn, xông ra mở một con đường máu thì còn có một cơ hội sống, bây giờ liều cũng phải liều, không liều cũng phải liều! Phụ thân là ưng của đại mạc, là hổ của thảo nguyên, là anh hùng của chư bộ Tây Bắc, lẽ nào cánh chim đã già, vuốt hổ đã cùn, ngay cả dũng khí liều một lần cũng không còn sao?”.
Cơ thể Dạ Lạc Hột hơi rung lên, nhưng lại không nói gì.
Vương phi A Cổ Lệ nghe thấy vương tử A Lý nhắc đến khả hãn đã tin sai lời mình, sắc mặt đột nhiên trở nên trắng bệch, nàng liền bước lên trước mấy bước, quỳ gối xuống trước mặt Dạ Lạc Hột, ấn vào thanh bảo đao dắt ở eo, trầm giọng nói: “Đại hãn, A Lý vương tử nói đúng, chúng ta không còn cách nào nữa, phải liều”. Vương tử A Lý lần đầu tiên thấy vương phi A Cổ Lệ lại cùng ý kiến với mình, không khỏi ngẩn ra.
Vương phi A Cổ Lệ nói: “Đại hãn, A Cổ Lệ nguyện thống soái người trong bộ tộc ta và võ sĩ làm tiên phong, cho dù toàn quân không còn cũng phải mở một con đường máu, yểm hộ cho đại hãn phá vòng vây. Đại hãn, thỉnh cho vương tử A Lý cùng lên trận, xông tới nam thành, đại hãn...”.
Vương tử A Lý nghe tới đây, vội cắt đứt lời nàng ta, nói: “Xông nam thành? Xông nam thành sao có thể được? Chúng ta sẽ đi đâu? Đại hãn, chúng ta nên xông ra bắc thành, đột phá vòng vây địch, xông tới đại mạc Ba Đan Cát Lâm, ở nơi đó là khu vực rộng lớn, lại có rất nhiều bộ lạc của chúng ta, Dương Hạo tuyệt đối khó có thể lợi dụng ưu thế binh lực để công kích chúng ta”.
“Vương tử A Lý, lần này quả thật là ta sai, là ta sai, ta nguyên một mình gành chịu”.
Sắc mặt vương phi A Cổ Lệ ảm đảm, trắng bệch như giấy, thần sắc lại vô cùng quả quyết, còn ngữ khí cũng rất bình tĩnh: “Nhưng, sa mạc Ba Đan Cát Lâm phía bắc trước đây có lẽ cũng được, nhưng bây giờ thì không được nữa. Vì... Lương thảo của tộc chúng ta đã đều tập trung hết ở Cam Châu, khinh kỵ đột vòng vây tuyệt đối không thể mang theo nhiều lương thảo, nhiều nhân mã như vậy, cần ăn, cần uống, một khi đến đại mạc, thì bộ lạc chúng ta không thể chống đỡ được, mùa đông này cả tộc ta sẽ vừa đói vừa lạnh mà chết trên sa mạc...”.
Bộ tộc trên đại mạc đa phần là bộ thuộc của vương tử A Lý, nghe vương phi A Cổ Lệ nói, sắc mặt vương tử A Lý dần dần nhăn nhó, dữ tợn nói: “Như vậy, đột phá về hướng nam thì có thể đi đâu chứ?”.
A Cổ Lệ trầm tĩnh nói: “Dương Hạo từ phía tây tới, quân Lương Châu từ đông mà đến, bọn họ vừa mới dựng trại, binh lực có lẽ vẫn chưa kịp bày bố, quân chủ lực của bọn họ tất đang ở lưỡng tuyến đông tây, phía bắc là đường chết, không thể đi, vậy chỉ còn có thể đi về phía nam, đi về phía nam là dãy núi Kỳ Liên, vượt qua dãy núi Kỳ Liên chính là...”.
Vương tử A Lý kêu lên: “Ngươi điên rồi? Vượt qua Kỳ Liên Sơn? Chúng ta nhiều người như vậy, nếu như vượt qua Kỳ Liên Sơn thì sẽ có bao nhiêu người phải chết đây? Còn có thể giữ lại được gì? Ngay cả ngựa e là cũng không còn lại được mấy con, hán từ trên thảo nguyên, một khi mất chiến mã thì chúng ta cũng như mất toàn bộ gia tộc, vượt qua Kỳ Liên Sơn thì có thể làm gì nữa?”.
A Cổ Lệ đợi hắn gào thét xong mới tiếp tục nói: “Đại hãn là cửu đại vương Hồi Hột, thân phận tôn quý, vượt qua Kỳ Liên Sơn chính là vùng Lũng Hữu, Lũng Hữu bây giờ nằm trong tay người Thổ Phồn, có điều Thanh Hải Hồ phía tây tản cư lượng lớn tộc nhân Hồi Hột chúng ta, bọn họ nếu như có thể hợp lực thì sẽ không yếu hơn người Thổ Phồn, đáng tiếc... Vương giả tôn quý của bọn họ... Trăm trướng, nghìn trướng là một bộ, giống như cát tản mát khắp nơi, chịu sự ức hiếp của người Thổ Phồn, nếu như đại hãn đến được Lũng Hữu, dựa vào dòng máu vương giả tôn quý của mình thì có thể nhất thống chư bộ Hồi Hột. Đến lúc đó, có Kỳ Liên Sơn cản lại thiết kỵ quân Hạ Châu, đông có người Thổ Phồn áp chế uy lực của người Tống, đại hãn đã có thể tích tụ thực lực ở Thanh Hải, rồi chờ đông khởi”.
“Điên rồ, thật là điên rồ. Phụ hãn, cho dù đến đại mạc gian khổ, nhưng chúng ta còn có cơ hội phục hồi, vứt bỏ tất cả để vượt Kỳ Liên Sơn thì chúng ta sẽ hoàn toàn xuống dốc, vứt bỏ tộc nhân ở đây, vậy tộc nhân ở Lũng Hữu sẽ tín nhiệm vào phụ hãn sao? Phụ hãn, người đàn bà này tự cho là thông minh, người tuyệt đối không thể...”.
A Cổ Lệ lớn tiếng nói: “Đại hãn, đây là cơ hội duy nhất rồi, A Cổ Lệ sẽ mang theo tộc ta, không tiếc tất cả, hộ vệ đại hãn xuất thành, lúc này không thể do dự nữa. Đại hãn...”.
Da Lạc Hột phẫn nộ nói: “Lần trước ta đã tin lầm nàng, lần này nàng còn muốn ta tin nàng sao?”. Lời này chính là lời lần trước hắn đã nói với vương tử A Lý, nhưng lần này từng chữ một không sai, tặng lại cho A Cổ Lệ, trong lòng vương tử A Lý đột nhiên cảm thấy khoái ý, còn vương phi A Cổ Lệ sắc mặt trắng bệch ra, ánh mắt lộ ra vẻ thê lương, nàng từ từ rút thanh loan đao sáng quắc ra, tuyệt vọng nói: “Tất cả đều là do A Cổ Lệ đã sai, Cam Châu rơi vào cục diện hôm nay A Cổ Lệ trăm lần chết cũng không chuộc được tội. Đại hãn, xin người giết thiếp đi, để ăn nói với tộc nhân”.
Tộc người của A Cổ Lệ ở trong bản bộ Cam Châu chiếm một lượng tương đối lớn, hơn nữa Cô Cố Hỗn bộ, Động La Cát bộ và bộ lạc của A Cổ Lệ trước nay cũng luôn cùng tiến cùng lùi, lúc này quả thật không nên động đến nàng ta. Da Lạc Hột thấy sắc mặt thê lương của nàng, vội chuyển ngữ khí, đau khổ nói: “A Cổ Lệ, ta không phải là đang trách nàng, ta thực ra... Là đang tự trách ta. Haizz, bất kể là mọi người kiến nghị như thế nào thì quyết định cuối cùng vẫn là do khả hãn ta. Nàng là một nữ nhân nếu đã làm vương phi của ta, thì vốn phải ăn sung mặc sướng, tận hưởng vinh hoa, nhận ân sủng và sự bảo vệ của ta. Nhưng... Nàng lại vì ta mà dốc hết sức lực, suy nghĩ ngày đêm, còn xông trận vì ta, còn ta... Ta đã không làm hết trách nhiệm của một đại hãn, càng không làm hết trách nhiệm của một người đàn ông”.
A Cổ Lạc nước mắt tuôn rơi, phủ phục khóc nói: “Đại hãn”.
Da Lạc Hột đứng dậy, bước xuống khỏi vương tọa, hai tay đưa ra, nhẹ đỡ nàng lên, thân tình nói: “Những năm qua, sống ở thành Cam Châu này, ăn sung mặc sướng, say đắm mỹ tửu cùng mỹ nhân, sương gió không phải chịu, nên đôi bàn tay cứng cáp năm xưa được đao kiếm mài dũa nay đã không còn, đôi chân vững chắc kẹp chặt chiến mã cũng đã đầy thịt thừa, hùng tâm tráng trí của ta cũng đã bị mài mòn rồi”.
Hắn đỡ lấy cánh tay A Cổ Lệ, từ từ nhìn các vị thủ lĩnh các bộ lạc đang đứng trong điện, trên trán hiện ra một ánh hào hùng: “Hôm nay, Da Lạc Hột ta sẽ bắt đầu làm lại một đại hãn Hồi Hột mà mọi người đã tin tưởng và ủng hộ. Ta muốn bảo vệ tộc của ta, trùng hưng uy danh Hồi Hột Cam Châu, tiểu tử Dương Hạo, con hổ không uy thì ngươi cho rằng ta là một con mèo bệnh sao”.
Hắn lấy chiếc loan đao từ trong tay A Cổ Lệ ra, giơ cao lên, giọng phấn chấn nói: “Các bộ lập tức trở về chuẩn bị, không phân nam nữ già trẻ, có thể cưỡi ngựa bắn tên thì đều đứng lên, nghe sự điều khiển của ta. Khi ánh nắng đầu tiên của bình minh ngày mai đến, ta sẽ thống lĩnh mọi người, xông tới mở ra một chân trời mới!”.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 34: Bước Đường Cùng Của Vương Phi (1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 34: Bước Đường Cùng Của Vương Phi
Bình minh sẽ đột phá vòng vây, đây là thời gian mà Dạ Lạc Hột đã quyết định.
Nếu như đột kích trong đêm, bên Dương Hạo tuy vừa mới cắm doanh trại, nhưng trong thành Cam Châu điều binh khiển tướng, vứt bỏ những thứ nặng nề, thu thập nhanh chóng... Cũng không phải chỉ trong một khoảng thời gian ngắn là có thể hoàn thành, còn quân doanh của Dương Hạo vừa mới cắm trại nên cảnh giác rất cao độ, cự ly năm mươi dặm không phải xa cũng không phải gần, rõ ràng là rất lơ lửng, nếu như khoái mã xung phong thì chặng đường quá dài, nếu khinh kỵ từ từ tiến thì kẻ địch lại có thể chuẩn bị sẵn sàng trước, nếu đã như vậy thì chi bằng để trời sáng rồi chiến một trận.
Đợi đến khi bình minh đến, ánh mặt trời chiếu những tia nắng đầu tiên, chỉ cần binh mã canh ban đêm của quân Dương Hạo nghỉ ngơi thì đây chính là lúc tinh thần mệt mỏi nhất, là lúc hành động chậm chạp nhất. Là phía công kích, trống lệnh, cờ hiệu, tướng lệnh truyền đạt vốn đã kém hơn quân đội của Dương Hạo, nhưng cũng dễ điều khiển quân hơn lúc ban đêm mịt mù.
Sắc trời đã hơi tỏ, phía chân trời mới vừa lộ ra màu trắng bạc, cổng thành phía nam Cam Châu đã mở rộng, vương phi A Cổ Lệ thống soái thân tộc làm tiên phong, hai cánh quân Cô Cố Hỗn bộ, Động La Cách bộ giống như thanh đao một cán ba lưỡi, nhanh chóng xông về phía quân doanh Hạ Châu đang đóng ở phía tây nam.
Vương phi A Cổ Lệ cho rằng Cam Châu rơi vào cảnh khốn cùng này có liên quan rất lớn đến mình, cho nên một mình gánh vác trách nhiệm đột kích này. Thống lĩnh dũng sĩ bộ tộc của nàng để mở ra một con đường sống. Cô Cố Hỗn bộ và Động La Cách bộ cũng biết đây là thời khắc sinh tử của Hồi Hột Cam Châu, nên toàn bộ thanh tráng dũng sĩ tinh nhuệ của các bộ đều được điều động ra, tộc trưởng Cô Cố Hỗn bộ là Tô Nhĩ Man có hai người con trai, trước đây khi đột phá vòng vây đã chết thảm dưới Mạch Đao trận của quân đội Hạ Châu, bây giờ gặp lại kẻ thù, mắt đỏ máu sôi, sát khí đằng đằng.
Khi binh mà dã mang trong lòng dự tính về cái chết thì sức chiến đấu có thể phóng ra sẽ không chỉ lớn gấp hai lần bình thường, huống hồ phía nam là dãy núi Kỳ Liên Sơn trùng trùng điệp điệp, cho nên chủ lực của quân Dương Hạo sẽ không đóng ở đó. Khi quân đội Cam Châu cuồn cuộn không dứt thích sát tới đại doanh phía nam, mượn lúc bình minh sáng tỏ, bọn họ rất nhanh sẽ giơ cờ, dựng mâu dương thuẫn, tuấn mã gầm vang, hình thành một bức tường sắt trước mặt bọn họ.
Thủ quân nam thành quả thật không phải là chủ lực của Dương Hạo, nhưng lại là đội tinh nhuệ của Dương Hạo, chiến cờ phi hùng bay phấp phới trên cao. Đoàn binh mã này chính là thuộc trận doanh của thuộc hạ Dương Hạo Lý Hoa Đình. Hồi Hột Cam Châu đã bị ép vào thời khắc sống còn, mắt thấy trận doanh Hạ Châu dường như không hề có chút rung chuyển, vương phi A Cổ Lệ vẫn xông ngựa lên trước, không chút do dự xông tới.
Cho dù hôm nay ở đây sẽ vương máu của nàng, cho dù chiến mã hạ có dẫm nát nàng thành bùn thì nàng nhất định phải mở một con đường máu. Cho dù nàng là một nữ nhân, nhưng trong mạch máu của nàng lại chứa đầy khí phách cuồn cuộn giống nam nhân.
Tiếng hò hét chém giết tràn lên rung chuyển mặt đất. Dương Hạo mặc dù muốn binh vây sát dưới thành, dùng cách lấy cường thế công thành, có điều cũng đã suy nghĩ đến khả năng kẻ địch bức quá làm liều, nên bốn phương tám hướng đều đã bố trí quân doanh, hết sức đào các loại chiến hào, thiết cự mã, nghiêm trận chờ đợi, và lúc này cuối cùng cũng đã dùng đến rồi.
Chiến hào đã bị tử thi và chiến mã san bằng, trường thương của cự mã bị sự va đập dã man làm gãy nát, người Hồi Hột rơi vào tuyệt cảnh đã phát huy ra dũng khí làm cho bất kỳ kẻ địch nào cũng phải lạnh người, dùng máu thịt của họ để mở ra một con đường. Đạo tuyến thứ nhất đã bị thất thủ.
“Tiếp tục xông lên! Dùng tốc độ nhanh nhất để xé tan trận doanh của kẻ địch, yểm hộ cho tộc người chúng ta thoát ra!”.
A Cổ Lệ toàn thân giống như một bông hoa hồng bị nhuốm máu tươi, mắt thấy quân doanh của Hạ Châu đã bị phá mở lối, tinh thần nàng đại chấn, giơ thanh loan đao lên hét lớn.
Cơn mưa mịt mù, tiếng kêu vang không dứt, dưới sự cổ vũ của nàng, dũng sĩ Hồi Hột với trái tim đã chết liền liên tiếp liều mạng xông lên phía trước. Cảnh tượng này giống như lúc trước Dương Kế Nghiệp thống soái tám nghìn tử sĩ nhân lúc mưa to gió lớn xông kích xé toạc Tống doanh. Đúng vậy, lúc này bọn họ là tử sĩ, những tử sĩ trên vai gánh vác sự sinh tồn của toàn tộc.
Loan đao của A Cổ Lệ chém xuống phát nào thì lúc đó có đầu rơi máu chảy, người nghiêng ngựa ngã. Thị vệ đi sát theo nàng bất chấp tất cả vượt lên trước mặt nàng, dốc hết sức mà chiến, dốc hết sức mà xông lên xé quân doanh Hạ Châu, hung mãnh mà đột phá.
Quân Hạ Châu cũng chém giết đỏ cả mắt, trường mâu nhanh như tia chớp đã đâm tới hướng ngực, hông và chiến mã của nàng. Vương phi A Cổ Lệ cầm dây cương, thúc ngựa phi tới trước, thanh đao trong tay “tang tang” lên liên hồi, đỡ những thanh trường mâu đang phi tới.
Thị vệ của nàng kịp thời chạy đến, một đao đỡ được một trường mâu, còn một đao khác lại không kịp chống đỡ, lại một tiếng kêu thét vang lên, cả người và ngựa cùng nhào, thanh đao trong tay một tên thị vệ đâm xuyên qua cơ thể một binh Hạ Châu, thanh đao vừa rút ra, máu liền bắn tung tóe, binh sĩ Hạ Châu từ từ ngã gục xuống đất.
Vương phi A Cổ Lệ nghiêng người tránh những chiếc mâu đang lao về phía mình, nhưng binh Hạ Châu dùng mâu cũng phản ứng cực nhanh, mâu vừa đâm trượt liền nhanh chóng rút lại, đâm tiếp về phía vương phi, trường mâu trong tay như lưỡi của một con rắn độc thè ra đâm vào đùi vương phi A Cổ Lệ.
Máu tươi văng tung tóe khắp nơi, vương phi A Cổ Lệ đau đớn rống lên một tiếng, chiếc loan đao vừa chém binh Hạ Châu thành hai đoạn lại giơ lên, binh sĩ kia còn chưa kịp rút trường mâu ra thì đầu và cơ thể đã mỗi thứ một nơi.
“Tang... Tang... Tang” tiếng kim loại va vào nhau vang lên, trận hình của quân Hạ Châu đã nhanh chóng bị phá vỡ, tránh sang hai bên. Tiền phương loạn binh đã trống không, nghênh trước mặt bọn họ lại là một trận địa thương kích dày đặc như rừng, nghiêm ngặt đang chờ đợi.
Vương phi A Cổ Lệ rút thanh trường mâu ra khỏi đùi, một tay cầm đao, một tay cầm trường mâu, máu ở đùi vẫn không ngừng chảy ra, thời khắc này không thể dừng xông về phía trước, nàng nhất định phải nắm chắc lấy thời gian, khi Dương Hạo lý giải được ý đồ tác chiến của bọn họ, phái đại quân đến, cho dù bọn có thể xông ra, thành công tháo chạy lên Kỳ Liên Sơn thì những tổn thất mà bọn họ phải bỏ ra cũng tăng thêm gấp nhiều lần.
Phòng tuyến thứ hai, sau khi bỏ ra vô số nỗ lực và thương vong lại bị phá vỡ, sĩ khí binh Hồi Hột đại chấn, bọn họ ngay cả thở cũng không kịp thở, lập tức xông tới phòng tuyến thứ ba.
Gần rồi, gần hơn rồi, tia nắng đầu tiên đã chiếu tới, trận trường mâu như rừng phía trước phát ra hơi lạnh kinh người, hai mắt của A Cổ Lệ đỏ rực như máu, đôi chân hơi dùng lực, mông rời khỏi lưng ngựa, cơ thể cong lên. Trong nhất thời nàng đã nhìn rõ trận hình trước mặt, tầng thương trận dày đặc thứ hai trước mặt nàng không thể xông qua được, nhưng nếu lấy tốc độ nhanh nhất để xông tới, thì ngựa của nàng ít nhất cũng có thể chặt đứt được sáu thanh trường mâu. Khi ngựa của nàng và cơ thể nàng bị trường mâu cùng đâm xuyên qua thì thanh đao và mâu trong tay nàng cũng có thể giết chết được ba người nữa, nàng có thể dùng cơ thể và máu thịt của mình để mở một con đường trong trận địch, chỉ cần lại có hai thị vệ nữa nhanh chóng xông lên làm lớn chiến quả thì phòng tuyến này tất có thể phá vỡ, lại triển khai tiếp trận đấu thịt có ta không có ngươi.
Sau lưng nàng đang có mấy thị vệ đuổi sát theo, không rời không bỏ, vương phi A Cổ Lệ hít một hơi thật sâu, tiếng hét vừa ra khỏi miệng thì đột nhiên có một chiến mã xuất hiện ở bên cạnh, kỵ sĩ trên ngựa vừa khom lưng đã chắn ngựa trước móng ngựa của nàng, làm nó nghiêng về phía sau.
Vương phi A Cổ Lệ quát lên một tiếng, người đứng thẳng lại, nếu như không phải chiến thuật cưỡi ngựa của nàng cao siêu, hai chân kẹp chặt lấy ngựa thì lần này chắc chắn sẽ bị ngã xuống ngựa.
Vương phi A Cổ Lệ nhìn sang một bên thì thấy người vừa nãy chắn ngựa của nàng râu tóc bạc trắng, đó chính là thủ lĩnh bộ lạc Cô Cố Hỗn Tô Nhĩ Mạn, Vương phi A Cổ Lệ trừng mắt lên quát: “Tô Nhĩ Mạn, ngươi sợ hãi rồi sao?”. Sắc mặt Tô Nhĩ Mạn xám lại, trầm giọng nói: “Vương phi, người xem!”.
Vương phi A Cổ Lệ quay đầu lại nhìn, từ phía đông xa xa, bụi bay mù mịt, tiếng vó ngựa rầm vang, tinh kỳ như mây phi đến rất nhanh.
Vương phi A Cổ Lệ bất giác biến sắc nói: “Viện binh của chúng tới rồi, không thể chậm trễ nữa, trước khi quân địch hợp lại phải được xông ra!”. Tô Nhĩ Mạn bi ai nói: “Vương phi, lão Tô Nhĩ Mạn là muốn người hãy nhìn phía sau”.
Vương phi A Cổ Lệ quay người nhìn lại, sắc mặt thoắt cái cũng tái đi, trông còn khó coi hơn cả Tô Nhĩ Mạn: “Nhân mã của đại hãn không ở phía sau, quân Hạ Châu bị đẩy ra đã hợp lại ở phía sau, phi hùng kỳ của quân Hạ Châu đã dương lên, những dũng sĩ xung kích của ba bộ lạc bọn họ đã giống như một cái thuyền nhỏ giữa đại dương mênh mông...”.
“Phụ hãn, Tống doanh xuất binh viện trợ nam tuyến rồi”.
Vương tử A Lý cực kỳ hứng thú quay về bẩm báo.
Dạ Lạc Hột vội vã hỏi: “Phía nào xuất động viện quân?”.
“Hợp diện, là phía đông”.
Dạ Lạc Hột mắt loét lên, trầm giọng nói: “Vậy chúng ta đi về phía đông!”.
“Tu... Tu... Tu...”. Tiếng tù và kêu lên thê lương, cổng thành đông Cam Châu mở ra, quân Hồi Hột giống như thủy triều trào ra khỏi, xông thẳng về phía đông.
Dạ Lạc Hột từ một khả hãn trên thảo nguyên đại mạc đến lúc trở thành một nhân vật giống như hoàng đế, hai mươi năm nay ăn ngon mặc đẹp, hưởng thụ mỹ tửu và mỹ nhân đã làm mài mòn đi tráng trí của hắn. Nhưng hắn dù sao vẫn là một nhân vật được tạo ra từ sương gió, máu tanh và chiến trận, khi hắn rơi vào bước đường cùng thì ngạo khí cùng sự hung ác ngấm tận xương lại được trào ra, trở thành một kẻ kiêu hùng.
Hắn không thể chấp nhận kiến nghị đi theo hướng nam rồi vượt Kỳ Liên Sơn, nếu như vượt qua Kỳ Liên Sơn thì khi hắn đến được Lũng Hữu, hắn sẽ không còn gì cả, sẽ thống lĩnh một tộc người giống như ăn mày, hắn phải khom lưng nịnh bợ, lấy lòng người Thổ Phồn, hắn phải bỏ cái thân phận vương tộc để cầu thực đám tiểu bộ lạc Hồi Hột vốn không coi hắn ra gì.
Có lẽ, nhẫn nhục, nằm gai nếm mật đích thực có một ngày đông sơn tái khởi, nhưng hắn không phải là Câu Tiễn, hắn không muốn làm Câu Tiễn, hắn là hùng ưng trên thảo nguyên, là mãnh hổ trên đại mạc. Hùng ưng cho dù đến lúc sắp chết cũng sẽ dang đôi cánh, cố gắng bay đến lúc kiệt sức rồi chết, mãnh hổ cho dù đến lúc chết cũng sẽ cố gắng duy trì được sự tôn nghiêm của vương giả, sẽ không bao giờ cúi mặt trước bách thú.
Cho nên, hắn đã vứt bỏ A Cổ Lệ, người luôn trung thành tận tâm với hắn và cả những bộ lạc cùng tiến cùng lùi với nàng như Cô Cố Hỗn, Động La Cách, dùng trận quyết tử của bọn họ để thu hút đại quân vây thành, phá vỡ sự bố trí của chúng.
Cam Châu vốn không phải là thành trì chính nam chính bắc, góc độ của nó có chút hơi nghiêng, cho nên đội chủ lực của Dương Hạo từ phía tây đến là bằng với tự thủ ở góc Tây Bắc, ngăn cản con đường bắc tiến đại mạc, còn đội quân đến từ Lương Châu lại thủ ở góc đông bắc. Nếu như quân cứu viện nam thành là đại quân phía Tây Bắc thì hắn sẽ xông ra hướng Tây Bắc, nhân lúc chúng di binh xuất doanh, chưa kịp có cơ hội lấp chỗ thiếu, sẽ xông ra ngoài, khi đến được sa mạc Gobi sẽ lại cùng vật lộn với Dương Hạo. Nếu như binh mã đến từ phía Tây Bắc thì hắn sẽ tiến công phía đông, đột phá phòng tuyến quân Hạ Châu, rồi đi tới phá đông xa hơn.
Sau khi nhận được tin tức A Cổ Lệ mang về, hắn đã phái người điều tra sự thật giả của tin tức. Hắn biết những tin tức A Cổ Lệ lấy được là thật, Tống Quốc thật sự tấn công Lân Phủ rồi, quân đội Hạ Châu đã men theo tuyến Hoành Sơn bố trí phòng ngự, hắn còn thăm dò được tàn bộ của Lý Quang Duệ ở Tuy Châu cũng nhân cơ hội mà động, trước khi phòng tuyến Hoành Sơn bố trí xong thì sẽ vượt qua Hoành Sơn để tập kích Hạ Châu.
Chính vì hiểu được những tình hình như vậy mà hắn mới tin tưởng vào lời của A Cổ Lệ, tin rằng Dương Hạo nhất định sẽ hồi kinh, bảo vệ căn cơ của hắn.
Nhưng Dương Hạo đột nhiên lại cho binh vây thành Cam Châu, phá vỡ ảo tưởng của hắn. Theo hắn thấy, cử động lần này của Dương Hạo chỉ có một nguyên nhân: “Dương Hạo không có tự tin chiến với Tống Quốc, trước đây hắn đã chủ động vứt bỏ Lân Phủ cũng là vì nguyên nhân này, bây giờ phòng tuyến thứ hai bố trí ở Hoành Sơn cũng chỉ là đang tàn sức giãy dụa, cố hết sức để duy trì tình trạng như bây giờ.
Nếu như Hoành Sơn lại thất thủ, vậy Dương Hạo rất có thể ngay cả Hạ Châu cũng vứt bỏ, toàn quân rút về hành lang Hà Tây, lấy sa mạc Gobi rộng tám trăm dặm ở giữa Hạ Châu và Linh Châu làm bức bình phong, cản bước chân tây tiến của Tống quân. Dương Hạo không vội hồi kinh đông thành, thậm trí còn tập kết binh lực đánh Cam Châu, đây là ý định xấu xa nhất, muốn một khi Hạ Châu thất thủ, toàn lực sẽ chuyển về Hà Tây, làm một Hà Tây vương.
Cho nên, nếu như trận doanh Tống quân tuyến Tây Bắc không có sơ hở có thể tìm ra, không có cơ hội để cho hắn tháo chạy đến đại mạc, hắn sẽ đánh bất ngờ vào quân Hạ Châu ở thành đông, mở con đường máu, thích sát đến đại hậu phương của Dương Hạo. Ở đó có Tống quân, còn có quân Tuy Châu, những người đó đều là đồng minh của hắn, ở đó hắn có thể từ trong loạn mà giành lấy được thắng lợi. Cho dù không có cơ hội đục nước béo cò, thì hắn cũng có thể lấy được Tuy Châu rồi nhập vào Lũng Hữu.
Vượt qua Kỳ Liên Sơn đến Lũng Hữu, hắn có thể dốc hết sức bảo toàn tính mạng của tộc nhân, nhưng lại phải vứt bỏ hết chiến mã, hán tử trên thảo nguyên đã rời khỏi chiến mã thì khi đến được Lũng Hữu bọn họ khác gì ăn mày chứ? Con đường mà bây giờ hắn bất đắc dĩ phải chọn tuy có dài hơn, nguy hiểm hơn nhưng lại tồn tại một con đường giữa nguy hiểm và cơ hội. Một khi con đường này không thông thì hắn có thể vòng qua Lũng Hữu, tổn thất tộc người sẽ lớn hơn, nhưng những người mà hắn mang là đội tinh nhuệ trong tinh nhuệ. Có ngựa mới có binh, có binh mới có thảo khấu vương, quyền lực, hắn một khắc cũng không muốn bỏ cuộc. Như vậy hắn chỉ có thể bỏ rơi A Cổ Lệ, mà không thể để cho nàng ta biết được những tính toán thật sự của mình.
Làm đội quân tiên phong phá vòng vây tuy tử thương thảm hại, nhưng không phải là không có con đường sống, trong lúc giữa cái sống và cái chết, tộc nhân của nàng ta bao gồm cả Cô Cố Hỗn bộ, Đông La Cát bộ bất kể ai cũng không thể lùi bước, chỉ có thể quyết tử một trận. Nhưng nếu như nói rõ cho họ biết, bọn họ đi làm mồi nhử, chắc chắn sẽ chết, thì cho dù A Cổ Lệ chịu, tộc người của nàng có chịu không? Cô Cố Hỗn bộ, Đông La Cát bộ chịu không? Đáng bỏ thì bỏ, đó mới là kiêu hùng.
Hôm nay, A Cổ Lệ thống lĩnh dũng sĩ tam bộ, dùng sự hy sinh thảm thiết để phá vỡ trận thế Hạ Châu, quân Hạ Châu tuyến đông bắc cuối cùng cũng không chống nổi mà phải xuất viện binh, cơ hội của hắn đến rồi!
*
* *
“Tu... Tu... Tu...”.
Tiếng tù và ngân vang, vô số những điểm nhỏ trên thảo nguyên cuồn cuộn hội tụ lại, dần đần hình thành một cơn cuồng triều mênh mông mãnh liệt, hướng tới đại doanh trung quân của Đường Diễm Diễm.
Đường Diễm Diễm toàn thân đã mặc giáp, đứng trên vọng lâu, nhìn thấy binh Hồi Hột như sóng triều trào tới, bất giác thay đổi sắc mặt: “Mắc lừa rồi! Nam thành nhiều binh Hồi Hột như thế, thế tấn công thảm liệt như thế, lại... Chỉ là đánh nghi binh?”.
Mắt thấy nhân mã như sóng biển, tiếng vó ngựa rầm vang, thiết kỵ Hồi Hột với thanh thế kinh người ùn lên, Đường Diễm Diễm không còn thời gian để nghĩ nhiều nữa, lập tức hạ lệnh nghênh chiến, tiễn nỏ như mưa che khắp bầu trời mà bay đi, hướng tới khoảng hai nghìn kỵ binh Hồi Hột ở gần nhất đang cầm thuẫn tròn che chắn, một khắc không dừng lại mà lao lên. Ở phía sau bọn họ, đội nhân mã là một rừng gươm đao sắc bén vô cùng, vẽ ra một đường vòng cung cực lớn để nghênh chiến với đội trọng giáp của đối phương.
Đội thiết giáp đáng sợ này đã từng để lại ấn tượng không thể phai mờ cho người Hồi Hột, bọn họ biết rõ sức chiến đấu của đội kỵ binh trọng giáp đáng sợ đến mức nào, đồng thời cũng hiểu rõ nhược điểm của nó, bọn họ cần phải phối hợp mật thiết các loại binh khác với nhau, yêu cầu của bọn họ đối với chiến cơ và địa lý đặc biệt cao, khi những điều kiện này mất đi thì đội kỵ binh trọng giáp chỉ như một đống phế vật.
Cho nên, khi vương tử A Lý đích thân thống lĩnh đại quân làm tiên phong, đột nhiên phát hiện ra đội ngũ này, lập tức đã chủ động nghênh chiến.
Đội trọng giáp còn chưa kịp động, trước khi bộ áo giáp nặng nề phát huy được tác dụng, nó đã làm cho bọn họ rất khó cử động, còn người Hồi Hột đã dùng đội quân hai nghìn người để làm bức tường tránh mưa tiễn, để giành được thời gian quý báu, xông lên tới trước mặt trọng giáp binh, một trận chém giết thảm thiết, đầy máu tanh bắt đầu...
“Dạ Lạc Hột, ta có làm ma cũng sẽ không tha cho ngươi”.
Trên chiến trường nghìn quân vạn mã, lại xuất hiện một sự yên tĩnh lạ thường, chỉ có tiếng nức nở như xé nát tâm can của vương phi A Cổ Lệ. Vương phi A Cổ Lệ khóc mãi, rồi ngẩng đầu lên, đưa thanh loan đao lên yết hầu của mình.
“Leng keng!”. Tiếng kim loại vang lên, vương phi A Cổ Lệ vì chiến đấu mệt mỏi nên đã không còn cầm vững đao, chiếc đao rơi ra khỏi tay, nàng quay lại nhìn Tô Nhĩ Mạn, lại thấy râu hắn bay bay, lớn tiếng nói: “Đại hãn đã bỏ mặc chúng ta, bây giờ vương phi cũng muốn bỏ mặc chúng ta sao?”.
A Cổ Lệ cười thảm nói: “Tô Nhĩ Mạn, ông nói cho ta biết, tình hình bây giờ chúng ta còn có thể làm gì?”.
Tô Nhĩ Mạn lớn tiếng nói: “Không vì chúng ta thì cũng phải vì những người 'già trẻ phụ nữ yếu đuối bị vứt bỏ trong thành mà nghĩ, không vì chúng ta thì cũng phải vì những dũng sĩ đã đi theo chúng ta. Vương phi, bây giờ chẳng lẽ chúng ta không nên nghĩ vì họ sao?”. Vương phi A Cổ Lệ ngẩn ra nói: “Sự việc đã đến mức này rồi, chúng ta còn cách gì để nghĩ sao?”.
Tô Nhĩ Mạn cắn răng, trầm giọng nói: “Đầu hàng! Thứ Dương Hạo muốn không phải là tòa thành trống, thứ hắn muốn là chúng ta, chúng ta đầu hàng có thể bảo toàn tính mạng cả tộc”.
A Cổ Lệ ngẩn ra nhìn hắn, Tô Nhĩ Mạn nước mắt lưng tròng: “Hai đứa con của ta đều vì đại hãn mà chết, bọn họ đều chết trong tay quân Hạ Châu, người tưởng rằng lão Tô Nhĩ Mạn ta muốn đầu hàng sao? Nhưng chúng ta còn có con đường thứ hai sao? Vương phi, đây là sự lựa chọn duy nhất của chúng ta”.
Một cơn gió thổi đến làm bay bay những sợi tóc đang buông trôi khuôn mặt trắng bệch của A Cổ Lệ, nàng cười buồn bã nói: “Đầu hàng? Đầu hàng sao? Bọn họ... Còn có thể tin ta sao?”.
Tô Nhĩ Mạn lớn tiếng nói: “Tại sao không tin? Chúng ta giao tất cả binh mã ra, chấp nhận sự thống trị khai phủ lập nha của bọn họ, bọn họ còn có gì không thể tin? Chúng ta chém giết là vì cái gì? Không phải là sự sinh tồn của tộc nhân sao? Còn bây giờ, đại hãn đã vứt bỏ chúng ta, chúng ta không nên nghĩ cách tìm một con đường sống cho mình sao? A Cổ Lệ!”.
A Cổ Lệ hít một hơi thật sâu, khó khăn quay đầu lại, nhìn những chiến sĩ đã nhuộm đầy máu vì mình, rất lâu, không nói gì...
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 35: Nạn Huynh Nạn Đệ(1+2+3)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 35 Nạn Huynh Nạn Đệ
Cam Châu phá vòng vây vốn đã nằm trong dự tính của Dương Hạo, trong dự tính của hắn, hắn hy vọng Hồi Hột Cam Châu sẽ vứt thành phá vòng vây. Bởi vì vây thành công phá Cam Châu hoặc là tiêu hao thời gian rất nhiều, hoặc là phải bỏ ra một cái giá lớn. Còn nếu quân địch bỏ thành thì cho dù quân địch có nhiều hơn cơ hội sống, nhưng đối với Dương Hạo mà nói áp lực cũng được giảm nhiều hơn.
Hồi Hột Cam Châu đột phá thành phía nam lại khá nằm ngoài dự liệu của hắn, khi hắn thảo luận chiến sự cùng chúng tướng, vốn đã tính tới khả năng cao nhất người Hồi Hột sẽ đột thành bắc tháo chạy về phía đại mạc, vì thế hắn đích thân cắm trại ở phía Tây Bắc, ngăn cản con đường tất yếu từ bắc hướng tới đại mạc, nhưng lại tuyệt đối không ngờ rằng người Hồi Hột lại chọn đột nam thành, đi theo hướng nam tất nhiên là muốn vượt qua dãy núi Kỳ Liên Sơn.
Dương Hạo không khỏi khâm phục tâm kế nhẫn nhịn của Dạ Lạc Hột, hùng thiết đại mạc có lúc khởi có lúc lạc, khi thảm nhất bên cạnh cũng chỉ còn lại vài người, cuối cùng còn không phải là đông sơn tái khởi sao? Trên thảo nguyên, thanh vọng và huyết thống chính là chiêu bài tốt nhất để chiêu nạp quần chúng. Bị bại mà chạy về Lũng Hữu tuy thảm liệt hơn chạy về đại mạc, có điều lý trí mà nói quả thực là một sự chọn lựa sáng suốt. Chỉ có chạy về Lũng Hữu mới có thể tạm thời tránh được sự truy kích của Dương Hạo và lợi dụng ưu thế số đông của bộ tộc Hồi Hột gần hồ Thanh Hải cùng với thân phận vương giả tôn quý của hắn để chiêu binh mãi mã, đông sơn tái khởi.
Dương Hạo thống binh tới bắc, vừa bắt đầu đã muốn quan sát tình hình địch rồi mới hành động, không muốn người Hồi Hột đột phá vòng vây quá mãnh liệt theo kiểu được ăn cả ngã về không. Liên tiếp hai tuyến phòng ngự phía nam bị thất thủ, với công thế mãnh liệt và sự xung phong dày đặc như vậy, làm cho tia do dự cuối cùng trong lòng Dương Hạo biến mất, hắn đang muốn phái người đi viện trợ, tăng cường phòng ngự nam tuyến, thì Đường Diễm Diễm ở gần phòng tuyến phía nam đã tới trước cứu viện.
Ngay sau đó, Da Lạc Hột đã thống lĩnh dũng sĩ của bộ tộc tâm phúc đột xuất kỵ binh, đánh cho quân đông tuyến không kịp trở tay, Dương Hạo vô cùng kinh ngạc, vội vã thống binh tiếp ứng quân đông lộ, khi nhân mã của hắn tới thì Dạ Lạc Hột đã đột phá vòng vây, chạy về phía đông. Nhân mã theo hắn tháo chạy có khoảng một vạn năm trăm người, số còn lại hoặc chết trên sa trường hoặc bị đại quân của Dương Hạo vây chặt.
Lúc này A Cổ Lệ và Tô Nhĩ Mạn, Nghiên Lão Ôn đi tới, A Cổ Lệ là thiếu tộc trưởng của Bạt Dã Cốt bộ, phụ thân của nàng không có con trai, sau khi nàng trở thành vương phi của khả hãn, đồng nghĩa với việc Bạt Dã Cốt bộ nhập vào bổn bộ thị tộc của Dạ Lạc Hột, có điều bộ tộc này vẫn có quyền tự chủ tương đối lớn, Dạ Lạc Hột cũng thông qua A Cổ Lệ mới có thể chỉ huy điều động bộ lạc vốn địa vị không yếu hơn hắn này, đồng thời cũng là bộ tộc thuộc vương tộc.
Tốc độ Hán hóa của bộ tộc này khá cao, cơ bản đã vứt bỏ du mục, lấy Cam Châu làm trung tâm, thực hiện nông canh và công thương. Ở trong thành Cam Châu, tộc người của nàng là đông nhất, còn Tô Nhĩ Mạn là tộc trưởng bộ Động La Cát, Nghiên Lão Ôn là tộc trưởng bộ Cô Cố Hỗn, có khả năng hiệu triệu cực cao trong bộ lạc Hồi Hột. Đồng thời ba bộ đã vứt bỏ tính mạng để đột phá nam thành, vì đồng tộc Hồi Hột mà giành lấy con đường sống, nhưng đại hãn lại vứt bỏ bọn họ. Những tướng sĩ đồng hành này trong lòng đều có tính toán, vì thế bọn họ khó tránh trong lòng có quỷ, cho nên khi ba nhân vật quan trọng có sức hiệu lệnh cực cao này đồng thời xuất hiện, những tướng sĩ đang rơi vào tuyệt cảnh, ngoan cố chống lại liền vứt bỏ sự chống đối.
Lúc này Dương Hạo cũng vừa tới chỗ đội quân, thấy cờ soái tự của Dương Hạo gần gần phía trước, hai vị tộc trưởng và A Cổ Lệ liền xuống ngựa, đợi Dương Hạo xuất hiện. A Cổ Lệ không để tâm tới vết thương trên đùi đang chảy máu đầm đìa, liền tiến lên phía trước, quỳ xuống dập đầu xuống đất rồi hai tay giờ thanh loan đao lên, lớn tiếng nói: “A Cổ Lệ của bộc lạc Bạt Dã Cốt thống lĩnh bộ Động La Cát, Cô Cố Hỗn đến thỉnh hàng với thái úy, những cầu thái úy từ bi, thứ cho các bộ Cam Châu tội chết, A Cổ Lệ xin hàng ở đây, không dám cầu xá, mong thái úy chỉ trảm một mình ta”.
Tô Nhĩ Mạn và Nghiên Lão Ôn nghe thấy thế đồng thời vượt lên trước, cùng quỳ phục xuống đất, hai tay dâng binh đao lên, lớn tiếng nói: “Dương thái úy, trên chiến trường mỗi bên đều vì chủ nhân của mình mà dùng đủ mọi kế sách, nhưng giờ chúng ta đã bỏ vũ khí đầu hàng, hiệu trung với thái úy, thỉnh tha cho vương phi A Cổ Lệ tội chết!”.
Binh Cam Châu bị binh Hạ Châu vây chặt, tay vẫn cầm đao, nhìn chằm chằm vào Dương Hạo, thì thấy Dương Hạo thúc ngựa đi lên phía trước, tới trước mặt ba người bọn họ, vẫn chưa kịp mở lời thì Đường Diễm Diễm, Hà Tất Ninh, hai người phụ trách phòng ngự đông tuyến cũng mặt mày xanh ngắt chạy tới, hai người đều mặc thiết giáp, toàn thân đầy máu, đến trước mặt Dương Hạo không nói câu nào, liền quỳ xuống. Ngay sau đó, Mộc Khôi, người trúng kế đi cứu viện nam tuyến cũng vội vàng chạy tới.
Dương Hạo lại nhìn ba người đang quỳ trước mặt, không chịu được mà hỏi: “Mọi người đang làm cái gì vậy?”.
Đường Diễm Diễm buồn bực nói: “Chúng thần trúng kế, để cho Dạ Lạc Hột tháo chạy khỏi vòng vây, giờ đến thỉnh tội với thái úy”.
Dương Hạo nói: “Nếu như cứ xuất binh là giành thắng lợi thì từ cổ đến nay sao phải sợ dụng binh nữa? Thắng thua là chuyện thường của binh gia, sao có thể thua là trách phạt, như thế sao làm cho binh thần phục mình? Dương mỗ dùng tướng chỉ xem tướng dũng mãnh hay khiếp sợ, binh cường hay yếu, bố trí thế nào, sao lại có thể vì thành bại mà luận anh hùng, đứng lên cả đi!”.
Ba người quay sang nhìn nhau, chắp tay hành quân lễ với Dương Hạo, sau đó đứng cả lên.
Dương Hạo lại nói: “Dạ Lạc Hột tháo chạy về phía đông, vốn cũng không nằm trong dự liệu của bản soái, hắn muốn nhân cơ hội đục nước béo cò ư. Hừ hừ... Được! Mộc Khôi, Hà Tất Ninh!”.
Hai người hơi ngẩn ra, rồi cùng bước lên trước, như tiềm thức cùng đồng thanh nói: “Mạt tướng có mặt”.
Dương Hạo nghiêm giọng nói: “Hai người lập tức tập hợp tất cả các bộ, toàn lực truy kích tàn bộ Dạ Lạc Hột, không thể để cho chúng có cơ hội thở”.
Hai người bọn họ thấy Dương Hạo muốn để cho mình lấy công chuộc tội, đích thân đi truy kích Dạ Lạc Hột không khỏi tinh thần đại chấn, lập tức lớn tiếng đáp: “Tuân mệnh!”.
Rồi họ nghiêng người nhảy lên ngựa, hô vang triệu tộc tướng sĩ bản bộ, nhanh chóng truy kích tản bộ Dạ Lạc Hột.
Đường Diễm Diễm nhìn chung quanh, lúng túng nói: “Thái úy, còn... Mạt tướng?”.
Dương Hạo thấy đầu tóc nàng rối bù, máu loang trên chiến bào, mặt mày bụi bặm, giọng nói liền hiền hòa đi: “Những ngày này cũng làm khó cho nàng rồi, bây giờ quan nhân đã trở về, cái trách nhiệm này đương nhiên là để ta gánh vác!”.
Hai mắt Đường Diễm Diễm bắt đầu ươn ướt, tất cả những ấm ức, lo lắng cùng căng thẳng, suy nghĩ của những ngày qua đều biến mất sạch trong câu nói địu dàng của Dương Hạo. Nếu không phải lúc này đang trong quân, mọi ánh mắt đều nhìn về thì nàng thật sự muốn chạy tới, sà vào lòng Dương Hạo rồi khóc thoải mái một trận.
Mắt thấy Dương Hạo và Đường Diễm Diễm tình ý tha thiết, A Cổ Lệ liền tức cảnh sinh tình, đau xót cho số phận mình, mũi bỗng dưng cay cay, nước mắt lập tức làm nhòe đôi mắt, nàng liền cúi thấp xuống hơn, không muốn để người khác nhìn thấy sự yếu đuối của mình.
Dương Hạo thúc ngựa đi xem ba thủ lĩnh Hồi Hột ở phía trước, trầm ngâm một lát, đột nhiên lấy kiếm của mình ra, leng keng một tiếng, rơi xuống trước mặt vương phi A Cổ Lệ.
A Cổ Lệ đầu tiên ngẩn ra, rồi lập tức đại ngộ, nàng buông kiếm trong tay xuống, nhặt thanh kiếm kia lên, lớn tiếng nói: “Thỉnh đại úy giữ lời hứa, tha cho bách tính Cam Châu!”. Nói rồi, A Cổ Lệ xoẹt một tiếng, rút kiếm ra khỏi bao, đứt khoát đưa lên yết hầu của mình.
“Vương phi!”.
Tô Nhĩ Mạn và Nghiên Lão Ôn hoảng sợ thất sắc, chạy vọt lên trước muốn đoạt lấy kiếm trong tay nàng, những binh sĩ Hồi Hột bị vây chặt đang tĩnh lặng quan sát cũng trở nên dao động, lại cầm chặt lấy kiếm trong tay họ. Dương Hạo thờ ơ đứng xem, lướt mắt qua quan sát những phản ứng của mọi người. Khi A Cổ Lệ giơ kiếm lên yết hầu thì động tác của Dương Hạo lại rất nhanh, hắn giơ tay ra, chiếc roi ngựa trong tay vung về phía trước, quấn chặt lấy thanh kiếm.
A Cổ Lệ đã ngẩng đầu lên, hai mắt nhắm chặt, nhưng vì động tác này mà đột nhiên mở trừng mắt ra, ngạc nhiên nhìn hắn.
Dương Hạo từ từ thu roi ngựa lại, cao giọng nói: “Bản soái nhất thống Hà Tây, các châu phủ huyện dưới hạt, các tướng lĩnh hiệu tốt trong quân rồi đến bách tính các tộc địa phương đều được đối xử như nhau, không thiên vị ai. Cam Châu nếu đã thành tâm quy thuận bản soái, bản soái sao có thể không đối xử nhân từ? Điểm này các ngươi có thể yên tâm, từ ngày hôm nay, bản soái cho ngươi nhậm mệnh thứ sử Cam Châu, tạm thời phụ trách tất cả sự vụ quân chính Cam Châu”.
Thập tam nương A Cổ Lệ có chút không dám tin vào tai mình, ngơ ngác nói: “Thái úy là... Nói ta?”.
“Không sai, tình hình bên Hạ Châu chắc ngươi cũng rõ, ấn tín quan bây giờ chưa kịp ban phát, phục kiếm bên người bản soái chính là ấn tín quan của ngươi, ngươi cầm thanh kiếm này khai phủ lập nha, dùng kiếm của bản soái để thụ lý mọi việc ở Cam Châu. Cam Châu chinh chiến liên miên đã rối loạn rất nhiều, nếu không nhanh chóng xử lý, sắp xếp lại thì khó có thể vững qua mùa đông năm nay. Bây giờ thu cao thoáng mát, nếu không sớm đưa dũng sĩ về bộ lạc, săn bắn tích trữ lương thực thì khó có thể chống đỡ được, ngươi phải nhanh chóng xử lý những việc này, nếu như đông này lạnh giá không thể chống đỡ được thì có thể cầm thanh kiếm này đến cầu viện một phần lương thực ở hai châu Lương, Tiêu, duy trì tính mạng cho bách tính Cam Châu”.
A Cổ Lệ mặt đầy kinh ngạc, rồi đáp từng lời dặn dò của Dương Hạo, cảm động và tín phục vô cùng. Nàng đút đao vào vỏ, tay trái cắm kiếm xuống đất, tay phải đặt lên ngực mình, trầm giọng nói: “A Cổ Lệ tuân mệnh đại soái!”.
A Cổ Lệ, Tô Nhĩ Mạn và Nghiên Lão Ôn chủ đầu đầu hàng, ra mặt chiêu nạp binh Cam Châu đã giúp cho Dương Hạo tiết kiệm được thời gian quý báu. Nếu như đợi khi hắn giải quyết đám binh Hồi Hột quyết tử một trận trong vòng vây, rồi lại phái binh đi truy đuổi thì ít nhất cũng làm lỡ mất một nửa ngày, còn bây giờ thì hắn có thể không ngừng nghỉ mà đuổi theo Dạ Lạc Hột.
Mộc Khôi, Hà Tất Ninh ở phía trước, Lý Hoa Đình ở giữa, Dương Hạo ở phía sau, ba lộ đại quân vội vã đồng hành, Đường Diễm Diễm đem tất cả tình hình chiến sự mới nhất đã nắm được của Hoành Sơn nói cho Dương Hạo nghe, sau đó lo lắng hỏi: “Quan nhân, A Cổ Lệ đó lần trước giả hàng, suýt làm tổn hại đến tính mạng thiếp, chàng nói xem, lần này nàng ta có thật tâm đầu hàng không?”.
Dương Hạo nói: “Kẻ địch mà chúng ta sắp đối mặt chính là đại nhân vật Tống Quốc, cho nên nhất định phải hết sức tập trung lực lượng để ứng biến với nó, đồng thời cũng cần làm ổn định nội bộ, cho dù là ổn định tạm thời. Cam Châu là một thế lực cường đại nhất trên tuyến Hà Tây, cho dù liên tục gặp trắc trở, nhưng lực lượng còn lại cũng không thể xem thường, nếu như để cho chúng kéo nhau về phía đông thì đó sẽ là một nhân tố vô cùng bất ổn, nếu như giữ được bọn họ ở lại thì lập tức sẽ do chúng ta thống trị như thế lại phải để lại một lực lượng mạnh hơn họ để áp chế họ, như vậy cũng không được, vào lúc đặc biệt phải làm chuyện đặc biệt, ta chỉ có thể dùng chính sách ghìm cương ngựa này thôi”.
Dương Hạo dừng lại một chút, lại nói: “Với tính cách của A Cổ Lệ, khả năng giả hàng lần này không lớn. Nếu như nàng ta thật sự vẫn giả hàng thì gánh nặng của nàng ta bây giờ còn lớn hơn chúng ta, lựa chọn duy nhất cũng chỉ có thể là mang theo người già, trẻ nhỏ, phụ nữ yếu đuối mà tháo chạy khỏi Cam Châu mà thôi, cũng chỉ gây thêm một chút phiền phức cho chúng ta. Huống hồ, mùa đông năm nay bọn họ không dễ gì qua được, ta nghĩ cho dù chỉ vì nghĩ cho tộc nhân mà trước mắt nàng ta không thể không hàng, nhưng nếu như ta có thể thành công ngăn cản Tống quân ở phía đông Hoành Sơn thì A Cổ Lệ càng không dám có lòng khác”.
“Ờ...”. Đường Diễm Diễm liếc nhìn Dương Hạo, bĩu môi nói: “Thiếp muốn nói là cùng lâm vào cảnh lâm trận chịu hàng, nhưng Long vương Túc Châu lại bị giam lỏng một cách đáng thương ở Hạ Châu, còn A Cổ Lệ là giả hàng trước, rồi sau khi huyết chiến lại nhận được ân huệ, Tô Nhĩ Mạn và Nghiên Lão Ôn bị đưa đến chỗ tập trung quân, nói là muốn mượn thân phận họ để hết sức chiêu hàng các bộ tộc còn lại của Hồi Hột, thực ra là muốn họ làm con tin, còn A Cổ Lệ lại được ở lại Cam Châu, còn là thứ sử Cam Châu, sự đãi ngộ này... Thật có chút không giống”.
Dương Hạo cũng nhìn nàng, bật cười nói: “Chẳng lẽ nàng cho rằng quan nhân nhà nàng thấy A Cổ Lệ xinh tươi mỹ miều, nên có lòng thương hoa tiếc ngọc sao?”.
Đường Diễm Diễm bĩu môi nói: “Người ta không có hẹp hỏi như thế chàng là đại soái tam quân, lúc này còn đùa được à! Đại quân Tống Quốc đã cho binh tới dưới thành, chàng có biết không, đến lúc này rồi mà chàng có tâm tư trêu hoa ghẹo nguyệt, ha ha ha, thì ta thực sự phục chàng rồi...”.
“Ha ha ha, đại địch trước mắt, sao lại không thể đùa chứ? Đàm tiếu dụng binh thì được gọi là phong độ”.
Dương Hạo mỉm cười nói: “Đánh Túc Châu khác đánh Cam Châu, trước khác nay khác. Lúc đó là lúc giết một làm một trăm, hơn nữa Túc Châu cơ hồ như đã hoàn toàn Hán hóa, chúng ta rất dễ trực tiếp vào thống trị, đổi những kẻ phản nghịch không thể không trừng trị nặng tay. Còn bây giờ Cam Châu tuy đã vào tay, nhưng lại là một củ khoai lang nóng bỏng tay, nếu như người ta đã chịu hàng rồi thì không thể lập tức chém giết, nếu không tiếng xấu sẽ lan truyền khắp nơi. Nếu như không giết thì lực lượng to lớn do tộc người Hồi Hột cấu thành lại không thể thẳng tay mà tiến hành thống trị, chỉ có thể dùng cả hai cách ân huệ và ra uy, khống chế thủ lĩnh”.
Hắn nhìn Đường Diễm Diễm, nói: “Đường gia nhà nàng tiền tài khắp thiên hạ, lại có vô số tiệm hàng, xưởng, giơ tay nhấc chân lên là đã có thể gây ra gió tanh mưa máu, nếu như bây giờ người của Đường gia nàng chỉ trong một đêm mà biến mất không thấy tung tích, còn những tiệm hàng, xưởng, tiền tài, người vẫn còn đó, nhưng bọn họ còn có thể có được tác dụng gì lớn nữa? Sớm chẳng phải thành cát tản mát rồi sao.
Nếu như có kẻ muốn thay thể Đường gia nàng, có cần phải làm tất cả cửa tiệm, xưởng của Đường gia ép cho đến phá sản mới thành công không? Cũng không cần thiết. Nếu như hắn có thể thay thế địa vị thống trị của Đường gia nhà nàng, thì có thể làm lung lạc trưởng quầy, quản sự của những nơi đó, có thể đổi một tự hiệu mới, chỉ huy đế quốc thương nghiệp của Đường gia nàng, nhưng thực sự chiếm đa số, thực sự làm được việc lại là những người của Đường gia nàng, bất kể là ai làm chủ cái nhà này thì đều không cần phải lấy được sự đồng ý của từng người bọn họ, mới có thể chỉ huy hiệu lệnh, có đúng không?”.
Đường Diễm Diễm nghiêng đầu suy nghĩ, gật gật cho là đúng.
Dương Hạo nói: “Con người sinh hoạt trong quần thể, mà dạng thể nhất định phải có một tổ chức nòng cốt mới có thể điều chỉnh tập trung lực lượng, làm cho nó phát huy tác dụng mới chính là nòng cốt. Một trưởng quầy là nòng cốt của một tiệm, gia chủ Đường thị nàng chính là nòng cốt của tất cả trưởng quầy và quản sự, còn nếu như dân chúng bình thường thì cho dù là mười, hai mươi vạn người cũng chỉ là một đám ô hợp, sức mạnh không những không tăng lên, ngược lại còn dần bị tản mát đi.
Lấy Tống quốc ra mà nói, bọn họ bây giờ đang công kích Lân Phủ, tiến tới ép Hoành Sơn. Ở sau lưng chúng là lãnh địa rộng lớn giàu có Trung Nguyên và hàng nghìn vạn người dân, nghe ra có đáng sợ không? Nhưng lãnh thổ rộng lớn như vậy, hàng nghìn người như vậy chỉ có thể cho thấy họ có tài lực đầy đủ dồi dào để ủng hộ cho trận chiến, bọn họ có thể chỉnh binh không ngừng để bổ sung vào tổn thất khi tác chiến, như thế mới có thể đánh lâu dài, bọn họ so với chúng ta thì giàu có hơn, chỉ có vậy mà thôi.
Nhưng cụ thể mà nói về tuyến Hoành Sơn, mười vạn binh của ta có gì khác với mười vạn binh của Triệu quan gia? Cho nên Hoành Sơn nếu như đã ở trong tay ta, Dương Kế Nghiệp nếu đã vẽ một đường tròn ở Hoành Sơn thì tạm thời ta không cần phải quá lo lắng. Điều ta thật sự cần suy nghĩ chính là làm thế nào để giải quyết sự tiến công không ngừng nghỉ của Tống quốc đối với ta. Vì... Hắn có thể tiêu hao, còn ta thì không”.
Nói đến đây, mắt Dương Hạo liền trở nên thâm thúy: “Cam Châu đánh được rồi, nhưng cái cục diện rối rắm này ta lại không kịp thu dọn lại. Ta phải lập tức trở về Hạ Châu, suy nghĩ giải quyết vấn đề nan giải Tống quốc này, bất kể là thi triển mưu kế hay sách lược gì thì tóm lại, ta vẫn phải dốc hết sức để tránh điều ta lo lắng nhất... Một trận chiến dài.
Cam Châu đánh đến nghèo nàn đi, ta tạm thời không kịp quản, lại không thể ngồi nhìn Cam Châu đông này bách tính đói chết vô số, vì thế nên phải dùng một người có thể chỉ huy được những người Hồi Hột này, để cho người đó nhanh chóng giải quyết vấn đề tích trữ lương thực cho mùa đông. Nếu ta không dùng A Cổ Lệ thì người Hồi Hột Cam Châu sẽ mất đi người duy nhất có thể tập hợp, thống nhất mọi người, bọn họ sẽ tháo chạy khắp nơi, trở thành lưu dân trên cổ đạo Hà Tây, thậm chí chạy đến kiệt sức mà chết.
Ta giao cho A Cổ Lệ ba bộ lạc này, rồi ép hai tộc trưởng Tô Nhĩ Mạn và Nghiên Lão Ôn làm con tin thì ta có thể tổ chức điều chỉnh mười vạn bách tính Cam Châu tự lực cánh sinh, không làm vướng chân ta, không cần dùng binh đao mà có thể thu hút được các bộ lạc Hồi Hột tản mát ngoài sa mạc và thảo nguyên trở về. Còn sang năm... Bọn họ có thể bắt đầu cung cấp lương thực và chiến sĩ cho ta, trở thành một bộ phận cơ bản của ta”.
Đường Diễm Diễm nghe có chút nhập thần, rất lâu mới lẩm bẩm tự nói: “Ở đây hóa ra lại có nhiều tính toán như vậy. Thiếp vốn cho rằng làm một thương nhân là đã đủ hao tâm tổn sức, không ngờ làm một đại tướng quân như chàng nhìn thì uy phong nhưng lại còn khổ cực hơn”.
Dương Hạo thở dài nói: “Thực ra... Ta thật sự vẫn muốn làm một thương nhân hơn, thế nhưng trời lại không thuận lòng người...”.
Đường Diễm Diễm cũng thở dài, nếu như đã gả cho một người làm ăn lớn, lấy thiên hạ để buôn bán thì nàng cũng chỉ đành gả cho chó phải theo chó. Vì địa bàn, binh mã, dân chúng của nhà mình mà phải lao tâm lao lực, sinh tử trên chiến trận. Nghĩ đến Dạ Lạc Hột tháo chạy về phía đông, nàng lại thầm lo lắng: “Hắn chạy về phía đông rồi, liệu có làm cho Dương tướng quân gặp địch hai phía không?”.
Nhưng nàng lại tự an ủi nói: “Sẽ không đâu, sẽ không đâu, ba đại quân của Mộc Khôi, Lý Hoa Đình, Hà Tất Ninh truy sát không ngừng, Hạ Châu lại có Chủng đại nhân, hắn sao có thể bình an mà tới được Hoành Sơn? Tuyệt đối không thể!”.
*
* *
Dạ Lạc Hột tiến thẳng tới hướng Lương Châu, nhưng hắn không vào Lương Châu mà đánh qua Sa Đà trước, đoạt lấy lương thảo để bổ sung chỗ thiếu, rồi đi vòng qua tất cả các thành trì vững chắc, cho dù thủ quân ở đó có hạn hắn cũng tuyệt đối không muốn gây chú ý ở đó, chỉ cướp bóc ở các tiểu trại, tiểu thôn, cướp xong lương thảo lại tiếp tục lên đường, ăn cho no một trận rồi phi thẳng tới Hạ Châu.
Mộc Khôi, Lý Hoa Đình và Hà Tất Ninh ở phía sau như âm hồn không tiêu tan, theo đuổi không dừng, đây cũng là nguyên nhân khiến hắn thảm hại chạy liên tục, đến khi quân của hắn đi tới Liễu Bạc Lĩnh, phát hiện địa thế ở đây hiểm yếu, chỉ có một con đường có thể đi, dễ thù khó công, cho nên mới phái thứ tử Khúc Lý dẫn ba nghìn binh thủ tại đây, rồi hạ tử lệnh, bắt buộc phải thủ đủ một ngày một đêm ở đây, rồi lựa thời cơ lui quân.
Việc Khúc Ly tử thủ sẽ tạo cho Dạ Lạc Hột có cơ hội thoát được truy binh, Dạ Lạc Hột sẽ dẫn binh chủ lực chạy trước, cướp bóc một số lượng thực của các tiểu trại quanh vùng, sau đó sẽ vượt qua Tả Thôn Trạch và đến được Tam Xá Khẩu. Hắn biết từ Tam Xá Khẩu tiến thêm về phía trước chính là cửa ải trọng yếu bảo vệ phía tây Hạ Châu thời Lý Quang Duệ. Nhưng bây giờ thế lực của Dương Hạo nhanh chóng đã mở ra phía tây, rồi nạp Linh Châu, Diệm Châu vào tay, nơi trọng yếu này cũng mất đi tác dụng của nó, đồng thời Lý Bất Thọ (Lý Kế Quân) đang từ Tuy Châu đột kích Hạ Châu, vì thế Hạ Châu không có lý do gì mà trong tình hình này lại bố trí một đội trọng binh ở nơi không cần thiết này.
Cho dù phỏng đoán như vậy nhưng Dạ Lạc Hột vẫn không dám khinh thường, hắn đã cho thám mã đi thăm dò phía trước mới dám dẫn đại binh đi ngay theo sau. Hắn không biết cục diện đông tuyến bây giờ đã vào trạng thái gì, nếu như binh Tuy Châu đang chiến đấu với Hạ Châu, thì hắn sẽ hợp binh với Tuy Châu tại một chỗ rồi cùng công kích Hạ Châu, nnhư đã mất đi cơ hội đánh Hạ Châu, thì hắn sẽ tiếp tục đi về hướng đông, liên lạc với Tống quân, mưu cầu viện trợ.
Dù sao đã hơn hai mươi năm không trải qua hành quân khổ cực như thế này rồi, thêm nữa tuổi hắn bây giờ đã cao, cơ thể đại đao ngư của Dạ Lạc Hột đã vô cùng mệt mỏi, nhưng chỉ cần nghĩ đến Hạ Châu đang ở trước mắt, còn hắn đã thành công thoát được truy binh nên tinh thần càng phấn chấn lên.
Mùa thu đến làm hiện ra một sắc vàng khô, thảo nguyên rõ ràng đã được mục dân thu hoạch tích trữ lương thực cho mùa đông, nhìn giống như một cái đầu trọc, nhưng vẫn có mùi vị của cỏ dại.
Phía đông là một con đường rộng lớn, phía bắc là một hoang nguyên vô hạn, hai ba dặm bên ngoài phía nam là một vùng rừng núi thâm thấp. Mặt trời sắp xuống núi rồi, gió thu lạnh lại thổi qua mang theo mấy phần giá rét.
Đột nhiên, gió thu lại thổi mạnh hơn, tiếng gió gào rít chà sát vào thảo nguyên, đột nhiên làm tiếng gió tăng thêm mười lần.
Dạ Lạc Hột như cảm nhận được gì đó, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy bốn phương tám hướng tên nhọn bay vọt tới, người ngựa ngã rầm rầm xuống, những tiếng kêu thét thảm thiết vang lên.
“Mai phục, có mai phục!”.
Có người lớn tiếng kêu thảm lên, rồi tiếng kêu lập tức im bặt.
“Vù vù vù!”.
“Phập phập phập!”.
Cung huyền rung lên, mũi tên bắn lên không, rồi găm vào thịt làm phát ra những tiếng kêu xé gió, tiếp theo là tiếng kêu thảm trước khi mất mạng, làm cho cả đội ngũ lập tức đại loạn. Trận mưa tên như đang bắn vào lá sen, trong khoảnh khắc người ngã như ngả rạ.
Người bắn tên đứng ở hai bên, trên đất đã đào những cái hố có thể dễ dàng ẩn thân, bên trên có che cỏ khô, nhìn từ xa thì không có sơ hở gì, thám mã của Dạ Lạc Hột không phải chỉ đi men theo lối mòn nhưng họ cũng chưa tìm tới chỗ bắn tên. Lúc này những đội quân mai phục như yêu linh nhảy trào ra, không hề kiêng kỵ mà giương cung bắn tên, dùng những mũi tên mạnh nhất để lấy mạng người khác.
“Á!”. Có người muốn nhảy xuống ngựa nhưng trong nháy mắt lại bị lợi tiễn đâm xuyên qua, kêu thảm thiết rồi ngã sấp xuống.
“Tản ra, chống trả lại!”.
Không đợi Dạ Lạc Hột hạ lệnh, tướng lĩnh có kinh nghiệm đã lớn tiếng hét lên, lúc này bọn họ mới kịp lấy thuẫn tròn bên yên ngựa, phi ngựa tấn công quân mai phục, đao thiết sáng lóe giơ lên, chỉ cần cho họ ba nhịp thở thì có thể xông tới trước mặt tiễn thủ.
Nhưng đội hình vừa tản ra thì từ phía rừng rậm hai bên. Cách đó ba dặm đột nhiên xông ra năm đội nhân mã, đàn thành năm hình trận. Xem ra bọn họ muốn lợi dụng trân mưa tên để làm loạn trận hình quân Cam Châu, lại dùng sức xung phong mạnh để cắt chúng thành nhiều đoạn.
“Rút... Rút lui!”.
Vương tử A Lý cầm đao trong tay yểm hộ Dạ Lạc Hột lui về phía sau. Trên thảo nguyên không có vật cản này đột nhiên gặp phải địch, thì chỉ cần trong khoảnh khắc đã có thể bắn chết được mấy trăm nhân mã, nhưng những người được Dạ Lạc Hột mang theo, nào có ai không phải là hán tử thân kinh qua bách trận chứ? Dựa vào kỹ nghệ cưỡi ngựa của bọn họ cùng thân thủ linh hoạt, sự chống đỡ của áo giáp và thuẫn nên họ vẫn có thể coi là vượt qua được sự công kích, và rất nhanh phục hồi lại trật tự.
“Tu...”.
“Tùng tùng tùng...”.
Tiếng kèn và tiếng trống cùng vang lên, trong tức khắc lại có một đội kỵ binh xông ra từ trên sườn núi mặt phía nam, phi tới trước mặt họ, đúng là giống như mãnh hổ hạ sơn. Những kỵ sĩ Hạ Châu đó phi ngựa như bay, vừa phi vừa bắn tên, một khi đã vào được trong cự ly sáu mươi bước thì bọn họ lập tức thu cung lại, rút đao ra, đạp ngựa, hét lên rồi phi tới.
Một đội binh Cam Châu vội vã thúc ngựa nghênh địch, liền bị tướng lĩnh Hạ Châu đi đầu một đao chém đứt đôi cả người lẫn thuẫn. Tiếp theo đó họ đạp ngựa, đề cương, chiến mã lại xông lên, đao lóe sáng, lại từng chiếc đầu người bay lên, máu tươi bắn ra tung tóe, vô cùng tản độc. Đây chính là thủ tướng Hạ Châu Thác Bạt Hạo Phong.
Lợi tiễn bắn lên không trung, binh khí phát ra ánh sáng chói lóa, trận phục kích ngắn ngủi này chỉ diễn ra trong khoảng thời gian một nén hương lại có được một chiến quả hiển hách, những thi thể để lại trên đất ít nhất cũng hơn một nghìn. Binh Hồi Hột nếu như không phải cả chặng được đều là quân địch đuổi ở phía sau. Trận hình luôn tháo chạy về phía trước, hình thành một tư duy quán tính thì cũng sẽ không rơi vào thảm cảnh như thế này.
Nhưng bọn họ sao có thể tưởng tượng được bọn họ hành quân với tốc độ như hỏa tinh mà phía trước lại có người sớm đã chuẩn bị tốt mai phục?
“Dừng lại. Không cần đuổi theo nữa!”.
Trương Sùng Nguy lật lật các thi thể, xem cẩn thận một lượt, rồi từ từ đứng đậy nói. Tiếng kèn vang lên, binh Hạ Châu được huấn luyện kỹ càng liền lập tức dừng truy kích lại.
“Trương tướng quân, sao không đuổi nữa?”. Thác Bạt Hạo Phong lập tức phi ngựa tới bên Trương Sùng Nguy, nhảy xuống ngựa, lớn tiếng hỏi.
Trương Sùng Nguy trầm giọng nói: “Những người chúng ta mai phục không phải là quân Tuy Châu, họ là người Hồi Hột. Ha ha, không ngờ Dạ Lạc Hột lại tháo chạy nhanh tới đây vậy. Nếu hắn đã rơi vào hỗn thủy rồi thì việc này chúng ta vẫn nên bẩm báo trước với Chủng đại nhân để ngài ấy định đoạt, không thể lỗ mãng”.
*
* *
Dạ Lạc Hột gấp gáp trúng mai phục, không dám ham chiến, mắt thấy đường thoái đã bị cắt đứt, đành phải chọn một con đường, con đường cuối cùng chính là hướng theo phía bắc, liền vội vã hành quân, lại thấy phía trước có một lộ binh mã vội vã đuổi đến.
Dạ Lạc Hột vừa thấy thế liền mặt vàng như đất, tuyệt vọng nói: “Nơi đây cũng có một đội phục binh sao? Đây...? Từ từ đã, bọn họ... Hình sắc bọn họ sao lại thảm hại như vậy?”.
Đoàn quân đối diện chính là binh Tuy Châu của Lý Kế Quân. Lý Kế Quân tráng trí đầy lòng, vốn muốn mô phỏng Dương Hạo đột kích Hạ Châu nhưng không ngờ tên mọt sách không biết binh pháp như Chủng Phóng lại không hề ở Hạ Châu đợi hắn. Đợi hắn đi mượn chuyện thảo nghịch Tống Quốc để xui khiến quý tộc Thác Bạt thị ở Hạ Châu tạo phản, mà Chủng Phóng lại chủ động xuất binh, đánh một trận dã chiến với hắn.
Lý Kế Quân thất bại thảm hại, chạy tới chạy lui lại trở thành hắn chạy ở phía trước, Chủng Phóng truy đuổi ở phía sau. Lý Kế Quân bị Chủng Phóng truy đuổi đến mức không còn đường nào chưa đi, không còn cửa nào không vào. Bây giờ chạy đến đây, vừa mới thu được một ít tàn binh bại tướng, không ngờ vừa ra khỏi cốc lại đụng phải nhân mã của Dạ Lạc Hột. Nhất thời, Lý Kế Quân cũng bị dọa hết hồn: “Bọn họ sao có thể... Ơ? Từ từ đã, sao thần sắc bọn họ... Còn thê thảm hơn chúng ta?”.
Lý Kế Quân thật sự bị Chủng Phóng đánh đến phát sợ rồi, lòng run run mà nhìn kỹ lại, mãi mới phát hiện ra vị tướng trong quân đối diện có chút quen quen, bình tĩnh nhìn lại mới nhận ra đó là đại hãn Dạ Lạc Hột của Hồi Hột Cam Châu.
Hai năm trước Định nan quân Hạ Châu và người Thổ Phồn, Hồi Hột chiến sự liên miên, sau đó bị ép dưới sự quật khởi quá nhanh của Dương Hạo, tạo thành sự uy hiếp cực đại với Hạ Châu, trong lúc nguy nan trùng trùng, bất đắc dĩ phải hòa giải với kẻ thù, nhẫn nại nhượng bộ. Khi đó hắn nhận mệnh của phụ thân tiến hành đàm phán với thủ lĩnh Lạc Nhung Đăng Ba của Thổ Phồn Lương Châu, thủ lĩnh Dạ Lạc Hột của Hồi Hột Cam Châu, nên hắn đương nhiên nhận ra hình dáng của Dạ Lạc Hột.
Bây giờ hai người lại gặp nhau ở đây, Lý Kế Quân không khỏi vừa kinh ngạc vừa nghi ngờ, thám mã phi lên trước rồi nói tiếng nhận nhau, Dạ Lạc Hột mới biết được đội nhân mã phía trước chính là nhân mã của người được gọi là Lý Bất Thọ Tuy Châu, Dạ Lạc Hột vô cùng ngạc nhiên và vui mừng, vội vã tiến lên gặp mặt.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 36 Lập kế hoạch(1+2+3)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 36: Lập Kế Hoạch
Hai người xuống ngựa, rồi kể cho nhau lý do đến đây đều là bị Dương Hạo hại, đoạt mất căn cơ nhà bọn họ. Một người thì mất cha, một người thì bỏ vợ, ép bọn họ phải tháo chạy như chó mất nhà. Nói đến cảnh thê lương, đến anh hùng cũng phải trào nước mắt.
Hai người ngày trước tuy là thù địch, nhưng bây giờ lại là đồng minh gắn bó, nói đến Dương Hạo mắt lại càng đỏ lên.
Lúc này Dạ Lạc Hột mới biết Lý Kế Quân đột kích Hạ Châu, thực ra hoàn toàn không cấu thành uy hiếp gì mang tính thực chất với Hạ Châu, hắn mang theo ý chí quyết đánh đến cùng rời khỏi Tuy Châu, vốn mọi thứ đã tính toán rất ổn thỏa, nghĩ rằng Lý gia thống ngự ở Hạ Châu đã cả trăm năm nay, thế lực ở đó chắc chắn là thâm căn cố đế, ảnh hưởng của Lý gia tuyệt đối không dễ dàng bị diệt trừ đi như vậy. Hơn nữa bây giờ Dương Hạo không ở Hạ Châu, còn Định nan quân lại gặp phải cường địch mạnh nhất của bọn họ: Tống Quốc. Hạ Châu lúc này tất sẽ hoảng loạn, thủ lĩnh các bộ tộc sẽ bị dao động ý chí. Lúc này chỉ cần Lý Kế Quân hắn dẫn quân tới thành thì có thể làm cho những quý tộc Thác Bạt Thị đang bị lay động kia càng thêm lo sợ, rồi nhất cử mà đoạt lấy mảnh đất hưng thịnh Đảng Hạng Khương này.
Ai biết được tên Chủng Phóng đó lại xuất binh ra khỏi thành Hạ Châu, bày bố thế trận ở giữa dã bình nguyên, đường đường chính chính đánh với hắn một trận, tình hình sau đó không cần hắn nói Dạ Lạc Hột cũng nhìn thấy rồi. Lý Kế Quân từ Tuy Châu thống lĩnh ba vạn năm nghìn quân tới, bây giờ chỉ còn lại một vạn quân tả tơi. Còn hắn đã bỏ ra sự hi sinh lớn như vậy, lại ngay cả bên cạnh thành Hạ Châu cũng không chiếm được, những ngày này luôn chơi trò địch tiến ta lui ở phạm vi bên ngoài thành Hạ Châu.
Dạ Lạc Hột thì càng không cần phải nói nữa, hắn có thực lực lớn gấp mười lần Lý Kế Quân, nhưng bây giờ rơi vào tình cảnh này còn không bằng nổi hắn. Hai người cắn răng mím môi, nghĩ đến nỗi đau oán hận của mình, rồi lại vắt óc suy nghĩ thương lượng xem nên đối phó với hình thế trước mắt như thế nào.
Trải qua một hồi bàn bạc, hai người đã nghĩ ra được kế hoạch ba hành động: Một là tập hợp toàn bộ binh lực của hai bên, mai phục trên con đường Dương Hạo tất phải đi qua, lợi dụng tâm lý vội vã đông tiến của Dương Hạo để đánh cho hắn không kịp trở tay, hai là hợp lực công thành Hạ Châu, nếu như có thể giành được sự ủng hộ của quý tộc Thác Bạt thị trong thành thì có thể nhân cơ hội quân Chủng Phóng ở bên ngoài để dễ dàng phá thành, chỉ cần chiếm được thành Hạ Châu thì dựa vào binh lực của bọn họ dù sao cũng có thể kiên trì thủ thành được một đến hai tháng. Như thế có thể làm cho lòng người của cả địa khu đông tuyến phải dao động, tạo cơ hội cho Tống quân công phá Hoành Sơn, thứ ba chính là lập tức di chuyển tới Hoành Sơn, trong ngoài cùng đánh, đầu tiên là trợ giúp Tống quân phá phòng tuyến Hoành Sơn, lại phản công Hạ Châu dưới cái uy của Tống quân.
Đánh phục kích của Dương Hạo, hai người suy nghĩ đi suy nghĩ lại cuối cùng vẫn là phủ định.
Dương Hạo huy binh đông phản, trong tay có ít nhất tám vạn người, còn tàn binh của cả hai bọn họ hợp lại cũng chưa tới hai vạn người, đánh phục kích quả thật thật phần lớn thời gian sẽ ở trong cục diện lấy ít đánh nhiều, nhưng tiền đề là bọn họ vẫn còn có quân đội ở phía sau. Có thể lợi dụng bọn họ để đánh phục kích, tạo ra chiến quả lớn hơn, thay đổi hình thể chiến trường.
Bây giờ bọn họ tổng cộng chỉ có một ít binh mã như vậy, giết được một trăm địch lại tự tổn thất tám trăm, trận buôn bán này mà tiếp tục thì cho dù phục kích thành công thì nhân mã của bọn họ cũng tổn thất gần hết, lúc đó không phải là hoàn toàn để cho Tống quân dễ dàng đoạt lợi sao? Điểm này bất kể là Dạ Lạc Hột hay Lý Kế Quân đều không thể chấp nhận được, huống hồ bên cạnh bọn họ còn có một Chủng Phóng xuất quỷ nhập thần, không thể tính rõ được khi nào hắn sẽ lại xuất hiện, kế hoạch này quá nguy hiểm.
Hai bên họp binh một chỗ, công đánh Hạ Châu là một sự hấp dẫn động lòng người, nhưng tính đi tính lại, hai người bọn họ cũng phải từ bỏ. Dạ Lạc Hột vừa mới trúng mai phục của Chủng Phóng, hiện trường tất nhiên sẽ có binh sĩ bị thương và bị bắt, nhân mã của Chủng Phóng khi truy hỏi sẽ biết được nhân mã của Dạ Lạc Hột cũng đã đến đây, tất sẽ thêm cảnh giác. Lý Kế Quân cũng không dám chắc khi mình tới được thành, vừa vung cờ lên là đã làm sụp đổ tự tin của thủ quân trong thành, còn binh mã của Chủng Phóng và bảy tám vạn đại quân của Dương Hạo đều có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào, đến lúc đó đánh không được Hạ Châu cũng không sao, nhưng lại làm cho người ta rơi vào sự tận diệt oan uổng.
Hai người tính đi tính lại, cuối cùng không hẹn mà cùng chọn đi về Hoành Sơn. Hai người hạ lệnh tập trung quân một chỗ, đem gần hai vạn binh mã để phá vỡ thế lực trực thuộc các bộ lạc Đảng Hạng thất thị là có thể làm được, hơn nữa với binh lực này cùng đi để tạo thành sự quấy nhiễu tương đối lớn cho Dương Kế Nghiệp đang trấn thủ tại Hoành Sơn. Chỉ cần bọn họ có thể đánh Hoành Sơn, làm mở ra một con đường thì có thể làm cho Tống quân ùn ùn kéo vào.
Một đôi nạn huynh nạn đệ đã ăn nhịp với nhau, kế nghị cũng đã định, lập tức hiệu triệu binh mã, binh tiến qua đại mạc, vượt qua bảy dặm bình địa, vượt tới Hoành Sơn, muốn trước khi quân cứu viện Dương Hạo có thể phá vỡ được phòng tuyến Hoành Sơn.
Chủng Phóng vốn đóng quân ở Tam Xá Khẩu, lệnh cho Trương Sùng Nguy, Thác Bạt Hạo Phong mai phục ở tiền lộ, vốn là muốn đánh quân Lý Kế Quân, không ngờ Dạ Lạc Hột lại tự dẫm lên bẫy. Phát hiện quân địch có điều khác lạ, rồi sau khi thẩm tra tù binh bắt được, nắm được tin tức chính xác, lão tướng Trương Sùng Nguy lập tức khuyên ngăn Thác Bạt Hạo Phong quay trở về trại binh Tam Xá Khâu, bẩm báo tin tức với tiết độ phó sứ Chủng Phóng, chờ hắn định đoạt.
Chủng Phóng nghe thấy Dạ Lạc Hột đã tháo chạy đến lân cận Hạ Châu, lông mày lập tức nhíu lên. Hắn chắp tay sau lưng, đi lại trong phòng, miệng lẩm bẩm, đôi mắt chốc chốc lại nhìn lên trời, cũng không biết đang nói cái gì.
Chúng tướng dưới trướng sớm đã quen với thói quen khi suy nghĩ này của hắn, chỉ đứng im lặng chờ đợi. Qua một lúc, vẫn chưa thấy hắn có quyết định gì, Thác Bạt Hạo Phong không nhịn được mà lớn tiếng nói: “Đại nhân, đại soái sắp trở về rồi, an nguy của Hạ Châu có thể tạm bảo vệ được, bây giờ sao chúng ta không thừa thắng truy kích chứ. Nếu như có thể một tay diệt được bộ tộc của Dạ Lạc Hột và Lý Bất Thọ trước khi đại soái trở về, chẳng phải là một kỳ công hay sao?”.
Chủng Phóng hơi lắc đầu, lại trầm ngâm một lúc, mới ra lệnh: “Lập tức đem tất cả tình hình của chúng ta ở đây bẩm báo đến chỗ thái úy. Thỉnh thái úy cẩn thận, chớ trúng mai phục”.
Lý Kế Đảm đáp một tiếng, rồi lại hỏi: “Vậy chúng ta thì sao, bây giờ nên làm thế nào?”.
Chủng Phóng hơi nhăn mày lại, trầm giọng nói: “Trương Sùng Nguy, ngài hãy thống lĩnh một bộ binh chạy tới trấn Đức Tĩnh, nếu như Lý Kế Quân hoặc bộ lạc của Dạ Lạc Hột qua đó thì chỉ thủ không được tấn công, chỉ cần ngăn cản đội hình của chúng là đã hoàn thành được sứ mệnh của ngài. Lý Kế Đảm, ngài thống lĩnh bộ binh đi theo con đường duy nhất ngoài núi. Nhớ kỹ, ngài cũng chỉ được thủ không được công, chỉ cần giam được chân chúng ở trên đất của Hạ Châu ta thì chính là đại công rồi”.
Trải qua một khoảng thời gian điều binh khiển tướng, chúng tướng cảm thấy rất tin phục vào các thủ đoạn của Chủng Phóng. Lý Kế Đảm và Trương Sùng Nguy không nói hai lời, cùng chắp tay nói: “Mạt tướng tuân mệnh!”.
Thác Bạt Hạo Phong vội vã hỏi: “Đại nhân, còn ta?”.
Chủng Phóng mỉm cười, nói: “Còn ngài, theo bản quan về Hạ Châu, tăng cường phòng bị Hạ Châu”.
“Cái gì?”.
Thác Bạt Hạo Phong dường như không thể tin vào tai mình, kêu lên: “Đại nhân, nhớ khi trước Lý Bất Thọ khí thế hừng hực, mọi người đều khuyên đại nhân chiếm thành tự thủ, không được mạo hiểm liều lĩnh xông ra nhưng đại nhân lại một mình một ý, cố ý xuất binh tìm địch quyết chiến. Còn bây giờ, chúng ta đang nắm nhiều phần thắng, binh mã đại soái trong phút chốc sẽ trở về, vậy mà gan của đại nhân sao lại trở nên nhỏ đi vậy?”.
Lý Kế Đảm và Trương Sùng Nguy đồng thanh quát lên: “Hạo Phong, sao lại dùng khẩu khí đó nói với Chủng đại nhân, còn không mau tạ tội”.
Chủng Phóng mỉm cười: “Không sao, Thác Bạt tướng quân, cần phải đề phòng chó cùng dứt dậu.
Hình thế chiến trường một khắc vạn biến, bây giờ đại soái sắp về rồi, đại cục đã định, kẻ cần mạo hiểm không phải là chúng ta, hà tất chúng ta phải mạo hiểm? Phải nhớ rằng binh xuất hiểm chiêu, nếu không phải gặp lúc bất đắc dĩ thì không được mạo hiểm, nếu không sớm sẽ bị thiệt thòi lớn”.
Thác Bạt Hạo Phong mắt thấy đại công trong tay mà Chủng Phóng lại có thái độ khác thường, lựa chọn tư thế cẩn thận, nên trong lòng rất không phục. Nhưng Lý Kế Đàm và Trương Sùng Nguy đứng bên cạnh kéo kéo áo hắn, không ngừng ám thị bảo hắn nói bớt vài câu. Hơn nữa, những ngày gần đây hắn cũng rất phục tài dụng binh của Chủng Phóng, vì thế tuy vẫn chưa thể lý giải được nhưng vẫn buồn bực đáp tuân mệnh một tiếng.
Chủng Phóng cũng không giải thích nhiều, liền lệnh cho Phi Vũ lập tức truyền thư cho Dương Hạo, cảnh báo hiểm nguy, đồng thời lệnh cho Trương Sùng Nguy và Lý Kế Đảm lập tức dẫn quân lên đường, còn mình thì nhanh chóng trở về Hạ Châu.
Lúc đầu, khi vừa nhận được tin Lý Bất Thọ huy động được bốn vạn quân, đi vòng qua Ngân Châu để đột kích vào Hạ Châu, thì văn võ bá quan Hạ Châu vốn đều chủ trương lựa chọn cách thủ thế dưới hình thức nghiêm mật, dựa vào uy thế tường cao hào sâu để chống đỡ lại sự tiến công của quân Tuy Châu, nhưng Chủng Phóng khi đó lại kiên trì cách chủ động xuất kích, ngăn địch bên ngoài, là vì thực chất với một định nan quân tể tướng như Chủng Phóng, đứng ở địa vị của hắn thì càng có suy nghĩ tầng sâu hơn.
Đầu tiên, Dương Hạo tây chinh đã dùng mất một phần lớn đồ tích trữ của Hạ Châu trong hai năm qua, có thể dự liệu được rằng tương lai hắn sẽ muốn làm ổn định chư châu Hà Tây, tiến hành sự thống trị của mình thì vẫn cần phải dùng đến một bộ phận trù bị. Nhưng bây giờ đã là mùa thu, phần lớn đồn điền bát ngát gần Hạ Châu đã bước vào thời kỳ chín muồi, bên ngoài thành Hạ Châu còn có những công trường chăn nuôi, nông trại rộng lớn cùng tài nguyên cuồn cuộn. Nếu như binh lực thu về nội thành Hạ Châu thì những căn cơ đó đều sẽ bị loạn binh hủy hoại, đối với Hạ Châu đang bị Tống quân công kích mà nói đó là tuyết chồng lên tuyết.
Tiếp theo, Lý Kế Quân đầy kỳ vọng chính là sự kiêng kỵ đối với Chủng Phóng, hào môn quý tộc Thác Bạt thị ở Hạ Châu quá nhiều, trong đó không phải ai cũng được hưởng lợi khi Dương Hạo thượng vị, độ trung thành có hạn, nếu như Lý Phi Thọ đưa binh tới trước thành, treo cờ Lý thị Hạ Châu, cộng thêm nhân tố đại quân Tống đang chèn ép thì khó có thể đảm bảo sẽ không có người làm phản. Một phòng tuyến cho dù có nghiêm mật đến đâu, phòng ngự, thành trì có chắc chắn đến đâu thì một khi xuất hiện nội quỷ cũng khó có thể áp chế được kẻ địch, nếu đã như vậy chi bằng chủ động ép địch ra ngoài, như thế càng an toàn hơn.
Thứ ba chính là hành động này có thể phóng một tín hiệu cho con dân các bộ bên cạnh, thất thị Đảng Hạng, định nan ngũ châu: Hạ Châu, không phải vì đại soái đông chinh, Tống quốc đến công kích mà mất đi sự khống chế đối với những địa hạt này, Hạ Châu vẫn còn đủ sức để đánh bay những kẻ địch muốn xâm phạm, cảnh cáo lũ ngo ngoe muốn động nên an phận một chút.
Nếu không, với thân phận trước mắt vẫn là đại sứ biên cương Tống Quốc của Dương Hạo, Định nan quân sẽ tiêu diệt hết những kẻ phản nghịch. Đánh đi, cứ xông lên mà đánh, không đánh à, thế chỉ còn con đường khoanh tay chịu chết thôi. Tuy nói quân đội của Dương Hạo là cốt cán của Định nan ngũ châu, chiêu binh mãi mã tự kiến lập, sẽ không nghe theo hiệu lệnh của triều đình, nhưng có một số thứ vô hình đang gây ảnh hưởng tương đối lớn tới quân đội. Với bách tính, một khi có một bộ lạc hay một doanh quân binh nào đó giúp đỡ cho địch, thì chúng sẽ liên tiếp móc nối vào nhau.
Có những căn cứ này mà Chủng Phóng mới kiên quyết chủ trương áp chế địch ở bên ngoài, chủ động xuất binh. Hắn đem tổng hợp tất cả những suy nghĩ của mình ở mọi mặt lại, cuối cùng còn nhận được sự ủng hộ hết mình của La Đông Nhi, vì thế mới hết sức bài trừ tranh luận khác nhau của chúng tướng, rồi điều động binh ra khỏi thành. Còn bây giờ, Dương Hạo đã sắp trở về, đại cục đã định, hắn đương nhiên không muốn lại xảy ra sự cố gì nữa, điều ưu tiên suy nghĩ chính là đảm bảo Hạ Châu đứng vững như Thái Sơn.
Dương Hạo đã trở về rồi, khi đại kỵ của hắn xuất hiện ở ngoài thành, văn võ bá quan, sĩ thân bách tính đang đứng chờ ở ngoài cổng thành đều thờ phào nhẹ nhõm, còn có người hoan hỉ hô lên. Hạ Châu trong thời gian Dương Hạo viễn chinh có thể chống đỡ đến ngày hôm nay đã phải trải qua rất nhiều vất vả. Bây giờ hắn đã thống lĩnh đại quân trở về, hơn nữa còn nhất cử đạp bằng cổ đạo Hà Tây. Với những chiến thắng mới mà tràn đầy nhuệ khí trở về, có lẽ cửa ải khó khăn trước mắt Hạ Châu có thể vượt qua được rồi.
Vừa thấy Dương Hạo, đám người Chủng Phóng, Tiêu Nghiễm, Từ Huyễn, Đinh Thừa Tông mặt mày lộ ra sự vui sướng. Tiết độ lưu hậu Đinh Thừa Tông bước lên trước, chắp tay nói: “Chúng tướng cung nghênh thái úy trở về, chúc mừng thái úy nhất thống Hà Tây”.
Dương Hạo xoay người xuống ngựa, mặt mày vui vẻ chắp quyền nói: “Trong thời gian Dương Hạo viễn chinh đã làm phiền chư vị vất vả duy trì quân chính Hạ Châu, Dương mỗ có thể bình định Hà Tây, không phải không có công lao của chư vị. Tại đây, Dương Hạo xin đa tạ các vị”.
