Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

c4_dinhdanh

Chương 4: Định danh.

4.1 Các thực thể định danh.

4.1.1 Tên, định danh và địa chỉ.

Tên (name): là xâu các bit hoặc kí tự dùng để tham chiếu đến một thực thể trong HPT.

Địa chỉ (address): khi truy cập đến thực thể ta sử dụng điểm truy cập (access point). Các điểm truy cập này cũng phải được đặt tên và tên đó chính là địa chỉ của nó. Như vậy địa chỉ của thực thể chính là tên của điểm truy cập thực thể tương ứng.

Định danh (Identifiers): đây cũng là một kiểu tên đặc biệt. Việc định danh một tên phải thỏa mãn ba tính chất sau:

-  Mỗi thực thể chỉ được tham chiếu bởi duy nhất một định danh ID

-  Mỗi ID tham chiếu tới một thực thể.

-  ID đó không được gán cho một thực thể khác.

Không gian tên (Name space): dùng để biểu diễn tất cả các tên. Nếu xét về