Dương Hạo bước lên trước, chắp tay cúi tạ bá quan văn võ Hạ Châu, mọi người cũng lần lượt giơ tay hoàn lễ, sau một lúc chào hỏi, Đinh Thừa Tông lập tức nói: “Thái úy, bên Hoành Sơn...”.
Dương Hạo thản nhiên nói: “Không phải vội, chúng ta về phủ rồi nói”.
Chủng Phóng đứng bên cạnh nhìn thấy, bất giác mỉm cười trong lòng. Dáng vẻ trầm tĩnh, đã có định liệu trước trong lòng làm cho đám văn võ bá quan Hạ Châu đang lo lắng cũng phải yên tâm lại.
Hành động này của Dương Hạo quả thực là vì trấn an lòng quân, thực ra bây giờ trong lòng hắn còn gấp gáp hơn bất kỳ người nào khác, hắn hận không thể lập tức hiểu hết một lượt tình hình xảy ra trong ngoài Hoành Sơn. Nhưng từ sắc mặt của văn võ bá quan Hạ Châu, hắn có thể nhìn ra sự lo lắng của họ. Tuy lòng bất định, nhưng bây giờ vẫn chưa phải là lúc tình thế nguy ngập nhất, làm một thống soái cao nhất của quân chính Hạ Châu, lúc này nhất cử nhất động của hắn đều được người ta chú ý, lúc này hắn có thể bình tĩnh như không, sẽ càng làm phát huy tác dụng an ủi lòng quân hơn.
Đối với Hạ Châu lúc này, trong lòng Dương Hạo thực ra cảm thấy rất may mắn. May mắn chính là hắn có danh tướng Dương Kế Nghiệp, Chủng Phóng, có thể phân giải nỗi lo cho hắn, may là hai năm nay hắn không tiếc sức lực mà xây dựng nội chính, tích trữ lương thực để đến mùa đông nhận được hồi báo. Sự thống trị của hắn bước đầu đã thành quy mô, cơ cấu thống trị dần thành thục hoàn thiện để khi không có vị thống soái như hắn ở đó thì Hạ Châu không biến thành rắn mất đầu, trở thành cát tản mát. Khi hắn đến phía tây tiết phủ, trong tiềm thức đã đưa mắt nhìn vào phủ môn, hắn rất muốn ngay bây giờ có thể vào sâu trong phủ để gặp ái thê ái thiếp, gặp con gái bảo bối. Cả Đông Nhi nữa, bây giờ chắc đã sinh rồi, tại sao trong quân thư lại không nhắc đến dù một chữ? Đại địch đang ở trước mắt, hắn cũng không tiện để hỏi chuyện này. Còn bây giờ văn võ thần liêu đều ở bên cạnh, đợi để hắn ra chỉ thị với cục diện Hạ Châu trước mắt, nên tuy nhà gần ngay trước mắt, mà hắn lại phải học Đại Vũ, qua cửa nhà ba lần mà không vào...
Thở nhẹ một cái, Dương Hạo lại vững tâm lên, đi thẳng tới tiết đường, phủ môn đột nhiên bước ra một đám người, Dương Hạo lập tức đứng lại, đám văn võ bá quan đi sau hắn cũng dừng bước, thì thấy Oa Oa, Diệu Diệu đi hai bên Đông Nhi, đứng thướt tha trước phủ. Ba người nước mắt thấm ướt mi, nếu như không phải phía sau hắn có rất nhiều quan lại sĩ thân thì ba người sớm đã chạy ùa tới rồi.
Dương Hạo nhìn ba người, hơi ngẩn ra. Nữ Anh có thai, tính theo thời gian thì đã phải rõ bụng, không lộ diện mới đúng, có điều... Ba người xuất hiện này... Trong tay Oa Oa dắt Tuyết Nhi, Diệu Diệu nắm tay San Nhi đang tập nói, còn Đông Nhi... Đứa trẻ sơ sinh mà Đông Nhi đang ôm trong lòng...
Dương Hạo vội tiến lên mấy bước, tới trước mặt Đông Nhi, Đông Nhi nước mắt rưng rưng, Dương Hạo chần chừ hỏi: “Đông Nhi. Đây... Đây là...”.
Tuyết Nhi đứng bên cạnh liền gọi vọng lên: “Cha, cha, Tuyết nhi rất nhớ cha, đây là đệ đệ, hi hi, mẹ đã sinh cho Tuyết Nhi một đệ đệ”.
Dương Hạo vừa ngạc nhiên vừa mừng: “Đệ đệ sao?”. Đông Nhi mỉm cười: “Quan nhân, đây là con trai chàng, vừa mới đầy tháng, thiếp biết quan nhân trọng trách đầy mình, sợ quan nhân quyến luyến vì thế đã không cho truyền tin hỉ đến cho chàng. Đứa trẻ đáng thương, đến tận hôm nay mới được gặp cha”.
Dương Hạo mừng rỡ: “Đây là con trai ta? Ha ha, ta có con trai rồi, đến đây, đến đây cho ta xem”.
Chủng Phóng ở phía sau Dương Hạo liền tiến lên hai bước, cười nói: “Thái úy thống nhất Hà Tây, là hỉ thứ nhất, lại có được giai nhi, lại là hỉ sự nữa, đúng là song hỉ lâm môn, thật đáng chúc mừng”.
Mọi người đều chắp tay cười nói: “Chúc mừng thái úy, chúc mừng thái úy”.
Dương Hạo đỡ lấy đứa con trai, nhìn đứa con trai mặc kệ mọi việc, ngủ khò khò, không khỏi vui ra mặt. Đông Nhi ngân ngấn nước mắt, lại cười nói: “Con trai vẫn chưa có tên, đang chờ quan nhân về đặt tên cho con”.
Dương Hạo quệt nhẹ cái miệng chúm chím của nó, cười toét miệng, nói: “Không cần phải nghĩ nữa, gọi là... ừm... Gọi là Dương Giai đi. Ha ha...”.
Ở phá sau, Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông nhìn nhau cười.
Dù sao công vụ cũng bận rộn, Đông Nhi và mấy người thiếp đều là những nữ tử biết nghĩ cho đại thế, tuy có nhiều điều muốn nói với lang quân, nhưng chỉ vội vàng nhìn một chút, cũng đã là an ủi lắm rồi, liền vội vã trở về phủ. Dương Hạo và thê nhi chưa nói được mấy câu, liền đi tới bạch hổ tiết đường, tạm hoãn niềm vui lại, thu lại tâm tình, ngưng thần nghe chúng tướng nói rõ tình hình trước mắt.
Đinh Thừa Tông chậm rãi nói: “Quân thư chiến báo từ Hoành Sơn đã gửi về, đang do hạ quan chỉnh lý quy nạp, tình hình trong đó Thừa Tông có thể giải thích tỉ mỉ cho thái soái. Vương Kế Ân đã dụ dỗ Xích Trung tạo phản, một tay bắt cả nhà Chiết gia, tiếp theo đó giơ cờ hiệu cứu viện bình phản, thống lĩnh năm lộ binh mã công kích những vùng hiểm yếu của Phủ Châu, cắt đứt liên lạc giữa hai châu Lân Phủ, những tình hình này thái úy đều đã biết rồi”.
Dương Hạo gật gật đầu, Đinh Thừa Tông lại nói: “Chúng ta đã chủ động tản quân trước khi Phan Mỹ tới, trở về phòng bị Hoành Sơn, làm loạn bố trí của Tống quân, cướp được tiên cơ. Sau khi Phan Mỹ đến, hai bên đã lấy phòng tuyến Hoành Sơn làm vùng tranh chấp. Ý đồ của Tống là muốn chiếm ngũ châu của ta, ép ta tiến về Hà Tây, tất cả sách lược dùng tới đều là dùng vũ lực tiến công và trói buộc. Bọn họ một mặt vừa lôi kéo tàn binh của Lý Quang Duệ ở Tuy Châu để hãm chân Ngân Châu, Hạ Châu ta, một mặt hứa phong quan với người”.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 37: Môi Thương Lưởi Tiển(1+2+3)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 37: Môi Thương Lưỡi Tiễn
Dương Hạo phất tà áo của mình, cười khổ nói: “Bây giờ, Dương Hạo vẫn mặc quan y triều đình, vẫn là tiết độ sứ Hoành Sơn, kiêm hiệu thái úy. Binh mã đại nguyên soái Lũng Hữu Hà Tây. Nhưng... Ta lại đang khai chiến với đại quân đồng triều, triều đình chỉ trích ta cấu kết Phủ Châu, nuốt các châu phủ, chúng ta đến tận bây giờ vẫn chưa chính điện ứng đối với tội đanh này. Trước đây ta chưa trở về, người của ta có thể nóng đầu mà đánh, không đi để ý tới chuyện này, nhưng bây giờ ta đã trở về Hạ Châu, phải làm thế nào để đối diện với vấn đề này đây?”.
Chúng tướng thoắt cái đã hiểu ra. Không sai, vấn đề này mới là vấn đề chúng ta cần giải quyết bây giờ, cũng là vấn đề lớn quan hệ đến mỗi một người dưới trướng của Dương Hạo. Thân phận bất chính, trận chiến này đến cuối cùng đánh cũng không minh bạch, lập trường chưa quyết chỉ có thể phòng mà không được đánh thẳng. Nếu như chủ động xuất kích, tiến vào lãnh thổ của Tống Quốc, rồi binh lực thu lại vào một góc, không thể thi triển được sức mạnh, như vậy tiên thiên của bọn họ sẽ mất đi nhân hòa, không thể ra tay được.
Lập trường! Thái úy trở về rồi, việc đầu tiên cần quyết định chính là hắn lấy thân phận gì, lập trường gì để đối mặt với hoàng đế đông kinh Biện Lương. Bọn họ không hẹn mà cùng nghĩ tới điểm lợi hại nhất: Lập trường, phải với lập trường nào?
Lòng Đinh Thừa Tông đột nhiên nóng lên, hắn thở có chút gấp gáp, căng thẳng nuốt nước bọt, vừa muốn mở miệng phá vỡ bầu yên tĩnh này, nhưng lại không dám mở mồm.
Lâm Bằng Vũ đột nhiên chưa tuyên triệu đã vội vã xông lên bát tiết đường, nói: “Đại nhân, Chiết cô nương đến rồi!”.
Trước khi Dương Hạo trở về Hạ Châu, hắn luôn suy nghĩ đến lập trường và đường ra cho tương lai, điểm này không chỉ đề cập đến phương hướng phát triển tương lai của hắn, mà còn có ý nghĩa dẫn đường hết sức to lớn đối với những trận chiến mà hắn đang tiến hành. Cho nên sau khi hắn để lại tất cả những thành viên nòng cốt của bộ máy quyền lực, liền lập tức đưa ra vấn đề này, không ngờ hắn vừa mở đầu thì Tử Du lại đến. Dương Hạo ngẩn ra một chút rồi mới phản ứng lại, vội nói: “Mau, mau mau mời vào”.
Chủng Phóng hắng nhẹ một tiếng, nhắc nhở nói: “Thái úy, nên đích thân ra ngoài nghênh đón”.
“Sao cơ? À!”. Dương Hạo đột nhiên đại ngộ, vội vàng đứng dậy.
Chủng Phóng nói không sai, bây giờ Chiết Tử Du không còn là thân phận tiểu muội của đồng minh huynh, mà là đại biểu cho thế lực Chiết gia, nhất cử nhất động đều thể hiện thái độ của Hạ Châu đối với Chiết gia, sao có thể không thận trọng.
Dương Hạo vội vã rời khỏi soái án, mang theo văn võ đích thân ra tiết đường, Chiết Tử Du đang đứng dưới bậc thang, mặc áo giáp, nàng tuy ngọc nhan có chút giảm bớt, có chút gầy, nhưng một thân võ giáp mà từ trong sự mỹ lệ lại tỏa ra mấy phần anh khí.
Dương Hạo nhìn nàng, nhất thời trăm mối cảm xúc ngổn ngang. Ngày ấy nàng giận dữ bỏ đi, Dương Hạo thật tưởng rằng cả đời này sẽ không có duyên gặp lại. Ai ngờ... Kẻ chắp duyên lại cho hắn lại là Triệu Quang Nghĩa. Nếu như không phải Triệu Quang Nghĩa tập kích lấy đi Phủ Châu, Tử Du hôm nay sao có thể ngoan ngoãn xuất hiện trước mặt hắn? Bốn mắt nhìn nhau, trong lòng có nghìn lời muốn nói mà khó thốt ra khỏi miệng.
Nghĩ đi nghĩ lại, thật không biết nên khóc hay nên cười. Ánh mắt phức tạp của Dương Hạo nhìn Chiết Tử Du nói: “Tử Du, không nghênh đón từ xa, mong tha thứ cho ta”.
Chiết Tử Du trong tay cầm một chiếc hộp cẩm, bước lên trước một bước, khom người nói: “Bảo Đức quân Chiết Tử Du diện kiến Dương đại nguyên soái”.
“Tử Du... Mau mau đứng lên”. Dương Hạo vội vã bước lên trước đỡ nàng dậy, ngón tay chạm vào cánh tay nàng, cơ thể mềm mại của Chiết Tử Du không khỏi rung lên, mắt liếc nhanh nhìn hắn, lại lập tức cúi xuống. Bước tới gần mới có thể nhìn ra sự tiều tụy mệt mỏi không thể che giấu trên khuôn mặt nàng, trong mắt Dương Hạo lộ ra sự đau xót, lại chỉ nhẹ nói một câu: “Tử Du, mau mời vào, chúng ta lên tiết đường nói chuyện”.
Cả đoàn người cùng quay trở lại bạch hổ lễ đường, Dương Hạo sai người mang ghế đến cho Chiết Tử Du ngồi, dâng trà lên. Chiết Tử Du lại không ngồi vào chỗ, chỉ đặt chiếc hộp cẩm xuống ghế, đứng trước soái án của Dương Hạo nói: “Dương thái úy, Tử Du đến đây có ba việc muốn bẩm cùng thái úy”.
Dương Hạo vừa ngồi xuống, thấy nàng không ngồi, lại đứng lên nói: “Tử Du, ngồi xuống đã rồi nói chuyện”.
Chiết Tử Du vẫn không động, nghiêm nghị nói: “Chiết gia Phủ Châu trước nay đều vinh nhục cùng thái úy, cùng tiến cùng lùi. Nay Tống đình dùng mưu, dụ dỗ phòng ngự sử Hà Lam Xích Trung phản bội huynh trưởng ta, bắt cả nhà ta, chiếm lấy Phủ Châu, quân Chiết gia đột nhiên mất căn cơ, không biết đi đâu. Tử Du và chúng tướng Chiết gia đã thương nghị, được chư tướng đồng ý, nguyện đem toàn quân Chiết gia từ đây quy phục thái úy, nghe theo sự điều khiển của thái úy, thỉnh xin thái úy ân chuẩn”.
Dương Hạo không ngờ nàng ta vừa vào đã lập tức đề cập đến vấn đề này, có chút chần chừ nói: “Thời cục biến hóa, khó có thể dự liệu, có lẽ... Chúng ta sẽ có cơ hội đoạt lại Phủ Châu, đến lúc đó...”.
Chiết Tử Du buồn bã cười, nói: “Chiết gia già trẻ đều ở trong tay Tống đình, cho dù có đoạt được Phủ Châu thì quân Chiết gia sẽ phải tiếp tục tồn tại như thế nào đây? Chiết Tử Du làm thế nào để thành kẻ địch của Tống đình? Không giấu gì thái úy, bây giờ chiến sự Hoành Sơn đang rất nguy cấp, Chiết Tử Du nay dẫn Chiến gia quân đến Hạ Châu chính là vì thân phận Chiết gia quân bây giờ bất minh, lập trường khó định, Tống triều đánh tới đã dựng cờ hiệu thu phản nghịch là huynh trưởng ta, lại ép cháu ta làm con rối, dẫn đến tam quân bị trói buộc, chiến cũng không phải và hòa cũng không được, sĩ khí giảm sút, lòng người hỗn loạn, kết quả không thể không trở thành cánh tay trợ giúp của Dương tướng quân, ngược lại còn liên lụy đến ngài ấy. Trận chiến ở Mã Hồ Dụ chính là do Chiết gia quân chần chừ xuất trận, làm lỡ chiến cơ, mất mất nơi hiểm yếu, ép Dương tướng quân phải xuất binh để thay đổi bại cục”.
Chiết Tử Du nghiêm nghị nói: “Chiết gia quân nếu không thể xóa vết tích của Chiết gia, thì không thể thi triển được gì, Thái úy xin đừng khước từ nữa. Hành động này của Tử Du chỉ là không muốn hàng vạn hảo nam tử của Phủ Châu mơ hồ mà đưa tang trên chiến trường. Thái úy là nghĩa đệ của huynh trưởng, bây giờ... Đem toàn quân Chiết gia đến nhờ cậy thái úy, Tử Du mới có thể yên tâm, bọn họ cũng coi như có một con đường sống”. Dương Hạo cười khổ nói: “Vấn đề nan giải của nàng cũng đang là vấn đề nan giải của ta... Haiz, nàng ngồi xuống trước đi, việc này...”.
Chiết Tử Du không đáp lời hắn, lại nói tiếp chuyện mình: “Thái úy, Tử Du còn có một chuyện nữa, bây giờ chiến sự Hoành Sơn khẩn cấp, Chiết gia quân lại đang bị tiêu diệt dần ở chiến trường, thỉnh thái úy sớm cho viện binh”.
Dương Hạo vội nói: “Việc này không cần lo lắng, bổn soái đã phái bốn vạn binh tới Hoành Sơn, nằm dưới sự điều khiển của Dương Kế Quân, thống nhất bổ trụ ứng đối với cường địch, bản soái còn muốn đích thân thống binh tới Hoành Sơn”.
Chiết Tử Du nói: “Như vậy thì tốt, Tử Du muốn bẩm với thái úy chuyện thứ hai, chính là khi ta dẫn quân từ Hoành Sơn lui về đúng lúc gặp một lộ loạn quân đi tới Hoành Sơn, thấy cờ hiệu và áo giáp của bọn họ không giống binh mã thái úy, Tử Du đã thống binh ngăn cản, truy hỏi rõ ràng thân phận lộ quân đó, bọn họ lập tức động thủ. Hai bên ác chiến một trận, lộ quân đó không địch nổi nên đã tháo chạy về hướng đông nam.
Ngay lúc đó thì hai vị tướng quân Trương Sùng Nguy, Lý Kế Đàm cũng dẫn quân đuổi tới, Tử Du mới biết lộ bại quân đó chính là liên quân của Lý Phi Thọ Tuy Châu và Dạ Lạc Hột Cam Châu. Tử Du lập tức phái Trình Thế Hùng cùng hai vị tướng Trương, Lý truy sát chúng. Hai tướng quân Trương, Lý biết ta đã về Hạ Châu, cho nên nhờ ta mang quân tình bẩm báo với thái úy và Chủng đại nhân”.
Dương Hạo nghe thế liền vui mừng ra mặt, mấy người Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông nghe thấy cũng thở phào nhẹ nhõm. Cho dù bọn họ đã sắp xếp tốt nhất rồi, nhưng bọn họ vẫn lo Dạ Lạc Hột và Lý Phi Thọ vạn nhất thoát được truy binh, chạy tới tấn công Hoành Sơn trước, tạo nên tổn thất không cần thiết cho chiến cục Hoành Sơn. Cũng may, đôi nạn huynh nạn đệ đó làm thế nào cũng không ngờ rằng lại có một lộ quân từ Hoành Sơn chiến sự khẩn cấp mà chạy lại. Bây giờ có Trình Thế Hùng và Trương Sùng Nguy, Lý Kế Đàm mang ba lộ đại quân truy đuổi, đôi kiêu hùng cùng đường này không thể làm ra trò gì nữa.
Mọi người đang vui vẻ bàn luận, Chiết Tử Du đã dâng chiếc hộp cẩm lên, đôi mắt hơi lộ ra sự quan tâm, nhẹ giọng hỏi: “Thái úy, không biết thuộc hạ của Phi Vũ, có một vị Giả công tử Giả Đại Dong, cậu ta... Đã bình yên trở về bên cạnh thái úy chưa?”.
Dương Hạo biết người nàng nói một ai, không ngờ với sự tinh minh của nàng mà đến bây giờ vẫn chưa nhìn ra Trúc Vận là con gái, trong lòng không khỏi có chút buồn cười, nhưng khi nhìn thấy chiếc hộp trong tay nàng, thần sắc có chút ngưng trọng lại, vội hỏi: “Giả Đại Dong đã bình yên trở về, hôm đó hắn đã dẫn dụ một lộ người Thổ Phồn về hướng tây, đến gần hồ Thanh Hải mới thoát được quân địch, rồi vượt Đại Tuyết sơn đến Hà Tây, khi đó bản soái đang dẫn binh tây chinh Qua Châu thì gặp hắn ở đó”.
Chiết Tử Du vui vẻ nói: “Giả công tử bình yên vô sự là tốt rồi, còn về nguyên nhân và kết quả của nó chắc thái úy cũng đã biết, vật này là Giả công tử nhờ ta bảo quản mang về, không ngờ Phủ Châu lại kinh biến, đến tận hôm nay... Tử Du mới có thể hoàn thành lời hứa”.
Chiết Tử Du nói xong liền cầm chiếc hộp đưa tới trước mặt Dương Hạo, Dương Hạo vội đưa hai tay tới nhận, nhẹ nhàng đặt lên án, nhìn chiếc hộp, mắt lóe lên tia dị sắc.
Hòa Thị Bích, ngọc tỷ truyền quốc, bất kể là tên gì thì đều là truyền kỳ, thứ này từ Xuân Thu chiến quốc tới nay có biết bao nhiêu triều hưng triều tàn, biết bao nhiêu đế vương tướng quân, bất kể là hiền hay hôn, bất kể là thiên cổ nhất đế hay là vong quốc chi quân thì đều xoay xung quanh cái ngọc tỷ be bé này đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện...
Nhưng rất kỳ quái, khi nó được đặt trước mặt thì Dương Hạo chỉ còn một chút hiếu kỳ với thứ bảo vật này, lại không có sự hoảng sợ hay vui mừng quá mức như khi bảo vật được lọt vào tay.
Đinh Thừa Tông thấy Dương Hạo vẫn bình thản, không nhịn được mà nhẹ nhàng nhắc nhở: “Thái úy...”.
“Ờ...”. Dương Hạo tỉnh ra, đặt chiếc hộp xuống, nói: “Bản soái đang thảo luận đại sự, Ngũ công tử tới thật đúng lúc. Mời ngồi, chúng ta cùng bàn bạc”.
“Thuộc hạ tuân mệnh!”. Dương Hạo nói khách khí, Chiết Tử Du lại cố chấp dùng lễ thuộc hạ, Dương Hạo chỉ có thể bất đắc dĩ nhìn nàng, trong mắt đầy sự u oán, Chiết Tử Du cũng không tiếp nhận ý tốt, mắt không thèm liếc hắn mà ngồi xuống ghế.
Dương Hạo thở dài, chậm rãi ngồi xuống ghế tiết soái, mắt đưa lướt nhìn một lượt chúng quan văn võ, cao giọng nói: “Việc vừa nãy ta nói là việc trọng đại, thỉnh chư vị cho ý kiến, bản soái xin lắng nghe”.
Lâm Bằng Vũ mặt mày đỏ lên, khảng khái nói: “Lão hủ cho rằng thái úy nên phản lại Tống triều. Bây giờ trên danh nghĩa thái úy là Tống thần, nhưng thái úy sớm đã không phải là tri phủ Lô Châu mà triều đình đã ban cho, dân này là do một tạy thái úy mang về, binh này là được kế thừa từ Lý Quang sầm đại nhân, trên đầu thái úy tuy không có vương miện, nhưng thực thế là một ông vua không ngai, nếu đã như vậy sao không cầu một cái tên đanh chính ngôn thuận?”.
Lão Lâm là thúc nho Hán quốc, từ khi theo Dương Hạo mới tráng trí đắc thân, càng làm chức quan càng lớn, bây giờ thấy Dương Hạo có cơ hội xưng đế lập quốc, đó là công rất lớn. Những năm cuối đời ông ta có thể phụ tá một vị hoàng đế, xây dựng công nghiệp nhất thế! Nhất thời Lâm Bằng Vũ giống như uống phải một bình rượu nặng, tinh thần phiêu phiêu, huyết sôi trào, lập tức mở miệng bày tỏ thái độ ủng hộ.
“Với thân phận của thái úy bây giờ thì đó là lấy thần kháng quân, là đạo thần thì danh không chính ngôn không thuận, đi đâu cũng bị trói buộc, chư bộ Tây Vực và những người xung quanh quan sát, muốn cầu cứu ngoại viện, với thân phận thần tử Tống quốc thì còn có thể kết đồng minh với người nào? Chi bằng xưng đế kiến chế, đến lúc đó liên Liêu kháng Tống, tự lập Tây Vực. Huống hồ, bây giờ đao người Tống đã kề vào cổ chúng ta, tình nghĩa quân thần sớm đã cắt đứt, lúc này còn đợi gì nữa?”.
Phạm Tư Kỳ phản bác nói: “Lâm lão, ta cho rằng nguy cơ trước mắt của Hạ Châu chưa chắc đã cần xưng đế mới có thể giải quyết. Tội đanh mà triều đình gán cho thái úy là câu kết phản tướng Xích Trung mưu đồ Phủ Châu, vì thế mới hưng binh thao phạt. Nếu như chúng ta bây giờ lại phản thì chẳng phải là trúng kế của Tống triều hay sao? Thái úy đến Lô Châu, sau đó nhận được di chiếu thành nguyên soái, trong mắt mọi người trong thiên hạ này đây đều là sự trợ giúp của triều đình, bây giờ chúng ta như chim mọc cánh nên phản lại. Cho dù triều đình có chỗ nào không phải với chúng ta thì sao chứ? Cái mà người ta gọi là lôi đình vũ lộ chính là quân ân. Ân điển triều đình lớn như thế, chúng ta lại không có lý do đầy đủ, sao có thể đứng thẳng mà phản được?
Hơn nữa, Triệu Quang Nghĩa tuy không bằng với huynh của hắn, nhưng về mặt bình chính trị quốc cũng không phải là hôn quân vô đạo. Hiện nay Tống Quốc cũng được coi là quốc thái dân an, bây giờ bỏ Tống xưng đế, không hợp lòng dân, nghìn người sẽ chỉ trích. Việc liên Liêu kháng Tống mà ngài vừa nói cũng có chút bất ổn, bây giờ thái độ của Liêu Quốc là càng vội vã xưng đế. Vạn nhất cô nhi quả mẫu Liêu Quốc đó không tự lo cho mình, thì đến lúc đó ai sẽ giúp chúng ta?”.
Đinh Thừa Tông nghe rồi có chút thiếu kiên nhẫn, liền nói: “Những lời Phạm đại nhân vừa nói chẳng qua là lo xưng đế lập quốc sẽ không được lòng người Tống mà thôi. Ha ha, cho dù chúng ta bây giờ một mực nhường nhịn, hiếu trung với Tống, thì có thể được lòng dân Tống sao? Sẽ không, vĩnh viễn sẽ không, có những lúc lòng dân phải tranh mà lấy, có những lúc phải đánh mà lấy.
Chúng ta bây giờ xưng thần cúi đầu, thì có thể tránh được đao binh của người Tống sao? Những gì chúng ta đang làm bây giờ có gì khác với tự mình giữ lấy một phương, tự lập một quốc chứ? Hiện nay, chư châu Hà Tây đã vào tay chúng ta, địa vực rộng lớn, con dân trăm vạn, đã có căn cơ để lập quốc, không lập quốc xưng đế thì đối với tình hình bây giờ của chúng ta mà nói hoàn toàn không có trợ lực gì. Nhưng nếu như xưng đế thì đương nhiên không giống nữa, quân đội sẽ hiểu được họ vì ai mà chiến, vì cái gì mà chiến, lòng dân cũng thuận, lúc này xưng đế đúng là thời điểm tốt”.
Lô Vũ Hiên và Lâm Bằng Vũ vốn là tri giao hảo hữu, lúc này lại đứng về phía của Phạm Tư Kỳ. Thực ra hắn sớm đã nhìn ra, với sự phát triển như thế này của Dương Hạo thì sớm muộn cũng sẽ đi lên con đường tự lập xưng đế. Nhưng hắn suy đi tính lại, lại không cho rằng đây là thời điểm tốt để kiến quốc xưng đế, cho nên liền thận trọng nói: “Các vị đại nhân, thái úy bây giờ là chủ của Hà Tây, có hay không có đế hiệu đều không thay đổi được sự thật này. Với tình hình trước mắt, chúng ta không lập quốc xưng đế chưa chắc đã không thể thương lượng bãi chiến với Tống, nhưng nếu vì một cái hư danh mà lại làm cho Tống Quốc đưa đại quân đến áp cảnh, hà tất phải làm như thế?”.
“Hư danh? Ha ha, đây chỉ là một cái hư danh thôi sao?”. Chiết Tử Du cười nhạt, từ từ đứng lên. Nàng ta thật không ngờ, vừa đi tới Hạ Châu lại được tham đự luôn một hội nghị quan trọng như thế này. Khi nàng lấy thân phận là người nắm quyền Chiết gia, hiến binh quy phục Dương Hạo, trong lòng rất oán trách. Cho dù trên danh nghĩa nàng hiến binh quy phục để cho Chiết gia một con đường sống, nhưng nếu đã đưa tất cả binh tướng Chiết gia cho hắn thì đương nhiên có ý nhờ cậy, hy vọng hắn có thể lộ diện thay mình, báo thù cho Chiết gia. Đây không chỉ là thỉnh cầu chính đáng của Chiết gia quân, mà cũng là vì nàng, một nữ nhi. Khi bị người ta ức hiếp, tự trong tiềm thức sẽ hy vọng người đàn ông của mình sẽ vì mình mà ra mặt.
Nhưng cái tên đàn ông thối trùy đâm cũng không chảy máu này lại cứ chần chừ, Chiết Tử Du rất hy vọng hắn có thể đứng lên vỗ ngực, hào khí phiêu vân mà đồng ý gánh vác tránh nhiệm này của nàng. Cho dù trong lòng nàng luôn ghét nhất những tên thất phu luôn nói lời hứa hẹn tùy tiện, hành động lỗ mãng, luôn tán thưởng những nam tử suy tính trước hành động sau, Thái Sơn có sập cũng không biến sắc. Nhưng bây giờ gánh nặng trên vai nàng đã làm nàng quá mệt mỏi rồi, chỉ mong người trong lòng mình chỉ là Sở Bá Vương máu huyết hừng hực, ít nhất có thể từ trong lời nói hào sảng nghĩa khí của hắn mà nhận được phần nào sự an ủi.
Nhưng Dương Hạo lại không nói gì cả, với tình hình trước mắt của Chiết gia quân, người thì ở địa bàn người ta, ăn lương thực của người ta, nào có lý do gì mà yêu cầu người ta phải làm gì đó rồi mới quy phục? Chiết Tử Du đang nản lòng, lại không ngờ Dương Hạo không nói nửa câu nhìn văn võ dưới trướng bàn nghị đến việc lập quốc xưng đế, thật sự không lên tiếng thì thôi, chứ lên tiếng một cái là đều làm mọi người phải kinh ngạc, lòng của Chiết Tử Du cũng nóng lên rồi.
Chiết Tử Du bước tới chính giữa tiết đường, đối mặt với Lô Vũ Hiên, trầm giọng hỏi: “Vị đại nhân này, ngài nói không sai. Thái úy kể thừa y bát của Lý Quang sầm đại nhân, bây giờ nắm giữ Hà Tây, tự chinh bộ khúc, tự nạp thuế, tự phong quan lại, nghiễm nhiên là một nước, là một đế. Mặc dù lúc này lập quốc xưng đế, ngoài việc thay đổi niên hiệu, đem tiết phù đổi thành hoàng cung, bỏ áo quan thay kim bào ngũ trảo ra thì không có gì thay đổi, cương vực sẽ không vì thế mà rộng ra, con dân không vì thế mà gia tăng. Nhưng... Xưng đế thật sự chỉ là hư danh thôi sao?”.
Lô Vũ Hiên biết được thân phận nàng, nhưng lại không dám vì nàng là một thiếu nữ mà lộ ra vẻ khinh khi, liền nói: “Không có chút trợ giúp nào, lẽ nào còn không phải là hư danh sao?”.
Chiết Tử Du ung dung nói: “Nó là cái danh, không sai, nhưng không phải là hư danh. Nếu như nó chỉ là cái hư danh, vậy Tống quốc phải quản xem chúng ta có xưng đế hay không sao. Chúng ta hà tất phải quan tâm vì thế mà dẫn đến công kích không ngừng của Tống Quốc nữa?”.
“Việc này...”.
“Không có cái danh này, khi thái úy đối mặt với những bước tiến áp sát của Tống quốc, lại không có lập trường và thân phận rõ ràng, thì phải chế định ra phương châm đại lược đối địch như thế nào đây? Không có cái danh này, thái úy chinh phạt Hà Tây, đóng binh ở Ngọc Môn Quan, học theo Xương quốc, kiến nha lập phủ, thống trị trăm vạn người, hợp các tộc Tây Vực, từ đầu đến cuối mang cờ hiệu Tống Quốc mới có thể xuất sư hữu danh, còn Tống bây giờ cáo buộc thái úy mang tội phản nghịch, thái úy phải tự xử như thế nào? Từ giờ về sau phải lấy nghĩa hiệu như thế nào để thì lệnh?”.
“Việc này...”.
Chiết Tử Du hùng hổ hăm dọa nói: “Tất cả những điều này chính là vì không có cái danh, cho dù có đủ thực lực, nhưng danh không chính, ngôn không thuận, thì cho dù cái danh này không quan trọng, thì tam hầu Hàn, Triệu, Ngụy phân Tấn, địa vị binh quyền của họ không hề kém quân vương, hà tất còn phải hao tổn tâm trí tìm cách lấy được cái danh hiệu chư hầu chính thức từ Chu thiên tử chứ? Nếu như cái danh này không quan trọng thì Vũ Đăng với sự tôn quý là thiên hậu Đại Đường, sớm đã cùng làm đế vương, hà tất phải tự lập làm đế?”.
Chiết Tử Du lướt mắt qua mọi người, không khách khí nói với Lô Vũ Hiên: “Xưng đế, tuyệt đối không chỉ là vấn đề danh hiệu. Lão đại nhân, cái thứ sau lưng danh hiệu xưng đế này, một chút ngài cũng không nhìn ra”.
“Hay!”.
Đinh Thừa Tông vô tình không để ý thấy Lâm lão đầu mặt đỏ tía tai, lại chọc thêm một cú, kêu hay: “Những lời Chiết cô nương nói rất có lý, Định Nan ngũ châu là Đại Đường ban cho Thác Bạt gia, là được Thác Bạt Lý Quang Sầm đại nhân truyền cho nghĩa tử, thái úy của chúng ta có quan hệ gì với Triệu gia chứ? Khi Đường lập, Hà Tây xưng thần với Đường, khi Lương lập, Hà Tây xưng thần với Lương, khi Tấn lập, Hà Tây xưng thần với Tấn, khi Hán Lập, Hà Tây xưng thần với Hán... Tất cả đều tụ cư ở đất mình, tự chinh bộ khúc, tự nạp thuế, tự phong quan lại, duy chỉ xưng thần cống nạp, lấy Trung Nguyên làm tôn.
Tống Quốc bây giờ Triệu Đại trước đại điện mặc áo bào, lại tưởng rằng do Sài thị truyền lại cho sao? Ha ha, hắn ức hiếp cô nhi quả mẫu Sài thị, dùng vũ lực soán ngôi nước đó, tiếp theo đó lại diệt Vũ Bình, diệt Thục, diệt Nam Hán, diệt Đường, diệt Bắc Hán, nuốt Ngô Việt, mắt lại luôn chằm chằm nhìn nhăm nhe về Khiết Đan, dã tâm chưa bao giờ dừng. Còn bây giờ, Triệu Quỳnh lại tự hủy đi lời hứa với lệnh tôn Chiết cô nương, âm mưu hưng binh, nhằm đoạt Phủ Châu, lại mưu đồ Hạ Châu ta, muốn đoạt lấy hết đất Hà Tây này, đây chính là người tự nhận mình thiên tử thiên triều chính tông! Hừ!”.
Đinh Thừa Tông hưng phấn, lớn tiếng nói: “Còn bây giờ, thái úy nắm giữ Định Nan, còn tôn quý hơn mấy trăm lần cái chức mà trước đây triều đình đã ban. Hành lang Hà Tây đã được nhất thống, người được lợi lẽ nào chỉ là bách tính Hà Tây ta sao? Khi Tống phạt Bắc Hán, thái úy ta chưa nghe thấy họ muốn tương trợ sao? Thứ mà cung thuận đổi lại chính là kết cục này, nhẫn nhịn chính là đổi lấy đã tâm càng lớn của bọn họ, chúng ta còn phải nhường đến bao giờ nữa? Lùi đi đâu nữa?”.
Giọng nói rất có sức vang cả đại đường, Dương Hạo lại chỉ hơi nhíu mày, hắn muốn nghe ý kiến của chúng văn võ, chủ yếu là có hai nguyên nhân. Thứ nhất, hắn đã nghĩ tới cách giải quyết tốt nhất hoàn cảnh khó xử này của mình, chính là tự lập kiến quốc, nhưng muốn tự lập, Tống Quốc tuyệt đối không chấp nhận, tất sẽ hạ quyết tâm nhất chiến với Hà Tây, cái lợi cái hại trong đó quả thật khó đoán được. Thứ hai, nếu như muốn làm đại sự này, hắn tất phải biết thủ hạ có ủng hộ hay không.
Võ tướng của hắn bây giờ đa phần đều cắm chốt ngoài, có điều đối với bọn họ, Dương Hạo lại không quá lo lắng, đám võ tướng mở rộng tác chiến đa phần đều có thái độ cuồng nhiệt, cũng sẽ không suy nghĩ nhiều đến lợi hại. Còn trong đám võ tướng trọng yếu thì Trương Phổ vốn có hùng tâm, mong hắn có thể lập quốc xưng đế. Còn Dương Kế Nghiệp lại như thuộc mệnh lạc đà, chịu được vất vả lao lực, cộng thêm chủ cũ của hắn chết trong tay Tống quốc, cho nên thái độ của hắn cũng không cần phải lo.
Điều Dương Hạo chủ yếu lo lắng chính là hệ thống văn quan của hắn có thái độ như thế nào. Bọn họ chưa chắc đã sợ Tống Quốc, nhưng bọn họ lại suy nghĩ kỹ càng đến sự toàn diện của vấn đề, suy nghĩ nhiều hơn đến các phương diện khác như kinh tế, dân chính, quan hệ bên ngoài, lợi ích chính trị cho nên càng có giá trị tham khảo. Nếu như bọn họ suy nghĩ trùng trùng, tự tin lập quốc xưng đế chưa đủ thì rất rõ ràng, thời cơ bây giờ chưa chín muồi.
Bây giờ xem ra, ý kiến của đám văn thần không đồng nhất với nhau. Nghĩ đến đây, ánh mắt Dương Hạo bất giác quay sang nhìn Chủng Phóng, ông ta một lời cũng chưa nói.
Chủng Phóng thấy hắn nhìn mình, liền bước lên một bước, hạ thấp người nói: “Hạ quan cho rằng bây giờ không nên xưng đế”.
“Sao cơ?”. Dương Hạo giật giật lông mày, không động thanh sắc nói: “Có thể nói rõ không”.
Chủng Phóng nói: “Từ cổ đến nay, có thể trừ hại cho dân, đó là phúc của dân. Thái úy độc lĩnh Hà Tây, công đức không sao nói hết, ứng thiên thuận dân, nghiễm nhiên là chủ của Hà Tây. Nếu như xưng đế, hạ quan cho rằng nội bộ Hà Tây sẽ không gặp phải sự cản trở gì, cho nên hạ quan không phản đối xưng đế, nhưng là nói bây giờ không nên xưng đế.
Nguyên nhân là gì? Thứ nhất, lúc này xưng đế sẽ ngồi vào vũng nước bẩn mà triều đình đã đổ ra, làm thế nào cũng không thể biện bạch được, rồi để cho thiên cổ chửi rủa.
Thứ hai, thời vận vẫn chưa đủ, chư tộc Hà Tây vừa mới bình định, chư tộc hỗn tạp như lửa với nước, lại có rất nhiều cường tông đại tính, khó dung hòa được với nhau, căn cơ của thái úy vẫn chưa ổn định, nếu như Tống quốc liên lạc từ Lũng Hữu với bọn họ, lấy uy ép buộc, lấy lợi mê hoặc, còn đại quân của thái úy lại bị kèm chặt ở đông thành, Hà Tây có được lại mất đi, không phải không có khả năng.
Thứ ba, Tây Bắc địa tuy rộng lớn nhưng kinh doanh buôn bán, tiền tài lại eo hẹp, cộng thêm chiến sự nhiều năm, phủ khố trống rỗng, từ khi thái úy nắm giữ Định Nan tới nay chỉ cố gắng tích trữ hai năm, lần này tây chinh cũng đã tiêu hao hơn nửa, nếu như xưng đế, Tống tất sẽ không tiếc sức mà chiến, đến lúc đó chúng ta có thể chống đỡ được bao lâu?
Thứ tư, thái uy bây giờ tuy binh mã nhiều, nhưng đa phần là mới quy thuận, binh chưa quy tâm, tướng chưa hiếu trung, chỉ thần phục tùng mệnh trước uy quyền của thái úy mà thôi. Nếu như chiến với Tống Quốc, thắng thì không sao, một khi thất bại thì những binh mã đó tất sẽ dẫn quân tháo chạy, lúc đó phải làm sao?”.
Chủng Phóng nói đến đây, cả tiết phòng đều đã im lặng, Chủng Phóng nhìn Đinh Thừa Tông và Chiết Tử Du, lời nói sâu xa: “Tranh giành thiên hạ, thực lực phải là gốc, cái gì được gọi là thực lực? Thứ nhất, dân cư đông đúc, dân sinh trù phú, điền nghiệp chăn nuôi hưng vượng. Thứ hai, ngũ cốc dồi dào, phủ khố tràn đầy, tiền tài lương thực có thể gánh được sự tiêu hao do thiên tai chiến họa. Thứ ba, mọi người đồng lòng, trên dưới nhất trí. Thứ tư, lại chính thanh minh, kỷ cương nghiêm mật. Thứ năm, binh cường mã tráng, mưu thần đông đúc, lương tướng như mây. Chúng ta bây giờ cụ thể có những điều kiện nào? Chư vị, dục tốc bất đạt”.
Đinh Thừa Tông tuy lòng đầy nhiệt thành nhưng chỉ là hy vọng huynh đệ mình thành đại nghiệp, bây giờ Chủng Phóng lại dội một gáo nước lạnh, làm hắn dần bình tĩnh lại, những võ tướng bên cạnh cũng mở to mắt ra, không nói câu nào, bọn họ chỉ muốn chờ kết quả mà thôi.
Chiết Tử Du ngẩng đầu lên nói: “Đại nhân, những điều ngài nói Tử Du hiểu, nhưng nếu như không xưng đế chính danh, thế phải ứng phó như thế nào với vấn đề nan giải trước mắt đây?”.
Đôi lông mày của Chủng Phóng hơi nhíu lên, thở dài nói: “Thái úy lệnh cho ti chức nghị luận được mất của việc quốc xưng đế, hạ quan chỉ nói ý kiến của mình, còn vấn đề nan giải trước mắt... Haizzz! Nếu không xưng đế, hạ quan cũng không nghĩ ra nên giải quyết như thế nào”.
Chiết Tử Du tinh thần rung lên, tiếp lời: “Nếu như vậy, xưng đế sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nhưng không xưng đế thì Tống Quốc vẫn sẽ đánh, lẽ nào chúng ta còn có thể tránh được những khó khăn này sao? Trên thế gian này, có vị hoàng đế khai quốc nào mà không phải vượt qua trăm nghìn gian khổ chứ? Vừa muốn ngựa chạy, lại muốn ngựa không ăn cỏ, trên đời này làm gì có chuyện tốt như thế? Có tính toán mà không đảm đương, cái ghế cửu ngũ chí tôn này vốn là của mình thì cũng sẽ không chạy thoát được, cho nên tại hạ cho rằng với mớ loạn trước mắt này phải dùng một đao chém nhanh một phát, đó chính là lập quốc xưng đế!”.
Chiết Tử Du nói xong, vô thức mà nhìn Dương Hạo. Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông và tất cả văn võ bá quan trọng phòng đều không hẹn mà cùng nhìn về phía hắn. Bất kể ý kiến của mọi người như thế nào, nói ra bao nhiêu đạo lý thì tiếng chuông cuối cùng vẫn là do Dương thái úy đang ngồi trên bạch hổ đồ đánh.
Dương thái úy vỗ nhẹ chiếc hộp, mặt mày trầm xuống, đôi mắt quét qua chiếc án, ánh mắt lóe lên không thôi, hình như hoàn toàn không chú ý rằng tranh luận của mọi người đã đến hồi kết thúc.
“Cái tên chết tiệt này, vẫn cái bộ đạng chết tiệt đó!”.
Chiết Tử Du thấy thế không khỏi bực mình, nàng nghiến răng lại, mắt liếc lên, lại muốn gọi hắn, lại thấy Dương Hạo vỗ tay ba cái xuống chiếc hộp, nhưng lại yên lặng lại một lúc, rồi đột nhiên đứng lên, mở miệng nói: “Chư vị...”.
Dương Hạo đứng dậy, tất cả mọi người đều nhìn về phía hắn, hơi thở lập tức nặng nề, một lời của đế vương có thể làm cả thiên hạ hưng vong, quyết định hàng vạn sinh tử.
Bây giờ, tương lai của Hà Tây, tương lai của những người đang ở trước mặt nào chẳng phải đều được quyết định bởi con người đang đứng oai nghiêm trước bức “Mãnh hổ hạ sơn” này sao? Ngay cả Chiết Tử Du cũng nhìn chăm chú không rời mắt, trái tim thì như con nai đang chạy loạn. Hắn... Sẽ lựa chọn như thế nào?
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 38: Chỉ Điểm Giang Sơn(1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 38: Chỉ Điểm Giang Sơn
Dương Hạo đứng nghiêm nghị, trầm giọng nói: “Những ý kiến vừa rồi của chư vị, những lợi hại được mất trong đó bản soái cũng hiểu, trong lòng bản soái đã có tính toán, duy chỉ vì chuyện này quá trọng đại, lại có rất nhiều tình tiết trong đó còn cần phải xác định rõ. Tiết độ lưu hậu Đinh đại nhân, tiết độ phó sứ Chủng đại nhân, Tử Du cô nương, mọi người ở lại, trong lòng bản soái còn có chút nghi vấn, muốn bàn bạc với mọi người. Những người còn lại hãy về bổn ti của mình để xử lý quân chính, ba ngày sau bản soái sẽ nói cho mọi người quyết định cuối cùng”.
“Còn phải đợi ba ngày nữa...?”. Mọi người nghe xong mặt liền hiện lên khổ sắc, nhưng Dương Hạo đã hạ lệnh, mọi người sao có thể không tuân? Nếu như hắn thật sự xưng đế thì đây chính là kim khẩu ngọc ngôn, chống đối lại quân ngôn há chẳng phải để lại ẩn tượng xấu cho hoàng đế sao? Chúng tướng đành phải lần lượt lui ra ngoài.
Đợi khi tiết đường chỉ còn lại Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông và Chiết Tử Du. Đinh Thừa Tông không kìm chế được mà hỏi: “Không biết rốt cuộc thái úy quyết định như thế nào, bây giờ có thể nói không?”.
Dương Hạo buông vai xuống, mỉm cười nói: “Hôm nay ta trở về, trong phủ tất có chuẩn bị rượu tiệc. Oa Nhi và Diệu Diệu là những đầu bếp tài giỏi, bụng ta cảm thấy đói rồi, chúng ta chi bằng cùng đi dự tiệc, thường thức món ngon, trong tiệc chúng ta nói rõ cũng không muộn”.
Nhìn cái điệu cười như thiên quan ban phúc của Dương Hạo, nghe hắn trả lời úp mở, mười đầu ngón chân của Chiết Tử Du lập tức ngo ngoe muốn động, đột nhiên lại tiếp xúc thân mật một cái vào mông Dương Hạo: “Đây đúng là hoàng đế không vội thái giám vội, mọi người hợp sức hợp lực, suy đi tính lại chẳng phải vì hắn sao, hắn thì tốt rồi, lại có thể trầm tĩnh như thế!”.
Nhưng bây giờ Dương Hạo có thân phận gì chứ? Mông lão hổ không thể sờ, mông của Dương Hạo phải sờ thế nào đây. Cho dù Dương lão hổ không ngại Chiết đại tiểu thư vô lễ dùng chân hôn vào mông, nhưng hai vị liêu thục đều đang đứng ở bên cạnh, hai người đều là những nhân vật coi trọng tôn ti trên dưới, trật tự đâu vào đấy, bọn họ tuyệt đối sẽ không thuận mắt.
Chiết Tử Du đành phải nuốt cơn giận, chất vấn nói: “Thái úy, nghị luận hôm nay rất trọng đại, thành hay không thành đều nên sớm đưa ra quyết định, thái úy sao lại có thể thản nhiên như thế?”.
Đinh Thừa Tông dù sao cũng là huynh đệ nhiều năm của Dương Hạo, đối với tính tình của hắn càng hiểu hơn. Vừa thấy dáng vẻ bình tĩnh của hắn, liền nhận thức được rằng trong lòng Dương Hạo e là không chỉ nghĩ tới vấn đề xưng đế. Chúng tướng nghị luận tất nhiên sẽ động tới linh cơ của hắn, làm cho hắn có suy nghĩ khác. Nhìn nụ cười bình thản mang chút ác ý, hắn bất giác nhớ tới chuyện Dương Hạo đã dùng mực của con mực để tính kế làm đại trưởng quầy hiệu cầm đồ, lần này không biết hắn lại nghĩ ra chủ ý gì nữa?
Đinh Thừa Tông cũng hận không thể lập tức biết được trong lòng Dương Hạo đang nghĩ gì. Có điều nếu như ngoài cách xưng đế mà Dương Hạo có dự tính khác thì hai ba câu e rằng không thể nói rõ. Dù sao hắn cũng để lại ba người, như vậy ba người này chính là người có đủ tư cách tham dự vào quyết sách cuối cùng của hắn, vì thế cũng không nóng lòng nhất thời nữa, liền nói: “Được, vậy ta và Chủng đại nhân về trước thay bào phục rồi lại đến tiết phủ diện kiến thái úy”.
Hai người họ vẫn đang mặc quan bào, đội mũ quan, với dáng vẻ này thì đương nhiên không thể đi dự tiệc, hai người liền xin cáo từ. Dương Hạo thấy hai người đã đi khỏi tiết đường, mới từ từ bước tới bên cạnh Chiết Tử Du, nhẹ giọng trách: “Nàng vốn không phải có tính cách như thế, sao vừa mới bị người ta kích một cái là đã bỏ nhà ra đi vậy? Hại mọi người hoảng loạn, làm ta lo lắng rất nhiều”.
Chiết Tử Du hơi cụp mắt xuống, nói: “Thái úy, những chuyện riêng tư này, ta không muốn nhắc đến nữa”.
Dương Hạo thở dài, bất đắc dĩ nói: “Thôi vậy, nếu như lúc đầu nàng không đi thì bây giờ e là đã bị triều đình bắt đi rồi, đây cũng coi như là trong họa có phúc. Nếu thật sự nàng bị bắt đi thì ta bây giờ tất sẽ đại loạn, không phản cũng phải phản”.
Chiết Tử Du hơi đưa mắt lên, đôi mắt trong suốt như nước suối nhìn hắn, hỏi lại: “Ngài bây giờ đã không còn là một khâm sai phó sứ, không có gì phải lo lắng, còn ta bây giờ chỉ là một tiểu nữ xấu tính, không biết tốt xấu, cũng không cần người ta thích, ngài sẽ làm thế sao?”. Dương Hạo nói: “Thề non hẹn biển, ta há mồm là có thể nói ra, nàng tin không?”.
Chiết Tử Du tức giận nói: “Ta chỉ hỏi ngài tình thế Hà Tây, giải quyết như thế nào, nguy cơ của Chiết gia phải xử lý như thế nào, còn chuyện riêng tư ta không muốn nhắc đến”.
“Sao cơ?”. Dương Hạo xoa xoa mũi, mặt tỏ ra vô tội nói: “Hóa ra Dương Hạo có vì một tiểu nữ tử xấu tính, không biết tốt xấu, cũng không cần người ta thích mà phản Tống hay không lại có quan hệ đến tình thế Hà Tây và an nguy của đồng minh sao, thật là huyền diệu, ta vẫn chưa nhìn ra được, thỉnh Chiết cô nương chỉ giáo”.
Chiết Tử Du vô cùng tức giận, lập tức cất bước đi, Dương Hạo liền kéo lại nói: “Nàng vốn càng gặp đại sự càng bình tĩnh thông minh, bây giờ sao lại không thể trầm tĩnh được vậy. Buổi nghị luận hôm nay nếu như bất cẩn thì sẽ có kết cục thảm thương, ta sao có thể không suy nghĩ cho kỹ được? Tử Du, nàng hãy theo ta về phủ đã, không thể mặc một bộ áo giáp đi dự tiệc được. Ta biết nàng thích mặc đồ thanh nhã, ở chỗ Đông Nhi có mấy bộ cũng hợp với người nàng...”.
Chiết Tử Du bắt đầu nôn nóng, dừng bước nói: “Người xuất gia là Bích Túc, không phải là ngài, sao bây giờ ngài lại còn biết niệm kinh hơn cả hắn, nhiều lời. Uống rượu, uống rượu gì chứ, ta bây giờ đâu có tâm trí nào mà uống rượu, ta bây giờ chỉ muốn biết cái ngôi hoàng đế này, ngài rốt cuộc có xưng không, trận chiến này ngài rốt cuộc có đánh không?”.
Dương Hạo cười khổ nói: “Cho dù bây giờ ta có nói cho nàng biết thì lẽ nào có thể lập tức hành động sao? Trận cần đánh, cơm cần ăn, ngày cũng cần qua”.
Trong lòng Chiết Tử Du trào lên một trận đắng chát: “Ngài thì có thể qua ngày của ngài, nhưng ta còn có ngày để qua sao. Phủ Châu không còn nữa, Chiết gia không còn nữa, tất cả đều bị cầm tù ta... Ta...”.
Chiết Tử Du vốn ý trí kiên cường lại rất giữ thể diện, trước mặt người khác không bao giờ để lộ nửa phần yếu đuối, nhưng không biết tại sao, cứ đến bên Dương Hạo lại biến thành một nữ tử bình thường khát vọng được bảo vệ và dựa dẫm, cứ nhắc đến chuyện của Dương Hạo, thì thái độ vờ như lạnh nhạt lại tan biến mất, nói đến chỗ bi khổ, đôi mắt nàng lại trào lệ ra.
Dương Hạo thấy dáng vẻ mềm yếu của nàng, trong lòng bất chợt thấy xót xa, thốt lên: “Sao lại không có ngày qua? Trời vẫn chưa sụp xuống mà, cho dù trời có sụp xuống thì ta sẽ đỡ cho nàng. Còn nếu nàng thật sự không có ngày để qua thì ta sẽ cho nàng những ngày của ta. Chúng ta cùng qua”.
Chiết Tử Du tức khí, quay người muốn đi, thế nhưng bàn tay như hổ của Dương Hạo lại nắm chặt lấy cánh tay của nàng, làm sao mà đi đây.
“Đi, về phủ ta đã”.
Dương Hạo một tay cầm chiếc hộp, một tay kéo Chiết Tử Du, bước nhanh về. Chiết Tử Du bị hắn kéo đi, tức khí nói: “Ta không đi! Nếu đi thì để ta tự đi! Ngài buông tay ta ra, Mạnh tử nói: Nam nữ thụ thụ bất thân lễ giả. Ngài đường đường là nguyên soái Hà Lũng, Định Nan tiết độ sứ, lôi lôi kéo kéo muốn làm gì chứ! Ngài...”.
“Thái úy!”. Vừa bước ra khỏi tiết đường, đám thị vệ đứng bên ngoài canh gác lập tức khom người thi lễ với Dương Hạo, thái độ đương nhiên là không nửa điểm bất kính, nhưng đôi mắt lại vô thức mà liếc nhìn tay Dương Hạo đang nắm cánh tay Chiết Tử Du, rồi lộ ra mấy phần cổ quái.
Cơ thể Chiết Tử Du đang mềm mại liền cứng đờ, vội thay vào vẻ mặt tươi cười, cười khan nói: “À... Thái úy, mời mời...”.
Tiết đường nằm phía tây viện soái phủ, không cần phải ra cửa lớn, hai người cầm tay rất lễ nhượng mà đi, khi rẽ vào soái phủ, Chiết Tử Du lại kháng nghị: “Buông ta ra, ta bây giờ có phải là tùy ý để cho ngài sắp đặt không?”.
Dương Hạo dõng dạc nói: “Nàng đã đầu quân vào ta, thì là thuộc hạ của ta, ta tùy ý sắp đặt có gì là bất thường chứ?”.
Chiết Tử Du nổi trận lôi đình: “Ta đem quân Chiết gia đầu quân vào chỗ ngài, nhưng Chiết Tử Du ta chưa hề đầu quân cho ngài, ta vốn muốn đợi xong chuyện này ta sẽ...”.
“Sẽ quy y cửa phật, mai danh ẩn tích à?”.
“Không cần ngài phải quan tâm, tóm lại ta không phải là thuộc hạ của ngài!”.
“Thế nàng có còn muốn nghe ý định của ta không?”.
“Ta... Ta... Ta có quyền biết sao?”.
Dương Hạo mỉm cười: “Tử Du, nàng biết không, nàng bây giờ mới giống một nữ nhân, tuy càn quấy một chút nhưng lại có thêm mấy phần mùi vị nữ nhân hơn ngày trước”.
“Ta giống nữ nhân hay không thì liên quan gì đến ngài, bây giờ có thể buông tay ta ra được chưa?”.
“Lệnh tôn sớm ra đi. Chiết gia lệnh huynh làm chủ. Đúng không?”.
“Đương nhiên”.
“Trưởng huynh như cha đúng không?”.
“Đúng thế!”.
“Lệnh huynh bây giờ không được tự do. Ta là nghĩa đệ của lệnh huynh, luận về thứ bậc thì đương nhiên là huynh trưởng của nàng, huynh trưởng như cha mà. Có được quản nàng không?”.
“Ngài! Ngài mà đòi làm huynh trưởng như cha!”. Chiết Tử Du vô cùng tức giận: “Ta nói cho ngài biết, người họ Dương kia, cha ta khi còn sống còn không quản nổi ta, đại ca ta cũng không dám quản ta”.
Dương Hạo nhìn nàng: “Cho nên bây giờ ta mới quản nàng, nàng mà còn nhiều lời ta sẽ thay lệnh tôn quản giáo nàng, phát cho nàng mười bảy, mười tám cái vào mông, xem nàng còn mặt mũi nào để nhìn người ta không”.
“Ngài dám”.
Con đường hai người đi có rất nhiều hạ nhân, nha hoàn thị tỳ, từ xa đã nhìn thấy Dương Hạo, liền tránh sang một bên, khom người thi lễ, miệng đồng thanh hô lão gia. Tử Du thấy dáng vẻ của bọn họ như vậy, hình như mỗi người đều đang cười nàng, nhất thời thật sợ Dương Hạo hâm lên, thật sự bắt nàng nằm xuống, cho một trận vào mông, vậy thì Chiết đại tiểu thư thật sự phải chui vào trong động để khỏi bị người ta chê cười. Nàng vẫn dùng ngữ khí ương ngạnh đó nhưng tay không dám dùng lực nữa.
Bị hắn lôi đi một đoạn đường, khi đi xuống hậu trái đình viện, nghĩ rằng cả chặng đường cãi nhau khắc khẩu, nếu truyền ra ngoài thật mất mặt, Chiết Tử Du không khỏi tuôn lệ lã chã: “Ngài... Lại ức hiếp ta như thế!”.
“Vậy nàng không biết ức hiếp lại sao?”.
Chiết Tử Du cười hì một tiếng, nói: “Dương thái úy ngài bây giờ có thân phận gì chứ, ta ức hiếp được sao?”.
Dương Hạo đột nhiên dừng bước, thấp giọng bên tai nàng: “Muốn bắt nạt người khác cũng không cần phải có thân phận cao quý hơn, ta từng nghe thấy một câu chân ngôn rất có lý, nàng muốn biết không?”.
Dương Hạo ghé sát tai vào, hơi thở phảng phất bên tai nàng, Chiết Tử Du chỉ cảm thấy như có vô số con mắt đang nhìn trộm mình, khiến nàng hết sức ngượng ngùng, nhưng nghe câu nói này lại thấy rất hiếu kỳ, liền không tránh ra mà hỏi: “Chân ngôn gì?”. “Nam nhân thống trị thế giới, nữ nhân thống trị nam nhân, đạo lý trong đó rất huyền diệu, với sự thông minh tuyệt đỉnh như nàng, nhất định có thể hiểu được”. “Hiểu được cái đầu ngài ấy!”. Chiết đại tiểu thư không thể nhịn được nữa, cuối cùng cục cằn nói: “Ngài buông ta ra, ta... Ta đi theo ngài là được chứ gì, buông tay ra, buông...”.
Hai người cả đường ầm ĩ, vừa bước vào hậu viện thì thấy Đông Nhi, Oa Oa, Diệu Diệu và Đường Diễm Diễm đã về nhà thay đổi nữ trang đang đứng ở hiên hành lang, bên cạnh còn có mấy thị nữ Tiêu Nguyên, Hạnh Nhi, đôi mắt đều nhìn về phía họ.
Cả người Chiết Tử Du cứng đờ, chỉ cảm thấy toàn thân nóng rát, cánh tay bị Dương Hạo nắm chặt giống như thép bị nung vậy. Nàng hơi co người lại như tiềm thức, nhưng lại đi sát theo, sau một lúc do dự, nàng lại nhanh chóng bước lên, đi sát một chút với Dương Hạo, như thế này thì sẽ không giống Dương Hạo đang kéo nàng đi. Nhìn trông giống như hai người đang đi rất hòa đồng, vẻ oán trách trên khuôn mặt nàng cũng dần trở nên ôn thuận, hơi yếu đuối, ừm... Còn có chút xấu hổ. Trong lòng Dương Hạo bất giác thầm than: “Ôi đàn bà... Đàn bà...”.
Tam phòng kiều thê quả thật đã chuẩn bị yến tiệc thịnh soạn. Vì đây là tiệc rượu trong nhà nên không cần phải quá chú trọng đến màu sắc và bố trí, cho nên tất cả đồ ăn đều là những khẩu vị mà Dương Hạo thích.
Yến tiệc được bày biện trong một căn phòng rộng, lại có tám bức bình phong để ngăn cách với bên ngoài, nhưng đám thị tỳ chỉ có thể đứng bên ngoài cửa, không được truyền gọi thì không được phệp vào.
Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông đều ăn mặc như một văn sĩ, Chiết Tử Du lại thay bộ xiêm y màu bạc của Đông Nhi, tay áo ngắn, tà áo dài, bên ngoài còn khoác thêm một lớp áo mỏng có đính những bông hoa mai nhỏ, hoàn toàn giống một tiểu phu nhân. Tuy vẫn là thiếu nữ chưa gả đi, nhưng dù sao nàng cũng đã đến tuổi song thập rồi, cho nên không có chải tóc hai bên nữa, mà dùng thoa cuộn các sợi tóc lại, cài thêm một cây châm phỉ thúy, thanh lệ thoát tục, mỹ miều vô cùng.
Trước mặt Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông, lại là nói tiếp kế nghị đại sự nên Dương Hạo và Chiết Tử Du không có tư thái đấu ngầm với nhau nữa. Bốn người ngồi thưởng tiệc, sau khi uống hết ba tuần rượu, thử một số thức ăn thì Dương Hạo bắt đầu nói vào chủ đề chính, nói đến đại sự mà mọi người đều quan tâm nhất.
“Hôm nay trên tiết đường, mọi người đều tranh luận rất sôi nổi, lợi hại trong đó đều đã rõ cả. Đơn giản mà nói chính là với thân phận của ta bây giờ không có cách nào chỉnh hợp nội bộ, lấy danh phận đường đường chính chính đối mặt với sự tiến công của Tống quân, thân phận bất định rất khó đưa ra chế định chiến lược để tụ dân thống quân, cho nên, chiếm đất tự trị, thoát ly khỏi sự khống chế của triều đình là điều tất nhiên”.
Những lời nói chắc nịch này của Dương Hạo làm cho Chiết Tử Du và Đinh Thừa Tông tinh thần phấn chấn lên, Chiết Tử Du vốn có chút tức giận, lúc này cũng đã tan biến lên chín tầng mây, chốc chốc lại nhìn Dương Hạo. Chủng Phóng lại không nói lời nào, cũng đặt đũa xuống, lặng yên nghe lời tiếp theo của hắn.
Sắc mặt Dương Hạo nghiêm túc lại, trầm giọng nói: “Nhưng chiếm đất tự trị, thoát khỏi sự khống chế của triều đình tuy có thể chính thức hóa thân phận của ta, chỉnh hợp nội bộ, làm cho quân ta không chịu sự khống chế của danh nghĩa nữa, làm được xuất sư hữu danh, nhưng đây chỉ là đứng vững lập trường thôi, lại không thể thay đổi sự thực đại quân Tống Quốc đã áp cảnh, ngược lại, một khi ta xưng đế, quân Tống không cần phải chần chừ, sẽ toàn lực công phạt.
Kết cục của nó chỉ có hai. Một là chiến sự bất lợi, thực lực không đủ, khó có thể chống trọi lâu, cuối cùng bị Tống tiêu diệt. Một là lợi dụng sức mạnh của chính mình để ngăn địch chính diện, đồng thời liên kết với các nước khác khống chế Tống Quốc dụng binh với ta, cuối cùng có thể đứng vững ở Hà Tây, có điều điều có thể dự liệu là chúng ta từ đây sẽ chỉ có thể luẩn quẩn ở Hà Tây, chiến sự liên miên, không có ngày nghỉ”.
Những lời Dương Hạo không phải là giả, dù sao đối với Tống mà nói, Liêu Quốc lập quốc còn sớm hơn so với Tống hơn năm mươi năm. Tống là nam triều, Liêu là Bắc triều, cùng là đại quốc trong thiên hạ, đánh được đương nhiên là tốt, không đánh được cũng không tạo ra áp lực gì đáng kể đối với giai cấp thống trị. Nhưng địa bàn của mình chẳng có mấy để xưng đế, đây là điều mà Tống Quốc không thể chấp nhận được, là một sự đả kích lớn nhất đối với quyền uy triều đình. Chiến lược quân sự Tống Quốc sau này tất nhiên phải lấy Tây Bắc làm trọng, trong lịch sử, Lý Nguyên Hạo sau khi xưng đế, Tống Quốc quả thật đã làm như vậy.
Ta biết, nếu như muốn xưng đế thì phải đảm đương tất cả mọi việc, không thể chỉ hy vọng Tống Quốc chủ động bỏ cuộc, không hưng binh với ta. Nhưng chiến họa liên miên không phải là cái phúc của nước, cái phúc của dân. Cho nên bây giờ ta cần phải sớm chuẩn bị, suy nghĩ chu toàn, tổng cộng có hai bước: Bước thứ nhất, phải làm thế nào để bảo đảm được rằng sau khi xưng đế thì thực lực của chúng ta có thể áp chế được cơn giận lôi đình của Tống Quốc, làm cho chúng ta có thể đứng vững ở Hà Tây.
Bước thứ hai, sau khi đứng vững rồi, phải làm sao có thể hết sức tránh được chiến tranh liên miên do Tống Quốc phát động ở Hà Tây? Đây là vấn đề căn bản khi đề cập đến hưng vong, không thể vội vàng mà phải bước từng bước, phải lo trước tính sau, sớm có chuẩn bị, cho nên khi nghe mọi người bàn luận về lợi hại trong đó, ta luôn suy nghĩ đến cách giải quyết các vấn đề nội bộ, ngoại bộ, trước mặt, và sau này, rồi ta đã nghĩ ra một cách, mọi người cùng nghiên cứu một chút”.
Những lời Dương Hạo quả thật không chỉ là suy nghĩ đến các khó khăn bên trong, mà ngay cả những vấn đề lâu dài sau khi ứng phó xong các nguy cơ trước mắt cũng phải suy nghĩ đến, hơn nữa còn là cách giải quyết mình tự nghĩ ra. Ba người bọn họ không khỏi động dung, cùng đồng thanh nói: “Nguyện lắng nghe thái úy nói”.
“Cha cha, muội muội cướp mất con khỉ của con...”.
Dương Hạo vừa nói đến đây thì có một giọng nói truyền từ bên ngoài vào, sau đó Tuyết Nhi chạy tới, đôi má nhỏ đỏ lên, đi phía sau là con bạch lang chạy sát theo, nó vẫn nhận ra chủ nhân, vừa thấy Dương Hạo, cái đuôi của nó liền học theo con chó mà vẫy vẫy mấy cái, đáng tiếc cái đuôi quá cứng nên trông giống như đang quét đất vậy.
Trên lưng cao lớn của con bạch lang, có một con khỉ đang ngồi xổm, nhìn trái nhìn phải, cái dáng trông rất buồn cười. Tiếp theo đó, có một đứa trẻ chạy theo vào, đó là nữ nhi thứ hai của Dương Hạo, Dương San. Vừa nhìn thấy lưng của Chiết Tử Du lại tưởng là mẫu thân Đông Nhi của mình, lập tức bập bẹ nói: “Mẫu thân, mẫu thân, tỷ tỷ không cho con chơi với con chó lớn, cũng không cho con chơi với con khi”. Dương Tuyết cây ngay không sợ chết đứng nói: “Con chó lớn là của tỷ, con khỉ nhỏ cũng là của tỷ”.
Dương San chạy tới kéo tay áo Chiết Tử Du, thấy nàng quay đầu lại, mới biết đó không phải là La Đông Nhi, liền hơi sợ hãi lũi lại đằng sau nói: “Ý, không phải mẫu thân...”.
Dương Hạo dở khóc dở cười, liền đứng lên nói: “Tuyết Nhi, làm tỷ tỷ phải chăm sóc tốt đệ đệ và muội muội, sao lại không... Mà con nuôi con khỉ này từ lúc nào thế? Còn con đại cẩu này... Khụ, đây là con lang, không phải con chó. Haizz, rõ ràng là một con lang vương kiêu hùng trên thảo nguyên...
Hắn bước tới, mỗi tay đưa tới bế một đứa lên. San Nhi và Dương Hạo ít có cơ hội ở cùng nhau, không quen thuộc như với Tuyết Nhi, vừa được cha ôm vào lòng liền ngoan ngoãn rất nhiều. Tuyết Nhi thì lại cáo trạng tiếp: “Là mẫu thân không cho phép muội muội chạm vào chúng, sợ chúng làm thương muội muội”.
San Nhi nghe thấy liền chu cái mỏ nhỏ lên, làm ra bộ sắp khóc. Bên ngoài cửa có mấy nha hoàn, tiểu nha đầu đang đứng lấp ló mà không dám vào. Dương Hạo đương nhiên hiểu trẻ con phải hết sức không cho tiếp xúc với động vật là tốt nhất, huống hồ hai con sủng vật mà hai đứa nhóc này nuôi lại quá to, hắn liền nói: “Được rồi được rồi không cãi nhau nữa, con không mang con chó lớn... Con lang và con khỉ này đi qua đi lại trước mắt muội muội thì sao muội muội lại muốn chơi với chúng chứ. Mau đưa muội muội đi tìm mẫu thân, đợi khi nào cha rỗi, cha sẽ làm mấy thứ đồ chơi cho các con”. Dương Tuyết mừng rỡ: “Cha nói phải làm đấy nhé”.
Dương Hạo cười nói: “Đương nhiên rồi, có điều con phải nghe lời mới được. Đi đi, cha đang có việc bận, con đưa muội muội đến chỗ mẫu thân trước đi”.
Dương Hạo thơm nhẹ vào má của hai đứa nhóc một cái, sau đó giao chúng cho đám nha hoàn, hai nha đầu đã nhận được lời hứa của cha, vui mừng mà đi khỏi, lúc này Dương Hạo mới quay lại ghế tiệc.
Đinh Thừa Tông cười nói: “Hai tiểu nha đầu luôn nghịch ngượm, Tuyết Nhi lại thích nuôi mấy con chó con mèo, thường làm cho hậu trái náo loạn. Có điều, cũng may mà có hai tiểu nha đầu này. Ha ha ha, trong nhà cũng náo nhiệt hẳn lên”.
Chiết Tử Du thấy cảnh phụ - nữ thiên luân này, trong lòng đột nhiên có chút phiền muộn. Con cháu Chiết gia hưng vượng, cũng có rất nhiều trẻ con, nhưng trước đây nàng lại không có cảm giác đặc biệt gì với chúng. Những đưa trẻ của Chiết gia cũng giống như mấy đứa cháu của nàng, đều có chút sợ tiểu cô cô, tiểu bà cô. Nhưng một hai năm nay, khả năng miễn dịch của Chiết Tử Du đối với sự nghịch ngợm của những đứa trẻ đáng yêu đó đã giảm xuống, vừa rồi Dương San nhận nhầm người, gọi nàng một tiếng mẫu thân, lại làm cho tim nàng rung động, mùi thơm trẻ con trên người Dương San làm cho nàng rất muốn ôm nó vào lòng, nhưng khi nó sợ hãi lùi lại, lòng Chiết Tử Du lại có cảm giác hụt hẫng không tên.
Chỉ là tâm trạng này của nàng lại không hề bị người khác phát hiện ra, tâm tư bây giờ Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông đều đặt cả vào chuyện Dương Hạo đang nói, cánh cửa đóng lại, Chủng Phóng liền mở lời nói: “Không biết những lời thái úy vừa nói, muốn cách nhất cử giải quyết nội ngoại, nay sau rốt cuộc là như thế nào?”.
Dương Hạo bây giờ đã phong bế toàn bộ sự sùng kính đối với Triệu Khuông Dận và Tống đình lại, toàn tâm toàn ý đứng trên lập trường của chính mình mà suy nghĩ, hắn biết bây giờ lại giao động bất định tất sẽ gặp đại họa. Dương Hạo ngồi lại ghế, nghiêm chỉnh lại dung nhan, trầm giọng nói: “Dự tính của ta chia ra làm ba bước, mỗi bước đều lấy âm dương phụ trợ”.
Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông, Chiết Tử Du bất giác hơi nghiêng người, dựng tai lên, Dương Hạo nói: “Những năm nay, ta đã bố trí rất nhiều quân cờ cả ngầm cả công khai, muốn để có một ngày, chính là bây giờ dùng đến. Ba bước này của ta chính là tiền xưng đế: đánh một trận; tái xưng vương, hàng một nước; tích sức mở rộng đất: cuối cùng là xưng đế!”.
Ba người đang ngồi đều là những người thông minh, nhưng người cơ cảnh lĩnh ngộ ra trước tiên lại là Chiết Tử Du, nàng phấn chấn nhíu nhíu đôi lông mày lá liễu lên, vội nói: “Cách này tuy là tuyệt diệu, nhưng khó là ở chỗ phải thi hành như thế nào, sau có thể thành công đạt được ý nguyện? Sự tuyệt diệu trong đó có lẽ không chỉ ở sự âm dương phối hợp như ngài nói?”.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 39:Hoa Dung Đại Nghỉa (1+2+3)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 39: Hoa Dung Đại Nghĩa
Dương Hạo nói: “Đúng thế, đây là giai đoạn thứ nhất: Xưng đế. Kết quả của nó có thể dự liệu được, chúng ta tất phải nghênh sự đả kích cực mạnh của Tống đình, ở giai đoạn này, chúng ta cũng phải tập trung toàn bộ vũ lực để chiến đấu. Trận chiến này tuy chưa chắc có thể giành được toàn thắng, nhưng nhất định phải đánh đủ mạnh, đánh đủ hung, đánh chúng càng đau thì trên dưới Tống Quốc càng sẽ hiểu chúng muốn nuốt ta thì phải bỏ ra cái giá cực lớn, đây sẽ là nền tảng cho bước thứ hai trong kế hoạch.
Đương nhiên, đây chỉ là từ mặt bên ngoài mà nói, còn mặt bên trong thì chúng ta cần phải làm loạn Thục địa ở phía nam, phía bắc thì liên kết với Khiết Đan Liêu Quốc, tiến hành làm rối loạn nội bộ Tống đình, làm cho chúng hữu tâm vô lực, đến khi mệt vì chiến, ghét vì chiến, lúc đó chúng ta sẽ chủ động đầu hàng, vứt bỏ đế hiệu, lại lập vương, để cho bọn họ nấc thang hòa hoãn tình thế. Đây gọi là trời muốn trả giá, đất trả tiền, có lợi nhường ba phần, như thế thì nhìn như chúng ta thua, nhưng thực ra là thắng...”.
Định Nan quân tiết độ sứ vốn có tước vị Tây Bình vương, từ sau khi Chu Ôn diệt Đường lập Đại Lương, thì các chính quyền Trung Nguyên Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu, mỗi triều đều vì lung lạc Tây Bắc, mà đã dùng chính sách dụ dỗ với Thác Bạt thị Hà Tây, tăng thêm ân thưởng, cho nên đã phong thêm tước vị cho tất cả những Định Nan tiết độ sứ làm Tây Bình vương.
Sau khi Tống triều thay Chu, lại lập tức dùng thủ đoạn ân sủng này gia phong Định Nan tiết độ sứ Lý Di Hưng làm thái úy, nhưng không hề hủy bỏ chức Tây Bình Vương, chỉ có điều Tống Quốc tiêu diệt chư quốc Trung Nguyên, nhất thống thiên hạ, làm cho thế lực Tống Quốc càng ngày càng lớn mạnh, Lý thị Hạ biết được mà phòng trước, liền không coi trọng những vương tước vô dụng này nữa, Tống Quốc cũng coi như không có chuyện này, hai bên rất mật thiết ăn ý với nhau.
Nếu như các triều Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu đều thừa nhận thân phận vương tước của Định Nan tiết độ sứ, thì Tống Quốc lại truy phong thừa nhận một chút, nhưng thực ra cũng không coi là rào cản gì lớn”.
Đinh Thừa Tông tán thành nói: “Những lời thái úy nói rất có lý, nếu như sau khi thái úy xưng đế, chúng ta có thể chống lại được công thế cường đại của Tống triều, như vậy là cho hắn được lợi trước, rồi chúng ta chiếm đất xưng vương thì vẫn có thể làm được”.
Dương Hạo đương nhiên biết có thể làm được điểm này, trên thực tế con đường này vốn là con đường Lý Nguyên Hạo đã xưng đế năm xưa, đến tận bây giờ cách hắn mượn dùng cũng là cách của Lý Nguyên Hạo. Đương nhiên có thể đưa ra một phán đoán tương đối chuẩn xác với phản ứng có thể xảy ra của Tống đình.
Dương Hạo lại nói: “Sau khi chiếm đất xưng vương, chúng ta sẽ dung hòa các bộ tộc, nội bộ thì tu binh dưỡng mã, trù bị giáp binh, chấn hưng kinh tế, làm cho dân sinh, nông vượng, ngũ cốc đầy đủ, phủ khố dồi dào. Về đối ngoại thì đồng thời kết giao Liêu và Tống, hai bên mượn lực, mở rộng cương thổ đến Lũng Hữu. Lũng Hữu bây giờ đa phần là ở trong tay người Thổ Phồn, Hồi Hột, còn có một bộ phận nhỏ là địa bàn của người Đảng Hạng Khương. Người Hồi Hột Lũng Hữu chỉ như một đống cát, bộ tộc của người Đảng Hạng Khương còn ít hơn, không đáng để nhắc đến. Trên thực tế chính là nằm trong tay người Thổ Phồn. Tống đình bây giờ vẫn chưa chiếm hết Lũng Hữu, chưa xưng chủ quyền với nó. Đây chính là cơ hội khó có được của chúng ta. Lũng Hữu, tất phải đánh hạ, đây là điều kiện tất yếu cuối cùng để sau khi lập quốc tránh được những cuộc chiến trăm năm với Tống!”.
Trong lịch sử, thời kỳ thịnh vượng nhất của cương vực nước Tây Hạ có thể nói là “Đông tận Hoàng hà, Tây giới Ngọc Môn, Nam tiếp Tiêu Quan, Bắc khống đại mạc”. Dựa vào cương vực này đã giúp cho nó trở thành tam quốc đỉnh lập với Liêu, Tống, nhưng nó lại là phe yếu nhất trong tam quốc, nguyên nhân của nó chính là tiên thiên không đủ.
Nước Tây Hạ trung hưng chính là từ khi Định Nan ngũ châu khởi, khi đó Lý Đức Minh của Tây Hạ cùng lúc xưng thần với Liêu Tống. Liêu Tống vì muốn lôi kéo phe thế lực thứ ba cường đại này, làm cho nó hết sức duy trì thái độ trung lập, cho nên đều tiếp nạp nó. Liêu đế phong Lý Đức Minh làm Tây Bình vương, Tống cũng phong Lý Đức Minh làm Định Nan tiết độ sứ, Tây Bình vương. Tây Hạ bắt đầu mở giao thương buôn bán với hai người Liêu Tống, sau khi ổn định đông phương và bắc phương mới bắt đầu ra hành động lớn, là tây chinh, công đánh chư châu Lương, Cam, Túc, Qua, Sa, cuối cùng thế lực đến thẳng Ngọc Môn.
Đợi khi thế lực của hắn đến được Ngọc Môn quan, lại muốn mở rộng ra phía nam thì đã không thể được nữa, đến lúc đó địa nghiệp của Lũng Hữu đã nằm hết trong tay Tống Quốc, cho nên cương vực Tây Hạ từ đầu đến cuối chỉ có thể bó hẹp ở vùng Hà Tây, nước Tây Hạ chỉ dựa vào vùng đất này mà đã thống trị được hoa ba trăm năm, xưng đế kiến quốc gần hai trăm năm.
Bây giờ nếu như Dương Hạo đã bước lên con đường không thể quay trở lại này thì phải toàn tâm toàn ý vì không gian sinh tồn của mình mà suy nghĩ, hắn nhất thống Hà Tây sớm hơn Lý Nguyên Hạo hơn năm mươi năm, thế lực đã đến được Ngọc Môn quan ngoại, lại muốn mở rộng đất đai thì vùng đất tốt nhất chính là Lũng Hữu, nơi quần hùng tề tựu mà chưa có chủ. Một khi Lũng Hữu đã vào tay thì cương vực của hắn còn lớn gấp nhiều lần so với Tây Hạ quốc trong lịch sử, dân số đương nhiên cũng tăng lên, quốc lực đương nhiên cũng sẽ không giống như xưa nữa. Một tân đế quốc lớn gấp mấy lần Tây Hạ quốc thì khi Tống Quốc phát động chiến tranh tất cũng phải kiêng kỵ thêm một phần.
Nghe đến đây, Chủng Phóng và Chiết Tử Du trong lòng đều nghĩ đến một số vấn đề cụ thể, có điều Dương Hạo vẫn chưa nói đến điểm thứ ba. Mà con người này thường thường hậu phát chế nhân, phía trước có rất nhiều hành động nhìn thì như rất lỗ mãng, có rất nhiều sơ hở, nhưng ai mà biết được đằng sau nó hắn còn có thủ đoạn tuyệt diệu nào khác, cho nên hai người đều không vội chen lời vào, chỉ nghe Dương Hạo tiếp tục nói: “Bước thứ ba, lại thừa cơ xưng đế, nếu như bây giờ chúng ta chiếm Hà Tây rồi xưng đế đến cùng thì Tống Quốc rất có thể sẽ động binh với ta, từ Lũng Hữu xuất Tiêu Quan, từ Hà Đông phạt Hoành Sơn, ép chúng ta chịu địch hai bên, còn nếu như Lũng Hữu vào tay ta, chúng ta sẽ chiếm cứ một vùng đất phì nhiêu, bất luận là việc cung cấp lương thực, hay binh viện thì đều không cần phải lo ngại. Xét từ địa lý mà nói, chúng ta bất kể là xuất binh hay phòng ngự thì cũng có thể tiến thoái thuận tiện, nếu như vậy Tống Quốc cũng sẽ không dám khinh xuất phát binh công thế với ta”.
Dương Hạo nói đến đây thì dừng lại, hỏi ba người đang nhập thần lắng nghe: “Chư vị đối với việc này có ý kiến gì không?”.
Đinh Thừa Tông nghĩ ngợi rồi nói: “Thái úy, vừa rồi ở tiết đường đã từng nói, trong đó có rất nhiều tình tiết cần phải cân nhắc đắn đo, không biết đó là những điểm nào?”.
Dương Hạo mỉm cười, nói: “Theo như ý kiến của ba người thì trong kế hoạch của ta còn có sơ hở gì? Mọi người có thể nói ra để ta suy nghĩ thêm một chút”.
“Ta cho rằng...”.
Chủng Phóng và Chiết Tử Du cùng đồng thanh, không hẹn mà nói ra ba chữ, rồi quay sang nhìn nhau cười, lại đưa tay ra mời đối phương, Dương Hạo không khỏi cười lên, rồi nói: “Chủng huynh, huynh nói đi”.
Chủng Phóng đặt chén rượu xuống, vuốt râu nói: “Thái úy, ta có mấy điều lo lắng, vẫn mong thái úy giải thích cho. Thứ nhất: Sau khi hạ cách xưng vương, mở rộng cương thổ Lũng Hữu, thì làm thế nào để đảm bảo được rằng Tống đình sẽ không xuất binh can dự? Cũng giống như Liêu Quốc sẽ không chịu ngồi yên mà nhìn đất Hà Tây lọt vào tay Tống đình, Tống đình sao có thể khoanh tay đứng nhìn ta đoạt lấy đất Lũng Hữu chứ? Một khi Tống quốc xen vào thì bất kể là cân nhắc từ thực lực hai bên hay là khả năng xuất binh tới Lũng Hữu, thì Tống đình đều chiếm ưu thế tuyệt đối, kế hoạch của chúng ta có tám chín phần là bị thất bại.
Thứ hai, người Thổ Phồn ở Lũng Hữu từ sau khi ngầm nhận được sự ủng hộ của Tống Quốc, bất kể là binh giáp hay lương thực đều dồi dào vô cùng, tốc độ hợp nhất các bộ lạc nhanh chưa từng có. Tuy nói trước mắt có tộc trưởng La Đan kim hãm chúng, nhưng chúng ta một khi xưng vương xưng đế thì trong thời gian dưỡng sức cũng không thể chủ động dụng binh với bên ngoài.
Với thực lực hùng hậu của Tống Quốc, lại có thể trong một thời gian ngắn, tiếp tục ủng hộ cho Thượng Ba Thiên lớn mạnh, nhìn tình thế trước mắt thì trong một thời gian rất ngắn nữa, Thượng Ba Thiên đã có thể thống nhất Hà Tây, thậm chí là nạp tất cả các bộ Hồi Hột, Đảng Hạng bộ lạc mang tinh la kỳ xuống dưới trướng của mình. Đến lúc đó, cho dù không có sự trợ giúp của Tống Quốc thì thế lực của hắn cũng sẽ không kém hơn chúng ta là bao. Một khi chúng ta mưu đồ Lũng Hữu, chẳng qua kết cục sẽ là cả hai bên cùng bị thương, nói không chừng ngược lại còn để Tống Quốc hay Liêu Quốc hưởng lợi, làm thế nào có thể lớn mạnh được?”.
Dương Hạo nhìn Chiết Tử Du, hỏi: “Còn gì nữa không?”.
Chiết Tử Du dù sao cũng là nữ nhân, suy nghĩ rất tỉ mỉ, ngoài hai điểm đó ra, nàng còn nghĩ đến một số chuyện nhỏ nhặt khác, ví dụ như khi thực hiện bước đầu tiên, hai bên đến giai đoạn đề xuất xưng thần, nếu như Tống quốc vẫn giữ thái độ cứng rắn, từ chối chấp nhận yêu cầu của Dương Hạo thì phải làm thế nào, có điều nghĩ đi nghĩ lại đây cũng chỉ là chuyện nhỏ, nếu như cứ suy nghĩ nhiều thì khó sẽ tránh được phát hiện ra những vấn đề tương tự như vậy. Nếu nghĩ rằng phải thập toàn thập mỹ mới có thể làm thì dứt khoát không làm gì nữa. Vì thế những suy nghĩ này không cần thiết phải nhắc đến nữa, liền lắc đầu nói: “Không còn, chỉ có hai điểm này, không biết thái úy có cách giải quyết không?”.
Dương Hạo nói: “Vấn đề thứ nhất không cần phải quan tâm, ta rất hiểu con người Triệu Quang Nghĩa, cũng rất hiểu Tống Quốc, bọn họ đại khái có thể đưa ra phản ứng gì, ta vẫn có thể đoán định ra được. Làm thế nào để Tống Quốc khoanh tay đứng nhìn, trong lòng ta đã có cách, chỉ có điều bây giờ vẫn chưa phải là lúc nói công khai ra cho tất cả mọi người biết. Làm thế nào để ngăn cản Thượng Ba Thiên tiếp tục điên cuồng mở rộng đất, rồi nhất thống Lũng Hữu, trở thành đại họa của ta, thì ta đã suy nghĩ rất lâu, cũng chưa tìm ra được cách giải quyết thỏa đáng”.
Chủng Phóng, Chiết Tử Du và Đinh Thừa Tông nghe vậy trong lòng thầm lấy làm lạ. Theo như họ thấy, làm thế nào để Tống Quốc khoanh tay đứng nhìn Dương Hạo nuốt mất Lũng Hữu thật là đại sự khó hơn lên trời, dù sao đứng ở góc độ của Tống quốc thì bất luận như thế nào cũng sẽ không ngồi nhìn một phiên vương bất thuận như Dương Hạo tiếp tục mở rộng cương vực, đồng thời Tống Quốc lại có thực lực để ngăn cản nó. Cho nên bất kể là dùng cách nào, bất kể là người nào đều không thể thay đổi ý định của Triệu Quang Nghĩa.
Còn việc ngăn thế lực của Thượng Ba Thiên tiếp tục mở rộng thì thế lực hai bên tương đương nhau, dù sao cũng dễ hơn một chút. Tuy nói tộc trưởng La Đan của lục cốc phiên bộ chỉ có thể kìm hãm Thượng Ba Thiên trong một thời gian ngắn, không đủ ngăn cản Thượng Ba Thiên tiếp tục mở rộng đất dưới sự trợ giúp của Tống Quốc, nhưng làm chậm lại tốc độ mở rộng thực lực của hắn thì vẫn còn có hy vọng, ngoài ra còn có thể dùng một số thủ đoạn khác, nhưng trong lòng Dương Hạo đó lại là vấn đề khó khăn nhất hắn lại nghĩ ra đầu tiên, còn vấn đề dễ hơn lại không thể nghĩ ra.
Ba người thấy ngữ khí chắc chắn của Dương Hạo lại không chịu nói rõ chi tiết, đành phải áp lại sự tò mò, bắt đầu suy nghĩ đến vấn đề thứ hai.
Bây giờ trong tay Dương Hạo có hai bảo vật mà vào thời cơ thích hợp có thể phát huy tác dụng cực đại, một là ngọc tỷ truyền quốc, một là huyết chiếu của hoàng hậu Tống.
Huyết chiếu đối với Triệu Quang Nghĩa, người luôn tuyên dương thân phận người kế thừa chính thống mà nói có sức sát thương cực đại, còn tác dụng của ngọc tỷ càng lớn hơn, nhưng hai thứ này giống như đội kỵ binh trọng giáp của hắn, lúc thích hợp dùng thì rất có lợi, nhưng lúc không thích hợp mà đem ra dùng lại chỉ có bị phản tác dụng.
Ngày xưa, Đại Hán xa kỳ tướng quân Đổng Thừa lấy được y đới chiếu của Tào Tháo, kết quả lại nhận lấy họa sát thân. Còn những người như Lưu Bang, Tào Phi... Phàm những người lấy được nó đều dùng nó để phục vụ cho việc chứng minh quyền thống trị hợp pháp của mình, nhưng mỗi triều quật khởi thì cùng đồng nghĩa với việc tiền triều vì nó mà bị điệt vong. Vật này phải lựa chọn thời cơ thích hợp mới được dùng, khi thực lực tương xứng sẽ rất có tác dụng, lúc này chỉ có thể coi nó như là một bí mật thôi.
Vì suy nghĩ này mà Dương Hạo đã bỏ ý định đem hai vật này nói cho ba người biết. Bốn người đều có suy nghĩ riêng, trong phòng chợt tĩnh lặng lại, mọi người cùng âm thầm suy nghĩ, thỉnh thoảng lại gắp một miếng thức ăn, nhấm chút rượu, lại trầm mặc trong thời gian khoảng một nén hương, Đinh Thừa Tông từ từ ngẩng đầu dậy, chần chừ một lát, liền nói: “Thái úy muốn đánh lấy Lũng Hữu, còn Thượng Ba Thiên dưới sự ủng hộ của Tống đình mà tốc độ quật khởi không kém gì lúc thái úy mới đến Lô Châu. Tộc trưởng La Đan của lục cốc phiên bộ tuy ngầm có được sự trợ giúp của thái úy, nhưng Thượng Ba Thiên bây giờ giống như thái úy khi lấy được Ngân Châu, còn tộc trưởng La Đan lại còn xa mới bằng được Lý Quang Duệ, về lâu về dài, chỉ dựa vào một La Đan thì tuyệt đối không thể ngăn cản được sự quật khởi của Thượng Ba Thiên”.
Mọi người đều nhìn chăm chú vào Đinh Thừa Tông, Đinh Thừa Tông nói tiếp: “Tình hình như thế này cũng giống như sự tranh chấp không ngừng. Nếu như ở trên thương trường thì với cục diện như thế này vẫn có một cách”.
Dương Hạo vội vã nói: “Ngài nói đi”.
Đinh Thừa Tông nói: “Dẫn một thế lực mới vào trong vòng nước xoáy, địa bàn tổng cộng chỉ có như thế, nếu như dẫn một thế lực mới vào, để cho bọn chúng tự tranh chấp với nhau, kết quả thì đừng ai mong được ngồi chỗ lớn. Đợi khi chúng ta ra tay thì dựa vào thế lực hùng hậu vượt xa bọn họ, lúc đó sẽ thu mua, hoặc đánh áp hoặc phân hóa bọn chúng, cuối cùng nuốt luôn bọn chúng, như vậy còn tránh được cái tiếng phát động chiến tranh trước ở địa phương”.
Ánh mắt ba người Dương Hạo sáng lên, Đinh Thừa Tông vốn chỉ muốn thử đưa ra kiến giải của mình, vừa thấy thần sắc của ba người như vậy, không khỏi thấy được cổ vũ lớn, tiếp tục nói: “Nếu như cách này có thể dùng để mưu quốc, thì... Sau khi hoàn thành bước thứ nhất của kế hoạch, để cho nghĩa quân Thục quốc tiến vào Lũng Hữu thì thế nào? Như vậy có thể tránh được tổn thất vì bị Tống đình bao vây tiêu diệt, lại có thể thực hiện được mục đích kìm hãm Thượng Ba Thiên”.
Nói đến đây, Đinh Thừa Tông liền cười một cách bí hiểm nói: “Tống đình sẽ không ngờ rằng khi chúng ta bị ép từ bỏ đế hiệu, an phận thủ tại Hà Tây, lại còn mưu đồ với Lũng Hữu. Nghĩa quân Thục địa đi rồi, Tống đình không những được thở phào mà đối với cục diện thăng bằng của Lũng Hữu cũng thấy lạc quan hơn. Rốt cuộc Tống đình cũng không hy vọng ở Lũng Hữu lại xuất hiện một Dương thái úy, nhưng Thượng Ba Thiên là người một tay chúng nâng đỡ lên, đến lúc đó lợi dụng hắn để kiềm chế chúng ta, nhưng lại không có cách nào tự mình ra mặt để làm yếu đi thế lực của Thượng Ba Thiên. Thủ đoạn mượn đao giết người này ngay cả Triệu Quang Nghĩa cũng không nghĩ ra, đám văn thần võ tướng của hắn sao có thể can gián được”.
Trong đầu Dương Hạo lập tức xoay chuyển. Nghĩ kỹ, lại phủ định kế hoạch này: “Kế thì hay, chỉ là dùng không thỏa đáng”.
“Sao cơ? Không thỏa đáng chỗ nào?”.
“Nghĩa quân Thục tuy hiệu xưng có mười vạn, nhưng trong đó lại có rất nhiều già trẻ phụ nữ yếu đuối, cố thổ khó rời. Cho dù chúng ta đã khống chế quyền lãnh đạo của bọn họ, cũng rất khó bảo họ quay lưng ra đi, đây là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai, Thục Trung đa phần là sơn địa, sĩ tốt nghĩa quân đó đều thiện leo đồi vượt núi, nhưng lại không biết nhiều về cưỡi ngựa, bọn họ không thiện mã chiến, kỵ xạ, cũng không thể làm chiến mã, nuôi chiến mã, một khi đến Lũng Hữu thì ưu thế tác chiến sơn địa sẽ không còn tồn tại nữa, trước mặt thiết kỵ của Thượng Ba Thiên chẳng qua chỉ là một đàn dê cừu đợi thịt mà thôi, không có tác dụng gì”.
Những lời Dương Hạo nói đúng là điểm yếu của nghĩa quân Thục Trung, Đinh Thừa Tông nghe rồi không khỏi thất vọng, Chủng Phóng liền lên tiếng: “Nghĩa quân Thục Trung không thể dùng, vậy A Cổ Lệ ở Cam Châu thì sao?”.
Dương Hạo ngẩn ra: “A Cổ Lệ?”.
Chủng Phóng hưng phấn nói: “Đúng thế, A Cổ Lệ! Nếu như lệnh cho A Cổ Lệ giả vờ tạo phản thái úy, thống lĩnh binh tháo chạy đến Lũng Hữu, không phải đã có hiệu quả phân chia thế lực của Thượng Ba Thiên hay sao?”.
Dương Hạo kinh ngạc nói: “Việc này... Bộ lạc Hồi Hột tuy cũng là bộ lạc du mục định cư trên thảo nguyên, nhưng Hồi Hột Cam Châu ít nhiều cũng có thói quen nông canh, để cho bọn họ mang tộc di dân đến Lũng Hữu, muốn thuyết phục những thủ lĩnh của bọn họ e là rất khó. Hơn nữa, vương phi A Cổ Lệ trước mắt có thật sự trung thành với ta hay không còn chưa xác định được, nếu như đi xa rồi, chúng ta có thể khống chế được nàng ta hay không còn khó dự liệu”.
Đinh Thừa Tông nói: “Vậy chúng ta sẽ khống chế chắc chắn A Cổ Lệ trước?”.
Dương Hạo hỏi lại: “Lòng người cách bởi cái bụng, làm thế nào để xác định được nàng ta hiếu trung hay không?”.
Đinh Thừa Tông thân là người phụ trách Phi Vũ ở Hạ Châu, đối với tình hình bên Cam Châu thì nắm rõ như lòng bàn tay, liền nói: “Ân uy cùng thi hành, vương phi A Cổ Lệ khi chiến một trận với thái úy, với thân phận nữ nhi của mình, lại xông lên làm tiên phong, không sợ sống chết, đó gọi là dũng, là trung. Còn Dạ Lạc Hột lại vứt bỏ nàng, vương phi A Cổ Lệ vẫn canh cánh điều này trong lòng. Nữ nhi gia ở thảo nguyên, yêu hận rõ ràng, tính tình phóng khoáng, vương phi A Cổ Lệ trẻ tuổi xinh đẹp, lại là hậu nhân bộ lạc vương họ trong cửu họ, thân phận rất tôn quý. Nếu như thái úy nạp nàng ta làm thiếp, rồi ban tình ban nghĩa, giữ lại hết gia quyến làm con tin, còn sợ...”.
Hòa thân kết thế ở thời đại đó là chuyện bình thường, nữ tử tái giá, chưa cần nói ở Tây Bắc mà ngay cả ở Trung Nguyên cũng không phải chuyện to tát gì, cho nên ngay như Chủng Phóng, một đại hiền nho gia nghe rồi cũng không cho là sai trái. Còn Dương Hạo, nếu như thật sự xưng đế, vậy vương phi A Cổ Lệ không còn là thiếp nữa, mà là hoàng phi tôn quý, tin tưởng rằng với nhân phẩm tài mạo và thân phận tôn sùng của Dương Hạo, A Cổ Lệ cũng khó tránh động lòng, khi đã rơi vào lưới tình thì kế này có thể thực hiện được.
Hai mắt Chủng Phóng sáng lên, vừa mới muốn mở mồm tán đồng, đốc thúc Dương Hạo làm bá vương nghiệp sủng đồ, kết mối nhân duyên với vương phi A Cổ Lệ, Chiết Tử Du đột nhiên thốt lên: “Không được!”.
Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông bây giờ đầu đều đang nằm ở vị trí thần tòng long, với vấn đề mưu nghiệp bá vương nên hoàn toàn quên mất bên cạnh còn có một nữ Gia Cát bị Dương Hạo dày vò biến thành oán phụ trong khuê phòng, lúc nàng vừa mở mồm phản đối, hai người mới chợt nhận ra.
Đinh Thừa Tông thầm nghĩ: “Chiết cô nương à, huynh đệ ta nếu như làm hoàng đế rồi thì hậu cung còn thiếu chỗ của cô sao? Hậu phi của đế vương sao có thể đơn giản là hương phu hiếu tử được, chỉ có thông minh tuyệt đỉnh cũng không có tác dụng. Muốn làm một hiền phi thì cô nương phải bớt chút tính kiêu ngạo đi”. Có điều Đinh Thừa Tông biết trọng lượng của Chiết Tử Du trong lòng Dương Hạo, nên tuy trong lòng có thầm oán trách nhưng không trực tiếp nói ra.
Nhưng Chủng Phóng lại không có những cấm kỵ đó, theo hắn thấy tuy luận chuyện thiên hạ đại sự, nhưng lại để cho một nữ nhân tham dự mưu lược, đó đã là sự xem trọng đặc biệt của Dương Hạo rồi. Tất cả những đại sự dính vào căn bản của giang sơn xã tắc thì tiêu chuẩn cân bằng của nó chỉ có hai chữ “lợi ích”, chưa cần nói Chiết Tử Du và Dương Hạo bây giờ vẫn chưa có quan hệ gì, cho dù nàng ấy là lục cung thống soái, hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ thì hắn cũng dám phạm thượng mà can gián. Hắn lập tức trầm mặt xuống, phản bác nói: “Sao lại không được?”.
“Ta...”. Chiết Tử Du ngắc ngứ một hồi. Dương Hạo nhìn nàng, trong mắt dần lộ ra vẻ thú vị: Một mỹ nhân như một cây gỗ, không biết ghen, không biết vì nhỏ nhen một chút thì nào còn vẻ hương sắc đầy sức sống nữa chứ. Đây mới giống một cô nương hoạt bát, khụ khụ, nàng... Chắc là ghen vì ta chứ?
Dương Hạo mừng thầm, ước gì nàng lại lỡ miệng nói ra gì đó nên cũng không vội giải vây. Chiết Tử Du thấy dáng vẻ như đang nghe chuyện cười của hắn, tức khí chỉ muốn đánh cho hắn một trận, nhưng đột nhiên ý chí xoay chuyển, nghĩ ra tâm kế ung dung nói: “Ta là một nữ nhi, đương nhiên hiểu được tâm tư nữ nhi, Dạ Lạc Hột và vương phi A Cổ Lệ vốn là phu thê, nhưng khi gặp đại nạn lại đem nàng ra làm con quỷ chết thế. Bây giờ thái úy lại muốn bí mật nạp nàng làm thiếp, lại thúc giục nàng đi làm việc vì mình, như vậy có gì khác với Dạ Lạc Hột chứ? Vương phi A Cổ Lệ đã bị Dạ Lạc Hột làm đau đớn trái tim, còn có thể tin vào thành ý của thái úy sao? Hồi Hột Cam Châu và người Thổ Phồn Lũng Hữu có giao tình, một khi nàng ấy đến được Lũng Hữu thì sao biết được nàng ấy có cấu kết với bọn họ không?”.
Chủng Phóng nói: “Vậy... Chiết cô nương còn có biện pháp nào tốt hơn không?”.
Chiết Tử Du cười nhạt, liếc mắt nhìn Dương Hạo, khiêu khích nói: “Tiểu nữ đã nhận được sự gợi ý từ hai vị đại nhân, cũng đã nghĩ ra một cách, chỉ là không biết... Thái úy có dám dùng không thôi?”.
*
* *
Lạc Hột và Lý Kế Quân, cùng ba lộ truy binh của Trình Thế Hùng, Lý Kế Đàm, Trương Sùng Nguy đuổi bắt nhau như trò chơi trốn tìm. Lúc này thì chạy tới chân Hoành Sơn, lúc kia lại vượt qua Vô Định Hà, đông trốn tây chạy, ta truy ngươi tháo, khó khăn lắm mới bỏ được một đoạn, khoái mã quất roi ngựa phi nhanh tới Ngân Châu, đến bên bờ Mễ Chi, lại tổn thất thêm hơn một nửa. Nhớ tới cách đây không lâu về trước, mình còn ngồi ở Cam Châu hùng thành, tay nắm cả sáu vạn đại quân, dưới trướng còn cả ba mươi vạn con dân, còn bây giờ căn cơ đã mất, ngay cả vương phi A Cổ Lệ và thứ tử Khúc Ly cũng lần lượt trở thành thứ bỏ đi, bất giác cảm thấy bi thương trong lòng, lớn tiếng khóc vang.
Lý Kế Quân lại rất bình tĩnh, dù sao hắn cũng đã bị uất ức hơn hai năm nay rồi, sự kiêu ngạo ngày xưa sớm đã bị mài mòn đi nhiều, nên rất trầm tĩnh, vừa thấy Dạ Lạc Hột đứng bên bờ sông khóc bi thảm, liền khuyên nhủ: “Khả hãn không cần phải đau lòng nữa, thắng bại là chuyện thường binh gia, khả hãn nhất thời bị thất bại như thế này, nhưng với tốc độ này thì Dương Hạo sẽ càng bại nhanh hơn, bại càng thảm hơn chúng ta. Tống Quốc sẽ không dễ dàng đối phó như vậy đâu, chúng ta tuy bại rồi, nhưng Tống Quốc chưa bại, danh tướng Đại Tống Phan Mỹ, hậu sơn còn vững chắc hơn mấy trăm lần so với chúng ta, Dương Hạo đắc ý nhất thời, chưa chắc đã có kết cục tốt”.
Dạ Lạc Hột đau lòng nhức óc nói: “Cho dù Tống Quốc đánh bại Dương Hạo, làm cho hắn tán dương tán cốt chẳng qua cũng chỉ là làm cho chúng ta bớt tức mà thôi. Nhớ lúc trước Lý gia ngồi vững ở Định Nan ngũ châu, Dạ Lạc Hột ta chiếm cứ bắc tây vọng Cam Châu, là hùng một phương, bây giờ lại rơi vào tình cảnh này, không bao giờ còn có ngày xuất đầu, sao có thể không đau lòng chứ?”.
Trong mắt Lý Kế Quân liền hiện lên một vẻ tản nhẫn, cắn răng nói: “Chúng ta bại thì bại, nhưng nếu nói là không có ngày xuất đầu cũng chưa chắc, cho dù chỉ chừa lại một binh một tốt, chỉ cần tìm được cơ hội, chúng ta cũng có thể có ngày đông sơn tái khởi”.
Dạ Lạc Hột chỉ lắc đầu nói: “Khó, khó như lên trời, không có địa bàn, không có con dân, không có binh mã, xuất lộ duy nhất của chúng ta chỉ có dựa vào Tống đình, chịu sự kìm chế của người ta, làm một con mã tiền tốt, nói đến đông sơn tái khởi há chẳng phải là kẻ khờ nằm mơ sao?”. Lý Kế Quân cười hiểm ác nói: “Chưa nghĩ tới thắng đã nghĩ tới bại, từ khi Lý gia ta mất Hạ Châu, rơi vào cái cảnh này, ta đã hiểu được cái đạo lý này. Thoái lộ, ta sớm đã nghĩ ra”. Hai mắt Dạ Lạc Hột liền sáng lên, vội hỏi: “Còn có thoái lộ sao? Thoái đi đâu?”.
Lý Kế Quân chỉ tay về phía trước, nói: “Xuất Ngân Châu, qua Tuy Châu, vào Lũng Hữu. Lũng Hữu là vùng đất vô chủ, tứ phương hào hùng niên bá, bây giờ Thượng Ba Thiên và La Đan đánh nhau không thể tách ra, chúng ta đến trước tương trợ, Thượng Ba Thiên sao có thể không vui vẻ tiếp đón chứ. Đến lúc đó, đại hãn có thể dùng tôn danh vương giả để chiêu nạp các bộ lạc cũ, tụ hợp người Hồi Hột Lũng Hữu để dùng, còn ta có thể chiêu nạp người Khương ở Lũng Hữu, chúng ta có thể giơ lại kỳ hiệu, chưa chắc đã không phải có cơ hội!”. Dạ Lạc Hột tinh thần phấn chấn, thốt lên: “Không sai! Không sai! Chúng ta vẫn chưa tới đường cùng, có điều...”.
Có được con đường ra này, Dạ Lạc Hột lại suy tính hơn thiệt: “Bây giờ binh mã ta có hạn, lại toàn là thương tốt bại binh, sĩ khí suy giảm, còn có thể đến được Ngân Châu sao? Nếu như Ngân Châu xuất binh ngăn cản thì...”.
Lý Kế Quân thầm chửi trong lòng: “Cái lão già này, thật hổ lúc trước là nhất bá tây vực, chiến bại liên tục đã mất hết sĩ khí rồi”.
Chửi thì cứ chửi, bây giờ hai người hợp binh còn có một con đường sống, nếu như tách ra mà chiến thì đó thật sự sẽ là tử lộ, nên hắn vẫn phải cố kìm nén lại mà an ủi: “Khả hãn yên tâm, trước khi ta đột kích Hạ Châu, ta đã điều tra rất cẩn thận với con đường này. Địa thế Ngân Châu vốn là vùng tất tranh của binh gia, cho nên sớm đã bị Dương Hạo tạo thành một tòa thành kiên cố không thể phá vỡ, nhưng Dương Hạo binh tướng mỏng, bây giờ thủ hạ chỉ có mấy viên lương tướng, hoặc là ở Hoành Sơn, hoặc là ở Cam Lương Sa Quả, hoặc trấn tại Hạ Châu, cho nên Ngân Châu không còn lương tướng nữa.
Bây giờ thủ tướng Ngân Châu là Kha Trấn Ác và Lý Nhất Đức, tên Kha Trấn Ác này rất giỏi thủ thành, nhưng tiến công không giỏi, không phải là tướng thiện chiến. Còn Lý Nhất Đức vốn là trưởng của đại tộc Lý thị Ngân Châu, cho nên được Dương Hạo dùng tới, bây giờ nhậm chức tri phủ Ngân Châu, con người này không biết binh pháp. Trọng yếu Ngân Châu, Dương Hạo sớm đã dặn dò bọn họ cẩn thận, bọn họ sao có thể không biết, sao dám mạo hiểm mà rời thành tấn công địch? Khi ta đến, tứ môn Ngân Châu đóng chặt, như là gặp đại địch, chỉ sợ ta đi đánh chúng. Ha ha, chỉ dựa vào hai tên vô dụng ấy thì chúng ta có ngang nhiên bành trướng đi qua thành Ngân Châu, bọn chúng cũng không dám ra nghênh địch đâu”.
Dạ Lạc Hột nghe vậy mới yên tâm lại nói: “Như vậy thì tốt quá, chúng ta đóng quân ở đây, nghỉ ngơi một lát, sau đó lập tức lên đường, nếu như để truy binh đuổi đến, vậy thì muốn đi cũng không đi được nữa”.
*
* *
Thành Ngân Châu. Kha Trấn Ác mặc một thân áo giáp, tuần hành tứ thành, không chút chậm trễ.
Tuy bây giờ không có chiến sự, phía phòng ngự thành trì cũng mưa gió không lọt, nhưng hắn vẫn rất cẩn thận, một ngày một đêm tuần thành bốn lần, mưa gió cũng không bỏ, còn phái thám mã đi xa trăm dặm, thám thính mọi động tĩnh ở các vùng lân cận Ngân Châu.
Từ lần Ngân Châu mất đi từ trong tay hắn, tuy Dương Hạo không có trách hắn, nhưng mối nhục này hắn vẫn luôn ghi nhớ trong lòng, không dám lơ là một chút nào. Hắn vốn là một trong những tướng lĩnh đầu tiên đi theo Dương Hạo, luận về tư cách và sự từng trải thì không ai có thể vượt qua hắn, nhưng bây giờ hắn chẳng qua vẫn chỉ là thủ thành Ngân Châu, các chiến sự sau này, Dương Hạo rất ít khi để hắn xuất đầu, quyền lực của Dương Hạo càng ngày càng lớn, còn địa vị của hắn trong đám võ tướng của Dương Hạo càng ngày càng nhỏ, Kha Trấn Ác trong lòng nhạy cảm, tự thấy xấu hổ.
Nhưng hắn không chút oán trách nào với Dương Hạo, hắn biết mình tuy là hậu nhân của võ tướng đại Đường, nhưng về bản lĩnh hành quân tác chiến lại chẳng kế thừa được mấy phần. Luận về xung phong lên trận địa hắn không bằng đám tướng Mộc Ân, Mộc Khôi, Ngải Nghĩa Hải. Luận về điều binh khiển tướng, hắn còn xa mới bằng được Chủng Phóng, Trương Phổ, Dương Kế Nghiệp, cho dù là một số hàng tướng như Trương Sùng Nguy, Lý Hoa Đình, bản lĩnh cũng mạnh hơn hắn nhiều.
Cho nên Kha Trấn Ác một mặt làm tốt bổn phận của mình, một mặt nghiên cứu những trang binh thư do tổ tông để lại, hắn luôn mang theo một quyển bên người, khi nào rảnh rỗi lại đem ra xem. Một mặt hắn khổ luyện binh thư, đem những kinh nghiệp thực chiến so sánh đối chiếu với những gì đã đọc được trong binh thư, một mặt thường xuyên tham khảo, học hỏi những vị tướng lĩnh khác, cho dù quan vị của đối phương thấp hơn hắn, hắn cũng không ngại mà hỏi. Cứ lao tâm lao lực như vậy, cho dù cơ thể hắn có khỏe như trâu thì một khi hết ngày, cũng mệt mỏi rã rời.
Bỏ trọng giáp xuống, Kha Trấn Ác mệt mỏi ngồi xuống ghế, Mục phu nhân nghe thấy tướng công đã về, liền đi từ trong nội trái ra, thấy dáng vẻ của tướng công, cảm thấy vô cùng xót xa. Tính tình nàng tuy điêu ngoa, Kha Trấn Ác lại có chút sợ vợ, nhưng tình cảm hai người vô cùng sâu đậm. Mục phu nhân vội bước lên trước, nhẹ đấm bóp vai cho tướng công, dịu dàng nói: “Mệt rồi sao, thiếp đã hầm gà mái với kỳ tử cho chàng, ăn trước đã rồi đi ngủ, đêm nay còn phải đi tuần, đừng để mệt mỏi quá”.
“Nương tử không cần phải bận tâm, cơ thể ta rắn chắc, không có gì đáng ngại cả”. Kha Trấn Ác vồ vỗ vào tay vợ, cười nói. Hắn lại theo thói quen, mang cuốn binh thư đã đọc một nửa từ trong người ra, vừa thường thức sự dịu dàng chăm dóc của thê tử, vừa nhân tiện đọc thêm. Đúng lúc này, một tên tiểu hiệu lưng cắm hồng kỳ chạy vọt vào, chắp quyền bẩm báo: “Báo! Kha tướng quân, bại quân của Dạ Lạc Hột Cam Châu và Lý Phi Thọ Tuy Châu đã chạy hướng về Ngân Châu ta, bây giờ cách thành bảy mươi dặm”. Kha Trấn Ác kinh ngạc, vội vã đứng lên, trầm giọng nói: “Số lượng quân địch là bao nhiêu, trận hình quân như thế nào? Có mang theo vũ khí công thành gì không?”.
Tiểu hiệu đó bẩm báo: “Số lượng quân địch vào khoảng trên dưới một vạn, tuy là bại quân nhưng hình sắc vẫn rất ung dung, không mang theo chiến xa giáp trượng gì, xem ra là muốn đi vòng qua Ngân Châu ta để tháo chạy về Tuy Châu”.
“Tiếp tục thăm đò!”.
“Tuân mệnh!”. Tiểu hiệu đó lại chạy đi như bay, Kha Trấn Ác vội vã cầm áo giáp, vừa đi vừa khoác vào người, Mục Thanh Tuyền nói: “Phu quân muốn đăng thành chuẩn bị thủ thành sao?”.
Kha Trấn Ác nói: “Đúng thế, tuy xem dáng vẻ của chúng không giống như muốn công thành Ngân Châu ta, có điều cẩn thận vạn năm, không thể sơ xuất một khắc, ta lập tức đăng thành thủ thành”.
Mục Thanh Tuyền suy nghĩ một chút rồi vội nói: “Phu quân sao không chủ động xuất thành, ngăn cản đường thoái lui của chúng”.
“Sao cơ?”. Kha Trấn Ác dừng tay lại, kinh ngạc nhìn ái thê, chần chừ nói: “Chủ động dẫn binh ngăn cản đường thoái lui của chúng sao?”.
Mục Thanh Tuyền bước tới gần, dịu đàng nói: “Phu quân, khi binh Tuy Châu đến, binh mã gần bốn vạn người, bọn chúng giống như một bó đuốc đem từ Tuy Châu đến, phu quân lại chỉ có binh lực một vạn năm nghìn thủ tốt, không thể xuất chiến, một mặt lại đi bẩm báo với Hạ Châu, một mặt thủ thành trì, đây là cách làm thỏa đáng. Còn bây giờ, quân địch đại bại quay về, quân tình truyền báo lại nói bây giờ ba vị đại nhân Lý Kế Đàm, Trương Sùng Nguy, Trình Thế Hùng đang truy đuổi phía sau. Địch sớm đã sắp tan thuyền rồi, không thể chiến một trận lớn, nếu như chúng ta vẫn kiên thủ thành trì, ngồi nhìn chúng chạy thoát, há chẳng phải là mất đi chiến cơ sao?”.
“Ừm...”. Kha Trấn Ác dắt đao vào hông, trầm giọng nói: “Thái úy lệnh cho ta bảo vệ Ngân Châu, còn bây giờ... Vạn nhất có gì không hay, Kha Trấn Ác này có chết trăm lần cũng không thể chuộc tội”.
Mục Thanh Tuyền lại nói: “Phu quân vẫn đang tự trách mình vì lần trước để thất thủ thành Ngân Châu sao? Phu quân, thắng bại là chuyện thường của binh gia, cho dù là quân thần binh thánh cũng không thể không có lúc bại trận, mất chiến cơ, nếu như chỉ vì một lần thất bại mà sợ lớn sợ bé, không dám chủ động nắm bắt chiến cơ, vậy người đó không phải là bại một lần, mà là vì một lần bại mà thành một kẻ thất bại cả đời.
Bây giờ quân địch tổng cộng chỉ có hơn một vạn, hơn nữa đều là tàn binh bại tướng, chiến lực của chúng chỉ cần nghĩ cũng biết. Bọn chúng nếu đã đến đây thì ba vị tướng quân Lý, Trương, Trình chậm lắm thì nửa ngày cũng tới, lúc này chủ động ép địch ở ngoài, nguy hiểm cực nhỏ. Nếu như có thể bắt được cả hai tên đó thì đối với thái úy mà nói lại là đại hỉ làm chấn hưng lòng quân, phu quân cũng vì thế mà được nở mày nở mặt. Còn nếu như phu quân vui vẻ, mở to mắt để cho chúng tháo chạy qua trước mắt mình, thì sau này trước mặt các vị đồng liêu còn thể diện gì nữa, trước mặt đám thuộc hạ còn có thể ngẩng đầu không?”.
Kha Trấn Ác nghe vậy lòng rất rung động, nhưng thất bại lần trước suýt nữa đã đưa tang cả gia quyến nhà thái úy. Chuyện lần đó quả thực như một ngọn lửa yêu ma vô hình cứ dày vò hắn, cho nên hắn vẫn chần chừ nói: “Nhưng... Nhưng Ngân Châu là một môn hộ trọng yếu của thái úy, nếu như nơi này mất đi thì Kha Trấn Ác ta có chết tạ tội cũng không thể đền hết, thật sự nếu như có chút chuyện, chỉ e...”.
Mục Thanh Tuyền đã có chút tức giận, trầm giọng nói: “Phu quân, tình hình quân địch bây giờ đang gặp nhiều bất lợi, cũng không thể dễ dàng lấy đi Ngân Châu ta, huống hồ viện quân rất nhanh sẽ đến, còn ý đồ của quân địch là tháo chạy. Làm tướng thì trí, tín, nhân, dũng, nghiêm, đều không thể thiếu được, nếu như ngay cả việc này chàng cũng không làm được thì chúng ta đừng làm chức quan này nữa, thiếp sẽ thu dọn hành lý, thỉnh phu quân xin từ quan với thái úy, chúng ta trở về Mục Kha trại tiếp tục làm người săn bắn trong rùng”.
Kha Trấn Ác bị thê tử kích cho mấy câu, không khỏi mặt đỏ lên, cắn răng nói: “Được! Ta sẽ dẫn năm nghìn binh xuất thành chiếm cứ yếu địa, cản đường lui của địch, thành Ngân Châu này...”.
Mục Thanh Tuyền nói: “Thiếp sẽ lập tức mặc giáp, thay phu quân phòng ngự thành, bên Lý đại nhân thiếp cũng sẽ thay phu quân báo một tiếng, binh quý thần tốc, không thể chần chừ. Phu quân, nếu đã quyết định rồi thì không thể có một chút do dự nào nữa”.
“Ta biết rồi, ta đi đây”. Kha Trấn Ác vỗ vỗ vỏ đao, mặt mày đầy hào khí, hắn xoay người bước đi, đi đến cửa đột nhiên quay người lại, hô lên: “Nương tử!”.
Mục Thanh Tuyền đang định quay vào hậu trái mặc giáp, nghe tiếng gọi liền tức giận nói: “Lại sao nữa?”.
Kha Trấn Ác đứng yên tại chỗ nói: “Kha Trấn Ác có được hiền thê như nàng, đời này không còn gì phải hối hận”. Nói rồi liền quay người chạy nhanh như bay.
Mục Thanh Tuyền ngẩn ra, nhìn theo lưng hắn, đột nhiên lau lau khóe mắt, mắng nhẹ: “Đồ ngốc này...”. Nhưng khóe miệng nàng lại nở ra một nụ cười ngọt ngào.
Mục Thanh Tuyền vừa vội vã bẩm báo cho Lý Nhất Đức, vừa đích thân mặc giáp đăng đài thủ thành. Kha Trấn Ác điểm đủ năm nghìn binh, lên khoái mã xuất thành tới núi Đàn Hợp Yên, phía tây thành Ngân Châu. Nơi này là con đường binh mã của Dạ Lạc Hột và Lý Phi Thọ phải đi qua, nơi này có ưu thế về địa lý, nếu như muốn đánh ngăn chặn thì đây là lựa chọn thích hợp nhất.
Kha Trấn Ác đem binh đi trước tới Đản Hợp Yên, lập tức bố trí trận hình, đào chiến hào, hố mai phục, nơi bắn cung, dưới sự bố trí của Kha Trấn Ác, mọi thứ đều đâu ra đấy. Phòng ngự chính là bản lĩnh lớn nhất của Kha Trấn Ác, hơn nữa hắn giỏi nhất lợi dụng địa hình xung quanh, cho dù là một cành cây một cọng cỏ, một tảng đá hay một cái hố đều có thể được hắn dùng tới.
Thời gian này tuy ngắn, nhưng dưới sự chỉ huy của hắn, quả đồi thấp này cũng trong một thời gian ngắn được hắn biến thành một tòa binh ải giống như khuôn đúc, Kha Trấn Ác đã dùng đến trận nhãn của Điêu Thuyền động trong truyền thuyết. Hắn đưa mắt nhìn về xa xa thấy đã có bóng đáng của quân địch, lại thấy trận địa phòng ngự mình vừa mới hoàn thành, đột nhiên động linh cơ, liền gọi người cắm nhiều cờ trên đỉnh núi, chặt nhiều cây giả làm một số lô cốt. Nhất thời nhìn binh mã trên núi, như thăng gấp nhiều lần.
*
* *
Binh mã của Dạ Lạc Hột và Lý Kế Quân vội vã tháo chay qua chân Đàn Hợp Yên, từ xa đã nhìn thấy có rất nhiều cờ trên núi, binh mã bố trí dày đặc, Dạ Lạc Hột vội vã ghìm cương ngựa lại, sợ hãi thất sắc, tang thương nói: “Xong rồi, xong rồi, lần này thì xong rồi, ngài không phải đã nói là binh mã Ngân Châu tuyệt đối không dám xuất thành nghênh chiến sao, ngài nhìn xem kia là cái gì?”.
Lý Kế Quân thấy khí thế binh ải tiền phương nghiêm mật, trong lòng đột nhiên nặng nề: “Tính sai rồi, ta lại tính sai rồi, lẽ nào... Lẽ nào ông trời thật sự đã định Lý Kế Quân ta phải mất mạng tại đây?”.
Bọn họ không phải là sợ chiến, chỉ là truy binh đuổi quá sát, lần này tuy có thể bỏ xa một chút, nhưng chưa cần tới nửa ngày truy binh cũng sẽ đuổi tới. Lại nhìn trận hình phía trước, e là thủ quân Ngân Châu đã xuất hết quân tinh nhuệ ra, thề không để cho một binh một tốt của bọn họ tìm thấy đường sống, nếu thật như đánh một trận thì quả núi này bọn họ chưa chắc đã có thể công đánh, cho dù có đánh được cũng không phải là chuyện một sớm một chiều có thể làm được, mà khi đó truy binh tất cũng đuổi đến, bọn họ nào có cơ hội thoát được.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 40:Tấp Nập Đồng Hành (1+2+3)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 40: Tấp Nập Đồng Hành
Tất cả hy vọng đều trở thành bọt nước, Lý Kế Quân ghìm ngựa nhìn lên đình núi, ngẩn ra một hồi lâu, lại không nghĩ ra nên tiến hay nên lùi. Vương tử A Lý vừa nhìn thấy binh sĩ xung quanh đấy do dự và hoảng hốt, biết rằng nếu như lại chần chừ tiếp, không khí sợ hãi sẽ bao trùm tất cả, chưa cần nói đến đánh, ngay bây giờ đội tàn quân này sắp sửa tan rã đến nơi rồi, nếu như lại không chiến thì cha con họ và các bộ lạc còn lại của Cam Châu sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt, vì thế hắn liền rút loan đao ra, cao giọng hô lớn: “Chúng tướng sĩ nghe lệnh, bây giờ lùi tất chết, phía trước còn có một con đường sống, chúng ta liều chết xông qua!”.
Dạ Lạc Hột và Lý Kế Quân bị lời nói của hắn làm thức tỉnh, lập tức rút đao của mình ra ra lệnh cho tam quân, những người trong lòng vừa muốn tan rã liền phấn chấn lại.
Kha Trấn Ác đứng trên núi, thấy tình hình địch quân như vậy, không khỏi thầm cười lạnh, tự tin cũng tăng lên nhiều lần. Vừa thấy sau khi quân địch hoảng loạn, lại từ từ bày bố trận hình tiến công dưới sự ép buộc của đám tướng lĩnh, lập tức cũng ra lệnh chuẩn bị. Chính vào lúc này, một kỵ mã hậu phương vội vã phi lên núi, rồi xuống ngựa, chạy tới trước chỗ chỉ huy của hắn, lớn tiếng nói: “Tướng quân, tướng quân. Phi Vũ truyền mệnh lệnh khẩn cấp của thái úy tới”.
“Cái gì?”. Kha Trấn Ác vội bước lên. Cầm lấy quân thư, Kha Trấn Ác đọc một lượt, sắc mặt lập tức lộ ra điệu cười còn khó coi hơn khóc: “Để... Để cho chúng thoát?”.
*
* *
Tin tức Dương Hạo tây chinh ung dung trở về Hạ Châu đã truyền đến, sĩ khí tiền tuyến Hoành Sơn lập tức đại chấn, đi theo đó là sự gia nhập của bốn vạn binh tinh nhuệ, làm cho trận hình phòng ngự Hoành Sơn được Dương Kế Nghiệp bố trí cho mưa gió cũng không lọt càng trở nên kiên cố. Lại năm ngày nữa, Dương Hạo đã đích thân giá lâm Hoành Sơn, tuần thị chiến tinh, với sự cổ vũ chàng, thủ quân Hoành Sơn vô cùng phấn chấn, chủ động xuất kích, làm cho Tống quân nhận sự đả kích lớn.
Biết được Dương Hạo đã trở về Hạ Châu và tăng cường binh lực ở Hoành Sơn, Phan Mỹ và Vương Kế Ân cũng tạm thời dừng tiêu hao nội bộ, thống nhất kế sách đối ngoại. Đầu tiên là dừng phát động một loạt các cuộc tiến công vào Hoành Sơn, sau đó lợi dụng những cương vực và hiểm ải đã chiếm cứ được xây dựng các chiến sự, bắt đầu cắm đồn cắm chốt đánh ổn định, chuẩn bị tốt để chiến lâu dài. Phía Dương Hạo cũng dựa vào hiểm yếu, gia cố công sự phòng ngự, chiến sự quyết liệt hai bên tạm thời dừng lại một giai đoạn, cùng nhau bước vào thời kỳ nghỉ ngơi, hồi phục chuẩn bị cho chiến tranh.
Dương Hạo tới Hoành Sơn, lập tức triệu gặp Dương Kế Nghiệp và đám đại tướng tâm phúc, bí mật bàn bạc ba ngày, sau đó Dương Kế Nghiệp đã truyền xuống một loạt mệnh lệnh: Binh sĩ chiến đấu lâu ngày mệt mỏi chuyển xuống phòng tuyến thứ hai nghỉ ngơi dưỡng sức, quân đội mới điều phát đến tới phòng tuyến thứ nhất, thương binh tàn tướng bị thương chuyển về Hạ Châu dưỡng thương, lương thực không ngừng được chuyển đến Hoành Sơn, lần lượt cắm chốt binh ải ở những điểm trọng yếu. Đồng thời lệnh cho quân Hạ Châu xây thành đắp lũy, đào hào, binh doanh công sự vốn được dựng ở bên ngoài thì đều xây thêm một lớp nữa, ở giữa nhồi bùn đất và cỏ cây, làm cho nó dày lên hết cỡ. Với cách này thì không chỉ làm cho công sự kiên cố hơn mà còn kiêm chức năng tránh cái lạnh của mùa đông, một số người có con mắt tài giỏi có thể nhìn ra, trận chiến này e rằng không dễ đánh.
Cùng lúc đó, quân thư công hàm cũng ngày càng nhiều, trong một ngày bồ câu đưa thư và chim ưng đưa thư đậu xuống vô số, hồng ký tín soái qua lại như con thoi. Tuy nói thái úy bây giờ đang ở Hoành Sơn, quân tình công văn các loại đương nhiên là phải đưa đến đây, nhưng truyền báo dày đặc như vậy, tin tức nhiều như vậy vẫn làm cho người ta cảm thấy đại soái tất đang chuẩn bị một hành động lớn.
Có điều ở cả Hà Tây này người thật sự biết được Dương Hạo muốn xưng đế tổng cộng cũng chỉ không quá ba mươi người, biết được hắn chuẩn bị cho sự thất bại của lần xưng đế đầu tiên này ngoài bản thân Dương Hạo ra thì chỉ có sáu người biết: Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông, Chiết Tử Du, Dương Kế Nghiệp, Trương Phổ và La Đông Nhi.
Khi đại mạc vào thu, cây cỏ héo úa, gió thu lành lạnh, hồ mã đang béo. Trên thảo nguyên, bộ lạc mục nhân đang nhanh chóng tranh thủ tích trữ lương thực cho mùa đông lạnh lẽo, lấy Linh Châu làm trung tâm, vùng lương điền rộng lớn dựa vào Hạ Lan Sơn và Hoàng Hà cũng đang bước vào mùa thu hoạch. Một bãi cỏ một mẫu có thể nuôi được nhiều nhất một con ngựa, nhưng một mẫu đất để trồng lương thực thì sản lượng phải thu được từ một đến hai thạch, đủ để dùng cho một hộ gia đình năm người trong một mùa đông. Khi những người nông dân thấy được lợi ích của nó thì vừa vui mừng phấn khởi thu hoạch lúa gạo, vừa bắt đầu tính toán nhân mùa đông nhàn rỗi mà khai phá thêm mấy khoảnh đất hoang để năm sau mở rộng trồng trọt.
Dương Hạo không những cung cấp những hạt giống tốt cho những người nông dân chịu trồng trọt, mời những chuyên gia có kinh nghiệm phong phú từ Trung Nguyên đến, mà còn để cổ vũ cho việc trồng trọt đã giảm thuế má lương thực cho họ, có những chính sách ưu đãi tương đối rõ ràng dành cho khai hoang trồng trọt.
Tiền tuyến Hoành Sơn cho dù một khi bước vào không khí căng thẳng thì dường như hoàn toàn không ảnh hưởng đến cuộc sống của dân chúng hậu phương. Đánh trận đối với bách tính nơi này mà nói, họ đã nhìn thấy quá nhiều rồi, cho dù là dân chúng bình thường, tinh thần cũng được rèn luyện vô cùng vững chắc. Trong hoàn cảnh hiểm ác như thế này, bọn họ cũng kiên cường hơn nhiều so với dân chúng nơi khác, cũng càng lạc quan hơn, chỉ cần một tia hy vọng nhỏ nhoi cũng có thể mang đến cho họ hoan lạc và hài lòng.
Cơ cấu thống trị với quy mô sơ khai của Dương Hạo đã bắt đầu mở đủ mã lực. Ở các mặt như quân sự, chính trị văn hóa, tuyên truyền đều bắt đầu vận hành một cách khua chiêng gõ trống, chuẩn bị đầy đủ các loại chiến lược vì Dương Hạo xưng đế, vì chư châu Hà Tây bình an vượt qua thiên địch và nhân địch của mùa đông năm nay.
Ý thu thật sự càng ngày càng nồng, dưới chân núi, cỏ cây đã biến thành một màu vàng khô, những cây đại thụ lá xanh che trời giờ cũng không nhìn thấy nữa. Gió thu thổi tới, lại những chiếc lá vàng bay bay, những cành cây rung lên. Trên thảo nguyên mênh mông bát ngát, tuy ánh mặt trời vẫn chói lòa, nhưng lại thiếu đi mấy phần ấm áp, sự tiêu điều giữa khoảng không trời và đất dường như cũng cảm nhận được sát khí vô cùng của hai đại quân ở Hoành Sơn.
“Cù lục, cù lục, cù lục...”. Trong son cốc vang lên những tiếng vó ngựa dứt khoát, mấy con chim đang tìm kiếm chút thức ăn trong lớp lá khô dưới đất sợ hãi dang đôi cánh bay lên cành cây, chúng quan sát phía dưới, kiên nhẫn đợi hành nhân đi qua, có điều hai người hai ngựa cứ đứng mãi dưới gốc cây.
Ở cách đó khoảng một đường mũi tên bay, Mục Vũ thống lĩnh những thân tín thị vệ của Dương Kế Nghiệp đứng đợi một chỗ, nhanh nhẹn đưa mắt quan sát chung quanh. Còn phía dưới gốc cây, Dương Hạo ghìm cương ngựa, ngồi trên ngựa sóng vai với Chiết Tử Du.
“Tử Du, Triệu Cảnh tất nhiên sẽ giám sát thật nghiêm mật đối với Chiết gia, một mình nàng tới Biện Lương, an nguy cá nhân chưa cần nói đến, mà muốn cứu bọn họ ra càng không phải là chuyện dễ dàng, nàng thật sự muốn đi sao?”.
Chiết Tử Du gật nhẹ đầu: “Bọn họ là người thân của ta, từ sau khi xảy ra chuyện, ta vẫn chưa đi thăm bọn họ, ngài bảo ta sao có thể yên tâm được? Không đi để đích thân nhìn thấy họ, ta thật khó an tâm. Vốn mang trách nhiệm của Chiết gia quân, có trách nhiệm với Phủ Châu, ta cho dù ngày đêm có mong nhớ họ, mơ thấy họ cũng không thể đi được. Nhưng bây giờ... Dù sao một mình nhẹ nhõm, ta có thể đi thăm họ rồi. Ngài xưng đế ở đây, ta đi trước mấy ngày, đường đi cũng dễ dàng hơn một chút”.
Nàng lại nhìn Dương Hạo, hàn ý trong mắt đần dần chuyển thành sự dịu dàng: “Bất kể như thế nào cũng cảm ơn ngài, trách nhiệm này ta có thể yên tâm giao cho ngài, cũng chỉ có ngài mới chịu gánh giúp ta. Dương... Hạo ca ca. Coi như ta nợ huynh đi...”.
Dương Hạo đột nhiên đưa tay ra nắm lấy dây cương trên con ngựa, nhíu mày nói: “Sao lại nói khách khí thế, làm ta càng nghe càng thấy bất an, lẽ nào... Nàng một đi không trở lại sao”.
“Ta không biết...”. Ánh mắt Chiết Tử Du có chút mờ mịt: “Thật sự ta không biết, ta không nỡ bỏ người thân của ta, lại không biết phải cứu bọn họ như thế nào. Ta không biết nên làm sao, cũng không biết tương lai sẽ sống ra sao. Đi một bước... Nhìn một bước vậy...”.
“Tử Du, ta biết nàng ở Biện Lương còn có một số thế lực mai phục, trong Tùy Phong còn có một số người đáng tin trung thành nghe mệnh lệnh của nàng, nhưng cho dù nàng có bản lĩnh hơn nữa cũng không thể cứu được tất cả người nhà ra, nếu như cứu một hai người, e rằng sẽ làm hại đến những người khác, nhất thiết đừng để tình cảm ảnh hưởng đến hành động”.
Chiết Tử Du cư miễn cưỡng: “Ta hiểu, ta tuyệt đối sẽ không hại người nhà ta đâu, phàm chuyện gì ta cũng sẽ cẩn thận”.
“Nàng không hiểu!”. Dương Hạo tăng nặng ngữ khí: “Nàng cho rằng ta thu nhận binh mã của nàng, đồng ý thay Chiết gia nàng xả cơn uất khí, sau đó yên tâm thoải mái không cần quan tâm đến Chiết gia nàng nữa sao? Đối với Dương Hạo ta, tâm ý của nàng đã nguội lạnh rồi, đúng không? Ta nói cho nàng biết, ta từ trước đến nay ta chưa từng có ý định này, chỉ là có một số việc trước khi chưa chuẩn bị xong thì ta không muốn tùy tiện nói ra, không muốn tùy tiện hứa với nàng. Ta đã đang nghĩ cách cứu toàn bộ gia đình nàng ra”.
Chiết Tử Du cười khổ nói: “Không thể được, trừ phi huynh có thể đánh đến Biện Lương, đoạt lấy giang sơn Triệu thì huynh có thể không? Huynh không thể đánh được, mà cho dù có thể huynh cũng sẽ không có ý thay Tống tự vị, chưa bao giờ có. Dã tâm lớn nhất bây giờ của huynh cũng chỉ là muốn chiếm cứ vùng đất vô chủ Lũng Hữu, tái tạo một thiên hạ, đúng không?”.
Dương Hạo kinh ngạc nói: “Sao nàng biết?”.
Chiết Tử Du thở dài nói: “Ta sao biết ư? Bản tính làm người của huynh và tính khí của huynh ta lại còn không hiểu sao? Đi tới bước ngày hôm nay là do huynh bị ép vào bước đường cùng, huynh sẽ tuyệt đối không chịu đại cử giao binh quyền với Tống, để cho cả Trung Nguyên lại rơi vào chiến loạn, bắc quốc Khiết Đan nhìn chằm chằm như con hổ đói, Triệu Quang Nghĩa e ngại nó. Còn huynh... Huynh và Khiết Đan có mối quan hệ ngầm, giao tình thâm hậu, nhưng huynh cũng đang phòng bị chúng, sự hiềm nghi của huynh đối với chúng còn vượt xa đối với Tống Quốc, huynh tưởng ta không nhìn ra sao?
Khi huynh bàn luận đại sự thiên hạ với chúng ta, chỉ nói muốn lấy Lũng Hữu đang nằm trong tay người Thổ Phồn vào tay mình, nhưng đã từng nói đến mưu đồ Quan Trung, Tây Thục không? Không có! Có được Lũng mà lại vọng Thục, lấy được Lũng Hữu rồi là chiếc chìa khóa mở Quan Trung đã vào tay, huống hồ ở Thục địa này còn hai hai viên phục tử là Tiêu Lục và Thiết Ngưu, một khi Lũng Hữu đã vào tay, Quan Trung và Thục địa sẽ dễ dàng lấy được, từ đây mà đông vọng, chuyện này có gì mà không thể?
Nhưng ngài lại lợi dụng danh tiếng của phụ tử Lý Dục để gây ra một số rắc rối ở Giang Nam, dẫn tới đả kích để có thể nép cờ nằm im. Nếu như ngài có lòng với Trung Nguyên, ngài hoàn toàn có thể làm tốt hơn. Còn nghĩa quân Thục địa nữa, tác dụng của bọn họ đối với ngài mà nói chẳng qua chỉ là để kéo lại bước thoái của Tống Quốc, giảm nhẹ áp lực của Hà Tây ngài, ngài chưa từng nghĩ sẽ biến họ thành một đội binh có thể dùng. Ngài, tuy đắc thiên độc hậu, nhưng lại rất dễ hài lòng, cũng chưa từng có dã tâm gì”.
Dương Hạo nhìn nàng, gió thu lại thổi tới, đôi mắt hắn đầy sự ấm áp: “Người hiểu ta chỉ có Tử Du, có một số chuyện ta nói ra nàng cũng sẽ không tin, vì thế ta mới vậy. Không phải vì ta lòng không có đại trí, mà là...”.
“Sao cơ?”.
Dương Hạo hứng thú cười, ngẩng đầu nhìn trời, từ từ thở ra một hơi nặng nề, quyết định bỏ qua chủ đề này không nói nữa, chuyển sang chuyện khác: “Tử Du, ta thật sự đã nghĩ làm thế nào để cứu người nhà nàng, ta định... Nếu như thật sự không còn cách nào khác thì khi tự bỏ đế hiệu, xưng vương hưu binh, ta sẽ lấy ngọc tỷ truyền quốc để đổi lấy người nhà nàng. Cho nên lần này nàng đến Biện Lương dò thám tình hình người thân, tâm trạng này ta có thể hiểu, nhưng nhất thiết chớ làm ra chuyện đánh rắn động cỏ, nếu không ngược lại sẽ hại bọn họ”.
Chiết Tử Du kinh ngạc mở to mắt ra, thốt lên: “Ngài nói cái gì? Đó... Đó là ngọc tỷ truyền quốc!”.
Dương Hạo nói: “Trong mắt ta, nó chẳng qua chỉ là một cục đá mà thôi, nàng cũng từng nói ta không có ý gì với Trung Nguyên, thì ta cần nó để làm gì? Trong mắt ta, nó sao có thể bằng được với chuyện an toàn của cả nhà nghĩa huynh chứ”.
“Ngài thật sự điên rồi, giao ra ngọc tỷ, đổi lấy người nhà ta, Triệu Quang Nghĩa không lo lắng huynh trưởng ta sẽ vạch mặt chân tướng chuyện hắn xuất binh tới Phủ Châu sao? Nếu ngài đã đầu hàng, rõ ràng là ngài không thể chống chọi lâu được nữa, hắn sẽ không vì thế mà phái thêm quân, nhất cử tiêu diệt ngài sao?”.
Dương Hạo mỉm cười: “Ta thấy nàng mới là quan tâm thành loạn ý, sự thông minh trí tuệ ngày xưa đều không thấy nữa rồi. Khi ta chưa làm cho hắn mệt mỏi hết sức thì sao có thể bắc thang cho hắn đi được? Hắn còn có dư sức để tiếp tục phát binh sao? Hắn không sợ ta đem ngọc tỷ truyền quốc tặng cho hoàng đế Đại Liêu để kết đồng minh sao? Ha hạ nàng yên tâm đi, chưa đến lúc bất đắc dĩ, ta sẽ không dùng nó để trao đổi đâu, nếu như dùng nó để trao đổi thì tất cũng phải suy nghĩ toàn diện, suy nghĩ tới tất cả hậu quả của nó”.
Chiết Tử Du lặng yên nhìn hắn, trong mắt dần dần trào lên sự cảm động, nói nhẹ: “Hạo ca ca, nếu như... Huynh thật sự có thể cứu được cả nhà ta ra, thì cả đời Chiết Tử Du này đều sẽ không bướng bỉnh với huynh nữa, làm nô tì làm nha hoàn cũng được, đều sẽ nghe theo lời sai bảo của huynh. Vị Đường phu nhân đó... Nếu có chọc muội tức giận, muội cũng sẽ không để bụng nữa...”.
Dương Hạo lẩm bẩm nói: “Ta còn thiếu nô tì sao? Đó là ngọc tỳ truyền quốc, dùng để đổi lấy một nô tì quả thực là lỗ một chút”.
Chiết Tử Du nhất thời xúc động, tình ý trong lòng đều bộc lộ ra hết, nào có cô nương nào lại không biết xấu hổ, tự nói rõ chuyện chung thân cả đời chứ, cái gì mà làm nô tì, làm nha hoàn, ý bên trong lời nói đều nói rõ cả ra rồi, hắn lại còn oán trách gì nữa, cũng không biết hắn ngốc thật hay giả ngốc đây.
Chiết Tử Du đã rất mệt mỏi, vốn tâm lực tiều tụy, chẳng còn muốn suy nghĩ gì nữa, trước mặt Dương Hạo đầu nàng càng trở nên mù mờ như một hũ tương, lúc này nghe hắn oán trách, cũng không nghĩ gì cả, liền tức giận sẵng giọng nói: “Chẳng lẽ huynh thiếu vợ sao?”.
Trong mắt Dương Hạo lộ ra một ý cười, nhẹ nói: “Trời đất này chỉ có một ngọc tỷ truyền quốc, lại cũng chỉ có một Chiết Tử Du, cho nên nàng và ngọc tỷ truyền quốc giống nhau, trên thế gian này đều là độc nhất vô nhị. Dương Hạo ta lòng không có đại trí, nhưng đối với ta nàng còn đáng giá gấp trăm lần cục đá lạnh lẽo đó. Tử Du, từ trước đến nay ta chưa từng muốn làm một cô gia quả nhân, từ trước đến nay ta chưa từng nghĩ rằng mỗi một người thân trong gia đình là không bằng một chức vị, giống như nàng đối với người thân nàng vậy. Cho nên... Ta không ngăn cản nàng, cho nên... Ta nguyện vì nàng mà làm tất cả...”.
Chiết Tử Du rất muốn nói gì đó, nhưng lại cảm thấy sống mũi cay cay, rất muốn khóc. Nàng sịt sịt mũi, cố khống chế không để nước mắt rơi: “Muội đi đây!”.
Dương Hạo buông dây cương ngựa nàng ra, nói: “Được, ta để nàng đi! Nhớ kỹ, bảo trọng chính mình, bảo trọng gia nhân, sớm quay trở về, vì nàng là của ta! Người nhà của nàng, để ta bảo vệ!”.
Chiết Tử Du nhìn thật sâu vào mắt hắn, rồi đột nhiên thúc ngựa phi như bay. Nàng không dám nói thêm gì nữa, đúng vậy, Dương Hạo có lúc do dự thiếu quyết đoán, có lúc sợ sệt, nhưng khi hắn đã thật sự quyết định chuyện gì đó thì lại thường vào những lúc người khác không thể làm. Trong thiên hạ này liệu còn có người đàn ông thứ hai nào chịu vì nàng mà trở thành đối thủ với đế vương Trung Nguyên không? Trong việc này còn có người thứ hai xem trọng nàng hơn cả ngọc tỷ truyền quốc, thứ đại biểu cho hoàng quyền thần thụ, chính thống hợp pháp không?
Một cục đá sao? Cục đá này là trọng khí đất nước, có được nó như nhận được ý trời, Dương Hạo sao có thể không hiểu ý nghĩa quan trọng của nó chứ? Hắn sớm muộn gì cũng muốn đăng hoàng đế vị, sao lại không hiểu tác dụng trọng đại của nó?
“Chiết Tử Du ta là độc nhất vô nhị sao?”. Nàng biết nàng không phải, mỹ nhân trong thiên hạ muốn có là có, Dương Hạo nếu như muốn thì có hàng tá người đến với hắn, mà ngay cả Diễm Diễm, Oa Oa trong phủ Dương Hạo bây giờ tài mỹ cũng không hề kém hơn nàng, thậm chí vị vốn là hoàng hậu Đường quốc đó bây giờ gọi là tu chân nữ quan, mỹ miều còn hơn nàng ba phần. Nhưng trong lòng Dương Hạo nàng là độc nhất vô nhị.
Đúng vậy, hắn nói ít, nhưng hắn chỉ cần mở miệng là đã hơn rất nhiều so với những lời thề non hẹn biển. Đúng vậy, hắn nói ít, nhưng chỉ cần hắn làm là làm đến kinh thiên động địa.
Bao nhiêu ấm ức và oán trách đều đã bay lên chín tầng mây, nàng không dám không đi, nếu không đi có lẽ sẽ yếu lòng mà ngả vào lòng hắn, lại không nỡ rời đi nữa.
Nàng đi rồi, lúc trước trái tim luôn trói chặt ở Biện Lương, nhưng bây giờ đi rồi, trái tim lại trói chặt vào người Dương Hạo.
“Cái tên đáng ghét này!”.
Chiết Tử Du quất mạnh roi ngựa, trong lòng vừa ngọt vừa chua chát, lại nhẹ hô một tiếng vừa buồn vừa vui.
Dương Hạo ngồi thẳng trên ngựa, đến khi bóng dáng Chiết Tử Du đã ẩn qua sơn lộ, liền giơ roi ngựa lên, phía sau lập tức có hai kỵ mã phi tới. Người trên ngựa nhìn giống như hai cha con, khoảng ba lăm, ba sáu tuổi, một người mặt vàng nhìn như tiểu hàng gia, người gầy gò, tay lại rất nhanh nhẹn. Người kia là một thiếu niên mười ba, mười bốn tuổi, mặt mày thanh tú.
“Việc ta giao cho hai người, bây giờ đành phải thêm vào một việc”. Dương Hạo thở dài, quay người nói: “Tuy Tử Du thông minh cơ cảnh, ở Biện Lương cũng có thuộc hạ trung thành, làm việc cũng biết nặng nhẹ, có điều trong đầm rồng hang hổ dù sao cũng trùng trùng hiểm nguy. Mật thám hoàng thành ty tuy không có gì gọi là quá tài giỏi, nhưng dù sao cũng là địa đầu xà, khi các ngươi làm tốt việc của mình thì đồng thời cũng hết sức có thể, chăm sóc nàng ấy một chút”.
“Đại thúc yên tâm đi. Ta sẽ chăm sóc cho Tử Du tỷ tỷ”. Thiếu niên đó khi phát tiếng ra lại là giọng nữ nhi.
Hán tử trung niên bên cạnh nhăn mày lại, trách mắng: “Không phải ta đã nói là một khi cải trang thì bất kể là trước hay sau người ta, bất kỳ lúc nào cũng không được sử dụng giọng thật hay sao, phải dưỡng thành thói quen đi”.
Thiếu niên đó nghịch ngợm lè lưỡi ra, tuy không có ý gì sợ hãi, nhưng vẫn ngoan ngoãn thay đổi giọng nói, dùng giọng thiếu niên trả lời: “Cẩu Nhi biết sai rồi, lần sau sẽ không thế nữa”.
Dương Hạo mỉm cười, nói với hán tử trung niên kia: “Trúc Vận, từ lần ngươi như hấp hối trở về trước, ta không muốn ngươi lại phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng nữa, nhưng đại sự này ta quả thật tìm không ra người khác có thể đảm đương được, vẫn phải để ngươi ấm ức đi một chuyến.
Hán tử mặt vàng đó dùng giọng nam nhân nói: “Thái úy quá khách khí rồi, Trúc Vận chẳng có tài cán gì, chỉ có bản lĩnh nhảy tới nhảy lui, giấu đi tung tích thôi. May mắn được thái úy trọng dụng, lần này đi Trúc Vận nhất định sẽ hoàn thành trọng trách thái úy đã giao”.
“Tốt!”. Dương Hạo gật gật đầu: “Hai người mau đi đi, men theo đường đi đừng để mất dấu nàng ta. Đợi khi đến được Biện Lương thì ngươi hãy mai phục lại, ta cho ngươi thời gian một năm, rất nhiều chuyện đều có thể sớm sắp đặt nền tảng để hoàn thành nhất cử kinh thiên này. Đợi khi chuyện này làm xong rồi thì ngươi sẽ ở lại Hạ Châu, với công lao tích lũy của ngươi đủ để ngươi làm chưởng lý của mật báo viện, sau này không cần phải đích thân đi làm những nhiệm vụ nguy hiểm như thế này nữa”.
“Thái úy, bây giờ và sau này cách biệt một trời, Trúc Vận bây giờ đã mãn nguyện rồi. Vì thái úy làm nhiều việc hơn nữa, thuộc hạ cũng...”.
Dương Hạo nói: “Trúc Vận, trong lòng ta, ngươi không phải chỉ là một thuộc hạ”.
“Sao cơ?”. Giọng hán tử đó có chút run run, lắp bắp nói: “Thuộc hạ...”.
Dương Hạo lại không chú ý đến điều đó, hắn nhìn về phía Biện Lương xa xa, bùi ngùi thở dài nói: “Ngọc Lạc bây giờ đang ở Biện Lương, haizz, đại muội này của ta sớm đã qua tuổi hôn giá rồi, nhưng vì ta mà bây giờ ngày ngày gặp mặt tình nhân lại khó thành người một nhà. Ta đã để lỡ mất một muội muội, không muốn để mất muội muội thứ hai, huống hồ... Cổ lão bá cũng đã gấp lắm rồi. Đợi xong nhiệm vụ lần này, ngươi ổn thỏa rồi, cũng nên suy nghĩ một chút đến chung thân đại sự của mình đi”.
“Trúc Vận... Trúc Vận biết rồi, đã phiền đại nhân để tâm...”. Vốn tâm hồn thiếu nữ Trúc Vận như con nai đang chạy loạn, thì lúc này lại vô cùng thất vọng, lại là một cảm giác hụt hẫng, đáp đại một tiếng, bất giác hồi phục lại giọng nữ nhi, ngữ khí không phải không có sự u oán.
Cẩu Nhi đứng bên cạnh lại đột nhiên cười lên một tiếng, vỗ tay nói: “Trúc Vận tỷ tỷ nói sai rồi nhé. Ha ha ha, tỷ cũng dùng giọng nói vốn có của mình”.
Trúc Vận trừng mắt nhìn nó, tay giơ roi ngựa, quất vào mông con ngựa của Cẩu Nhi, Cẩu Nhi kêu lên mấy tiếng rồi ngồi thẳng lại, ngựa đã chạy cách đó cả đường cung tên, phi như bay tiếp về phía trước. Trúc Vận chắp quyền với Dương Hạo, đầy vẻ dũng cảm nói: “Thái úy, thuộc hạ cáo từ!”. Nói rồi giơ tay quất roi, hô lớn một tiếng: “Đi!”. Rồi đuổi theo Cẩu Nhi.
*
* *
Trong hậu điện Khai Bảo tự Lô Châu, một tăng nhân đang ngồi luyện võ trong điện, một loạt chưởng pháp được hắn thi triển ra thật sự là ân lôi trận trận, cương phong bài không. Hắn hô lên, tiếng hô như sấm như sét, đôi thiết chưởng vung lên quả thật là uy mãnh vô địch.
Dưới đất trong điện có rất nhiều những chiếc hố hình tròn, bên trong cắm những chiếc cọc gỗ cao hơn nửa người, những cọc gỗ đó đều có kích cỡ nhỏ như chân người, thứ gỗ được dùng là gỗ cây lê rắn chắc, cho dù dùng rìu chặt, cũng không phải là hai ba rìu đã có thể chặt đứt được nó. Nhưng tăng y áo vàng trẻ tuổi đó lại mới chỉ vung một cánh tay lên, thân cột gỗ lập tức đã bị chặt đôi, vụn gỗ bay tung tóe, chưởng pháp này không có một chút chậm chạp.
Hai hồng y lạt ma đứng bên ngoài điện bên cạnh chiếc cột lớn của điện, yên lặng nhìn hoàng y lạt ma tăng đang điên cuồng đánh chặt, hủy hoại trong điện, lại thấy hoàng y tăng nhân đó quay người lại, điên cuồng như đang muốn chạy tới góc đại điện, thổ khí khai thanh, hai tay đẩy ra, rầm một tiếng công kích vào tấm bia đá dày nửa thước.
Một tấm bia đá dày và nặng như vậy nhưng chỉ dựa vào một đôi bàn tay là đã có thể đánh vào nó, chưởng lực quả thật kinh người, nhưng hoàng y tăng nhân đó sau khi giơ tay đập vào tảng đá, tảng đá lại không hề xuy chuyển, khi tăng nhân đó từ từ quay đi, đứng vững người, hạ áp đan điền thì một màn kinh người xuất hiện, bia đá lúc này còn như không có chút hề hấn nào đột nhiên rầm rầm đổ xuống, hóa thành một đống đã vụn, rơi ngay xuống dưới vị trí của nó.
Một lão tăng lông mày bạc phơ bên ngoài điện thở một hơi, hàn khí xem ra cũng mạnh như chưởng vừa rồi, lại công kích lên tảng đá cứng như tảng đá lúc nãy, tất cả chưởng lực lại bị hút hoàn toàn vào bia đá này, không một chút rung chuyển, đây không phải là chuyện tốc độ có thể làm được, tăng nhân trẻ tuổi trong điện rõ ràng đã luyện chưởng pháp này đến độ dương cực âm nhu, cương cực hóa nghiệt, cảnh giới chí cao rồi.
“Kẻ nghiện võ đúng là kẻ nghiện võ, tuổi tác như thế này mà luyện mật kỹ trong mấy năm ngắn ngùi lại có thể luyện đến cảnh giới này”. Tăng nhân mày trắng đó tán dương một tiếng, lại cau mày nói: “Thủ ấn, chỉ là tâm pháp ngoài thân tu luyện phật tính, chỉ dẫn cho trí tuệ, hiểu được giáo lý, nhưng với sát khí như thế kia thì sao có thể luyện được Phật tính Phật tâm chứ?”.
Phật sống Đạt La mỉm cười, quay người bước đi nói: “Tông Ba đại sư, hiểu được giáo lý, cũng phải từ ngoài vào trong, theo ta thấy hắn rất có Phật tính đấy”.
Bích Túc vẫn đứng ở chỗ cũ nhìn đống đá nát vụn, lại nhìn đôi tay đỏ rần lên của mình. Mấy năm nay hắn luôn sống trong thù hận, chỉ có luyện công điên cuồng mới có thể áp chế tâm niệm sát ý của hắn. Bây giờ đại thủ ấn khó luyện nhất của hắn cũng đã luyện thành rồi, hắn không biết tiếp theo còn có chuyện gì có thể áp chế được tâm trạng đang ngày càng nặng nề theo năm tháng của hắn không.
“Dựa vào công phu quyền cước của ta bây giờ và bản lĩnh ẩn giấu tung tích ta còn không thể vào hoàng cung, giết kẻ thù lớn nhất của ta sao? Nhất định phải trên chiến trường mới có cơ hội sao? Chỉ dựa vào một thân võ công, ta có thể làm đại tướng quân sao?”. Đôi mắt hắn hơi híp lại: “Thái úy, ta không đợi được nữa rồi, ta bây giờ... Sẽ đi tới Biện Lương!”.
*
* *
Hạ Châu phủ Tiết Độ sứ những ngày này có rất nhiều tín sứ qua lại, hết sức đông đúc. Sau khi đợi Dương Hạo từ tiền tuyến Hoành Sơn trở về, thư tín lại càng nhiều, một khắc cũng không ngừng, hạc phù trên dưới ai cũng nhìn ra được, thái úy tất nhiên đang chuẩn bị cho một đại sự. Cho nên, toàn bộ thị tỳ hạ nhân trong phủ đều rất cẩn thận, làm việc gì cũng chặt chẽ dè dặt, chỉ lo xảy ra sai sót, tuy nhiên người rảnh rỗi cũng không phải không có, như Mậu nương, Long Linh Nhi không phải là thị tì trong phủ nên thời gian này lại cực kỳ nhàn rỗi.
Bát Long nữ khi chạy đến Hạ Châu đã rời khỏi quân ngũ, trở về nhà ở phủ đệ Hạ Châu, trong những ngày này đã xuất mưu họa sách cho nhị phu nhân, tin tức họ lập được chiến công được bẩm báo lên Long Hàn Hải, nghe tin báo xong Long Hàn Hải lấy làm vô cùng an lòng.
Kỳ thực sau khi hắn đến Hạ Châu cũng không phải là không có chức quan, chỉ là chức quan đó do Dương Hạo dựa theo thể chế quan liêu của Tống Quốc, phong cho là một chức quan nhàn hạ, có quan mà không có chức, chỉ lĩnh bổng lộc không có quyền hành sự, thấy Dương Hạo không quản chế chặt chẽ Long gia hơn nữa, trong lòng hắn cảm thấy ổn định hơn, lại nghe được con gái tiết lộ tin nhị phu nhân có ý ủy thác chức quan ấy, ngẫm kỹ lại, cũng định từ bỏ kế sách cho con gái tiến thân, tử tôn Long gia không thiếu tuấn tài, mà Thái úy lại trọng người tài như vậy, thì cứ đợi thế cục ổn định xuống, rồi Long gia cũng có ngày ngóc đầu lên.
Không ngờ những nhân vật trọng yếu của Hạ Châu thời gian này hoạt động thường xuyên, ngày ngày triệu họp hội nghị bí mật ở phủ tiết soái, trong vài ngày quy mô hội nghị bắt đầu mở rộng, chức quan nhàn như Long Hàn Hải cũng được triệu đi. Long Hàn Hải vừa mừng vừa sợ, chỉ biết biểu hiện của nữ nhi đã khiến cho Thái úy chú ý tới Long gia, ai ngờ sau khi hắn đến tiết đường tham dự hội nghị một lần, trở về với bộ dạng kín như bưng, hội nghị bàn những gì hắn cũng không hề nói với ai, đến huynh đệ và con trai mình hắn cũng không chịu nói, lại phái bát Long nữ mà lúc đầu tuyển từ gia tộc đến phủ tiết soái, chỉ nói với họ rằng hãy tận lực giúp mấy vị phu nhân chút chuyện.
Bát nữ như Long Linh Nhi, Long Thanh Nhi đều hiểu rằng Dương Hạo muốn xưng đế, Long Hàn Hải suy đi tính lại, trong đầu lại nổi lên ý niệm làm hoàng thân quốc thích, mong chờ rằng trong số các nàng có thể có một hai người được Dương Hạo để ý đến, tương lai có thể làm một quý phi, mà Hạ Châu lại có tiền lệ nhà có nữ nhi làm quan, Đường Diễm Diễm lại chính miệng hứa rằng sẽ tiến cử cho họ một chức quan, họ liền nghe theo lời của Long Hàn Hải, đến phù soái.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 41: Hạ Chiếu (1+2+3)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 41: Hạ Chiếu
Phủ tiết soái những ngày này đang toàn lực làm việc, cả một cơ cấu thống trị cũng ầm ầm bắt đầu khởi động, nhất thời không có việc gì để giao cho các nàng làm, nhàn lai vô thì, bát nữ của Long gia đâm ra kết thành bằng hữu với Mậu nương, nhàn lai vô sự. Nói chuyện trên trời dưới đất, luận bàn vũ đạo, thậm chí chơi đá mã cầu cũng có.
Lúc này mấy người đang ngồi dưới giàn nho tàn trong Hữu Khóa viên, đánh bài lá cây, nhìn từ cánh cửa hình nguyệt, chỉ thấy dọc chính đạo trong phủ toàn là những tín sứ vội vàng, lưng cắm cờ đỏ đi đi lại lại, Long Linh nhi không nhịn được nói: “Từ sau khi trở về Hạ Châu, Thái úy so với lúc Tây chinh còn bận rộn hơn nhiều, nhất là lúc từ Hoành Sơn về, dường như không hề thấy ngài nghỉ ngơi chút nào, không phải nói là chiến sự Hoành Sơn giờ đã cầm cự được, sao lại còn căng thẳng như thế chứ?”.
Mậu nương nói: “Đúng vậy, ta ở phủ tiết soái mấy năm rồi, cũng chưa bao giờ thấy Thái úy bận rộn như vậy, bất kể đối mặt với đối thủ nào, tình thế cấp bách đến mấy, cũng không đến mức như này. Từ lúc ngài trở về, ngay cả chỗ Ngọc Chân Tử đạo trưởng cũng chỉ đến có một lần...”.
Ngọc Chân Tử đạo trưởng là thân phận bây giờ của Chu Nữ Anh ở phủ tiết soái. Mậu nương vừa đánh bài vừa nói, miệng nói ra những lời này, lời vừa nói khỏi miệng, biết rằng không ổn, Long Linh nhi và Long Thanh nhi chư nữ quả nhiên sinh nghi, từng đôi mắt đẹp liếc về phía nàng, Long Lâm nhi hoài nghi hỏi: “Ngọc Chân Tử đạo trưởng? Thái úy bận như vậy, chỉ gặp Ngọc Chân Tử đạo trưởng một lần thì có gì là lạ? Tôi nghe nói mấy ngày nay Thái úy trong thư phòng đèn thắp sáng suốt không tắt, đến hậu trạch cũng chưa từng đi qua vài lần, thê thiếp còn như thế huống chi một đạo nhân?”.
“À...”. Mậu nương bối rối đánh rơi một quân bài xuống, vội che giấu qua loa nói: “Cái này mà... Khụ... Các muội không biết đấy thôi, thái úy tuy là pháp vương phật gia hộ giáo, nhưng cũng là đồ đệ của đạo gia đại thánh Thuần Dương Tử chân nhân, cái này... Cái này... Đối với Tam Thanh tổ sư cũng là nhất nhật tam tinh lễ, hết sức sùng kính, bằng không cần gì phải dựng một tòa đạo quán trong phủ chứ? Cái này... Ngọc Chân Tử đạo trưởng này, lại là... Sư muội của Thái úy!”.
“Ra là thế...”.
Chư nữ đã không chút hoài nghi, Mậu nương lại đỏ mặt thầm cảm thấy xấu hổ, ngày trước là một vũ nương đứng đầu trong cung nhà Đường, rồi cùng với Chu Nữ Anh lưu lạc nơi Tây Vực, nàng và Nữ Anh sớm đã trở thành đôi khuê nữ thân thiết luôn tâm sự mọi điều, lúc bình thường cũng luôn bầu bạn với Nữ Anh, sự tình giữa Nữ Anh và Dương Hạo nàng hiển nhiên biết rõ, chỉ là việc ấy không tiện công khai cho người khác biết.
Long Bích Nhi thấy mặt nàng đỏ lên, giống như đang ngượng ngùng, không nhịn khỏi cười nói: “Mậu nương tỷ tỷ, ta nghe nói tỷ đã ở phủ tiết soái từ rất sớm, nhưng địa vị lại quá xa vời. Vừa không phải thê thiếp vừa không phải thị tỳ, nên không tránh khỏi những điều tiếng kỳ lạ. Tỷ vốn đẹp như thế cả ngày lại ở bên cạnh không rời, ta mới không tin là Thái úy ngài ấy... Hì hì. Tỷ nói thật đi, tỷ đã từng được Thái úy đại nhân sủng ái chưa?”.
Long Bích Nhi vừa hỏi như vậy, những chư nữ còn lại đều dỏng tai lên nghe. Long Thị gia chủ lại cố nhiên hớt tóc lên, lúc đầu, bị gia tộc lựa chọn để ép gả, các nàng đều không tình nguyện bằng lòng, nhưng khi chính mắt nhìn thấy Dương Hạo là một anh hùng tuổi trẻ, một người chăm sóc thê thiếp hết sức chu đáo, tôn trọng cũng không có những thói quen quyền quý tầm thường, bỗng chốc mấy vị tiểu cô nương này cũng đem lòng yêu thương hắn. Cái gọi là thà vi kê thủ, bất vi ngưu hậu, tức là nếu bị gả cho kẻ tầm thường không vai vế chi bằng hầu hạ đệ nhất anh hùng khiếu ngạo Tây Bắc này, nếu như Dương Hạo có chủ ý với Mậu nương thì họ hiển nhiên cũng sẽ có cơ hội lớn.
Long Bích Nhi hỏi như vậy, sắc mặt Mậu nương đỏ gay lên, nghĩ đến việc cùng ngủ chung giường với Nữ Anh, cùng ở chung một phòng, ban đêm lúc tâm sự chuyên riêng của mình, Nữ Anh từng nói Thái úy vô cùng mạnh mẽ, làm cho người ta khó có thể chịu đựng nổi, hoàn cảnh của hai người nàng hôm nay, cũng là đồng bệnh tương liên, cố tình kéo nàng làm “tỷ muội” nhưng do phận nữ nhi ngượng ngùng, không dám đáp ứng. Thế nên câu hỏi vô tâm của Long Bích Nhi lúc này, đã động chạm đến nỗi lòng nàng, Mậu nương nhất thời nhảy bật lên, giống như là bị người khác biết được bí mật này, cười mắng một cách e thẹn: “Muội là một tiểu đề tử mà lại không biết xấu hổ, những lời này mà cũng hỏi người khác được, muốn hủy hoại sự thanh bạch của người ta, đáng bị ta đánh cho một cái”.
Tiểu đề tử vốn là phương ngôn vùng phương Bắc, hợp với cách ví nam nhi là tiểu độc tử, nếu nói với người không quen biết tức là mắng chửi, còn dùng nói với người thân quen lại nhỏ tuổi hơn thì đó là một câu thân mật. Long Bích Nhi thấy nàng thẹn quá thành giận như vậy liền cười to vỗ tay chốn chạy, Mậu nương cũng vội đuổi theo, mấy vị cô nương bỏ hết bài lá cây xuống, bắt đầu chơi trò lão ưng tróc tiểu kê trong Hữu Khóa viên.
Những vị cô nương này đều là những mỹ nhân mắt ngọc mày ngài, khuôn mặt yêu kiều như tranh vẽ, chỗ này chạy chỗ kia đuổi, lúc ẩn lúc hiện giống như những con bướm đầy màu sắc tung tăng bay lượn, vừa giống như từng cành hoa rực rỡ đung đưa theo cơn gió, làm cho khung cảnh trở nên uyển chuyển phong tình, thu hút ánh nhìn của bao con mắt nam nhi đang vội vàng qua lại.
Lúc này, Dương Hạo ở trong thư phòng đang bề bộn việc như hôn thiên hắc địa, từ khi trở về Hạ Châu, hắn giống như là đã lên dây cót, tứ phòng kiều thê ái thiếp đều không màng, ngay cả đến bảo bối nhi tử vừa đầy tháng gần ngay bên cạnh cũng chưa gặp đến hai lần.
“Cái gì? Vẫn đang hội bàn sao? Không cần hội bàn gì hết, từ khi Bàn cổ khai thiên lập địa, tam hoàng ngũ đế đến nay, đế quốc đầu tiên là nhà Hạ, nơi mà bản soái chấn hưng lại là Hạ Châu, vậy quốc hiệu đã quyết được rồi, hãy dùng chữ Hạ là được, báo cho bọn họ khỏi phải tốn thời gian vào việc này”.
Dương Hạo không nhịn được liền dặn dò, không hiểu vì cớ gì mà các văn nhân luôn làm quan trọng một cái quốc hiệu, bàn đi bàn lại không dứt. Dù sao thì lần này cũng chỉ là quốc hiệu tạm thời, trong tương lai đến lúc phục lập cũng phải thay đổi một quốc hiệu mới. Lần này cứ qua loa dùng chữ Hạ là được, cứ coi là một triều đại vốn nên xuất hiện trong lịch sử, để nó tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn vậy.
Sau khi phái Tần Giang đi, Dương Hạo lại gặp Lâm Bằng Vũ. Hai người thương lượng hồi lâu, rồi Dương Hạo tổng kết nói: “Đúng, chủ yếu là những việc này, Lâm lão, ngươi hãy kiểm tra chỉnh lý lượng lương thực dự trữ nhanh chóng liên lạc với Thôi Đại Lang, tạm thời đừng mua hàng hóa, đổi lại là mua lương thực. Đúng rồi! Chính vào thời vụ thu, bảo hắn nhất thiết thu mua lương thực, nghĩ kế chuyển về đây. Nếu cần thiết ta sẽ phái người đến trợ giúp, tiền vàng tùy hắn ra giá, nhưng... Phải thiếu nợ trước. Ha ha, yên tâm đi, hắn bứt ra không được thì sẽ đành phải tiếp tục ủng hộ thôi”.
Lâm Bằng Vũ đi rồi, Dương Hạo chuyển hướng về phía Lô Vũ Hiên: “Lô lão, chư châu Hà Tây, yếu vụ hàng đầu là phải duy trì sự ổn định, chỉ có thể phái một phần binh sĩ đến cứu viện, về phần lương thảo sẽ điều phối theo tình hình cụ thể, cố gắng không điều phối lương thảo ở đó để tránh ảnh hưởng đến cuộc sống của bách tính chư châu Hà Tây. Ngài hãy truyền cho Phổ tướng quân, ta giao phó Hà Tây cho ngài ấy, nhất định phải làm cho tốt. Chiếm được chư châu Hà Tây cũng chưa có nghĩa là nơi đó đã thuộc về chúng ta, phải lấy được lòng tin của bách tính, tranh thủ sự ủng hộ của các thế gia đại tộc, hành sự tránh câu nệ bất hóa, phải biết quyền biến chi đạo”. “Tuân lệnh! Hạ quan lập tức khởi hành”. Lô Vũ Hiên đứng dậy, phủi phủi quan bào rồi cất bước lui đi.
“Đại soái, ngài tìm ta?”.
“Đại thiếu, ha ha, Diệp đại thiếu”.
Dương Hạo vừa nhìn thấy Diệp Chi Tuyền đi vào có chút phong trần mệt mỏi, liền bỏ bức mật hàm đang cầm trên tay xuống, vui mừng vội bước lên nắm lấy tay hắn. Diệp Chi Tuyền vừa mừng vừa lo nói: “Đại soái”.
“Vào đây, mau ngồi xuống, người đâu, tiếp khách”. Dương Hạo thân thiết nói: “Đại thiếu, lần này là lúc để cậu thể hiện bản lĩnh của mình, cậu xem, nguyên tuyến báo tin từ Liễu Châu Thượng Kinh đến Hạ Châu của ta đã được thông suốt, hiện giờ từ Đôn Hoàng đến Hạ Châu, Ngột Lạt Hải đến Linh Châu, hai tuyến này cậu cũng vừa trải thông xong, ta biết cậu rất khổ cực, nhưng bây giờ vẫn còn nhiệm vụ gian khổ hơn giao phó cho ngươi, hơn nữa cần phải lập tức đi làm”.
Diệp Chi Tuyền ngập ngừng nói: “Đại soái, cha ta... Cha ta đã nhắc đến chuyện thân sự, vốn là sau khi từ Sa Châu trở về sẽ lo liệu, ngài xem...”.
“Sao cơ? Ừ, ta biết ta biết, đến lúc cậu thành thân ta nhất định sẽ tham dự, còn chuẩn bị một phần hậu lễ”.
Diệp Chi Tuyền xoa tay cười nói: “Cái này... Thái úy công vụ bộn bề, thận phận cao quý, thuộc hạ không dám vọng tưởng Thái úy có thể giá lâm hàn xá, tham dự lễ thành thân của thuộc hạ, ý thuộc hạ là...”.
“Ta hiểu, ta hiểu, nhưng việc này rất cấp bách, cậu xem, sau khi Lân Phủ lưỡng châu rơi vào tay quân Tống, tuyến báo tin vốn có với Biện Lương không thông thuận, phần bị phá vỡ lại cần phải thiết lập lại, lại còn nơi này, nơi này...”.
Dương Hạo chỉ trỏ trên sa bàn: “Từ nơi này đến Lũng Hữu, từ Lũng Hữu đến Ba Thục, chính cái gọi là biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, không nên nhìn ngươi trước giờ chưa từng một ngày động vào đao thương, nghênh trận giết qua một tên địch, nhưng trong cái chiến trường không nhìn thấy đao kiếm mà cậu lại lập được đại công lẫy lừng, chiến công của ngươi hiển hách vô cùng. Còn tân nương tử, cứ để nàng ấy đợi, dù sao cũng không chạy được, nếu cần bản soái sẽ sai người đến canh giữ?”.
“Không không, không cần đâu ạ, tôi...”.
“Vậy là tốt, tốt rồi, người lập tức lên đường đi, mấy tuyến đường tin tức này phải mau chóng xây dựng xong, cần tài vật, cần gì ta cũng cấp. Ha ha, công lao này mà lập được, ta sẽ thăng chức cho cậu. ừm... Nghe nói nương tử tương lai của cậu là khuê nữ của Lý gia Ngân Châu? Hay lắm, hay lắm, khuê nữ một nhà thế gia vọng tộc, được, tuy nhiên ta nghe nói khuê nữ Lý gia này tính tình hơi ngang bướng, ta e cậu sẽ không dễ sắp đặt nàng ta”.
“Sao cơ? Không phải chứ, ta nghe người làm mối nói, cháu gái yêu của Lý Nhất Đức đại nhân hiền dịu thục nữ, xinh đẹp như hoa, là mỹ nữ đức phụ nhất thành Ngân Châu này”.
“Ôi. Bà mối? Đến mặt rỗ bà ta cũng có thể nói được thành một đóa hoa đẹp, có thể tin được lời bà mối sao? Một người phong lưu đa tình giống như cậu đến lúc ấy cũng sẽ giống như Trình Thế Hùng tướng quân, không những sợ nương tử, mà muốn nạp thiếp súc tỳ cũng khó như lên trời vậy. Nhưng cậu không cần phải sợ, cậu là chỗ dựa đắc lực cho bản soái, bản soái sẽ giúp đỡ cho cậu, sau này tân nương nếu ỷ quyền thể ức hiếp cậu thì cứ tới tìm ta”. Diệp Chi Tuyền vui mừng vội vàng nói: “Đa tạ đại soái”.
“Không phải đa tạ, việc này ta sẽ lo liệu. Tiểu Vũ, đưa Diệp đại thiếu đi gặp Phạm chủ quản, cần gì thì nhanh chóng chuẩn bị tươm tất, bởi sau khi đại thiếu thiết lập xong những tuyến đường tin tức này, trở về còn phải thành thân”.
“Tuân lệnh!”. Mục Vũ đáp rồi dẫn Diệp Chi Tuyền đi.
“Ai, ta thực ra...”. Diệp Chi Tuyền đang nhìn chén trà nóng chưa hề uống trên bàn, thì mơ hồ bị Mục Vũ dẫn đi một nước, đến lúc đi tới quan thư của Phạm Tư Kỳ mới bắt đầu phản ứng lại, không khỏi thầm kêu một tiếng không may.
Bên ngoài thư phòng Trương Sùng Nguy lại tới, mang thêm bốn người đến cửa lớn tiếng nói: “Báo, đại soái, người đại soái cần tìm đã mang đến rồi”.
“Ồ, mau vào đi, thế nào, đều đạt yêu cầu chứ?”.
Đợi Trương Sùng Nguy vào thư phòng, đến bên cạnh mình, Dương Hạo liền hỏi. Trương Sùng Nguy cười nhẹ nói: “Đại soái yên tâm, những người này chiến đấu rất dũng cảm, nhạy bén lanh lợi. Họ đã từng ở Lũng Hữu, cực kỳ thông thuộc địa hình nơi đó, phù hợp với yêu cầu của đại soái. Mà họ đều là những người đã thành gia lập nghiệp, có thê có tử, sẽ không lo sinh dị tâm”.
Dương Hạo gật đầu: “Cho gọi họ vào!”.
Bốn người từ ngoài cửa cùng bước vào, họ khoảng hơn ba mươi tuổi thân hình cao to, cử chỉ chín chắn. Bốn người chắp tay quyền hướng về phía Dương Hạo bẩm báo nói: “Định Nan quân doanh chỉ huy Vương Như Phong, đô đầu Địch Hải Cảnh, đô đầu Ba Tát, đội trưởng Trương Tuấn tham kiến đại soái”.
“Mau đứng lên, Trương tướng quân đã nói rõ ý của bản soái với các ngươi rồi phải không?”.
“Chúng ty chức đã hiểu rồi”.
“Được, các ngươi có nguyện đến Lũng Hữu một phen không?”.
“Xin nguyện nghe theo lời dặn dò của đại soái”.
“Vậy thì tốt, Dạ Lạc Hột, Lý Phi Thọ một khi tiến vào Lũng Hữu, tất nhiên sẽ chiêu binh mãi mã tập trung thế lực, bốn người các ngươi tinh luyện cung mã, cũng đã từng thống lĩnh quân lính, gia nhập dưới trướng của chúng, rất dễ dàng có thể trổ hết tài năng, hai người này khi mới đến Lũng Hữu, phải dựa vào Thượng Ba Thiên, nhưng là đợi khi đại sự của chúng đã thành, ha ha, nhất sơn nan dung nhị hổ. Chúng đều là những trí dũng kiệt xuất bất kham, lẽ nào lại cam tâm chịu dưới trướng Thượng Ba Thiên? Dạ Lạc Hột có thể triệu nạp lượng lớn người Hồi Hột, Lý Phi Thọ cũng thu hút được người Khương, thêm vào đó tộc trưởng La Đan, đến lúc đó Lũng Hữu chia năm xẽ bảy, các ngươi sẽ có cơ hội”.
Dương Hạo trở nên nghiêm nghị, trịnh trọng nói: “Lần này đi, sẽ vô cùng nguy hiểm, nhưng chưa chắc đã hung hiểm bằng việc chiến trận chém giết ở Hạ Châu, lần này, võ lực chỉ là thứ yếu, các ngươi phải dùng nhiều trí lực, cố gắng mưu chiếm lòng tin của chúng, thâu tóm lực lượng của chúng. Sau này, khi bản soái thu phục được Lũng Hữu, các ngươi ở dưới trướng của chúng bất kể là làm đến bậc tướng nào bản soái đều phong cho các ngươi chức vị cao hơn đó ba cấp!”. Bốn người lớn tiếng đáp: “Tạ ơn đại soái”.
Dương Hạo nói: “Tốt, các ngươi đi đi, Trương tướng quân sẽ phân bổ nhiệm vụ cụ thể và phương thức liên lạc cho các ngươi, về phần nơi này, không cần phải lo lắng, phụ mẫu thê tử của các ngươi bản soái sẽ phụng dưỡng”.
Bốn người đồng thời chắp tay quyền làm lễ, hăng hái lui theo Trương Sùng Nguy ra ngoài. Dương Hạo chuyển vị ngồi lại bên án thư, mở bản công hàm chưa xem ra, vừa lướt đọc hai hàng chữ thì bên ngoài một tên thị vệ vội vàng tiến vào: “Đại soái, Lô Khiến Đạt Thố đại sư báo tin đến”.
“Vậy à?”. Dương Hạo liền ngẩng đầu lên nói: “Đưa ta xem”.
Hắn vội vàng mở thư ra đọc, Dương Hạo đập tay xuống án thư nói: “Cái tên Bích Túc này”. Dương Hạo lắc đầu thở dài, nhíu mày suy nghĩ một lúc, ngẩng đầu nói: “Ám Dạ...”.
*
* *
Biện Lương, Biện Hà, Thiên Kim Nhất Tiếu lâu.
Khố lâu chu các, hoa thụ thành bóng. Những cây hoa, cây quả mùa thu kia là những loài quý thụ luôn mang sắc xanh biếc, điểm thêm ý xuân cho trung tâm Như Tuyết phường của Thiên Kim Nhất Tiếu lâu. Hơi thở của mùa thu tựa như không in dấu nơi đây.
Trong gió thu, vang lại một tiếng đàn du dương, là từ Như Tuyết phường truyền tới, một bài thơ, một chén rượu, nâng đàn thổi tiêu, giai nhân tương phùng, đây đúng là nơi mỹ cảnh tuyệt trần làm các tài tử quý nhân say đắm bồi hồi, chỉ là... Giờ có rất ít người có thể nhìn thấy chủ nhân của Như Tuyết phường, Liễu Đóa Nhi mỹ nữ đẹp đứng đầu Biện Lương.
Không phải bởi vì Thiên Kim Nhất Tiếu lâu nhật tiến đấu kim, Liễu hành thủ không cần phải ra mặt tiếp đãi khách quý nữa, cho dù nàng giàu có nhất thiên hạ, có thể không để ý tới tài tử danh sĩ, nhưng nếu quyền quý công hầu đến cầu kiến một lời, nàng sao có thể cự tuyệt? Tuy nhiên, không biết từ lúc nào, trong phường truyền rằng, vị hoa khôi Biện Lương, chủ nhân của Như Tuyết phường này là hoa đã có chủ, chính là đương kim hoàng đế Đại Tống. Thử nghĩ xem, trong tình hình này, ai còn dám cầu kiến Liễu đại hành thủ? Không nói đến tâm viên ý mã, muốn cùng giai nhân hưởng lạc đêm thâu, cho dù là muốn nàng tấu một khúc đàn, rót mời một chén rượu, có ai dám nhận chứ? Liễu Đóa Nhi có lẽ không chuyện gì, vấn đề là ai dám xuất hiện trước mặt nàng giống như đương kim thiên tử chứ.
Vì vậy, tri âm của cầm khúc tuyện vời này có rất ít, huyền đoạn có ai nghe được hoặc may mắn nghe thấy cũng chỉ có hoa cỏ trong Như Tuyết phường mà thôi.
Trong Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, đang có tiếng hát du dương truyền tới, không dùng cầm sắt, chỉ có nhịp gõ nhẹ của những bàn gõ ngà với nhau, thiển ngâm thấp xướng, uyển chuyển lạ thường, nếu có người đã từng nghe qua giọng hát của Tuyết nhược thủy đàn khẩu thanh xướng trong Tuyết Ngọc song kiều thì sẽ biết được đây chính là Tuyết cô nương đang ngân nga hát, có thể được nghe nàng hát như vậy ắt hẳn là đại quan quý nhân địa vị cực cao.
Chỉ là tiếng hát đó tuy vọng từ lầu cao đến, nhưng lại không áp được tiếng đàn có lại như không, du dương không ngừng, nhỏ nhẹ mà âm lại rõ ràng. Tiếng đàn lúc đê hồi uyển chuyển lúc như châu qua ngọc bàn, Liễu Đóa Nhi thắp nhang ngồi thiền, lạnh nhạt nâng đàn, nhưng ngón tay ngọc ngà nhẹ nhàng khẽ vuốt, tiếng đàn êm ả giống như dòng chảy của nước, kỳ ảo phiêu du, biến ảo tự nhiên.
Liễu Đóa Nhi gảy đàn một cách thuần thục, tâm tình của nàng cũng cùng tiếng đàn bay lên tới mây trời. Cô đơn, sự cô đơn vô tận, khi chờ đợi ngày qua tháng lại, vì địa vị và sự tồn tại của Như Tuyết phường mà lao tâm tổn trí. Nàng thực muốn dừng lại nghỉ ngơi, nhưng trước nay nàng không hề nghĩ rằng, dừng lại sẽ phải cô đơn nhàm chán như thế này.
Nàng giờ là người của đương kim hoàng đế, nhưng vì thân phận mình mà không được nhập cung, nàng chỉ là một hoa khôi, nhưng trong mắt người thường lại được tôn quý, coi trọng như hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ. Vì vậy nàng mới mắc kẹt ở đây, trong cảnh khó xử tiến không được thoái không xong, cái cảm giác vừa sợ vừa mừng lúc đầu khi trở thành người của hoàng đế của nàng đã biến mất, giờ chỉ còn nỗi mệt mỏi và chán ghét vô cùng.
Thiên Kim Nhất Tiếu lâu đã làm nên địa vị cao nhất của nó ở Biện Lương, nàng giờ đã là chủ nhân của Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, cũng không còn gì để tranh đoạt nữa, nên nàng cũng giống như một lão tăng vô dục vô cầu. Tuy dung mạo tuyệt mỹ, dáng người thướt tha nhưng lại thiếu chút linh hoạt và sức sống. Nàng vẫn xuân sắc nhưng lại chỉ có thể sống trong ký ức mà thôi.
Giờ nghĩ lại, những năm tháng đẹp đẽ khó quên nhất lại là thời Thiên Kim Nhất Tiếu lâu vừa được xây dựng, là khi mà Dương Hạo còn ở nơi đây. Học làm trò, biên khúc nhạc, cùng nghĩ cách đánh bại kẻ khác, thậm chí là khi ghen tuông với Ngô Oa Nhi ở hậu viên Hỏa Tình viện trưởng gia, hay bỏ hết tâm trí để làm những món ngon mỹ vị để thể hiện mình...
Mà nay, có phải là nơi càng cao thì sẽ càng lạnh? Nhưng cái vị thế cao quý mà nàng đang đứng lại vô cùng hư huyễn, nếu có thể ngược dòng thời gian... Nghe nói Ngô Oa Nhi đang nghiễm nhiên là ngoại sự viên ở Tây Bắc, giống với thân phận Hồng Lư Khanh, dựa vào tài văn chương, lời nói dí dòm của nàng ấy, quả có muốn gì được nấy, được vừa ý. Chỉ là... Địa vị của Dương Hạo cao quý như vậy, cũng đáng để nàng ấy vứt bỏ thân phận.
Còn có Diệu Diệu, nghe những người từ Tây Bắc về nói, các thương nhân Hồ Hán, muốn thêm nhiều phú quy đều nương nhờ vào nàng ấy, ả nha đầu này lại là một tay hành gia tinh thông lý tài, được gả cho Dương Hạo bao lâu rồi nhỉ? Sao nghĩ lại thì cứ như chuyện trước đây lâu lắm... Bây giờ có lẽ đã sinh cốt nhục của tự mình rồi nhỉ? Mà ta...
Khóe môi Liễu Đóa Nhi lộ chút cay đắng, mỗi lần được vị đế vương kia sủng ái, nàng đều không thể cùng say giấc nồng, bay bổng lên mây với người đàn ông của mình, các nội thị cứ làm như có mối nguy hại lớn, nhất thiết phải gọi nàng dậy rồi tiến hành đủ phương sách khắc phục, hoàng tộc... Là không thể để lại huyết thống trong nhân gian, nhất là với thân phận của mình... Làm sao mà có thể mang long bào được chứ? Nỗi hổ thẹn đó... Giờ nàng cũng đã quen với nó mất rồi.
Tiếng đàn xa xăm, như khói chi ngân, du dương vấn vương, lúc ẩn lúc hiện một cách kỳ ảo. Cả thân xác nàng giờ như bộ xương chuyển động, linh hồn nàng lại đang bay bổng trong dòng chảy của hồi ức xưa, giống như hoa rơi mặt nước, sóng gợn không ngừng...
“Ha ha ha, hay, tiếng đàn của Đóa Nhi ngày càng huyền diệu”. Bỗng một tiếng vỗ tay truyền đến, cất cao giọng khen ngợi.
Liễu Đóa Nhi ngẩng đầu lên, nàng biết là hắn đến, giờ ngoài hắn ra còn ai dám cao giọng trước mặt nàng chứ? Nàng vội vàng đứng dậy, hành lễ nói: “Quan gia”.
Triệu Quang Nghĩa mỉm cười bước đến, ngồi xuống cẩm chiên nói: “Đến đây, ngồi bên này”.
“Vâng”. Liễu Đóa Nhi đáp một lời rồi chầm chậm bước đến cạnh hắn.
Mới ngày nào còn là một mỹ nhân xinh đẹp thuần khiết như ánh trăng, giờ đã trở thành tiểu phu nhân dung mạo đoan trang, vẫn vẻ thanh tú đó nhưng lại thêm chút dịu dàng đẫy đà, vẻ đẹp đó lại càng say đắm lòng người, giống như bông hoa nở rộ, trong trắng mà phong nhã.
“Sao hôm nay Quan Gia lại vui đến vậy?”. Trước mặt hắn, Liễu Đóa Nhi không dám lộ vẻ buồn bã cô đơn, nàng thể hiện một bộ dạng vui cười, tay đưa nhẹ nhàng vừa rót trà vừa hỏi.
Lúc nàng cúi mình, thân thể nàng mảnh mai như chiết, cánh tay mềm mại, hở ra ngoài tấm lụa làn da trắng mịn màng như tuyết, Triệu Quang Nghĩa liền sáng mắt lên, đưa tay ôm chặt lấy vòng eo nàng, cười ha ha nói: “Cứ được gặp tiểu mỹ nhân của trẫm là tự nhiên sẽ vui rồi”.
Hắn thực rất vui vẻ, một vùng Tây Bắc khó chiếm lại bị hắn dùng mưu tính kế, danh chính ngôn thuận lấy được Lân phủ. Về phần Hoành Sơn đang trong thể giằng co, hắn lại không hề lo lắng, lẽ nào muốn kéo dài chiến trận? Hừ hừ, một Tây Bắc nhỏ bé, đất đai cằn cỗi có thể hạ được ta sao? Hoàng huynh thập niên sinh tụ, tích lại cho hắn đầy của cải trong phong khố...
Lại còn cái tên chướng mắt lão tam Triệu Quang Mỹ, Hoài Nam Tây Lộ tiết độ sứ kiêm Thị Trung, trung thư lệnh, cai quản phủ Khai Phong, phong làm Tề vương, có quyền thế trong tay, làm người ta phải nể sợ. Giờ thì tốt rồi, ý đồ muốn làm đế vương bị người khác đoán ra được, như kinh sử Sài Vũ Tích cáo hắn tội kiêu căng xấc láo, làm càn không phép tắc. Đầu tiên là hạ chức trung thư lệnh và đuổi khỏi phủ Khai Phong, giao lại cho người đáng tin cậy hơn nắm giữ, tiếp đó Trương Ký cũng đích thân dâng sớ, tố cáo hắn đã không biết hối lỗi lại còn oán hận Thánh thượng. Đến hai vị đại thần đương triều phải ra mặt tố cáo nên bị giáng chức đầy đến Tây Kinh (Trường An).
Hôm nay, lại có một tin tốt truyền đến, Triệu Đắc Trụ tên phản tặc đứng đầu Thục địa bị quan binh bao vây diệt trừ, chết bất đắc kỳ tử. Việc này tất yếu sẽ làm nhụt chí của bọn phản tặc, cho nên bất kể là vây bắt hay bắt đám lâu la còn lại ra hàng sẽ dễ dàng hơn. Mối lo ngại giờ đã được giải quyết, chỉ còn đang diệt trừ tận gốc, hắn sao có thể không vui mừng chứ?
Liễu Đóa Nhi dịu dàng liếc nhìn hắn, một vẻ làm say đắm lòng người: “Quan gia tâm chứa quốc sự, trong lòng đâu có chỗ cho thiếp, nghĩ tới mới thấy, mới đến có một chút đã nói toàn lời đường mật xu nịnh. Nếu ngài có vui mừng thì cũng là do việc quốc gia đại sự, Đóa Nhi... Tự mình cũng biết”.
Triệu Quang Nghĩa cười ha ha: “Nàng thật là lanh lợi. Ha ha, nếu nói là vì quốc sự thì cũng không sai, ngày nay quốc thái dân an, dụng binh thuận lợi, trẫm sao lại không vui kia chứ?”.
Liễu Đóa Nhi kinh ngạc, thất thanh nói: “Tây Bắc... Đã bị đánh bại rồi ư?”.
“Nếu Tây Bắc đã bị triều đình chiếm giữ thì Dương Hạo hắn... Hắn chẳng lẽ sẽ chết như vậy?”. Lòng Liễu Đóa Nhi bỗng trở nên nặng trĩu, dù nàng có oán hận Dương Hạo bao nhiêu đi nữa thì nàng cũng không hề mong muốn Dương Hạo chết, ân oán giữa hai người họ khó có thể nói ai sai ai đúng, người nào cũng có cách nghĩ riêng. Nhưng dù thế nào cũng có một thời gian đẹp bên nhau, Liễu Đóa Nhi vẫn hy vọng rằng hắn có thể bình an, có thể sống sót để nàng còn có thể oán giận, chứ không phải là chết đi để nàng nghĩ đến, nhưng... Hắn đã?”.
Triệu Quang Nghĩa lặng lẽ cười nói: “Nào có nhanh vậy, còn phải dụng binh đả trượng, tuy nhiên... Cũng sắp đến ngày đó rồi, nào đến đây, hãy để trẫm chiều chuộng nàng nào”.
Triệu Quang Nghĩa giơ tay ra, ôm lấy thân hình mảnh mai của Liễu Đóa Nhi, để nàng ngồi lên đầu gối mình, một mùi hương thơm mát, dịu nhẹ thoảng qua, tấm áo lụa mịn làm lộ ra đường nét mềm mại của cơ thể nàng, vừa ôm nàng vào Triệu Quang Nghĩa cảm nhận được một luồng khí ấm áp thơm phức, hắn không thể cầm lòng được, lập tức luồn tay ve vuốt đôi gò bồng đảo mềm mại của nàng.
Liễu Đóa Nhi trong lòng cảm thấy chán ghét, Triệu Quang Nghĩa trước giờ không hề biết thương hoa tiếc ngọc, là một kẻ háo sắc hứng tình, không hề biết đến cùng hưởng hoan lộ với đối phương, hoặc là với thân phận của hắn, chưa bao giờ phải bền bỉ hao phí công phu để làm động tình nữ nhân, hắn giống như kẻ lai vãng lâm trận chém giết, làm cho người ta cảm thấy đau đớn hơn là khoái lạc. Lúc thì vội vàng cho qua, rồi lúc cấp bách đòi hỏi, ban đầu hắn còn biết giả vờ hưởng đàn ngâm thơ, giờ làm hoàng đế, không cần kiêng dè gì hết, nên càng lộ ra vẻ mặt thật đáng ghét.
Cũng thôi vậy, nhất là sau mỗi lần hoan ái, lại bị những kẻ nội thị không nam không nữ hầu cận của hắn bài bố, làm đủ các phương thức tránh mang long thai. Dù hắn có hiểu được mật ái nơi phòng loan, thì cũng cay đắng làm sao. Đối với một người kiêu kỳ như Liễu Đóa Nhi mà nói, dường như mỗi lần được hắn sủng ái là mỗi lần nàng phải chịu nhục nhã, khiến cho nàng thấy ác cảm với chuyện ân ái, thậm chí chán ghét và vô cùng sợ hãi. Nhưng... Hắn là vua, có quyền muốn gì có nấy, nàng chỉ là phận nữ nhi, sao có thể cự tuyệt được?
Bị bàn tay thô ráp của Triệu Quang Nghĩa xé tung đai lưng, nàng không khỏi nhắm hai mắt lại, lông mày nhăn lên, trong lòng tự nhủ: “Sớm thỏa mãn hắn thì hắn sẽ sớm rời khỏi đây, cứ coi như là bị quỷ bức vậy...”.
Triệu Quang Nghĩa đâu nghĩ đường đường một quân chủ anh tài, đến nơi giường gối lại bị tiểu nữ chán ghét khinh thường, không chút hấp dẫn. Thấy nàng nhắm nghiền mắt, để tùy ý quân chủ, hắn dục hỏa lại không ngừng, bế nàng ngã lên cẩm chiên, vội vàng cởi bỏ xiêm y.
Hoan lộ hòa hợp, trút bỏ hết xiêm y của nàng, tấm thân ngọc ngà lộ tỏa mùi hương ngọt ngào, Triệu Quang Nghĩa đang áp mình xuống dưới thì có tiếng nội thị ngoài cửa. Dù biết Cố Nhược nhưng vẫn nhẹ kêu: “Quan gia, Quan gia”.
Triệu Quang Nghĩa giận dữ, ngẩng đầu quát mắng: “Hồn láo, ta chưa cho phép, ai cho ngươi làm phiền?”.
Cố Nhược đáp: “Quan gia, nô tì không dám to gan. Thật sự... Thật sự là trong triều có đại sự, kính xin quan gia lập tức hồi cung”.
“Đại sự, đại sự gì chứ, sao làm phiền ta đúng lúc này?”. Triệu Quang Nghĩa nghĩ một lúc, đành phải đứng dậy, trầm giọng quát: “Thái tử lại làm chuyện gì rồi?”.
Cố Nhược: “Không phải thái tử gây chuyện, trong cấm cung không có đại sự, là Lô đại nhân của trung thư cùng với Trương đại nhân và Tào đại nhân khu mật sứ đồng tấu mời quan gia lập tức hồi cung”.
Triệu Quang Nghĩa nghe được không phải là thái tử gây chuyện, cảm thấy nhẹ người, hắn thực là bị vị thái tử bảo bối đó làm khổ đến phát sợ, ngờ đâu lại nghe thấy là đại quan văn võ hợp tấu nghị sự, cảm thấy chút bất an. Việc này trước giờ chưa từng có, hay đã xảy ra việc kinh thiên động địa gì, làm cho mấy người họ vội kiến gặp?
Triệu Quang Nghĩa bất giác lo lắng, vội khoác long bào, cất bước vừa đi vừa vội vàng dặn dò: “Nhanh, chuẩn bị kiệu, không, mang ngựa đến đây, lập tức hồi cung”.
“Hắn đến một câu cáo từ cũng không nói với ta, hắn coi ta là gì chứ? Một kỹ nữ rẻ mạt đáng khinh sao?”. Liễu Đóa Nhi từ từ ngồi dậy, chỉnh lại xiêm y, tự giễu mà cười mình, hai dòng lệ cứ thế lăn trên má.
Triệu Quang Nghĩa không rõ có chuyện gì nên vô cùng lo lắng. Mà hắn biết nội thị không được phép tham gia chính sự, dù có hỏi thì Cố Nhược cũng không biết là xảy ra chuyện gì. Vừa ra khỏi Như Tuyết phường, hắn không ngồi kiệu, lập tức lên ngựa, vội cùng đội thị vệ hộ tống hồi cung.
Ra khỏi Thiên Kim Nhất Tiếu lâu đi về phía Tây một lúc rồi rẽ phải sẽ là Biện Kiều. Cây cầu này rộng rãi, trên dưới đều có bách tính buôn bán, nhưng trong khoảnh khắc này đều bị toán thị vệ nha dịch như lang sói dẹp sạch, không một bóng người giống như cẩu gặm cốt đầu.
Bách tính vốn đang buôn bán quanh đây bị đuổi xa ra khỏi cây cầu, các lều gách vẫn còn nguyên, hàng quán y chỗ nhưng chủ quầy đã bị đuổi đi. Cách vài bước chân lại có một nha dịch đứng canh còn họ không cần biết trong đám dân liệu có hay không mật giám hoàng thành tư, cứ hoàng đế xuất tuần, thì cảnh giới nghiêm ngặt.
Triệu Quang Nghĩa trên người khoác công phục mà quan sĩ Tống Quốc đều thích mặc, chân đi hài quấn, vội vàng quát ngựa hướng về phía Tây, những người dân đứng từ xa nhìn đoàn hành quân này cũng không hề biết rằng đó là hoàng thượng của Tống Quốc, nhưng họ đã từng được nhìn thấy hoàng đế Triệu Quang Nghĩa đâu? Dù Triệu Quang Nghĩa là phù doãn phủ Khai Phong, khi họ chạy đến phủ Khai Phong kiện đại cáo cũng chưa chắc do chính hắn thẩm lý.
Triệu Quang Nghĩa cưỡi ngựa lên cầu, mã tốc chậm dần, lúc này bỗng nghe một tiếng reo hò vang trời, hắn thiểm mắt nhìn, từ đầu cầu nhìn lại, xa xa thấy trên bờ dựng một lán lớn, tập trung rất nhiều người ở đó, reo hò ầm ĩ. Hắn giữ dây cương lại, giơ roi ngựa lên chỉ: “Những người đó làm gì vậy?”.
Nơi đó hơi xa chỗ hắn, nha dịch phủ Khai Phong và thị vệ đi dẹp bóng người lúc này trở nên khó xử, còn đâu thời giờ để rà soát toàn bộ xung quanh, nhưng nha dịch phủ Khai Phong đều biết nhất cử nhất động xung quanh đây, một thám báo trèo lên cột cầu nhìn rồi lập tức bẩm báo: “Quan gia, đó là bang chủ bang Biện Hà đang làm lễ truyền vị cho đại đệ tử của hắn”.
Triệu Quang Nghĩa thấy thuyền bên bờ đó không đến ngàn quân, trong bụng nở nụ cười nham hiểm: “Một đám ô hợp tử phu chạy thuyền, còn làm nghi thức truyền vị ra vẻ. Hừ! Sớm muộn gì ta cũng quét sách bọn ngươi!”.
Triệu Quang Nghĩa lúc này không rảnh để ý tới đám tử phu đó, chỉ nhanh tay thúc ngựa một mạch tới hoàng cung. Vào đến Gia Túc môn, đăng nhập anh điện thì gặp ba quan Lô Đa Tổn, Trương Ký và Tào Lâm cung kính cúi đầu làm lễ, Triệu Quang Nghĩa lập tức quát hỏi: “Việc đại sự cấp bách gì mà cần kiến giá?”.
Ba người ngần đầu lên nhìn Triệu Quang Nghĩa, Trương Ký vội đưa ra tấu chương: “Quan gia, việc vô cùng cấp tốc, quan gia mau xem bản chiếu thư này”. Triệu Quang Nghĩa cảm thấy kỳ lạ: “Ngươi sợ gì chứ? Có trẫm ở đây, còn ai có thể ra chiếu chỉ nữa?”. Lô Đa Tốn đi tới vội nói: “Quan gia, đây là chiếu thư lập quốc của hoàng đế Đại Hạ!”.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 42:Nhị Vương Nhất Hậu(1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 42: Nhị Vương Nhất Hậu
Sau khi Triệu Quang Nghĩa yên vị trên thư án, hắn bắt đầu xem thứ gọi là chiếu thư lập quốc do sứ thần nước Hạ đem đến. Lô Đa Tốn, Trương Ký, Tào Lâm đều đã đọc qua, hiểu rõ nội dung của nó, giờ họ chỉ chú ý quan sát biển hiện của Triệu Quang Nghĩa. Tôi tớ làm hữu bang, thái úy trở thành hoàng đế, chuyện đại nghịch bất đạo như vậy, thánh thượng đồng ý mới là lạ.
Có câu: “Thiên tử nhất nộ, phục thi bách vạn, lưu huyết thiên lý”. Chỉ sợ vị thiên tử Đại Tống này ngay lập tức hỏa khí ngụt trời, sắp nổi trận lôi đình.
“Thần chỉ là thường dân áo vải, xuất thân thấp kém, khi tiên đế thân chinh nước Hán, thần vâng lệnh chỉ huy hai quân tiền trận, lúc nguy cấp, chia quân làm năm vạn, vất vả ngàn dặm đành đóng binh ở Hà Tây. Tiên đế biết thần vốn thận trọng, trước lúc lâm trung đã giao phó cho thần đại sự, phong làm nguyên soái Lũng Hữu Hà Tây, thần vâng lệnh cho đến nay, sớm tối lo âu, chỉ sợ không làm tròn trách nhiệm, phụ công tiên đế, cho nên thần từ Lô Châu, đem binh chinh phạt Ngân Châu, xua đuổi loạn binh nước Liêu, giao hảo với Lân phủ, ổn định lại Tây vực, bắt đầu từng bước kiến thụ.
Nhiều lần, Kim Thượng tái phạt nước Hán, thần trong lúc nguy cấp cầu vương chi viện binh. Không ngờ, Lý Quang Duệ tiết độ sứ Định Nan quân coi thường triều đình, gây khó dễ thần, công kích ngay sau lưng, thần lo sợ vô cùng, trong lòng như bị tên bắn, chỉ lo nước Hán lâm nguy bèn điều quân trở về. Lý Quang Duệ vốn chỉ là cận thần mà dám tự nhận là vương, đúng là kẻ gian tà. Thần nắm giữ binh phù, nguyện trừ gian diệt ác, một phen quyết chiến, tận lực bình định lại Nam Ngũ châu, đánh bại quân Lý Quang Duệ chiếm lấy Hạ Châu, thần sẽ kế thừa y bát nghĩa phụ, làm chủ Định Nan, bắt đầu quy tụ Đảng Hạng bát thị.
Giờ Định Nan đã ổn định, binh giáp đầy đủ, lòng trung của thần nguyện không thay đổi, nguyện lập tức Tây chinh, đi sâu vào những vùng căn cỗi, những nơi ngu độn, diệt trừ quân gian ác, nhất cử san bằng các châu Hà Tây, bắt hàng chư bộ, tiên phong tiến thẳng Ngọc Môn quan, Tây Bắc đã suy vong đến hai trăm năm, ngày nay phải khôi phục Hán thổ, như thế thần mới có thể báo ơn tiên đế tỏ lòng trung với bệ hạ.
Không ngờ bệ hạ lại nghe lời hoạn quan rèm pha ác ý, làm nhơ nhuốc thanh danh thần, gây loạn dấy binh đến nhiễu Lân phủ, hãm hại trung thần. Vào lúc đó Vu Điền Tây Vực đã viện trợ thần, Vu Điền thực coi Trung Nguyên là tông túc. Thần lại lấy làm kinh ngạc khi nghe quyết chỉ của bệ hạ, chẳng lẽ không phải là việc động trời? Đại ân đại đức nên thần không dám trái lời! Thần luôn lấy thiên hạ làm trọng, chưa từng dám phụ long ân của tiên đế, giữ gìn di chí của tiên đế tức bình trị thiên hạ làm trọng trách, viện binh từ Vu Điền ân tể phụ viễn, những hành động ấy há lại có ý đối địch bệ hạ sao!
Duy chỉ có bệ hạ tiến binh về Tây, phong hỏa tín được truyền đi, nhất ý cô hành, không chỉ tội mà trách phạt cũng không cho thần cơ hội để giải hàm oan. Quân lệnh thần tử thì thần bất đắc bất tử. Là người của Dương Hạo sao lại vì tận trung với bệ hạ mà đến chịu phạt chứ? Thế nhưng, Hà Tây chư châu mới phục, vẫn còn chưa ổn định, khắp Tây Vực vẫn còn nhiều binh tộc bất kham như Đảng Hạng, Thổ Phồn, Hồi Hột, Thổ Cốc, nếu Dương Hạo bị điệt vong, lang khói nổi tứ phương, chúng tức sẽ phân tán, Hà Tây lại rơi vào tay giặc.
Các châu bộ Hà Tây chỉ biết thần sợ thần, nể trọng và theo thần, thần tự không lấy làm mừng mà luôn thị tòng đế vương, trung và nghĩa làm thần tiến thoái lưỡng nan, thần chỉ còn biết nhớ đến tiên đế, trằn trọc ngày đêm. Tiên đế hùng tài đại lược, vốn định thân chinh quang phục Hà Tây, nhưng ngài nhân từ coi tính mệnh bách tính người Hán thần làm trọng, thần tiếp nhận di chiếu của tiên đế nào dám không tận đại trung đại nghĩa. Nhưng chẳng lẽ vì giữ thanh danh mà chịu bị xử tử vì cái tội “chưa hề phạm”, đại cục trong phút chốc bị hủy hoại, bách tính Hà Tây gánh chịu loạn lạc binh biến, khiến vong linh tiên đế trên trời không được yên bình, làm bệ hạ phải mang tội danh thiên cổ sao?
Nay thần nắm giữ khôn phù, trao trả Tây Vực để đại nghiệp hợp nhất, Sơn Xuyên thịnh thời, cờ khởi nghĩa dựng lên, bình định Ngũ châu, Đảng Hạng bát thị đều quy tụ về, dưới cờ hiệu lệnh, Hà Tây mười lăm châu, các tộc người như Thổ Phồn, Hồi Hột, Thổ Cốc bất tòng phục nhưng đã có ý tư phục, phương hữu sở định. Thần nguyện lấy nhất mảnh đất này vì đại nghiệp, gánh chịu cảnh mệnh biến nó thành một quốc, bỏ lại chữ đức mà uy chấn tuyệt vực, làm cho tạp hồ Tây Vực kế tục y quan của dân Hán chúng ta tòng quân tiến cử văn giáo, kiến dựng một bang gia trung thành. Định ngày mười lăm tháng mười làm lễ giao đàn cho hoàng đế Đại Hạ lập pháp quốc văn, niên hạo Thiên Thụ.
Kính mong hoàng đế bệ hạ Đại Tống, hãy kề cận trung thần tránh xa những kẻ tiểu nhân, luôn anh minh sáng suốt, khoan dung độ lượng, hứa với Tây phận, xứng là vua phía Nam, biết dụng trung nhân, thưởng phạt phân minh.
Nhân gian người người tới lui, sẽ truyền nhau về sự phồn vinh của nước láng giềng, trường tồn cùng với trời đất, có thể vĩnh viễn tránh được họa biên phòng, nếu thực đồng ý, thần vô cùng ngưỡng phục”.
Bức chiếu thư lập quốc này được viết rất khách khí, ngữ từ kính cẩn, chỉ đến đoạn cuối câu chữ đều dùng cách xưng hồ thần tử, nhưng nó lại có hàm ý sâu sắc, trong bông giấu kim. Theo ý của Dương Hạo thì thảo phạt hai châu Lân Phủ, binh tiến Hà Tây là do hoàng đế nghe lời mê hoặc của bọn hoạn quan, còn hắn bị bức xưng đế là vì trước giờ đều ghi nhớ di nguyện của tiên đế.
Trong chiếu thư, Dương Hạo dùng từ uyển chuyển, tự mình chí hướng, mỗi câu chữ đều khăng khăng là vì di nguyện của tiên đế, nhất là lúc thuật lại việc khi biết đại quân triều đình tới thành, khẳng định mình vẫn phái quân viện trợ Vu Điền một cách oai phong lẫm liệt, đại công vô tư, nhẹ nhàng tôn mình lên.
Từ loạn An Sử nhà Đường về sau, Trung Nguyên đã mất đi chủ quyền ở Tây Vực, triều Đường không thể tiếp tục cai trị Hà Tây, Lương Tấn Hán Chu cũng không làm được, bây giờ Dương Hạo đã làm vì Đại Tống nhưng quan tuyền đã làm những gì? Chính là giống với Lý Quang Duệ, dám viện một lý do thảo phạt trung thần. Hắn đang làm gì, nước Tống đang làm gì? Công đạo đều ở tại lòng người! Ai cũng biết!
Nói đi nói lại, tất cả những gì hắn làm đều là vì nước Tống, vì di nguyện của tiên đế, hắn phản Tống thực là để trung với Tống, chỉ có điều hắn trung với Triệu Khuông Dận nước Tống, phản lại Triệu Quang Nghĩa. Hắn hành động như thế đều là do bất đắc dĩ, bị bắt buộc.
Xem qua bản chiếu thư văn chương lưu loát hơn ngàn chữ, Triệu Quang Nghĩa liền vứt xuống long thư án, đầu ngẩng lên. Ba người Lô Đa Tốn biết ý vội cúi rạp mình xuống, thẳng vai chờ đợi Triệu Quang Nghĩa giận dữ gầm thét, không ngờ Triệu Quang Nghĩa lại im tiếng không chút động tĩnh.
Ba người lấy làm lạ, lặng lẽ ngẩng đầu lên nhìn thấy hai tay Triệu Quang Nghĩa đứng vịn vào án thư, một hồi lâu sau đột nhiên cười to lên: “Từ khi trẫm đăng cơ đến nay, sớm tối mụ mị, vất vả chuyện quốc sự, nay văn tu võ trị, thiên hạ thái bình, chiến tích không thua gì tiên đế. Chỉ có duy nhất một việc cảm thấy đáng tiếc là Trẫm diệt Đường, Hán, thu nạp Ngô Việt thống nhất ba nước, cuối cùng cũng không bằng võ công tiên đế chinh phục bốn nước Kinh Thục Hồ Hán, tên Dương Hạo này quả nhiên một lòng trung thành, hắn cho ta một cơ hội để có thể xứng với tiên đế, trẫm lẽ nào lại không tiếp nhận tấm lòng trung hiếu của hắn chứ?”. Triệu Quang Nghĩa đột nhiên đứng dậy, mắt ánh lên uy nghiêm nói: “Triệu hai phủ, một viẹn, tam ti, lục bộ, cửu khanh tề tụ đến tử thần điện nghị sự!”.
*
* *
Thượng kinh nước Liêu, cung Nguyệt Hoa, đêm đã khuya, rạng lên ánh đèn.
Hoàng đế tuổi nhỏ, hiện nay hoàng hậu nắm quyền nhiếp chính, cung Nguyệt Hoa của thái hậu cũng trở thành nơi nghị sự việc quân cơ đại sự. Vì thế, văn võ nước Liêu đều tề tựu tại đây, đang nghị luận việc lớn vừa xảy ra tại Tây Bắc.
Nước Liêu tuy lập nước sớm, sau khi chiếm được mười sáu châu ở U Vân tốc độ Hán hóa dần nhanh chóng, quản chế triều đình xây dựng theo Trung Nguyên, nhưng các quan văn võ ngoài những ngày lên triều ra, trước mặt hoàng đế đều rất tùy tiện, vì họ có uy lực trước thái hậu nên cười nói nghị sự không hề kiêng kỵ, thua xa sự tôn nghiêm uy vũ của triều đình nước Tống.
Trong cung, vệ quân Đô chỉ huy sứ Gia Luật Cáp tự vuốt râu, cười trên nỗi bất hạnh của người khác mà nói: “Hay lắm, mấy năm trước, Đại Liêu ta trước sau xuất hiện mấy tên phản tặc, nội loạn không ngừng, bị nước Tống chê cười, thừa cơ Đại Liêu bận rộn chính sự nhất cử tiêu diệt nước Hán. Hà hà, giờ chịu báo ứng, Dương Hạo phán Tống, mười chín châu Hà Tây và tới hai trăm ba trăm vạn dân nước Tống phen này không lo nổi thân mình”.
Tiêu Xước ngồi ghế thượng thủ, mắt liếc nhìn nói: “Chư vị ái khanh, hãy nói về việc chính sự đi, một khi Dương Hạo thống nhất Hà Tây, lập nước xưng đế, vua Tống uất giận, ắt sẽ lại điều đại binh thảo phạt Tây Bắc, Dương Hạo lấy thân phận hoàng đế đại Hạ gửi sứ thần đến, muốn thiết lập quan hệ bang giao với nước ta, muốn ta giúp đỡ, không biết chư vị ái khanh có ý kiến gì?”.
Gia Luật Hưu Ca đứng dậy nói: “Thái hậu, Hà Tây được tự lập rất có lợi cho Đại Liêu ta, nhưng Dương Hạo tự lập đã gây thù với Nam triều, Nam triều sẽ có cớ để dụng đại binh đến Hà Tây. Quyết không để Hà Tây rơi vào tay triều Tống, nếu không đối phương sẽ rất có lợi, cực bất lợi cho Đại Liêu, thần cho rằng, phải tận lực giúp đỡ Dương Hạo”.
Tiêu Xước nghe xong cảm thấy vui sướng, Gia Luật Hưu Ca là ái tướng của nàng, thậm chí là chỗ dựa, nàng đương nhiên mong muốn Gia Luật Hưu Ca nhất tâm vi công, mà nay Gia Luật Hưu Ca có thể vứt bỏ hiềm khích, toàn tâm toàn ý lo nghĩ cho triều đình, không vì chuyện của La Đông Nhi mà phán xét con người Dương Hạo tốt xấu, nàng lại càng thích thú hơn.
Không ngờ Gia Luật Hưu Ca vừa nói xong, lại nói tiếp: “Tuy nhiên, dù việc giúp nước Hạ có lợi cho Đại Liêu thì chúng ta cũng không thể vô cớ tương trợ, tổn hao tướng sĩ Đại Liêu. Thần cho rằng, chỉ thiết lập bang giao là không đủ, nước Hạ phải bắt chước Hán, kết phụ tử với Đại Liêu, cam chịu phụ thuộc vào nước ta, nghe lệnh hoàng đế nước ta...”. Tiêu Xước ngẩn ra, thất thanh nói: “Phụ tử quốc?”.
Gia Luật Hưu Ca đáp: “Không sai! Dương Hạo đã có thể xưng đế, điều kiêng ky nhất, tức là đại quân của nước Tống. Chỗ dựa lớn nhất duy chỉ có hùm lang là nước Liêu ta, ấy, trên thế gian này làm gì có chuyện dễ dàng như vậy? Chỉ dùng một vương hiệu đổi lấy vương vị, hắn chắc sẽ không cự tuyệt đâu”.
Hắn hướng về bá quan văn võ, mắt lộ một vẻ giễu cợt, cười nói: “Chư vị đại nhân, kẻ thù của kẻ thù, chính là bằng hữu của chúng ta, việc phục quốc này, chúng ta nên giúp đỡ.
Chí ít thì lợi ích mà nước Hạ đem lại cho ta nhiều hơn Hán, tuy nhiên, hắn cũng phải trả giá chút chứ? Chỉ cần hắn, vị hoàng đế nước Hạ này, gọi tiểu hoàng đế ba tuổi nước ta một tiếng phụ hoàng, Đại Liêu mới thấy hãnh diện, các vị nói xem có đúng không?”.
Bá quan văn võ nghe xong đều cười ha hả, ồn ào nói: “Đúng vậy, hắn muốn mượn binh tướng Đại Liêu ta thì phải gọi hoàng thượng nước ta một tiếng phụ hoàng”.
Họ đồng ý nhưng Tiêu Xước không đồng ý, tuy quan hệ giữa đôi phụ tử này cuối cùng cũng không thể làm rõ được, nhưng họ dù sao cũng là phụ tử, muốn kẻ lớn hơn gọi người nhỏ hơn tiếng phụ hoàng sao? Dù nàng bỏ được Dương Hạo nhưng không thể bỏ con trai mình, phụ tử đảo nghịch là tội trời tru đất diệt.
Tiêu Xước thở dài nói: “Huu Ca đại nhân, một nước mới lập, một vương mới xưng, lại phải xưng làm hoàng nhi với con nít ba tuổi nước khác ư? Ngươi cho rằng người trong thiên hạ đều giống Thạch Kính Đường hám lợi mất khôn sao?”.
Tiêu Xước chưa nói xong, Gia Luật Hưu Ca đã cười đáp: “Thái hậu, hắn đã cầu ta giúp, thì bất kể giúp nhiều ít cũng phải trả giá chứ”.
Tiêu Xước lắc đầu nói: “Huu Ca đại nhân lời này sai rồi, nên biết rằng Dương Hạo vốn người Tống, trong chiếu thư hắn khăng khăng khẳng định tuân theo di chiếu tiên đế Nam triều, bất đắc dĩ bức bách tự lập, nếu xưng hoàng nhi với Đại Liêu ta, lẽ nào không phải là di nhân khẩu thực? Văn võ dưới trướng hắn đa số là cựu thần Hán quốc, lúc trước Lưu Kế Nguyên xưng hoàng nhi với Đại Liêu ta, những quan thần này đã uất hận mà không dám nói”.
Gia Luật Hưu Ca có ý muốn sỉ nhục Dương Hạo, nghe thấy vậy bèn đáp: “Hắn dẫu không chịu thì cũng mượn cớ đó phần nào làm nhụt nhuệ khí của hắn, tiện đó đưa ra các điều kiện khác, chứ không phải sử tiết của hắn vừa đến, Thái hậu liền đồng ý chứ?”. Tiêu Xước không đáp, quay sang tể tướng Bắc phủ, đồng chánh sự môn hạ Thất Phòng hỏi: “Ái khanh nghĩ thế nào?”.
Thất Phòng trầm tĩnh nói: “Thần cho rằng, nước cùng kết huynh đệ hay phụ tử chi bang thì cũng chỉ là hư danh, không quan trọng đến mức ấy”.
Quách Tập tuy quyền cao chức trọng, được thái hậu hết mực coi trọng, nhưng cũng không muốn vì thế mà đắc tội với Gia Luật Hưu Ca, lúc này mới ra lời khuyên bảo hắn: “Đương nhiên, như lời Hưu Ca đại nhân đã nói, cái đó càng nâng cao quốc uy Đại Liêu, thể hiện chí khí của ta, kỳ thực rất có lợi. Nhưng theo ý thái hậu, Dương Hạo tuyệt đối sẽ không đồng ý điều kiện này, giờ là lúc hắn chiếm lĩnh lòng dân, cớ để lập quốc không có nghĩa là chỉ phụ thuộc vào mồm miệng, đến xưng thần với Đại Liêu ta. Như nay hắn phái sứ thần tới cầu cận ta có nghĩa là thừa nhận Đại Liêu là đại quốc, thượng quốc. Nếu chúng ta đưa ra một điều kiện khiến hắn không thể đáp ứng được, sau đó lại ra chút nhượng bộ, há không phải là chúng ta đang chiều theo ý hắn sao?
Huống hồ nước Tống cường thịnh, binh lực hùng mạnh vẫn là đối thủ mạnh nhất của Đại Liêu ta, mấy năm gần đây, vì nội loạn, Đại Liêu tổn hao nguyên khí, mắt thấy Hà Tây bị Nam triều thôn tính mà bất lực không thể đánh giáp mặt một trận, chúng ta đã để mất cơ hội, ngày nay Dương Hạo vì Hà Tây mà gây thù với Nam triều, điều này đối với Đại Liêu mà nói chính là một cơ hội quy báu trời cho, chúng ta sẽ thể hiện sự hào phóng của đại quốc, không nên tranh chấp những việc nhỏ nhặt này với hắn, hai bên ký kết làm hữu bang, thực có lợi lớn cho Đại Liêu để đánh lại Nam triều, có được những lợi ích xác thực như vậy lẽ nào không phải là hùm báo thêm cánh sao?”.
Hắn hướng về phía Tiêu Xước, khom người nói: “Thái hậu, nước Hạ kia có đưa ra yêu cầu tất cũng đưa ra những điều kiện đắc lợi cho chúng ta, đó là gì vậy?”.
Tiêu Xước nói: “Điều thứ nhất: Hai nước kết bang giao, không xâm phạm lẫn nhau, ven mép các thành trì không được xây thành hào, không được điều binh động mã. Thứ hai: Hai bên văn giáo truyền bá không được gây trở ngại, phàm là đạo tặc đào tẩu, hai bên không được che dấu mà bắt dẫn về chính quốc. Thứ ba, vùng biên thùy thiết lập các tràng (chợ), hỗ trợ giao thương. Thứ tư: Nước Hạ tình nguyện cống nạp Đại Liêu mỗi năm: muối sáu vạn thạch (một thạch: 120 cân), trà một nghìn thạch, lụa mười nghìn xếp, thiết khí hai vạn kiện cùng với gốm sứ các loại và giao thương với giá đồng đều Trung Nguyên, thuế tức nhỏ”.
Thất Phòng vừa nghe thấy liền nhíu mày lại, trong những điều trên, ngoài điều cuối ra thì tất cả đều là điều kiện hoàn toàn bình đẳng đôi bên cùng lợi, điều cuối cùng cứ cho là Dương Hạo chủ động mưu cầu Đại Liêu nhận lời và báo đáp sự giúp đỡ đó.
Lúc này Tống đang thực hiện phong tỏa kinh tế với nước Liêu, hai bên tuy không có nhiều tràng hàng hóa trao đổi được giới hạn, nước Liêu không trao vận ngựa, thiết khí cho Tống, dù chỉ là giao dịch các đồ dùng cần thiết như muối, trà, lương thực, gốm sứ... Cũng tô thuế tới mười phần, hạn chế các quy mô xuất khẩu khác.
Mà thiết khí như nồi sắt, đầu rìu, lưỡi liềm, lưỡi cày là những phẩm vật cần thiết trong sản xuất, nước Liêu lại rất bần thiếu, nhiều nhà có con gái sắp gả đi đều lấy nồi sắt làm của hồi môn, nồi càng thượng hảo thì nương gia càng có thể diện, nghĩ đến giá cả khi trao đổi là biết. Hoặc như đầu rìu, lưỡi liềm, lưỡi cày có nhiều nơi đa số là dùng các loại bằng gỗ, đá nên năng lực sản xuất hạn chế nhiều.
Những điều khốn khó đó Thất Phong tể tướng biết rất rõ, nếu có thể mua được các loại thương phẩm đó từ nước Hạ với giá trị rẻ là việc rất lợi. Nhưng Dương Hạo vừa mới lập quốc, muốn có một đồng minh lớn mạnh, hắn chỉ đề xuất trả một cái lợi. Nguyên tắc mà nói, thậm chí không phải là lợi mà chỉ là hai nước không đối địch nên chưa tận lực tiến hành hạn chế và tô thuế mậu dịch,c ó sự mưu cầu mà lại chỉ trả chút lợi này, tên hoàng đế nước Hạ này quả quá keo kiệt.
Thất Phòng không nhịn được phì cười, ung dung lắc đầu nói: “Vị hoàng đế nước Hạ này thật nghèo kiết xác, hay là không hề có ý muốn nước Liêu ta tương trợ, điều kiện kết giao này thực quá ít ỏi”.
Da Luật Hưu Ca cười khẩy nói: “Thất Phòng đại nhân, ngài cũng thấy không thỏa rồi phải không? Ấy! Đây chính là thành ý kết giao của vị hoàng đế nước Hạ đó với Đại Liêu. Theo ý ta, quyết không thể dễ dàng đáp ứng hắn như vậy. Không đáp, chúng ta tuy rất muốn quy tụ Hà Tây, nhưng Dương Hạo hắn lại phản Tống tự xưng, so với Hà Tây thì chúng ta càng phải chú trọng hơn trăm lần.
Thái hậu, theo ý của thần, chúng ta cứ tạm thời thoái thác, không đưa hồi đáp hoặc trước tiên thừa nhận sự tồn tại của nước Hạ, đồng ý kết giao nhưng thực chất không đưa ra một trợ giúp nào. Hắn đã dám xưng đế thì cũng phải liệu biết sẽ làm hoàng đế Nam triều nổi trận lôi đình. Trong thời gian ngắn, khi Hà Tây lâm nguy, đến lúc hắn không thể trụ được nữa thì chúng ta đưa ra yêu sách, hắn không muốn cũng phái đồng ý, Đại Liêu ta lại càng có thể khống chế được nước Hạ”.
Tiêu Xước do dự một chút, lại nhìn về phía xu mật sử Quách Tập, ba người này là những lĩnh tướng giỏi giang một văn hai võ ba là hoàng thân quốc thích, dù nàng là thái hậu hay hoàng đế thì cũng phái kiêng nể và coi trọng ý kiến cả ba đại thần này.
Quách Tập trầm ngâm chốc lát rồi nói: “Theo tình thế nước ta hiện nay, không dễ can qua động binh với Nam triều, Dương Hạo vốn là triều thần nhà Tống mà lại tự xưng đế, người quân tử khó có thể dung, hoàng đế Nam triều, nay có làm những phản ứng gì ta chưa thể đoán biết được, vạn nhất hắn không cần biết lợi hại không tiếc hết thảy... Là vì đề phòng nước ta lún vào quá sâu, thần cho rằng nên thận trọng kỳ sự, trước tiên đồng ý kết bang giao, phải xem xét động thái Nam triều và Dương Hạo hắn có đủ thực lực để phục quốc hay không, nếu chỉ là một trò khôi hài phục không nổi thì Đại Liêu ta sẽ bớt phải chịu tổn hại”.
Tiêu thái hậu ngừng chau mày, hơi sầu, âm thầm thở dài: “Trước sau không thương lượng cùng ta, việc xong lại bắt ta làm này làm kia, ta đã nợ ngươi gì sao? Liều lĩnh xưng đế làm gì chứ, xưng làm vương cũng tốt hơn xưng đế, người như vậy không phải là ép Triệu Quỳnh cùng đánh một trận quyết tử sao, đến một lối thoát cũng không cần. Ta còn có giang sơn bách tính của ta, nhất cử nhất động sao có thể khinh xuất. Ngươi giờ đây nhất định đang hối hận, bất an không thiết ăn ngủ phải không?”.
Lúc nghĩ đến Dương Hạo hắn chắc đang hối hận vô cùng, lo đến mất ăn mất ngủ, Tiêu Xước liền lắc lắc đầu.
*
* *
“Triệu quan gia Biện Lương giờ chắc là vô cùng lo lắng, thái hậu mãng xà Thượng Kinh e là cũng ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, nói ra thì hiện giờ chỉ duy nhất ta kẻ tác dũng là vẫn bình yên, ung dung lãnh đạm, ha ha, ta bây giờ chỉ cần làm một việc duy nhất, là binh lai tiếp cản, thủy lai thổ tích ngưng”.
Nghĩ đến chỗ đắc ý, Dương Hạo mỉm cười, thản nhiên đứng trước một tiểu lâu nhiều hình trạm trổ, nhấc tay gõ cửa, từ bên trong Oa nhi cất giọng một cách tao nhã hỏi: “Ai thế?”.
Dương Hạo cười ranh mãnh đáp: “Ái phi, trẫm đến với nàng đây”.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 43: Thời Thế Đến ,Vận Mệnh sẻ Tự Thay (1+2+3)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 43: Thời Thế Đến, Vận Mệnh Sẽ Tự Đổi Thay
Một tiếng “A!” thở nhẹ thoát lên, Dương Hạo cực thính tai, lắng nghe trong phòng rục rịch, tiếng động có chút khác thường, như là đang vội vàng che giấu chuyện gì đó, nghe kỹ lại đúng là có tiếng hai người đang thở dồn dập, Dương Hạo lập tức ngờ vực, trong lòng thầm nghĩ: “Ta... Ta đi rồi, vương miện mà ta vẫn chưa hoàn thiện... Chẳng lẽ phải nhuộm thành màu xanh rồi sao?”.
“Oa Nhi...”.
Dương Hạo đưa tay đẩy cửa, cửa phòng đã chốt trong, dựa vào võ công của hắn để phá cửa xông vào là rất dễ dàng, chỉ có điều đang định mạnh tay thì lại hơi chút do dự, hắn dừng lại, chỉ nhẹ nhàng nói: “Mau mở cửa!”.
Một tiếng bước chân vội vã truyền lại, “két” một tiếng cửa phòng được mở ra. Ánh đỏ của ngọn đèn rọi sáng, chỉ nhìn thấy thân hình nhỏ xinh của Oa Nhi với một bộ áo lụa mềm trắng có thêu hình trúc mai, nàng thật giống như một tiểu nữ chưa trưởng thành, nhưng mái tóc nàng buông dài, chỉ quấn lỏng bằng một sợi lụa đỏ, điều đó đủ toát lên vẻ nữ tính làm mê mệt lòng người.
Phòng nàng vốn được trang trí một cách tùy ý, mà lúc này lại đúng thời khắc đi ngủ, nên Ngô Oa Nhi mái đầu không tô sức, thanh tơ nửa cuốn, hở ra hai cỗ tay trắng muốt, mắt nhìn chăm chú, mgười mặc bộ gấm lụa mềm mại. Trong ánh đèn ửng đỏ, trông nàng càng giống như một thiếu nữ non nớt, khuôn mặt thanh tú xinh xắn như hoa như ngọc, yêu kiều khả ái.
Ngô Oa Nhi nhẹ nhàng vén sợi tóc lên, khuôn mặt được điểm sáng, nàng đáp lời một cách không tự nhiên: “Lão gia... Quan gia... Việc công đã xong rồi ạ?”.
Dương Hạo vừa nhìn ánh mắt nàng càng thêm nghi hoặc, hắn chỉ ừm một tiếng rồi dạo bước vào phòng, một mùi hương ngào ngạt tỏa ra, mùi trầm bạch. Trong phòng phảng phất những áng khói, Dương Hạo càng nghi ngờ, hắn nhìn trên bàn, ngoài chén và mân trà ra thì không có gì khác. Tuy nhiên, có hai chén trà đã xốc lên, đã rót đầy nước trà.
Lúc đó, mắt Dương Hạo nhất thời nhìn chăm chăm, Ngô Oa Nhi ở phía sau hắn, thấy chén trà trên bàn không khỏi thốt lên: “Thiếp hư quá, quên mất không dọn chén trà ngăn nắp”. Oa Nhi vội nhìn Dương Hạo, thấy hắn vẫn trầm lặng như là chưa phát hiện ra điều gì khác thường, lúc này nàng mới bình tâm trở lại.
Dương Hạo vừa đi vừa lắng nghe, sau tấm bình phong có chăng mảnh cẩm trướng bằng lụa vân rực rỡ, bên trong kê sẵn một chiếc bồn gỗ, lúc này hắn nghe rõ có tiếng người đang thở. Thực lòng hắn không muốn tin rằng Oa Nhi đã làm chuyện có lỗi với mình, nhưng trong tình cảnh này thì có kẻ nam nhân nào lại không nghi ngờ cho được? Dương Hạo chỉ muốn xông đến lôi cổ kẻ đó ra nhưng lại lo rằng một khi Ngô Oa Nhi bị phát hiện là bất thủ phụ đạo thì phải xử phạt nàng ấy như thế nào đây, trong chốc lát tâm trạng rối bời, hắn chầm chậm đến ngồi xuống bên cạnh bàn.
Ngô Oa Nhi vội vàng tới trước mặt hắn, che khuất ánh nhìn của hắn, nhẹ nhàng nói: “Quan gia những ngày này bận bịu quốc sự, đã nhiều ngày không lưu về hậu trạch, hôm nay có phải là đã nhàn rỗi hơn rồi phải không ạ?”.
Dương Hạo chậm rãi ngẩng đầu lên nhìn nàng chằm chằm, Ngô Oa Nhi đúng là một giai nhân tuyệt đẹp khó thấy, tuy đã hai ba, hai tư tuổi nhưng dung mạo lại yêu kiều mỹ lệ như nữ nhi tuổi trăng tròn, khuôn mặt đào hoa, thuần khiết non nớt. Nếu như Dương Hạo dù sớm biết tiểu nữ xinh xắn đẹp đẽ nhường này lại đem lòng phụ bạc, say mê dục ái thì hắn cũng tình nguyện bị nàng hớp hồn đánh lừa.
“Nhưng mỹ nữ này... Thật thật sự khó có thể chịu đựng cô đơn lạnh lẽo nơi khuê phòng, dám... Dám làm...”.
Dương Hạo cảm thấy đau nhói trong lòng: “Ta trằn trọc thao thức, khổ cực vất vả, không phải là vì để người thân bên cạnh, vì những người như các nàng được sống những ngày thái bình phú quý sao? Oa Nhi à Oa Nhi, nếu thực nàng đã làm điều có lỗi với ta, nàng bảo ta phải xử phạt nàng như thế nào đây”.
Hắn miễn cưỡng nở nụ cười: “Sao vậy, nay ta đến thăm nàng, nàng không thích sao?”.
Ngô Oa Nhi đáp: “Thần thiếp nào có lý do gì mà lại không thích chứ, chỉ là có chút ngạc nhiên, chỉ lo quan gia trăm việc bộn bề, đến rồi lại đi ngay thôi”.
Nàng vừa nói vừa quay đầu nhìn lại, trán hơi nhăn lại nhưng cũng ngượng ngùng, Dương Hạo thấy vậy, trong lòng càng thêm nghi, hắn tiện nắm lấy chén trà, cười to nói: “Sao có thể chứ, ta đã tới rồi, thì sẽ ở lại đêm nay”.
Oa Nhi thấy hắn định uống trà liền vội thở nhẹ một tiếng, Dương Hạo nhấc mày hỏi: “Sao vậy?”. Oa Nhi ê a đáp: “Chén trà này... Thần thiếp đã uống dở rồi, hay... Thiếp rót cho quan gia chén khác”.
“Không cần đâu”.
Dương Hạo vừa bận xong việc công, nên vừa mệt vừa khát, hắn uống một hơi hết sạch chén trà nguội đó, thoải mái nói: “Ta vừa ban phát bức chiếu thư lập quốc đó, Triệu Quang Nghĩa lo như lửa cháy đến đuôi, lập tức gia phái binh mã, thúc giục Phan Mỹ tiến quân thảo phạt. Phan Mỹ lại là một tên tướng chỉ giỏi tấn công, vốn không thể bền bỉ giằng co với ta, nhờ thế tấn công hắn hiển nhiên không phải dùng hết sức.
Ha! Như thế vừa đúng ý ta, ta đang không muốn chiến đấu lâu dài với hắn, chỉ cần trong thời gian ngắn, dù cho bây giờ không phải là Dương Kế Nghiệp danh tướng thiện thủ kia giúp ta làm chủ thế trận, quân Tống cũng không thể đánh bại ta ngay trong chốc lát nên không cần phải quá bận rộn nữa, thời gian còn lại chỉ là xem chiếu thư rất nhàn hạ, sau này ta sẽ có thể thoải mái ở bên các nàng, nàng vui chứ?”.
“Quan gia. Thật chứ ạ?”. Ngô Oa Nhi mừng rỡ, quên cả lễ nghi, sà vào lòng Dương Hạo, hai tay ôm chặt lấy cổ hắn, nói một cách tình tứ: “Quan gia Tây chinh đại mạc, việc chinh chiến cấp bách, trở về lại lo chuyện trù lập đăng cơ, mỗi ngày đều bận tối mày tối mặt, người ta dù nhớ quan nhân, nhưng cũng hiểu được nặng nhẹ cấp bách, đâu dám... Đâu dám tỏ sự quyến luyến trước mặt quan nhân, quan nhân giờ không bận rộn gì nữa thì người... Phải ở bên cạnh thiệp suốt mới được”.
Dương Hạo là người từng trải, chân tình giả ý hắn đều biết hết, giờ phút này, nhìn thấy nàng lộ vẻ chân tình quấn quýt, mừng rỡ một cách tự nhiên không hề che đậy hay giả dối, trong lòng không khỏi cười khẩy: “Diễn tốt lắm, có thể lãnh thưởng kim mã được!”.
Hắn cười to, ôm chặt lấy thân người mềm mại thơm mát của Oa Nhi nói: “Mấy tháng nay bận công sự, nàng có biết ta nhớ nàng đến thế nào không? Nào, trời sắp sáng rồi, chúng ta mau lên giường, đi nghỉ thôi”.
Dương Hạo nói xong liền bế nàng đi vòng vào phía sau tấm bình phong, Ngô Oa Nhi lập tức trở nên căng thẳng, trách giận nói: “Quan gia sao lại vội vã như thế, cũng phái để thần thiếp tháo bỏ trang sức gột rửa đã rồi sẽ tới hầu hạ phu quân”.
Đang nói thì Dương Hạo đã đi tới cạnh giường, hắn cười nhạt nói: “Vợ chồng với nhan, cần gì phải câu nệ!”. Vừa nói hắn đã bước tới sau cẩm trướng, thuận tay xốc những mành xúc tua lên, quả nhiên có một kẻ đứng ngay sau cẩm trướng. Mành vừa được vén lên, kẻ đó lại phát ra tiếng thở nhẹ, Dương Hạo tức giận ngập người, trợn mắt nhìn, để xem rõ hình dáng kẻ kia. Nhưng hắn không khỏi kinh ngạc... Phía sau giường thực có người, nhưng đó lại là một nữ nhân, là Đường Diễm Diễm. Dương Hạo ngẩn người một lúc, tiện đà nghi hoặc hỏi: “Diễm Diễm nàng trong phòng này sao lại phái né tránh ta? Lẽ nào, lẽ nào nơi giường gối thiếu vắng, các nàng định diễn trò giả phượng hư long ở đây sao?”. Nhìn kỹ lại thấy trên tay Đường Diễm Diễm cầm một tượng Phật, hắn nghĩ sự nghi ngờ của mình có chút không đúng, Dương Hạo không khỏi giật mình nói: “Nàng trốn ở đây làm gì vậy?”.
Đường Diễm Diễm vội nhìn Ngô Oa Nhi, Ngô Oa Nhi lại nhìn Đường Diễm Diễm, Đường Diễm Diễm dậm chân nói: “Tỷ sớm đã nói không cần phải tránh mặt quan gia rồi mà, muội lại đắn đo lo ngại, giờ bị người phát hiện rồi này”. Vừa nói nàng vừa bước ra khỏi tấm mành, Dương Hạo bấy giờ mới nhìn rõ nàng đang cầm một bức tượng “Quan Âm Tống Tử”, hắn bừng tỉnh ngộ, không khỏi xấu hổ vì những nghi ngờ ban nãy.
Tuy nhiên may mà lúc nãy cơn giận của hắn vẫn chưa phát tác ra, là chủ nhân của nơi này nên cũng không thể nhu nhược yếu đuối, Dương Hạo biết rằng hai nàng đều là những người thông minh tuyệt đỉnh, hắn vội vàng xông vào như vậy cũng giống như tự khám xét, sợ hai người đã đoán ra mình đang nghĩ gì, hắn liền vội chữa lại, để Ngô Oa Nhi ngồi xuống, nghiêm khắc nói: “Các nàng mờ mờ ám ám như vậy, rốt cuộc là đang làm gì?”.
Ngô Oa Nhi khép nép một lúc rồi nhìn sang Diễm Diễm, Diễm Diễm lại không hề sợ hắn, nàng liền ngồi xuống bên cạnh giường, ôm bức tượng vào lòng, cây ngay không sợ chết đứng mà nói: “Chúng thiếp chỉ lén mời một tượng tống tử quan âm, kính thờ lễ Phật, khẩn cầu Bồ Tát ban long tử, cách này được lưu truyền đã mấy trăm năm, nghe nói là vô cùng linh nghiệm, nhưng muội ấy lại không muốn người khác nhìn thấy lại chê cười nên mới phải lén lút vậy. Chúng thiếp cũng chỉ là vì nhà họ Dương tử tôn đầy đàn, đời đời hưng thịnh! Có gì mà phải hồ thẹn chứ”.
Dương Hạo vừa nghe đúng là duyên cớ này, không khỏi vừa bực vừa buồn cười nói: “Đây đúng cái gọi là có bệnh vái tứ phương, điều hư giả vô thực như thế các nàng cũng tin sao? Cầu khẩn Bồ Tát cũng không bằng đến cầu quan gia của nàng, không có ta, các nàng có thể sinh tử nữ gì chứ? Hơn nữa, ta lẽ nào không phải là cương kim cống bảo, phật sống chuyển thế sao?”.
Đường Diễm Diễm giận đữ nói: “Ai biết được quan gia làm gì, quan gia quả là bất công, đại tỷ có trai có gái, đến cả Nữ Anh cũng... Chỉ có mỗi chúng thiếp là không thấy gì, sao không lo lắng cho được?”.
Ngô Oa Nhi lại không dám nói với Dương Hạo giống như Diễm Diễm, chỉ vội vàng giải thích: “Tuy cách này nói ra có chút hoang đường, nhưng chưa chắc không có tác dụng, Dược vương tôn tử Tư Mạc có cách ‘hóa nữ vi nam’, nữ nhi sau khi mang thai, lấy một sợi dây cung cho vào nang đỏ khâu lại rồi mang vào cánh tay trái, đến mãn trăm ngày, lấy ra đập một phủ, sau đó đặt xuống dưới giường mình nằm, đầu hướng xuống dưới, không để cho ai biết thì con sinh ra sẽ là nam nhân, còn kỳ lạ hơi cả cách trước...”.
Nàng liếc nhìn Đường Diễm Diễm, ngập ngừng nói: “Chúng thiếp... Vốn định đợi sau khi mang thai sẽ thử làm theo cách của Dược vương”.
Dương Hạo nghe xong cười ầm lên, thì ra Dược vương tôn tử Tư Mạc kẻ được người đời sau truyền là cổ đại danh y thần kỳ cũng truyền bá phương thuốc hoang đường vô căn cứ như vậy sao? Đúng vậy, vào cái thời mà hắn sống này, cũng có rất nhiều người có nhiều kiểu mê tín khác nhau, các nàng hành động như vậy cũng không nên trách mắng.
Đường Diễm Diễm đặt tượng quan âm lên giường, đứng dậy nói: “Nói nhiều với quan gia làm gì kia chứ, việc khó nghĩ của phận nữ nhi chúng ta, quan gia hiểu mới là lạ, đi thôi, đi uống canh ‘ban tử’ đã...”.
Dương Hạo nhìn đáng bộ nàng kinh ngạc nói: “Không cầu khẩn Bồ Tát ban tử nữa sao, lại còn canh ‘ban tử’ gì nữa? Các nàng đừng có mà uống thứ linh tinh, uống vào cẩn thận không lại đau bụng, canh ‘ban tử’ này là dùng thuốc gì nấu thành vậy?”.
Ngô Oa Nhi ôm lấy tượng Phật, thẹn thùng nói: “Không phải dùng thuốc, tiên cô nói chỉ cần chúng thiếp quỳ trước tượng ‘Tống Tử Quan Âm’ trong ba tuần hương, yêu lặng khẩn cầu, sẽ... Có một ít đất rơi từ đây xuống, dùng đất đó hòa vào nước uống sẽ... Sẽ thành...”.
Dương Hạo nhìn vào ngón tay của Ngô Oa Nhi, hai mắt liền chăm chú. Nàng cầm là bức tượng quan âm bằng đất, Quan âm hiền hậu đang bế trong lòng tiểu tử mập mạp, chỉ mặc một chiếc yếm đỏ, cổ đeo vòng trường mệnh, ngón tay ngọc ngà của Ngô Oa Nhi chỉ vào lại đúng là chỗ ấy của tiểu tử mập đó...”.
Dương Hạo trừng mắt nhìn một hồi, không nhịn được cười ầm lên: “Ha ha ha, tiểu... uống thứ đất rớt từ ‘tiểu ấy’ xuống hả? Ha ha ha ha... Thế mà cũng nghĩ ra được, làm ta cười đau cả bụng, ‘cái ấy’ của tên tiểu tử này lại có thể hơn cả ta sao? Theo ta thì, nàng cứ nếm thử... Của phu quân nàng, biết đâu lại có chút tác dụng ha ha ha...”.
Dương Hạo cười ngặt ngẽo Ngô Oa Nhi mặt đỏ bừng lên không biết nói gì, lúc này Đường Diễm Diễm từ bình phong khoan thai bước vào, liếc Dương Hạo một cái nói: “Quan gia cười cái gì! Có gì đáng cười chứ!”. Rồi nhìn Oa Nhi hỏi: “Muội uống chén đó trước đi?”.
Dương Hạo cười đến ngã ngừa ra, vẫy tay nói: “Đi đi, đi uống cái gì mà canh ‘ban tử’ của nàng đi, uống rồi, để ta xem Bồ Tát ban đến cho họ Dương nhà ta thứ gì, ha ha ha...”. Ngô Oa Nhi xấu hổ đáp: “Chén thuốc đó của thiếp... Vừa nãy bị quan gia uống sạch rồi...”.
“Hả!”. Dương Hạo im bặt không cười ra nổi.
*
* *
Quan trung, Lam Điền, bên bờ Bá Hà.
Mặc dù đêm đã khuya, Tề vương Triệu Quang Mỹ tiết độ sứ Nguyên Hoài Nam Tây lộ kiêm thị trung, trung thư lệnh, tri phủ phủ Khai Phong lại như không chút mệt mỏi. Hắn quanh quẩn một chỗ bên bờ Bá Hà, nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy về đông mà lo lắng buồn phiền, gió đầu đông từng đợt rít lên trên mặt nước, cái lạnh tê buốt cả da thịt, nhưng trái tim của hắn còn băng giá hơn thảy.
Bây giờ, hắn chỉ còn lại vương tước và cái quản chức trấn giữ Trường An, bị đày đến một nơi thế này theo lý mà nói là rất an toàn, nhưng hắn không biết đây là kết thúc hay bắt đầu, không biết vị nhị ca kia của hắn có dừng tay hay không.
Vốn lẽ hắn bị giám quan ngự sử vạch tội, rồi bãi chức tri phủ về quê, cứ nghĩ thế là kết thúc, ai ngờ giám quan vẫn chưa chịu đừng tay lại, cấu kết với Trương Ký cáo buộc hắn tội không biết hối cải, đem lòng oán trách thánh thượng, kết quả là bị hoàng huynh đày đến cô thành Trường An. Lúc lên đường, lời nói của ngoại quản sự Hồ Hỉ Nhi làm cho hắn trong lòng bất an, dọc đường thao thức, khó khăn lắm mới chịu đựng được đến Lam Điền, tạm thời giữ được mạng sống, nhưng khắp thiên hạ này đều là lãnh thổ cua hoàng thượng, ai biết được vị hoàng huynh ấy có chịu ngừng tay hay không. Nếu nỗi ngờ vực của hắn đối với ta mãi không dứt thì dù có cao chạy xa bay đến đâu, hắn chỉ cần ban chiếu thư là đã đoạt được tính mệnh này rồi! Cứ nghĩ đến đây...
Triệu Quang Mỹ than thở một hồi, Hồ Hỉ Nhi vốn là quản gia hắn tuyển nhận năm trước, do đại quản sự Nữ Nhi quốc của Thiên Kim Nhất Tiếu lâu Trương Ngưu Nhi tiến cử. Hồ Hi này là người giỏi biết đoán ý của chủ nhân, lời ăn tiếng nói đều lễ độ đúng mực, nên rất được lòng hắn, trở thành tâm phúc của hắn.
Triệu Quang Mỹ thực không có chí lớn gì, lại sợ hãi những điều kiêng ky của hoàng huynh đối với hắn, nên khi nhận chức tri phủ không dám quá quan tâm việc chính sự, thường chỉ lưu luyến nơi Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, hắn rất thân thiết với hai tên trường quầy Trương Ngựu Nhi Nữ Nhi quốc và Lão Hắc. Thế nên vừa tiến cử là hắn nhận luôn Hồ Hỉ Nhi, thay thế lão quản gia đương quản sắp gần trời cuối đất.
Hắn lưu luyến nơi phong lưu, thao hối nơi tửu sắc thiên hương, nhưng tiếc thay... Kẻ khác muốn trừng trị hắn, hắn làm gì thì kẻ đó sẽ tìm bằng được chỗ sơ hở của hắn, hắn không làm thì chẳng cần tìm nữa, không làm chính là cớ để trách phạt, kết quả hắn vẫn bị gán ghép cho một mớ tội danh, bị đày đến thành Trường An.
Rời kinh không bao lâu, Hồ Hỉ Nhi đã thông báo cho hắn, có phát hiện một toán người hành tung khả nghi âm thầm bám theo đội xe của hắn. Triệu Quang Mỹ lập tức nghĩ ngay đến liệu có phải hoàng huynh muốn giả làm phỉ đạo để diệt trừ hắn, cái gai trong mắt này, dọc đường hắn sợ đến mất ăn mất ngủ, sau đó nhờ có Hồ Hỉ Nhi bàn mưu hiến kế, tự diễn giả một vụ bị hành thích rồi cố ý loan tin thật lớn, truyền tới tận tai triều đình.
Kết quả, triều đình đành phải lập tức phái binh mã hộ tống, đồng thời viên quan các phủ dọc đường vì sợ vị vương gia này ngang qua địa hạt mình nên cảnh giới nghiêm ngặt, vừa đến là vội nghênh tiếp, lên đường là viễn tống, tiếp đãi hắn chu đáo đến không thấm chút mưa gió bão bùng. Như thế hắn mới thuận lợi đi tới Lam Điền, rồi không xa nữa là tới Trường An, nghĩ ra thì cũng đã an toàn nhưng mối nguy lớn nhất của hắn là đương kim hoàng đế. Làm sao mới có thể giải trừ được?
Triệu Quang Mỹ càng nghĩ lại càng lo, đang ngửa mặt lên trời than thở thì có tiếng người lén lút bước lại phía sau hắn. Thị vệ đang canh phòng cẩn mật bên dưới, nếu có kẻ đến gần hắn như thế chắc chắn là phủ hạ, người này đứng cách hắn khoảng một trượng, khom người nói: “Vương gia, đêm đã khuya, nên đi nghỉ thôi ạ”.
Triệu Quang Mỹ quay đầu lại: “Hỉ Nhi”.
“Có tiểu nhân”. Hồ quản gia vừa hạ người xuống, Triệu Quang Mỹ liền bước đến bên hắn, cảm kích nói: “Hồ quản gia, bản vương có thể tin tưởng ngươi được không?”.
Hồ Hỉ Nhi ngẩng đầu nhìn Triệu Quang Mỹ, hắn tuổi hơn ba mươi, dung mạo bình thường chỉ có đôi mắt có thần sắc, mang vẻ khôn khéo lanh lợi. Hắn ngẩng đầu nhìn rồi lại cúi rạp xuống, đáp: “Vương gia tin trọng tiểu nhân, tiểu nhân mang ân tri ngộ, vương gia là chủ của tiểu nhân, tiểu nhân nguyện vì vương gia mà nhảy vào nước sôi lửa bỏng, chết không từ”.
“Được lắm” Triệu Quang Mỹ nói: “Ngày mai tới Trường An, cũng giống như là vào ngục tù có muốn trốn cũng không thể nữa. Vi sách vạn nhất, bản vương giờ muốn phó thác người việc lớn, thị tỳ Vân Nghê đã mang cốt nhục của bản vương, việc này ít người biết, nàng ấy cũng chưa được cô gia phong làm trắc phi. Ôi, bản vương vốn định đợi sóng gió đi qua.
Bây giờ lại càng tốt, bản vương ban cho người chút ngân lượng châu báu, ngươi hãy đem nàng ấy dời khỏi đây ngay trong đêm nay, thay mặt ban vương lo liệu cho nàng ấy. Bản vương dù có thiếu một thị tỳ, một thuộc hạ cũng không đến mức làm kẻ khác chú ý. Vân Nghê sinh nam hay nữ nhi ta chưa thể biết, nhưng vạn nhất bản vương cũng truyền lại được cốt nhục”.
Hồ Hỉ Nhi kinh ngạc, thất thanh nói: “Vương gia sao lại nói thế, vương gia là dòng dõi hoàng thất, con cháu thiên tử, dù trên đường có gặp cường đạo ác nhân thì lúc đến thành Trường An kẻ nào dám hãm hại vương gia nữa?”.
Triệu Quang Mỹ cười thảm nói: “Ha! Kẻ đó... Nếu hắn thật muốn hại ta thì khắp thiên hạ này có ai có thể ngăn cản chứ?”.
Hắn nhìn Hồ Hỉ Nhi, chợt hạ quyết tâm, dậm một bước chân rồi nói: “Thôi vậy, bản vương... Sẽ kể hết cho người nghe”.
Triệu Quang Mỹ rất coi trọng tiên đế, mỗi tháng đều đến kiến phủ ba lần, dẫn đến việc nhiều triều thần hay ước đoán thượng ý mà làm thân với hắn, từ đó gây hiềm khích với nhị ca. Về sau, nhị ca kế vị, lập lên tiền lệ huynh đệ nối ngôi, nên đối với hắn càng thêm nghi kỵ, hắn kể cho Hồ Hỉ Nhi nghe hắn nghi ngờ rằng tất cả những việc như bị miễn chức, lưu đày, gặp đạo tặc đều là âm mưu của hoàng huynh, hắn rưng rưng nói: “Vị nhị ca này của ta, không hề nhân ái, phẩm cách khoan hậu như đại huynh, nếu hắn cảm thấy ta gây bất lợi với hắn thì dù có là ruột thịt nhất mẫu, hắn cũng không bỏ qua đâu”.
Hồ Hỉ Nhi nhìn Triệu Quang Mỹ, an ủi nói: “Vương gia nghĩ nhiều quá rồi, dù quan gia nghĩ vương gia bất lợi với mình cũng sẽ tuyệt đối không có ý niệm diệt trừ vương gia, lẽ nào đến mức cô gia phải nghĩ đến việc ủy thác tôn tử lại cho đại thần đâu? Hơn nữa, những kẻ khả nghi bám theo dọc đường đều có liên quan đến vương gia, giờ chúng ta đã an toàn đến Trường An, tạm thời quan gia cũng sẽ không hạ thủ nữa, nếu đường đường vương gia vừa đến thành đã xảy ra chuyện thì đến giang sơn đại thành cũng trị an bất ổn, quan gia phải ăn nói thế nào với bách tính thiên hạ đây? Vậy nên, vương gia không nhất định phải lo lắng đến vậy”.
Triệu Quang Mỹ là một người hay lo nghĩ, lúc này hắn rất bi quan, nghĩ mọi sự trở nên tồi tệ không thể chịu được nữa. Nhưng giờ có người khuyên giải, nghĩ kỹ lại cũng thấy có lý, hắn tự nhiên lóe lên tia hy vọng: “Có lý, có lý lắm, như thế đến Trường An, cô gia tới thành lập tức mượn cớ ốm bệnh tự bế phong, an phận thủ kỹ không sinh sự, không để ý tới việc quân chính của thành Trường An như thế có thể tránh được đại nạn”.
Hồ Hỉ Nhi ánh mắt sáng lên, nhẹ nhàng nói: “Vương gia vốn là người thông minh tuyệt đỉnh, như nay xa vào thế loạn lạc, có những việc chưa thể nghĩ được kỹ càng, tỉ mỉ”. Triệu Quang Mỹ ngẩn ra, kinh ngạc nói: “Những điều bản vương đã nghĩ, có chỗ nào không đúng chứ?”.
Hồ Hỉ Nhi đáp: “Nếu như quan gia thật có ý muốn giết vương gia, vương gia làm như vậy cũng giống như là tạo thêm cơ hội cho quan gia”. Triệu Quang Mỹ lấy làm kinh ngạc: “Sao ngươi lại nói như thế?”.
Hồ Hỉ Nhi đáp: “Nếu vương gia cáo bệnh ở trong phòng suốt, lâu dần bách tính Trường An sẽ chẳng còn nhớ có một vị quan trấn giữ thành, quan lại trong triều lãng quên mất một vị vương gia, như vậy có ai sẽ quan tâm tới sự sống chết của ngài nữa? Vương gia đến Trường An hãy công bố với thiên hạ rằng ngài đã lâm bệnh nặng, nên không thể đảm đương chính vụ, không thể tiếp kiến chính vụ. Như vậy một năm, hai năm hay năm năm sau, tin vương gia mắc trọng bệnh qua đời cũng không phải là tin động trời gì”.
Triệu Quang Mỹ bỗng nhiên tỉnh ngộ: “A! Hay lắm, đúng là ta quá hồ đồ, vậy... Theo ý kiến của ngươi, bản vương nên làm thế nào?”. Hồ Hỉ Nhi mỉm cười, đáp: “Lần này, vương gia đến Trường An, nên đảm nhận trọng trách trấn giữ thành Trường An, quan tâm đến bách tính trăm họ, thay quyền chính vụ và thường xuyên mời gặp các thân sĩ hội đàm chính sự, xem xét tình hình lưu thành, tận sức tận lực, làm cho ai nấy đều biết vương gia phụng lệnh quan gia đến trấn giữ thành Trường An, tạo phúc cho muôn dân, để cho mọi người biết rằng vương gia tuổi trẻ tài cao, uy danh mãnh hổ”. Triệu Quang Mỹ nghi ngờ hỏi: “Nếu như vậy, có thực tránh được tai họa không?”.
Hồ Hỉ Nhi đáp: “Hiển nhiên là không, nhưng... Có thể cho quan gia thấy vương gia vẫn còn có lợi cho quan gia, sẽ tạm dừng việc hạ thủ lại”. Hắn quay mặt nhìn về phía đông, vẻ trầm ngâm, màn đêm phủ kín một màu, khó có thể nhìn rõ ràng: “Thiên hạ thế sự, biến đổi khôn lường, có lẽ... Ngày tháng trôi qua, quan gia sẽ thay đổi tâm ý. Hoặc... Lâu dần, quan gia lại nhận thấy vương gia không còn là mối nguy hại lớn nữa thì sao?”.
Hồ Hỉ Nhi quay người lại, mỉm cười nói: “Thời gian càng lâu một ít, vương gia mới có thể tìm ra những cơ hội khác cho mình, hôm nay nhìn lại tuy sơn cùng thủy tận nhưng ngày mai tái nhìn, có lẽ đã có sinh cơ”.
“Vậy bản vương”.
“Chờ đợi, cố gắng sống, kiên nhẫn chờ đợi...”.
*
* *
Đường Diễm Diễm nằm thả lòng thân thể trên giường, hơi thở hồn hển dồn dập, tùy ý Dương Hạo sờ nắn đôi gò bồng đảo trắng muốt, bàn tay thô của hắn vân vê chà xát ngực nàng thành muôn hình muôn dạng, dư vị của cao trào lúc này khiến nàng cảm thấy khó có thể điều khiển được chính mình.
Mà sau lưng Dương Hạo, tấm thân mềm mại ngọc ngà của Oa Nhi đang kề sát vào hắn, đôi bắp đùi non nớt thon thả trắng bóc như tuyết của nàng quấn sát lấy bên hông của Dương Hạo. Khao khát được chiều chuộng cứ hiện rõ lên mà không cần điền giải bằng ngôn từ nào. Hắn vội quay thân mình, lật người nàng xuống giống như trò vật lộn của trẻ nhỏ thường chơi, đè lên thân thể nhỏ bé của nàng. Có lẽ trời sinh phận nữ nhi vốn vị thấp hơn, thân thể yêu kiều nhỏ nhắn đó của nàng lại không hề cảm thấy đau đớn chút nào. Chỉ chốc lát trong khoảnh khắc hắn cựa mình lên xuống, khiến nàng phát ra tiếng rên khẽ khàng dịu dàng đến mê đắm lòng người, tiếng than mỗi lúc một trầm bồng, cả hồn phách nàng đang thăng hoa, như phiêu du thoát trần.
Vừa rồi vì phải ngoại nhìn chờ đợi một phen xuân tình nên trong lòng nàng sớm đã xao xuyến rạo rực. Dương Hạo vừa đè lên thân thể mình, vòng eo thon thả của nàng vội vàng nhu động, đôi chân ngọc đẫy đà quyến rũ dần co lại như hình chi ếch. Nàng giống như một chú ếch non nớt đáng yêu, đang từng nhịp từng nhịp hòa hợp với thân thể vạm vờ của hắn, đôi tay mềm mại của nàng cũng nhịp nhàng chuyển động theo tiết tấu rung động của cả tấm lụa đệm giường, nó lẳng lơ vuốt ve men theo thân thể một cách điệu nghệ thành thục, làm cho Dương Hạo phía trên hân hoan đến mức không cần tốn chút sức nào cũng cảm thấy sảng khoái tột cùng, đạt tới khoái cảm cực lạc.
Đắm mình trong tiếng rên rỉ mềm mại ngọt ngào, Dương Hạo thả mình tha hồ mải miết trong cảm giác ướt át nơi “u cốc”, đạt đến đỉnh điểm rồi lại lên nữa, đến đỉnh rồi lại trùng điệp lên cao tít, làm cho hắn cảm thấy mình vững vàng nhưng lại bị khảm ở chính giữa, không thể phá được vòng vây. Có người nói, một khi tắt đèn, thì mọi phụ nữ đều giống nhau, lời này chỉ có thể lừa được kẻ tiểu tử thiếu thốn kinh nghiệm, chứ không đánh lừa được những nam nhân từng trải. Mỗi một nữ nhân đều có dung mạo khác biệt, phong tình khác nhau, hình thể riêng biệt, đến phản ứng cũng không giống cho nên cảm giác mà họ đem lại cho nam nhân cũng hoàn toàn khác xa.
Diễm Diễm đem lại cho hắn cái cảm giác nóng bỏng của một tòa hỏa sơn nồng nàn, mãnh liệt, phóng đãng nhưng không thể kéo dài được lâu. Còn Oa Nhi, thân thể mềm mại lả lướt như đồng tử, dáng vẻ yêu kiều thơm mềm như lụa, người con gái thực sự...
Tình cảm mãnh liệt và sức hấp dẫn từ tấm thân nhỏ nhắn của Oa Nhi có phần trội hơn Đường Diễm Diễm, chỉ trong một tuần hương, Diễm Diễm đã bị Dương Hạo chinh phạt đến rã rời, kêu rên hoan hỉ đến mơ hồ. Còn Oa Nhi tuy thân thể nhỏ xinh nhưng lại dẻo dai đến mười phần, muốn làm cho nàng cảm khoái tột bậc, cốt nhuyễn thân thể mềm nhũn đến không còn khả năng kháng cự thì cũng cần nhiều gấp đôi thời gian với Diễm Diễm.
Như hoa qua vũ bạo, Oa Nhi khoái cảm như đến mức mê man, lúc nàng dần hồi tỉnh lại chỉ “ừm” được một tiếng, mệt mỏi trở mình, cánh tay ngọc ngà cùng một chiếc chân thon nhỏ gác lên thân người Dương Hạo, ánh đèn sáng rực chiếu vào bàn tọa đẹp đẽ trên cơ thể nàng, đạo đồ đường cong đó giống như hình bán nguyệt đầu tháng: “Quan gia càng phát càng lợi hại, người ta đến tận hai mà cũng không ứng phó nổi một mình quan gia...”.
Đường Diễm Diễm mặt đỏ bừng áp sát lên ngực Dương Hạo, nhẹ nhàng vuốt ve bụng dưới đày dặn của hắn, ngốc nghếch nói: “Quan gia đã mấy tháng chưa... Lần này thiếp nhất định là có tiểu bảo bảo rồi...”.
Dương Hạo vừa trải hoan ái nhưng tinh thần vẫn dồi dào sung mãn, hắn hôn lên má hồng hào như anh đào của hai vị ái thê mỉm cười đáp: “Thời gian này, sự vụ bề bộn, thực quá lạnh nhạt với các nàng. Sau này, chúng ta cứ chuyên tâm tận sức lăn lộn để ta còn có thêm truyền nhân”.
Đường Diễm Diềm nghe xong, miễn cường giãy dụa tấm thân yếu mềm, lo lắng nói: “Hạo ca ca, thiếp không phải là xuẩn phụ không biết sự nặng nhẹ, cũng không phải là thứ hoang dâm vô độ tham luyến nơi chăn gối, quốc sự là trọng, điều đó chúng thiếp đều biết”.
Oa Nhi cũng lên tiếng, nhẹ nắm tay hắn: “Ừm, tuy nói chúng thiếp luôn mong ngóng ngày ngày được thấy quan nhân, nhưng xứng danh nam nhi là người không nên đắm say trong ái sắc, còn bổn phận của thê thiếp là tương phu giáo tử, chúng thiếp hiểu được”.
Dương Hạo cười: “Ta đã nói vậy tức là có lý của ta, chỉ cần nghĩ rõ ràng, chuẩn bị đầy đủ, đại quân kia kéo đến khí thế ồ ạt thực không quá đáng sợ, sắp tới hàn đông, mưa tuyết rơi xuống, thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tất cả đều do ta nắm chắc, như thế trong thời gian ngắn, thế công của quân Tống sẽ chẳng có gì đáng lo.
Còn về kế lâu dài... Ta chỉ có thể đợi, chờ đợi sự thay đổi, biến hóa của những thế lực phục binh từng nơi từng bước trên khắp miền đông tây nam bắc, giờ địch là địch, bạn là bạn, quân là quân, thần là thần. Tiếp theo đây ta chỉ có thể đợi, đợi đến khi địch không phải là địch, bạn không phải là bạn, quân cũng không phải là quân, thần cũng không phải là thần... Thời cơ đến, ắt sẽ tự vận chuyển”.
Diễm Diễm nháy mắt bèn gặng hỏi Oa Nhi: “Quan nhân đang nói gì thế, muội có hiểu không?”.
Oa Oa lắc đầu: “Muội không hiểu gì hết”.
Dương Hạo cười ha ha nói: “Không hiểu cũng không sao, các nàng chỉ cần hiểu được phục vụ quan nhân ta cho tốt là được. Nào, đêm thâu chóng sáng, chúng ta lại tiếp tục ân ái một phen”.
“Lại nữa?”. Oa Oa và Diễm Diễm đồng thanh kêu lên, hai nàng trốn chạy mỗi người một hướng, nhưng không may chưa bước được xa đã bị Dương Hạo vòng tay ôm chặt kéo lại. Trên giường lụa, hai nàng sóng vai kề thân, tứ chi trụ đất giống như hai tiểu khuyển cái đáng yêu ngoan ngoãn. Đèn đã cháy hết, chỉ còn chút đốm sáng len lỏi lóe lên, phán chiếu hình ảnh hai vầng viên nguyệt, một đợi xuân tình hứng khởi không ngừng lại... Ngoài cửa sổ, trận tuyết đầu tiên bắt đầu rơi mang theo tiếng gió vi vu...
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 44:Tâm Tư Đế Vương (1+2+3+4+5)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 44: Tâm Tư Đế Vương
Trận tuyết thứ bảy của mùa đông cũng là trận tuyết lớn nhất, mảnh đất Hà Tây quả thật giống như sơn vũ ngân xà, cảnh tượng hết sức tươi đẹp. Có điều dân bản xứ đối với cảnh tượng này cũng sớm đã quen rồi, nếu như là người từ phía nam tới nhìn thấy hàng nghìn người tuyết ở đây sẽ lập tức tán dương một tiếng.
Thời tiết như thế này, trừ một số ít người thợ săn bôn ba đi tìm những con thú nhỏ trong lớp tuyết dày đặc, thì rất ít người xuất hiện bên ngoài. Tuyết lớn như vậy không những xe khó đi qua, mà ngay cả lừa, ngựa, lạc đà cũng đi rất khó khăn, nhưng lúc này lại có một đội quân dùng tốc độ cực nhanh chạy qua hoang đảo. Mười mấy chiếc bảy xe tuyết được những con cẩu kéo đi nhanh như bay, phía trước và sau còn có mấy trăm người mặc áo da màu trắng xám đang dẫm trên chiếc ván trượt tuyết, vội vã đi về phía trước.
Một con thú nhỏ đột nhiên nghe thấy những tiếng đó từ trong gió, lập tức nhanh chóng tránh ra, chui vào trong hang tuyết, hơi thò đầu ra nhìn trộm. Đội ngũ kỳ lạ đó chạy như bay trên tuyết về phía trước, bất kể là ngồi trên xe trượt tuyết hay dẫm lên ván trượt tuyết, trên người đều mặc áo da dày cộp, mũi được che bởi chiếc khăn len dày, mặt lại dùng mạng đen che lại, trông rất cổ quái, con thú nhỏ đó chưa từng nhìn thấy người nào giống như vậy, không khỏi sợ hãi, lập tức trốn đi nhanh.
Đội quân đó đang hộ tống đám người đứng đầu quân chính Hạ Châu là Dương Hạo, Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông trở về Ngân Châu. Các công cụ vận chuyển kỳ quái này được dùng để quân đội hành quân, ở Tây Bắc đây cũng là lần đầu tiên. Thực ra xe trượt tuyết và ván trượt tuyết không biết đã được phát minh ra từ lúc nào, ghi chép mới nhất liên quan đến những chiếc ván trượt tuyết là nó được sáng tạo ra ở Tân Cương cách đây hơn một vạn năm.
Dương Hạo chưa từng trượt tuyết, cũng không biết thời đại này ở Đông Bắc và Tây Bắc không chỉ có xe trượt tuyết mà ngay cả ván trượt tuyết cũng có. Khi hắn vừa nhớ tới chuyện này thì lại làm như mình tự nghĩ ra, truyền một người thợ mộc đến, khoa chân múa tay nói cho người đó sáng kiến của mình, người thợ mộc nghe xong một hồi, liền vỗ vỗ vào đầu nói: “Thứ mà hoàng thượng nói có phải là loại sát nạp mà người Tây Bắc chúng ta vẫn dùng khi viễn hành vào mùa đông không?”.
Dương Hạo vô cùng sửng sốt, hỏi kỹ ra mới biết thứ mà người bản địa gọi là sát nạp chính là ván trượt tuyết. Loại ván trượt này có chút giống với loại ván trượt mà những người thích trượt tuyết ở thời hiện đại vẫn dùng, ván rộng khoảng 13cm, dài khoảng một mét. Từ phần đuôi đến phần dậm chân thì thẳng, còn từ phần dậm chân đến phần mũi thì dần dần mỏng vào trong, hơi vểnh ra.
Làm nó cũng khá đơn giản, bình thường thì dùng gỗ vân sam để đẽo khắc ra, sau đó cho một nửa thân của nó vào trong lửa, lại dụng lượng nước vốn có của nó để làm cho nó cong lên, hoặc cho vào nước sôi để đun, làm một đầu cong lên, sau đó định hình, ở giữa ván dùng da bò để làm vật cố định, kích cỡ rộng tương đương với một chiếc giầy, sau đó dùng dây đai da quấn xung quanh để cố định, phía dưới đế thì dùng da thú phủ lên, bọc lại, da lông hướng ra sau, như vậy ván trượt tuyết không chỉ có thể đi trên bình địa mà còn có thể trèo lên núi hoặc xuống núi, chỉ cần nguyên liệu đầy đủ thì rất nhanh có thể chế tạo ra được một chiếc.
Người thợ mộc đó bản thân cũng là người biết trượt tuyết, ông ta đã làm một bộ rất chắc chắn và đẹp rồi biểu diễn cho Dương Hạo xem. Gậy trượt tuyết mà loại sát nạp này dùng không phải là loại hai cán, mà là một cán đan dài khoảng hai mét, hai đầu được làm bằng thép nhọn, không chỉ có thể dùng để trượt tuyết, thăng bằng, nắm vững phương hướng mà còn có thể làm một loại vũ khí.
Qua một hồi biểu diễn của hắn, Dương Hạo phát hiện ra ván trượt tuyết loại cổ xưa này tốc độ tuy không thể so sánh với ván hiện đại, nhưng lại thực dụng hơn không chỉ chắc chắn, bền, có thể trượt trên địa hình nhiều tuyết, còn có thể trượt trên những tảng gỗ thô nham thạch, gỗ bị đổ, những điều này có thể những chiếc ván trượt tuyết lưu hành phương tây không có cách nào làm được.
Dương Hạo vô cùng vui mừng, lập tức triệu tập tất cả những binh sĩ biết sử dụng lại sát nạp này để làm quan, dạy toàn quân sử dụng ván trượt tuyết, bây giờ rất nhiều binh sĩ đã có thể thành thục sử dụng loại công cụ đi săn mùa đông cổ xưa của vùng Tây Bắc này, dần biến nó trở thành một phương tiện giao thông bắt buộc phải sử dụng thành thục của quân đội Hạ Châu.
Bây giờ, Liêu Quốc và Vu Khuyết quốc đã dẫn đầu thừa nhận thành vị của Đại Hạ Quốc, phái sứ tiết đến chúc mừng, Cao Xương quốc sau khi do dự cũng biểu lộ thái độ thừa nhận...
[Thiếu một đoạn, bạn nào có đoạn này thì đóng góp nhé]
... thì nàng ta còn giỏi hơn cả trăm lần so với một người không hiểu chút nào về chính trị như Kha Trấn Ác và một người nửa đường xuất gia như Lý Nhất Đức, quả thật đã chỉnh lý mọi việc của Ngân Châu đâu ra đó, ngày càng thịnh vượng. Đối với một thần thuộc đắc ý như thế này, Dương Hạo đương nhiên cần khách khí một chút.
Long Linh Nhi nói: “Lý tri phủ và Kha phòng ngự sử vì trách nhiệm trọng đại, chưa thể đích thân xuất thành nghênh đón, đã lệnh cho thần cung đón thánh giá”. Dương Hạo lại hỏi: “Hóa ra là như vậy, khanh mau đứng dậy đi, thế mấy vị chủ tướng tọa thủ Hoành Sơn đã đến chưa?”.
“Tạ quan gia”. Long Linh Nhi đứng dậy, vẫn cung kính cúi đầu nói: “Khi thần rời thành thì bọn họ đã gần đến Ngân Châu, lúc này chắc đã tới đợi ở trong thành rồi, phía sau núi đã chuẩn bị xe, Quan gia có cần đổi xe đi không?”.
Dương Hạo liền nói: “Nếu đã như vậy thì không cần đổi xe nữa, mấy vị Dương tướng gia không thể rời đi lâu, chúng ta mau chóng về thành thôi, chiếc xe trượt tuyết này đi rất nhanh, có thể tiết kiệm được một ít thời gian, khanh cũng lên đây ngồi đi, còn mấy thị vệ này thì để cho bọn họ cưỡi ngựa từ từ về cũng được”.
“Thẩn tuân chi”. Long Linh Nhi khom người trả lời, rồi lên xe trượt tuyết, ngồi phía sau Dương Hạo. Người lái chiếc xe trượt tuyết quất roi một cái, mười mấy con đại khuyển liền kéo chiếc xe chạy như bay lên sườn núi.
Trong thành Ngân Châu, Dương Hạo nhận được sự đón tiếp của đám văn võ tướng, lập tức đi tới phủ tướng quân của phòng ngự sử. Hắn đi thẳng vào trong phòng lớn, cũng không còn để ý đến việc phải khách sáo, liền lập tức bắt đầu lên kế hoạch cho Định Nan quân ứng đối với cục diện trước mắt. Dương Hạo sau khi nói rõ tình thế trong ngoài trước mắt, Đinh Thừa Tông liền nói: “Chư vị đại nhân, từ khi quan gia đăng cơ đến nay, cống thế của Tống Quốc ngày càng mạnh, bây giờ Liêu Quốc chỉ đồng ý kết giao với nước ta, chứ không chịu cho chúng ta bất kỳ hình thức viện trợ mang tính thực chất nào, có thể dự liệu được rằng, Tống Quốc một khi biết được tin này tất sẽ càng không kiêng kỵ, áp lực chúng ta phải chịu sẽ càng nhiều hơn trước đó”.
Chúng tướng nhất thời bàn luận xôn xao, Đinh Thừa Tông cao giọng nói: “Thừa Tông khi ở Hạ Châu đã từng kiến nghị với quan gia, nước ta mới lập, thế lực còn non yếu, không thể tách rời được sự giúp đỡ của Liêu Quốc. Chúng ta có thể bỏ ra nhiều sự nhượng bộ để đổi lấy viện trợ của Liêu Quốc, nhưng quan gia đã phủ định kiến nghị này của Thừa Tông, quan gia cho rằng sự trợ giúp bên ngoài cuối cùng cũng không phải là kế lâu dài.
Nước ta tự lập có lợi cho Liêu Quốc, cho nên có chỗ nào có thể giúp được chúng ta thì chúng ta không cần yêu cầu Liêu Quốc cũng sẽ làm, việc gì không thể ra tay giúp thì chúng ta cũng không biết được phải nhượng bộ bao nhiêu thì mới nhận được sự trợ giúp của Liêu Quốc, vậy từ đó chúng ta sẽ chịu sự khống chế của Liêu Quốc, đó gọi là được không bằng mất, cho nên vẫn nên để chính chúng ta giải quyết khó khăn này”.
Viện trợ vũ lực của Liêu Quốc vốn là một nhân tố bên ngoài rất được văn võ bá quan Hạ Quốc trông đợi, nhưng những lời này của Đinh Thừa Tông đã đi trước nói cho mọi người biết rằng: “Đừng chỉ trông chờ vào Liêu Quốc, không cho Liêu Quốc nhiều lợi ích hơn thì Liêu Quốc sẽ không phát binh, quan gia cũng căn bản không nghĩ rằng sẽ cho Liêu quốc thêm lợi ích. Cầu người không bằng cầu mình, chúng ta vẫn phải tự nghĩ ra cách giải quyết”.
Người được phái đến Hoành Sơn tham dự phòng ngự tác chiến Trương Sùng Nguy hơi nhíu mày nói: “Nếu như Liêu Quốc không trực tiếp xuất binh can dự, hoặc tạo ra một số việc để kìm chế binh lực của Tống Quốc ở biên cương Liêu Tống, thì e rằng áp lực chúng ta phải chịu quá lớn, trong thời gian ngắn, phòng tuyến Hoành Sơn có lẽ sẽ không bị công phá, nhưng về mặt tiêu hao binh viên, chúng ta không thể tiêu hao được như Tống quốc”.
Dương Diên Phổ trầm giọng nói: “Không sai, nếu như không giành được sự viện trợ của Liêu Quốc, khó khăn của chúng ta sẽ tăng gấp mười lần. Nhưng, mạt tướng cho rằng quan gia không cầu viện Liêu Quốc chưa chắc đã là chuyện xấu. Dã tâm của con lang Liêu Quốc rất lớn, một khi chúng ta quá phụ thuộc vào chúng, chúng sẽ từng bước từng bước tiến tới, cuối cùng chúng sẽ dần biến chúng ta thành nước chư hầu của Liêu Quốc, còn Liêu Quốc đã đối xử như thế nào đối với các nước chư hầu thì từ tình hình của Hán quốc, chư vị đại nhân cũng có thể nhìn ra. Đến lúc đó, Hạ Quốc ta chẳng qua chỉ là một công cụ Liêu Quốc dùng để đối phó với Tống Quốc mà thôi, quân thần Hạ Quốc ta cũng sẽ trở thành mã tiền tốt của Liêu Quốc, đem hy vọng của chúng ta gửi gắm vào Liêu Quốc chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước cọp cửa sau, đều có hại như nhau”.
Dương Hạo mỉm cười, gật đầu tán thưởng: “Những lời Diên Phổ nói rất đúng, dựa vào Liêu Quốc, không thể được, mà xung quanh chúng ta lại không có đồng minh cường đại khác, chúng ta chỉ có thể dựa vào chính mình, khó khăn càng thêm khó khăn, nhưng một khi qua được giai đoạn này rồi thì có thể bớt được rất nhiều hậu họa về sau. Chúng ta trong cuộc chiến tranh nhất thống Hà Tây, mỗi một kẻ địch đều mạnh hơn chúng ta, nhưng cuối cùng đều bị chúng ta lần lượt hạ xuống, trước đây có thể, bây giờ lại không thể sao?
Dùng đại nhân vật Liêu Quốc này để giúp chúng ta đối phó với Tống Quốc, hai cự nhân này lại giao thủ với nhau trong địa bàn của chúng ta, kẻ đầu tiên bị hủy diệt sẽ không phải là hai con mãnh hổ đó mà chỉ có thể là chính chúng ta, cho nên... Không thể quá kỳ vọng vào sự giúp đỡ bên ngoài, chúng ta cần tính toán một chút, phải làm thế nào để dựa vào sức mạnh của chính mình, chống đỡ qua cửa ải này”.
Tư tưởng chính đã được định ra, đám văn võ chỉ cần dựa theo tư tưởng này mà mưu tính ra kế sách, từng kế hoạch được đề ra, sau đó dưới sự thảo luận của đồng liêu từng cái lại bị bác bỏ đi, Dương Hạo thỉnh thoảng cũng xen lời, gia nhập vào cuộc biện luận của bên đồng ý và bên phản đối.
Hắn là người thống trị cao nhất của Đại Hạ Quốc, nhưng không có nghĩa hắn là một chính trị gia, quân sự gia xuất sắc nhất trong đám văn thần võ tướng Hạ Quốc, từ trước tới nay, hắn sớm đã rèn luyện cho mình một phong độ tốt giữa các thuộc hạ của mình, mọi người đều đưa ra ý kiến, biết thì nói, nói không cần phải kiêng kỵ, cho dù là lời do chính miệng hắn nói ra cũng có thể phản bác. Khi mới bắt đầu, mọi người đều có chút kiêng kỵ, nhưng bây giờ đã quen với phong cách của hắn.
Mọi người nghị luận rất lâu, Dương Hạo đột nhiên phát hiện ra Dương Kế Nghiệp hơi trầm một chút, hắn rất ít nói xen vào, chỉ khi người khác nêu ra một kiến giải mới thì hắn mới chú ý nghe một chút, một khi bị người khác đẩy ra, ánh mắt của hắn mới quay trở lại, nhìn về hướng sa bàn, khổ tư suy nghĩ. Trong lòng Dương Hạo bất giác hơi trầm xuống, Dương Kế Nghiệp là tổng chỉ huy tác chiến của tiền tuyến Hoành Sơn, cũng là tướng lĩnh hắn coi trọng nhất ở đông thành, nếu như hắn đối với trận chiến này có sự bi quan thì tất sẽ ảnh hưởng đến sĩ khí toàn quân, Dương Hạo mở lời hỏi: “Dương tướng quân cho rằng chúng ta nên ứng đối với cục diện trước mắt như thế nào?”.
Dương Kế Nghiệp nhìn chằm chằm vào chiếc sa bản trước mặt, hai mắt xuất thần, căn bản không nghe thấy lời Dương Hạo nói, Dương Diên Phổ liền lay lay cổ tay phụ thân mình, thấp giọng nhắc: “Cha, quan gia đang gọi cha đấy”.
“Sao cơ? À! Quan gia...”. Dương Kế Nghiệp định thần lại, mơ hồ nhìn Dương Hạo: “Quan gia nói gì cơ?”.
Dương Hạo thở dài nói: “Ta nói... Dương tướng quân đối với việc ứng phó với Tống Quốc có chủ ý gì không?”.
“Việc này...”. Dương Kế Nghiệp lại nhìn sa bàn, trầm ngâm một hồi nói: “Trong thời gian ngắn, Tống quân không thể công phá được phòng tuyến Hoành Sơn, nhưng tin tức Liêu Quốc chưa đồng ý tương trợ ta mà truyền ra ngoài, Tống Quốc sẽ không còn phải lo trước tính sau nữa, tất nhiên sẽ phái càng nhiều binh lực tới, xung kích chúng ta phải chịu càng lớn, cho dù chúng ta chống đỡ được thì tiêu hao tất cũng cực đại.
Đây cũng chưa phải là điều phiền phức lớn nhất, điều phải lo lắng hơn chính là thiếu đi sự kìm kẹp của đối thủ cường đại, công thế của Tống Quốc có thể liên miên không dừng, mà tránh chiến tranh lâu dài chính là kế hoạch ban đầu của quan gia. Như vậy chúng ta muốn tránh được chiến tranh lâu dài thì không chỉ đơn giản là thủ vững, chúng ta còn phải ép làm sao cho Tống Quốc vứt bỏ tiến công vũ lực, ít nhất... Cũng phải làm đại thương nguyên khí của chúng, làm cho chúng nhất thời không dám tăng binh ở Hà Tây chúng ta nữa”.
Chủng Phóng nghe xong mắt đột nhiên sáng lên, nếu nói về chiến lược thì hắn có thể nói là mạnh như thác đổ, nếu nói đến chiến sách chiến thuật cụ thể thì những ngày qua sau khi nhận được các tin tình báo về cách bài binh bố trận của hai bên địch và ta, hắn cũng thường suy nghĩ, diễn giải theo cách riêng của mình, so sánh những phản ứng, phán đoán và chiến quả thực tế với nhau, làm cho hắn biết được kinh nghiệm thực chiến của mình vẫn không bằng Dương Kế Nghiệp, lúc này nghe hắn nói, bất giác có chút kinh ngạc, vội hỏi: “Phải chăng tướng quân cho rằng chúng ta nên chủ động xuất kích?”.
Dương Kế Nghiệp hơi lắc đầu, muốn nói lại thôi, Dương Hạo không kìm được mà nói: “Chúng ta đang thảo luận quân sự ở đây, người nói không có tội, tướng quân nếu như có cách nghĩ gì thì có thể nói ra, mọi người cùng thảo luận”.
Dương Kế Nghiệp chần chừ một lát rồi lại nói: “Mạt tướng cho rằng... Chúng ta nên vứt bỏ Hoành Sơn, lùi về phía sau”.
Chúng tướng nghe xong nhất thời xôn xao lên, Đinh Thừa Tông biến sắc nói: “Địa thế Hoành Sơn cũng có thể bỏ đi không lo sao? Chúng ta còn chưa lộ bại thế mà đã chủ động thoái lui sao? Nếu như vứt bỏ Hoành Sơn, đại môn rộng mở, Tống quân thẳng đường tiến vào, là có thể tới dưới thành Hạ Châu”.
Đám người Chủng Phóng, Trương Sùng Nguy, Lý Kế Đàm cũng động dung, trưởng sử Ngân Châu Long Linh Nhi lại hơi đưa mắt nhìn về phía Dương Hạo, tâm tư nữ nhi không tranh đấu hiếu thắng như nam nhân, cho nên trực giác đầu tiên của nàng chính là Dương Kế Nghiệp vẫn còn có những lời sau đó, cho nên lập tức nhìn Dương Hạo, xem phản ứng của hắn như thế nào.
Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông đều là những người tâm tư kín đáo, chỉ sau sự kinh ngạc chốc lát lại phản ứng lại, liền im miệng, nhìn Dương Kế Nghiệp.
Dương Hạo lúc đầu nghe thấy lời này của Dương Kế Nghiệp cũng vô cùng kinh ngạc, hiểm yếu Hoành Sơn trong lòng hắn luôn là một chỗ dựa để đối kháng với Tống quân, nếu như vứt bỏ Hoành Sơn thì đối với hắn mà nói, cảm giác của hắn cũng chẳng khác gì mấy với cảm giác của Lý Dục khi vừa nghe nói Tống quân đã bình yên vượt qua hiểm yếu Trường Giang.
Nhưng thấy thần sắc của Dương Kế Nghiệp, trong lòng hắn bất giác động: “Dương Kế Nghiệp chăng nhẽ đang nghĩ tới chiêu pháp Lâm Xung bổng đả Hồng giáo đầu chứ? Có thể sao? Thực lực Tống quân không hề yếu, chúng ta chủ động vứt bỏ Lân Phủ là để tranh quyền chủ động, tập kết ưu thế binh lực, bố trí hiểm ải, từ mặt chiến lược mà nói chính là lấy lùi để tiến, nhưng đối mặt với một đối thủ cường đại như thế này, đến Hoành Sơn cũng phải bỏ sao...”.
Hắn từ từ giơ tay lên, ngăn những tiếng xì xào của mọi người lại, căn phòng lập tức yên tĩnh, lúc này mới nói: “Dương khanh, nói lý do của khanh đi”.
Dương Kế Nghiệp nói: “Vâng, quan gia, thần cho rằng muốn thủ vững Hoành Sơn tuy gian nan nhưng chúng ta vẫn thủ được, nhưng muốn kìm hãm Tống quân, ép chúng phải dừng những bước tiến vũ lực là điều không thể. Mà theo đại kế của quan gia, lại phải nhanh chóng kết thúc những cuộc chiến tranh này, ép triều đình Tống Quốc phải nghị hòa với chúng ta, như vậy tất phải sử dụng đến biện pháp đặc biệt”.
Dương Hạo hỏi: “Phương pháp đặc biệt của khanh chính là vứt bỏ hiểm yếu Hoành Sơn, lại rút lui quân, đánh một trận đại chiến với Tống quân ở dưới thành Hạ Châu?”.
Dương Kế Nghiệp nói: “Theo chủ ý của thần, quyết chiến ở Hạ Châu cũng không phải là chủ ý hay, tốt nhất tiếp tực rút lui đến thẳng tám trăm dặm sa mạc Gobi, dẫn dụ Tống quân đến thành Linh Châu rồi quyết tử chiến một trận, như vậy là thỏa đáng nhất, chỉ có điều... Quan gia nếu đã lập đô ở Hạ Châu, căn cơ đất nước vẫn không thể xem nhẹ, nên tuyệt đối không thể lùi nữa, cho nên... Chỉ có thể lùi đến Hạ Châu rồi dừng. Có điều, tuy không có sự trợ giúp ưu thế của tám trăm dặm sa mạc Gobi, nhưng cái diệu là lúc này cũng đến chính đông rồi, dựa vào sự giúp đỡ của ông trời, miễn cưỡng cũng có thể bù lại tác dụng của sa mạc Gobi chỉ là... Khó tránh sẽ vất vả hơn”.
Trong chúng tướng đang ngồi, vẫn có rất nhiều người không hiểu được ý của Dương Kế Nghiệp, nhưng Dương Hạo, Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông đã hiểu được mấy phần, ba người không hẹn mà cùng vươn người về phía trước, Dương Hạo vội nói: “Nói tiếp đi”.
“Vâng!”. Dương Kế Nghiệp đáp một tiếng, lúc này mới nói ra hết kế sách bạo gan mà hắn vừa mới suy nghĩ kỹ ra. Theo như kế hoạch của hắn, muốn thủ vững Hoành Sơn thì dễ, muốn ép Tống Quốc hòa lại khó. Hơn nữa, chiến sự một khi kéo dài không nghỉ, quốc lực sẽ suy yếu, căn cơ chưa vững như Hạ Quốc trải qua chiến tranh liên miên tất sẽ nảy sinh dù vấn đề, tan vỡ từ nội bộ. Muốn nhanh chóng kết thúc chiến tranh chỉ có thể hết sức gây trắc trở cho Tống quân, muốn gây trắc trở cho Tống quân thì với tình hình thực lực có hạn của mình chỉ có thể thả cho chúng vào, tạo cho mình điều kiện thắng lợi có lực hơn.
Điều kiện này chính là lợi dụng tâm lý vội vàng muốn nhanh chóng giành thắng lợi, cho tên hoàng đế Hạ Quốc to gan lớn mật dám tự xưng đế này một phen thất bại của Tống Quốc để vứt bỏ Hoành Sơn, tiến hành chiến lược rút lui. Cho dù danh tướng một đời như Phan Mỹ cũng không thể tưởng tượng được Hạ Quốc lại chủ động vứt bỏ một hiểm yếu quan trọng đối với Hạ Quốc như Hoành Sơn, huống hồ bọn họ lại còn tự rút lui, làm giống như một đám thất bại thảm hại.
Bất kể là phân tích xuất phát từ yêu cầu chính trị của triều đình Tống quốc hay là tình thế chiến trường cụ thể, hay từ cá tính của viên chủ soái Phan Mỹ thì với cục diện trước mắt, Tống quân không có khả năng sẽ cắm chặt đánh vững, từng bước cùng cố hiểm ải, thiết doanh lập trại, từng bước tiến để cho Dương Hạo có thời gian nghỉ ngơi, sự lựa chọn duy nhất của bọn chúng chính là nhanh chóng truy kích, nắm lấy cơ hội để đả kích thật mạnh, thậm chí nhất cử tiêu diệt Hạ Quốc.
Còn tác dụng phụ từ việc Tống quân nhanh chóng đẩy mạnh tốc độ tiến công đem lại chính là chiến tuyến kéo dài, binh lực sẽ phân tán, hậu cần bổ sung cho tiền tuyến trở nên càng khó khăn, đối với Dương Hạo mà nói thả cho địch tiến vào, nội bộ của hắn cũng không có mấy thành trì, bất ngờ thành trì bị mất vào tay địch, gây nguy hiểm cho căn cơ quốc gia, bộ lạc thất thị Đảng Hạng bất cứ lúc nào cũng có thể tiến vào gây họa.
Chỉ cần lấy cứ điểm Hạ Châu để dụ dỗ chủ lực quân Tống vây thành, rồi có thể kiên trì chống đỡ được dưới sự công kích mãnh liệt của địch, khi đó tiêu hao hậu cần cực đại sẽ trở thành vấn đề đau đầu nhất của Tống quốc, lúc này Hạ Quốc lại có thể phát huy được ưu thế lớn của nó, bên ngoài vòng vây của Tống quân nó còn có một lượng lớn bộ lạc du mục, đây đều là bộ lạc du mục trên thảo nguyên mà toàn dân đều là binh, hơn nữa lại có lòng trung thành cực cao với Dương Hạo, có thể phá hoại thông tấn, tiếp tế, tiếp viện của chúng, không ngừng thi triển chiến thuật quấy nhiễu đối với Tống quân.
Mà binh đoàn Hạ Quốc của Dương Hạo cũng có thể phát huy ưu thế tác chiến của kỵ binh, bên ngoài vòng vây của Tống quân có thể thực thi phản bao vây, thanh đông kích tây, vây điểm đánh viện, vận động tác chiến, phá hủy tuyến viện trợ, kẹp cứng Tống quân ở giữa. Mùa đông khắc nghiệt còn một khoảng thời gian rất dài mới qua, trong thời gian này đường viện trợ của Tống quốc bị cắt đứt, sĩ khí sa sút thì chính là lúc bọn họ bắt đầu phản kích toàn diện. Dưới sự kiêng dè của Tống quốc đối với Liêu Quốc, một trận toàn thắng của Hạ Quốc cũng đủ ép Tống Quốc tạm dừng áp sát vũ lực với Hạ Quốc.
Khi Dương Kế Nghiệp nói xong kế hoạch của mình, Đinh Thừa Tông là người đưa ra phản đối đầu tiên, hắn biết kế hoạch bạo gan của Dương Kế Nghiệp không phải không có khả năng thực hiện, nhưng lấy tiền thành làm mồi dụ, lấy hoàng đế Đại Hạ Dương Hạo làm mồi, nguy hiểm như vậy không thể chấp nhận được, một khi thất bại, hậu quả thật chỉ nghĩ cũng biết, chỉ cần có một tia hy vọng, hắn tuyệt sẽ không đồng ý dùng tới chủ ý mạo hiểm này.
Chủng Phóng cũng phản đối kế hoạch này, lý do đại thể cũng giống Đinh Thừa Tông, lấy hoàng đế ra để làm mồi sao? Quả thật là đại nghịch bất đạo, Dương Kế Nghiệp chỉ suy nghĩ đến chiến thắng mà hoàn toàn quên mất hoàng đế có tác dụng trọng đại như thế nào với một đế quốc, cho dù là mất đi Hoành Sơn, mất đi Hạ Châu, Hạ Quốc vẫn còn hơn mười châu đến thẳng Ngọc Môn quan, nó vẫn là một quốc, nhưng nếu để mất hoàng đế thì...
Đối mặt với sự chỉ trích của văn võ bá quan, Dương Kế Nghiệp cười khổ nói: “Chúng ta có thể đi trước chuẩn bị, bố trí lại một lượt thành Hạ Châu để nó kiên cố vững trãi hơn, thần nhiều năm thủ ngự thành trì rất có tâm đắc. Với khí giới công thành bây giờ và chiến thuật công thành của Tống quân, chỉ cần để thần bố trí ổn thỏa, thần có rất nhiều phần nắm chắc có thể chống đỡ lại sự tiến công của Tống Quốc, bảo đảm Hạ Châu sẽ không bị mất, thần có chủ ý bạo gan này cũng là vì đã suy nghĩ đến sự an nguy của quan gia”.
Lý Kế Đàm nói: “Không được, ta phản đối, tuy Dương tướng quân thiện thủ thành, nhưng cẩn thận mấy cũng có sơ sót, lấy quan gia và đô thành ra làm mồi nhử, vạn nhất thất thủ, chúng ta không thể chống đỡ nổi đâu”.
Dương Diên Phổ nói: “Ngài cũng biết Tống Quốc khó đối phó như thế nào? Phan Mỹ đánh giỏi như thế nào? Hạ Quốc ta mới lập, binh nhỏ tướng yếu, căn cơ yếu mỏng, nếu như không mạo hiểm thì sao có thể giành được kỳ thắng? Đây gọi là chết trước sống sau”.
Hai bên tranh luận không thôi, Dương Hạo ngồi bên trên nghe ý kiến của mọi người lại không nhúc nhích gì, trông sắc mặt rất bình tĩnh, nhưng trong lòng lại nổi sóng ầm ầm: “Có phải hắn muốn đánh một trận bảo vệ chiến Moscow sao? Dương Kế Nghiệp có thể trở thành một Zhukov thứ hai sao? Hạ Châu có thể trở thành Waterloo của ta sao?”.
Đang trầm ngâm suy nghĩ, đột nhiên Chủng Phóng ngăn sự tranh luận hai bên lại, quay sang nói với Dương Hạo: “Quan gia, kế hoạch này của Dương tướng quân tuy có khả năng thành công, nhưng quá mạo hiểm, theo thần thấy chúng ta chi bằng làm thử một phen, tranh thủ để cho Liêu Quốc gia tăng áp lực với Tống Quốc, sự tồn tại của chúng ta đối với Liêu Quốc cũng có ý nghĩa trọng đại, bọn họ sẽ không ngồi yên bỏ mặc, chúng ta chỉ cần bỏ ra chút nhượng bộ thì có thể đổi lấy sự tương trợ của họ”.
Dương Hạo lắc đầu, trầm ngâm một lát nói: “Không, đối với Liêu Quốc chỉ có thể đưa ra những điều kiện hoàn toàn bình đẳng, không thể lấy hy sinh chủ quyền để đối lấy bất kỳ sự trợ giúp nào, cho dù là sự nhượng bộ nhỏ, điều này quan hệ trọng đại đến căn cơ quốc gia”.
Hắn dừng lại một lát, đột nhiên ngẩng đầu lên, trầm giọng nói: “Hãy làm theo kế sách mà Dương tướng quân đã nói, lập tức tăng cường hàng phòng ngự Hạ Châu, hội kiến thủ lĩnh các bộ lạc, đi trước chuẩn bị tất cả các biện pháp ứng biến, sau đó Dương tướng quân sẽ dẫn chư quân Hoành Sơn chấp hành thoái lui. Sau khi bố cục hoàn thành, lập tức triển khai tác chiến lưỡng tuyến nội ngoại, chờ đến lúc điều kiện phản công chín muồi!”.
Hắn đứng dậy, lại nói: “Hạ Châu là trung tâm của Định Nan ngũ châu, lại không phải là trung tâm của Hà Tây, trẫm bây giờ có được cả Hà Tây, Hạ Châu đã không thích hợp làm đô của Hạ mẫu, trầm sớm đã có ý lập Hưng Châu làm quốc đô. Tây Ngự Ngọc Môn Hưng Châu, nam khống Tiêu quan, bắc kháng Hạ Lan, đông kẹp Hoàng Hà, xung quanh địa thế thuận lợi cho việc bảo vệ Định Nan tứ châu, ở đó bắc có đại cốc Uyết Bảo Đại, tây có sa mạc Đằng Cách Lý, đông có sa mạc Mao Ô Tố, nam có Thanh Đồng Giáp, dễ thủ khó công, hơn nữa vì dựa vào núi Hạ Lan và Hoàng Hà nên môi trường, thời tiết rất thích hợp, gần hơn thì đó cũng là quê hương thóc gạo của Hà Tây, thích hợp nhất để định đô thành. Vì vậy, trẫm muốn định đô ở Hưng Châu, Đinh đại nhân lập tức bắt tay vào chuẩn bị, chuyển tất cả gia quyến của trẫm và những nhân vật quan trọng ở Hạ Châu cùng tiền bạc của Hạ Châu ta đến Hưng Châu trước”.
Dương Hạo muốn đưa tất cả thê tử đến Hưng Châu, đó chính là đã muốn chấp nhận kế hoạch của Dương Kế Nghiệp, một mình mình ở lại Hạ Châu đấu một trận. Thấy hắn đã định, Đinh Thừa Tông cũng không phản bác nữa, chỉ nặng nề đồng ý. Sau khi Dương Hạo thương lượng về mặt chiến thuật với chúng tướng, sắp xếp rõ ràng tất cả, liền nói: “Chư tướng Hoành Sơn lập tức quay trở về, đợi trẫm ở đây bố trí hoàn thành sẽ lập tức bắt đầu chấp hành thoái lui!”.
Chúng tướng đồng thanh hô vang rồi lập tức tản đi, Đinh Thừa Tông và Chủng Phóng cùng nhau đi ra khỏi đại đình, thấy chúng văn võ đã vội vã tản đi, Đinh Thừa Tông liền xua xua tay, bảo thị vệ của hắn dừng bước, nhẹ nhàng lui đi, Đinh Thừa Tông quay đầu nói: “Chủng đại nhân, ta luôn cảm thấy... Quan gia hình như có tính toán khác”. Chủng Phóng cười nói: “Tâm tư đế vương tốt nhất là chớ phỏng đoán lung tung”.
Đinh Thừa Tông cười nói: “Không phải ta đoán tâm tư quan gia mà chúng ta là những người phụ tá quân vương, luôn muốn làm đến mức tốt nhất, hoàn mỹ nhất. Ý của ta là nói thái độ của quan gia với Liêu Quốc có vấn đề”.
“Sao cơ?”. Chủng Phóng bước lại, đẩy chiếc xe đẩy của hắn, vừa đi vừa hỏi: “Đinh đại nhân có kiến giải gì?”.
Đinh Thừa Tông trầm ngâm nói: “Ngày trước khi quan gia mưu đồ Ngân Châu, đã từng cùng tác chiến với người Liêu. Tuy nói lúc đó mỗi bên đều có mục đích riêng, người Liêu muốn bắt Khánh vương, Quan gia muốn đoạt Ngân Châu, nhưng người Liêu khi bắt được Khánh vương liền rời khỏi đó luôn, không nhân cơ hội mà tiến thành lùng sục cướp của cải, tác phong làm việc của chúng không giống như chúng vẫn thường làm, có thể thấy, quan gia và người Liêu có một quan hệ tương đối mật thiết.
Bây giờ quan gia tự lập xưng đế, Hà Tây độc lập một phương, tuy đối với người Liêu mà nói là việc rất tốt với chúng, nhưng thực ra quan gia không cần phải bỏ ra cái giá cực đại, bất kể là xuất phát từ lợi ích cá nhân hay là vì mối giao tình năm xưa, chỉ cần nhượng bộ một chút thì muốn Liêu Quốc tương trợ không phải là khó. Điều làm người ta không hiểu được là quan gia đối với việc mượn sự trợ giúp từ Liêu Quốc lại hình như hoàn toàn không có chút thành ý nào.
Bất kể là thực lực trước mắt của Hạ Quốc hay là quẫn cảnh bây giờ, sự giúp đỡ của Liêu Quốc đều vô cùng quan trọng. Nhưng quan gia lại chỉ cho một chút ưu đãi trên một số loại hàng hóa trong tất cả các điều kiện mà quốc thư nhắc tới. Liêu Quốc lớn mạnh như vậy, những lợi ích nhỏ nhoi đó có thể được họ để ý tới không? Quan gia chính là không chịu nhượng bộ nửa bước, ngài có cảm thấy có chút kỳ lạ không?”.
Chủng Phóng cũng không hiểu nổi tại sao Dương Hạo lại có thái độ đó với một đại quốc duy nhất chịu giúp đỡ Hạ Quốc, cũng có thực lực tương trợ Hạ Quốc, suy đi tính lại, hắn chỉ có thể cười khổ nói: “Có lẽ quan gia dưới sự khống chế của Tống Quốc đã phải đi những bước rất gian nan, cho nên không muốn lại bị một cường quốc khống chế quá sâu nữa”.
Đinh Thừa Tông chậm rãi lắc đầu, hắn rất hiểu con người Dương Hạo trước kia, khi có thể mượn thế thì Dương Hạo tuyệt đối sẽ không do dự, đặc biệt là vào thời khắc khó khăn như thế này, hắn sao lại không chịu mượn thế, nhất định là đã có suy tính nhiều hơn, sẽ nhận được lợi ích lớn hơn, nhưng... Đây rõ ràng là chuyện hai bên không thể cùng thu được kết quả tốt, lợi ích này rốt cuộc là ở đâu?
Đinh Thừa Tông trăm suy ngàn nghĩ vẫn không thể lý giải nổi, hắn phát hiện mình thật sự càng ngày càng không hiểu được đệ đệ mình đang nghĩ cái gì nữa.
Đợi khi chúng văn võ lần lượt lĩnh chỉ lui đi, Dương Hạo đứng trong phòng nhăn mày suy nghĩ một hồi, liền lên tiếng gọi: “Ám Dạ!”.
Một người mặc áo xám lên tiếng rồi chạy vọt vào, khom người chờ lệnh, Dương Hạo liền sai bảo: “Lập tức thông báo cho bên Ba Thục, dừng cung ứng lương thực cho Nghĩa Quân, nói với Tiểu Lục đến ngày lễ Táo quân thì phải đánh thành đô cướp lương thực, thanh thế càng lớn càng tốt”.
Người áo xám đó đáp một tiếng rồi quay người chạy đi, Dương Hạo lẩm bẩm nói: “Ai nói hoàng đế không được để binh đói? Lúc cần đói thì cũng phải cho đói”.
Hắn chắp hai tay ra đằng sau, bước mấy bước lại nghĩ: “Kế này của Dương Kế Nghiệp tuy nguy hiểm nhưng lại càng có thể giảm bớt tiêu hao hơn cách lấy cứng chọi cứng của ta, đây chính là cầu phúc trong họa, khi cần mạo hiểm thì phải mạo hiểm, bên Ba Thục cũng cần Tiểu Lục phối hợp một chút, bên Biện Lương có cần...”.
Suy nghĩ kỹ lại, hắn liền lắc đầu: “Không được, bên Biện Lương là nước cờ ngầm, bây giờ không thể động, vẫn chưa tới lúc, vẫn chưa tới lúc...”.
*
* *
Biện Lương, trên đường lớn Đông Thập Tự có một quán rượu tên là Mỹ Nhân tửu phường, chủ tiệm tên là Đinh Mỹ Nhân, là một thiếu phụ mỹ miều khoảng hơn hai mươi tuổi, và có một người phụ tá. Căn tiệm này không lớn, nhưng ở nơi tấc đất tấc vàng như đường Đông Thập Tự mà một thiếu phu nhân có thể một mình mở một tiệm thì gia cảnh cũng coi như là khá giả.
Tiệm này không bán đồ ăn, chỉ bán mỗi rượu, ở một khu vực buôn bán tấp nập náo nhiệt như thế này mà lại chỉ buôn bán đơn điệu như vậy, làm ăn đa phần là không tốt. Nhưng phu nhân tiệm rượu này lại là một tuyệt sắc giai nhân, lông ngài mày phượng, khuôn mặt trái xoan như phù dung, da trắng mịn như ngọc, cơ thể uyển chuyển nhiều dáng điệu. Chất lượng rượu của tiệm này cũng tốt, tuyệt đối không thêm nước, cũng chưa bao giờ bán rượu bỏ nhiều men, nên có rất nhiều tửu khách tới chiếu cố.
Trong thành Đông Kinh vô lại rất nhiều, những kẻ háo sắc trong đám thực khách háo rượu đương nhiên cũng nhiều, Đinh Mỹ Nhân khi vừa mới mở tiệm, thì tên vô lại Đầu Tử Hùng trên đường Đông Thập Tự đã đến đầu tiên để xem, rồi loan truyền ra ngoài rằng mỹ nhân này là thứ độc chiếm của hắn. Nhưng hắn chỉ vừa mới trêu ghẹo được một lần, vẫn còn chưa kịp động chân động tay thì đã bị mấy hán tử cao lớn ở cấm quân treo lên đánh cho một trận.
Những hán tử cấm quân đó đánh mỏi tay mỏi chân rồi cất bước đi, đám huynh đệ vô lại của hắn lúc này mới có gan đi tới thả hắn xuống, khi đó Hùng lão đại lưỡi thè ra rất dài, mặt sưng lên dày ba thốn, cũng không biết mấy tên cấm quân đó đã dùng hình phạt gì với lưỡi mà lưỡi tuy chưa có bị rút ra nhưng từ đó lại biến thành tên lưỡi to, điều tồi tệ hơn là hai chân của hắn bị đánh gẫy hẳn.
Mới đầu thì đám huynh đệ ngày xưa còn kính hắn ba phần, nhưng lâu ngày chẳng còn ai để ý đến hắn nữa, lão đại mới của đường Đông Thập Tự là Chu Tráng Thự chê lão đại trước đây chướng mắt, cũng sợ hắn gây họa cho mình nên đã đá hắn đi xa. Từ đó Hùng lão đại chỉ có thể chống cây gậy mà đi xin ăn ở nơi khác. Sau này, có một vị tướng quân anh tuấn thường đến tửu lâu này thăm, lâu đần mọi người cũng biết tướng quân đó tất có tương hảo với nàng chủ quán, vì thế càng không có người nào đám đến gây sự nữa.
Lúc này, trong thành Đông Kinh tuyết rơi dày đặc, tuyết phù khắp trời, tuyết dày lên làm cho khách nhân của quán rượu cũng ít đi, Đinh Mỹ Nhân liền dặn dò xuống dưới: “Tiêu Minh, tuyết rơi nhiều như vậy không có khách đến cửa đâu, đóng cửa lại rồi ngươi về trước đi”.
Tiểu nhị ngày nghe thấy trưởng quầy bảo đóng cửa liền vui mừng đứng dậy dọn dẹp, vừa mới lắp được hai tấm gỗ vào cửa thì bên ngoài có một người mặc y phục cấm quân chạy như bay tới, bước vào cửa vừa phủi tuyết trên đầu vừa cười nói: “Sao thế, biết ta tới liền đóng cửa nghỉ bán à?”.
Tiểu nhị vừa nhìn thấy liền gật đầu khom người cười bồi nói: “Ôi chà, La thái úy, không phải là tuyết rơi quá nhiều sao, trưởng quầy bảo nghỉ sớm”.
Bà chủ thấy hắn đến liền ra nghênh tiếp, vừa dùng khăn lông giúp hắn phủi tuyết trên đầu, vừa sẵng giọng nói: “Tuyết rơi dày đặc như vậy ngài còn đến đây làm gì”.
Tiểu nhị đó rất lanh lợi, thấy hai người nói chuyện liền vội vã lắp hai cánh cửa khác vào rồi chạy biến đi. Không ngờ ở tửu lầu đối điện lại có hai lão giả bước trầm ổn đi ra, sắc mặt an tường, không giận mà trông cũng có uy, rất có khí thái quyền quý của đại nhân vật. Hai người ấy chính là La Công Minh và Sở Chiêu Phụ, hai người bước ra khỏi tửu lâu, chắp tay cáo biệt. Sở Chiêu Phụ xoay người ngồi lên chiếc kiệu nhỏ của mình, người hầu khiêng kiệu lên, đi nhẹ và nhanh rời khỏi đó.
La Công Minh lại vẫn chưa đi, lão nhân gia mắt không hoa, vừa rồi cảnh La Khắc Địch bước vào trong tiệm rượu đã bị hắn nhìn thấy, chỉ là ngại Sở Chiêu Phụ đang ở bên cạnh, không tiện lộ ra hình sắc, đợi khi Sở Chiêu Phụ đi rồi thì thấy tiểu nhị đó đóng cửa chỉ để lại một lối đi nhỏ rồi chạy biến mất. La Công Minh không khỏi nhíu mày, nghi hoặc hỏi: “Khắc Địch, đó là... Vị phu nhân tiệm bán rượu đó là ai?”.
Đúng lúc có một thư sinh mặc trường sam, đầu đội mũ nhung đang đi vào trong tửu lâu, nghe thấy rõ nửa câu sau của hắn, liền quay mặt lại nhìn, thấy lão nhân gia này tuổi tuy đã cao nhưng lưng không còng, tinh thần trông minh mẫn, rõ ràng rất có dáng vẻ của quý tộc, không khỏi cười nói: “Ha ha, lão nhân gia, ông cũng phải lòng tiểu nương tử tiệm bán rượu kia rồi à?
Ha ha, ông cũng có mắt nhìn người đó, có điều ông sống đến tuổi này rồi, gân cốt cũng đã yếu đi, không thể chịu nổi sự giày vò đâu, vãn sinh có lòng tốt nói cho ông nghe một câu, tiểu nương tử đó là người thương của La đại tướng quân chỉ huy sứ mã bộ quân đô cấm quân Đông Kinh chúng ta La Khắc Địch đó, ông không dây được với người ta đâu, chỉ rước thêm họa thôi”.
Thư sinh này không phải ai khác, chính là kẻ đã bị liên lụy vì Lý Dục mà cả nhà bị điêu tàn, bất đắc dĩ đã chuyển đến đây ở Tiêu tú tài Tiêu Thư Hữu. Tiêu tú tài khi đó nhìn thấy đại hán cấm quân xử lý Hùng lão đại, thấy đó là chuyện hay liền đi khắp nơi dò hỏi, biết La Khắc Địch là thường khách, lại biết được thân phận của La Khắc Địch nên thông qua một lượt tuyên truyền của hắn rằng mỹ nhân tửu phường ở đường Đông Thập Tự đã trở thành Mỹ thái công không thể gây sự, nên cũng không có hán nhân nào đến sinh thị phi ở quán nàng nữa.
La Công Minh vừa nghe lập tức đại nộ, tên tiểu tử của hắn cũng không còn nhỏ tuổi nữa, sớm đã qua tuổi hôn phối rồi, nhưng khi hắn nói đến chuyện thành thân với nó thì tên khốn đó lại kiên quyết không chịu, thoái thác hết lần này đến lần khác, muốn nạp hai phòng tiểu thiếp cho nó nó cũng không chịu. Lão La còn tưởng rằng con trai mình đang nắm đại quyền, muốn thận trọng nghiêm khắc với mình, nhất lòng vì tiền đồ, không ngờ... Không ngờ nó lại mê mẩn vì một nương tử bán rượu, nghe người ta nói chẳng phải là đã muốn lấy người ta về nhà rồi sao? “Khắc Địch nó... La gia ta sao lại sinh ra một đứa nghịch tử như thế chứ?”.
Tiêu tú tài nói xong hai câu, thấy lão nhân gia mặt mày nhăn nhó, còn cho rằng ông ta bị lời nói của mình làm cho sợ hãi, sợ bị đám hán tử cấm quân đánh chết, Tiêu tú tại tự cảm thấy là hảo sự liền cười ha ha, lắc lắc người bỏ đi.
La Công Minh đứng đó vừa bực vừa vội, lúc này chỉ muốn sai hạ nhân đến tửu phường đó đập cửa vào, lôi cái tên nghịch tử khốn kiếp đó ra, nhưng thấy cửa đóng gần hết, không biết đứa con trời đánh với nương tử mỹ miều đó đang làm chuyện gì mờ ám trong đó, vạn nhất có cử động bất nhã gì, một khi xông vào sẽ để cho tất cả mọi người ở đường này nhìn thấy cha bắt con gian dâm, phụ tử hai người đều là quan viên quyền cao chức trọng, việc này mà truyền ra ngoài thì lão La gia còn mặt mũi nào nữa.
Lão La liền thổi râu tức khí, xoay người bước lên kiệu của mình. Lão La ngồi xuống kiệu, vén tấm mành cửa ra, tức giận nói: “Đợi Khắc Địch trở về, bảo nó lập tức đến gặp lão phu!”.
Cửa tiệm vừa đóng, nụ cười thoải mái trên mặt La Khắc Địch lập tức biến mất, hắn xoa tay vào nhau, ngồi xuống bên bếp lửa, đưa tay ra hơ hơ cho ấm.
“Có tâm sự gì à?”. Đinh Ngọc Lạc nhẹ nhàng hỏi.
La Khắc Địch lắc đầu nói: “Nàng cũng ngồi xuống đi”.
Đinh Ngọc Lạc mỉm cười, kéo một chiếc ghế lại, hai tay nhấc tà váy sang một bên và ngồi xuống, lặng yên nhìn hắn, mấy năm nay rõ ràng là La Khắc Địch đã trưởng thành hơn nhiều, đại quyền trong tay làm cho khí chất của hắn cũng có sự biến hóa rất lớn, ánh mắt nghiêm nghị hơn, rất có dáng vẻ không giận mà cũng uy nghiêm.
Trong điếm trở nên tĩnh mịch, ánh sáng vắng lặng chiếu xuyên qua khe cửa, chiếu vào khuôn mặt Đinh Ngọc Lạc. Đinh Ngọc Lạc vẫn xinh đẹp như xưa, chỉ có điều giờ thêm mấy phần mùi vị nữ nhân, vô cùng quyến rũ.
“Uống chén rượu cho ấm người”. Đinh Ngọc Lạc nói nhẹ, giơ cánh tay ngọc ngà ra, rót cho hắn một chén rượu rồi nhẹ nhàng đưa tới trước mặt hắn, ánh mắt La Khắc Địch bất giác nhìn vào cánh tay nàng, một đôi tay ngọc ngà mịn màng, ngón út lại hơi cong lên giống như một đóa u lan, chỉ nhìn vào tay đã làm cho người ta thấy mê mẩn vậy mà còn được ngồi bên cạnh mỹ nhân, mùi thơm từ người nàng tỏa ra như làm bừng tỉnh bầu trời nhân gian.
Bông tuyết tuôn rơi, những tiếng chửi mắng của người bán hàng truyền từ xa tới càng rõ ràng hơn trong màn tĩnh lặng. Tất cả sự u sầu trong lòng La Khắc Địch đều biến mất trong sự dịu dàng của nàng, hắn nhẹ ôm lấy eo nàng, nhẹ vuốt tóc nàng, nghe tiếng trống ngực của nhau. Xuất thần một hồi lâu, La Khắc Địch liền nói: “Liêu Quốc đã cùng Hạ Quốc ký giao bang, có điều chỉ là bang giao cơ bản nhất, cũng chưa đồng ý cho Hạ Quốc bất kỳ sự trợ giúp nào, quan gia nghe được tin này vô cùng vui mừng, đã hạ chiếu điều thêm ba vạn cấm quân của đạo Hà Bắc tăng viện cho Hà Tây. Đồng thời lệnh cho Phan tướng quân, bảo ngài ấy nắm bắt lấy thời cơ, nhanh chóng đột phá phòng ngự Hoành Sơn, đánh đến thẳng trung tâm Hạ Châu, ta nghĩ... nàng chắc cũng biết chứ?”.
Hắn đương nhiên biết, Đinh Ngọc Lạc mai danh ẩn tính, mở tiệm ở Biện Lương tuyệt đối không phải chỉ là để có thể thường xuyên gặp hắn. Khi Dương Hạo vẫn là đại nguyên soái Hà Tây Lũng Hữu, hắn rất vui vì Đinh Ngọc Lạc tới, còn về việc Đinh Ngọc Lạc đến Biện Lương có phải có nhiệm vụ đặc biệt gì hay không thì hắn không quá quan tâm, chưa cần nói đến một người nắm trong tay trọng binh xưng bá một phương như Dương Hạo mà ngay cả một số người ở các địa phương có chút thực quyền, ai mà lại không cắm một số tai mắt phụ trách do thám tin tức nhất cứ nhất động của triều đình chứ?
Nhưng đến khi triều đình phát binh tới Lân Phủ, tiến công Hoành Sơn, Dương Hạo lại ngang nhiên xưng đế, quan hệ xấu đi rất nhiều. Nếu như để triều đình biết hắn có tư tình với đại trưởng công chúa Hạ Quốc, hơn nữa biết rõ đối phương ở Biện Lương mà lại còn giấu giếm thì La Khắc Địch hắn lập tức phải biến từ thống soái cấm quân cao cao tại thượng thành tù nhân. Nhưng cho dù hắn biết hậu quả nghiêm trọng như vậy nhưng hắn cũng không muốn Đinh Ngọc Lạc có chút mảy may tổn thương nào. Ngoài việc hắn có một mối tình thâm sâu với Đinh Ngọc Lạc ra thì mặt khác cũng bởi vì hành động của Dương Hạo bây giờ vẫn chưa dính dáng đến nàng mật thám trong lòng của hắn, đồng thời hắn đối với vị hoàng đế Triệu Quang Nghĩa này cũng thiếu chút hiếu trung, người hắn trung thành là thiên hạ Triệu thị, chứ không phải đại biểu cho một người nào đó của thiên hạ này.
Đinh Ngọc Lạc nhẹ thở dài một tiếng, trên trán hiện lên sự ưu lo, lẩm bẩm nói: “Đúng vậy, thiếp biết rồi, có điều... Nhị ca nếu đã dám tự lập quốc tất nhiên cũng đã suy nghĩ đến phản ứng của quan gia, thiếp nghĩ nhị ca sẽ làm được, huống hồ bây giờ đã là hàn đông, Phan tướng quân muốn có được tiến triển lớn cũng không phải là điều dễ dàng. Thiếp chỉ lo lắng... Chàng sẽ không bị phái đi Hà Tây chứ?”.
La Khắc Địch lắc đầu: “Quan gia đối với lão tướng tiền triều không tín nhiệm cho lắm, nếu không cũng sẽ không phá cách đề bạt một thiếu tướng trẻ tuổi như ta mà không nể mặt các lão tướng tiền triều, khi ngài ấy chưa ổn định đế vị trong năm, sáu năm thì sẽ không dễ dàng điều ta đâu, trừ phi... Ngài ấy muốn ngự giá thân chinh, ta mới phải đi theo”.
Đinh Ngọc Lạc thở phào nhẹ nhõm: “Như thế thì tốt rồi, thiếp thật sự sợ chàng sẽ chém giết với nhị ca thiếp trên chiến trường, khi đó hai quân trận tiền gặp mặt. Ôi! Thiếp thật không biết phải làm thế nào”.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 45 : Ngoại vi (1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 45: Ngoại Vi
La Khắc Địch cười khổ nói: “Ta bây giờ cũng đã không biết phải làm thế nào rồi, ừm, lúc đầu ta khổ tâm phí sức để lấy được sự tín nhiệm của đương kim thánh thượng, có thể nắm trọng binh trong tay, cả chặng đường tiến tới địa vị hôm nay vốn đều là muốn làm một Chu Giáng Hầu bảo vệ dân chúng chấn hưng xã tắc. Nhưng hoàng trưởng tử Đức Chiêu đã chết, hoàng thứ tử Đức Phương lại trẻ người non dạ, La Khắc Địch ta độc lập triều cương, một mình khó làm gì được, còn cả nhị ca của nàng nữa, hắn đa mưu túc trí, ta tưởng hắn có thể làm một nhân vật cao như tể tướng, ai ngờ hắn lại chạy tới Hà Tây làm một đế vương hải ngoại. Năm đó chúng ta đồng sinh đồng tử, sóng vai tác chiến, bây giờ ta là tướng lĩnh Tống Quốc, còn hắn lại trở thành phản nghịch của Tống Quốc”.
Đinh Ngọc Lạc ngồi thẳng lên, phản bác nói: “Lẽ nào đao dí tới cổ mà nhị ca thiếp phải cúi đầu phục tùng sao? Bây giờ không phải là nhị ca thiếp công đánh Đại Tống mà là Đại Tống xuất binh thảo phạt Hà Tây, Quan gia lại còn dùng thù đê tiện để đoạt mất hai châu Lân Phủ. Với thân phận và địa vị của chàng bây giờ không thể một chút nội tình cũng không biết, lãnh thổ mà Nhị ca thiếp đang thống trị bây giờ chưa từng được vẽ trên bản đồ Đại Tống.
Còn lưỡng châu Lân Phủ, càng là do tiên đế khi còn sống đã công khai hứa rằng để cho bọn họ tự trị, kết quả thì sao? Không phải là vẫn bị quan gia cướp lấy sao? Cứ nói người Bắc triều hung hãn, nhưng bao nhiêu năm nay Bắc triều bị tiếng xấu mà đã từng xuất binh tiêu diệt nước nào chưa? Họ nhiều lắm thì cũng chỉ làm cường đạo cướp bóc, nào có bằng được với huynh đệ Triệu thị liên tiếp tiêu diệt bảy nước mà vẫn chưa biết đủ, dã tâm càng ngày càng lớn, họ hận không thể lấy toàn bộ tứ hải vào lòng bàn tay mình, kẻ gây chiến hòa chính là Tống Quốc”.
La Khắc Địch lắc đầu cười: “Cái gì gọi là nghĩa? Cái gì gọi là bất nghĩa? Nghĩa của ta chính là bất nghĩa của người khác, nghĩa của người khác lại chính là sự bất nghĩa của ta, đứng trên không cùng một chiến doanh, lập trường đương nhiên sẽ bất đồng. Nam Bình, Kinh Triều, Tây Thục, Hán Đường, thậm chí Ngô Việt đều có thể mắng Tống Quốc đầy dã tâm khơi dậy chiến tranh, nhưng ta là người Tống, là thần tử của Tống Quốc, ta không thể nói như vậy. Những việc như thế này vốn không có đạo nghĩa đúng hay không đúng, ai cũng đừng nghĩ rằng mình nhận mệnh của trời, các quốc gia mà con dân khác đều phải cúi đầu xưng thần.
Cho nên... Nhị ca nàng chiếm Hà Tây để tự lập, ta không nói gì. Hắn có lập trường của hắn, ta có lập trường của ta, đứng trên lập trường của hắn, hắn không sai, nhưng nếu như thật sự cần ta phải dẫn binh đánh với hắn một trận thì ta tuyệt đối không thể dung tình, nếu như thật có ngày ta và nhị ca nàng binh giáp tương kiến, ta và nàng... Phải làm sao đây?”.
Đinh Ngọc Lạc nghe rồi nhất thời cảm thấy tâm tư rối loạn, nghĩ đi nghĩ lại chỉ cảm thấy hai người lúc này tuy đang dựa vào nhau nhưng ở giữa hai người dường như có một khoảng trống rất sâu, không có cách nào vượt qua được, chỉ sợ lời nói năm đó thành sự thật, hai người thật sự cho dù đợi thêm rất lâu nữa, đợi đến sỏi đá khô mòn cũng không có cách nào thành đôi uyên ương, bất giác cảm thấy vô cùng đau lòng.
La Khắc Địch đạp chân lên tuyết trở về La phủ, lão gia nhân trong phủ vừa thấy hắn lập tức nói: “Tứ công tử, lão gia nói khi ngài trở về thì lập tức đến phòng gặp lão gia”. La Khắc Địch bây giờ mặc dù có địa vị rất cao trong triều, nhưng ở nhà vẫn chỉ đứng hàng thứ, bị người ta gọi là Tứ công tử.
“Ờ”. La Khắc Địch phủi phủi tuyết trên vai, bỏ giày ra, hỏi: “Có chuyện gì vậy, tâm trạng cha ta như thế nào?”.
Lão gia nhân nhìn xung quanh một lát, rồi ghé sát miệng vào tai hắn, nhỏ giọng nói: “Lão gia nổi giận lôi đình, hình như rất không vui. Khi lão nô mang trà tới, thấy lão gia đi tới đi lui, trước đây mỗi khi lão gia trở về đều rất vui vẻ ngồi trong phòng đọc sách”.
“Ta biết rồi”. La Khắc Địch đi về phía trước hai bước, bỗng nhiên dừng lại, suy nghĩ một chút, lại gọi lão gia nhân lại, dặn dò: “Bảo cho lão nương ta một tiếng”.
Lão gia nhân hiểu ý, lập tức đi nhanh như chớp.
La phu nhân nhận được tin từ lão gia nhân, lập tức đi tới thư phòng phía sau nhà, lão nhi tử đại tôn tử là vận mệnh của lão thái thái, huống hồ La Khắc Địch này không những là tiểu nhi tử của lão La gia, mà còn là cốt nhục thân sinh của bà, cậu con trai bảo bối này tuổi còn trẻ mà đã làm quan lớn như vậy, hơn nữa cũng không rượu chè cờ bạc, quả thực càng nhìn càng thấy hoàn mỹ, lão đầu tử lại còn chốc chốc muốn dạy bảo. Muốn trách mắng nó, bà sao có thể không quản.
Đợi khi La phu nhân đến được thư phòng, ghé tai vào cửa thì hai cha con trong thư phòng đã cãi nhau ầm cả lên rồi.
“Đổ khốn kiếp, lão phu sao lại có thể sinh ra một đứa súc sinh như ngươi, bao nhiêu khuê tú đại gia, thục nữ danh môn ngươi không muốn, lại đi thích một nữ tử bán rượu, ta nghe thấy hình như ả còn từng được gả cho người ta rồi phải không? Cũng phải thôi, tuổi tác như thế sao có thể chưa từng gả cho người ta chứ, ngươi sao lại cứ bị con hồ ly linh đó mê hoặc vậy?”.
“Cha, cái gì mà khuê tú đại gia, thục nữ danh môn chứ, họ có hơn được nàng ấy không? Mấy người suốt ngày uốn a uốn éo, làm ra vẻ thiên kim, quý nữ danh môn, con nhìn không thuận mắt, con chỉ thích cô ấy thôi”.
“Tuyệt đối không được, La gia ta có thân phận gì chứ, lấy một người đã từng qua cửa nhà người khác sao, ngươi muốn công khanh cả triều lấy lão phu ta ra làm trò cười sao?”. Giọng của lão La tăng cao ngữ khí hơn một chút.
“Lấy cha ra làm trò cười á? Cha cho dù có muốn cũng không làm được, người ta còn chưa đồng ý gả vào nhà chúng ta cơ”. La Khắc Địch không chút yếu thế hơn, giọng lập tức tăng thêm ngữ khí.
“Cái gì?”. Lão phu nhi gào lên: “Vậy ngươi còn hao tâm làm gì? Cả đời không thành thân sao? Rốt cuộc là thứ con gái thế nào mà lại có thủ đoạn mê hoặc người ta như thế, lão phu ngày mai sẽ cho người đi đập nát tiệm của ả!”.
“Phụ thân đại nhân dám phái người đi thì con sẽ cho binh đến thủ, con không tin gia đinh nhà ta có thể đấu lại được với binh sĩ cấm quân của đại cung”.
“Ngượi đủ lông đủ cánh rồi phải không, dám nói như vậy với lão tử? Ngươi là đồ nghịch tử bất hiểu, lão phu... Lão phu sẽ đích thân đi, ta xem ai dám động vào sợ lông của ta!”.
“Vậy thì được thôi, quán rượu đó cứ đập đi, con sẽ tìm cho cô ấy một chỗ mà cha tuyệt đối sẽ không tìm ra được, khắp thành Đông Kinh này mọi người đều sẽ nhìn thấy cha đập phá, có lời đồn đại nào mà truyền ra ngoài, con nghĩ chắc phụ thân đại nhân cũng nhất định chống đỡ được!”.
“Khốn kiếp! Khốn kiếp!”.
“Choang...”. Một tiếng động vang lên, một chiếc tách trà vỡ vụn, La phu nhân nghe thấy tiếng đổ vỡ liền muốn bước vào cửa. Vừa mới đưa tay ra cánh cửa liền mở, một mình La Khắc Địch lao nhanh như tên ra ngoài, tiếp theo đó là một quyển sách bay vù ra ngoài, rơi bộp xuống tuyết.
La phu nhân hai mắt sáng lên: “Con trai, con đã thích vợ của ai rồi? Nhầm rồi, là phu nhân ở góa nào? Nhân phẩm ra sao, tướng mạo thế nào...”.
La Khắc Địch vừa muốn nói, thì nghe thấy tiếng bước chân trong phòng, hắn dám cãi lại cha nhưng không dám đánh lại, nên lập tức chuồn đi. La phu nhân gọi hai tiếng, đành phải tạm thời ghìm lại sự tò mò, cười híp mắt bước vào phòng, ngăn lão gia nhà mình lại.
La Khắc Địch tuổi này vẫn chưa thành thân ở Biện Lương quả thật là hiếm thấy, nếu như hắn thường phong lưu chốn cỏ hoa thì cũng không có gì, nhưng người ta lại chưa từng nghe thấy hắn đã làm chuyện phong lưu, làm cho lão nương của hắn rất lo lắng, ở Biện Lương bây giờ đang thịnh hành nam phong, bình thường bà ta hay ngồi rảnh rỗi nói chuyện với đám phu nhân các nhà khác, cũng hay nói đến các tin đồn thổi, cũng có kể về một đại tài chủ nhà gia tài vạn quan vứt bỏ nữ tử xinh đẹp không nạp, lại thích nam tử, thậm chí còn có chuyện lấy nam thiếp, những chuyện kỳ quái này ở thành Đông Kinh không phải là không có. Vì thế bà ta luôn lo lắng con trai mình không biết có mắc cái chứng bệnh lạ này không, bây giờ nghe nói nó đã thích một nữ tử, tâm sự của La phu nhân đã được rũ bỏ, sao lại phải lo lắng nữa chứ.
Nam nhân mà, chỉ cần vẫn là một nam nhân thích nữ tử thì nào có ai không phong lưu háo sắc, thích tam thê tứ thiếp, cho dù nó có chết mê chết mệt phu nhân đó, hơn nữa phụ nhân đó lại đã từng được gả cho người ta, biết điều biết tình, giỏi mềm dịu, con trai mình sao không động lòng, nhưng với quân vị quan chức của nó thì sau này tam thê tứ thiếp cũng không tránh khỏi, cho dù nạp trước một vị phu nhân thân phận không cao, nhưng cũng không có gì quan trọng.
Phải biết rằng rất nhiều con cái đại hộ nhân gia trưởng thành đều được gia đình dung túng đến những nơi hoa nguyệt để có thêm kiến thức, nếu không thì sẽ tìm trước hai ba xử nữ tuyệt sắc giai nhân về làm thiếp, một là muốn nhi tử mình thông suốt một số chuyện, không muốn nó không biết chút gì về chuyện nam nữ, hoặc là biết tình sự mà lại ít kinh nghiệm, tương lai sẽ bị hạn chế về mặt tình cảm. Phu nhân này cho dù đã từng được gả cho người ta nhưng vẫn còn tốt hơn nữ tử thanh lâu, La phu nhân coi đứa con này như bảo bối, đương nhiên sẽ tìm ra một đống lý do để bảo vệ cho nó.
La phu nhân bước vào cửa thì thấy lão La đang thổi râu trừng mắt, tức khí thở hồng hộc, liền lập tức làm mặt cười, đi tới nói: “Ôi chà, lão gia, chuyện vừa nãy có đáng gì mà làm cho ông tức giận thế. Ông xem kìa, ông có bốn đứa nhi tử, đứa có tiền đồ nhất chính là Khắc Địch của chúng ta, bình thường cùng uống trà nói chuyện với mấy người nhà của các vị đại nhân, ai mà không ngưỡng mộ nhà ta chứ. Bây giờ nó chẳng qua là thích một nữ tử đã từng lấy chồng, không phải là còn may hơn là không thích nữ nhân sao? Nhìn ông tức giận kìa, có đáng không”.
Lão La nhìn phu nhân, tức giận đã có chỗ trút, nhi tử của mình dù sao cũng lớn rồi, lại là đại quan triều đình, hắn tức thì tức chứ không thể đuổi theo và đánh cho nó một trận được, bây giờ phu nhân lại ra mặt, hắn cũng nhân cơ hội xuống đài, có điều cơn giận liền bộc phát về phía phu nhân, hắn tức giận nói: “Bà còn nói sao, xem đứa con tốt đẹp mà bà sinh ra kìa”.
“Đứa con tốt đẹp ta sinh ra thì sao chứ? Ông đừng có nói gì nhé, Khắc Địch đúng là một đứa con ngoan đấy”. La phu nhân trêu chọc nói.
“Nó tốt sao? Nó tốt, đường đường là quan viên ngũ phẩm triều đình, đại tướng cấm quân mà lại đi làm việc bất chính với một phu nhân bán rượu, chuyện này mà truyền ra ngoài thì La gia ta còn mặt mũi nào nữa? Cho dù để cho người của Ngự Sử đài biết được thì ít nhất cũng muốn hắn dừng ngay cái hành động ngu xuân đó lại”.
“Ôi chà, ta còn tưởng chuyện gì lớn chứ”. La phu nhân thở phào một hơi: “Mau bảo Khắc Địch rước phu nhân đó vào cửa là hết chuyện, ai còn dám nói linh tinh nữa chứ?”.
La đại nhân dậm chân nói: “Đó là một phu nhân đấy”.
La phu nhân trừng mắt lên: “Phu nhân thì sao chứ? Chẳng qua chỉ là đã từng gả cho người khác thôi, chỉ cần nhân phẩm xuất chúng, hiền thục nết na, Khắc Địch lại thật lòng thích cô nương đó thì có làm sao? Lẽ nào ta lại là nữ nhân đầu tiên của ông sao?”.
Lão La giận sôi lên nói: “Ta là nam nhân!”.
“Nam nhân thì giỏi lắm sao? Vẫn chẳng phải là do nữ nhân sinh ra sao”.
“Mồm toàn nói vớ vẩn, không có nam nhân này thì bà sinh ra được chắc”.
La phu nhân trợn trùng mắt lên, lại chống nạnh sẵng giọng nói: “Sao cơ, rời khỏi một nam nhân như ông thì ta không thể sinh sao?”.
Lão La tức đến chóng cả mặt, sắp không thể phân định được phương hướng nữa, La phu nhân ngoài mặt tỏ ra bực tức nhưng trong lòng lại cười thầm, chỉ cần thành công chuyển chủ đề của lão đầu tử này là tốt rồi, trong chốc lát sẽ không nói đến chủ đề cũ nữa, chờ trấn an được lão đầu tử thì bà sẽ đi truy hỏi nhi tử của mình. Nếu như phu nhân đó quả thật có phẩm chất xuất chúng thì sẽ mang kiệu rước nàng về làm nhị phòng cho nhi tử.
Hai vợ chồng già cãi nhau không thôi trong phòng, La Khắc Địch khi trốn ra khỏi thư phòng, liền đứng ở hành lang suy nghĩ một hồi, lại chạy ra bên ngoài. Hắn phải báo cho Ngọc Lạc một tiếng, bảo nàng mau đóng cửa tìm một chỗ khác, nếu không sự sẽ chẳng lành...
La Khắc Địch đi ra khỏi cửa, vội vã lên ngựa đi thẳng tới Lương môn, nhà của hắn ở thành tây, mà tửu quán của Đinh Ngọc Lạc ở đường Đông Thập Tự vì thế phải đi qua một nửa thành Biện Lương mới đến được, ở phía trước không xa chính là nơi Kiến Long Quan trước đây, năm đó ở đây xảy ra đại hỏa. Triệu Khuông Dận vi hành tuần quân doanh quay về trên con đường này và Triệu Phổ đang ở đây cứu hỏa đã từng gặp Dương Hạo ở đây.
Trận hỏa hoạn đó đã hủy đi một dãy nhà, dãy nhà mới bây giờ đa phần được đổi thành các tiệm bán hàng. Tuyết càng lúc càng rơi nhiều, La Khắc Địch vội vã từ tiệm của Trương gia đi qua, không nhìn sang bên đường chút nào. Quán của Trương gia là quán ăn nổi tiếng lớn nhất ở thành tây, đủ các loại thức ăn được thu mua hàng năm từ các vùng bên ngoài đều được tích trữ lượng lớn ở đằng sau. Khi mùa đông đến buôn bán càng đắt hàng, các đại hộ nhân gia gần đó, tiểu hộ bách tính đa phần đều đến đây mua thức ăn. Mùa xuân trước nơi đây được gọi là tiệm Triệu gia, chủ tiệm tên là Triệu Tịch Tiều, là người nhà của hoàng đế Đại Tống, bình thường hắn thích nhất đánh bạc, kết quả trong một lần đánh bạc đã để thua mất căn tiệm này, cho nên tiệm đã được đổi chủ nhân. Chuyện này đã làm xôn xao trong tầng lớp dân chúng tây thành, kết quả không phải là làm cho kẻ nghiện cờ bạc cai nghiện, tình trạng cờ bạc Đông Kinh giảm đi mà hoàn toàn ngược lại, làm cho nạn cờ bạc ở Đông Kinh càng thêm mạnh mẽ, ai cũng muốn thắng, lại rất ít người nghĩ mình sẽ thua.
Đây đã là chuyện của hơn một năm về trước, từ sau lần cá bạc đó, tiệm Triệu gia đã đổi thành tiệm Trương gia. Chủ tiệm bây giờ họ Trương, tên Thập Tam, là một nam nhân dung mạo xấu xí, lớn tuổi mà vẫn chưa lấy vợ, bình thường hay lui tới thanh lâu ghẹo nguyệt, có điều lại không háo tửu, mê cờ bạc, ở tây thành này cũng coi như là một nhân vật danh tiếng không tồi.
Trương Thập Tam vốn là người ở Phủ Châu lộ Kinh Tây Nam, mấy ngày trước nghe nói trong nhà lão phụ thân qua đời, Trương chủ tiệm đã giao tiệm cho trưởng quầy đáng tin cậy coi sóc, trở về quê một chuyến, khi trở lại đã đem theo ba muội tử vẫn chưa xuất giá đến. Ha ha, đừng nhìn người ca ca tướng mạo xấu xí đó mà liên tưởng đến muội tử hắn. Ba muội tử này của hắn lại như hoa như ngọc, trăm mị ngàn kiều, tuy các nàng mặc y phục tầm thường nhưng sao có thể che nổi vẻ đẹp quốc sắc thiên hương, lập tức đã gây sự chú ý cho rất nhiều người, mấy ngày nay những bà mối đến cầu thân sắp dẫm nát cả cửa Trương gia rồi.
Đáng tiếc, Trương Thập Tam nói rằng lão phụ thân qua đời, tuy vì việc buôn bán cần phải xử lý, không thể thủ hiếu trước phần mộ của phụ thân, nhưng bốn huynh muội Trương gia vẫn muốn thủ hiếu lão phụ thân một năm, trong vòng một năm sẽ không nói đến chuyện hôn giá, như vậy môn đình mới yên tĩnh một chút. Bách tính thành Đông Kinh, nữ nhi gia ngồi làm chủ tiệm buôn bán đâu đâu cũng có, tiệm Trương gia tuy cũng coi như có thực lực, nhưng ba muội muội đều giỏi tính toán, ra tiệm kinh doanh cũng coi như tiết kiệm được một khoản tiền lớn. Cho nên ba muội tử này đều giúp đại ca họ xử lý việc trong tiệm, cứ như thế ngoài những người đến mua đồ ăn ra thì cũng có rất nhiều kẻ côn đồ vô lại ùn ùn kéo đến cửa.
Hoa tuyết bay bay, một thiếu nữ hắc y bước vào cửa, lấy từ trong eo ra một chiếc khăn tay, phủi phủi tuyết trên người. Tên vô lại Trần Chiêu Hoa đang ngồi bò trước quầy, bắt chuyện với đại tỷ Trương gia Trương Vận cô nương đang cúi đầu chăm chăm vào cái bảng tính tiền, vừa thấy thiếu nữ hắc y đó bước vào, trông nàng da trắng như tuyết, huyền y như mực, yêu kiều vô cùng, lập tức bỏ mặc Trương Vận đang cúi đầu không chịu ngẩng lên, đi tới cười nói: “Trương Du cô nương, tuyết lớn như vậy còn phải ra ngoài đưa thức ăn sao, thật là vất vả quá”. Vừa nói hắn vừa giơ tay ra, muốn giúp người ta phủi tuyết”.
Nhưng cơ thể của hắc y cô nương đó rất linh hoạt, xoay eo thon một cái tránh ra, mắt trừng lên nhìn hắn, sẵng giọng nói: “Đi xa một chút, đừng có động chân động tay vào bôn cô nương”.
Cô nương đó xoay người đi vào trong quầy, cái eo thon nhỏ cùng bước đi nhẹ nhàng của nàng làm cho lòng Triệu Chiêu hoa ngứa ngáy, có điều một nơi làm ăn với quy mô nhất định như thế này ít nhiều cũng có quan hệ với tuần kiểm, lý chính, đám vô lại bọn hắn chỉ có thể ức hiếp được những tiểu dân bên đường, còn những người đó bọn chúng thật không có gan chọc vào.
“Thức ăn của Chiết gia đã mang đi rồi”. Trương Vận ngẩng đầu, mỉm cười với Trương Du.
Trương Vận đương nhiên chính là Trúc Vận, Trương Du lại chính là Chiết Tử Du, bây giờ hai người tuy đã đi cùng một đường, nhưng Chiết Tử Du vẫn chưa biết nàng chính là Giả Đại Dung từng sóng vai tác chiến với mình.
“Ừ, mang đi rồi, đây là tiền thức ăn”. Chiết Tử Du lấy một túi tiền đặt lên bàn, trước mặt người ngoài, hai người đóng đâu ra đấy vai diễn người bán hàng, hoàn toàn không có chút sơ hở nào.
Chiết gia chính là Vân Trung Chiết gia, vì chủ động quy thuận triều đình nên được triều đình tấn phong làm Ngưu Thiên Vệ Thượng tướng quân, Chiết đại tướng quân Chiết Ngự Huân. Vì Chiết gia có rất nhiều người, mỗi ngày lượng tiêu hao lương thực cũng lớn, mà tiệm Trương gia ở thành tây có tiếng đã lâu, từ trước khi Chiết gia chuyển đến kinh thành thì căn tiệm này đã tồn tại, nên không có gì khả nghi, vì thế thức ăn này đều do tiệm Trương gia cung ứng.
Có điều, sự đề phòng với Chiết gia vẫn vô cùng nghiêm mật, theo người ta nói thì đây cũng là sự yêu mến của quan gia đối với Chiết gia, Quan gia lo lắng phản tặc Dương Hạo ở Hà Tây sẽ phái binh gây bất lợi cho Chiết gia, vì thế phải bảo vệ nghiêm ngặt. Tuy nói tiệm Trương gia là tiệm cổ có tiếng ở thành tây, nhưng những đồ ăn mang tới Chiết phủ vẫn phải được kiểm tra, người đưa thức ăn bị giám sát cả chặng đường. Chiết Tử Du đã đưa theo mấy người làm đi cùng đến đó mấy lượt, nhưng vẫn không thể tiếp xúc được với người gia Chiết gia, có điều nàng rất có sự nhẫn nại, cho dù có phòng bị nghiêm mật hơn nữa, cho dù hoàng cung đại nội cũng sẽ có lúc bị buông lỏng, huống hồ là Chiết gia, nàng vẫn sẽ kiên nhẫn chờ đợi cơ hội.
Chiết gia được bố trí sống ở tây thành, nơi mà mật thám Phi Vũ và Tùy Phong cũng ngầm mai phục ở đó, không phải là do bọn họ thần cơ diệu toán, sớm biết được sẽ xảy ra kiệp nạn này nên đã ngầm bố trí mai phục ở đây trước, mà là do một trong các đại chủ cố phụ trách tiệm Triệu gia trước đây chính là chủ của Sùng Hiếu am.
“Sùng Hiếu” ở thành tây, am chủ chính là đại sư phổ độ từ bi, là Vĩnh Khánh công chúa năm đó, đoạt tiệm Triệu gia là để dùng vào việc của mình, mục tiêu thực ra là am Sùng Hiếu. Chiết gia cũng bị đưa đến ở tây thành chỉ là chuyện may mắn ngoài ý muốn, đây cũng là nguyên nhân Chiết Tử Du đồng ý Trúc Vận cùng đóng vai diễn này để có thể ở đây.
Sự xuất hiện của ba tỷ muội như hoa này, ít nhiều cũng thu hút sự chú ý của người khác, nhưng các nàng cũng không thèm bận tâm.
“Đại tỷ, nhị tỷ”. Cẩu Nhi bây giờ hóa trang làm Trương Nga chạy nhảy ra, tiểu cô nương tuổi còn nhỏ, nhưng lại có một đôi mắt to biết nói, đôi môi anh đào chúm chím, khéo động lòng người, lộ thêm ra ba phần tinh nghịch, bảy phần khéo léo, cơ thể cân xứng vẫn còn chưa dậy thì hoàn toàn, nhưng sau lớp áo bông vải cũng đã mơ hồ hiện ra đường nét của bộ ngực, nó tuyệt đối là một mỹ nhân từ trong trứng, nếu thêm vài tuổi nữa khéo còn càng họa thủy hơn hai tỷ tỷ của mình.
“A, Tiểu Nga muội muội”. Trần Chiêu Hoa mắt sáng lên, rõ ràng so với đại tỷ và nhị tỷ Trương gia thì tiểu nha đầu hoạt bát không rành thế sự này dễ lợi dụng hơn. Trần Chiêu Hoa lập tức nhe răng cười và bước tới: “Đại ca muội keo kiệt quá, tiểu muội xinh đẹp như vậy mà cũng nỡ bắt ra giúp đỡ hắn làm việc, nếu như ta có một tiểu muội đáng yêu như thế này thì ta sẽ không nỡ để cho nó xuất đầu lộ diện đâu”.
Trần Chiêu Hoa vừa nói vừa đang tay ra vỗ vỗ vào vai của tiểu cô nương: “Đi ra chỗ khác, không biết xấu hổ, ai là muội tử của ngươi, đừng có gọi bừa”. Cẩu Nhi trừng mắt lườm hắn một cái, hất tay hắn ra rồi đi sang bên cạnh kéo lấy một chiếc ghế: “Tuyết rơi nhiều như vậy, không buôn bán nữa, nhà ta cần phải đóng cửa rồi, ra ngoài, ra ngoài, đừng có ở đây cản lối nữa”.
Tiểu cô nương khom lưng, cái mông liền vểnh lên, tuy là mùa đông mặc nhiều quần áo, nhưng cơ thể của nó dường như không thể che lấp hết, lồi lõm hiện ra rõ các đường cong. Trong mắt Trần Chiêu Hoa hiện lên thần khí dâm tà, cười vờ nói: “Trời vẫn chưa tối, sao lại có thể đuổi người ta ra ngoài chứ. He he, để Chiêu Hoa đại ca ngồi ở đây không biết sẽ giúp các tiểu muội bớt bao nhiêu phiền phức”.
Hắn vừa nói vừa đi nhanh tới trước, nếu may mắn thì có thể giả vờ đứng không vững, nghiêng người chạm vào mông của cô gái nhỏ, nếu như nó đứng dậy sớm hơn một chút thì có thể giả bộ hơi ngã cúi xuống, cũng có thể sờ vào cặp đùi của tiểu cô nương, tuy giờ đang mặc y phục bằng bông, sự mềm mại không phải đến từ da thịt nó, nhưng đối với một dâm dân tiêu chuẩn mà nói sự tưởng tượng và hoang tưởng là một công cụ không thể thiếu.
Thật đáng tiếc, tiểu cô nương không đứng dậy, cũng không để cho hắn lại gần trước khi đứng dậy, nó bê chiếc ghế lên, dáng vẻ hấp tấp, cong eo quay mạnh người một cái. Cạnh của chiếc ghế vô tư mà đập vào đầu gối Trần Chiêu Hoa.
“Ái!”. Hắn đau đớn kêu lên một tiếng, sắc mặt lập tức trắng bệch, đầu gối hơi cong xuống, mông gần chạm xuống chân, tức khí trợn mắt nhìn như thể đang bị chứng táo bón, tên vô lại này tức thở hồng hộc: “Ái chà, ngươi làm sao thế?”.
Cẩu Nhi chóp chớp mắt, mặt vờ ngây thơ không chút tà khí. “Muội... Muội...”. Tên vô lại ngay cả một câu cũng không nói hết.
“Này, ngươi đừng có nghĩ ác cho người ta, là ngươi tự đụng phải chứ, hơn nữa...”. Tiểu cô nương bĩu môi lên, khinh thường nói: “Một đại nam nhân ngươi, ta chỉ mới dùng một chút sức đụng vào chân một cái mà đã làm cho ngươi khổ sở đến mức đấy rồi à”.
Trần đại vô lại muốn khóc cũng không ra nước mắt, cũng không một từ giải thích, hắn tựa hồ như nhìn thấy trên đầu của tiểu cô nương đẹp như tranh vẽ trước mắt đang mọc lên một cặp sừng, hắn liền cắn răng, cố hết sức lết mấy bước lảo đảo ra khỏi cửa.
Trúc Vận vẫn đang vùi đầu vào bàn tính, thỉnh thoảng khóe miệng lại động một chút, Chiết Tử Du đang nhớ lại tất cả những gian nhà, con đường và những nơi có cảnh vệ mà khi vào Chiết phủ đã nhìn thấy, tất cả mọi thứ trước mắt đều được lọt hoàn toàn vào trong mắt nàng. Nàng mỉm cười, đột nhiên nhớ tới năm đó, ngày hôm đó, con người đó vì một kẻ vô lại tế thần tiên muốn chọc ghẹo nàng mà đã xuất một quyền.
Ân oán dai dẳng đeo đuổi bao nhiêu năm, nàng mệt rồi, đã rất mệt rồi, ngạo khí cao chót vót cũng đã bị mài mòn đi nhiều, cái người muốn quên cũng quên không được đó. Trước đây mỗi khi nghĩ đến hắn, nghĩ nhiều nhất cũng là những chuyện hắn đã có lỗi với mình, càng nghĩ càng tức, bây giờ mỗi lần nhớ đến hắn lại càng thích nhớ tới những ngày ngọt ngào khi ở cùng nhau, đấu mồm ở phủ Trình tướng quân, uống trà ở viện Bích Hà Phủ Cốc, nụ hôn đầu tiên ở trong rừng Lô Châu... Nàng nhận ra tính tình của mình đã có chút thay đổi, tiểu công chúa kiêu ngạo đã sắp biến thành một tiểu nữ nhân dịu hiền rồi.
Nhớ tới lời hứa của hắn với nàng trước khi tới Biện Lương lần này, nhớ tới hắn thân đã là đế vương lại đồng ý giao ngọc tỷ truyền quốc mà đối với một vị hoàng đế mà nói là thứ vô cùng quan trọng ra để đổi lấy cả nhà nàng, trong lòng nàng bất chợt nóng lên: “Còn muốn yêu cầu hắn cái gì nữa, đàn ông thối trong thiên hạ đều giống nhau, nhưng hắn... Cũng coi như không quá như bọn họ...”. Tử Du nghĩ nghĩ, hơi nhăn mũi lại.
Bên ngoài cửa tuyết đang tung bay trắng xóa trời đất, nhưng lòng nàng cũng như đang phiêu diêu trên không trung: “Đối với Liêu Quốc, sao huynh lại đưa ra điều kiện không có chút thành ý nào như vậy? Dựa vào sức của mình huynh, đối phó với Tống Quốc sẽ gặp rất nhiều khó khăn, lẽ nào huynh không biết sao? Đồ ngốc...”.
*
* *
Lúc này, nội cảnh Ba Thục, trên Cung Lai Quan cũng có một người đang nhìn xa xăm về phía Hà Tây, tâm tình phiêu diêu. Dãy Cung Lai kéo dài từ Dân Giang vượt qua Độ Hà, cùng với hiểm ải dựng men theo Độ Hà hình thành một bức chắn như bình phong, yểm hộ phía tây của thành đô. Có điều nơi này bây giờ đã bị công phá rồi, kẻ phá nó chính là nghĩa quân tung hoành Ba Thục, nếu như để bọn họ chiến đấu với Tống quân đã được huấn luyện đầy đủ thì bọn họ không khác gì một đám ô hợp bất kham nhất kích.
Nhưng ở một địa thế núi cao trùng trùng, nước chảy không ngừng này thì những binh sĩ một thân giáp trụ và những động tác thân hình đó còn linh hoạt hơn cả con khỉ, có thể trèo lên trèo xuống nhanh chóng như những sơn dân, quả thực giống như một đàn lợn. Bọn họ vừa trèo lên thì chính là đồi núi mênh mông, họ mặc những bộ y phục rách nát, cờ thì lung tung, xiên xẹo, tiếng kêu la ầm ĩ, hoàn toàn không có bố cục gì, mà cũng không cần có bố cục. Địa hình đặc thù nơi đây làm cho phòng ngự bình thường không thể thi triển phát huy được tác dụng gì, bọn họ không ngừng tiến công lên, còn có vô số người dựa vào tay chân mình để trèo lên hai bên vách núi vách đá để bắn tên xuống phía dưới, hoặc là xông thẳng vào thành để chém giết một trận.
Dù sao bây giờ cũng là mùa đông rồi, bọn họ lại đi chân trần, dựa vào đôi chân và đôi tay của mình để trèo lên những vách núi như đi trên bình địa, mẹ chúng nó, chúng có phải là người không? Trước sĩ khí không sợ chết này, thủ quân đã tan nát, những người còn lại vừa chém giết vừa hoang mang tháo chạy, Cung Lai Quan đã bị thất thủ, tiến thẳng thêm về phía trước thì có thể tiến tới cướp thành đô rồi.
Lúc này, Loan Đao Tiểu Lục, người đã thành thủ lĩnh của nghĩa quân đang đứng trên Cung Lai Quan, ngẩng đầu nhìn về trời bắc, rất lâu không nói gì.
Lương thực của Cung Lai Quan đã vào tay nghĩa quân, khắp nơi đã bắt đầu nhóm lửa, nghĩa quân đói khát vội vã đi nhóm lửa nấu cơm, muốn ăn một trận thật no nê.
Binh sĩ quần áo rách nát liền cởi bỏ quân phục của những thủ quân đã chết ra, vội vã mặc lên người mình, hoàn toàn không bận tâm đến những vết máu dính loang lổ trên đó, trên dưới hiểm ải lập tức xuất hiện vô số thi thể ở trần.
Một viên tướng đi tới đầu thành, chỗ Loan Đao Tiểu Lục đang đứng, chắp tay nói: “Đại tướng quân, Cung Lai Quan đã chiếm được rồi, bây giờ chúng ta... Thật sự đi đánh thành đô sao?”. Hắn nghiêng đầu, ngừng lời một chút.
Người này tên là Địch Phong, cũng là một kiêu tướng của nghĩa quân, vốn là tướng lĩnh thân tín của đại thủ lĩnh nghĩa quân trước kia Triệu Đắc Trụ. Có điều, sau khi Triệu Đắc Trụ chết trong mưa tên, quyền chỉ huy nghĩa quân rơi vào thủ lĩnh thứ hai Đồng Vũ, Địch Vũ đối với việc này cũng không có bất mãn gì, trên thực tế hắn cũng không có cách nào để bất mãn. Đối với chính sách tháo chạy của Triệu Đức Trụ, nhị thủ lĩnh, tam thủ lĩnh, tứ thủ lĩnh đều hoàn toàn nhất trí ý kiến phản đối, cho nên khi Triệu Đức Trụ còn sống, mấy vị thủ lĩnh này thường thân với nhau hơn. Hai là, bọn họ tránh đi tới nơi xa một thời gian rất dài, lương thực cung ứng cho nghĩa quân chủ yếu dựa vào xa binh của nhị thủ lĩnh, bất kể là về thanh vọng hay các mối quan hệ thì nhị thủ lĩnh đã không kém gì đại thủ lĩnh rồi. Bây giờ đại thủ lĩnh đã chết, hắn chính là lão đại thích hợp nhất, không có người nào có thể lay động được vị trí của hắn.
Địch Phong chắp quyền nói: “Đại thủ lĩnh, thành đô dù sao cũng là trung tâm của Ba Thục, truân binh rất nhiều, chúng ta chi bằng đi cướp mấy nơi như Kim Đường, Cửu Lũng, Tấn Nguyên, Thục Châu đi. Những nơi đấy cách thành đô khá gần, lương thảo tất cũng dồi dào, hà tất phải bỏ dễ mà làm khó chứ?”.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 46:Đáng ThươngTấm Lòng Cha Mẹ Trong Thiên Hạ (1+2+3)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 46: Đáng Thương Tấm Lòng Cha Mẹ Trong Thiên Hạ
Loan Đao Tiểu Lục hừ lạnh một tiếng: “Ngươi vẫn muốn làm theo sách lược của Triệu đại thủ lĩnh, là luôn muốn tránh nguy hiểm tìm chỗ dễ, trốn qua trốn lại, kết quả thì sao chứ? Thanh thế lúc đầu của chúng ta vốn rất lớn, kết quả của việc trốn qua trốn lại là làm cho nó ngày càng suy yếu đi, tháo binh ngày càng nhiều, chính vì thành đô là trung tâm của Ba Thục, nên bây giờ chúng ta mới nhất định phải đánh hạ nó. Như vậy, chúng ta không những có thể đoạt được lượng lớn lương thực chống đỡ cho cả năm, mà còn khi thành đô bị hạ, Ba Thục lung lạc, thanh thế của chúng ta sẽ lớn mạnh lên, như vậy mới có nhiều người đầu quân vào chỗ chúng ta”.
Hắn xoay người lại, áo choàng tung bay trong gió: “Ý nghĩ của việc đoạt lấy thành đô không phải chỉ ở một ngôi thành trì, mà chúng ta còn có thể thay đổi cả một xu thế suy tàn hiện nay. Cho nên, thành đô nhất định phải đánh”.
Hắn quay đầu nhìn về phía thành đô, cười lạnh lùng nói: “Thành đô không được coi là một hiểm yếu, hiểm yếu của nó là nằm ở các quan ải được bố trí xung quanh nó, bây giờ Cung Lai Quan đã vào tay ta, thành đô còn có gì đáng sợ nữa”.
“Đại thủ lĩnh nói phải!”. Tam thủ lĩnh Vương Tiểu Ba có cái mũi hơi giống mũi quạ, vẻ mặt có chút hung ác liền bước lên trước nói: “Binh uy và thực lực là do đánh mà ra, chứ không phải do tháo chạy mà có được, đánh thành đô tổn thất nhất định không nhỏ, nhưng khi mà chúng ta lấy được nó thì cái lợi sẽ lớn hơn nhiều, cuộc mua bán này đáng để làm”.
Nhị đương gia Thiết Ngưu nhân cơ hội đứng ra, giơ cánh tay hô to: “Lễ tế Táo quân sắp đến rồi, các vị lão gia muốn táo quân lên trời nói mấy lời tốt đẹp với ngọc hoàng, nhưng đám chúng ta ngay cả một bữa no cũng không có, giờ đi cùng đại đương gia đánh đến thành đô, cướp lấy đồ đạc thức ăn của đám lão gia quý nhân đó, thế miếu ngũ tạng của chúng ta. Cái tết Táo quân này, chúng ta sẽ thay Táo quân hưởng!”. Dứt lời, mười vạn đại quân cùng đồng thanh hô vang, tiếng hô như sóng triều, âm vang cả rừng núi...
*
* *
Triệu Quang Nghĩa khi biết được thái độ của Liêu Quốc với Hạ Quốc đương nhiên vô cùng vui mừng, Hạ Quốc hoàn toàn không có phản ứng gì đã làm cho chúng thần trong triều Liêu Quốc rất phẫn nộ. Liêu Quốc cho dù chưa đồng ý viện trợ vũ lực cho Hạ Quốc, nhưng Liêu Quốc đã thừa nhận sự thành lập của Hạ Quốc, cũng coi như chừa ra một cơ hội trả giá mặc cả cho Hạ Quốc. Nếu như Hạ Quốc có thể bỏ ra chút nhượng bộ về hợp tác quân sự, giao thông kinh tế thì phía Liêu Quốc chưa chắc đã không chịu viện trợ quân sự cho Hạ Quốc, đến lúc đó, bất kể là trực tiếp xuất binh tương trợ hay đưa binh gây chút động thái ở biên cương thì đều đủ làm cho binh lực Tống Quốc nhiễu loạn, giảm bớt áp lực cho Dương Hạo.
Nhưng Dương Hạo lại lặng thinh, không bỏ ra chút nhượng bộ nào, tin tức này không khỏi làm cho văn võ Liêu Quốc tức giận lôi đình, cảm thấy hoàng đế Hạ Quốc này không biết thức thời, ngay cả Tiêu thái hậu cũng thấy bực đến phát cười: “Kẻ oan gia này thật còn tưởng rằng vì có một mối tình duyên không để cho người khác biết mà đã có thể bài bố bản cung sao, để cho ta làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, lợi ích bộ tộc, không tiếc tất cả để giúp hắn sao? Giang sơn Đại Liêu là của con trai ta, bất kỳ ai cũng không thể làm hại nó, thao túng nó cũng không được, cho dù là ngươi cũng không được!”.
Tiêu Xước rất tức giận, quyết tâm ngồi yên không bận tâm đến, để cho Dương Hạo phải đau đầu khổ sở, chịu khuất phục Liêu Quốc rồi hẵng nói. Nhưng ai biết được Tống Quốc lại lập tức tăng thêm ba vạn binh đuổi đến Hà Tây, viện quân còn chưa tới thì phòng tuyến Hoành Sơn đã bắt đầu buông lỏng, khi Vương Kế Ân hồi kinh bẩm báo quân tình thì lại dẫn ba vạn viện quân đuổi tới Hoành Sơn, hai đội quân hội họp, sĩ khí đại chấn, liên tiếp tấn công vào năm nơi hiểm yếu, phòng tuyến Hoành Sơn hoàn toàn bị phá vỡ.
Tiêu Xước nhận được tin này không khỏi kinh ngạc vô cùng, nàng vốn cho rằng Dương Hạo kiên quyết không chịu xưng thần nạp cống với Liêu Quốc tất đã có tính toán kỹ, không ngờ hắn lại bị bại nhanh đến như vậy. Nếu như Hà Tây thật sự rơi vào tay Tống quốc, để cho Tống Quốc có được mảnh đất dưỡng mã của mình, không những sẽ uy hiếp lớn đến Liêu Quốc về mặt thực lực quân sự, mà còn giảm bớt hẳn ưu thế địa lý của mười sáu châu thuộc Liêu Quốc. Nếu như Hà Tây hoàn toàn vào tay Tống Quốc thì Tống quốc có thể lấy Thánh Châu từ Hà Tây, trực tiếp thích sát đến trung kinh Liêu Quốc.
Thực tế chính là như vậy, Tiêu hậu đành phải giương cung lên, từ bỏ ý định muốn làm cho Dương Hạo chịu khổ, lập tức mệnh lệnh cho Da Luật Hưu Ca thống lĩnh sáu viện bộ tứ vạn tinh binh đuổi đến Hà Tây, lấy lý do là chiến tranh Tống Hạ ảnh hưởng đến sự an toàn quốc cảnh của Liêu Quốc, nên bổ sung thực lực vào Tây Kinh Đại Đồng.
Tiêu Xước để cho Da Luật Hưu Ca tùy cơ ứng biến, dặn hắn nếu như không phải gặp tình thế bất đắc dĩ thì tuyệt đối không thể trực tiệp can thiệp vào cuộc chiến của Tống, lần này đi không phải địch cũng không phải bạn, cứ dựa theo tình thế chiến trường mà động. Nếu như Tống quân thế cường thì sẽ gia tăng áp lực với Tống quân, nếu như Hạ quân chuyển bại thành thắng thì ít nhất có thể mỉa mai được Hạ Quốc, tóm lại cần hết sức tạo ra một sự thăng bằng có lợi cho Liêu Quốc.
Sau khi tin tức Liêu Quốc đột nhiên tăng binh ở Tây Kinh Đại Đồng Phủ được truyền đến Đông Kinh Biện Lương, Triệu Quang Nghĩa vô cùng lo lắng, Liêu Quốc nếu như thành lập liên minh quân sự, rất có thể sẽ trực tiếp huy quân nam hạ, không cần phải bỏ gần tìm xa đuổi tới tây kinh. Bây giờ Liêu Quốc đã tập kết quân đội ở tây kinh chưa chắc đã có cấu kết gì với Hạ Quốc, nhưng băng tuyết ngập trời, Liêu Quốc sẽ không vô duyên vô cớ điều binh chứ? Nếu như Liêu Quốc muốn rút củi trong lửa thì sao?
Triệu Quang Nghĩa ngồi không yên được nữa, nội trong ba ngày đã liên tiếp hạ xuống ba đạo thánh chỉ, mệnh lệnh cho Phan Mỹ, Vương Kế Ân tăng cường công thế, hết sức có thể mở rộng chiến quả trước khi truân binh Liêu Quốc đến Tây Kinh Đại Đồng, đồng thời lệnh cho Thôi Ngạn Tiến thống lĩnh hai vạn cấm quân nhanh chóng tới Nhạn Môn Quan, cùng với thủ tướng địa phương thủ ngự Nhạn Môn Quan, tạo ra sự uy hiếp với Tây Kinh Đại Đồng của Liêu Quốc.
Khi Tống Liêu hai nước điều binh khiển tướng, trấn áp lẫn nhau, Hạ Quốc cũng tiến hành dụ địch xâm nhập, đánh hậu cần của nó, chuẩn bị kết hợp trận địa chiến và vận động chiến. Tiếp theo đó các bộ lạc Đảng Hạng nhận được mệnh lần lượt bắt đầu di chuyển, vườn không nhà trống để đối phó với địch quân. Châu thành Tây Hạ lại tăng cường phòng ngự thành trì, tích trữ lương thảo, đồng thời tiến hành chiến dịch di chuyển lượng lớn người và của.
Hà Tây thành trì ít mà thảo nguyên nhiều, các bộ lạc di chuyển với tốc độ hết sức nhanh chóng, muốn làm cho vườn không nhà trống rất dễ dàng. Mùa đông đến rồi, tuyết rơi dày đặc khắp nơi, các bộ lạc cũng đúng đến lúc nghỉ ngơi không phải canh mục nữa, chuyển chiến địa cũng không lo mất mùa màng. Hơn mười vạn Tống quân ùn ùn như thác nước kéo tới, nếu như không thể nhanh chóng công đánh Hạ Quốc thì áp lực hậu cần của nó sẽ lập tức xuất hiện.
Phan Mỹ rất có kinh nghiệm chiến trận, đối với vấn đề hậu cần sao có thể không biết, nhưng bây giờ quân Hạ Quốc đã thảm bại, liên tục rút khỏi Hoành Sơn, chạy về vùng Hạ Châu. Đạo binh gia thường nói binh bại như núi đổ, lúc này chính là lúc phải thừa thắng xông lên giành phần thắng, nào còn thời gian mà để cho minh mã chưa động, lương thực lại động trước, để dẫn đến mất chiến cơ, để cho Dương Hạo có thời gian tập kết loạn binh, chỉnh đốn lại hàng ngũ, đứng vững chân mở ra thế tầng tầng phòng ngự được.
Huống hồ thái độ của Liêu Quốc rất mập mờ, chiến cơ hơi chậm trễ một chút thì quan gia lại thêm một lần hối thúc, càng không phải là áp lực hắn có thể chịu được, vì thế Phan Mỹ chỉ có thể chọn lựa con đường nhanh chóng tiến công, đuổi cùng giết tận. Hắn vốn muốn để lại lâm quân Vương Kế Ân phụ trách chăm lo hậu cần, nhưng bây giờ đại thắng đang kề trước mắt, đó chính là công lao vô thượng, Vương Kế Ân nào chịu ở lại hậu phương, nên khăng khăng muốn cùng hắn đi công đánh thành Hạ Châu, Phan Mỹ không còn cách nào khác, liền để lại hai viên tướng lĩnh tâm phúc phụ trách quân nhu rồi vội vã lên đường.
Hạ Quốc vì quân đội thoái lui mà đã cung cấp một lượng lớn ngựa, vì thế tốc độ thoái lui rất nhanh, Tống quân vội vã đuổi theo nhưng dù sao hai chân cũng không thể nhanh bằng bốn chân. Có điều, Hạ quân thoái lui hoàn toàn không có bố cục gì, rất khó hình thành được khả năng đối kháng có hiệu quả đối với thế tiến công của Phan Mỹ. Thêm nữa, cả chặng đường thoái lui, khi tiếp cận vào ngoại vi Hạ Châu, Hạ quân mới bắt đầu tổ chức một số đợt tập kích và ngăn cản, Phan Mỹ hiểu được mục đích của đối phương là gì, nên không đưa ra bất kỳ hành động nào. Chỉ đánh thoái lui địch binh chứ tuyệt đối không truy kích nữa, chỉ nhắm chuẩn về Hạ Châu.
Hạ Châu là đô thành của Hạ Quốc, ý nghĩa của nó tuyệt đối không chỉ đơn giản là một thành trì bất kể là hoàng đế Hạ Quốc bị bắt hay là đô thành Hạ Quốc bị mất thì đều không phải là thất bại mà một Hạ Quốc mới tự lập có thể chấp nhận được. Dương Hạo không thể rời khỏi Hạ Châu, Hạ Châu khó chắp thêm cánh để bay đi, mục tiêu của hắn đương nhiên chỉ có một Hạ Châu, cái đạo lý bắt trộm phải bắt kẻ cầm đầu này sao hắn lại có thể không hiểu.
Khi đại quân của Phan Mỹ đuổi tới Thiết Dã Vụ mới coi như gặp phải sự đối kháng thật sự có ý nghĩa của quân Hạ Châu sau khi thất thủ ở Hoành Sơn chạy về. Đây là môn hộ thẳng tiến vào Hạ Châu, một pháp đài kiên cố, đánh hạ được Thiết Dã Vụ hắn có thể đến thẳng được thành Hạ Châu. Phan Mỹ lập tức cắm doanh trại cách Thiết Dã Vụ mười dặm, các quân luân phiên xuất chiến, bắt đầu từ sáng cho đến đêm, không một khắc nào nghỉ công đánh toàn hiểm yếu này.
Cùng lúc đó, Phan Mỹ lại lệnh cho hậu phương tăng cường vận chuyển lương thảo cho tiền tuyến, và tập trung thợ thủ công của lưỡng châu Lân Phủ và trong Tống quân, bắt đầu chế tạo khí giới công thành. Tống quân tập kích bất ngờ, lấy được lưỡng châu Lân Phủ, Phan Mỹ lại vội vã hành quân, những vũ khí nhẹ đều được mang từ Biện Lương đến, cho nên vẫn chưa chuẩn bị được những quân giới nặng, khi vừa có được Lân Phủ thì hắn liền tiến vào đoạt Hoành Sơn, đám thợ thủ công trong quân phần lớn có trách nhiệm kiến tạo binh doanh và những công sự xung quanh Hoành Sơn, lúc này mới có thể xuất thủ chế tạo khí giới công thành.
Cho dù có những người thợ thành thục nhất và đầy đủ nguyên vật liệu thì đợt quân giới đầu tiên được tạo ra cũng cần ít nhất nửa tháng, hơn nữa vận chuyển đến thành Hạ Châu cũng tiêu hao một thời gian dài. Có điều Hạ Châu không thể chạy đi được, đầu tiên cứ đánh đến thành Hạ Châu, bao vây chặt lấy nó, vị hoàng đế đoản mạng Dương Hạo này đương nhiên cũng sẽ bị hắn tiêu khiển từ từ.
*
* *
Lúc này, lượng tài vật và người cuối cùng chuyển từ Hạ Châu đến Hưng Châu đã nhanh chóng tập kết. Thực ra Dương Hạo sớm đã có ý thiết lập trung tâm chính trị của hắn ở Hưng Châu, Hưng Châu chính là đô thành Hưng Khánh Phủ của Tây Hạ Quốc trong lịch sử, khi Tây Hạ lập vẫn chưa đánh được chư châu Hà Tây, lúc đó tác dụng chính trị quan trọng của Hạ Châu còn lớn hơn Hạ Châu bây giờ, nhưng Lý Nguyên Hạo vẫn chống được trùng trùng áp lực, đem quốc đô chuyển từ Hạ Châu đến Hưng Châu, đây đương nhiên cũng là nguyên nhân quan trọng nhất.
Giống như những lời Dương Hạo đã nói với văn võ trọng thần ở Ngân Châu, vị trí địa lý của Hưng Châu đặc biệt tốt, thế dựa núi dựa sông, xung quanh không phải là rãnh trời cửa hải hiểm yếu thì là đại phụ đại thành, lại còn là nơi sản xuất ra nhiều lúa gạo nhất, hơn nữa trong tất cả các vị trí trung tâm của cả Hà Tây này thì đây là nơi thích hợp nhất để làm đô thành của một nước. Hạ Châu cách Tống Quốc quá gần, một khi Hoành Sơn thất thủ, Tống quân chỉ cần một thời gian ngắn đã có thể tới. Về mặt quân sự cũng rất không thỏa đáng, hơn nữa do các vùng lân cận Hạ Châu tốc độ sa mạc hóa ngày càng nghiêm trọng, từ điêu kiện tự nhiên mà nói cũng không thích hợp làm đô một nước.
Có điều muốn rời đô cũng không dễ, giống như Tống Quốc vậy, nền tảng thống trị của hắn chủ yếu là người ở lân cận Hạ Châu, rất nhiều quan viên đều thâm căn cố để ở đây, muốn di rời bọn họ đi sao có thể dễ dàng như vậy. Lần này, Dương Hạo lại mượn thế lực của Tống quân để giảm bớt áp lực rời đô xuống mức thấp nhất, thuận lợi hoàn thành sự chuẩn bị cho tiền kỳ rời đô.
Dương Hạo không những mượn thế của Tống quân, hoàn thành vấn đề đại nan giải rời đô này, mà còn mượn sự cấp tiến của Tống quân để làm đảo loạn kế hoạch của Liêu Quốc, thuận lợi dẫn dụ quân Liêu Quốc ra, khi hắn nhận được tin Liêu Quốc đã tập kết binh lực ở Đại Đồng Phủ Tây Kinh, thật sự đã có thể thở phào nhẹ nhõm.
Dương Hạo không chịu nhượng bộ với Liêu Quốc, bỏ qua cơ hội lợi dụng lợi ích chính trị hai bên, từ đó tạo ra một liên minh gắn kết với nhau, thực ra là hắn đã suy nghĩ rất kỹ. Suy nghĩ theo nhiều tầng, lợi ích trong đó phải đợi đến khi hắn bố trí thực hiện giai đoạn thứ hai và giai đoạn thứ ba mới có thể từ từ hiện ra, ý nghĩa của nước cờ ngầm này, ngoài hắn ra không một ai biết, cũng không một ai có thể nhìn ra.
Tuy nói Tống Quốc và Liêu Quốc, thậm chí cả thuộc hạ của hắn đều là những nhân tài kiệt xuất, không thiếu những chính trị gia, quân sự gia có con mắt nhìn xa trông rộng, nhưng tuyệt đối sẽ không có người nhìn ra ý nghĩa thâm sâu trong nước cờ này của hắn, thậm chí hoàn toàn không thể nhìn ra Dương Hạo đang có ý đồ riêng. Điều này không phải là do Dương Hạo là hùng tài đại lược, không ai sánh bằng mà là vì hắn là người của hậu thế, hắn nắm chắc một số sự kiện lớn trong lịch sử.
Cho dù vì hắn xuất hiện mà cả nền lịch sử đã bắt đầu thay đổi, nhưng đi đến bước ngày hôm nay đã ép hắn tới bước đường không thay đổi lịch sử không được, có một số xu thế đại sự trong lịch sử bây giờ hắn vẫn có thể nắm chắc được, chỉ dựa vào điểm này, hắn đã có thể biến hai đại đế quốc nam triều bắc triều thành con cờ của hắn. Bây giờ thì tốt rồi, tất cả đều đã diễn ra theo dự liệu của hắn, tiếp theo đó chỉ cần xem hắn làm thế nào để xướng tốt vở đại kịch ‘Hạ Châu bảo vệ chiến’ này thôi.
*
* *
Nữ Anh đảo mắt lần cuối nhìn tĩnh thất mà mình đã ở, nàng sắp phải đi Hưng Châu rồi. Đông Nhi, Diễm Diễm đã di chuyển đầu tiên đến đó để sắp xếp bố trí mọi việc, còn nàng sẽ đi theo nhóm cuối cùng với các vật tư rời khỏi đây. Thai nhi trong bụng đã được hơn sáu tháng rồi, nhưng vẫn chưa lộ ra bụng, mặc thêm đạo bào rộng thùng thinh càng dễ che mắt người khác, chỉ có khi nàng vuốt ve bụng mới cảm nhận được sinh mạng nhỏ trong bụng đang đạp mạnh mẽ như thế nào.
Đột nhiên, có một những tiếng bước chân vang lên, Nữ Anh vui mừng quay đầu lại. Bây giờ, trong những người còn ở thành Hạ Quốc chỉ có nhũ nương và Dương Hạo mới không cần báo trước mà vào. Nhũ nương thì đi nhẹ nhàng như con mèo, không phát ra nửa tiếng động, tiếng chân này không phải của Dương Hạo thì còn có thể là ai?
Nữ Anh biết Dương Hạo bây giờ bận rộn như thế nào, vốn không trông mong hắn bỏ ra thời gian đến thăm mình. Một lần trải qua nỗi đau vong quốc hủy gia, Nữ Anh cũng đã không còn là một Tiểu Chu Hậu lãng mạn hão huyền không biết nặng nhẹ nữa, nàng bây giờ đã hiểu được thế nào là quý trọng, biết thế nào là đủ. Việc Dương Hạo bất ngờ đến làm cho nàng vô cùng vui mừng.
“Quan nhân...”. Nàng quay đầu ra nhìn, quả nhiên là Dương Hạo, Nữ Anh chạy nhào tới lòng hắn, thân thương gọi một tiếng.
Dương Hạo nhẹ nhàng ôm lấy nàng rồi sóng vai ngồi xuống giường, dịu dàng nói: “Một lát nữa nàng phải lên đường rồi, ta tranh thủ đến thăm nàng một chút. Bên Thiết Dã Vụ sắp không trụ được nữa rồi, không đi sẽ không kịp nữa. Khi Oa Nhi sinh, người làm cha như ta không thể ở bên cạnh nàng ấy, hy vọng khi nàng sinh, ta có thể về bên cạnh nàng”.
“Ừm”. Nữ Anh hiền dịu gật đầu, dựa vào lòng hắn, rồi lại ngẩng đầu lên nhìn hắn hỏi: “Quan nhân, người ta... Người ta bây giờ vẫn mang thân phận xuất gia, sau khi sinh con ra nên để thân phận như thế nào mới được? Quan nhân từ khi trở về luôn bận rộn. Thần thiếp... Không dám vì chuyện này mà phiền quan nhân, nhưng... Nhưng qua mấy tháng nữa là nó ra đời rồi, thiếp thật không biết như thế nào mới tốt”.
“Chuyện này à...”. Dương Hạo trầm ngâm một lát, đột nhiên hắn nhớ tới một chuyện, bất giác vỗ đùi nói: “Đúng rồi, có thể cho nó kế tục đại ca ta...”.
“Sao cơ?”.
“Đứa trẻ này nếu như là con trai thì cho kế thừa đại ca ta, thế nào?”. Nữ Anh từ từ cúi đầu xuống, hơi buồn bã nói: “Ừm...”.
Dương Hạo nhận ra có chút không ổn, vỗ vỗ vai nàng, nói: “Giao cho đại ca ta thì cũng vẫn là con của chúng ta, sao nàng... Nếu như nàng không đồng ý thì thôi vậy”. Nữ Anh thấp giọng nói: “Quan nhân muốn sắp xếp như thế nào thì thần thiếp sẽ làm như thế”. Dương Hạo nhíu mày nói: “Ngẩng đầu lên nào”.
Nữ Anh tránh ra một chút, không chịu ngẩng đầu, Dương Hạo xoay vai nàng lại, đưa tay nâng má nàng lên, mới thấy trên khuôn mặt nàng đang có hai hàng lệ tuôn rơi. Vừa thấy Dương Hạo nhìn mình, Nữ Anh liền quay đầu đi, nhẹ lau nước mắt, thật là tội nghiệp. Nữ Anh bây giờ sắp biến thành người làm bằng nước rồi.
Một vị hoàng hậu từng ở cao cao tại thượng, một đệ nhất giai nhân thông minh hoạt bát, tay chân khéo léo mà từ khi theo hắn lại chưa từng một lần phản đối bất kỳ quyết định nào của hắn, không yêu cầu bất cứ thứ gì, cũng không tranh bất cứ điều gì, ngoan ngoãn đến đáng thương, ngay cả khi muốn phản đối cũng chỉ có thể dùng nước mắt để biểu đạt, thật là làm cho người ta vừa thương vừa yêu.
Dương Hạo vừa giận lại vừa buồn cười: “Nàng không nỡ thì nói một câu là xong, ta cũng chỉ là nhất thời nghĩ ra thôi, còn về... Thôi thôi, coi như ta chưa nói gì”.
Nữ Anh nhẹ nhàng nói: “Thiếp chỉ là... Không nỡ thôi, dù sao cũng là máu thịt của mình, chứ không phải là muốn làm trái lời quan nhân, nếu như quan nhân muốn giao cho đại ca thì...”.
“Được rồi được rồi, ta vốn nghĩ có cho làm con thừa tự hay không chẳng qua cũng chỉ là hình thức, con vẫn là của chúng ta, vẫn yêu thương nó. Haizz, người làm cha như ta dù sao cũng không giống người làm mẹ như các nàng. Thôi, là quan nhân đã sai, sau này không nhắc đến nữa, được không?”.
Nữ Anh mỉm cười, nhẹ nhàng gật đầu, dáng vẻ rất ôn thuần.
Dương Hạo nhẹ thở dài, nâng cằm nàng lên, cười nói: “Nhìn dáng vẻ như một người vợ nhỏ bị ức hiếp của nàng, làm cho vạn hào hùng của một trượng phu như ta cũng tan thành mây khói”.
Nữ Anh xấu hổ, lại thấy mình mới lộ một chút không muốn ra mà Dương Hạo lập tức đã phủ quyết ý định của hắn, trong lòng thấy vô cùng cảm kích. Dương Hạo nghiêng đầu tới, trao cho nàng một nụ hôn. Từ khi nàng mang thai, hắn chưa từng thân mật với nàng, lần này làm cho nàng cảm thấy vô cùng mãn nguyện, còn Dương Hạo thì lại lâng lâng, trút đi hết bao nhiêu phiền toái và mệt nhọc.
*
* *
Khi Dương Hạo đang say sưa với men tình thì cung thái tử ở Đông Hoa Môn thành Biện Lương lửa cháy ngùn ngụt.
Cấm quân cung vệ, đại tiểu thái giám, thậm chí cả chốt hỏa tình, các lộ nhân mã qua lại như bay, xe nước cũng cũng đến rồi, nhưng vẫn có rất nhiều tiểu thái giám bưng chậu nước rửa mặt, ôm bình nước đi cứu hỏa, cũng không biết những đồ này có thể giúp được gì không. Cung thái tử đã cháy rồi, không phải là tự nhiên cháy mà là bị phóng hỏa, người phóng hỏa lại chính là thái tử Triệu Nguyên Tá.
Triệu Nguyên Tá luôn nghi ngờ cái chết của tiên đế có liên quan đến phụ thân mình, một người từ nhỏ đã được dạy dỗ về sự trung nghĩa hiếu lễ như hắn không có cách nào để chấp nhận sự thật này. Không thể chấp nhận được phụ thân mình lại là một kẻ đại gian đại ác hận độc vô tình, thêm vào đó Triệu Đức Chiêu vô tình chết trong hai quân trận càng làm cho sự nghi ngờ của Triệu Nguyên Tá đối với phụ thân hắn càng lớn hơn, mối hận này đã được hắn trút hết vào đầu phụ thân hắn.
Mối quan hệ giữa hai phụ tử trở nên vô cùng căng thẳng, cho dù khi là quốc sự trọng đại cần hoàng đế và hoàng thái tử cùng ra mặt thì hắn cũng không hề giả vờ thuận hòa với phụ thân. Chuyện phụ tử quan gia bất hòa ở Biện Lương đã là một bí mật công khai. Có điều hắn đối với phụ thân tuy lãnh đạm, hai năm nay chỉ ở trong cung đọc sách tập văn, nhưng cũng rất ít tái sinh xung đột với phụ thân.
Ai mà ngờ được hai ngày vừa qua không biết có kẻ nào nhiều lời lại báo cho hắn tin Tề vương Triệu Quang Mỹ bị bãi chức ở phủ Khai Phong, điều đến thành Trường An, giữa đường còn gặp thích khách. Triệu Nguyên Tá vừa nghe xong liền bốc hỏa, hắn là một người đơn thuần, cố chấp, phụ thân hắn trong lòng hắn vốn chỉ kém hơn bá phụ hùng tài đại lược Triệu Khuông Dận, ấn tượng này không phải chỉ trong một hai năm. Nhưng khi hắn lớn lên, trưởng thành lại phát hiện ra phụ thân mình thực ra lại là một kẻ đại gian đại ác. Bây giờ có người muốn hại thúc phụ, trong thiên hạ này còn có ai muốn hại thúc phụ chứ? Có ai cần phải hại ông ấy? Bá phụ là do cha hại, đường huynh là do cha hại, vậy ông ta hạ thủ với thúc phụ có gì là kỳ lạ chứ? Cha đã làm một đế vương mà còn không ngừng muốn tàn sát người thân của mình, ông ta thật là muốn làm một cô gia quả nhân vô tình vô nghĩa sao? Nhớ lại trong lịch sử, những tên hôn quân khi vừa đăng cơ liền lập tức giết sạch huynh đệ cháu chắt không chừa một ai, Triệu Nguyên Tá vừa bi ai vừa phẫn nộ.
Hắn vốn là một thanh niên cực kỳ phóng đạt, mấy năm nay vì mang trong lòng tâm sự nặng nề nên luôn cảm thấy buồn bực vô cùng, đến lúc này bao nhiêu bực tức chất chứa nhiều năm cuối cùng cũng bộc phát triệt để. Khi Triệu Quang Nghĩa đang cùng đại thần tâm phúc phân tích tình thế Hà Tây, thì hoàng thái tử đột nhiên xông vào, hai cha con xung đột kịch liệt, Triệu Quang Nghĩa nổi giận lôi đình, sai thuộc hạ trói thái tử đưa về cung.
Sự ức chế nhiều năm của Triệu Vô Tá thực sự đã bộc phát, hắn như điên như dại, sau khi về cung thái tử thì gào khóc một trận sau đó lại lớn tiếng cười, lúc khóc lúc cười, thần trí rất bất ổn, cuối cùng thì châm lửa thiêu điện, lớn tiếng nói muốn thiêu mình và cung thái tử, muốn thiêu hủy sạch sẽ những thứ dơ bẩn ô uế.
Cuối cùng cũng cứu hỏa kịp thời, cung thái tử ngoài bị thiêu cháy mất chủ điện thì mấy tòa nhà khác vẫn ổn. Nhìn thấy đống điêu tàn, khói thổi nghi ngút, lại còn đứa nghịch tử bị người ta khống chế rồi mà vẫn vừa khóc vừa cười, Triệu Quang Nghĩa tức đến toàn thân nóng ran, mặt xanh như thiết quay người bỏ đi.
Trở về Văn Đức điện, Triệu Quang Nghĩa vẫn chưa nguôi cơn tức, cầm lấy tách trà đưa lên môi, nhấp một ngụm lại ném mạnh xuống đất một cái, chiếc tách vỡ vụn: “Nghịch tử! Nghịch tử!”.
“Quan gia bớt giận, thái tử là người tính tình trung nhân, chỉ là tuổi còn trẻ, không hiểu việc đời thôi, sau này ngài ấy sẽ hiểu được nỗi khổ tâm của quan gia”.
Đám người Trình Vũ, Tống Kỳ, Giả Diễm thận trọng khuyên, Triệu Quang Nghĩa đập bàn một cái, gào lên nói: “Niên thiếu vô tri sao? Nó còn niên thiếu vô tri sao? Đã qua cái tuổi cực quan rồi, lại còn không biết nặng nhẹ như thế. Nghịch tử bất hiếu làm trẫm tức chết, thật là tức chết đi được, thật hối hận lúc đầu trẫm không nên lập nó làm thái tử, đứa con này làm sao có thể kế thừa đại bảo, quân lâm thiên hạ chứ!”. Đám người Trình Vũ, Tống Kỳ lập tức biến sắc, không dám tiệp lời nữa.
Cho dù bọn họ là tâm phúc thân cận nhất của hoàng đế, nhưng cũng không phải chuyện gì cũng có thể tiếp lời được, thái tử là căn bản của một nước, sao có thể xem thường chuyện phế lập? Nếu như thật sự phế thái tử thì phải ăn nói như thế nào với văn võ bá quan trọng triều và vạn dân trong thiên hạ? Dùng lý do gì? Việc này, nếu như không thể đưa ra được một lý do làm cho cả thiên hạ tin phục thì tuyệt đối không thể phế.
Hơn nữa cho dù thái tử này phải phế thì đó cũng là con trai ruột của hoàng đế, nếu như một thần tử xuất ngôn tán thành, đợi khi hoàng đế hết tức, nhớ lại có một thần tử xen vào chuyện lập phế thái tử của hắn, thì sao hắn lại không đề phòng với người đó được? Sao cơ? Ngươi đồng ý phế thái tử, tại sao ngươi đồng ý? Phải chăng là ngươi có cấu kết riêng với một vị hoàng từ nào đó? Hơn nữa vạn nhất một ngày nào đó hoàng đế hồi tâm chuyển ý, lập lại thái tử đã phế thì đó chẳng phải là tự tìm chỗ khó cho mình sao.
Nếu nói ra mấy lời phản đối còn tốt hơn một chút, cần phải biết rằng thái tử nếu đã lập rồi thì chính là quân vương tương lai của một nước, là chính thống, ngươi biểu thị ủng hộ chính là nói ngươi trung thành với triều đình, cho dù một ngày thái tử thật sự bị đổi, tân thái tử lên chỉ cần làm việc tử tế, không bừa bãi thì hắn đối với ngươi cũng sẽ không có bao nhiêu sự nghi hoặc, vì thế biểu hiện của ngươi chính là hiểu mức độ, thủ quy tắc. Như thế nếu như bây giờ ta làm thái tử rồi thì ngươi đương nhiên cũng có thể toàn tâm toàn ý trung thành với ta.
Vì đều nghĩ những điều này nên khi Triệu Quang Nghĩa tức giận lộ ra ý muốn phế thái tử, chúng đại thần tâm phúc không có ai lên tiếng tán thành.
Triệu Quang Nghĩa thực ra không phải chỉ nói miệng như thế, mấy năm nay không ngừng giao ác với con trai, sự phẫn nộ trong lòng hắn càng ngày càng sâu, lúc này thật sự có ý muốn phế nó, hắn thở hồng hộc, ngồi sau ngự án, nhìn một lượt đám đại thần tâm phúc, trầm giọng nói: “Các khanh sao lại không nói gì vậy? Nguyên Tá điên cuồng vô thiên vô pháp, còn giống một thái tử không? Quân vương tương lai của một nước là căn bản xã tắc, sao có thể không thận trọng, trẫm muốn phế thái tử, chúng khanh thấy thế nào?”.
Hoàng đế đã hỏi đến cùng rồi, không thể im lặng được. Trình Vũ bước lên một bước, đắn đo nói: “Quan gia, thái tử Nguyên Tá dù sao vẫn là trưởng tử đích hệ của quan gia, hoàng thất chính tông, nhân phẩm đoan chính, chưa từng có sai lầm gì lớn, không thể dễ dàng phế lập, như vậy sẽ làm loạn xã tắc, thần vẫn mong quan gia thu hồi thánh mệnh”.
Giả Diễm cũng nói: “Thái tử là căn cơ của một nước, là chuyện kế tục, liên quan đến thiên hạ, thỉnh quan gia suy nghĩ kỹ”.
Triệu Quang Nghĩa lạnh lùng lướt mắt nhìn Tống Kỳ, Tống Kỳ nói: “Quan gia, thái tử phế lập, quan hệ đến tông miếu xã tắc. Tuy quan hệ đến gia sự bệ hạ, nhưng thực sự là đại sự quốc gia, không thể dễ dàng thay đổi được. Từ cổ đến nay đều lập trưởng tử đích hệ làm hoàng đế, thái tử Nguyên Tá lại ở đông cung, thiên hạ đều biết, hơn nữa nhân phẩm được lòng người. Bây giờ thái tử và bệ hạ xung đột với nhau, lại đột nhiên phế thái tử, sợ rằng sẽ gây bất lợi cho trị vì lâu dài, Quan gia không thấy cái họa từ việc tiền triều Tùy Văn đế phế lập thái tử sao?”.
Trình Vũ đưa mắt nhìn hai vị đồng liêu đồng ý với ý kiến của mình, gan liền lớn hơn một chút, vội nói: “Theo như thần thấy, vị trí thái tử không thể khinh xuất thay đổi, nhưng có thể giam lỏng thái tử trong cung, để thái tử có thời gian đóng cửa tự suy nghĩ, sẽ thay đổi suy nghĩ cũng không chừng”.
Triệu Quang Nghĩa vẫn chưa hết tức, cười lạnh nói: “Đóng cửa suy nghĩ sao? Trẫm rất nhiều lần đã nhân nhượng, mấy năm nay luôn bắt nó đóng cửa suy nghĩ, nhưng nó đã từng có một chút hối hận nào chưa, ngược lại còn càng ngông cuồng hơn với trẫm, trẫm không thể nhẫn nhịn tiếp nữa”.
Giả Diễm nói: “Việc xung đột này quả thật không nên để người ngoài biết, nếu như phế thái tử thì phải dùng lý do gì để công khai cho thiên hạ? Hơn nữa, quan gia đăng cơ đại bảo, vốn là huynh chết đệ kế vị, bây giờ trong đám hoàng tử, ngoài thái tử ra thì Đức Phương là lớn nhất, quan gia nếu như phế thái tử thì lúc đó phải lập ai làm thái tử đây?”.
Triệu Quang Nghĩa hơi rùng mình, tức giận lập tức biến mất, liền nói: “Đức Phương sao... Đức Phương hắn...”. Hắn lẩm bẩm đi lẩm bẩm lại mấy chữ, mắt lóe lên, mang theo một tia lãnh ý...
Bên ngoài Đông Hoa Môn, một vị hòa thượng anh tuấn trẻ tuổi đang đứng trong đám dân chúng, nhìn về phía cung thái tử đang nghi ngút khói, lại nhìn về đại môn hoàng cung canh gác nghiêm ngặt, cười lạnh lùng rồi quay người đi về phía Đại Tướng Quốc tự...
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 47: Hành Thích (1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 47: Hành Thích
Đây là một nơi lạnh lẽo, có hành lang bao bọc quanh thất phòng, nơi này thực hoang vu, chính là lăng tẩm của Tống hoàng hậu thời trước.
Triệu Đức Phương ngồi trước bàn với công chúa Vĩnh Khánh - vị tỷ tỷ đã xuất gia với tước hiệu Định Như đại sư. Họ đang nói chuyện cùng hoàng hậu Tống Quốc, sắc mặt bà ốm yếu xanh sao. Triệu Quang Nghĩa trong hai năm nay đã dần dần bớt cảnh giác với họ, không còn giám sát nghiêm ngặt, nên việc họ muốn diện kiến Tống hoàng hậu là điều khá dễ dàng. Hai năm nay, sức khỏe Tống hoàng hậu không được tốt, rơi vào tình cảnh hiểm ác như thế này càng làm bà đổ bệnh nặng hơn, thân thể thêm phần gầy gò yếu ớt. Trước đây Tống hoàng hậu là một một đóa mẫu đơn yêu kiều xuân sắc bao nhiêu thì giờ đã trở nên tàn héo, tiều tụy bấy nhiêu.
Thân người Triệu Đức Phương cao hơn hẳn so với tỷ tỷ mình, trên mặt hắn đã điểm thêm hàng ria lờ mờ, vẻ ngây thơ giờ lại pha một khí chất chững chạc trưởng thành trước tuổi, đợi đến năm sau, hắn đã đầy mười sáu tuổi, đã đủ tư cách để phong vương.
Dáng vẻ của Vĩnh Khánh công chúa vẫn nhỏ xinh như xưa, trải qua những năm thanh đăng cổ quyển tại chốn Phật môn, chuyên tâm tu tịnh đã làm cho nàng thay đổi rất nhiều, trở nên trầm lắng điềm đạm không còn là vị tiểu cô nương ham chơi ngang ngạnh, luôn vui vẻ giống một con chim hỉ thước như trước nữa.
Mấy năm trôi qua, Triệu Quang Nghĩa dần ổn định vương vị, hy vọng trả thù của họ cũng dần trở nên viễn hoặc xa vời, mỗi lần tương phùng, nhớ tới mối thù phu phụ lớn lao, cả ba người đối diện nhau mà u sầu tự than, nỗi đau thấm nhuần trong tâm khảm.
Vừa rồi, biết ở cung thái tử có chút động tĩnh, mẫu từ ba người gặp nhau dưới mái hiên lòng đầy xúc động, rộn lên như là cung thái tử bị phát hỏa, hỏi rõ nguyên cớ thì cung tỳ nội thị cũng không biết. Thực vậy, họ ở một nơi hẻo lánh cô quạnh muốn biết tường tận sự tình cũng là rất khó, hơn nữa họ cũng không muốn nghe ngóng những việc không liên quan đến mình, chỉ trở về cung cùng ngồi hàn huyên với nhau.
Vĩnh Khánh nói: “Mẫu hậu, Hoàng thúc giờ đã bị đày ải đến Trường An, nếu hắn thực sự đã dừng tay thì không nói làm gì, nhưng nếu không phải như vậy, chỉ e sau này sẽ gây bất lợi cho hoàng thúc. Hoàng thúc vốn an phận thủ thường, thúc cũng không dám tranh giành gì với hắn, quy phục hắn, năm sau Đức Phương sẽ được phong vương, người như hắn sao có thể bỏ qua cho hoàng đệ chứ? Nữ nhi con mỗi lần nghĩ đến chuyện này mà trong lòng lo lắng không yên”.
Tống hoàng hậu đưa tay che miệng ho thành tiếng, chau mặt mày nói: “Trong số văn võ triều thần, thế cô nhi quả phụ chúng ta có thể nhờ cậy được ai đây, các lão thần hoặc đều đã rời khỏi kinh thành, hoặc làm trung thần cho hắn, vận mệnh của chúng ta đều bị hắn thao túng, còn có thể nghĩ ra cách nào được chứ?”.
Vĩnh Khánh mi mắt ngậm đầy lệ đáp: “Kẻ thù giờ đã chiếm đoạt được vương vị, tiêu diêu tự tại, còn chúng ta... Đến tánh mạng của Đức Phương cũng không thể bảo vệ được, con thật không cam tâm, trong triều không có người nào có thể dựa nhờ được, còn Dương Hạo ở Tây Bắc...”. Sắc mặt Đức Phương trầm xuống tức giận: “Tỷ đừng nhắc tới hắn!”.
Vĩnh Khánh thở dài nói: “Đức Phương, tỷ biết đệ bất mãn với hắn, nhưng bây giờ là Triệu Quang Nghĩa phát binh tấn công Hà Tây, chứ không phải Dương Hạo hắn mưu đồ bá chiếm Đại Tống ta.
Nói cho dễ hiểu, nếu đệ là hắn, đệ có đồng ý ứng chiến không? Nghĩ ra Hà Tây vốn là nơi chư hồ tạp cư, với Trung Nguyên vương triều Lương, Tấn, Hán, Chu thậm chí ngay cả Đại Tống ta thì Hà Tây trước giờ không hề thuộc lãnh thổ của Trung Nguyên, Dương Hạo tuy chiếm giữ nơi đó nhưng vẫn là quân thần của Đại Tống, suy cho cùng vẫn thân cận triều đình hơn những thủ lĩnh người Hồ trước đây, nếu triều đình giảng hòa, ra ân khoan dung, thu phục lòng người thì sớm muộn Hà Tây cũng thuộc về Trung Nguyên, chưa kể đến binh đao...”.
Triệu Đức Phương ngắt lời nói: “Bất kể thế nào, hắn cư địa xưng đế thì chính là phản tặc, chúng ta còn có thể tin rằng hắn vẫn là trung thần sao? Lẽ nào chúng ta lại dẫn kẻ khác đến hủy hoại giang sơn xã tắc nhà Triệu? Hắn lập quốc xưng đế, là việc phản nghịch bất đạo, người như hắn không thể trông cậy gì được”.
Hai tròng mắt Vĩnh Khánh đỏ hoe, cắn răng nói: “Giang sơn này của nhà Triệu hay không, có liên can gì tới chúng ta đây? Nếu như theo cách của tỷ, vừa bảo toàn tính mạng của đệ lại vừa có thể báo thù cho phụ hoàng, nếu đã có ích như vậy thì chính là nơi đáng tin cậy!”.
Triệu Đức Phương vụt đứng dậy, nghiêm nghị nói: “Sao tỷ có thể nói ra được những lời như vậy? Giang sơn này tự tay phụ thân khổ công gây đựng, người đã qua đời không thể hồi sinh lại được, chẳng lẽ chúng ta đem cơ nghiệp của phụ thân dâng lên cho kẻ khác sao?”.
Tống hoàng hậu thấy hai huynh muội xung lời khắc khẩu, vội vàng ra xem ngoài điện môn, liên thanh nói: “Khẽ tiếng thôi, những lời này nếu truyền đến tai hắn sẽ là họa diệt thân lâm đầu đó”.
Triệu Đức Phương quay lại nhìn, hạ giọng cười nói: “Triệu Quang Nghĩa hắn có thể sát vua đoạt vị, nhưng có một thứ mà hắn không thể đoạt được, đó chính là... Tông miếu xã tắc, phụ hoàng là người khai quốc, là tổ tông của Đại Tống, công lao to lớn vinh quang như thế, hắn dù có ti tiện mức nào cũng vĩnh viễn không đoạt nổi! Đức Phương bất tài, kẻ thù giết cha gần ngay trước mặt nhưng lại không thể báo thù được, nhưng... Bất luận thế nào, ta cũng không mượn sức mạnh của người ngoài để hủy hoại giang sơn của phụ thân!”.
Vĩnh Khánh chậm rãi nhắm hai mặt lại, hai hàng lệ cứ lăn trên gò má: “Phật viết: Giả lệnh kinh trăm kiếp, sở tác nghiệp bất vọng, nhân duyên hội ngộ thì quả báo hoàn tự thụ. Mối huyết hải thâm thù của phụ thân, bao lâu mới có thể phân rõ nhân quả, ác giả ác báo...”.
*
* *
Trong điện Văn Đức, Triệu Quang Nghĩa đang soi đèn phê duyệt tấu chương, đột nhiên hắn cảm thấy trong người bốc lên khí nóng, không chịu nổi hắn liền vứt tấu sớ xuống, đi tới mở toang cửa sổ. Tuyết lại rơi, những trận tuyết trắng xóa không ngừng tuôn rơi, khung cảnh bên ngoài bao la mờ mịt, trong lòng hắn bây giờ cũng là một nơi mênh mang mù mịt.
Luận về tình mà nói, hắn vẫn rất yêu quy phẩm tính của trưởng tử, tuy đứa con trai này luôn làm người khác phải lo lắng, chỉ lo giúp đỡ cho kẻ ngoại gia, hôm nay lại còn tức giận đến mức đốt cung thái tử, hành động như điên như cuồng, bị giữ lại mà vẫn không chịu yên lặng, giờ sau khi uống thuốc của thái y mới dần trầm vào giấc ngủ. Đứa trẻ này có thực là lựa chọn tốt nhất của hắn hay không? Bỗng nhiên, hắn lại nhớ ra việc ban nãy bắt gặp Triệu Đức Phương, hôm nay Vĩnh Khánh và Đức Phương đến thăm hoàng tẩu. Đêm đã khuya, Vĩnh Khánh nán túc lại cung hậu, nhưng Đức Phương phải rời khỏi đó, lúc rời khỏi cung cũng là lúc gặp ngay phải hắn. Đứa cháu này tuổi nhỏ nhưng tính khí trầm ổn, chín chắn cương nghị, đứng trước mặt hắn cũng rất biết cư xử trước sau, hiểu cách tiến thoái, khác hẳn với cái thời còn là một tiểu tử kháu khỉnh ngồi cưỡi trên cổ hắn đòi hái quả.
Nhưng không biết tại sao, sự cung kính và ôn thuần của Đức Phương làm cho hắn cảm giác không thật chút nào, giống như Đức Phương đang đeo một chiếc mặt nạ khiêm nhường cung kính, làm hắn thực khó chịu. Một Đức Phương như vậy còn làm cho hắn thấy càng cảnh giác kiêng đè hơn Triệu Đức Chiêu, đứa con cháu ngang nghịch hỉ nộ ra mặt kia.
Sang năm, hắn đã mười sáu tuổi, để che miệng thiên hạ, bề ngoài hắn ra vẻ yêu thương con cháu tiên đế như ruột thịt, nên đến lúc đó cũng phải thể hiện một chút. Chức vị của một vương gia là không thế thiếu được, nhưng Tang tử của hắn đang điên loạn, những hoàng nhi thì chưa đủ tuổi, Quang Mỹ đã được phong vương, một khi Đức Phương cũng được phong vương... Vậy đến lúc muốn phế truất thì...
Triệu Quang Nghĩa lại chau mày, tuyết đang rơi lả tả xuống nền đất, làm hình dáng hắn trở nên mơ hồ trong khung cảnh ấy, che lấp cả khuôn trán đang nhăn sâu những vệt.
*
* *
Trận tuyết lớn này, lại tạo ra một cơ hội tốt cho Bích Túc.
Hắn vốn là một kẻ có danh phận, một thần trộm tung hoành ngang dọc Hà Bắc, chuyên lấy trộm của cải các quan viên lão chủ, đánh cắp cả tâm hồn những cô nương, tiểu tức phụ, giang hồ đặt cho hắn biệt danh: “Hỗn thân thủ”. Sau đó, hắn học được từ nữ thích khách nổi tiếng Trúc Vận trong Kế Tự đường chiêu ngũ hành độn thuật, đây là thuật tiềm hành cao minh tuyệt thức hơn cả của phái Ninja Nhật Bản. Bây giờ, hắn lại nắm giữ bí quyết và luyện thành ấn công phu: Đại thủ bá đạo tuyệt luân. Có thể nói hắn thực là một thích khách bản lĩnh cao cường lợi hại.
Dương Hạo từng hứa sẽ giúp hắn đối phó với Triệu Quang Nghĩa, nhưng hắn là hoàng đế nước Hạ, Triệu Quang Nghĩa là hoàng đế Đại Tống, vậy phải đợi đến khi nào mới thấy cảnh vương kiến vương? Bích Túc cảm thấy dần tuyệt vọng về lời hứa của Dương Hạo. Hắn không muốn đợi thêm nữa, hắn muốn dựa vào chính thực lực của mình đi báo thù cho Thủy Nguyệt.
Trận tuyết lớn tràn đầy cả không trung lẫn mặt đất, chỉ vẻn vẹn ở giữa một vầng minh nguyệt.
Bích Túc âm thầm lẻn vào nơi xung yếu trong cấm cung Đại Tống.
Mưa tuyết đã yểm hộ cho hắn hành động, hắn mặc y phục màu xám, trong đêm tối một bóng xám bò trên nền đất, cả người hắn hòa cùng với màu tuyết, như vô hình đến mức dù người có đi đến ngay gần cũng khó mà phát hiện ra.
Bích Túc đột nhập vào cung, ẩn nấp trong bóng tuyết khoảng một tuần hương mới có cơ hội để hạ sát hai tên quân cẩm vệ tuần tra, thâm nhập vào sau cung điện. Qua được phòng tuyến đầu tiên, hắn thấy thoải mái hơn, trong hoàng cung không phải chỗ nào cũng có cấm vệ, vượt qua vòng ngoài tức là vào bên trong cực dễ dàng.
Là một tên trộm siêu đẳng, Bích Túc cũng từng nghiên cứu qua về kiến đồ hào môn đại viện, nên hắn có thể biết đích xác thất phòng chủ nhân ở, nơi kho khố, hiểu rõ tuyến đường mà gia đinh hộ viện đi tuần. Nhưng khổ nỗi hoàng cung đại viện rộng lớn, khuê phòng khác hẳn bên ngoài của dân thường, tìm nơi ngự chân của hoàng đế quả không phải việc dễ dàng. Hắn đành ngồi trên mái điện, quan sát tứ phía rất lâu, rồi mới từ từ trượt xuống vụt lao về phía trước.
*
* *
Tại điện Văn Đức, Triệu Quang Nghĩa đã trở về cung, hai cấm quân thị vệ khoác tấm áo bào đứng lặng bên ngoài cung, thủ ấn cương đao, canh giữ cẩn chặt.
Tuyết rơi càng nặng hạt, hành lang điện Văn Đức được gác bởi hai thị vệ đeo kiếm, bóng xám ẩn trong tuyết lạnh nhanh chóng vô thanh vô tức vụt về phía họ, phải nhìn thực kỹ mới phát hiện ra có chút khác thường, hạt tuyết rơi dày mỏng khác nhau lại càng bao kín lấy bóng người.
Vì vậy, khi bóng người tuyết hiện ngay trước mặt thị vệ, một ánh chớp vụt lên, họ thực kinh ngạc không kịp rút đao hay kêu la, cổ họng đã bị một bàn tay chặn đứng. Hắn ra tay nhanh như chớp, chỉ thoát có hai tiếng “cộp”, cổ của hai tên thị vệ đã bị bóp gãy. Hắn liền vứt xác họ giấu vào chỗ tối, rồi lại nhẹ nhàng như không chạy biến vào trong tuyết.
Một cấm quân khoảng ba mươi đang tiến đến, hắn tựa hồ nghe thấy tiếng động gì đó, mắt nhìn tứ phía, không phát hiện kẻ khả nghi, cũng không thấy động tĩnh gì nên hắn không nghi ngờ, tay nắm chặt chuôi đao giờ đã buông lỏng ra, hắn chầm chậm xoay người bước đi, có lẽ hắn cũng không hề biết vốn có hai thị vệ đứng canh ở đây.
Tên thị vệ vừa quay đi, sau lưng hắn bỗng như có một luồng gió tuyết đuổi đến, chiếc bóng tuyết lại lần nữa vụt xuất hiện, hắn vòng cánh tay tóm chặt lấy tên thị vệ từ phía sau, hắn chỉ vừa xiết chặt cánh tay, cổ tên thị vệ đã bị bóp gãy, hắn không thể phát ra chút âm thanh nào. Sau đó Bích Túc bắt được một tên thị vệ khác, tra hỏi rõ ràng nơi ngụ của Triệu Quang Nghĩa tên độc ác đã hại chết Thủy Nguyệt của hắn, thì ra Triệu Quang Nghĩa đang ở trong chính điện này.
Tên thị vệ tiết lộ tin lúc trước vốn định quay người bỏ đi, nhưng lại bị Bích Túc trường thân dựng lên, hắn vừa mới động đã bị Bích Túc Phát hiện ra. Trước đó, hắn cũng lấy làm lạ vì thấy hai thị vệ bị mất tích, hắn cố gắng điềm tĩnh, giả vờ thả lòng canh gác, không ngờ thực lại có kẻ dám hiên ngang lẻn vào cung cấm. Phát hiện điểm khác thường, hắn đột nhiên xoay người, thủ chặt cương đao vội vung lên chém mạnh như đang lâm trận sinh tử.
Lúc này Bích Túc từ phía sau đang lao đến như chớp, may thay nhát đao chỉ mới sượt qua người hắn, lưỡi đao sắc bén chém qua chặt đứt cả những hàng tuyết rơi thành vệt, Bích Túc bay người vung một cước.
“Phốc” một tiếng, tên thị vệ bị Bích Túc đá văng ra, lùi sau tận năm bước, hắn suýt ngã nhoài người về phía sau, Bích Túc cũng thấy bất ngờ, không hề nghĩ rằng trong cung lại có cao thủ như vậy, chỉ là một kẻ mặc chế phục cấm quân.
Quan quân thực cũng có bản lĩnh và nhiều năm khổ luyện, Bích Túc khẽ quát lên một tiếng, phi chuyển song chưởng như pháp luân, lực đạo tung theo mạnh đến hùng hồn, công khứ lấy tên thị vệ. Thị vệ đỡ được một đòn của hắn nhưng chưa chắc chịu được một chưởng của hắn, hai người đã liên tiếp mấy hiệp giao đấu nhưng chỉ diễn ra trong nháy mắt, tên thị vệ bị hắn đả thương vào ngực một chưởng, cảm giác như đụng phải cây đại chùy, tấm ngực hắn bị chấn mạnh, yết hầu run lên, ho sặc sụa, miệng hắn trong chốc lát phun ra đầy máu, lúc này không chịu nổi hắn liền cuồng thoái đến tám thước, thất thanh hét lên: “Có thích khách!”.
Bích Túc vội vã ẩn hình, biến mất trong khung cảnh lờ mờ tối, nhưng tên thị vệ kia chưa từ bỏ, hắn vung đao lên chém một nhát, Bích Túc giơ đao gượng lại, đè chặt lên cánh tay hắn. Bích Túc vung đao tung liền tám chưởng, Bích Túc càng tiến thì tên thị vệ càng bị lấn thoái. Tám chưởng kích bãi, hắn không thể chống đỡ nổi, cả thân người ngã nhào xuống, xương sườn hắn dường như đều gãy vụn, lục phủ ngũ tạng đều bị cắt đứt đến mềm nhũn.
Nhưng lúc bây giờ có mấy tên cấm quân khắp nơi bủa về, Bích Túc đã bị thị vệ vây quanh, hắn vừa lao lực tiếp đánh tên thị vệ gan lỳ kia nên hao tổn một phần công lực. Bích Túc vung đao đánh trả đám thị vệ. Quyền chưởng giao kích, từng đợt tuyết rơi lại bị chém vung lên, hắn cũng cảm thấy đau buốt bởi vết dao bị chém sượt qua mặt.
Bích Túc giờ như một con giao long đang kinh hãi hung hăng, có lúc như vùng lên theo sóng lớn hùng dũng có lúc như nghênh cuồng chặn đầu sóng. Hai bên giao đấu, không ngừng sát thương nhân thể mà không phân thắng bại, những kẻ quan quân này không chỉ công phu cao cường mà còn lấy nhiều địch ít, mỗi lần công kích, chúng không dốc toàn lực, như vậy kể cả có kẻ nào trong số đó bị thương thì vẫn giữ được chiến lực, kẻ địch khó mà thoát chạy.
Lúc này, xung quanh càng nhiều thị vệ vây đến, Bích Túc giết chết kẻ này lại có kẻ khác thay thế tiếp chiến mà võ công của chúng cũng ngang ngửa hắn. Thế chiến bất lợi, những quan quân cao thủ giao chiến với hắn còn số còn lại bao vây tứ phía, phong tỏa đến mức mưa gió khó lọt, không lấy một lối tẩu thoát.
Bích Túc thầm giật mình, hắn còn chưa tiếp cận tới kẻ thù thì đã gặp phải những tên cao thủ này, cho dù võ công chúng thua xa hắn nhưng nếu chúng liên kết đánh lại thì hắn sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa, hoàng cung sao lại có thể có nhiều cao thủ như vậy?
Dương Hạo thường bôn ba đông tây chinh thân xuất trận nên bên cạnh hắn cũng có một đám thiết vệ, nhưng họ chẳng là gì so với những cao thủ này. Chúng tinh thông võ nghệ, công lực thâm hậu, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu. Bị bủa vây trong vòng kìm này thì thực khó để thoát ra, hắn càng không có cơ hội để đến gần điện Văn Đức nữa, mà bây giờ hắn vẫn chưa gặp được tên Triệu Quang Nghĩa, có thể hình dung ra đến lúc hắn xông đến gần Triệu Quang Nghĩa thì những cao thủ thị vệ quanh đó sẽ tiếp hắn còn cường mạnh hơn nhiều những tên thị vệ này.
Thiên tử chiếm cả bốn biển, đương nhiên trong tay có được càng nhiều kỳ tài giang hồ. Hoàng cung được xây dựng từ thời thiết lập Đại Tống, những kẻ yếu kém sao có thể được chọn làm cấm quân bảo vệ hoàng thành và hậu cung chứ? Thực ra dưới tay Dương Hạo không thiếu gì các cao thủ, chỉ là hắn đã để họ giữ trọng trách khác, giao phái những nhiệm vụ đặc biệt, đến Cẩu Nhi, kẻ luôn bám lấy Dương đại thúc cũng bị phái đi, hiển nhiên quanh hắn không có kẻ nhân tài kiệt xuất nào.
Dương Hạo rất thích phái những người thực lực mạnh, đáng tin cậy ra bên ngoài chủ chốt đại cục, gánh vác trọng trách, còn Triệu Quang Nghĩa lại thích để những lực lượng mạnh nhất, đáng tin cậy bên cạnh hắn, đây là điều khác biệt rất lớn trong cách vi nhân xử thế của hai người này.
Trận đánh ồn ào này đã là kinh động đến Triệu Quang Nghĩa, hắn đứng tại môn khẩu điện Văn Đức lạnh lùng nhìn bóng dáng tên thích khách to gan lớn mật kia, sau thân hắn có đến tám thường phục lão giả tuổi đều khoảng ngũ tuần, khí thế bất phàm. Triệu Quang Nghĩa thấp giọng dặn dò hai ba câu, hai trong các lão tướng phía sau vội y lệnh tiến lên trước.
“Cửu ngũ chí tôn, quả nhiên không hề dễ dàng tiếp cận, đêm nay thực không có cơ hội nữa, nếu ta không thoái lui ngay. E là phải uổng công bỏ mạng nơi này!”.
Bích Túc nghiến răng một hồi, đột nhiên khắp người nổi lên khí thế cuồng xé. Hắn hét một tiếng lớn, lưỡng thủ chợt chuyển sắc thành xích hồng, hoắc địa vụt biến đại liễu nhất niếp, lưỡng chích cựu linh chưởng hung bạo vung lên, kình khí gầm vang bao trùm khắp nơi, gân người hắn kêu răng rắc chấn động, tình cảnh này khiến cho mấy tên thị vệ vây quanh càng thêm lo sợ, bất giác nhụt chí thoái lui vài bước, Bích Túc thừa cơ vung đao phá tan vòng vây, vụt gào thét thoái thoát ra ngoài.
Hai tên thị vệ truy gần hắn chỉ kịp chém sượt lưng hắn thành một cái, liền bị hắn tung hai chưởng lực hung sát, áp khí vùng ra, hai tên thị vệ bị bắn tung về phía sau, đổ nhào về đám thị vệ phía sau. Đám thị vệ phía sau lại tiếp tục truy đuổi theo hắn, không ngờ Bích Túc lúc này mặt hắn toét ra búng máu, vừa đưa tay lên chặn hắn vừa vung đấu thủ nhất dương, từ trong tay áo phi ra một câu trảo, đầu trảo móc lên đến đỉnh mái của cung điện, hắn vội phi thân lao theo, tam hạ lưỡng hạ lên đến đỉnh điện.
Triệu Quang Nghĩa cười nói: “Bắt lấy hắn, bắt sống cho ta, trẫm muốn xem xem, kẻ nào dám to gan như vậy, dám có ý đồ hành sát thiên tử!”.
Không đợi hắn dặn dò, đám thị vệ đã nhanh chóng truy đuổi, trong khoảnh khắc hoàng cung cảnh tấn đại tác, quan quân cấm vệ bốn phía ráo riết hành động, lúc này Bích Túc đã phi diên tẩu bích, bay qua mái điện đi trên lớp ngói lưu ly nhẹ nhàng như bước trên mặt đất, với thân thủ nhanh nhẹn và thứ công phu phi trảo, hình dáng hắn trong chốc lát đã biến khỏi mắt những kẻ truy đuổi theo sau, lẩn vào bóng tối nơi cấm cung hệt như ma quỷ...
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 48: Chờ Đợi (1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 48: Chờ Đợi
“Nhân tại kinh trung, bất động bất thích. Tâm tại hồng trần trung, bất động bất thương. Tâm bất động, nhân bất vọng động, bất động tắc bất thương, nếu như tâm bất ổn tất nhân loạn động, thân trải khổ, kỳ cốt đau, vu như thể lĩnh hội chi thế gian mọi bản thống khổ. Hết thảy niềm ân ái hội ngộ tức vô thường khó được lâu, sinh thời đa khiếp sự, mệnh nguy ngay trước lộ, vì ái tức sinh ưu, vì lo tức sinh khủng, nếu biệt ly tức ái biểu, vậy vô ưu lại vô khủng...”.
Trong phòng thắp hai ánh đèn sáng, hương trụ đàn thơm thoang thoảng xung quanh, công chúa Vĩnh Khánh đang ngồi tọa tĩnh, lặng lẽ tụng kinh. Dù nàng sớm đã xuất gia nhưng đó không phải do thực thờ phụng phật giáo kinh nghĩa, mấy năm nay tuy thân tại cửa phật, hiểu biết nghĩa kinh của nàng không chỉ đơn giản giống như một ni cô thực sự, nỗi bất lực với trần tục khiến nàng càng thêm tin vào phật giới, ủy thác hết vào phật pháp.
Đột nhiên, trong cung truyền ra những tiếng ồn ào khó hiểu, đây thực là việc không được phép xảy ra, Vĩnh Khánh cảm thấy kinh ngạc, nàng đứng dậy đi ra ngoài cửa, nhìn thấy các cung nữ, thị tỳ đứng ngấp ngó trong cung, ồn ào qua lại, rỉ tai thì thầm chuyện gì đó.
Vĩnh Khánh liền hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”.
Vừa thấy công chúa cất tiếng hỏi, một nữ tỳ vội vàng bước lên nghênh lễ đáp: “Định Như đại sư, trong cung phát hiện có thích khách, làm kinh động đến thánh thượng, ngài tức giận nên hạ lệnh phong tỏa cấm cung truy bắt cho kỳ được hung thủ”. Nữ tỳ này chính là tâm phúc của Vĩnh Khánh, từ khi nàng xuất gia cho đến khi nay vẫn theo chừng hầu hạ.
Vĩnh Khánh nghe xong rất đỗi kinh ngạc: “Có người hành thích quan gia?”.
“Đúng vậy ạ”.
Một nội thị vội bước lên giọng dõng dạc đáp: “Đại sư không cần phải lo lắng, bên cạnh quan gia có rất nhiều cao thủ đại nội, tên thích khách đó giỏi đến mấy cũng khó lòng tiếp cận được, sao có thể làm tổn hại đến thánh thượng của chúng ta chứ. Bây giờ trong cung đang cảnh giới cẩn mật, hắn sẽ không thoát được đâu, Định Như đại sư cứ về nghỉ ngơi đi ạ, chớ quá lo lắng”.
Vĩnh Khánh trầm ngâm một lúc, nàng gật đầu rồi chuyển mình bước về phòng.
“Vậy mà lại có kẽ dám xông vào đại nội hành thích hoàng thượng? Thật là một kẻ dũng cảm phi phàm!”. Vĩnh Khánh trong lòng cảm xúc ngổn ngang rối loạn: “Đáng tiếc, tên ác bá đó mệnh lớn, nếu thực giết được hắn, vậy thì tốt biết bao”.
Vĩnh Khánh cất bước vào phòng, chợt nhìn thấy có bóng người vụt qua, nàng càng ngạc nhiên, kinh hãi thốt lên một tiếng, không ngờ nàng bị một bàn tay tóm lấy, xiết chặt cổ họng nàng. Nàng cảm giác bàn tay ấy hung mạnh đến nỗi chỉ nhất cử là có thể bóp nát cổ họng nhỏ bé của mình, hắn chưa dùng hết sức mà nàng đã cảm thấy khó thở được ra hơi.
Bích Túc đang ra tay giết người, chợt phát hiện ra trong tay mình là một ni cô, hắn thật không ngờ trong hoàng cung này lại gặp được một người xuất gia, hắn càng thấy ngơ ngẩn, tay dần buông lỏng. Vĩnh Khánh thở dồn dập, kinh hãi mà nhìn lên, trước mắt nàng là một kẻ nam nhi mặt trắng bệch tái nhợt nhưng ánh mắt hắn bén sắc như một con sói hoang dữ tợn, lạnh lùng chằm chằm nhìn nàng.
Bích Túc nhìn rõ đây là một ni cô tuổi còn trẻ, mặc một bộ truy y, mặt mày thanh tú. Đôi mắt nàng vì quá kinh sợ mà mở to tròn, cực giống với thần sắc của Thủy Nguyệt, trong suốt như nước, thuần khiết vô tư. Bích Túc biết mình đang trong cảnh nguy khốn, chỉ cần vị ni cô này hét lên nửa lời, lập tức sẽ dẫn toán cẩm y vệ đến, nhưng giờ toàn thân hắn đang run lên, hắn không thể chịu đựng được nữa.
Vĩnh Khánh yên lặng nhìn tên thích khách, thấy hắn đã thả lòng tay xiết họng, nàng vội dồn dập mà thở hổn hển, nàng đánh bạo hỏi: “Người chính là kẻ thích sát hoàng thượng?”.
“Không sai, chính là ta!”.
Mắt nàng sáng lên, đột nhiên nói: “Hãy thả ta ra, ta sẽ giúp ngươi chạy thoát!”.
Bích Túc kinh ngạc nói: “Ngươi?”.
Khi hắn tháo chạy, bị hai tên nội thị đả thương, đôi nhục chưởng của hắn là thiết chú nhưng thân người hắn lại chưa thể luyện đạt tới độ kim cương bất hoại, việc sử dụng đôi nhục chưởng đó đã làm cho nội phủ của hắn bị chấn thương nặng, sau đó trong lúc cấp bách vội tìm đường tháo thân nên hắn thi triển cao phục đệ nhất lộ tẩu thoát, vết thương vì thế càng thêm nghiêm trọng, giờ phút này hắn đã không còn sức để chạy chốn nữa, nhưng... Nàng muốn giúp ta chạy thoát? Nàng là ai? Cớ gì mạo hiểm tính mạng cứu ta? Ni cô này... Có đáng tin hay không?
Tiếng ồn ào bên ngoài điện ngày càng to, cấm quân thị vệ dò khám kỹ càng từng cung điện, bây giờ đã đi gần đến khám tới cung điện thứ tám này, Vĩnh Khánh cười mỉm một tiếng, nhẹ nhàng nói: “Ngươi hoặc là tin ta hoặc giết ta, tự xông ra mở một đường máu, ngươi hãy chọn đi!”.
Nụ cười của nàng nhỏ nhẹ, như đượm chút dịu dàng của Thủy Nguyệt, đôi mắt nàng càng nhìn càng giống Thủy Nguyệt, hiền hậu thuần khiết... Bích Túc cứ nhìn chăm chú vào đôi mắt đó không rời, tay hắn bất giác buông ra, không còn xiết vào cổ họng nàng...
*
* *
Một đêm đầy tuyết trôi qua, sáng sớm hoa mai vàng đã nở rực, những bông tuyết dày trắng xóa che phủ khắp cành khô, hoa mai từng bông cứ mạnh bạo trồi lên, điểm trứ thêm cho mỗi nhánh cây.
Chiết Ngự Huân vẫn giống trước, mặc một bộ bào miên bố, đi tới hậu viện với chút vẻ lo lắng, hắn ngẩng đầu lên nhìn, chợt phát hiện ra hoa mai đã nở rộ, hắn tiến lại đến gần, cẩn thận nhìn hồi lâu, rồi mới thốt lên một hơi, hắn lại lùi về phía sau vài bước, nhấc chân đá bay thanh trúc bên cạnh, tiếp đó vươn hai ngón tay bắt chặt lấy thanh trúc vừa tung lên.
Hắn hít sâu một hơn, thực ra hắn vừa triển khai một đường kiếm pháp, chiêu thức của hắn đại khai đại hạp, khí thế hùng hồn, thanh miệt trúc nhỏ bé trong tay hắn bỗng chốc mang uy lực to lớn như một thanh chùy, cảm giác nặng tựa ngàn cân, thanh kiếm trúc vung ra như còn chứa đựng nỗi phiền muộn, sầu lo khổ cực của hắn. Kiếm vũ xuất chiêu, tuyết cũng theo đó mà bị phá tan ra hòa thành gió.
Ở góc viện có mấy tên thị vệ đang cầm thương, chầm chậm đi tuần tra theo như lệ thường, thỉnh thoảng cũng nhìn ngó vào nơi này vài lần, ngẫu nhiên mà lại tùy ý, có lúc cũng trò chuyện ít điều.
“Hây, nghe nói tối qua thị vệ bắt phản tặc?”.
“Đó thực là kẻ trộm chứ? Đó là đạo tặc! Xem khắp thế gian này. Có mấy kẻ dám đi hành thích quan gia đây?”.
“Gan của kẻ vận nhân này cũng thật lớn, đến cả thánh thượng hắn cũng dám hành thích, nhưng quanh ngài có bao nhiêu là cao thủ đại nội, hắn sao có thể sống sót rời khỏi đó được chứ?”.
“Thật là nói thừa, hắn đã dám tới thì làm gì còn ý định sống sót quay về chứ? Tựa như Kinh Kha vậy, vốn đã không màng sống chết. Nhưng cũng may cho hắn, hành thích không được, cố nhiên lại thoát thân nhanh chóng, mất hút khỏi tầm truy đuổi của cấm quân, hắn cũng thực là kỳ tài”.
“Kỳ tài? Hắn dù có tài đến đâu cũng cũng thành vô dụng, hắn cũng phải sợ đến tè cả ra quần, trước đây từng có Hồng tuyến nữ với tài phi kiếm giết chết được kẻ thù cách đấy xa hàng vạn dặm cũng không thể đối kháng được với hoàng đế, thua đến cả một tay tiết độ sứ cỏn con. Đây chính là cái gọi là kiến nhiều cũng cắn được chết voi. Bây giờ khắp cung điện lại canh phòng cẩn mật, nơi nơi truy tìm hung thủ, hắn có bản lĩnh mấy cũng sợ không dám lộ diện”.
Một binh sĩ khác nói: “Ai ai cũng dán mặt vào việc này, chỉ vì việc này mà anh em binh sĩ khắp doanh đều bận rộn không ngơi. Nói thẳng ra, chúng ta vẫn là may mắn nhất, chỉ canh gác cổng đại viện, thanh nhàn vô lo, đồ ăn được phần của Chiết gia cũng tốt hơn trăm lần so với ở trong quân doanh”.
Mấy tên binh sĩ trò chuyện huyên náo cứ thế như thường, Chiết Ngự Huân mỗi ngày đều luyện công dưới bóng cây, hắn trút từng đợt phẫn khí ra ngoài, họ cũng quá quen với hình ảnh này. Chiết Ngự Huân múa luyện ba vòng kiếm pháp, luyện đến khi mồ hôi đầm đìa mới chịu ngừng lại.
Khi hắn trở lại phòng mình cũng là lúc Chiết phu nhân đã chuẩn bị đẩy đủ bữa sáng, hắn trước giờ không hề có thói quen như vậy, chỉ là cuộc sống giờ đây của hắn ngày nào cũng giống nhau, lặp đi lặp lại đến phát chán.
Chiết phu nhân tay bưng một khay đồ nhỏ, bên trên là vài món đơn giản, theo sau bà là một tiểu tử, đây chính là lão Tam Chiết gia, Chiết Duy Xương khoác một lớp áo nhung, đầu đội mũ lông thỏ, tay đang cầm bát cháo nóng đầy miệng, hắn cũng chậm chạp theo sau cách phu nhân.
Phủ Châu đã rơi vào tay triều đình nên bây giờ địa bàn của Dương Hạo không còn có liên quan gì với Chiết gia. Hơn nữa sau khi Dương Hạo xưng đế, triều đình đã ra chỉ thảo phạt một cách danh chính ngôn thuận, giờ giá trị lợi dụng của Chiết gia đã hết, chỉ là Triệu Quang Nghĩa nuôi âm mưu thâm độc đoạt được Phủ Châu, trước khi Hà Tây được ổn định, hắn sợ Chiết gia không biết lợi hại sẽ dâng Phủ Châu vào tay quân giặc nên đã giám sát chặt chẽ họ, cũng không cho phép họ thuê dùng thị tỳ, bữa ăn cơm cả ngày đều do tự tay Chiết gia lo liệu.
Chiết gia bị giam lỏng nơi này cũng đã hơn nửa năm, binh đinh giám sát đã sớm chỉ là hình thức, đã quen với từng hoạt động trong nhà này, nên chẳng mấy chú ý.
Kể cả khi họ tăng cường giám sát cũng không có thể kiểm soát hết đến hơn trăm người nhà Chiết gia. Chiết phu nhân bưng bát cháo đến cho tên lính ngoài hàng lang, hắn vừa nhìn bà vừa bê bát lên húp một hơi, phu nhân quay vào trong, vừa đến cửa liền dương giọng nói: “Quan nhân, ăn cơm thôi”.
“Mọi người ăn trước đi, ta không có thấy ngon miệng”. Chiết Ngự Huân buồn chán đáp, lúc này hắn đang đứng múc gầu nước rửa mặt cạnh giếng. Chiết lão tam và lão tứ đều đã ngồi yên vị trong phòng, Chiết gia vốn đã duy trì thói quen cả nhà quây quần dùng bữa từ lâu kể cả trưởng tử trước đây khi chưa thành thân cũng vậy, luôn tuân theo quy củ cũ.
“Năm mới sắp đến, hàng ấn Trương gia đưa đến cho ta một loạt niên hóa, chờ sau khi ăn xong, ta và các con sẽ cùng thanh lý nhất hạ, biếu cho các vị trưởng bối”. Chiết phu nhân vừa cài cửa vừa cao giọng nói.
Cửa phòng vừa đóng, tiểu tử toan đặt bát cháo xuống vội ngẩng đầu lên nhìn, lão tứ Chiết Duy Trung cũng nhìn chằm chằm cái người mặc bộ y phục nhị hào vừa xuất hiện kia, bất giác giật mình, đánh rơi cả đôi đũa xuống đất, chưa kịp thốt lên tiếng nào đã bị nhị ca Chiết Duy Tín nhanh tay nhanh mắt bịt chặt miệng.
“Đệ bao tuổi rồi, lại vẫn hấp tấp bộp chộp thế”.
Chiết Ngự Huân dùng khăn lau khắp mặt mũi, nghe thấy tiếng đũa rơi, định tức giận mà xuất lời giáo huấn, chiếc khăn vừa bỏ ra, hắn nhìn thấy người đó mà ngẩn người ra như tượng đá một lúc.
“Đại ca...”. Chiết Tử Du gọi một tiếng xé lòng.
*
* *
“Nàng vì cớ gì mà lại cứu ta chứ?”. Trong nơi cung điện, một khoảng u ám, Bích Túc đang ngồi khoanh mình trên tháp thượng, nghi ngờ nhìn vị ni cô hành động kỳ quái này.
Vĩnh Khánh dõi theo vết thương trên đầu hắn, trước mắt rõ ràng là một tăng nhân, nhưng vị tăng nhân lại đi làm thích khách, hắn rốt cuộc là ai chứ?
Vĩnh Khánh không đáp lại mà hỏi: “Ngươi tại sao lại muốn hành thích quan gia? Người nên biết rằng, dù ngươi thành công thì cũng không thể sống mà rời khỏi đây”.
Bích Túc giọng căm hận nói: “Từ thời khắc ở đồ thành Giang Châu, ta chỉ sống với một sứ mệnh duy nhất là giết chết tên ác bá Triệu Quang Nghĩa! Chỉ cần giết được hắn, sống hay chết chẳng là điều quan trọng nữa”.
“Giang Châu?”. Vĩnh Khánh thấy lòng không yên, thốt lên hỏi: “Có phải người thân của ngươi... Chết tại Giang Châu?”.
Hai hàm răng của Bích Túc nghiến rung lên, mắt hắn đần đỏ ngầu, hắn nói rành rọt từng câu từng chữ: “Đó không phải là tác chiến, mà là một cuộc thảm sát bách tính một cách tàn ác của bọn quần thủ vô lương!”.
Vĩnh Khánh trầm lặng nhìn hắn, nàng có thể nhận thấy nỗi căm hận sâu nặng từ biểu hiện và thần sắc hắn, phải chịu bao nỗi đau khổ, ánh mắt điên cuồng căm tức đó chỉ chăm chăm nhìn tới việc báo thù cho đến hơi thở cuối cùng. Người thân của hắn chắc hẳn đã chết nơi chiến loạn chỉ bởi một mệnh lệnh của Triệu Quang Nghĩa, còn với ta, người thân của ta lại nằm trực tiếp trong tay hắn, đem so với nhau, mối thù nào sâu đậm hơn, người nào càng chịu đau đớn hơn đây? Nhưng hắn có thể vì người thân mà làm, còn ta lại...”. Vĩnh Khánh trong lòng càng thêm xấu hổ.
Nàng thực không phải không muốn báo thù, chỉ là nàng bị ràng buộc quá nhiều... Nàng muốn báo thù cho phụ thân, rồi tiếp nối gìn giữ cơ nghiệp giang sơn này, nàng muốn giết chết kẻ thù sát phụ diệt quân bất nghĩa kia nhưng cũng phải bảo vệ cho kỳ được huynh đệ của mình, nỗi giận thất phu, mạng người tận hai, lưu huyết ngũ bộ, thiên hạ càng vì đó mà thương đau, thực là thống khoái, nàng nghĩ, nhưng... Nàng không thể làm được.
Bích Túc nghĩ tới Thủy Nguyệt đã chết thảm, hắn càng thêm tức giận, một hồi lâu mới khống chế được sát khí kích phẫn, hắn lạnh lùng nói: “Nàng đã biết tại sao ta muốn giết hắn rồi phải không? Vì... Ta và hắn là kẻ thù không đội trời chung! Lần này ta không thành công nhưng ta vẫn sống sót, lần sau ta vẫn sẽ tiếp tục! Còn nàng... Nàng là ai, biết rõ ta là thích khách nhưng lại mạo hiểm cứu ta? Đừng nói với ta rằng nàng làm vậy là vì đệ tử phật môn từ bi nhân ái. Ha ha, hỏi thế gian, đế vương thống trị vạn dân, phật pháp tận nơi Tây Thiên, khó mà phù trợ chúng sinh!”.
Vĩnh Khánh lặng lẽ nhìn hắn: “Ta cứu ngươi, chỉ là vì... Ta và người cùng muốn giết chết hắn, đồng hữu kẻ thù thiên chi”.
Bích Túc chau mày nói: “Nàng nhờ thân phận ni cô mà vào được cấm cung, có thể thấy... Nàng có ân oán sâu đậm với hoàng thất, nàng có mối huyết hải thâm thù với Triệu Quang Nghĩa? Nàng là ai?”.
Vĩnh Khánh đưa tay hợp thập nói: “Bần ni Định Như, khi chưa xuất gia là công chúa Vĩnh Khánh của Đại Tống”.
Sau khi đãng cơ, Triệu Quang Nghĩa đã từng giả bộ phong cho nàng là Quắc Quốc công chúa, nhưng trong lòng Vĩnh Khánh, nàng vẫn luôn là tiểu công chúa bên cạnh phụ thân, nàng đã tự truất bỏ phong tự Quắc Quốc đó.
Bích Túc biết được thân thế nàng liền hiểu rõ lý do mà nàng cứu mình: “Công chúa Vĩnh Khánh? Thì ra nàng chính là... Phụ hoàng nàng bị chính hắn...”.
Vĩnh Khánh nắm chặt lấy đôi tay, hai tròng mắt đỏ lên: “Cha ta bị hắn giết hại, hắn là tên gian thần sát quân đoạt vị bất nghĩa. Nhưng giờ hắn là hoàng đế, ta không thể giết được hắn. Tuy nhiên ta có cơ hội đến gần hắn, người có bản lĩnh sát nhân, nhưng lại không thể tiếp cận được hắn. Ta và người đồng hận chung thù, vậy hãy cùng hợp lại, ngươi thấy sao?”.
Bích Túc nhất thời mắt sáng lên: “Hợp tác như thế nào?”.
“Ta cho người cơ hội, ngươi hãy giết chết hắn, nhưng cơ hội đó ngươi phải đợi đã”.
Bích Túc gật đầu: “Ta có thể đợi, ta đã đợi chờ lâu lắm rồi, chỉ cần có cơ hội, ta sẽ kiên nhẫn chờ nó xuất hiện!”.
“Tốt lắm”. Vĩnh Khánh nói: “Hiện giờ cung cấm canh phòng nghiêm ngặt, cứ năm bước lại một lượt tuần tra, mười bước một trạm gác, người nào qua lại cũng bị bàn tra kỹ càng, ngươi hãy kiên nhẫn chờ đợi ở đây, mẫu hậu sẽ thay ta chăm sóc ngươi. Ta lập tức xuất cung, giả như ngươi đã tẩu thoát khỏi nơi cung cấm, như vậy vòng kìm tỏa trong cung sẽ tự nới lỏng. Đợi đến lần sau quay lại, ta sẽ nghĩ cách đưa ngươi ra”.
Bích Túc lạnh lùng cười nói: “Đợi lúc tình hình cung cấm giới nghiêm tiêu tan, tự ta có thể rời khỏi đây”.
“Vậy cũng tốt, bần ni hiện trú ở Sùng Hiếu am, thành Tây tu hành, nếu ngươi rời khỏi hoàng cung có thể đến đó tìm ta, chúng ta sẽ cùng đàm mưu kế”. Khuôn mặt thanh tú hiền dịu như Thủy Nguyệt này lại có thể nói những lời lạnh lùng sát khí.
*
* *
“Xích Trung đã chết? Ha, chết cũng tốt, thật là tốt, cái tên lòng lang dạ sói đó, ta coi hắn là tâm phúc, nào ngờ hắn lại đâm ngay sau lưng ta một đao. Đáng tiếc, hắn lại chọn nhầm chủ tử, thỏ khôn chưa tử, tẩu cẩu đã tái, thật là đắc khoái nhân khẩu, ha ha...”.
Nơi ngọa phòng, nghe tin Xích Trung đã chết, Dương Hạo xưng đế, bây giờ lại biến bại hoành chiến chưa phân thắng bại, Chiết Ngự Huân vốn trong lòng lo lắng, ức khí mấy ngày nay tích trữ trong người giờ phần nào giải tỏa hết, hắn thở dài một hơi, bỗng quay lại phía Chiết Tử Du, nói: “Hắn lập quốc, hắn giờ đã lập quốc xưng đế, vậy hắn sẽ an vị cho muội vị trí gì? Hắn đã có nguyên phối, chức vị hoàng hậu chúng ta không thể đoạt được, nhưng dù sao hắn cũng phải phong muội làm một thần phi chứ? À... Ả nha đầu họ Đường đã đoạt mất rồi, hay hắn phong cho muội làm thục phi?”.
Dân gian có cái gọi là tam cung lục viện, đó là cách nói thị nhi bất thực về quy định của hoàng gia, tam cung tức chỉ tam cung của hoàng đế, thái hậu, hoàng hậu hay còn gọi là tam cung của thái hoàng thái hậu, thái hậu, hoàng hậu. Lục viện lại chỉ nơi hoàng hậu ngự phòng, tẩm cung hoàng hậu có sáu điện, một chính điện và năm yếu tẩm, hợp xưng lục viện hay lục cung.
Vào trước thời Minh Thanh, cấm cung chỉ có duy nhất một hoàng hậu, dưới đó là phi phong theo thứ tự: Thần phi, thục phi, đức phi, hiền phị, huệ phi, quý phi. Đây là phong hiệu phân cho một vị phi tử, còn càng về sau phong hiệu dùng chung cho nhiều phi tần, phân thành: quý nghi, thuận dung, uyển nghi, sung kỹ, tu dung, tu nghi, tu giảo, chiêu dung, chiêu nghi, thấp hơn nữa là: tiệp dư, mỹ nhân, tài nhân, tiếp sau nữa là: phu nhân, cuối cùng là: hông hà bí và thị ngự.
Chiết Ngự Huân cứ suy xét tự gia muội tử tài mạo đều không thua kém, mà con người Dương Hạo cũng nhân nghĩa, Chiết gia lâm vào bế cảnh này nhưng hắn vẫn yêu thương tiểu muội, suy đi tính lại, bất kể từ phương diện nào cũng thấy chắc hắn sẽ không bạc đãi tiểu muội nhưng sao có chút hiềm nghi.
Chiết Tử Du vừa tức vừa xấu hổ nói: “Huynh, người ta hao tâm tốn công về tới nhà, chỉ vì ưu lo cho huynh và gia nhân, huynh lại nói những việc không liên quan như vậy”.
Chiết Ngự Huân ngang ngạnh nói: “Sao lại không liên quan, cả nhà ta già lẫn trẻ đều bị giam cầm nơi Biện Lương này, sống cũng sống không được, chết cũng không song. Từ nay về sau sẽ chẳng còn ngày ngóc đầu dậy nữa, ta chỉ có mỗi mình muội, không quan tâm cho muội thì còn quan tâm cho ai nữa? Dương Hạo có làm chuyện có lỗi với muội không?”.
Chiết Tử Du đứng lại, tức giận nói: “Muội không có gả cho hắn!”.
“Gì cơ?”. Sắc mặt Chiết Ngự Huân tím tái: “Hay lắm! Hay quá đi! Đây đúng là phá địch chúng nhân chùy mà! Vậy là Chiết gia ta đã chẳng còn gì nữa, hắn đối đãi với muội như thế này đây. Chiết Ngự Huân ta thực đã mù tới bảy con mắt lại đi coi tên lòng lang dạ sói này làm huynh đệ...”.
Vừa nghe đại ca mình lớn tiếng mắng chửi, Chiết Tử Du vội nói: “Huynh à, là muội không muốn lấy hắn, không phải lỗi do hắn”.
Chiết Ngự Huân trừng mắt nhìn: “Muội rõ ràng là yêu hắn tha thiết, sao vậy? Hay vẫn để bụng chuyện đổ vỡ trước đây? Muội à, không phải huynh nói lỗi tại muội, muội cũng quá là hẹp hỏi”.
“Huynh nói bậy bạ gì thể!”. Chiết Tử Du trừng mắt nhìn đại ca mình, đành nói: “Cả nhà già trẻ đều quy về Biện Lương chịu khổ, huynh sao có thể để Tử Du yên tâm mà xuất giá chứ?”.
Chiết Ngự Huân nói: “Nếu nói là khổ thì cũng không phải, chỉ giống như ăn để chờ chết, không có việc gì to tát cả, muội lẽ nào vì điều này mà cả đời không xuất giá sao? Muội à... Tiểu muội ngốc này, trước giờ chỉ luôn lo nghĩ cho ta...”.
Chiết Tử Du dở khóc dở cười nói: “Huynh à, muội không phải không chịu xuất giá, chỉ là không yên lòng nhân gia, thực ra... Muội... Muội đã nhận lời hắn rồi, đợi khi cứu được mọi người thì... Sẽ lấy hắn”.
Hai mắt Chiết Ngự Huân đăm đăm, liền ngồi vội xuống tháp thượng: “Vậy là hết! Đợi các người cứu ta ra ư? Muội cũng thấy đấy, trong phủ phòng ngự như vậy, nếu là một mình ta chạy trốn chưa chắc đã thành công, nhưng nến ta chạy chốn, cả nhà họ Chiết đều phải táng thân tại chính nơi này. Không phải ta không đi được mà là ta không thể đi, còn nếu có thể để cả nhà lớn bé chạy thoát được khỏi đây, đó thực là việc đến thần tiên cũng không làm nổi. Điều kiện này của muội thật... Vậy có khác gì cả đời không xuất giá?”.
Chiết Tử Du nhìn quanh, nói nhỏ tiếng: “Huynh à, cứu hết người nhà họ Chiết ta thoát khỏi đây, chưa chắc là không thể được, trong tay Dương Hạo có một bảo vật, thứ bảo vật mà Triệu Quang Nghĩa quý hơn Chiết gia ta bội phần, hắn nói... Đợi thời cơ thích hợp, sẽ lấy nó ra làm vật trao đổi, cứu cả nhà chúng ta”.
Chiết Ngự Huân lấy làm lạ: “Thứ gì mà lại trọng yếu như vậy?”.
Tử Du thấp giọng nói bốn chữ, Chiết Ngư Huân vừa nghe được ngọc tỷ truyền quốc, liền hoảng sợ thất kinh: “Thứ đó... Hóa lại trong tay Dương Hạo? Hắn... Thực sẽ vì cứu cả nhà ta mà đem trao nó cho Triệu Quang Nghĩa sao? Không thể nào, sao có thể được, đó là Ngọc tỷ truyền quốc, sở hữu nó tức chính thiên mệnh sở quy, hắn nay đã lập quốc xưng đế, nó là thứ cực kỳ trọng yếu, nào nỡ đem dâng kẻ khác”.
Chiết Tử Du nghe lời đại ca nói xong, nghĩ đến việc Dương Hạo vì cứu nhà mình mà bất chấp đổi cả báu vật vô giá kia, trong lòng thầm vô cùng cảm kích, ngọc tỷ truyền quốc là thứ bảo vật được coi là “hoàng quyền thần thụ, thiên mệnh sở quy”, là bảo vật vô giá!
Những năm qua, chỉ vì nguyên cớ rắc rối, nên chính mình trở nên lạnh lùng, làm khó cho Dương Hạo, người giờ đã ở thân phận gì rồi? Xung quanh người có biết bao nhiêu mỹ nữ, chỉ cần nghĩ đến việc hắn có nhiều người phụ nữ nhưng lại coi mình cực kỳ quan trọng, đến mức vứt bỏ cả ngọc tỷ truyền quốc! Một người phụ nữ, được nam nhân yêu thương đến vậy, còn cầu mong gì hơn nữa? Nhưng việc oán hờn giận dỗi xưa kia giờ chỉ cảm thấy đáng cười.
Chiết Tử Du thấy trong lòng chua xót lại vừa cảm nhận vị ngọt ngào lại thêm hối hận. Nghĩ lại việc trước đây, nàng lại thấy thật ngây dại, giờ nàng chỉ muốn được trở về ngay bên hắn, dùng tấm lòng chân thành của nàng báo đáp lại tấm chân tình của hắn.
Chiết Ngự Huân cũng từng thống lĩnh một phương, vì qua kinh ngạc mà thần trí hắn trở nên thanh tỉnh hơn, hắn vốn cho rằng Chiết gia sẽ vĩnh viễn chôn chân nơi Khai phong, sẽ chẳng còn tự do gì, dù kẻ nào có bản lĩnh tài giỏi cũng chưa chắc cứu thoát được, nhưng là ngọc tỷ truyền quốc... Nếu hỏi khắp thiên hạ thứ gì có thể thay đổi vận mệnh Chiết gia, thì đó chnh là vật này, như thế Chiết gia sẽ có hy vọng thoát khỏi nan nguy.
Vốn hắn đã vứt bỏ hy vọng, nhưng nghĩ đến muội mình sẽ có một nơi chốn tốt, điều này đã thực hiện nguyện vọng cuối cùng của hắn, nay lại bừng sáng một tia hy vọng mới, hắn lại thêm vui mừng hăng hái vạn phần: “Không thành được muội đâu, như vậy bất thành, làm vậy thực quá hồ đồ, Triệu Quang Nghĩa bản tính tham lam, nếu Dương Hạo chủ động đầu hàng vứt bỏ đế hiệu, Triệu Quang Nghĩa sẽ càng được thế lấn tới. Nếu lúc này hắn không chịu dùng chúng ta để trao đổi ngọc tỷ mà tiếp tục phát binh thảo phạt, bắt Dương Hạo giao ra ngọc tỷ, như vậy ý định của Dương Hạo không được như ý nữa”.
Chiết Tử Du nói: “Dương Hạo đã dám xưng đế thì cũng đã chuẩn bị rằng sẽ phải từ bỏ tước hiệu đó, lẽ nào lại không chút oán thán. Hắn không hề nói rõ với muội, nhưng muội đoán... Hắn đang muốn mượn lực nước Liêu”.
Chiết Tử Du vốn người thông minh, đến cả Chiết Ngự Huân mỗi khi có việc đại sự cũng thường vấn kế nàng, hắn thực rất tin tưởng vào những phán đoán đó. Hắn cũng không phải là kẻ tầm thường, về ý này của tiểu muội, hắn suy đi nghĩ lại, càng thấy như hiểu rõ hơn, vội vàng vui sướng đáp: “Không sai, mười thì có đến... Là như vậy, chỉ cần dâng hiến ngọc tỷ cho nước Liêu, Triệu Quang Nghĩa không điên loạn lên mới là lạ, nói như vậy Chiết gia ta thật sự có hy vọng rồi!”.
Hai huynh muội hắn đều là những người tài trí, nhưng mọi ý nghĩ cũng chỉ dừng tại đó. Chưa hề đoán ra ý đồ của Dương Hạo thâm sâu khó lường cỡ nào. Họ chỉ nghĩ được việc Chiết gia đã được cứu, Chiết Ngự Huân vui mừng phấn chấn, cảm thấy thoải mải vô cùng. Chiết Tử Du nói: “Đại ca, muội mạo hiểm trở về, một là muốn thăm hỏi gia tình, tận mắt nhìn thấy mọi người bình yên khỏe mạnh, hai là nói cho huynh biết bí mật này để khỏi lo nghĩ mà sinh bệnh tật, có khi lỡ việc làm Triệu Quang Nghĩa hắn tức giận, gây họa diệt thân. Nếu chiến sự Hà Tây thuận lợi, chỉ cần chờ đợi thời cơ là cứu mọi người khỏi chốn khổ cựu này. Hãy chịu đựng thêm một thời gian nữa, huynh và mọi người nhất định phải kiên nhẫn lên”.
Chiết Ngự Huân hưng phán đáp: “Muội yên tâm, đã có điều trông mong như thế, huynh nhất định sẽ kiên trì chờ đợi!”.
Nói xong, hắn lại thấy lo lắng: “Muội à, tuy giờ triều đình không quản thúc ta quá mức nghiêm ngặt, nhưng trong phủ vẫn có mấy tên quan binh canh trú, muội nhất thiết đừng trở lại đây nữa nhé, tránh việc đánh rắn động cỏ”.
Chiết Tử Du đáp: “Đại ca yên tâm, nếu không phải trước kia chưa rõ phòng xá trong phủ, trú binh nhiều ít, canh phòng nghiêm giới cỡ nào rồi cả đến nơi mọi người ở thì muội sớm đã lẻn vào trong đêm tối. Nay có thể xuất hiện trước mặt mọi người trong hình dạng này, tuy nghĩ là dễ dàng nhưng thực ra muội đã tổn hao biết bao công sức. Lần này biệt ly, cũng không phải sự vụ lớn lao gì, muội sẽ không tới nữa, chỉ cần huynh kiên nhẫn chờ đợi thời cục biến đổi là được!”.
Chiết Ngự Huân gật đầu, ngẫm kỹ lại lo lắng dặn dò tiểu muội: “Tiểu muội, lần này rời đi, muội hãy lập tức trở về Hà Tây, đại ca thực sự không muốn muội xảy ra chuyện gì bất trắc. Hơn nữa, muội cũng đã lớn rồi, nếu cứ kéo dài mãi thế này, ngộ nhỡ nhân lão châu hoàng... Ha ha, ý ta muốn nói, muội cứ lấy hắn trước đi, chưa làm được việc cứu đại ca của mình, hắn sao dám yên tâm được chứ? Hắn sẽ không nỡ mà rời xa muội như vậy, mà nói đến hài tử... Việc hỉ của muội chỉ sợ huynh không thể tham dự, nhưng huynh có thể sẽ được uống rượu mừng đầy tháng của hài nhi. Đúng, chính là chủ ý này, muội hãy sinh cho ta một đứa cháu ngoại, như vậy mới có được chức cao trong cung...”.
“Huynh biến đi!”. Chiết Tử Du tức giận, hung hăng dẫm lên chân đại ca, Chiết Ngự kêu lên một tiếng thất thanh, không dám nói thêm phần nào chen vào cuộc sống hậu cung của tiểu muội.
*
* *
Mưa tuyết mịt mù nặng hạt rơi xuống, phù trắng mặt đất khô héo, chỉ duy có quân Hạ và quân Tống đôi bên vẫn duy trì thế trận kịch liệt chém giết.
Xạ trình của sàng nỏ đạt tới sáu trăm bước, hướng nhắm thẳng vào đầu thành, những mũi tên vút bay như cực tiến phá không, tiếng rít vun vút đến inh tai. Quân Tống tuy sử dụng máy bắn đá là khung gỗ bắn đá truyền thống của Trung Nguyên cần có lực lớn để sử dụng. Quân Tống lại đông đủ nhân thủ, nên chúng bảo đảm duy trì lực bắn đá liên tiếp. Theo tiếng kẻ châm ngòi pháo, trăm kẻ kéo dây, từng hòn đá to nặng bắn cao lên không, mang theo sức nặng ghê gớm của nó rơi về phía đầu thành. Mỗi lần tảng đá rơi xuống, mặt đất bắn tung tóe, đè vỡ vụn thêm cả những mảnh nhục cốt với máu tươi của quân binh.
Các loại vũ khí cận chiến như khiên thương, giáo nhọn dần được binh lính dâng tiến về phía trước để yểm hộ tấn công, họ tập chung vác cả những hào cầu, thang gỗ vượt hào, công thành chùy ùm ùm kéo đến, kết hợp tiến công dữ dội từng đợt từng đợt nối tiếp nhau. Quân Tống bắt đầu sử dụng vũ khí hỏa dược, nhưng hỏa dược thời này phái dùng dây dẫn cháy và thêm chút độc dược, hỏa tật lê hoặc hỏa ô nha, độc yên đoàn nên khi dẫn hỏa, khói đen lan tỏa mù mịt cả thành. Nhưng đây lại là tiết trời đông, xung quanh thành Hạ Châu lại toàn bình nguyên, hàn vũ bao trùm mọi nơi cho nên sức công phá của loại vũ khí hóa học nguyên thủy mà quân Tống sử dụng không mấy tác dụng.
Đây đều là những vũ khí công thành mà quân Tống vừa vận tới dưới thành Hạ Châu, tổng lực tiến công. Nhưng trong thành, quân lính cũng đã tăng cường phòng ngự, những loại sàng nỏ và xe ném đá loại mới chưa được dùng bao giờ cũng được chuyển lên đầu thành, chiến lại lực công kích kịch liệt của đối phương.
Vương Kế Ân thân giáp tay kiếm, đích thân đứng tại tiền mép đốc chiến, mệnh lệnh các bộ luân tác chiến, không được để cho phía thành ngơi phút ngừng nghỉ. Họ dốc toàn lực chuyển lấy yếu doanh thiết dã vụ đến, trong lúc này quân binh thiếu thốn lượng vũ khí cần thiết, đành phải chăm chú vào việc thêm lần vây khắp thành, chuẩn bị cung tiễn diệt trừ vòng vây phía ngoài. Đến khi vũ khí được vận đến, hắn thực không thể kiên nhẫn thêm được nữa, hắn vô cùng mong muốn sớm công phá thành trì này, tận mắt chứng kiến đô thành nước Hạ sụp đổ trong nháy mắt. Nếu hắn có thể công phá thành Hạ Châu, bắt giữ tên hoàng đế Hạ, vậy nhờ vào quan hệ của hắn với quan gia cộng thêm chiến tích huy hoàng như vậy, tất rằng sẽ nắm chắc một chức công tước.
Trong cảnh đó, liên doanh cách đó hơn mười dặm, đang cắm cờ tung bay, đao thương duẫn! Sáng, đại doanh chủ soái, sứ giả trinh sát đến đi vội vàng, đằng đằng sát khí, Phan Mỹ ngồi vững trãi trên ghế chủ soái, vừa sưởi ấm vừa xem xét tình hình chiến báo, nhưng qua việc xem xét tổng thể tin tức, hắn lại thấy có cảm giác bất an.
Công dục thiện kỳ sự, tất tiên lợi kỳ khí. Dù là dã chiến hay công kiên thành thì nơi tiếp tế viện trợ là quan trọng nhất, mà việc điều lương phát vận lại cực kỳ chủ chốt, về mặt này, dù hắn sớm đã rất coi trọng và ưu tiên, nhưng đến nay giải quyết những khó khăn có thể gặp phải lại không được tính toán kỹ lưỡng.
Khác hẳn với những lần đánh trước, khi quân Tống tấn công Kinh Hồ của Thục, Hán, Đường chư quốc, vấn đề lương thảo không cần đến đại soái phải lo lắng, quân Tống lại càng thêm hùng mạnh vô địch, thủy binh tuy kém hơn bộ binh nhưng vẫn có thể dễ dàng đảm nhiệm trọng trách vận chuyển lương thảo. Hay đến lúc cấp bách, quân Tống có thể vận lương tại chiến địa, lấy chiến dưỡng chiến. Khi tấn công các nước chư hầu đó, đi tới đâu cũng có thành trì, giải quyết vấn đề khuyết lương thực dễ dàng.
Tuy nhiên lần này lại hoàn toàn khác, từ Hoành Sơn đến đây là một vùng hoang mạc, ngoài tuyết trắng ra vẫn chỉ có tuyết trắng phủ khắp. Đây là lần đầu tiên từ thời kiến quốc đến nay, nước Tống trường kỳ Bắc chinh, thâm nhập vào đồng tuyết hoang mạc, mà lại là thời chiến đông. Trong tình cảnh đặc biệt như vậy, quân Tống cực thiếu kinh nghiệm, tuyến quân bổ đắp lương thảo lần đầu tiên vận chuyển lâu dài như thế, đó cũng vì đường thế xa xôi, băng tuyết phủ kín khắp nơi càng gây cản trở quân binh. Nếu quân Hạ bao vây bên ngoài, triển khai đả kích mạnh mẽ, thì nguy cơ tuyến sinh cơ này rất dễ bị chặt đứt, hậu quả đem đến là khó lường.
Cùng lúc đó trang bị của Tống quân cũng không hợp dùng với hoàn cảnh tác chiến, nơi này về đêm thời tiết càng giá buốt, quân binh có được chỉ là thứ chăn phủ, áo bào bằng loại vải liệu mỏng manh, khác với áo da thú dày ấm của tộc người Tây Bắc, cho nên việc phòng lạnh là quá kém, đến mức rất nhiều binh sĩ mắc phải thương hàn, cảm lạnh, không thể tiếp tục chiến đấu.
Đó đều là những yếu tố cực bất lợi, mà lúc này giám quân Vương Kế Ân lại bị chiếm mất Hoành Sơn, háo thắng chiếm thành mà quên hết mọi thứ, hắn chỉ mong đánh đổ thành Hạ Châu, bắt sống Dương hạo, mặc kệ những sự cố phát sinh này. Nhưng... Bây giờ mới ý thức được độ nguy hiểm của nó, e là đã quá muộn.
Giờ giống như là mũi tên tại huyền thượng, không thể không phát, vì không thể có chuyện chưa bại đã lui, chỉ còn cách đi cầu trợ giúp.
“Hy vọng... Hạ Quốc mới lập, lòng người bất ổn, bây giờ đô thành của nó đã bị vây, quân bên ngoài thành trở nên tản mát, không có cách nào triển khai được phản kích có hiệu quả, nếu không... Hậu quả thật khó tưởng tượng...”. Phan Mỹ cứ thế lo lắng nghĩ ngợi.
*
* *
Đầu thành Hạ Châu, Dương Hạo đứng vững trước đầu hàn vũ, tĩnh lặng xem xét doanh trại liên quân phía xa mười dặm đang bị vùi trong lợp băng tuyết buốt giá. Hắn cười rồi quay sang dặn dò quan quân: “Có thể bắt đầu được rồi!”.
Bảy vị thị vệ như Mục Vũ đứng sát sau thân hắn, mỗi người đều toát lên vẻ hùng dũng uy vệ, Dương Hạo vừa hạ lệnh, bảy người liền nhất tề vung tay, phi thân cao bay, vụt biến mất trong lớp duyên vân dày đặc...
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 49: Cướp Lương(1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 49: Cướp Lương
Tuyết đọng trên thảo dược vì trên đường viễn tống lương thảo và các công cụ khí giới công thành cỡ lớn mà cùng hòa với bùn đất trở thành hỗn tương, sau khi kết đông ở lớp bên trên, miễn cưỡng vẫn có thể mang theo người, nhưng địa hình cao thấp không bằng phẳng, ngã lên ngã xuống, rất dễ bị đổ. Mà những chiếc xe chở đầy lương cùng quân giới là những thứ mà mặt đất bùn lầy không thể tiếp nhận được, xe vừa đi qua, mặt đất lại biến thành bùn, rất khó đi.
Nhưng Tống quân cũng không còn cách nào khác, địa hình Tây Bắc bọn họ cũng không quen thuộc, cả chặng đường lại không có kiến trúc mang tính đánh dấu nào. Nếu như bọn họ tự ý đổi đường đi thì chỉ có trời mới biết phải sẽ đi tới đâu. Hơn nữa, những con đường đầy tuyết mà bề mặt đã bắt đầu biến dạng kia chưa chắc đã dễ đi hơn con đường bùn đất này. Cho nên, bọn họ chỉ có thể kiên trì tiếp tục mà đi theo con đường này.
Con đường mà họ đi có để lại dấu vết rõ ràng, đối với du kỵ Đảng Hạng thất thị mà nói rất dễ dàng có thể bắt được đội ngũ của họ. Trước mắt, trên cả đường đi đến đây đội ngũ vận chuyển khinh trọng cực lớn này đã giao thủ mấy trận với Hạ quân. Hạ quân xem ra thật sự đã bị Tống quân đánh lui rồi. Trải qua một thời gian dài như vậy, số lượng nhân mã du kỵ trên thảo nguyên tiến hành đột kích vào đội ngũ vận lương của Tống quân rất có hạn, rất khó có thể tổ chức được những trận đấu tập kích và ngăn cản lớn.
Có điều, bọn họ nhân số tuy ít, nhưng lại phát huy được đầy đủ ưu thế cơ động của du kỵ binh, không thể biết được bao giờ họ đến, cho nên lúc nào cũng phải duy trì cảnh giác cao độ. Một khi bọn họ gặp cản trở mà bỏ đi thì cho dù chiến đấu lực của bạn có mạnh hơn nữa cũng không thể đuổi kịp tốc độ tháo chạy của bọn họ, cho nên đối với họ chỉ có thể kích thoái, không có cách nào tạo hiệu quả sát thương. Hạ quân đột nhiên đến rồi lại nhanh chóng thoái lui, cho dù vẫn dùng phương thức chiến đấu lướt qua, nhưng lại làm cho đội ngũ Tống quân vận lương vô cùng mệt mỏi.
Ở đây cách thành Hạ Châu chỉ có mấy dặm lộ trình, theo thói quen, du kỵ Hạ quân sẽ không tiến hành công kích ở nơi mà chủ lực của Tống quân đang dựng trại rất gần thành Hạ Châu, đội ngũ Tống quân vận lương không khỏi thở phào nhẹ nhõm.
Quân kỳ bay vù vù, bay lên trong những trận gió lạnh tê buốt, Hoàng Phủ Hương Quân tay cầm thương, ngồi rất ngay ngắn trên ngựa lập tức phấn chấn tinh thần. Vị tướng quân này đầu đội hộ nhĩ thiết giáp, mặc ngư lân giáp, ngực đeo gương bát quái hộ tâm, đầu và vai đều có giáp bọc, phía dưới mặc chiến giáp tám mảnh. Chặng đường này tuy không phải chỉ một lần chiến đấu với du kỵ Hạ Châu, chặng đường lại khó đi, nhưng hắn vẫn không nhiễm bụi trần, uy phong vô cùng.
Tống quân vận lương đều mặc giáp và mang cung nỏ, tay cầm hồng anh thương, đều là những cấm quân tinh nhuệ, chỉ có điều họ cho dù mặc bảy tám lớp áo vải cũng không thể ngăn được những cơn gió lạnh buốt thổi luồn qua cổ và vào trong, người nào người nấy miệng cứng lại, mặt xanh xao, đôi giày dưới chân đã dính một lớp bùn đất dày cộp, trở nên rất nặng nề. Cho dù là đi người không nhẹ nhàng mà phải đi một lộ trình dài như vậy cũng sớm đã kiệt sức, huống hồ với tình hình địa thế và vật dụng mang theo như thế này, nếu như không phải sắp tới thành Hạ Châu, được uống một ngụm nước ấm, nằm trong trướng ấm áp thì bọn họ thực sự không thể kiên trì nổi nữa.
Tống quân chống thương xuống đất, lấy lại tinh thần mà lên đường, cố gắng tối nay có thể đến được đại doanh, không còn phải phơi mặt trên thảo nguyên nữa, không còn phải cảnh giác cả đêm đề phòng đột kích nữa. Nhưng lúc này, con chim ưng đang bay vòng vòng trên không trung có thể nhìn thấy được ở hai bên trái phải bọn họ có hai lộ kỵ binh năm nghìn người giống như một cái bàn kẹp sắt, kẹp ở hai bên con trường long vận lương này.
Hai bên cánh mỗi bên đều có năm nghìn người, cứ một nghìn người lại thành một đại đội, xếp thành năm tầng, tầng tầng tiến lên. Cứ một trăm người lại thành một phân đội, cứ mười người thành một tiểu đội, khoanh vòng đánh bọc sườn. Ở bên ngoài mười dặm, Tống quân do thám lập tức bắn tên về trung quân thị cảnh, tin cảnh báo vừa về đến trung quân thì Hạ quân đã hò hét kéo tới, cự ly chỉ còn khoảng năm dặm, tiếng vó ngựa vang trời theo gió mà đến, đoàn vận lương Tống quân lập tức dao động.
Hạ quân hai bên cánh đều có một vị tướng quân hung hăng như lang sói. Tướng quân phía bên cánh trái mặc một thân bào da sói màu nâu, đầu đội mũ da cẩu, tai mặt đều được che bởi giáp, chỉ lộ ra đôi mắt hung hãn, cánh tay bọn họ cũng được bao bọc bởi vải lông, chỉ lộ ra mười đầu ngón tay để cầm chặt đao, người này chính là thiếu tôc trưởng Dã Lợi thị Tiểu Dã Kha Nhi.
Tiên phong bên cánh phải là Dương Diên Phổ, Dương Diên Phổ mặc một bộ áo giáp, trên đầu đội mũ có gắn lông đỏ như ngọn lửa, tay cầm trường thương, cứ theo tiếng hò mà lao tới, thương trong tay hắn giơ nghiêng chĩa đầu nhọn ra, làm tốt chuẩn bị xung phong.
“Hạ quân còn dám đột kích nữa sao?”. Hoàng Phủ Hương Quân vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, đang muốn lệnh cho người công tiến nghênh địch, thì nhìn thấy hai bên cánh trái phải có vô số nhân mã cuồn cuộn tới, so với bảy tám lần địch tới cướp lương trước thì nhiều hơn mấy lần, liền biết được trận chiến này sẽ rất khó khăn, liền lập tức hạ lệnh: “Mau, dựa vào xe lương bố trí tam hoàn sáo nguyệt trận”.
Không kịp nữa rồi, tốc độ của Hạ quân quá nhanh, Tống quân dựa vào xe lương vừa hình thành được tam hoàn trận thì Hạ quân đã xông tới trước mặt. Tiểu Dã Khả Nhi ngồi trên chiến mã, thúc ngựa chạy nhanh như tiễn, cương đao trong tay giơ lên cao, máu tươi bắn ra trong tiếng gió lạnh rít gào. Phía bên kia, Dương Diên Phổ tay nắm chặt trường thương, trường thương chĩa ra, vó ngựa đạp đạp, giống như một trận gió cuộn tuyết tới, năm mươi trượng, bốn mươi trượng, ba mươi trượng...
“Phập phập phập...”. Tiếng cung huyền vang lên, loạt thương đầu tiên vừa bay tới thì Dương Diên Phổ liền rung trường thương lên, hộ giá trên và hộ giá dưới giơ đao đánh loạn tiễn, tốc độ một khắc không ngừng. Ở phía sau hắn, đám binh sĩ hoặc là dùng binh khí đỡ tên, hoặc lấy thuẫn ra chống chọi với trận mưa tiễn, cũng có một số binh sĩ trong đội xung phong xuống ngựa, nhưng hoàn toàn không có được tốc độ đồng đều như với cả đoàn quân, dưới trận mưa tiễn, họ như một cục đá ném xuống dòng nước chảy cuồn cuộn.
Ở bên cánh kia, nhân mã của Tiểu Dã Khả Nhi không giống nhân mã của Dương Diên Phổ đều có vũ khí đồng đều, thống nhất huấn luyện, mà lại rất đa dạng, mỗi người đều dùng vũ khí thế mạnh của mình, người giơ thuẫn, người giơ khiên, người thì dùng binh khí khua đánh, người thì lại gào thét không sợ chết xông lên, còn có người phản ứng cực nhanh, sớm đã lấy cũng ra phản kích.
Chủ tướng hai lộ đại quân xông lên phía trước, vô số võ sĩ anh dũng gào thét đi theo phía sau họ, trong cơn tuyết bay mù trời giống như có một luồng sát khí bay lên từ những thiên binh thiên tướng. Tiểu Dã Khả Nhi và Dương Diên Phổ phát huy hết năng lực cơ động của kỵ binh, nhanh chóng tập kết, đánh vòng, đột kích xuyên thẳng, chia nhau tác chiến. Đừng nói là Hoàng Phủ Hương Quân đau đầu vì chỉ huy trận này, mà cho dù Phan Mỹ có ở đây, thêm nữa là thể lực dồi dào thì với tình thế tấn công ác liệt như thế này cũng chỉ có thất bại, nhiều nhất cũng chỉ có thể làm cho đối phương phải bỏ ra chút hy sinh mà thôi.
Trên cả chặng đường này, Hạ quân giả cướp lương bảy tám lần, làm cho Tống quân người ngựa mệt mỏi mất hết tinh thần, bây giờ lại đột nhiên xuất hiện trong lúc Tống quân mệt mỏi nhất, làm cho Tống quân phải tan tác.
Từng tiểu đội mười người của Hạ quân giống như một trăm mũi tên sắc bén, bọn họ xông thẳng qua đội ngũ trường long của đoàn vận lương, hai bên cánh đồng thời xuất kích, giống như hai chiếc răng cưa sắc nhọn đang kẹp chặt lại vào nhau. Hàng phòng ngự của Tống quân hoàn toàn bị chặt đứt, cả đoàn lương bị chia thành những đoạn nhỏ.
Đợt xung phong thứ nhất như sóng thần dâng lên, thích sát làm cho Tống quân người ngựa ngã như ngả rạ. Tiếp theo đó, đợt sóng thứ hai lại trào lên, một nghìn quân Hạ Quốc xếp thành một hàng, hai bên có năm tung đội, sau năm lần hợp lại, Tống quân đã thành một đống thịt băm nhỏ.
Khi đợt kỵ binh xung phong cuối cùng trào lên thì đội xung phong đầu tiên đã trèo lại lên ngựa, bắt đầu cho lượt xung phong tiếp theo, trường thương đại kích, thiết xoa cương đao va đập vào nhau tóe cả chớp lửa ra, đội quân lộn xộn đã để lại vô số thi thể. Đối mặt với sự công kích căn bản không thể địch lại này, Tống quân đã vứt bỏ lương thực, bắt đầu tháo chạy tứ phía, cứ như thế này thì càng dễ dàng trở thành mục tiêu săn bắn của đối phương.
Hoàng Phủ Hương Quân tức giận và kinh hoàng xen lẫn nhau, hắn dũng mãnh khua trường thương lên, chém đông giết tây, nhưng trên trận địa này sức lực của một người quá nhỏ bé. Những đội xung phong mười người một của Hạ quân giống như những cơn sóng triều không bao giờ ngừng nghỉ, Hoàng Phủ Hương Quân chém giết ướt đẫm mô hôi, lại cảm thấy kẻ địch càng lúc càng đông.
Phong thái không dính một hạt bụi vốn có của hắn đã hoàn toàn biến mất, khi mồ hôi hắn chảy ướt nhòa đôi mắt, hai cánh tay đau nhức không nhấc nổi thương thì đột nhiên phát hiện cuộc chém giết đã dừng lại, xung quanh hắn là Hạ quân đang ngồi trên ngựa thành một vòng tròn, đôi mắt hung hãn nhìn chằm chằm vào hắn, một người trong số chúng đang dùng đôi mắt giễu cợt nhìn hắn, giơ nhẹ chiếc đao lên, bảy tám chiếc dây thừng cùng bay lên trời và chụp hướng xuống đầu hắn.
“Mẹ nó chứ, quyên góp nhiều lương thực thế. Ha ha ha, thật là nhiều mũi tên...”.
Tiểu Dã Khả Nhi kích động kiểm tra từng chiếc xe lớn một, thuận tay dùng đao chọc vào một bao lương, những hạt gạo trắng bóc chảy tuôn ra, hắn đưa tay hứng lấy một ít, dưới ánh mặt trời, những hạt gạo óng ánh như những hạt trân châu. Hắn lại đi tới một chiếc xe được trùm vải thật kỹ, mở ra thì thấy bên trong có rất nhiều lợi tiễn, lợi vũ trắng như tuyết, những bó tên nhọn hoắt sáng lóe, bên xe tiếp theo lại là đống y phục mùa đông...
“Có tiền này, mẹ nó chứ, còn có cả tiền này”. Tiễu Dã Khả Nhi nuốt nước miếng, lập tức ra lệnh: “Mau, mau, mỗi người đều cho những thứ này lên ngựa hết sức có thể. Có thể cầm được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu, chỗ còn lại đều đem đốt hết, mau lên một chút!”.
Tuyết lớn rơi ngập trời, cả không gian trở nên mờ mịt, tiếng gió tuyết gào thét thổi vào mặt đau như dao cắt, bộ tốt vận lương của Tống quân đối đầu với phong tuyết gian khổ mà bước đi, bọn họ biết lương thảo đã bị Hạ quân đánh cướp nhiều lần, bọn họ biết kẻ địch lớn nhất mà bây giờ những đồng đội vây thành Hạ Châu đang phải đối mặt không phải là quân đội trong thành Hạ Châu, cũng không phải quân các bộ lạc bên ngoài thành đang không ngừng tập kích quấy nhiễu mà là thời tiết lạnh giá khắc nghiệt và sự thiếu thốn về lương thực.
Từ khi rời Lân Phủ, vượt qua Hoành Sơn, cả đường bọn họ không ngừng bắt được những đội tiểu kỵ quân đến quấy nhiễu không phân ngày đêm, bọn họ biết được mình đã bị Hạ quân nhắm trúng. Họ biết khi bọn họ mệt mỏi mất hết tinh thần thì sẽ có một đội kỵ binh cường đại đột nhiên xuất hiện trước mặt họ, nhưng... Hạ Châu, bọn họ nhất định phải đi, bọn họ không còn sự lựa chọn nào khác.
Mặt đất khẽ rung, phía sau mơ hồ vang lên tiếng vó ngựa, tuy nơi này là đồng tuyết bằng phẳng, nhưng tuyết thổi mù mịt làm trở ngại tầm mắt, cách khoảng trăm mấy mươi mét là đã khó nhìn ra bóng hình người, bọn họ không có cách nào xác định được có bao nhiêu quân địch, chỉ có thể dựa vào độ rung của đất mà ước chừng đại khái.
Bọn họ đã rất cẩn thận rồi, cả đoạn đường cố gắng tận lực tiết kiệm thể lực, đoạn đường hành quân mỗi ngày cực kỳ hạn chế, trong lúc hành quân luôn duy trì trạng thái cảnh giới, bất kỳ lúc nào cũng chuẩn bị tiến vào trạng thái chiến đấu. Vừa nghe thấy âm thanh này, không cần đợi ra lệnh, bọn họ đã bắt đầu làm thành xe lũy, chuẩn bị dựa lũy chống cự. Binh chủng Tống quân luôn lấy bộ tốt làm chủ, trên thảo nguyên như thế này với một phe thế lực đồng đẳng, về mặt chiến thuật chiến pháp họ vốn đã chịu thiệt, hơn nữa nhiệm vụ mà bọn họ phải chấp hành là vận chuyển lương thảo, lương thảo chính là cánh cửa lồng lớn nhất của bọn họ. Kẻ địch có thể công có thể thủ, cũng có thể tiến, thoái, có thể đi bất cứ lúc nào, nhưng bọn họ không thể công cũng không thể đi, chỉ có thể thủ lương thảo mà đánh lại, chiến đấu với kiểu như thế này thì phần thắng của họ là rất ít.
Truy binh như dòng sắt nung đỏ chảy trào ra, đám kỵ binh lạnh lùng vô tình bao vây lấy những chiếc xe lương, tấn công, xung kích, bắn tên, rống như con hổ nhảy vào cắn xé đàn dê. Tấn Ninh lộ phó đô tổng quản Hoàng Đạo Lạc mắt thấy hậu trận có lượng lớn Hạ quân truy đuổi đến, liền trầm giọng nói: “Truyền lệnh, các bộ phòng ngự tại chỗ, không được dao động, tránh để cho địch nhân cơ hội phá vỡ hàng phòng ngự. Long Cản Tình, ngươi hãy dẫn bộ nhân mã của ngươi cứu viện hậu trận...”.
Hoàng Đạo Lạc chưa nói hết lời đã nghe thấy tiếng kèn thê lương vang lên một hồi. Từ trong màn tuyết trắng xóa phía trước đột nhiên lại có một đội nhân mã thích sát đến, đội nhân mã mờ ảo còn chưa xông đến trước mặt mà vô số lợi tiễn đã xé rách không trung bay tới, mang đi vô số sinh mạng. Tiếp theo đó, lại là từng đợt sóng Hạ binh ào ào lên. Chưa hết, hai bên cánh lại xuất hiện bóng hình địch, chúng xông lên rất nhanh, máu thịt lại tung bay.
Cánh đồng tuyết như thế này vốn là thiên hạ của kỵ binh, Tống binh lấy sở đoản của mình để nghênh sở trường của địch, lại còn có thêm lượng lớn lương thảo, kết cục của trận chiến này như thế nào còn suy nghĩ nhiều sao.
Tiếng ngựa hí người hô vang lên, lợi tiễn cùng đao tung hoành ngang dọc, không ngừng có người ngã xuống đất, nhưng cũng không có ai để ý tới điều đó, chỉ có xông, chém, chặt, va... Không còn theo một trận thế nào cả.
Binh Hạ Châu điên cuồng xông lên, nhanh chóng phá vỡ được những vòng xe lương tập kết dày đặc trước mặt. Ở chỗ cách người họ hơn mười bước liền vẽ một hình cung hướng về phía điểm yếu kết trận của địch. Trận thế kết thành nhanh chóng xuất kích, Tống quân mở trừng trừng mắt nhìn quân địch muốn lao vào điểm yếu nhất của mình như dùng dao nhọn chọc vào trận doanh, nhưng bọn họ căn bản không kịp qua tăng cường phòng ngự cho chỗ đó, mà cho dù có kịp thì bọn họ cũng không có cách nào qua, chỉ cần trận thế động một cái thì trận hình chặt chẽ cũng sẽ lập tức biến thành điểm tấn công.
Kỵ binh Hạ quân đến và đi nhanh như bay, mà chỉ cần dựa vào đôi chân, trong tình hình tiến thoái lưỡng nan như thế này, Tống quân chỉ có thể đứng nhìn quân địch dắt mũi mà đi.
Một chỗ bị phá thì tất cả mọi chỗ sẽ tan nát, Tống quân với trận hình rời rạc đã bị thiết kỵ Hạ quân nhanh chóng phân cắt, ép sát, xung sát, lại cắt đứt, ép sát... Biến tất cả thành đống hỗn độn người ngã ngựa chết. Hoành Đạo Lạc mắt thấy với sự tấn công cường đại như vũ bão của Hạ quân, các bộ tướng lĩnh bị chia cắt chỉ có thể độc lập tác chiến, tướng kỳ của mình cũng mất đi tác dụng, không khỏi mặt biến sắc vàng như đất, hắn biết bị tiêu diệt chỉ còn là vấn đề thời gian.
*
* *
“Đả pháp của chúng rất đơn giản nhưng lại rất hiệu quả!”. Dưới thành Hạ Châu, trong đại doanh trung quân, các tướng lĩnh chia nhau ngồi sang hai bên, ngồi trên cùng là Phan Mỹ và Vương Kế Ân với sắc mặt vô cùng lo lắng.
Phan Mỹ tiếp tục tổng kết nói: “Địa hình đồng tuyết bình nguyên vốn là điểm yếu của quân bộ tốt chúng ta, thêm nữa lại phải lo cho lương thảo và các khinh trọng cần thiết, chỉ có thể đánh bị động, còn Hạ quân lại quen thuộc địa hình, đi lại nhanh chóng, du kỵ của chúng không ngừng tiến hành chiến thuật tấn công trên thảo nguyên làm đội quân của chúng ta mệt mỏi. Đợi đến khi thời cơ chín muồi, sẽ nhanh chóng tập kết binh lực lớn, tốc độ tập kết của chúng vô cùng nhanh, trong cuộc tiến công gây rối không những làm cho quân ta mất hết sức lực và tinh thần, mà còn thăm dò được thực hư quân ta, khi tập kết luôn có thể duy trì được ưu thế binh lực. Cho nên, không đánh thì thôi, mà đánh thì tất thắng. Chúng ta không có cách nào ứng phó được với chiến thuật này của chúng”.
Vương Kế Ân cau mày, không vui nói: “Biết rõ âm mưu của chúng ở đâu mà lại không thể hóa giải được sao?”.
Phan Mỹ lạnh lùng nhìn hắn, nói: “Lâm quân đại nhân, cái gọi là biết mình biết ta trăm trận trăm thắng thực tế không thích hợp với cục diện bây giờ. Trên chiến trường, có đủ các loại tình thế có thể xảy ra, quả thật đều có pháp bảo khắc địch để thắng. Nhưng, có những lúc cho dù ngài biết rõ đối phương làm như thế nào, cũng chưa chắc có thể phá giải được sự sắp xếp của chúng, đặc biệt là với tình hình trước mắt”.
Vương Kế Ân trầm mặt xuống nói: “Khi binh xuất Hoành Sơn, truy kích Hạ quân, vấn đề này... Lẽ nào chư vị tướng quân không nghĩ tới sao?”.
Phan Mỹ đại nộ, hắn thở dài một hơi, cố ép cơn hỏa xuống, rồi nói: “Chúng ta chưa từng có kinh nghiệm tác chiến trên thảo nguyên vào mùa đông ở phương bắc, rất nhiều khó khăn không thể đưa ra hết được. Với môi trường này, tuy độ khó của việc vận lương có thể dự liệu được một chút, nhưng thực thế nó còn khó khăn hơn nhiều so với những gì chúng ta nghĩ. Đây không phải là vấn đề lớn nhất, vấn đề lớn nhất chính là bây giờ có thể xác định được: Hạ quân thực ra không có bại, là bọn họ chủ động vứt bỏ Hoành Sơn, dụ chúng ta đột kích tiến tới, từ đó làm cho việc bổ sung quân nhu trở thành khó khăn lớn nhất của chúng ta”.
Phan Mỹ trầm giọng nói: “Nếu như Hạ quân thật sự thảm bại ở Hoành Sơn, hoang mang tháo lui, vậy thì chúng ta khẩn trương truy kích, bao vây lấy Hạ Châu trước khi chúng ổn định chân, ngăn cách nội ngoại, hoàn toàn có thể bao vây đoàn loạn binh, cắt đứt đầu rắn, làm cho chúng không có cách nào tổ chức phản kích có hiệu quả, càng không thể để cho chúng hạ thủ với lương thảo của chúng ta như bây giờ. Chỉ cần quân nhu không thiếu thì chúng ta có thể bao vây vững Hạ Châu, cho dù mùa đông năm nay không thể công khắc thì cũng có thể thủ tiếp, dựa vào thực lực hùng hậu của Tống Quốc chúng ta, Hạ Châu sớm sẽ bị khống chế. Nhưng bây giờ, thực sự chúng ta đã bị vây ở đây, hơn nữa chúng ta cũng không có cách nào chống chọi qua mùa đông này”.
Hắn nhìn chúng tướng đang ngồi yên trầm mặc nói: “Kẻ địch lớn nhất của chúng ta không phải là Hạ quân mà là thiên uy và lương thực. Trời càng lúc càng lạnh, lại không có đủ áo ấm mang tới, những binh sĩ bị thương bị bệnh càng ngày càng nhiều, đại quân mười vạn của chúng ta chẳng có mấy người có thể dựa vào y phục bây giờ mà chống chọi qua được mùa đông giá rét này. Không có lương thực đưa tới, chúng ta đừng nói là đánh trận, cho dù chỉ cần thủ trong quân doanh cũng tuyệt đối không thể chống đỡ được qua ba ngày”.
Vương Kế Ân không phải là một chút quân sự cũng không hiểu, nghe Phan Mỹ nói rõ ràng như vậy, hắn cũng bắt đầu hoang mang, không nhịn được mà phải bỏ ngạo khí xuống, lo lắng hỏi: “Phan tướng quân, vậy... Vậy bây giờ chúng ta phải làm sao?”.
Ánh mắt Phan Mỹ nhìn lướt qua chúng tướng sĩ, trầm giọng nói: “Không còn cách nào nữa, để muốn thay đổi đại cục thì chúng ta chỉ còn cách thoái binh!”.
Vương Kế Ân đột nhiên đứng lên, không dám tin nói: “Thoái binh? Dương Hạo đang ở trong thành, hắn đã bị chúng ta vây chặt, bây giờ ngay cả một trận đánh tử tế chúng cũng chưa đánh với ta, vậy mà chúng ta lại chủ động thoái binh sao?”.
Mặt Phan Mỹ nhăn lại, lạnh lùng nói: “Lâm quân đại nhân vẫn chưa nhìn ra sao? Dương Hạo không phải là bị chúng ta vây, hắn chỉ là một con mồi nhử, nhử chúng ta tập kết ở thành Hạ Châu này mà thôi. Bây giờ thoái binh chúng ta còn có thể bảo toàn lực lượng, tiếp tục tính kế lâu dài, nếu như khi con mồi đưa móc săn sáng lóa lên thì chúng ta sẽ trở thành đống thịt dưới chân chúng, tùy ý cho người ta chém giết!”.
Vương Kế Ân nhìn chằm chằm vào Phan Mỹ rất lâu, mới nói: “Chưa có chiếu dụ, nếu như ta thoái binh, quan gia trách tội xuống thì ai sẽ gánh trách nhiệm đây?”. Phan Mỹ ưỡn ngực lên nói: “Bản soái là thống soái tam quân, việc này đương nhiên là do ta gánh trách nhiệm”.
Vương Kế Ân thầm thở phào, Phan Mỹ không bận tâm tới hắn, ánh mắt của hắn dần trở nên thâm sâu hơn, một hồi lâu mới lẩm bẩm tự nói: “Ta chỉ lo Dương Hạo không chịu để cho chúng ta lui thôi”.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 50: Khổ Nảo Của Thôi Đại Lang(1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 50: Khổ Não Của Thôi Đại Lang
Thành Lạc Dương trời đông giá rét, cho dù là chốn Tây Kinh phồn hoa của Đại Tống thì trong cái thời tiết lạnh giá này, đầu đường cuối phố vẫn hiện lên một cảnh tiêu điều.
Cho dù bên ngoài giọt nước đóng thành băng, nhưng trong hoa đình của Nhạc viên ngoại lại ấm áp như mùa xuân, hương thơm tỏa khắp nơi, tám chiếc chậu lửa bằng đồng trắng đốt lên loại than chất lượng tốt nhất, trong phòng hơi ấm trào lên. Nhạc viên ngoại tên là Nhạc Tận Hoa, hắn ta có một cửa hàng, một căn trạch viện cũng có thể được người ta cung kính gọi một tiếng viên ngoại, nhưng Nhạc viên ngoại lại là một viên ngoại chân chính, những hào thượng cực cổ ở thành Lạc Dương, ba con đường phồn hoa nhất ở thành Lạc Dương có hơn một nửa là của hắn.
Ở thành Lạc Dương chưa cần nói đến bách tính, thương cổ phú thân thấy hắn cũng phải cung kính, mà ngay cả chỗ tri phủ đại nhân, hắn cũng được coi như là một nhân vật đáng kể tới. Một nhân vật như hắn vốn nên là một đại nhân vật tung hoành ngang dọc, nhưng lúc này, ở trong nhà của mình, hắn lại đang cung kính đứng một góc hoa đình, cho dù trước mặt tri phủ đại nhân hắn cũng chẳng bao giờ ôn thuận hữu lễ, mà bây giờ lại đang cúi đầu nghe sự giáo huấn của cha hắn.
Nhưng người cha này của hắn xem ra còn nhỏ tuổi hơn hắn rất nhiều, cơ thể rắn chắc như hắc thiết, cường tráng chắc nịch, tuy mặc một bộ thường phục văn sĩ, nhưng lại không có chút khí khái nho nhã nào. Nếu như con ngươi hắn chớp động như điện một cái thì rất dễ làm cho người ta tưởng hắn là một tên mãng phu chỉ biết dùng đôi thiết quyền cự đại.
Tên mãng phu này đang nổi trận lôi đình, hắn ngồi ở hậu trái trong nhà Nhạc viên ngoại, đối tượng của trận đại lôi đình này cũng không phải là Nhạc viên ngoại, nhưng Nhạc viên ngoại lại như đang đứng trước đầu gió, thở cũng không dám thở mạnh.
Người nam nhân đang ngồi trên và bốc hỏa chính là Thôi Đại Lang, trước mặt hắn có ba nữ nhân đang đứng khom lưng, người trên cùng là một nữ nhân dáng thon nhỏ, mặc áo da cáo, bên ngoài khoác thêm một lớp áo bông mềm mại óng ánh, trên cổ còn quấn một chiếc khăn bằng đuôi hồ ly trắng muốt, dưới chân đi một đôi giày cao cổ, nhìn qua cũng đủ thấy đây là một người danh phận cao quý, xuất thân từ danh gia.
Nữ tử mặc áo bông này lông mày như viễn sơn, con ngươi như nước mùa thu, thanh tú vô cùng, lại mặc thêm y phục cao quý, thật như tiên nữ trên trời, chỉ có điều tiên nữ mặc áo bông này đứng trong hoa đình ấm áp như mùa xuân, thậm chí giống như đầu hạ đang ngầm toát mồ hôi, cho nên có chút cảm giác thảm hại. Nàng vừa bước vào hoa đình, còn chưa kịp cởi áo ngoài đã bị Thôi Đại Lang đang tức giận dọa cho đứng im lại, không dám động đậy, đứng lâu như thế đương nhiên là khó chống đỡ nổi với nhiệt độ trong hoa đình.
Đứng sau lưng nàng là hai thị nữ cài thoa, đều là những mỹ nhân mắt ngọc mày ngà, mặc những chiếc áo nhung khác nhau, làm cho các nàng càng thêm phần tươi đẹp, đúng là mỹ nhân động lòng người.
“Việc như thế này rồi sao lại còn giấu ta, sao lại có cái lý đó, lần này nếu như không phải ta đột nhiên dừng thu mua tơ lụa lá trà và đồ trang sức gốm sứ, thu thập lượng lớn lương thực, làm loạn bố trí của bọn họ mà vẫn không biết gì, việc này nàng khó mà gánh vác được trách nhiệm”.
Mỹ nhân đó vội vàng cúi đầu xuống nói: “Nô gia biết tội, động tĩnh bên Trịnh gia, nô gia luôn dò hỏi nhưng không thể biết được gì, mấy năm nay hai nhà đều cùng chung lợi ích, cho nên... Nô gia khó tránh sơ xuất, mong công tử xử phạt”.
Mỹ nhân đó nói rồi vén tà áo bông lên, quỳ xuống, hai tiểu tỳ xinh đẹp đằng sau thấy vậy cũng bối rối quỳ xuống.
Mỹ nhân đó tên là Thạch Ngữ Thực, vốn là nữ tử được gia tộc Thôi Thị đặc biệt chọn ra từ khi còn nhỏ. Hồi nhỏ cùng Thôi Đại Lang đọc sách, luyện võ, học kinh thương, sau khi lớn lên lại trở thành thị thiếp của hắn. Thôi Đại Lang có thể tiêu diêu tự tại, chu du thiên hạ, đối với một thế lực lớn như vậy mà chỉ đưa ra một số quyết định trọng đại, từ mặt phát triển của nó thì bên cạnh đương nhiên có những thành viên rất đắc lực, hiểu công việc, mấy người thị thiếp của hắn đều là những nhân vật rất quan trọng trong số những thành viên đắc lực này.
Thôi Đại Lang trầm mặt xuống xua tay nói: “Việc thu gom lương thực giao cho Lý gia đi làm, từ bây giờ trở đi nàng hãy nghiêm ngặt giám sát nhất cử nhất động của Trịnh gia cho ta, bất kể là việc điều động nhân sự hay là điều phát tiền bạc. Không phân lớn nhờ đều phải kịp thời bẩm báo với ta.
Thạch Ngữ Thực vội vàng đáp lời, Thôi Đại Lang trầm tư một hồi, lại nói: “Người mà Trịnh gia bây giờ phải đến chủ sự mọi việc ở Hà Tây là Hạ Hạ và Đường Nhiên đúng không?”.
Thôi Đại Lang mắt chớp động, từ từ lộ ra sát khí, cười lạnh nói: “Không theo quy củ không thể chu toàn được, xem ra, trước đây ta đã quá dung túng cho bọn chúng rồi...”.
Thạch Ngữ Thực liền nói: “Công tử muốn làm thế nào, xin cứ dặn dò, nô gia lập tức sẽ đi sắp xếp”.
Thôi Đại Lang liếc mắt nhìn nàng một cái, thở dài nói: “Thôi đi, việc này cứ để ta suy nghĩ cẩn thận đã. Nàng vừa mới về, đi đường mùa đông lạnh cũng không tiện, tạm thời lui xuống đi, thay áo tắm rửa rồi nghỉ ngơi một lát...”.
Thạch mỹ nhân nghe lời nói biết hắn đã bình tĩnh lại, có thể ở bên cạnh hắn, trong lòng không khỏi hoan hỉ, vội vàng đáp lời vui mừng liếc nhìn hắn, rồi khoan thai đứng dậy, cùng hai tiểu thị nữ lui xuống.
Khi quay người đi, khóe miệng Thạch Ngữ Thực hơi nhíu lên, cái vẻ vờ sợ hãi lúc nãy đã thay bằng nụ cười nhạt.
Nàng với lang quân lâu ngày mới trùng phùng, vừa gặp mặt lại bị hắn xả cho một trận, sao có thể không có chút tức giận? Nếu như công tử đã bảo nàng ở lại thì... Haha. Lúc này chịu ấm ức làm hạ nhân để giữ cho hắn thể diện nam nhi, đợi khi tối đến lên giường phải làm cho thấp giọng mà nhận tội, phản đòn một hồi mới cùng hắn ân ái.
Thạch Ngữ Thực từ nhỏ đã hầu hạ Thôi Đại Lang, cũng coi là thanh mai trúc mã, bây giờ lại là người chung gối với hắn, nếu như không phải thực sự chọc vào cục tức của hắn thì sẽ không thật sự sợ hắn. Nếu không những kẻ giả Khổng phu từ sao lại phải đau đầu nói rằng nữ nhân là động vật tình cảm “gần họ thì nhún nhường, xa họ mới dám giận” chứ? Vị đại học vấn gia hiển nhiên là có học vấn.
“Công tử...”.
Thạch mỹ nhân vừa đi, Nhạc viên ngoại liền bước lên, Thôi Đại Lang xua tay nói: “Ngươi cũng lui đi, ta muốn một mình yên tĩnh một lát”.
“Vâng!”. Ngạc viên ngoại như trút được gánh nặng, trước mặt một trưởng môn nhân thường không hay gặp, lòng hắn luôn có một áp lực nặng nề vô hình, đặc biệt là khi trưởng môn nhân đang tức giận, bất kể là Thôi đại công tử hay là vị Trịnh gia mà lúc nãy Thạch cô nương nhắc tới đều là những nhân vật đứng đầu trong “Kế Tự đường”, họ là những nhân vật chỉ cần động một ngón tay cũng đủ làm cho hắn tan thành mây khói, có thể trốn xa một chút là tốt nhất.
Thấy Nhạc viên ngoại như miếng băng mỏng mà lui ra ngoài, Thôi Đại Lang lại thở dài, có chút đau đầu mà ngồi xuống ghế. Dương Hạo đột nhiên xưng đế, lại còn bảo mật khá lâu, làm cho hắn đã bị động lại càng thêm bị động, có điều từ khi Dương Hạo nhất thống Hà Tây, hắn cũng đã có một sự linh cảm và sự chuẩn bị tâm lý, vì thế cũng không phải là quá gấp gáp bận rộn. Hà Tây nhất thống, đứng lên cao ngang bằng với Tống Liêu, vốn là cục diện mà lúc trước khi hắn cổ vũ Dương Hạo quay về Hà Tây đã rất khao khát. Hai năm nay, những gì mà hắn bỏ ra tuy vẫn chưa hoàn toàn thu lại, nhưng lợi ích mà Hà Tây thống nhất đem lại là cực đại. Đầu tư của hắn mang tính một lần, nhưng lợi ích nhận được lại cuồn cuộn không dứt, mối làm ăn này đương nhiên là giành được thành công lớn.
Thậm chí Dương Hạo còn có chút kiêng kỵ đối với thế lực tiềm ẩn khổng lồ của hắn. Có một số chuyện có thể giấu hắn thì phải giấu hắn, hắn không có để tâm. Hắn là người làm ăn, hoàn toàn không nghĩ đến việc nắm giữ quyền lực, cũng không có cái năng lực ấy. Có được tài lực không lồ chưa chắc đã có thể làm một người nhất thống thiên hạ, nếu không phải như vậy thì từ cổ chí kim cũng sẽ không có nhiều hào thân phú cổ có tầm nhìn xa trông rộng lại muốn nâng đỡ giúp cho những anh hùng hào kiệt có tiềm lực chưa chắc đã bằng họ tiến lên nắm quyền lực chính trị.
Đại Đường huy hoàng năm đó thịnh vương chưa tới ba đời, nói vong là vong.
Từ Chu Ôn diệt Đường, tự lập xưng đế, nào có một vị hào kiệt nào không phải là kiếm chỉ thiên hạ, hào môn thế gia sao có thể khống chế được? Nhưng những đế quốc to lớn đó, những tể tướng đế vương đó, người nào người nấy cũng giống như hoa quỳnh sớm nở tối tàn, huy hoàng rồi thảm hại, không hề có ngoại lệ. Giống như trong kịch kỹ, ngươi đăng đài ngươi hát, ngươi có bị thất sủng thì những người đánh trống kéo đàn ở hậu đài cũng sẽ không bị ảnh hưởng gì.
Thôi Đại Lang có lòng muốn làm một nhạc sư đánh trống ở hậu đài, tiện sóng đẩy anh hùng, hắn không muốn làm một con thuyền nhỏ tự gồng gánh để vượt qua sóng gió, chỉ muốn làm một con sóng đẩy thuyền đi mà thôi. Đây cũng là kinh nghiệm sinh tồn mà qua mấy trăm năm Kế Tự đường đã đúc kết ra.
Nhưng nếu như chiếc thuyền nhỏ này không nâng lên được, đến lúc thuyền đổ, một nhân vật quyền thế mới chưa chắc đã chịu chấp nhận cơn sóng như hắn, đến lúc đó thì phải làm sao? Đế vương tể tướng, bá nghiệp hoàng triều luôn luận phiên biến hóa, cũng giống như vậy, sẽ có một thế gia đại tộc mới tìm được cơ hội thích hợp nhất để từ thanh thế thế gia đại tộc tiền triều, trở thành thiên hạ đệ nhất hào cường thế gia, Kế Tự đường phải làm thế nào để duy trì bất bại?
Biện pháp mà Kế Tự đường nghĩ ra chính là phân chia cả thế lực to lớn này thành hai bộ phận: Tiềm tông và Hiển tông. Hiển tông phụ trách lựa thời cơ đi theo xu thế, cùng cường giả tranh giành thiên hạ, với công lao hiển hách để mưu cầu lợi ích. Tiềm tông lại là bộ phận hành quân lặng lẽ, khi Hiển tông duy trì hào kiệt một phương thì nó sẽ ở vào trạng thái hoàn toàn yên lặng, một khi Hiển tông đầu tư thất bại, cần phụ trợ cho một phe khác, hoặc sau khi thành công không thể thoái lui, chịu sự tẩy trừ, hoàng đế này muốn có một thế lực khác thay thế thế lực đã một tay đưa hắn lên vị trí cửu ngũ chí tôn như Kế Tự đường, thì Tiềm tông vẻ ngoài không có chút quan hệ nào với Kế Tự đường sẽ xuất hiện, Tiềm tông sẽ trở thành Hiển tông, Hiển tông lại trở thành Tiềm tông. Trong quá trình hoán đổi này, vẫn sẽ đảm bảo cho gia tộc tồn tại và thịnh vượng.
Thôi Đại Lang là trưởng môn nhân đời này của Kế Tự đường, là người đứng đầu Hiển tông. Khi hắn tiếp nhận quyền lực, Kế Tự đường đã trải qua bao nhiêu năm khổ tâm kinh doanh buôn bán ở Đường, Tống và những nơi biên cương để để lại thế lực này cho hắn. Loạn cục thiên hạ bước đầu đã định, các đại gia tộc Kế Tự đường đa phần đều đã nhắm được Tống Quốc, cho rằng nó có thể thống nhất thiên hạ, nhưng năm đời loạn thế, không biết có bao nhiêu vị hùng tài thế lược cuối cùng cũng chịu thất bại thảm hại. Chuyện đem tất cả trứng gà đặt vào trong một chiếc giỏ, Kế Tự đường sẽ tuyệt đối không làm.
Huống hồ Triệu gia lợi dụng binh quyền, đánh thẳng giành quyền lực từ hoàng đế tiền triều, Kế Tự đường lúc đó khi hậu Chu thế tông hùng tài đại lược Sài Vinh còn tại vị lại không hề coi một vị tướng quân trước điện luôn phải cúi đầu như Triệu Khuông Dận là một con tiềm long, cho nên chẳng giành được nhiều lợi ích từ đó. Đây cũng là lý do mà Đường gia sau đó đã chuyển cả gia tộc đến Biện Lương, vì ở đây có rất nhiều cơ hội kiếm tiền, Kế Tự đường sẽ không vội vã đem tất cả đầu tư vào một chỗ như vậy.
Lúc này, thương lộ tiềm lực mà Thôi Đại Lang đang giúp cho Dương Hạo ở Tây Vực chính là một thương lộ trọng yếu của Kế Tự đường. Nhưng Tây Bắc nhiều năm chiến loạn, cho dù từ thời tổ bối, Kế Tự đường đương gia nhân cũng không hề mưu đồ sẽ mở thông được thương lộ Tây Vực này, hơn nữa lại cùng với thương nhân Đại Thực Tháp Lợi Bốc bắc thượng tuyến, liên thủ tạo thành một thông đạo kinh thương bí mật, nhưng số tiền vốn này quả thật quá cao.
Thêm nữa cục diện ở Tây Vực hoàn toàn khác với Trung Nguyên, Kế Tự đường đã dùng một số tiền lớn để mua chuộc thế lực của một địa phương, vừa thấy được hiệu quả thế lực này lại bị kẻ khác thay thế, bọn họ lại phải làm lại từ đầu. Hơn nữa, những chính quyền dân tộc thiểu số này phá giỏi còn hơn là xây dựng, cho dù họ đã bỏ ra những khoản tiền không nhỏ để tạo quan hệ với bọn họ thì cũng rất khó giành được nhiều lợi ích từ trong chính quyền địa phương này.
Ban đầu, Thôi Đại Lang giúp đỡ Dương Hạo chỉ là hy vọng có thể thông qua hắn thay đổi một chút cục diện của Kế Tự đường ở Tây Bắc. Nhưng theo như những tin tình báo có liên quan đến tiềm lực của Dương Hạo ngày càng xuất hiện nhiều và những gì hắn hiểu về con người Dương Hạo, hắn dần đần đã phát hiện ra, Dương Hạo con người này, thế lực của hắn còn có tiềm lực lớn có thể đào, cho nên hắn đầu tư ngày càng nhiều, đi theo sự quật khởi của Dương Hạo. Bọn họ cuối cùng cũng phát hiện ra, con người này hoàn toàn có năng lực nhất thống Tây Vực, giải quyết triệt để vấn đề nan giải mấy trăm năm nay của Kế Tự đường là đả thông thương lộ Tây Vực.
Dương Hạo nhất thống Tây Vực đã có thể bảo chứng rằng con đường hoàng hóa đông tây thông suốt, con đường tơ lụa, gốm sứ, lá trà đông phương, bảo ngọc, hương liệu, lưu ly tây phương... Mỗi chuyến qua lại đều vàng.
Nếu như hành lang Hà Tây không thống nhất, căn bản không thể tưởng tượng được có thể yên bình vận chuyển được lượng lớn dễ vỡ, dễ cứu như thế qua lại.
Địa khu Hà Tây rất dồi dào những mỏ muối, mỏ sắc, mỏ lưu huỳnh, rồi bò dê ngựa, các loại được phẩm, thậm chí là mỏ vàng, mỏ đá quý trên A Ni Thái Sơn hay mỏ ngọc trên núi Côn Luân... Nếu như không có một chính quyền nhất thống thì thương nhân nếu có muốn khai thác, chế biến, vận chuyển, buôn bán cũng không thể làm được. Cho nên trải qua sự phân tích cẩn trọng, Kế Tự đường đã bắt đầu không tiếc sức lực phụ giúp cho Dương Hạo.
Nhưng không ngờ khi những đầu tư cực đại của Kế Tự đường bắt đầu sản sinh ra hiệu quả thì cũng đúng vào thời khắc mấu chốt của sự tranh đoạt chính quyền giữa Dương Hạo và Tống quốc. Một khi Dương Hạo thất bại, tất cả các thế lực Hà Tây dưới trướng của hắn rất có thể sẽ lập tức tan rã, sụp đổ, bắt đầu trở lại cục diện hỗn loạn ngày trước. Lúc này Kế Tự đường đã không thể quay đầu lại, tất phải toàn lực giúp đỡ. Bất kể Dương Hạo xưng đế xưng vương hay xưng đại nguyên soái Lũng Hữu Hà Tây gì đó thì tóm lại vẫn hết sức duy trì thời khắc mấu chốt của việc nhất thống chính quyền địa phương Hà Tây, nhưng lúc này nội bộ Kế Tự đường lại xảy ra chuyện.
Mấy mươi năm trước, Lô gia có ý đồ nhất cử giết chết các thế lực khác để giành lấy quyền lực cao nhất của Kế Tự đường, mấy năm trước Đường gia không chịu phục sự bố trí thống nhất của Kế Tự đường, ngang nhiên chuyển đến Biện Lương, mà bây giờ thủ lĩnh Tiềm tông Trịnh gia cũng không cam chịu yên lặng, muốn nhảy ra hô sóng gọi gió.
Trịnh gia âm thầm điều động các nguồn tài nguyên để bắt đầu tạo điều kiện cho Triệu Quang Mỹ kinh doanh ở Quan Trung, vì Trịnh gia cũng là một phái Tiềm tông, bình thường vốn chỉ quản việc buôn bán kinh doanh bình thường, Hiển tông không có lý do gì can thiệp và giám sát, lại hoàn toàn không phát giác ra, nếu như không phải Thôi Đại Lang vì việc đột ngột xưng đế của Dương Hạo mà bị ép phải thay đổi kế hoạch thu mua vốn có, thay vào phải động dụng đến đồ dự trữ của Tiềm tông, thì hắn vẫn sẽ không biết được hành vi của Trịnh gia.
“Mẹ nó chứ”. Nghĩ đến đây, Thôi Đại Lang không nhịn được mà chửi một câu, Trịnh gia thật là muốn mở một trời khác, lại dám nâng đỡ cho Triệu Quang Mỹ.
Triệu Quang Mỹ? Thôi Đại Lang nhìn trái nhìn phải, nhìn trên nhìn dưới, nhìn thế nào cũng không nhìn ra Triệu Quang Mỹ có cơ hội và điều kiện gì để thay thể được Triệu Quang Nghĩa, cái lão đần Trịnh gia đúng là bị lừa đạp lên đầu rồi.
Không sai, lúc trước khi ta nâng đỡ cho Dương Hạo, hắn vẫn chỉ là một viện trưởng hỏa tình viện ở Đông Kinh Biện Lương, Triệu Quang Mỹ bây giờ là một vương gia, điểm bắt đầu cao hơn Dương Hạo nhiều. Dân gian truyền qua lại với nhau rằng thiên hạ Triệu thị sẽ là huynh truyền đệ nối, Triệu đại truyền hoàng vị của mình cho Triệu nhị, Triệu nhị tương lai sẽ truyền cho Triệu tam, nhưng Triệu Quang Nghĩa giống một kẻ chịu buông tay sao? Hắn đã lập thái tử rồi.
Còn Dương Hạo lúc đầu tuy chỉ là một viện trưởng hỏa tình viện, nhưng dân chúng Lô Châu là do hắn mang từ Hán quốc tới, bọn họ công nhận Dương Hạo, không công nhận triều đình Đại Tống, Dương Hạo còn có sự thần phục bí mật của Đảng Hạng thất thị, có Triệu Quang Sầm người kế thừa pháp định Định Nan tiết độ sứ làm nghĩa phụ. Triệu Quang Mỹ thì có gì chứ?
Học đòi bắt chước!
Đây là kết luận Thôi Đại Lang đưa ra.
Vừa rồi quá tức giận, Thôi Đại Lang thật sự muốn dùng tới thủ đoạn nghiêm khắc nhất để trừng phạt Trịnh gia, nhưng lúc này bình tĩnh lại mới cảm thấy chuyện này không phải là đơn giản. Đầu tiên, cho dù hắn là đương gia nhân của Kế Tự đường, nhưng đối với một đại thế gia trong Kế Tự đường, một phương thế lực đủ để người khác coi nể, đồng thời cũng là thủ lĩnh Tiềm tông có thể phân đình kháng lễ với hắn thì hắn không thể khinh xuất động vào. Nếu như hắn thật sự có quyền lực lớn như vậy, lúc đầu cũng sẽ không bất đắc dĩ chấp nhận sự thật Đường gia chuyển đến Biện Lương.
Thứ hai, cử động của Trịnh gia cũng không coi là lớn lắm, đầu tư cho Triệu Quang Mỹ cũng có giới hạn, Tiềm tông vốn có quyền ủng hộ cho người mà bọn họ cho rằng có tiềm lực, cho dù hai thế lực đang đánh nhau như lửa với nước. Hiển tông đang dốc toàn lực ủng hộ cho một phe trong đó, Tiềm tông nếu cho rằng cần thiết thì cũng có thể tiếp xúc với bên còn lại. Tóm lại không thể đợi đến khi Hiển tông thất bại thoái lui thì Tiềm tông mới chạy ra vội vã ôm chân Phật, cho nên... Hành động của Trịnh gia ở Kế Tự đường cũng không bị coi là hành vi sai trái.
Quả cầu ở gần này phải đánh thế nào đây?
Ngồi yên bỏ mặc sao?
Không được, từ sau khi Đường gia lui từ Tây Bắc về, nguồn tài nguyên của Kế Tự đường ở Tây Bắc có hạn, nguồn tài nguyên có hạn này phải dùng toàn bộ cho Dương Hạo. Mười vạn nghĩa quân của Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu ở Thục Địa cần phải tương trợ, chiến sự như nước như lửa ở Hà Tây càng đốt tiền hơn, Diệp Chi Tuyền lại đang thiết lập mở rộng đường dây liên lạc ở Ba Thục Lũng Hữu Hà Tây, rồi cho người đi chiêu binh mãi mã khắp nơi, nào có chỗ nào không cần dùng đến tiền chứ. Không thể tiếp tục để cho cái lão Trịnh của Tiềm tông này tiếp tục đem tài nguyên có hạn đi lãng phí cho cái tên vô dụng Triệu Quang Mỹ đó được.
Thôi Đại Lang cắn răng cười lạnh: Tây Bắc, kế dụ địch xâm nhập, cắt đường lương của địch đã bắt đầu thấy chuyển biến, Phan Mỹ tiến thoái lường nan. Xem ra Dương Hạo có thể thủ vững được rồi, Trịnh lão đầu này ta không động không được, vậy dùng cách rút củi dưới đáy nồi vậy. Tuyệt đối không thể để cho Trịnh gia phá hoại đại sự của ta!
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 51:Phan Dương Hội
Nguồn: Sưu tầm
Chương 51: Phan Dương Hội
Buồng sưởi của Dương Hạo ấm áp vô cùng, Dương Hạo và mấy vị quan viên quan trọng ngồi quanh chậu than và đang trò chuyện vui vẻ. Mấy ngày nay Dương Hạo cảm thấy không thoải mái, ngày nào cũng lo lắng xử lý các chuyện quan trọng, người gầy đi rất nhiều, nhưng càng có thêm tinh thần khí chất.
Sắc mặt của mấy vị quan viên quan trọng cũng trở nên phấn chấn, dụ địch xâm nhập, rồi cắt con đường lương thực của chúng đã bước đầu thấy sự hiệu quả, sự phát triển diễn biến nằm trong tầm kiểm soát, mọi người cảm thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều.
Đám người Xung Phóng, Tiêu Nghiễm, Từ Huyễn đã đi Hưng Châu, Tiêu Nghiễm và Từ Huyễn giỏi về lãnh binh song không giỏi về khai thác, ở lại Hạ Châu không có tác dụng mấy, hơn nữa họ là quan văn, tuổi tác cũng đã cao, ngộ nhỡ khi cần vứt bỏ Hạ Châu, họ cũng không chịu nổi sức ép cho nên sớm đã được đưa đi Hưng Châu, ở đó họ có thể phát huy được sở trường của mình.
Còn về Xung Phóng, bên Hưng Châu tuy là địch hậu nhưng các bộ tộc khó giữ nổi dị tâm người, hơn nữa các hào thân di chuyển từ Hạ Châu đến Hưng Châu không thể thiếu người chủ trì đại cục là người văn võ song toàn. Cho nên hắn cũng đi Hưng Châu, có Trương Phổ tọa trấn Túc Châu, Xung Phóng tọa trấn Hưng Châu, hành lang Hà Tây có thể bảo vệ được, bên cạnh Dương Hạo chỉ có vài cận thần Đinh Thừa Tông, Thác Bạt Hạo, Hiếu Phong, Trương Sùng Nguy.
Đinh Thừa Tông mỉm cười nói: “Dương Diên Phổ, Dương Diên Lãng, Tiểu Dã Khả Nhi và các tướng lĩnh mỗi khi xuất binh tập kích đội quân lương Tống đều có thu hoạch, có thể yên tâm chống đỡ được chỗ lương thực ngày một giảm dưới thành Hạ Châu rồi, cái gì gọi là dĩ chiến dưỡng chiến chứ? Đây mới gọi là dĩ chiến dưỡng chiến này, dựa vào những cuộc chiến giữa bộ lạc thảo nguyên, đánh thắng trận, có thêm chút trâu bò, cung cấp thêm cho quân nhu, ha ha, Tiểu Dã Khả Nhi bọn họ nếm ngọt rồi, số lần xuất binh cướp sạch càng ngày càng nhiều, tuy cũng có khi thất thủ, nhưng quân Tống không dám đuổi theo, mà có muốn đuổi cũng không đuổi kịp được, như thế nên muốn đánh thì đánh, muốn đi thì đi, quân Tống tức nghẹn.
Từ Hoành Sơn tới đây, với khoảng cách được coi là khá dài, hơn nữa vào mùa đông có tuyết lạnh, binh tốt tiến vào càng thêm khó khăn, binh lực Phan Mỹ không đủ sức vận chuyển lương thảo, và không có cách nào nắm được toàn bộ cánh đồng tuyết trong tay, kỵ binh của chúng ta đi lại tự nhiên, nếu như đập tan vi mục, nếu Phan Mỹ không thể tăng binh, không thể giải quyết được chuyện lương thực nan giải”.
“Hắn chẳng có cách nào mà tăng được binh cả”.
Dương Hạo cười tủm tỉm: “Đối với Tống Quốc, cái thực sự phải kiêng kỵ không phải chúng ta mà là Liêu Quốc. Có quái vật lớn Bắc Triều giương giương mắt hổ ở đằng kia, Tống Quốc tuyệt đối sẽ không có biện pháp dự phòng, dùng toàn lực để thảo phạt Tây Bắc. Hơn nữa, hắn thêm binh càng nhiều, áp lực về đồ quân nhu tiếp viện càng lớn, Triệu Quang Nghĩa chắc chắn không muốn tiêu hao tất cả tiền tài tích lũy trong mười năm ở Tây Bắc. Giờ quân Liêu bỗng nhiên tăng binh Đại Đồng phủ, bên Nhạn Môn quan thực là cấp tốc, Tiểu Phan Phan hiện giờ có thể đã tiến thoái lưỡng nan rồi”.
Mọi người nghe những lời hắn nói biết đó là Phan Mỹ, không khỏi cười vang lên. Cái tên này một khi truyền ra Trung Nguyên, khiến cho râu Phan Mỹ dựng ngược lên, mặt thì đỏ tía.
Lúc này có người lại khẽ tiến vào đại sảnh, nói thủ thỉ với Đinh Thừa Tông gì đó, mặt Đinh Thừa Tông chợt biến sắc, Dương Hạo nhìn thấy hỏi: “Xảy ra chuyện gì ah?”. Đinh Thừa Tông đắn đo suy nghĩ nói: “Quân Tống bắt đầu rút binh rồi”.
Dương Hạo ngẩn người, thất thanh nói: “Nhanh vậy sao? Biện Lương một đường, một đi một phản, có lẽ là không thể nhanh vậy chứ”.
Đinh Thừa Tông nói: “Hiển nhiên vậy rồi, lui quân cũng không phải là ý chỉ của Triệu Quang Nghĩa, mà là... Chủ trương của chính Phan Mỹ”.
Ánh mắt Dương Hạo trở nên có chút kỳ quái, sau một lúc lâu, hắn mới khẽ thở dài, tỏ vẻ khen ngợi nói: “Phan Mỹ, không hổ thẹn là một danh tướng”.
Đinh Thừa Tông mau chóng nói: “Thánh thượng, Dương tướng quân vốn dĩ muốn đợi hắn lương thảo đã cạn kiệt, khi không thể không lui mới dùng toàn lực tấn công, chém giết cho quân hắn tan rã thì thôi. Giờ quân của Phan Mỹ lương thực còn dư, lòng quân chưa sợ, nếu như ung dung lui quân, sau đó đưa binh mã ra tiếp ứng thì chỉ sợ không dễ đắc thủ. Cuối cùng mượn cớ cắt đứt lương thảo dễ dàng, nếu như hắn lui toàn quân lại, muốn truy kích cũng tốt, ngăn kia mà thôi, đó chính là đối chiến thực đánh thực, bằng binh lực trong tay của Dương tướng quân, thêm nữa bản lĩnh dụng binh của Phan Mỹ, chúng ta vị tất chiếm được phần trội”.
“Nếu như thêm binh lực Hạ Châu ta thì sao đây?”. Ngẫm nghĩ một lúc lâu, Dương Hạo từ từ ngẩng đầu lên, ánh mắt sắc lửa mãnh liệt.
Đinh Thừa Tông giật mình cả kinh, phản đối nói: “Thủ quân Hạ Châu không thể động được, Hạ Châu là đô thành của nước ta, thánh thượng cũng ở đây, há có thể...”.
Dương Hạo không nói lời nào, đứng dậy đi về phía sa bàn, quần thần hiểu ý, lập tức đứng dậy chạy tới, Đinh Thừa Tông cũng đẩy bánh xe đi đến bên cạnh hắn, Dương Hạo đợi mọi người đi đến bên cạnh rồi, đưa tay chỉ vào thành Hạ Châu trên bản đồ, từ từ di chuyển ngón tay về phía đông, rồi dừng lại nói: “Gọi Dương Kế Nghiệp xuất kích toàn binh lực, Hạ Châu ta án binh bất động, đợi sau khi quân Tống lui quân được hai ngày lộ trình, dốc binh lực Hạ Châu ta hợp lực với Dương tướng quân, dựa vào ưu thế về binh lực, chặn quân địch lại. Nên nhớ rằng, điều ta nói là sau khi quân Tống lui quân được hai ngày”.
Đinh Thừa Tông lập tức phản ứng, hét lên: “A, ta hiểu rồi, a ha”.
Dương Hạo khẽ cười nói: “Có cái gì gọi là hiểm chứ, trẫm bỏ qua chính là ức hiếp người mà, Tiểu Phan Phan lần này càng phải buồn bực rồi”.
*
* *
“U uuuuuu”. Kèn kêu lên, tiếng kèn mỗi lúc một to, phía cuối cánh đồng trắng như tuyết, vô số những đốm nhỏ màu đen tập trung từ tứ phía đi đến, dần dần tụ tập lại một đường sau đó nó như một cỗ máy tức giận, hằm hằm hung hăng lao nhanh đến. Trên bầu trời, tiếng chim diều hâu kêu gào, liệng đôi cánh bay về phía quân Tống, khó khăn lắm mới bay được qua đại kỳ, đôi cánh sải rộng vung lên, rồi lại xông về hướng ban đêm. Phan Mỹ ghìm cương ngựa, trỏ tay hét lớn: “Tả hữu bày số trận, trận này nghênh địch”.
Cờ trống hiệu lệnh dồn dập, tam quân hành động ngay lập tức, huấn luyện nghiêm chỉnh của chủ lực quân đoàn, không có sự chăm sóc của đoàn xe lương thảo và đồ quân nhu, bày trận với tốc độ chóng mặt, thiết kỵ kia chưa xông tới cận tiền, trường thương đã chiếm đến, phía sau các tay cung đã chuẩn bị sẵn sàng, mũi tên chĩa lên không trung, chỉ đợi tướng hạ lệnh. Phan Mỹ giơ đao trong tay lên, lạnh lùng chĩa thẳng về phía quân Hạ, hai đầu lông mày nhướn lên đầy lửa giận.
Phan Mỹ vẫn kiên quyết lui binh, quân uy của hắn rất cao, các tướng lĩnh đều phải theo phán đoán của hắn, Vương Kế Ân tuy không bỏ được kiếm củi ba năm thiêu một giờ, nhưng cũng lo lắng về cách liệu định của Phan Mỹ, toàn quân phải ở đây, đến khi mình không chạy được nữa, thì Phan Mỹ phải một lực gánh chịu, hắn không thể kiên trì, song hắn từ đầu đến cuối chưa hề nói ra câu đồng ý nào.
Đích thân Phan Mỹ áp trận, tối hậu phương của đội ngũ hiển nhiên, từ xa nhân mã như sóng cả, tiếng bước chân rầm rập, hắn không hề sợ chút nào, ngược lại lửa hận tràn đầy. Hắn đích thân áp trận, tam quân yên ắng không một tiếng động, chỉ nhanh chóng bày bố thế trận theo như tướng lĩnh chỉ huy. Tiền phương, một đội kỵ binh mấy nghìn người gào thét mà đến, rõ ràng thấy có vô số cung nỏ, thương kích song vẫn không hề sợ hãi, thực ra thế trận xung phong này bọn họ cũng không đứng vững chân, ai muốn dừng, trước tiên sẽ bị chính quân mình đạp cho đổ máu về phía trước, tử trung cứu sinh.
Gần, càng gần hơn, độ ngũ tiên phong hơn ngàn người hình thành thế trận hình mũi tên, đầu nhọn thẳng tiến đến Phan Mỹ liều chết đánh tới.
Phan Mỹ cười nhạt, ba trăm bước, hai trăm bước, một trăm bước, mắt thấy quân địch lập tức thấy quân địch muốn đi vào trận mưa tên, Phan Mỹ hét lớn: “Bắn tên”.
Vút... Một tiếng, tiếng rít ghê người, vốn dĩ đó là tiếng xé gió, nhưng vì trăm ngàn mũi tên vút lên không trung nên hình thành loại âm thanh vù vù chấn động, dường như một đoàn mây đen mũi nhọn lao tới từ trên không, tên nhanh thêm nữa mã cũng nhanh, song phương vừa có thể tận dụng được thế mạnh của mũi tên bắn về phía trọng quân địch từ phía xa.
Không ngờ, dường như đồng thời hạ lệnh cùng Phan Mỹ, quân Hạ Châu chạy như điên bỗng dưng đồng loạt chuyển hướng, hậu trận sắp xếp của Phan Mỹ chính là Yển Nguyệt trận, hình bán nguyệt, chúng khó khăn lắm mới sắp xếp lõm một bên mặt trăng, rồi đánh tới. Bọn họ là kỵ binh, chẳng lẽ lại không phát huy sở trường của mình.
Nhưng Phan Mỹ sớm đã phòng được chiến thuật lợi dụng ngựa dương đông kích tây, hai cánh tả hữu của quân Tống là số trận, trận hình dày đặc có thể công và có thể thủ, dòng lũ thiết kỵ nhằm phía cánh tả, lao đến chính là mũi tên và thương kích dày đặc, nhanh như tên bắn, mỗi người đều cầm lấy tấm khiên che chắn, trận mưa tiễn thứ nhất làm ngã không biết bao nhiêu là nhân mã, nhưng vì họ đến từ phía sau hậu trận địch, không phải là chính diện xông đến cho nên gần quân Tống, ở trong trường hợp bình thường thì đánh giáp lá cà ít nhất cũng có thể tung ra ba phát tên, nhưng giờ đã giảm thiểu đi một phát, khiến cho con số thương vong của quân Tống giảm đi thấp nhất.
Mấy ngàn kỵ binh tiền phương vốn dĩ là ngụy trang dẫn địch đến, sau khi chúng xông qua, kỵ binh theo sát phía sau nhanh chóng thúc ngựa, đoàn binh giao tiếp với quân Tống, vẫn là xông về phía trước không ngừng, đao trong tay chỉ dựa vào một chữ quyết của khoái mã, thì có thể chặn được rất nhiều cổ họng của các tướng sĩ. Quân Tống không cam lòng yếu thế, trường thương đoản kích đâm ra liên tục, một khi có quân Hạ trúng đạn ngã ngựa, huynh đệ ngăn cản một trận, làm quỷ đao.
Đánh nhau mà không có người chết là điều không thể xảy ra, nhưng sát cánh loại này tránh được va chạm chính diện, song thương vong là thấp nhất, sau khi đội binh mã hơn vạn người xông đến, xông đến mạnh nhất, đội hình dày đặc của quân Tống đã bị loạn, đại quân như dòng nước lũ phía sau nhanh chóng xông thẳng vào doanh trại quân địch, cương đao chém giết.
Đại kỳ của quân Tống lại biến đổi, đại quân lập tức từ sổ trận chuyển sang sơ trận, đội quân dày đặc lập tức trống ở giữa, toàn bộ đại quân dày đặc sơ tán lại thành những tiểu trận khoảng mười người, tay thuẫn, tay đoản đao, tay trường đao cùng nhau phối hợp, giết chết kỵ sĩ Hạ quân.
Trong tình cảnh này đã thâm nhập vào, quân Hạ địch đội mất đi ưu thế tốc độ, ngược lại sẽ biến thành đối tượng bộ tốt tùy giết. Chỉ cần vận dụng thỏa đáng, binh chủng chưa toàn thắng bất bại, bất kỳ binh chủng nào đều có thể phát huy ưu thế của mình, trọng thương cường địch.
Hạ quân đương nhiên là cũng giỏi không kém, tiếng kèn ba dài ba ngắn vang lên, kỵ binh vừa nãy thâm nhập vào trận doanh quân Tống chưa sâu lắm bỗng nhiên thúc ngựa lui về phía sau, sát nhập vào dòng lũ dày đặc, Hạ quân kéo dài không ngừng bắt đầu dùng đại phủ trường đao như dóc thịt quân địch tới chết.
Tống quân ngay lập tức đổi trận thế, trường binh khí đâm nhân thân, đoản binh khí thì chém đùi ngựa, phần còn lại của song phương nhuốm máu đỏ be bét.
Đây là chủ lực của Dương Kế Nghiệp và chủ lực của Phan Mỹ lần thứ nhất chính thức giao chiến, không màng tới kỹ xảo, thái độ, ý thức, trang bị và tố chất thuộc hạ binh tướng của ai mạnh hơn ai, không một ai đánh bừa cả, trừ phi ngươi số lần vu địch, miễn sao bên ta không thương vong, bên dưới đại kỳ chữ Dương và bên dưới đại kỳ chữ Phan là hai danh tướng thủ công tuyệt đỉnh, lần này khó khăn lắm mới đánh bại được một người, giỏi thủ thì đang công, mà giỏi công thì đang thủ, dường như bản lĩnh của bọn họ công hay thủ đều không tồi, thực không hổ danh là danh tướng.
Danh tướng chính là như vậy, công thủ đều phải giỏi, có thể công và cũng có thể thủ, Dương Kế Nghiệp giỏi thủ đã nổi tiếng hậu thế, song là vì hắn trước đây quân vương quốc lực quá yếu, chẳng có cơ hội nào cho hắn công. Còn Phan Mỹ thì giỏi công lừng danh thiên hạ, không phải là hắn không giỏi thủ mà trước đây đối thủ mà hắn gặp khá yếu, thêm nữa thực lực trận doanh của hắn luôn mạnh, nên ít khi phải thủ.
Trận đại chiến này, chém giết nửa ngày, cho đến khi gió nổi lên và tuyết bay loạn thì mới dừng lại, song phương với những xác chết nằm ngổn ngang, vô số không sao kể xiết, Dương Kế Nghiệp ra lệnh một tiếng, đại quân mau chóng tản ra, Phan Mỹ nhanh chóng dốc toàn quân đông hướng.
Không đề cập tới tác dụng của chiến mã trong trận đấu, cho như nó chỉ có thể có tác dụng là thay thế đi bộ, ở dưới cánh đồng tuyết, một phương chỉ có thể dùng hai chân chạy trên đường, vừa có thể tích tụ thế lực, cho đến khi nghênh chiến bùng nổ, thực chênh lệnh rất nhiều. Lương thảo của quân Tống đã gần cạn, quân mặc không đủ ấm, nếu như không nhanh chóng lên đường trở về phía đông nơi Hoành Sơn, thì cơn gió tuyết của phương Bắc lạnh thấu xương có thể khiến chiến lực của chúng tiêu hao đi cạn kiệt, mười vạn đại quân, sẽ bị hủy trong giây lát, cho nên biết được quyết sinh tử với đối phương là sẽ bị tiêu hao thể lực, hắn cũng không thể không chạy đi.
Có khi, dù ngươi đã biết rõ rằng đối phương làm thế nào, mục đích gì, ngươi cũng không có cách nào mà hóa giải, xích sắt vượt đại giang, đây chính là uy lực dương mưu. Âm mưu tự có tác dụng của âm mưu, khi dùng tốt sẽ có tác dụng thắng được mười vạn đại quân, hai hàng mật nổi thiên hạ, một đêm âm mưu đạt chí tôn.
Nhưng âm mưu cao minh đều có cái tráo môn, tráo môn này chính là chữ Âm, âm mưu là cái không thể để cho người ta nhìn thấy được, nếu không ngươi mắc bẫy thực không đáng. Dương Hạo chuẩn bị dùng để đối đầu với hai đại chính trị lãnh tụ Triệu Quang Nghĩa và Tiêu Xước chính là âm mưu, cho nên hắn dễ dàng không dám kỳ nhân, để đảm bảo an toàn tuyệt đối, đến người thân cận với hắn nhất cũng không biết được dự định của hắn, vì nó một khi tiết lộ ra sẽ không đáng một xu.
Tây dương mưu thì hoàn toàn không giống, nó là mượn thế mà động, phát triển khuấy động tất cả mới đạt được mục đích của mình. Nó đem tất cả đều đặt trước mặt ngươi, không chút nào giấu kín, bản thân không có nhiều kế hoạch phức tạp, nhưng trận pháp của nó là không thể nghịch chuyển, ngươi biết rõ rằng là kế song vẫn phải buộc lòng đâm vào.
Chính như thời điểm Phan Dương đại trận giao chiến này, truy quân kế của Hạ Xuyên đã dốc toàn bộ lực lượng, Hạ Châu giờ đã thành một tòa thành trống, chỉ còn thừa lại một mình hoàng đế Dương Hạo đang ngồi thủ thành, chỉ cần phái năm nghìn binh ra thì có thể dễ dàng cướp lấy thành, bắt giữ Dương Hạo, song Phan Mỹ dẫn mười vạn đại quân hai ngày trước không tấn công nổi Hạ Châu, giờ năm nghìn binh thì có thể dễ dàng đoạt được Hạ Châu, nhưng hắn biết rằng vô kế khả thi, chỗ binh lực này của hắn vừa động, thám báo của Dương Hạo có thể nắm được, phái người trở về chính là đưa dê vào miệng cọp. Toàn quân trở về xin ý kiến của Dương Hạo, tiêu hao hết toàn bộ lương thảo trở về Lân Phủ, với lộ trình bộ niên hai ngày, trở về chơi với tính mạng, làm sao có thể nhanh hơn kỵ binh của Dương Hạo được?
Ngươi dù có biết thì cũng chẳng thể giải được, chẳng có sơ hở mà tìm ra, thực là kế không chê vào đâu được, và chỉ có Dương Hạo mới có thể nghĩ ra.
*
* *
Đại quân đi từ từ, trên đường Dương Kế Nghiệp âm hồn bất tán, chiến sự lớn nhỏ cũng không biết kinh nghiệm bao nhiêu, mãi đến hôm nay, tấn công mới đột nhiên dừng lại. Đi về phía trước là Hắc Xà lĩnh, Hắc Xà lĩnh quanh co khúc khuỷu như rắn, đi qua ngọn núi này, có mấy chục dặm đường có thể tiến vào Hoành Sơn, một khi đã vào Hoành Sơn rồi, Hạ quân giỏi mã chiến cũng khó mà phát huy được ưu thế của chúng, quân Tống hoàn toàn đã an toàn. Trong xe, Phan Mỹ nặng nề suy tư.
Hắn cho rằng đến đây có thể được coi là an toàn, Hạ quân sẽ không dễ dàng bỏ qua cơ hội tấn công họ, nếu như mười vạn đại quân này chịu được trọng thương, trong thời gian ngắn dựa vào gia sản hùng hậu Tống Quốc một khi cũng không có cách nào dụng binh với Hà Tây, Hạ quân tất nhiên không tiếc gì cả, trước khi họ chạy ra Hoành Sơn có thể tấn công bọn họ, suy yếu bọn họ, cho đến khi diệt trừ bọn chúng, có thể đoán được, Hắc Xà lĩnh có thể làm chốn ngăn chặn nhờ vào địa thế của mình, trận quyết chiến chuẩn bị xảy ra rồi.
Thiết tố hoành giang, thế không thể đỡ, Phan Mỹ không để ý, cả đời ngựa chiến của hắn, không chỉ nói quân đội bị hắn tiêu diệt, những vương quốc rơi vào tay hắn, hoàng đế bị bắt giữ không chỉ là một, cả đời này đã sáng rọi huy hoàng, có gì không phục?
Nhưng hắn tuy đã bại, tội không chiến, vụ quốc cũng không thể chiến thắng, hắn đang khổ tâm đối phó với thượng sách của Hạ Quốc.
Hạ quân dũng mãnh, dân chúng ủng hộ, nhưng võ dũng này, phi bất khả địch. Tình hình Hà Tây đất rộng người thưa, người Hạ giỏi mã chiến, quân ta nếu như phân binh thâm nhập, lương không đỡ, tiến kẻ trộm tránh đi mũi nhọn, sau đó lui, mệt mỏi phí lương thực, cuối cùng khó thắng đây. Nếu tiến quân thần tốc, hạ được thủ lĩnh, chiếm được thành của địch, vườn không nhà trống, trong mười ngày có thể khống chế, còn địch lại cắt đứt đường lương thảo của ta, đội ngũ quân ta mỏi mệt, không biết làm thế nào để bảo vệ.
Cho nên cho rằng mưu Hạ Quốc nên trì hoãn mà không nên gấp, nếu như có mười sự chuẩn bị đương nhiên xứng đáng, thứ nhất chiếm cứ quân phủ, nuôi và chuẩn bị ngựa, tập huấn cưỡi ngựa bắn cung, nghĩ rằng kỳ binh. Thứ hai: ràng buộc người Khương Hoành Sơn, cho rằng hàng rào, ăn mặn cũng phủ. Thứ ba, kết giao với dân chúng Thổ Phồn, Hồi Hột, Lũng Hữu Thổ Phồn bắc xuất tiêu quan, lấy Hồ chế Hồ, hợp lực phá kẻ trộm. Thứ tư, độ địa hình nguy hiểm dễ da gần, có bao nhiêu hàng rào, quân sĩ dũng nhát mà tăng giảm đồn niên, từng bước đẩy mạnh, mảnh đất tằm ăn rỗi. Thứ năm, theo các lộ cùng nhau tiếp ứng, thống nhất điều hành, dễ sai khiến. Thứ sáu, biên tiểu hàng rào, chớ tích lương cỏ, kẻ trộm tấn công nhanh chóng, vứt bỏ tiểu hàng rào bảo vệ đại hàng rào, lấy toàn binh lực. Bảy, con đường Hạ Quốc xa dài, thành trì nhỏ mà thảo nguyên rộng, binh chúng tắc đồ quân nhu, binh thiếu mà dưỡng nhẹ, cố phạt binh Hạ Quốc nên tinh mà không nên chúng, đương tài định nhũng binh, tập kết lấy quân tinh nhuệ dựa vào vận chuyển.
Phan Mỹ cân nhắc từng câu từng chữ, trầm ngâm thật lâu rồi mới viết ra một bức thư thỉnh tội tấu lên và mãi mới viết xong, tập trung suy nghĩ xem lại một lần nữa, rồi gọi tên thân cận vào dặn dò: “Sao chép thành mười bản, phân cho mệnh dịch binh đi khắp nẻo đường đưa tới Biện Lương tấu với Quan Gia”.
Lúc này, Vương Kế Ân cũng ở trong xe đang vắt óc suy nghĩ đến tấu biểu, Phan Mỹ lo sợ địch chiến, Phan Mỹ lâm trận lui binh, Phan Mỹ chuyên quyền độc đoán... Nghĩ một hồi lâu, nhìn xuống tờ giấy bên dưới mới chỉ có bảy điều tội danh, Vương Kế Ân khẽ lắc đầu, làm thế nào cho đủ mười tội trạng đây, đó mới có chút lực lượng. Hắn khẽ đấm đấm vào cái trán mình, nghiến chặt răng cắn nát bút rồi lại suy tư.
*
* *
“Báo! Đại tướng quân, Hạ quân trần binh Hắc Xà lĩnh đuổi đến”. Tiếng thám tử mâu tiền bẩm báo.
“Biết rồi!”. Phan Mỹ khẽ hắng giọng, hai thân binh lập tức tiến lên, đầu tiên là giúp hắn mặc chiến bào, rồi phủ thêm bên ngoài chiến giáp, tay trái của trung tiễn bị áp trụ nhất chiến, trở thành một áo giáp chống lạnh, đại tướng quân uy vũ.
Đi ra khỏi xe, xoay người lên ngựa, lúc này mùa đông như bức tranh màu đỏ sẫm, các áo giáp nhuốm màu máu, mặt trời lặn chiếu vào đại kỳ.
Phan Mỹ thúc ngựa đuổi lên phía đầu, phía sau có mấy chục tùy tướng đuổi theo, tam quân đứng nghiêm trang nhìn chăm chú chủ tướng của họ.
Vị tướng quân này đánh Kinh Hồ, bình định Thục Hán, dẫn bọn họ đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi, lúc này đây hắn có thể lãnh đạo bọn họ bình yên trở về Tống Quốc hay không đây? Thất vạn kim chúng lặng lẽ đứng ở đó, ánh mắt nhìn theo đại tướng quân của họ.
Mắt liếc nhìn quân địch ở phía trước, Phan Mỹ cũng cảm thấy lạnh cả sống lưng, hắn sớm đã đoán được rằng đến Hạ quân ở trận chiến lần này cũng là không ngờ họ bày thế trận hùng tráng như vậy. Hạ quân dựa vào sơn cương đóng quân, từ chân núi đến đỉnh núi đều bị Hạ quân đứng dày đặc rồi, từ xa có thể thấy được đại kỳ chữ Dương tung bay trong gió.
Hai bên đông tây, vô số kỵ binh nhìn thấy vừa chạy đến, đại khái là sợ đánh rắn động cỏ, bọn họ vẫn ẩn ở nơi nào đó, dựa vào binh mã của họ, chỉ phái ra mấy thám báo có thể nhìn thấu được hướng đi của chủ lực Tống quân, muốn hoàn lại đương nhiên dễ như trở bàn tay. Hai cánh binh mã mặc quần áo sặc sỡ, xem ra chính là bộ tộc binh Đảng Hạng Bát Thị, không chỉ ăn vận lòe loẹt, tuổi tác của các kỵ sĩ già trẻ đều có hết.
Song ta đều có thể thấy rằng, cho dù là lão hán râu tóc đã bạc, hay thiếu niên áo khoác da chó, một khi đánh, thì đều là đối thủ dũng mãnh khó địch, nhân khẩu Hà Tây không quá Trung Nguyên nhưng nếu như nói về tài dụng binh, thì không kém gì Trung Nguyên, vì vậy họ ai nấy đều nhập ngũ, từ thủa nhỏ đã cưỡi ngựa bắn cung, và không cần đến huấn luyện chuyên môn.
Còn Trung Nguyên phần lớn là các nông phu, không có đến hai ba năm huấn luyện thì làm sao là chiến sĩ dũng mãnh thiện chiến được? Cho dù bộ tộc binh là một đám ô hợp, không được huấn luyện hàng ngũ, nhưng khi quyết chiến, cái nguyên nhân đó không là vấn đề.
Hôm nay, lại một trận khổ chiến!
Ánh nắng chiều tà, mặt trời uy lực là thế bỗng nép sang một bên, quân Tống và quân Hạ vẫn giằng co, không có bên nào chịu lui, và cũng không có bên nào xung phong liều chết. Phan Mỹ ngẩng đầu, nhìn ánh mặt trời đang trốn vào đỉnh núi: “Mặt trời lặn rồi, ngày mai ta còn có thể nhìn thấy nó nữa không đây?”.
Ầm ầm ầm...
Một trận tiếng ngựa phi gấp gáp, Trương Sùng Nguy và Thác Bạt Hạo phong dẫn đại quân thủ binh Hạ Châu cũng đã tới, vây kín tứ phía, chín vạn đấu bảy vạn.
Vương Kế Ân mặt mũi xanh lét, phất nhanh tay áo viết tấu chương.
“Đại Hạ hoàng đế có chỉ: ‘Tiểu Phan Phan nếu như chịu vứt bỏ vũ khí đầu hàng, sẽ ban thưởng thượng tướng quân, phong hộ quốc hầu’”.
Ở bên triền núi, phía sau lá cờ của Dương Kế Nghiệp gần trăm sĩ binh đột nhiên cùng kêu lên, tiếng hét vang vọng cả vùng quê, tiếng cười nói của Hạ quân xung quanh.
Phan Mỹ, Hà Bắc đại danh nhân, thái tổ Triệu Khuông Dận Trần Bình binh biến, khoác hoàng bào, thánh chỉ bừng sáng thiên hạ chính do hắn đọc. Thiểm Tây Viên Ngạn trong lòng dị chất, thái tổ mệnh Phan Mỹ giám quân, Phan Mỹ đơn kỵ nhân trường an, thần thương lưỡi tiễn, thuyết phục Viên Ngạn thuận theo lòng trời, cúi đầu vào triều. Từ nay về sau chinh Kinh Hồ, diệt Lý Trọng Tiến, Uông Đoan, phạt Nam Hán, lấy mười vạn đại quân đánh dẹp yên hai mươi vạn Hán quân, một mình đảm đương một phía, sở hướng vô địch, Phan đại tướng quân văn võ song toàn mấy lần chịu sự chế nhạo như vậy?
Da mặt Phan Mỹ đang từ trắng bệch bỗng chuyển sang màu tím tái, chuôi đao trong tay dường như bị hắn nắm gãy, lửa trong người hắn hừng hực cháy lên...
Tiếng hò hét cười đùa của Hạ quân vẫn còn đang kéo dài không ngớt, quân Tống bị chọc giận, chỉ cần lúc này Phan Mỹ chỉ mũi đao về phía trước, toàn quân sẽ chen nhau mà tiến lên, cho dù toàn quân đều giao đãi ở đây cũng phải xông lên núi, đập nát tên chủ soái đầu sỏ tiếng cười chế nhạo kia, nhưng Phan Mỹ nổi giận liếc nhìn quân.
Dương Kế Nghiệp đứng ở đỉnh núi, nhìn thấy Phan Mỹ không chịu kích, không khỏi thầm khen là vẫn còn đang tỉnh táo. Đoạn truy kích này, mấy lần giao chiến, hắn vô cùng khâm phục cách dụng binh của Phan Mỹ, lúc này có hơn mười vạn đại quân giễu cợt phía trước, thần chí Phan Mỹ vẫn tỉnh táo, không bị mắc mưu kích động, đối thủ như vậy, hắn không thể bất kính.
Dương Hạo tán thưởng Phan Mỹ ra mặt, Đinh Thừa Tông thấy ý đồ của hắn như vậy, đã từng hỏi hắn nếu có thể vây lấy Tống quân, thì cố gắng bắt giữ lấy Phan Mỹ, song lại bị Dương Hạo phản đối.
Cả nhà Phan Mỹ đều ở Biện Lương, cho dù bị bắt giữ thì cũng không chịu đầu hàng. Phan Mỹ là chủ soái của Tống quân, là linh hồn của toàn quân, là trung tâm của tất cả tướng sĩ, vạn mã quân muốn bắt giữ chủ soái là nhiệm vụ không có khả năng, nếu như thực sự có đau đầu, hạ một cái mệnh lệnh như thế, để cho cấp dưới khoanh tay vấp phải, không được giãn ra, không thể làm một Tào Tháo thứ hai, sờ sờ để Triệu Tử Long chạy thoát.
Hơn nữa, cho dù có bắt giữ Phan Mỹ thì cũng chẳng có tác dụng gì, một mình Phan Mỹ không xoay chuyển được đại cục, hơn nữa, đối thủ hắn đấu trí đấu dũng là Triệu nhị thúc, xem xã tắc giang sơn mình tuyệt đối hơn cả nữ cường nhân Tiêu Viêm Viêm, đến khi xin hàng nghị hòa quân Tống, Phan Mỹ này cho dù thế nào cũng được giao trả về, như thế, không bằng chộp lấy cơ hội, tận khả năng, suy yếu lực lượng quân địch. Cho nên, Dương Hạo khuynh nhiễm bất động, mệnh lệnh Dương Hạo dành cho Dương Kế Nghiệp là: Tận dụng mọi khả năng trọng thương Tống quân.
Phan Mỹ thúc ngựa quay trở về trung quân, lập tức hạ lệnh thứ nhất: “Bày Phương viên trận”.
Chúng tướng hằm hè đợi tấn công Hắc Xà lĩnh, vừa nghe thấy mệnh lệnh này liền ngẩn tò te, phương viên trận ư? Phương viên trận dường như là trận pháp hoàn toàn bỏ qua thế tấn công, đại tướng ở trận này, binh lực bố trí từng tầng một, trường thương, cung tiễn bên ngoài, binh lực cơ động ở bên trong, đây là trận pháp sử dụng khi ưu thế quân địch giao chiến, đội hình dày đặc, sức phòng ngự rất cao, song đồng thời cũng là một trận pháp chịu đòn, đại soái không hạ lệnh xông lên đánh quân địch, ngược lại lại áp dụng thủ thế tuyệt đối, lẽ nào chúng ta còn có viện binh sao?
Cho dù trăm câu hỏi chẳng có lấy một câu trả lời, chúng tướng vẫn chấp hành làm theo mệnh lệnh của Phan Mỹ. Dương Kế Nghiệp đứng ở đỉnh núi quan sát mọi việc diễn ra, phương viên trận ư? Coi như Phan Mỹ bị dọa vỡ gan cũng không có lý do bày phương viên trận, ý hắn là...
Mắt hắn tối sầm lại, định thần, chăm chú nhìn vào lá cờ, ánh sáng mặt trời chiếu vào lá cờ đã không còn nữa. Mặt trời đã khuất núi hoàn toàn, Dương Kế Nghiệp đã hiểu ra: “Ta còn nói quân Tống khỏe mạnh dẻo dai, mới vừa rồi đi từ từ, giờ đến Hắc Xà lĩnh, lẽ nào... Phan Mỹ có ý đồ gì khác ư? Hắn biết rõ Hắc Xà lĩnh trước tất có một chiến, cố ý không sớm không muộn đến lúc này thì đến, chính là đợi trời tối, muốn phá vây, còn có cơ hội có lợi hơn buổi tối sao?”.
“Đại bại có dư, trong khi lui chiến, ngay cả điều này cũng tính toán trong lòng, tên này, thực là đệ nhất kình địch mà ta gặp khi còn sống”. Dương Kế Nghiệp hít sâu một hơi, giơ lệnh kỳ trong tay lên.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 52: Đục Nước béo Cò (1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Text
Chương 52: Đục Nước Béo Cò
Một đêm ác chiến, tử thì chất đầy.
Phan Mỹ đắn đo, khó khăn lắm mới đến được Hắc Xà lĩnh lúc hoàng hôn, sớm một phút trước thời gian lâm vào trọng vây, phải trả giá biết bao tính mạng, muộn một phút thì sẽ chẳng có cách nào lợi dụng đầy đủ cờ hiệu lệnh tập kết, đã là thời cơ chuẩn xác, bất quá, nhưng Dương Kế Nghiệp tuy chỉ nổi danh ở Tây Bắc, còn kém xa chiến công hiển hách của hắn, lừng danh thiên hạ, nói đến bản lĩnh dụng binh khiển tướng thì không kém gì hắn.
Vào thời khắc mặt trời lặn, nếu như nhờ vào ưu thế binh lực và địa hình toàn lực tấn công, chờ màn đêm buông xuống, địch ta khó phân biệt, ưu thế binh lực hắn, ưu thế địa hình sẽ mất đi toàn bộ tác dụng, cần thừa dịp Phan Mỹ, cho nên lúc này tuy chiếm cứ thế thượng phong tuyệt đối, Dương Kế Nghiệp lại hạ lệnh vây kín tứ phương, cầm cung nỏ tấn công từ xa, trận thế bao quanh, không chịu mắc mưu hỗn chiến. Lúc này hắn chiếm ưu thế hoàn toàn, cho dù đợi đến ngày mai ánh mặt trời ló lên cũng không thành vấn đề, vội gì mà nóng lòng.
Nếu nói vũ khí sắc bén từ xa tuy rằng cung nỏ được Tống quân trang bị cực cao, nhưng còn kém xa so với nhất phẩm cung mà Dương Hạo đã trang bị. Nhất phẩm cung có lực sát thương rất mạnh, có tác dụng rất lớn khi hai bên trận doanh bắn tên. Thương vong của Tống quân tất sẽ nhiều hơn Hạ quân. Và cho đến khi sắc trời tối mịt một màu đen, Phan Mỹ cuối cùng cũng đã không chịu đựng được, hạ lệnh phá vây.
Tác dụng của bóng đêm vẫn phát huy được tác dụng của mình, song phương một khi đoản binh giao tiếp, cung nỏ cũng sẽ mất đi tác dụng, sĩ binh sợ ngộ thương chiến hữu, há dám bắn loạn cung tên lên, mà song phương một khi lâm vào thế hỗn loạn, trừ phi đang trong cuộc đọ sức sinh tử, những binh sĩ khác vọt tới cận tiền, cũng sẽ dừng lại chút nhìn rõ địch ta rồi mới vung đao chém một nhát, như vậy Tống quân đương nhiên khó mà chui được.
Đối diện với thế cục như vậy, Dương Kế Nghiệp cũng vô kế khả thi, Phan Mỹ mất đi địa lợi, song lại tận dụng được thiên thời, may mà Tống quân dù có đục nước béo cò, hướng tấn công là Hắc Xà lĩnh không thể nghi ngờ, Dương Kế Nghiệp sớm đã trang bị phòng tuyến trên Hắc Xà lĩnh, các sĩ binh trong phòng tuyến tuyệt đối không phát ra tiếng động nào, các sĩ binh chặn dưới núi làm quân tiên phong, cho nên khi các binh tốt xông lên núi chính là quân Tống, chỉ cần sờ soạng bắn tên, đao thương cùng phối hợp, rồi gần lại, lâm vào vật lộn. Hạ quân đoản binh giao tiếp cũng là hướng về phía trước mà không phải phía sau, có thể xông ra nghênh Tống quân là phòng tuyến sớm đã được bố trí.
Trong trận đấu pháp này, quân Tống mỗi khi tiến thêm một bước đều phải trả giá bằng sự hy sinh thê thảm, ngọn núi Hắc Xà lĩnh vừa cao vừa nguy hiểm dường như mỗi bước là một thi thể nằm xuống, máu tươi nhuộm đỏ cả ngọn núi.
Cho đến khi sắc trời tối đen, Tống quân cuối cùng cũng đã rải đều thây ở Hắc Xà lĩnh, giết hướng Hoành Sơn, Hạ quân để lại một bộ phận nhân mã để thu dọn chiến trường, cứu trợ thương tàn chiến hữu, phân binh đuổi theo, lúc này Tống quân bỏ chạy được cũng chỉ còn vẻn vẹn lại hai vạn người, nhân mã cho dù có chạy được trước, trong lúc hỗn loạn, tướng không thấy binh và binh cũng chẳng thấy tướng, cờ hiệu thì bị nhổ bỏ, thất bại thảm hại.
Đột kích, bày thế trận, cản đường, rồi lại đột kích. Đột kích rồi truy kích, cứ năm bước giết một người, một bước là một dòng máu, tất cả mọi người như phát điên lên, chỉ cần bản năng xông lên phía trước, Tống quân ở phía trước nhất cũng đã xông đến chân núi Hoành Sơn, Tống quân ở phía sau cùng thì đang cố gắng phá vây ở Hắc Xà lĩnh, từ Hắc Xà lĩnh cho đến chân núi Hoành Sơn mười mấy dặm tuyết, đã bị vô số thi thể nhuốm đỏ.
Tống quân xông về phía trước, cùng chung mối thù, mỗi người đều nhuốm đỏ trong màu mắt, dù có bị thương song vẫn cố gắng hết sức mình chiến đấu, có ý chặn lại ý đồ bọc đánh Hạ quân sát thương cực đại. Tam quân chủ soái Phan Mỹ cũng đích thân vào trận, trường đao múa nhanh và mạnh, người ngã ngựa đổ, tiếng kêu thảm thiết ghê người.
Tống quân vừa chiến vừa đi, ngoài thủ quân canh giữ thị vệ thân binh quanh Phan Mỹ, người nào người nấy đều biết chủ soái ở đây, thấy đội ngũ lưa thưa lỏng lẻo xông vào Hoành Sơn, Phan Mỹ chỉnh đốn đội ngũ một chút, để tránh quân địch nhân thời cơ, cờ soái trống chiêng trong một đêm liều chết đã mất, hắn dù có cố gắng mở rộng miệng hét to cũng không có mấy người nghe được hiệu lệnh của hắn.
Hạ quân phía sau theo sát không bỏ, khắp nơi là Tiểu Phan Phan sống, tiếng la hét phần thưởng là thiên kim, phong vạn hộ hầu khiến cho Phan Mỹ thức nghẹn giọng, giận sôi người. Có tâm giết kẻ trộm, vô lực xoay chuyển trời đất. Vương Kế Ân cũng được thân binh của hắn che chở, theo loạn quân mà xông lên trước để giết, Vương Kế Ân thông thạo võ nghệ, trong đám thái giám cũng được coi là hảo hán nổi tiếng.
Vào thời điểm sống chết trước mắt, chí khí mãnh liệt sục sôi, nhấc đao, xông lên phía trước theo đại quân, tuy rằng từ đầu chí cuối, được bảo vệ bởi các sĩ binh, hắn chưa giao đấu với Hạ quân, lưỡi đao chưa hề nhuốm máu, song người hắn cũng đẫm mồ hôi, chật vật không chịu nổi.
Trước tiên có mấy trăm binh Tống hò hét vượt qua chân núi Hoành Sơn xông lên núi, từ dưới mặt tuyết bỗng nhiên chui ra rất nhiều “quân Tống” quần áo hỗn độn, bọn họ lặng yên không một tiếng động, trên người toàn là màu máu, lặng lẽ đi tới, nhanh chóng trà trộn vào đám đội ngũ Tống quân, bọn chúng cũng tạo dáng vẻ mệt mỏi, lảo đảo bước đi, thở hổn hển y sì như quân Tống.
Doanh trại Tống quân Hoành Sơn tạo trận địa sẵn sàng đón địch, vừa có người lại gần, dây cung được kéo căng lên.
“Mau mở cửa trại, mau, Hạ quân đuổi đến rồi”.
“Mẹ nó chứ, ngươi cầm tiễn làm cái mẹ gì nữa? Lão tử chém giết một đêm, mọi người mau mau mở cửa, mở cửa đi!”.
“Ta là cấm quân thị vệ bộ quân đô ngu hầu Nhạc Vô Thanh, thủ tướng là tên nào phụ trách vậy hả, mau mở cửa cho lão tử đi”.
“Phan đại tướng quân và Vương giám quân đều ở phía sau rồi, còn không mau mở cửa, có làm sao, tên nào dám thay đại nhân đền mạng đây?”.
Thủ tướng đầu thành đề phòng quân địch cả một đêm, thật chật vật và gian nan, kết quả lại nghênh đón bọn chúng, chiến sĩ bách chiến tất thắng tức giận, tiếng chửi bậy không ngớt. Dương Diên Phổ, Dương Diên Lãng, Tiểu Dã Khả Nhi là Hạ quân lẫn vào đám đội ngũ của Tống quân, liên tục chửi rủa dưới thành.
Tình hình như vậy, thủ thành không chịu nổi, bên dưới thành vây không phải một hai ba trăm năm trăm đồng chí, đó là thương binh rải đầy khắp núi đồi, nếu như không mở thành, cái thân phận này có đền thay được cho mạng bọn họ không? Rồi khi Hạ quân đuổi đến, trơ mắt mà nhìn bọn họ bị băm vằm dưới thành ư? Mình cũng chẳng có mấy đầu mà cho Quan Gia chặt nữa ấy chứ.
Hơn nữa người ta chết đi rồi, đó là hy sinh thân mình vì đất nước, mình coi như cũng bị chặt đầu, đó cũng sẽ để tiếng xấu muôn đời. Huống chi hai vị đại nhân Phan Mỹ và Vương Kế Ân đang ở ngoài thành, đóng cửa không nổi ấy chứ? Chẳng ai gánh vác được trọng trách này. Thủ tướng không rảnh nghĩ nhiều, hoảng sợ bởi tiếng chửi bậy phái người mở cửa trại, loạn binh chạy nhanh vào, một tên Hạ quân cải trang Tống quân vừa vào trong vây thành, ra khẩu hiệu rồi lập tức ra tay triển khai loạn binh.
Lúc này, trại vây Tống quân khắp nơi lập tức lâm vào cảnh hỗn loạn, Hạ quân đục nước béo cò xông vào trong trại vây, chiến sĩ xông vào tuy không nhiều, mỗi đội không quá mấy trăm người, thứ nhất là vì số người nhiều, sợ bị Tống quân phát hiện ra, thứ hai họ đều cải trang thành Tống quân, lại không thể có dấu hiệu rõ ràng, mặt mũi còn chưa quen hết nhau, một khi xông vào thành rất có khả năng sẽ giết nhầm lẫn nhau, nên mỗi người đều là chiến sĩ hoặc dũng sĩ kỳ cựu.
Còn Tống quân thì không thể phát hiện ra, quân Tống chạy trở về, Tống quân thủ vệ trại vây, Hạ quân cải trang Tống quân, có ba phần không nhận ra nhau, Hạ quân phát lệnh bắt đầu ra tay giết người, hỗn chiến nổi lên, Tống quân giơ đao, thấy hai chiến sĩ từng đôi từng đôi chém giết, nào phân được ra quân địch? Cho dù hắn có phân rõ địch ta, cũng không kìm nổi giơ thương lên mà đâm, hết cách đành giơ đao lên tương nghênh, thế là Tống quân thật giả lẫn lộn, hỗn chiến.
Phan Mỹ và Vương Kế Ân cũng lần lượt chạy được tới bảo trại Hoành Sơn có Tống quân trấn thủ, lúc này khắp trại vây đều hỗn độn, địch ta khó phân, truy binh khẽ bước tới, tác dụng của bảo trại hoàn toàn biến mất, Hạ quân theo sát Tống quân chen vào bảo trại, Tống quân thấy không thể thủ được nữa, đành bại lui một lần nữa, Hạ quân còn chia ra một đường đuổi theo, đám người còn lại nhanh chóng quét sạch những tàn quân còn sót lại chưa kịp bỏ chạy, gia cố yếu trại, cắm đại kỳ Hạ quân lên, Tống quân mấy tháng tấn công giờ bị hủy hoại trong gang tấc.
o O o
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
Quyển 14
Chương 53:Triệu nhị thúc sứt đầu mẻ trán (1+2)
Nguồn: Sưu tầm
Dương Kế Nghiệp, Trương Sùng Nguy tướng lĩnh đi lên Hồ Lô trại, Hồ Lô trại thất thủ hơn hai tháng, giờ lại một lần nữa rơi vào tay Hạ quân, trong bảo trại khắp nơi là thi thể của Hoành Thất Thụ Bất và số thương binh rên rỉ dãy dụa, trong đám cây cối um tùm Hạ quân vẫn đuổi bắt Tống quân.
Trương Sùng Nguy nhìn về nơi xa nói với Dương Kế Nghiệp: “Tướng quân, chúng ta thương xúc đuổi theo, các tướng sĩ đã thấm mệt rồi, đồ quân nhu lại không kịp viện tới. Hơn nữa, các tướng sĩ lẫn vào quân địch có hạn, bởi vậy tiến đến, hai châu Lân Phủ khói lửa bảo trại vô số kể, có thể buông tiền quân, cắt đi đội ngũ tiêu biểu đã khó mới có kỳ hiệu đục nước béo cò, giờ chúng ta cho dù đánh trống cổ vũ tinh thần hăng hái thêm cũng không lấy được Lân Phủ, hay cố thủ Hoành sơn rồi dự tính tiếp ạ?”
“Ha ha, Trương tướng quân nói có lý lắm”.
Dương Kế Nghiệp mỉm cười nói: “Song, có đuổi nữa cũng không sao, Tống quân hoa rơi nước chảy, dù sao cũng phải cho hắn một cái cơ hội trở về mới phải. Nếu không, Triệu Quan Gia còn mặt mũi đâu nữa?”
Trương Sùng Nguy không hiểu gì, hạ đã lập quốc, sớm hình thành thế thủy hỏa cùng Tống, còn cho Triệu lão nhị mặt mũi gì đó là sao?
Song Dương Kế Nhiệp vừa nói dứt lời, không muốn nói tiếp, Trương Sùng Nguy đành để điều này trong lòng, không ngoài dự đoán của Trương Sùng Nguy, thủ quân Lân Phủ sớm đã được tin, đang bày trận địa đón quân địch. Từ Hoành sơn xuống đều là khói lửa bảo trại được nhờ vào sự nguy hiểm mà xây, và những bảo trại này đều nhờ vào địa thế, sửa lại yếu đạo.
Có vài chỗ bảo trại cứu người sốt ruột, bị Hạ quân trà trộn vào thành, nhưng tướng lĩnh Tống quân cũng đều có kinh nghiệm chiến trận, và đều không phải hạng người bình thường, con đường đi qua bảo trại khói lửa nhanh chóng được truyền ra, đi về phía sau, khắp bảo trại đóng cửa thủ trại, không để Tống quân vào thành, họ bỏ qua, phía sau có đội ngũ trang phục Hạ quân, đấnh cờ hiệu Hạ quân, thì cung nỏ làm trận tiếp đón, như vậy, chặt đứt được nội ứng Hạ quân và ngoại viện, nội ứng dù có trong đám hỗn loạn cũng không gây sóng gió gì, tiến công cũng đành phải dừng ở đây.
Phan Mỹ ổn định trận tuyến rồi lập tức tập trung binh lực tiến đến, dựa vào sự hô ứng của khắp các bảo trại, giữa các bảo trại đã bị Hạ quân chiếm lĩnh đều bị chặn liên lạc, rất khó mà kiên thủ, Hạ quân bị ép thối lui, vứt bỏ mấy bảo trại vừa chiếm lĩnh rút về Hoành sơn. Song phương phân biệt bằng cách lấy Hoành sơn và Lân Phủ làm cứ điểm, lại trở vào trạng thái giằng co.
Lại nhớ về hai tháng trước.
Trạm dịch Phần châu, xa xa tam kỵ chạy như bay đến. Tới dịch quán thì phi thân xuống ngựa, thời tiết mùa đông giá rét, song con ngựa kia toàn thân đầy mồ hôi, bốn cái chân ngựa khỏe khoắn bỗng run lên. Kỵ sĩ trên ngựa thả người xuống ngựa, lảo đảo rồi được người ở trạm dịch đỡ lấy.
Người ở dịch quán huấn luyện nghiêm chỉnh, lập tức có người mang nước muối ấm đến, rồi lại có người giúp cởi bỏ áo trên vai, mang những món ngon vào trong phòng, rồi lại có người dắt chiến mã, người khác thì làm nhiệm vụ thay bộ yên mới cho ngựa. Lúc này dịch quán rộn rịp, ba người đi vào trong dịch quán, xong xuôi xoay người nhận lấy cương ngựa, giật mạnh thúc ngựa đi.
“Sao lại vội vàng vậy chứ, chẳng lẽ Hạ Châu đã đánh xong rồi?” Một dịch binh nhìn bóng dáng ba người mang tin tức vẻ nghi ngờ nói.
Cốc một tiếng, sau não hắn như bị trời giáng, dịch binh kêu ối một tiếng, sờ sờ sau gáy nói: “Chu đại thúc, thúc đánh ta làm gì vậy?”
“Ai bảo tiểu tử ngươi óc không lớn lên?” Lão dịch thừa mắng một câu, than thở nói: “Nếu như thực sự có chiếm được thành Hạ Châu, đại thắng như vậy, họ còn mệt mỏi, trên đường phải lớn tiếng báo tin thắng trận chứ, cần gì phải bộ dạng như vậy? Theo ta, sợ là đã nếm mùi chiến bại rồi…”
“Có thể như vậy sao?”
Tên dịch binh có vẻ không tin nói: “Mười vạn đại quân triều đình, dựa vào Hà Tây có cái gì Hạ quốc, có thể đánh bại Phan tướng quân của chúng ta sao?”
“Ngõa quán nan cách miệng giếng, đại tướng khó tránh thương vong”. Lão dịch thừa lẩm bẩm: “Chu đồng ta làm dịch binh cả đời này, hai mắt lão vẫn chưa mờ, xem tình hình này, chúng ta sợ rằng đã nếm mùi thất bại, hơn nữa…sợ là đại bại ấy”.
“Bụp”.
Một cái thượng phẩm hình tròn như mặt trăng rơi xuống, chén trà bị Triệu
Quang Nghĩa làm cho vỡ nát, giọng tức giận rít gào vang cả đại điện: “Mười vạn cấm quân, mười vạn cấm quân đấy, Trẫm chuẩn bị đầy đủ lương thảo, huấn luyện cả mười vạn đại quân, sao lại bị chôn vùi trong tay tên họ Phan ấy chứ. Tàn binh bại tướng về Phủ Châu không đến hai vạn, đại Tống ta chưa bao giờ nếm mùi đại bại thế này, tướng lĩnh đại Tống ta chưa từng thua trận kinh khủng thế này. Thảm bại, thực là thảm bại. Ai cho phép hắn tự tiện lui binh chứ? Ý đồ tự tiện, tổn binh hao tướng, tội đáng muôn chết”.
Văn võ bá quan cúi đầu tự kiểm điểm, miệng câm như hến, không ai dám nói câu nào.
Triệu Quang Nghĩa tức giận đập bàn đập ghế, thò tay chỉ vào Tào Bân, quát: “Tào Quốc Hoa, ngươi là khu mật thừa chỉ, ngươi nói đi, Phan Mỹ đáng tội gì?”
Hoàng đế hỏi, Tào Bân không thể không nói, hắn hoảng hốt, trầm giọng nói: “Thánh Thượng, quân báo tấu biểu của Phan Mỹ đã đến, thần đã xem đi xem lại, Phan Mỹ tuy bại, tự tiện đưa ra chủ ý lui binh, thực sự vì quân ta mạo hiểm tiến, chiến tuyến kéo dài, từ Hoành sơn cho đến Hạ Châu là mấy trăm dặm cánh đồng hoang vu không một yếu trại nào của ta, cánh đồng tuyến trắng xóa, binh địch tung hoành đi tới đi lui, cắt đứt đường lương thực của ta, cướp đồ quân nhu, mười vạn đại quân tiền phương của ta không thể trụ nổi, Phan Mỹ đã đưa ra quyết định thật nhanh, quyết đoán lui binh, thực sự chỉ là bất đắc dĩ mà thôi”.
Hắn chỉ nói một nửa, mặt Triệu Quang Nghĩa đỏ ửng lên, mạo tiến ư? Tống quân vì sao làm bừa chứ? Hắn từng cả ba ngày, liên hạ ba thánh chỉ thúc giục Phan Mỹ cấp tiến, Tào Bân nói vậy, lẽ nào Phan Mỹ tổn hao binh tướng lại thành gánh nặng của hắn?
Triệu Quang Nghĩa thẹn quá thành giận nói: “Nói nhăng nói quậy, Trẫm hỏi ngươi, Phan Mỹ chưa phụng chiếu dụ, tự tiện lui binh, đến nỗi bị địch mai phục, tổn hao binh tướng, phải bị tội gì?”
Tào Bân mũi lấm tấm mồ hôi nói: “Chế quân nghiêm ngặt, thưởng phạt phân minh, Phan Mỹ đánh bại, về lý nên nghiêm trị”.
Thần sắc Triệu Quang Nghĩa vừa chậm rãi, Tào Bân nói gió vừa chuyển, rồi lại nói tiếp: “Nhưng thần cho rằng, thưởng phạt phân minh, cũng cần có chừng mực. Thưởng vô chừng mực sẽ sinh kiêu, theo đuổi bất thường; Phạt thì nếu như vô lý tất dẫn đến thô bạo, thất vu bất công, có thất thưởng phạt ban đầu, thành công thể thực hiện, thưởng phạt rõ ràng, hợp lý mới có thể khiến cho người ta nể phục”.
Mặt Triệu Quang Nghĩa lạnh tanh, điềm nhiên nói: “Tào Quốc Hoa, ngươi đang giáo huấn Trẫm sao?”
“Thần quả thực không dám”. Giọng Tào Bân càng thêm cung kính, nhưng vẫn có ngữ khí bướng bỉnh nói: “Thần đã xem kỹ càng quân báo, rồi tự vấn lòng mình, đổi nếu như thần là Phan Mỹ, vào tình hình như thế, sự lựa chọn duy nhất cũng chỉ có cách chọn lui binh, cho dù biết rõ là lui bĩnh vẫn có bẫy”.
Triệu Quang Nghĩa cười nhạt: “Lui binh như vậy sao? Đưa mười vạn đại quân vào miệng cọp, để chạy về có hai vạn người, đây cũng được gọi là giải vây cho tráng sĩ ư, nực cười, quá là nực cười. Đây là cách vứt cả người cho người ta, để lại mỗi tay”.
Tào Bân mau chóng chắp tay nói: “Thánh Thượng, thần cho rằng, đứt không phải toàn thân mà là một tay thôi”.
Đám người Lô Đa tốn, Trương Ký, Tiết Cư Chính, Lữ Dư Khánh, La Khắc Địch, Đảng Tiến cũng toát mồ hôi hột thay cho Tào Bân, Triệu Quang Nghĩa nghe vậy giận mà cười. Hắn chưa giận dữ ngay, ngược lại hắn chậm rãi ngồi vào long kỷ, lạnh giọng: “Tám vạn người chỉ như một cánh tay, hai vạn người thì được coi là toàn thân mà lui ư? Được, ngươi nói đi, cho Trẫm nghe hiểu đi”.
“Vâng!” Tào Bân từ từ thẳng lưng dậy, mãi đến khi lấy hơi nói: “Thánh Thượng, Phan tướng quân với mười vạn đại quân tập hợp dưới thành Hạ Châu, vây lấy Dương Hạo, mà quân doanh cách Hoành sơn mấy trăm dặm, đều là cánh đồng tuyết. Đó là chiến trường kỵ binh Hạ Châu. Nếu Phan tướng quân không quyết định thật nhanh, lập tức lui binh, thì yêu cầu phía sau không ngừng vạn chuyển lương thảo đồ quân nhu, cung ứng tiền quân cần thiết.
Kể từ đó, lương thảo quân giới, áo giáp quân phục chỉ có thể rơi luôn vào trong tay Hạ quân, Hạ quân mượn tài vật Tống quốc ta, lấy chiến dưỡng chiến, không ngừng lớn mạnh, so sánh ra, Tống quốc ta dù có trăm năm tích tụ, thì cũng sẽ tiêu hao không ngừng như vậy. Mười vạn đại quân khốn đốn dưới thành, đến lúc đó ngay cả hai vạn đại quân cũng không sống nổi.
Hoặc là, Phan tướng quân nếu như có thể đem tình hình chiến sự đến báo với Thánh Thượng, triều đình lệnh cho Lân Phủ coi giữ tiếp ứng, hoặc là lại điều khiển quân đội, bảo đảm thong dong lùi bước, nhưng đi tới Kinh sư mất thời gian, điều động cả đại quân viễn chinh, tháng có kịp không, đợi khi đại quân đuổi tới, thì cũng đã là tiết xuân ấm áp, trung quân có thể chống đỡ được lâu vậy không?
Nếu như vận dụng thủ quân hai châu Lân Phủ tiếp ứng, lấy số thủ quân hai châu Lân Phủ có hạn, và lấy số binh có hạn ấy mà thủ thành, kháng mười lần địch, địch không thể nhân thời cơ nào, nếu như bỏ thành xuất thành, như muối bỏ biển, cũng chẳng giúp ích gì cho Phan tướng quân. Thủ quân Lân Phủ vừa xuất, kỵ binh địch tung hoành, bắc ra Trọc Luân Xuyên, nam ra Di Đà động, một khi khoái mã tìm đến Lân Phủ, dễ đoạt được thành trì. Đến lúc đó, đường lui cũng bị chặn, trăm dặm tuyết kỵ binh tàn sát bừa bãi, không những mười vạn đại quân Phan Mỹ chết ở Hà Tây, hai châu Lân Phủ cũng sẽ rơi vào tay địch một lần nữa.
Điều này chỉ là những điều thần dựa vào tình hình Hà Tây mà nói, chưa suy xét tới hành động Liêu quốc. Liêu quốc bỗng nhiên rời bốn vạn thiết kỵ, cách Nhạn Môn ta, sáng đi tối đến, như hổ rình mồi, bụng dạ khó lường, nếu như trong triều ta lại xuất đại binh trói buộc với Hà Tây không thể kéo thân, hoặc hai châu Lân Phủ mất sạch, Nhạn Môn quan trước mặt Hạ quân, Liêu quốc sẽ có hành động ra sao, thù không thể liệu nhưng điều có thể đoán trước được chính là bọn chúng bất động đã, một khi xuất động, Tống quốc ta sẽ lâm vào vũng bùn. Thánh Thượng, đây là bàn tử cục mà Dương Hạo vẽ ra, giết chết không nghỉ”.
Triệu Quang Nghĩa tức giận tím mặt, điều đau lòng nhất chính là Phan Mỹ chưa trưng cầu ý kiến đã đưa ra quyết định, nếu hắn thực sự có bình yên mang mười vạn đại quân trở về thì cũng thôi, kết quả lại làm tổn thất binh tướng nghiêm trọng trở về, nếu như sự việc được bẩm báo cho hắn biết trước, bên này ung dung sắp xếp, điều binh khiển tướng, thế nào cũng sẽ không bị thảm bại như vậy, nghe Tào Bân phân tích, hắn không khỏi toát mồ hôi hột.
Song thấy rõ khuôn mặt Tào Bân, lòng hắn bất giác chợt động, bỗng nhiên ý thức ra được điều gì đó: “Tào Bân lần này mất sức vì chuyện Phan Mỹ, thực là công tâm? Hừ hừ, trong số bọn chúng dường như chẳng có ai hòa thuận vậy? Tiền triều lão thần cho dù quan hệ với nhau thế nào, giờ là ôm chia bè chi phái…”
Khó trách Triệu Quang Nghĩa nghĩ như vậy, khi tiên đế còn sống Phan Mỹ cũng là thân tín trọng thần, Tào Bân được tiếp nhận từ hậu chu trung quân khi Triệu Khuông Dận vẫn còn thống trị, chưa tham dự binh biến Trần Kiều, hơn nữa dì của Tào Bân là quý phi của hậu chu thái tổ, có hai tầng quan hệ này, tuy nói hắn văn võ song toàn, phẩm đức cao thượng, nhưng từ đầu chưa được Triệu Khuông Dận trọng dụng.
Cho đến sau này, Triệu Khuông Dận tạm ổn giang sơn, dần dần trọng dụng Tào Bân, Tào Bân chưa có công thần tập đoàn dung nhập Triệu Khuông Dận, hình thành phe phái trong quân hết sức phức tạp, cũng không phải vai đánh một trượng, mà là cùng một phe phái, bởi vậy dù Tào Bân có chức vị càng ngày càng cao, về sau thậm chí còn trên cả Phan Mỹ, nhưng Triệu Khuông Dận một triều có vài kiêu binh hãn chỉ là kính hắn mà không phục hắn.
Tào Bân cũng biết rõ điều này, vì vậy công thần tập đoàn với tiên đế triều chỉ là giao quần tử, hiện nay khá tốt, mãng phu Đảng Tiến không tỏ vẻ bất mãn, Tào Bân đã đem toàn lực khen ngợi Phan Mỹ rồi, vài lão tướng quân biết rõ là không kiêng dè gì người mới đối với mình, xa lánh tiền triều lão thần cảnh giác.
Nghĩ như vậy, Triệu Quang Nghĩa thấp thỏm lo lắng, tương đương với bại cục Hà Tây, điều hắn càng coi trọng hơn chính là hướng thế trong triều, Tống quốc gia đại nghiệp đại, tổn thất mười vạn đại quân coi như làm mất nguyên khí khôi phục lại trong một năm, nhưng nếu nắm bắt được các vị lão tướng nắm binh quyền trong triều sinh dị tâm, một khi xảy ra chuyện thì là nội loạn, nội loạn không chỉ là họa lúc ấy, sau khi xử lý mọi chuyện có thể kéo dài ra mấy năm liền, tiêu hao nguyên khí, hơn nữa năm đời hoàng đế đến nay phần lớn không phải chết trong tay người ngoài, có đến tám chín phần đều là chết trong tay thuộc hạ của chính mình, thay vào đó, việc này chẳng qua chỉ là chuyện xảy ra trong mấy năm đầu, Triệu Quang Nghĩa sao tránh nổi.
Lô Đa Tốn thấy Triệu Quang Nghĩa nghe những lời Tào Bân nói không tức giận, ngược lại hắn vô cùng trầm tư, nhìn sắc mặt không biết hắn đang nghĩ gì, hắn nghiền ngẫm, cẩn thận suy xét, tự giác nắm được suy nghĩ của Quan Gia, liền chắp tay tấu: “Thánh Thượng, Tào đại nhân nói cũng có ý đúng của nó. Phan tướng quân là danh tướng triều ta, trước đây mười vạn đại binh hoành hành ngang dọc quét sạch ba mươi vạn quân Hán, chiến công cũng hiển hách lắm chứ.
Lần này binh bại tại Hà Tây, Tào tướng quân dụng binh có chút sai lầm, song triều ta chưa bao giờ có tiền lệ tác chiến vào mùa đông ở đất bắc, vì vậy kinh nghiệm không đủ, chịu sự khắc nghiệt của thời tiết mới là nguyên nhân chính. Cuộc chiến Hà Tây có thể coi là cuộc tập diễn bắc phạt tây chinh của triều ta, tổng kết giáo huấn trong đó, về sau có phát binh, phạt bắc Liêu chinh Tây Hạ, tất nhiên sẽ có kinh nghiệm. Song Phan Mỹ bại trận, phạt vẫn phải phạt, thần cho rằng có thể giáng chức của Phan Mỹ xuống quan tam cấp đội…”
“Ha ha ha…” Triệu Quang Nghĩa cười lớn, lắc đầu nói: “Trẫm nghe lời quốc hoa nói, thì bừng tỉnh ngộ, Phan Mỹ có tội gì nào? Đều là do Trẫm sai lầm nghe Vương Kế Ân phỉ báng, suýt nữa thì quy tội cho công thần. Nghe xong mà vui cả ngời, thậm chí Trẫm còn nghĩ rằng, Phan Mỹ làm gì có tội mà phạt, nên thưởng”.
Lô Đa Tốn nịnh hót hoàng đế, rồi không biết tại sao mà quay về, một tên tiểu thái giám rón rén đi đến bên, mang theo một vật gì đó cho nội thị đô tri Cố Nhã Ly, rồi thì thầm to nhỏ gì đó với hắn, Cố Nhã Ly giật mình, thất thanh nói: “Ngươi nói gì cơ?”
Tiếng hắn hét khá lớn, Triệu Quang Nghĩa tuy đang cười nói, song trong lòng cũng đang lo lắng, quan sát xem các lão thần trước triều có kết bè kết phái ra sao, mừng hay tức đều không bộc lộ ra nét mặt, bỗng nghe thấy Cố Nhã Ly hét một tiếng, cơn giận kìm nén bỗng phát ra, Triệu Quang Nghĩa vỗ bộp một cái vào bàn, mẳng thẳng vào mặt nói: “Ngươi to gan lớn mật thật đấy, trên điện mà cũng hét toáng lên được”.
Cố Nhã Ly sợ hãi, vội vàng quỳ xuống, nơm nớp lo sợ nói: “Nô tỳ nghe thấy cấp báo Tây Xuyên, bất giác kêu lên, quấy nhiễu Thánh Thượng, làm ảnh hưởng tới điện phủ, có tội, có tội”.
“Hả? Cấp báo ở Tây Xuyên ư, chuyện gì?”
Cố Nhã Ly vội vàng chắp tay đưa phong thư báo, tiểu nội thị cầm cây phất trần đứng bên cạnh bàn vội đỡ lấy rồi chuyển đến vào tay Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa mở ra xem, không khỏi tức giận: “Bọn cường đạo phá cùng lai quan, tiến quân thần tốc, binh phát Thành Đô. Chúng thần khổ chiến nan địch, vì bảo vệ căn bản, bị bắt lui khỏi Thành Đô, bắc triện Hán châu”.
“Thành Đô đình trệ, Tây Xuyên trấn động, bọn cường đạo được Thành Đô phủ kho nuôi dưỡng, thanh thế đại chấn, rồi lại cóp hào thương phú hộ, tài sản quan sứ, tản mạn dân chúng, dựa vào sự sợ hãi của quan thân, chết không chỗ chôn. Theo bọn phản nghịch được nhiều người ủng hộ, giờ binh lực hiện có, sợ là hơn tám mươi vạn. Nghịch phỉ đều thích tự vu giáp, ngày ứng vận huy quân, chúng chí một lòng, hung hãn không sợ chết.
Cường đạo mạnh mẽ, tung hoành Tây Xuyên, giờ lấy được châu nào đó, ngày mai sẽ lấy được huyện nào đó, tung hoành mưa gió, không khác nào bão táp mưa sa. Trong tay thần chỉ có một quân, tự bảo vệ mình còn không được, tiêu diệt thì không có sức, xin bệ hạ phát thiên quân một lần nữa. Tây Xuyên trấn an sử vạn tùng lĩnh, Thành Đô tri châu Chu Duy Dung kính trăm bái”.
Đáng tiếc thay Tây Xuyên trấn an sứ vạn đại nhân, Thành Đô tri châu Chu đại nhân cũng bó tay, nói địch quá yếu rồi, bọn họ đã đánh mất Thành Đô tội đáng muôn chết, đành phải khuếch đại nghĩa quân vô hạn, thực sự bọn họ địch vô khả địch cũng chẳng có cách nào, triều đình đánh sưu cao thuế nặng với Tây Xuyên, mấy năm nay chẳng phải hạn thì cũng lao, thu hoạch lại thiếu, nghĩa quân tạo phản có đám quần chúng khổng lồ làm trụ cột, cho dù đánh ở đâu đi chăng nữa, cũng không sống nổi nội ứng.
Hơn nữa quân Tống ban đầu sau khi đánh hạ Thục quốc, đánh cướp khắp nơi, chém giết bắt được binh, thanh danh nổi như cồn nhưng rất xấu, điều này không nói làm gì, vì địa thế khu Ba Thục hiểm yếu, đề phòng tạo phản, Tống quốc sau khi đánh được Thục quốc, san tất cả các châu các quận thành bình địa, Tây Xuyên tổng cộng có hai mươi chín châu quận, chỉ còn để lại mỗi bốn thành trì Ích Châu(Thành Châu), Tử châu, Mi Châu, Toại Châu, còn nghĩ cách thất linh bát lạc, một tòa thành đến thành trì cũng không có, thử hỏi còn có thể chống lại địch thế nào đây?
Thành Đô ban đầu đình trệ, nơi một văn một võ hai nơi trường quan còn muốn đầy, vì đi nghĩa quân cho dù đánh đâu, cướp giật cái rồi chạy, rồi lại còn chạy vào trong núi, cho nên họ mong cướp nghĩa quân đi, đến lúc đó trở về Thành Đô một lần nữa rồi huy quân mình phản kích, Thành Đô thất mà phục được, báo đến tai Quan Gia cũng dễ nghe chút.
Ai biết được thủ lĩnh nghĩa quân Đồng nghe xong ý kiến của Vương Tiểu Ba, mở kho lấy lương thực cứu tế cho nạn dân, chiêu binh mãi mã, một thời gian sẽ uy danh đại chấn. trước kia bọn chúng cướp bóc, dân chúng chỉ cảm thấy chán ngấn, lần này mở kho lương thực cứu tế vô số người, tuy trước mắt chưa có tám mươi vạn dân chúng, kỳ thực ba bốn mươi vạn thì vẫn có, song đây là cử gia tìm nơi nương tựa, thực không thể biết hết được, có thể đánh cũng chẳng bao nhiêu.
Vạn Tùng Lĩnh và Chu Duy Dung mặc kệ nhiều như vậy, chẳng những coi mấy người này thàn sĩ binh, ngược lại còn tăng lên gấp đôi, sai người cấp tốc báo tới Thượng Kinh.
Triệu Quang Nghĩa nghe vậy tức giận, thò tay tóm lấy nghiên mực hằn học: “Vương Tùng Lĩnh, Chu Duy Dung, bỏ thành mà chạy đi, tránh né cường đạo, tội đáng muôn chết”.
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
-----oo0oo-----
Quyển 14 : Tây Hạ Vương
Chương 54: Ngủ đông (1+2)
Nhóm dịch: Huntercd
Nguồn: Sưu tầm
Vào lúc Triệu nhị thúc làm vỡ nghiên thì Dương Hạo đã tới Hoành sơn, tuần duyệt tam quân.
Có Dương Kế Nghiệp và Trương Sùng Nguy cùng đi, Dương Hạo đi tuần một vòng quanh bảo trại, rồi đi gặp thủ lĩnh bộ tộc người Khương Hoành sơn, biểu dương khen ngợi lập trường của Tống quân, đem danh lợi mua chuộc lòng người, ban cho tiền tài là điều khó tránh khỏi.
Sau mấy ngày, Dương Hạo mới đến bắc đoan phong thai cốc phòng tuyến của Hoành sơn, ở đây là mùa hè, nơi giáp với Liêu hòa Phủ Châu, Phủ Châu hiện giờ đang thuộc về Tống quân, xa xa có thể thấy Tống quân đang tựa núi mà xây bảo trại. Hạ quân bên này cũng tựa núi xây trại, đề phòng cẩn mật.
Đứng ở trong sơn trại nhìn về phía bắc, một cánh đồng tuyết chính là lãnh thổ của Liêu quốc, một nhánh sông uốn lượn theo cánh đồng chảy vào hạ cảnh, con sông này tên Trọc Luân hà, chảy thẳng đến Trọc Lân Xuyên. Nước sông này đã kết băng, thành khối băng khổng lồ.
Dương Kế Nghiệp chỉ tay nói: “Thánh Thượng, bên đó vốn là yếu trại phong đài trại của Chiết gia, giờ đóng quân có ba doanh binh lực Tốngquân, binh lực sở thuộc của ta bên này cũng tương đương, thủ tướng là con chó Diên Huấn, đi về phía bắc là lãnh thổ của Liêu quốc, mảnh đất này tương đối màu mỡ, vào thời điểm giao mùa xuân và hạ, người Liêu sẽ có những bộ lạc đến đây chăn thả, song thời tiết lạnh cóng thế này, bên đó không một ai”.
Dương Hạo gật đầu nói: “Tống quốc bị hụt, tuyệt đối sẽ không hành quân lặng lẽ như vậy, dù có làm bộ làm tịch, tất cũng phải huy quân đến lần nữa, song trận này đánh đến giờ, nếu như tiếp tục múa thương lộng gậy, họ không đánh nổi, chúng ta cũng không thể đánh nổi, thực liều lĩnh, có thể tiện cho người Khiết Đan. Mọi người ngồi xuống cãi vã nhau sợ đã là lựa chọn duy nhất rồi, ngươi là võ tướng, chỉ lo tốt Hoành sơn cho Trẫm, còm chuyện múa mép này để Trẫm lo”.
Dương Kế Nghiệp nghe vậy bật cười, lúc này, sĩ binh đứng ở lầu cao bỗng nhiên thổi tiếng sừng trâu u u, binh sĩ huấn luyện nghiêm ngặt chạy từ trong doanh ra, mặc vội áo giáp, Dương Kế Nghiệp mặt mũi căng thẳng nói: “Bảo vệ Thánh Thượng lui về hậu trại”.
Trương Sùng Nguy khẩn trương đưa Dương Hạo đi, bị Dương Hạo ấn mạnh vào tay hắn, Dương Hạo nheo hai mắt nhìn về phía Tống doanh, bên Tống doanh dường như không có động tĩnh xuất binh, ngược lại kèn vừa vang lên, sĩ binh bên đó lục tục chạy về phía trước, chuẩn bị ngăn địch.
Lúc này binh sĩ trên lầu lại dùng cờ phất xuống, Dương Kế Nghiệp vừa thấy vội kinh hãi nói: “Quân địch đi từ phía bắc tới ư?”
Dương Hạo đứng lặng mà nhìn, trong một giát, chỉ thấy ở phía bắc có đại quân chen chúc nhau như thủy triều ồ ạt kéo đến, trong một lát đã thấy đen xì cả bãi đất, cờ trong sơn cốc bay phấp phới, người hô ngựa hí, giữa một cây đại kỳ, khiết đan văn và hán văn viết hai chữ lớn: “Bắc viện đại vương Da Luật Hưu Ca”.
Cằm Dương Hạo bỗng thấy đau đau, năm đó Da Luật Hưu Ca cho hắn một quả đấm thép tiếp đón hắn, dường như đến giờ cảm giác lại trở về.
Người Liêu đến bãi đất trống phía trước, quất ngựa tung hoành, ồn ào, thực là tạo hiệu quả dọa người, theo sát phía sau đại quân nhân mã đuổi tới là quân đội hai ngước Tốnghạ. Trương Sùng Nguy nhìn kỹ một lát, quay đầu nói với Dương Hạo: “Thánh Thượng, chỗ nhân mã này tuy là cờ hiệu của Liêu quốc bắc viện đại vương, song nhìn doanh trại, không phải là quy chết của bắc viện đại vương, dường như là bộ độ tiên quân vậy”.
Dương Hạo chau mày nói: “Người bắc đến đây làm gì nhỉ? Nếu như có mưu đồ Tốngquốc, đóng quân uy hiếp Nhạn Môn quan nghe ra còn có lý”.
Dương Hạo khẽ chớp mắt, nở nụ cười: “Nhìn chỗ nhân mã này, ít cũng phải vào khoảng năm nghìn người, Người Liêu dẫn nhiều nhân mã như vậy đi đóng quân, chắc chắn không phải đến đây ngắm phong cảnh rồi. Ha ha, kệ hắn đi, chúng ta chỉ cần án binh bất động, lấy bất biến ứng vạn biến”.
“Vâng!”
Dương Hạo xoay người đi, đi được vài bước, lại quay đầu nói: “Tống nhân cho dù có ý hay là vô ý, nếu như còn muốn đánh vài trận nữa với ta, tình hình thế nào, ngươi cũng phải cập nhập được”.
Dương Kế Nghiệp là Hoành sơn tiền địch tổng chỉ huy, là số ít người biết Dương Hạo lập quốc trước, rồi tốn vị xin hàng, tụ lực sinh lợi, cho đến khi hoàn thành quốc sách xưng đế, đương nhiên biết ý đồ của Dương Hạo qua lời nói, vội đồng ý.
Dương Hạo miễn cưỡng liếc mắt về phía cánh đồng tuyết có vô số lều trại chi chít, cười nói: “Đi, tên đến không phải Da Luật Hưu Ca, Trẫm cũng lười lên lầu nhìn, chúng ta về thôi”.
“Thánh Thượng”. Dương Diên Huấn vội vàng đuổi theo: “Thánh Thượng, hai nước Tống hạ đại doanh tạo thế góc cạnh, thần thấy chỗ người Liêu hạ trại đứng giữa, vị tất còn tồn tại thiện ý với chúng ta, nếu như người Liêu khiêu khích hoặc là làm khó dễ, thần nên ứng đối thế nào đây?”
Dương Diên Huấn cũng không biết ý đồ cao nhất bên trên, hắn là thủ tướng của phong đài cốc, thấy chỗ mà người Liêu hạ trại chiếm góc núi thứ ba chỗ ba núi đứng chéo, vị trí hào cự mã, không chỉ nhằm vào người Tống, còn coi Hạ quân cũng là quân địch giả, cảm giác người Liêu đến không thiện chí, mà trước đó khi Dương Hạo chưa xưng đế đã từng cùng với người Liêu tấn công qua Ngân Châu, lần này sau khi lập quốc người đến thiết lập quan hệ ngoại giao chính là Liêu quốc, cho nên phản ứng này, nên nắm bắt thế nào. Hắn cảm thấy muốn biết trước.
Dương Hạo nhìn hắn vẻ tán thưởng, có thể nghĩ đến vấn đề này, có thể đề cập đến vấn đề này, người này mới là một tướng lĩnh đích thực. Chiến tranh là tiếp diễn của chính trị, một người đánh chỉ có thể đánh, nhiều nhất là một cái sắc bén của đao, một nhát tiện tay, chỉ có động não, suy nghĩ đến chiến tranh phục vụ mục đích người mới có thể trở thành một soái tài giỏi đích thực.
Thực hiếm thấy, lúc hắn muốn cần vương phạt hán phá cầu, suýt nữa chết ở tiểu tướng thuộc hạ tiên phong của hắn, còn trẻ tuổi mà có tầm nhìn tinh tế, suy nghĩ đâu ra đó như vậy, rút bừa một người từ Dương gia nhị lang ra quả nhiên là nhân tài, thực không biết Lão Dương cả ngày chuẩn bị chiến trận luyện binh, ban đêm thì lo đào tạo người, làm gì có nhiều thời giờ mà dạy con cháu kiệt suất thế này, dự tính có đến tám chín phần là thái quân Chiết lão, đợi cho cháu con lớn chút, không bằng để cho Dương phu nhân này giúp đỡ giáo huấn một tay, không phải nói là con không dạy bảo. Nuôi ở thâm cung từ nhỏ, không đủ đứng dậy vì thiếu cứng rắn.
Dương Hạo vừa nghĩ vừa vỗ vào vai của Dương Diên Huấn nói: “Nhớ lấy nhé, ngọn núi này là doanh trại của ngươi. Dưới núi là dòng Trọc Lãng xuyên xuôi về phía tây, đều là lãnh thổ của Hạ quốc ta, tên nào xâm phạm cho dù là người Liêu hay người Tống thì vẫn phải đối xử bình đẳng. Nếu như bọn họ chọn cách gây hấn thì cũng không được nhường nhịn, ăn miếng trả miếng”.
Lời nói đầy đủ sức mạnh, Dương Diên Huân tuy rằng văn võ song toàn, nhưng dù sao tuổi cũng còn trẻ, vừa nghe những lời này vui mừng vô cùng, rồi ngay lập tức nghiêm mặt nói: “Thần, tuân chỉ”.
Dương Kế Nghiệp cảm thấy hơi bất an nói: “Thánh Thượng, thần khi ở Hán quốc biết rõ tập quán của người Liêu, người Liêu luôn ngang ngược kiêu ngạo, cho dù có phụng theo chiếu của Hán quốc thì cũng vênh mặt hếch hàm sai khiến, không ai bì nổi, nếu như bọn chúng có cử chỉ gây hấn gì đó, chưa chắc đã có dã tâm gây chuyện, Khuyển Tử trẻ tuổi khí thịnh, Thánh Thượng cho hắn một ý chỉ, ngộ nhỡ có ác cảm với người Liêu…”
Dương Hạo liếc mắt nhìn hắn hỏi: “Sao vậy?”
Dương Kế Nghiệp do dự giây lát, hạ giọng nói: “Giờ tuy người Tống chạy về đông Hoành sơn, nhưng dựa vào thực lực mạnh của Tống quốc thì cho dù có bị tổn thương nguyên khí, muốn cản trở lòng tham người Tống, Thánh Thượng còn cần mượn thế người Liêu, cái gọi là sâu đo, muốn lòng tin, thế của long xà tồn trong người. Lần này thực không nên sinh sự với người Liêu”.
Dương Hạo mỉm cười, lững thững đi đến nói: “Mượn thế ư, rõ ràng mượn thế mà ngầm mượn thế, thật giả lẫn lộn, có vài người như con lừa vậy, đánh không đi, kéo không lui, người phi thường phải dùng cách phi thường, đối với con lừa Da Luật Hưu thì không cần phải khách khí”.
Dương Kế Nghiệp đứng đó người méo mó, Dương Diên Huấn chau mày nghĩ ngợi gì đó, rồi sau đó nói với Dương Kế Nghiệp: “Cha, Thánh Thượng đang nói gì vậy?”
Dương Kế Nghiệp than: “Sâu xa khó hiểu, cha cũng không hiểu nữa”.
Dương Diên Huấn cười nói: “Thế cha cười gì vậy, nhi còn tưởng là cha đã hiểu rồi cơ”.
Dương Kế Nghiệp nhếch mày: “Cha cười là vì phát hiện ra Thánh Thượng gần đây có thêm vài cái tật”.
“Tật gì cơ ạ?”
“Đặt tên hiệu cho người ta…”
***
Thành Đô đã bị chiếm đống, Triệu Quang Nghĩa cũng không thể coi như không quan trọng, nhưng phái người nào đi Tây Xuyên bình định, chủ tướng này chọn thực là hao tâm tổn sức, đương nhiên ý hắn là La Khắc Địch, song hắn có cảm giác từ Phan Mỹ, Đảng Tiến, Tào Bân trước triều lão thần cấu kết đảng phái với nhau, làm gì dám phái La Khắc Địch ra.
Hà Kế Quân, Lý Kế Quân, Triệu Tán, Vương Toàn Bân… họ đều là những danh tướng, tiếc là, hai năm nay những vị lão tướng này như thi chạy đua. Ai nấy đều đi tây thiên cả. Đảng Tiến ư? Lão già này đánh thì cũng có thể đánh, nhưng… giờ Phan Mỹ dẫn binh ở ngoài, rồi lại cho Đảng Tiến một đại quân rồi cũng đánh hắn ra ư? Quân trung mau chóng chịu Ba Thục, lão tam Triệu Quang Mỹ giờ đang ở phủ Trường An đấy thôi, ngộ nhỡ mấy lão thần này…không được, tuyệt đối là không được.
------***------
Triệu Quang Nghĩa suy tư nghĩ ngợi, cảm thấy Thôi Ngạn Tiến cũng không tồi, nhưng chủ ý này vừa mới xuất hiện trong đầu hắn, chẳng đợi đến cầm được kim điện bàn bạc thì đã bị Tống kỳ, trình vũ cả gan đánh cho đòn phủ đầu, còn nhớ năm đó binh tiến Tây Xuyên thần thủ công chính là Vương Toàn Bân và Thôi Ngạn Tiến, hai người này không chỉ có thể đánh mà còn có thể được coi là những người biết rõ về địa hình núi non Thục Quốc.
Tuy nhiên dân chúng Ba Thục giờ kỳ thị người Tống như vậy, nhiều lần tạo phản, nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến không phải là vì sưu thuế của Ba Thục quá cao, và cần biết rằng thời điểm sưu cao thuế nặng sớm có ở Thục quốc nhiều như vậy, Tống quốc chiếm lĩnh được Ba Thục chỉ là cố ý tỏ vẻ hồ đồ, không đối đãi như những địa phương khác, người Thục vì vậy nhiều lần tạo phản.
Vương Tào Bân người Thục đốt giết đánh cướp rồi lại bắn được hơn vạn, từ đó về sao tạo thành thù sâu với người thục, điều này mới là phản ứng trực tiếp của người Thục nhiều lần tạo phản, giờ Vương Tào Bân chết rồi, Thôi Ngạn Tiến có thể làm phó tướng của năm đó, nếu như phái Thôi Ngạn Tiến đi Tây Xuyên thì không phải biến thành người bên cạnh người Thục tạo phản hay sao?
Triệu Quang Nghĩa nghĩ ra một đạo lý, cuối cùng đành phải chọn ra đại tướng Hách Sùng Tín làm chủ soái, Vương Chính Trung là tiên phong, rồi lệnh cho Trình Vũ là giám quân, lệnh năm vạn cấm quân tiếp tế tới các lộ Tây Xuyên, không ngừng giết về phía Tây Xuyên
Chiến sự Tây Xuyên tột nhiên cấp bách, không chỉ đơn giản là hai mặt dụng binh như vậy, Liêu quốc khi chiến sự Tống Hạ đang khốc liệt bỗng nhiên được tăng binh, tất có ý đồ cả. Triệu Quang Nghĩa một khi có điểm nào đó không rõ, cuộc chiến Hoành sơn e rằng sẽ khó mà gác lại được, nhưng Tống quốc vừa mới nếm mùi chiến bại từ quân Hạ, nếu như lần này hành quân lặng lẽ thì làm sao còn mặt mũi gì với thiên hạ? Càng khó tránh khỏi để cho láng giềng coi kinh cho, dù có thế nào cũng phải quyết tâm đánh một trận.
Thái độc của Tào Bân trên triều khiến Triệu Quang Nghĩa cảnh giác, đổi tướng trước trận là tối kỵ, huống hồ lần này Phan Mỹ dẫn binh ra ngoài, đại quyền đang nắm. Triệu Quang Nghĩa bỏ đi ý niệm vốn có, hạ chỉ nghiêm khắc tránh cứ vkan một trận, cách chức giám quân, vẫn phản hà bắc nhậm quan sát sứ, bỏ Tống Kỳ nhậm giám quân, hắn vốn muốn điều Quách Tiến phụ trách Lân phủ, tình hình Nhạn Môn quan vô cùng khẩn cấp, phái lão tướng định quốc tiết độ sứ Tống Ác nhanh chóng tới Lân phủ, nhưng thực ra là cần hắn tiết chết tây bắc sáu lộ biên quân, phân thế với Phan Mỹ.
Tình hình như thế này, chiến cục tây bắc tiến triển như thế nào thì khỏi nghĩ cũng đã biết, dù thế nào đi nữa, ít nhất hai chân Lân Phủ đã rơi vào túi Triệu Quang Nghĩa, rất có thu hoạch, nếu không phải là hắc xà lĩnh mất đi sáu vạn đại quân, bị dồn thảm hại cho đến tận bây giờ, thì trận chiến này còn có thể làm cho hắn mở mày mở mặt.
Người bắc hung hãn, so sánh còn xa với người nam Nan Địch, năm đó thái tổ hoàng đế chinh chiến bắc hán, mấy vạn binh mã bắc hán, mấy tòa thành bị phá hủy đều có thể khiến hắn không công mà lui, Triệu Quang Nghĩa tự hỏi lòng mình lần này dụng binh tây bắc hay là công đại qua được, giờ những điều mà hắn nghĩ chỉ là kết thúc được trận chiến này mà thôi, nếu như bàn đến thực lực quốc gia, hắn không tin Hạ quốc đất đai cằn cỗi mới thành lập lại có thể vượt được Đại Tống hắn.
***
Hương khói nghi ngút ở Sùng Hiếu am.
Sùng Hiếu Am chính là một tòa miếu có tiếng, hơn nữa nằm ở chỗ tây giao, không phải là nơi phồn hoa náo nhiệt như biện lương, cho nên điện vũ khổng lồ chiếm diện tích rộng, tuy nói đây là ni cô am, tăng chúng không kịp đại tướng quốc tự, người xuất gia là nham nhân thành tăng lữ vô số, nhưng Biện Lương có trăm vạn nhân khẩu, một con số khổng lồ, ở đây ni công trong am nổi tiếng này cũng có không ít đệ tử.
Đây vốn có một nữ ni tu hành và một đệ tử tục gia một trăm năm mươi năm, từ đó Vĩnh Khánh công chúa ở đây xuất gia tu hành, triều đình có chăm chút sửa chữa lại, trùng tu miếu thờ, rồi làm kim thân, hương khói ở đây ngày một nghi ngút, nữ ni tới đây cắt tóc đi tu cũng ngày một tăng lên, giờ con số đã có hai trăm tám mươi người.
Lúc này đang có đại thí chủ của Sùng Hiếu Am đến thắp nhang.
Tiếng trúc ngoài am, luồng không khí mới mẻ vô cùng nồng, trong am, am chủ Định Như đại sư cũng chính là hai vợ chồng già mà công chúa Vĩnh Khánh đích thân tiếp kiến rồi tiến đến dâng hương. Hai người này này là Cao viên ngoại Hòa Cao phu nhân, hai vợ chồng đều là tín đồ của Phật môn, dù đi đâu, hai vợ chồng già đều tay trong tay lần tràng hạt tử đàn, xưa nay sửa cầu làm đường cứu tế quê nhà, nổi tiếng là người lương thiện.
Hai người Cao Viên ngoại phu nhân là hộ pháp thí chủ của đại tướng quốc tự, từ khi công chúa tới Sùng Hiếu Am, đây chính là cành vàng lá ngọc, thân phận có thể so sánh với sức hiệu triệu của Phật tổ, từ đó hai vợ chồng già thường xuyên tới lui Sùng Hiếu Am làm nơi thánh địa Phật môn để lễ Phật thăm viếng. Mỗi lần trở về, hai vợ chồng đưa đồng tiền đắt giá, tín chúng hào phóng như vậy là những nhân vật mà đệ tử Phật môn luôn coi trọng, Vĩnh Khánh với thân phận là công chúa, giờ đã thành am chủ của Sùng Hiếu Am, vợ chồng Cao viên ngoại có cống hiến rất lớn với am này, đó là những tấm lòng đáng coi trọng.
Lúc này, Định như tiểu sư thái ở trong phòng chờ, tiếp vợ chồng già. Thân phận Vĩnh Khánh chỉ có khi trong cung thì có cung nữ hầu hạ nàng, lúc này sau khi đã xuống tóc. Khi Vĩnh Khánh vừa mới đến Sùng Hiếu Am, Triệu Quang Nghĩa còn bảo Hoành thành ti ngầm theo dõi động tĩnh của Sùng Hiếu Am, nhưng nguyên nhân chính mà Hoành thành ti vẫn không biết, họ chỉ lo đến sự an toàn của con cháu họ hàng Quan Gia.
Nhưng họ chỉ có thể phái vài người hoạt động mọi nơi ở Sùng Hiếu Am, trong am chú ý động tĩnh của những người khách lui tới, chẳng có cách nào tiến thêm một bước, nắm bắt nhất cử nhất động của Vĩnh Khánh. Hai ba năm trôi qua, Sùng Hiếu Am chưa bao giờ có chuyện gì xảy ra, Vĩnh Khánh vốn là nữ nhi, Triệu Quang Nghĩa kiêng nể nàng có hạn, thả lỏng quản chế, giờ Hoành thành ti cũng đã ít phái người đến Sùng Hiếu Am thăm dò.
Vĩnh Khánh mặc bộ quần áo tăng ni, tóc không còn trên mái đầu của nàng nữa, mang khí sắc Phật môn đắc đạo cao nhân, vợ chồng Cao viên ngoại là hai người hiền lành, khí độ ung dung, vẻ mặt ôn hòa, cũng là đôi vợ chồng cư sĩ ngồi không ở nhà nhiều năm, những người như vậy tới Phật môn, nói về lý chính là trải qua nghĩa giáo mới đúng, song nếu có người giờ nghe đối thoại của ba người họ, nhất định sẽ giật mình kinh ngạc…
“Cao viên ngoại, giờ ta tình nguyện nhận sự viện thủ của ngươi”.
Cao viên ngoại tóc trắng xóa vui vẻ lộ rõ trên nét mặt nói: “Công chúa đồng ý ư? Thế thì tốt rồi, tốt rồi, thảo dân ngay lập tức…”
“Từ đã, ta còn có chuyện muốn ngươi đồng ý thay ta làm”.
Thần sắc Cao viên ngoại bỗng chốc lặng đi, công chúa muốn hắn giúp làm chuyện gì vậy, liệu có dễ làm không đây? Cao viên ngoại chần chừ chưa dám gật đầu đồng ý, hỏi lại: “Không biết công chúa có điều gì muốn nhờ?”
Vĩnh Khánh từ từ nói: “Đệ của ta Đức Phương tuổi đã tròn mười sáu, ta muốn ngươi phát động lực lượng của ngươi, tạo ra thanh thế, bức Quan Gia phong vương”.
Cao viên ngoại kinh ngạc nói: “Phong vương ư? Công chúa đã đồng ý sự sắp xếp của thảo dân rồi, hà tất còn lo lắng đến vương tước? Điều này…”
“Ý đồ của bổn quan, ngươi không cần quan tâm, đây là điều kiện duy nhất của ta, chỉ cần các ngươi làm tốt, thì ta sẽ làm theo lời ngươi nói”.
Cao viên ngoại và phu nhân liếc nhìn nhau, vuốt chòm râu trầm ngâm: “Được, thảo dân đồng ý, song…có phong vương hay không, thì do bề trên, thảo dân không dám bảo đảm…”
Vĩnh Khánh khẽ nhíu mắt, cười nói: “Ngươi yên tâm, người đó cả đời có chí nguyện làm Lý Thế Dân thứ hai, không chỉ có mục tiêu làm Lý Thế Dân về văn võ chính trị, mà còn mong mình cũng có thể giống với hình dáng của Lý Thế Dân, để cho người đời sau chỉ nhớ đến điểm tốt của hắn, không nhớ đến quá trình. Nếu các ngươi có thực như những gì ngươi nói, có lực lượng hùng hậu như vậy thì chỉ cần ngươi phát binh sĩ thân công khanh, tạo thanh tạo thế, hắn sẽ không thể không đồng ý, thanh thế này hắn cũng sẽ phải chú ý đến”.
“Được!” Cao viên ngoại nhớn mày nói: “Chúng ta sẽ cố hết sức, chỉ mong kết quả sẽ như dự liệu của công chúa”.
Vợ chồng Cao viên ngoại đi ra, Vĩnh Khánh đứng ở dưới hành lang, chắp hai tay vái chào về hướng vợ chồng Cao viên ngoại rời đi, một lúc lâu sau, nhắm nghiền mắt, mở mắt nhìn một nữ nhân đang quét tuyết trong sân, nàng mặt một áo bào màu tro, lộ ra chút tóc ở mũ tăng, rõ ràng là thân phận nàng: Đây là tam bảo, đệ tử của Trì giới.
Vĩnh Khánh lặng lẽ nhìn theo bóng nàng, mở miệng gọi: “Đinh Ngọc, dọn trà của bần ni trong phòng”.
Nữ tử thanh tú đang vùi đầu quét tuyết nghe tiếng ngẩng đầu, khẽ mỉm cười, buông chổi, dẫm lên tuyết đi lại phía
Bộ Bộ Sinh Liên
Tác giả: Nguyệt Quan
-----oo0oo-----
Quyển 14 : Tây Hạ Vương
Chương 55: Người nào người nấy đều tính toán (1+2+3).
Nhóm dịch: Huntercd
Nguồn: Sưu tầm
Đó chính là tục gia đệ tử Đinh Ngọc tiến vào am đường. Vĩnh Khánh cũng đi theo vào, tiện tay đóng cửa phòng lại.
Đinh Ngọc dường như biết nàng gọi mình vào không phải là để thu dọn chén trà cho nàng, vừa vào phòng, liền xoay người nhìn về phía nàng, trên mặt nở một nụ cười nhạt: “Điện hạ có thể đã đồng ý kế hoạch của tại hạ rồi sao?”
Vĩnh Khánh khẽ gật đầu: “Đúng vậy”.
Đinh Ngọc vui vẻ nói: “Được, thế thì ngay lập tức ta sẽ đi sắp xếp vì điện hạ”.
“Từ đã”.
Vĩnh Khánh gọi nàng lại nói: “Không chỉ ta và Hoàng đệ phải đi, hẫu hậu của ta cũng rời khỏi cùng”.
Đinh Ngọc ngạc nhiên nói: “Hoàng hậu nương nương ư? Sợ rằng…thâm cung đại nội, phải mang Hoàng hậu nương nương ra, sợ rằng không hề dễ dàng đâu”.
Vĩnh Khánh nói: “Nếu như mẫu hậu của ta đến Sùng Hiếu Am thì sao đây?”
Đinh Ngọc trầm ngâm nói: “Nếu như vậy, đương nhiên là dễ hơn chút so với trong cung, nhưng…cho dù Hoàng hậu nương nương giờ không phải là thống soái lục cung, mẫu nghi thiên hạ giờ là Hoàng hậu, một khi xuất cung, tất cũng sẽ được đón chào long trọng, còn chúng ta thì coi như có thể cướp được nương nương ra, thậm chí ra khỏi thành Biện Lương, lần này đi Hà Tây, núi cao đường xa, muốn thoát thân khỏi quan binh cũng không phải dễ dàng gì. Nếu như thực hiện được kế sách đưa công chúa và Đức Phương hoàng tử đi, chỉ cần bỏ ra một hai ngày, hy vọng thành công sẽ là nhiều nhất”.
Nói đến đây, Đinh Ngọc cẩn thận nói với Vĩnh Khánh: “Chủ của ta dù đã lập vương xưng đế, thực sự là bất đắc dĩ mà thôi, kỳ thực hắn luôn không quên đi được ân đức của tiên đế, không thể quên được sự quan tâm chăm sóc của nương nương và công chúa đem lại cho hắn, chủ ta sắp xếp chúng ta mai phục kinh sư chính là mượn cơ hội cứu lấy công chúa và Hoàng tử Đức Phương ra, làm tròn nghĩa vụ báo đền công ơn của tiên đế nương nương và điện hạ.
Lòng dạ của đương kim Thánh Thượng hẹp hòi, bán tính bán nghi, Hoàng tử Sài Thị trước triều, phế đế Thục quốc Mạnh Thị, phế đế Nam Đường Lý Dục, tiên đế và hoàng huynh Đức Chiêu của công chúa, người nào người nấy chết một cách kỳ quái, nói ra phía sau còn có nhiều câu hỏi, hành động đó nghi là do đương kim Thánh Thượng sai người làm, giờ Nhị hoàng tử đã trưởng thành rồi, sợ rằng sự đố kỵ của đương kim Thánh Thượng lại nổi lên, sớm muộn thì vẫn là thuộc hạ của hắn, muốn cứu Hoàng tử ra đó là chuyện khó như lên trời, nếu như lại cần nương nương đồng hành thì đó là điều không thể được. Vì tính an toàn của kế hoạch, vẫn là mời công chúa xóa đi chủ ý này, đương kim Thánh Thượng thích danh dự, chẳng dễ dàng để cho người ta nói này nói nọ đâu, và sẽ không làm chuyện gây bất lợi cho hắn…”
Vĩnh Khánh chặn ngang lời nàng nói, quả quyết: “Nếu như mẫu hậu không thể rời khỏi, Vĩnh Khánh và Hoàng đệ Đức Phương cũng sẽ không đi. Nếu như Đinh cô nương không làm được việc này thì giữa ta và ngươi không còn gì để nói nữa, ngươi có thể đi được rồi”.
“Công chúa”.
Vĩnh Khánh xoay người bước đi, Đinh Ngọc vội gọi với theo, cúi đầu trầm tư giây lát. Khẽ nhún chân nói: “Công chúa thực là người khó khăn, thôi vậy, ta đồng ý với ngươi là được chứ gì, chỉ là vì trên đường đi thế này không thể thiếu gió thiếu mưa thiếu đổ máu, kế hoạch đã định ra đều phải lật ngược được vấn đề, sự việc vô cùng quan trọng, công chúa còn muốn ta cân nhắc cẩn thận lại lần nữa, rồi mới chuẩn bị cho tốt”.
Vĩnh Khánh xoay người đi, mặt dịu đi nói: “Đó là điều tự nhiên mà thôi, ta muốn không dẫn đến tình hình ngờ vực vô căn cứ như sáng nay đưa nương nương và Hoàng đệ tới Sùng Hiếu Am cũng cần chuẩn bị rất nhiều, các người tự lo việc thương lượng, nghĩ kế sách vẹn toàn ra mới đáp ứng được”.
Đinh Ngọc cười méo mó nói: “Kế sách vẹn toàn ư? Hic, tại hạ cố gắng làm hết sức mình”. Nói rồi chắp tay về phía Vĩnh Khánh rồi vội vàng bước đi.
Đinh Ngọc vừa quy y tam bảo là thân cận nhất, đệ tử tục gia Trì giới, nghe nói nàng là một phụ nhân ở góa, vốn mở một tửu phường mưu sinh ở đường Đông Thập Tự, ai biết được lại bị một thái úy trong cấm quân nhìn thấy tư sắc của nàng đem lòng thích thú thường xuyên đến quấy rầy. Nhiều lần, tên thái úy đó tìm đến trước của gây náo loạn cả lên, nàng là một phụ nữ bình thường, làm sao có thể chống đối lại quan lại người ta, đành vội vàng từ bỏ buôn bán, lâm vào đường cùng, cắt tóc xuất gia.
Đây chỉ là cách nói công khai của nàng ra bên ngoài, còn về phần thân phận của nàng như thế nào thì không nói cho người ngoài biết, tối thiểu công chúa Vĩnh Khánh cũng biết nàng tuyệt đối không phải là một dân nữ bình thường, mà là người Hà Tây Dương Hạo phái đến kinh thành mai phục, thân phận này của nàng, Vĩnh Khánh chắc chắn sẽ không làm lộ thân phận của nàng ra với người khác.
Nhìn theo Đinh Ngọc đi ra, Vĩnh Khánh khẽ thở phào, rồi chậm rãi đi vào gian trong, trên bàn trong phòng, tượng Quan Âm, là linh vị của Đại Tống thái tổ Hoàng đế Triệu Khuông Dận, Vĩnh Khánh cầm lấy một nén hương, châm vào nến, rồi cắm hương vào lư hương, chắp tay hành lễ.
Phía sau, nữ ni Lâm Nhi bưng cơm nước bước vào đứng ở đằng sau nàng, Lâm Nhi thấy vậy cũng hành lễ trước tượng Quan Âm và linh vị của thái tổ, bái lễ xong nàng đứng dậy rồi mới khẽ nói với Vĩnh Khánh: “Công chúa, người… đồng ý họ rồi sao?”
Vĩnh Khánh từ từ xoay người lại. Ngữ điệu hơi trầm xuống nói: “Ta đã nhìn thấu rồi, sau khi phụ hoàng băng hà, người nhà chúng ta chỉ đắc mặt cho người ta định đoạt. Đương kim Quan Gia hậu đãi chúng ta chỉ là để cho thiên hạ thấy như vậy, kỳ thực, chẳng qua chỉ là lợi dụng chúng ta mà đạt được thiên hạ, lừa thiên hạ mà thôi. Cao viên ngoại cũng tốt, Đinh Ngọc cũng thôi, thế lực đằng sau họ cũng là vì tạo lợi ích chúng ta. Hừ, bọn họ có thể lợi dụng chúng ta, ta tại sao lại không lợi dụng họ?”
Lâm Nhi kinh ngạc nói: “Lợi dụng họ ư?”
Vĩnh Khánh cười lạnh lùng, bàn tay trắng ngần nắm chặt lại, hơi rung động nói: “Không sai, sáng nay đã bàn lâu rồi, tác dụng của người nhà chúng ta dần dần ít đi. Huynh đệ Đức Phương ta giờ cũng đã lớn, thành niên rồi, và cũng được coi là cái đinh trong mắt đương kim Thánh Thượng, ta lo là…hắn sớm muộn sẽ bị kẻ gian hãm hại. Ta là tỷ tỷ của hắn, phải giúp hắn tính toán mọi chuyện cho chu toàn, trong mắt vài người cho rằng có thể thao túng vận mệnh nhà ta, Vĩnh Khánh ta, dù thế nào đi nữa vẫn là tiểu công chúa, nhưng…ta cũng sẽ lớn lên… có phải không?”
Trong thiên điện cuối cùng của Sùng Hiếu Am có một nữ ni đang ở bên giếng gánh nước lên rửa mặt, mặt nước của giếng kết lại băng, nếu như không cẩn thận sẽ bị ngã vỡ đầu, nếu như may mắn không đến được thì sẽ bị rơi luôn vào trong giếng, nếu như không ai nhìn thấy thì mạng cũng chẳng còn, người xuất gia phẩm trật tương đối cao sẽ không làm loại công việc tốn sức này.
Nữ ni này vừa đến không lâu, hơn nữa còn là một người câm. Nàng đến am trú, đến ngôn ngữ cũng chẳng nói ra được, chỉ có thể hoa chân múa tay, vốn biết khách tăng đuổi nàng đi, vẫn kiên trì đợi Định Như sư thái thấy nàng đáng thương lại thiện tâm, liền giữ lại. Người ở thiên điện đều là những lão hành khất lưu lạc đầu đường xó chợ ẩn náu qua mùa đông rét mướt, chủ trì sư thái thu dụng họ, chỉ định họ ở thiên điện, không được tùy tiện đi lại lung tung, trong am phái mấy tiểu ni đến chăm sóc cho họ, nữ ni câm này cũng là một trong số đó.
Nhấc thùng nước lên rồi lại hạ xuống, rồi cẩn thận xách thùng nước bước xuống thềm đá, nữ ni câm bỗng nhiên dừng chân, phía sau nàng không biết tự bao giờ lẳng lặng có một ni cô đứng đó, đó chính là Am chủ Định Như đại sư ở đây, Vĩnh Khánh công chúa con gái ruột của Đại Tốngthái tổ Hoàng đế Triệu Khuông Dận.
Xung quanh không một bóng người, Vĩnh Khánh chăm chú nhìn nữ ni câm, rồi hỏi: “Vết thương của ngươi…đã khỏi rồi sao?”
Nữ ni câm khẽ gật đầu, mùa đông khắc nghiệt, hai tay thò ra ngoài run rẩy lạnh buốt, sau một lúc thì đỏ tím lại, đặc biệt là đôi tay khi nhúng phải nước, nhưng tay nàng lại ngoại lệ.
Đôi mắt Vĩnh Khánh nhìn xuống tay của nàng, tay nàng và dung nhan thanh tú thực không tương xứng, đôi tay to hơn tay của phụ nữ bình thường gấp đôi, da thì thô ráp, nhưng màu da của đôi tay thì không biến đổi gì cả, dù những chỗ chạm phải nước đang có nhiệt khí tràn đến dường như bị đốt trước cửa lò.
Vĩnh Khánh hài lòng gật đầu khẽ nói: “Thế, ngươi ở đây kiên trì chờ đợi, sự việc đã có vài manh mối rồi”.
Nữ ni câm mở to đôi mắt khiến người ta không dám nhìn gần: “Khi nào, nơi nào?”
Nữ ni câm không ngờ có thể mở miệng nói chuyện, song nàng cố gắng đè giọng nói xuống khàn khàn giống giọng người con trai.
Vĩnh Khánh nói: “Có lẽ là một tháng, có thể là nửa năm, giờ ta không thể nói chính xác thời gian, nơi nào, song chỉ ở Sùng Hiếu Am”.
Nữ ni câm khẽ chớp mắt, đồng tử thu nhỏ lại như châm chọc, nàng khẽ gật đầu, không nói gì thêm, hai tay cầm lấy thùng nước nhấc lên, có vẻ mất sức rất nhiều, cơ thể mong manh yếu ớt cố xách nó đi xuống dưới bậc thềm…
Khi Phan Mỹ đưa tấu biểu cho Quan Gia, dự đoán sẽ bị chịu nghiêm trị đã cuốn gói chuẩn bị rời đến Lĩnh Nam an dưỡng tuổi già, không ngờ tHánh chỉ Quan Gia vừa truyền xuống, thì đã giáo huấn chửi cho mất mặt tên Vương Kế Ân, cách chức giám quân của hắn, đuổi về hà bắc chuyên việc lương thảo với Quách tiến và Lân Phủ đồn trú.
Một viên thống soái làm tổn thất binh lực rồi trở về như lần này của hắn không chỉ bị trách phạt ngược lại còn được khen ngợi về tính chính xác trong việc lui binh, khen ngợi và khuyến khích rất nhiều, làm hắn ổn định đầu trận tuyến, còn tập hợp lại, đánh cho vài trận lớn, chiếm lấy ưu thế hơn Hạ quân. Phản ứng như vậy của Quan Gia, Phan Mỹ thấy thực ngoài suy nghĩ, mãi mới biết được do Tào Bân bênh vực hành động của hắn, Phan Mỹ cảm kích vô cùng, có ý tìm vài cô nương xinh đẹp ở Hắc Xà lĩnh dâng lên bày tỏ lòng biết ơn với Quan Gia và tào khu mật.
Giám quân mới đến Tống Kỳ cũng là một thân tín của Quan Gia, dù sao cũng có khinh miệt với Vương Kế Ân và Phan Mỹ, dù sao cũng là xuất thân từ nội hoạn, còn Tống Kỳ thì đường đường chính chính là tiến sĩ đỗ hai bảng, hơn nữa khi Quan Gia còn ở Tiềm Để thì cũng là một nhân vật được trọng dụng, Phan Mỹ cũng không dám thất lễ với hắn. May mà người này tuy không hiểu quân sự, song chưa bao giờ nói nhăng nói quậy về chuyện quân sự này, điều binh khiển tướng tất tật đều giao cho Phan Mỹ làm.
Định quốc tiết độ sứ Tống Ác mới đến cũng là một lão tướng trải qua rất nhiều trận chiến, dụng binh tuy không bằng Phan Mỹ, song cũng không dễ để qua mặt, tuy nói người này quân giới địa vị không kém hơn hắn, song chỉ huy không tốt, Tống Ác lần này đến, chủ yếu là khống chế sáu lộ Ninh Hoa quân, Tấn Ninh quân.
Tình hình như vậy, Phan Mỹ cũng được coi như là có chút chiến tích, bị đám người tướng Hạ Mộc Ti, Biên Nhất Lang, Hàn Kiên, Lý Tòng Long chiếm mấy bảo trại tuyến tây Hoành sơn rồi bị hắn đoạt trở về, song sau khi tiến vào Hoành sơn, chiến sự không thuận lợi như thế nữa. Hoành sơn lợi dụng địa thế hiểm trở, hai quân Tống Hạ ban đầu xây dựng thành lũy bảo trại với một lượng lớn, Hạ quân bại lui quân, Tống quân khi trấn thủ Hoành sơn đã nhiều lần tiến vào tu sửa, giờ Hạ quân lợi dụng kế đoạt về Hoành sơn, thành lũy bảo trại kiên cố này nhiều lần được tu sửa.
Hơn nữa, vào mùa đông băng giá chuyện hành động cũng bị bất tiện rất nhiều, muốn phát binh tấn công là chuyện không phải dễ dàng, Tống quân nhiều lần phát binh tấn công ào ạt, nhưng sau chuyện bị thất bại tám vạn đại quân, binh lực hai châu Lân Phủ hợp lại cũng vô cùng có hạn, cho dù Phan Mỹ có đích thân dẫn binh không ngừng phát động chiến dịch, thì hiệu quả cũng vô cùng nhỏ, chân vẫn bị dừng ở chân núi, tình hình như vậy, Phan Mỹ hợp với giám quân Tống Kỳ, phó soái Tống Ác bàn bạc kỹ lưỡng xong xuôi quyết định tạm thời dừng tấn công chờ cơ hội.
Trước mắt Triệu Quang Nghĩa vì các lão thần của triều trước vẫn đang chia bè rẽ phái, loạn dân Tây Xuyên phản loạn càng thêm nghiêm trọng kéo hắn phải lùi bước, chiến sự Hoành sơn Triệu Quang Nghĩa cảm thấy rất đau đầu, đánh cũng không được mà không đánh cũng không xong, mắc kẹt. Nhưng Dương Hạo vốn là một Tống thần tự lập quốc xưng vương, điều này là điểm mấu chốt nhất, Triệu Quang Nghĩa dù thế nào đi nữa cũng không thể dễ dàng tha thứ cho hành vi này được.
Cho dù hắn giờ vô lực tây tiến tiếp, hành vi châm biếm cũng là việc làm cần thiết, có thể đánh hay không là một chuyện, có thái độ như thế nào là chuyện khác. Tống Kỳ là thân tín của Triệu Quang Nghĩa, hiểu rất rõ suy nghĩ của hắn, nhưng vào mùa đông nước đóng băng thực sự không dễ phát binh tấn công cho nên hắn cũng tán đồng ý kiến tạm dừng tấn công.
Sau khi thương lượng phân tích cẩn thận với Phan Mỹ và Tống Ác rồi bẩm báo với triều đình, Tống Kỳ lại cầm bút bẩm báo công khai lên triều đình, trong đó có chuyện miêu tả khuếch trương Tống quân chuyển bại thành thắng như thế nào, đoạt được mấy toàn bảo trại tuyến đông Hoành sơn, chiến tích đuổi Hạ quân về Hoành sơn, nó được coi là chuyện che đậy khuyết điểm thất bại của Quan Gia lần này dụng binh tây bắc.
Triều đình đã chép lại bản tấu biểu của Tống Kỳ ra làm nhiều bản rồi công bố cho thiên hạ biết. Song vào lúc này Dương Kế Nghiệp nhiều lần phát binh tấn công, dựa vào địa lợi mà làm cho quân Tống đau đầu nhiều lần, rồi lại bị triều đình coi nhẹ, sự lựa chọn này của triều đình, Hắc Xà lĩnh đại bại tạo nên sức ảnh hưởng dần biến mất, đứng ở lòng dân mà nhìn, triều đình vẫn còn dư lực để đánh Hoành sơn, song vì thời tiết lạnh giá nên tạm thời cho binh nghỉ, nếu như không đứng ở con mắt của người dân thì rất nhiều quan lại các cấp thấp cũng có thái độ vui mừng như này.
Cũng vào lúc này, Liêu quốc xuất binh thẳng tới trước doanh hai nước Tống Hạ, cũng khiến cho triều đình Tống quốc vô cùng mẫn cảm, Triệu Quang Nghĩa đích thân gặp Liêu quốc sứ tiết hỏi về ý đồ xuất binh tây bắc của Liêu quốc khi Tống Hạ đang giao tranh, Liêu quốc tiết sứ sớm đã được sự dặn dò ở thượng kinh, lập tức đưa ngay ra câu trả lời: cuộc chiến của hai nước Tống Hạ là giữa láng giềng với nhau, Liêu quốc có quyền bảo đảm cho sự an toàn của quốc dân và quốc đất, phái binh trấn thủ biên giới, quan tâm đặc biệt tới tiến triển cuộc chiến giữa hai bên.
Câu trả lời không đến nơi đến chốn như vậy sao có thể để cho người ta hài lòng được, hai nước vì thế cũng vì đánh chiến qua lời nói, đó cũng chỉ là sự kiêng kỵ lẫn nhau, cho nên còn cần phải kiềm chế lại, chưa đến mức độ nghiêm trọng lắm. tình hình này, hai nước Tống Hạ tạm thời bảo trì thế giằng co về mặt quân sự, Tống Liêu thì tạm thời bảo trì thế giằng co ở thế ngoại sự, tình hình Hà Tây mong rằng sẽ bước vào thế cân bằng tế nhị.
Nhưng thế cân bằng tế nhị này rất nhanh chóng đã bị phá bỏ. Nếu như không pahri là cửa khẩu Phong Đài giữa ba nước xảy ra chuyện ngoài ý muốn thì Triệu Quang Nghĩa lần này sẽ không phải đau đầu, tạm thời không kể đến thế giằng co của chiến cục Hà Tây, bình tĩnh lại giải quyết vấn đề loạn dân ở Tây Xuyên ngày một hung ác, đồng thời tiếp tục đề bạt những tướng lĩnh trẻ tuổi và trung tuần kết hợp với thủ đoạn tương đối hòa bình từng bước làm yếu đi sự khống chế đội quân của các lão thần triều trước, mà chuyện xảy ra ngoài ý muốn lại khiến cho Triệu Quang Nghĩa như nhìn thấy ánh mặt trời, hướng mắt nhìn về phía tây bắc.
8888
Nguyên nhân của sự việc rất đơn giản, thế giằng co ba núi Phong đài sơn, ở giữa là sơn cốc, lại có một con sông chảy xuyên qua cốc phân sơn cốc ra làm hai, con sông lớn này, Hà Tây là Hạ quốc, hà đông là Liêu quốc và Tống quốc, Tống Liêu dựa theo ngọn núi mà Tống quốc chiếm cứ làm ranh giới giữa hai nước. Giữa ba quốc gia được phân rạch ròi bởi con sông, bắt chước Định nan tiết độ sứ quản lý địa phận năm đó, địa phận quản lý của phủ châu chiết thị và địa phận quản lý của Liêu quốc ám chỉ ranh giới, như vậy giữa hai nước phần lớn có vài núi non và dòng sông lộ rõ làm biểu tượng, còn tuyệt đối không có mốc giới.
Thổ binh Liêu quốc sau khi đóng quân thì không có việc gì làm, ngày nào cũng đi săn bắt ngoài trại, có một lần đuổi được một con dê, chạy qua cả dòng sông Trọc Lãng đã đóng băng, đi vào lãnh thổ Hạ quốc, chuyện như vậy vô cùng bình thường, xuất phát từ sự cân nhắc tỉ mỉ thì rất ít người mạo phạm, Liêu quân đó sau khi bắt được dê thì quay trở lại doanh trại, không ngờ binh lính tuần tra của Hạ quốc tước vũ khí của họ mà không thu lại dê, sau đó giải họ tới ranh giới hia nước, chạy về phía đông con sông.
Đến lúc này như chọc vào tổ ong bò vẽ, người Liêu quốc nào có chịu thiệt thòi như thế, theo đức tính hung hãn kiêu ngạo của họ, nếu như không phải đội ngũ này và Hoàng đế Hạ châu cùng đánh qua Ngân Châu, giữa họ coi là có tình cảm hương khói, họ sớm không có chuyện tìm chuyện, lấn đến cả trên đầu người Hạ, giờ có thể tốt hơn, Hạ quân có dám chủ động khiêu khích hay không đây?
Thủ tướng Hạ quân Lại Đa Phúc dẫn người cHạy đến doanh trại Hạ quân chửi bậy một trận, Dương Diên Huấn tuy đã trả lại vũ khí săn bắt dê cho hắn, song cáo người Liêu không được xâm phạm vào Hạ cảnh. Đa Phúc không phải là chủ chịu thiệt, lúc đó thảo về đông tây quay đầu bước đi, nhưng trưa hôm đó sĩ binh Hạ quân đến Trục Lãng hà lấy nước, hắn lại dẫn hơn trăm thân binh xông đến đánh đấm, nói Trục Lãng hà này vốn thuộc về địa phận Liêu quốc, phía Hà Tây mới là của Hạ quân, dòng sông này chảy về hướng đông liên kết với dòng sông đều là lãnh thổ của Liêu quốc. Sĩ binh của Hạ quân bị đánh bầm dập mặt mũi, sau đó còn bị họ trói về, trong cái rét cắt da cắt thịt của mùa đông lộ ra những miếng thịt bị quất roi làm rách.
Lúc đầu Dương Diên Huấn từng hỏi Dương Hạo rằng, nếu như người Liêu có khiêu khích nên xử trí thế nào, lúc đó Dương Hạo đã nói cho hắn bốn chữ: Ăn miếng trả miếng. Lúc đó Dương Hạo còn cho rằng Dương Diên Huấn tuổi còn nhỏ song suy nghĩ rất sâu sắc, ai ngờ không phải là suy nghĩ của Dương Diên Huấn sâu sắc, thực sự là hắn vốn là tướng lĩnh Hán quốc, mà Hán quốc mỗi lần giao chiến với Tống quốc đều xin viện quân từ bên Hoàng đế Liêu quốc, người Liêu mỗi lần phái binh đến đều ức hiếp hết từ nam đến nữ, không chuyện ác nào không làm, ngời việc chưa giết người, những tai họa mang đến còn kinh khủng hơn cả Tống quân.
Là một tướng lĩnh Hán quốc, Dương Diên Huấn rất hiểu bản chất sự việc, thấy người Liêu đến, hơn nữa giữa Tống Hạ, người Liêu xuất binh dường như vẫn là đứng ở phía bên ta, vậy mới hỏi Dương Hạo về thái độ khi đối diện với người Liêu. Sau khi được câu trả lời của Dương Hạo, hắn thầm lo lắng, giờ người của mình bị người ta quất roi đau điếng, hắn là một chủ tướng, nếu như cứ nén giận như vậy thì làm sao có thể dẫn binh được nữa? Lúc đó nghĩ vậy liền dẫn binh đi cướp người, người tuy cướp được về, nhưng hai bên lại ngảy sinh mâu thuẫn dùng binh khí đánh nhau, mỗi bên chết vài người, sự việc này đã được làm um lên.
Đa Phúc mau chóng báo tin Hạ quân vô cớ khiêu khích gây chuyện cho bắc viện đại vương Da Luật Hưu Ca, mời đại vương đưa ra quyết sách, Dương Diên Huấn cũng ngay lập tức viết tường tận mọi chuyện rồi lệnh người mau chóng mang tới bẩm Thánh Thượng Dương Hạo. Thủ tướng Phong Đài quân Tống Nhạc Dương vốn đang sợ Liêu Hạ hợp binh gây chuyện bất lợi cho mình, vừa thấy song phương gây hấn với nhau hắn lấy làm vui mừng lắm, hắn tuy không tiện phái binh đánh trống, song bảo người đứng ở trên đầu trại doanh hét lớn mấy tiếng, để châm thêm lửa cho sĩ binh Liêu Hạ, bị châm ngòi song phương xung đột càng ngày càng kịch liệt hơn, Nhạc Dương rất đắc ý, liền bẩm báo tin hay ho này cho Phan Mỹ và giám quân Tống Kỳ.
Tống Kỳ không biết dụng binh, nhưng hắn là người tinh thông chuyện đời, hắn muốn biết sáng tỏ mọi chuyện. Hắn lập tức phát hiện ngay ra vấn đề nằm bên trong: giữa Liêu Hạ nếu như có thẻ vì chuyện này mà phát sinh ra tranh cãi, không chỉ là vấn đề giữa sĩ binh bên dưới, từ việc này có thể thấy rằng, Liêu Hạ chắc chắn không có liên minh ngầm nào cả, Liêu quân chẳng có thiện ý gì với Tống quân, còn sợ rằng cũng chẳng có bao nhiêu thiện ý với Hạ quân, chính như vậy, Hạ quân dương như không hoan nghênh Liêu quốc đến, nếu không thì đã giết thêm vài tên nữa, nghĩ theo đại cục, tướng lĩnh song phương cũng sẽ duy trì khắc chế, sẽ không dung túng cho bộ Hạ nảy sinh ý niệm đánh nhau bằng vũ khí, Tống Kỳ quan sát phát hiện ra điểm này, lập tức bẩm báo với Triệu Quang Nghĩa.
Da Luật Hưu Ca của Đại Đồng luôn quan tâm hết mực tới tiến triển chiến cục hai nước Tống Hạ, hắn khi rời khỏi Thượng Kinh, Tiêu thái hậu từng vẻ ngoài tùy cơ ứng biến, muốn hắn hành sự theo hoàn cảnh, cố gắng bảo đảm được thế cục cân bằng của Hà Tây, nếu như hai nước Tống Hạ có thể lấy Hoành sơn làm ranh giới, Tống sẽ không ăn được Hạ, Hạ cũng sẽ không đuổi được Tống, đó chính là kết cục tốt nhất.
Da Luật Hưu Ca văn võ toàn tài, không chỉ là một tướng lĩnh thiện chiến, lời dặn dò của Tiêu thái hậu hắn vẫn nhớ như in. Tống quốc chiếm được Lân Phủ, tiến thêm một bước, theo đó mà uy hiếp Hạ quốc, Hạ quốc mới cúi đầu trước Liêu quốc, mượn viện trợ của Liêu quốc để khống chế quân Tống, như vậy Liêu quốc có thể dần có tầm ảnh hưởng với Hạ quốc, sau khi khống chế được Hạ quốc thì giống như chính quyền ban đầu của Hán quốc Lưu Thị, trở thành một quân cờ của Liêu quốc giam chân Tống quốc.
Mà đến đỡ Hạ quốc, khiến cho một tuyến Hoành sơn đứng vững được thì có thể thu hút được quân Tống tác chiến thời gian dài, tướng Tống quốc đang sắp xếp ở Hà Tây sao cho càng ngày càng nhiều quân đội, mỗi năm lương thực tiêu hao vô số kể, dựa vào Hạ quốc thì không sụp Tống quốc, cũng sẽ buông Tống quốc binh mệt quốc nghỉ, đến khi đó chớ nói Tống quốc vô lực bắc chinh U Yến, thời gian dài tất nhiên phải hành sự sắc mặt nghênh Liêu quốc. Thế gọi là đuổi lang đấu hổ, kế lưỡng bại cộng thương.
Ai ngờ Tống quân nóng lòng tốc chiến, đại quân tấn công một cách mạo hiểm, kết quả vì chiến tuyến kéo dài, lại chịu thời tiết khắc nghiệt rét cóng, bị Hạ quân vườn không nhà trống, chặn mất đường lương thực, đánh cho Tống quân trận đại bại mà chạy rút lui, đại quân tây chinh nguyên khí bị giảm, thời gian này Dương Kế Nghiệp nương tựa Hoành sơn, ngược lại không ngừng phát phản công về Tống quân hai châu Lân Phủ, binh sĩ Tống quân không đủ, lại không chiếm được địa lợi nhân hòa, bại nhiều hơn thắng, Da Luật Hưu Ca nắm rất rõ tình hình này.
Ai mạnh thì sẽ dẫm cho một cước, ai yếu thì kéo hắn một cái, khiến chúng từ đầu tới cuối với một lực lượng ngang nhau, Da Luật Hưu Ca đang nghĩ ra chuyện sẽ áp lực về phía Hạ quốc, tin của Đa Phúc được truyền tới, đó thực sự là liều thuốc tạo hưng phấn mạnh cho hắn, Da Luật Hưu Ca vui mừng khôn xiết, lập tức bảo thân binh đó mang dùm một câu nới tới Đa Phúc: “Người Hạ đánh thương người của ta thì thôi, nếu không, đoạt được doanh trại, đuổi theo thủ quân”.
Triệu Quang Nghĩa nhận được tình báo từ Tống Kỳ, không khỏi vui mừng, theo lý mà nói, tổn thất tám vạn đại quân thì đối với hắn mà nói có thể nhanh chóng chuộc lỗi với thiên hạ để thể hiện tài năng của hắn trước mặt thiên hạ, điểm khác thì không nói làm gì, nHạn môn quan giờ có cường binh đóng ở đó, song người Liêu tăng binh vô số, ý đồ không có gì tốt, hắn không dám tự tiện điều động, nếu như người Liêu vào người Hạ cùng nổi chiến, thì…nghĩ đến điều này, Triệu Quang Nghĩa vội viết mật chỉ cho Tống Kỳ, gọi thân tín hắn đến Phong Đài, nghĩ cách khuếch đại cuộc chiến giữa hai quân Liêu Hạ, để hắn chiếm cơ hội.
Thám mã tám trăm dặm của Triệu Quang Nghĩa bay nhanh ra khỏi kinh thành, lúc đó Dương Hạo đang ở Hạ châu gọi Mục Vũ tới dặn dò: “Tiểu Vũ, lần này đi Phong Đài, nhiệm vụ quan trọng phải vô cùng cẩn thận mà làm, cần khơi mào chiến tranh với người Liêu, còn phải khống chế được mức độ chiến hỏa, tất cả đều cần phải làm theo những gì ta vừa nói, không thể để tình cảm…”
Dương Hạo vừa nói đến đây, thác bạt Hạo phong tức giận hùng hổ xông vào nói: “Thánh Thượng, đại sự không xong rồi, Phong Đài sơn thủ tướng Liêu quân Lại Đa Phúc ngang ngược phát binh tấn công doanh trại ta, Phong Đài doanh thất thủ, Dương Diên Huấn đã lui thủ Nhị Đài sơn”.
Thác Bạt Hạo Phong chỉ nói được đến đây, Dương Hạo vừa sợ vừa giận, không ngờ nghe xong lời của hắn, mặt Dương Hạo và Mục Vũ đều rất kỳ lạ, hai người nhìn nhau, rồi pHán câu rất quái đản:
“Thánh Thượng, thần…còn cần đi không ạ?”
“…Đi, bảo Dương Kế Nghiệp tăng thêm một lộ binh, giúp Dương Diên Huấn đoạt lại Phong đài trại”.
“Vâng, thế thần đi ạ”.
Dương Hạo ừ một tiếng, khẽ lẩm bẩm: “Nhất Hưu ca, cứ đợi đấy…”
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com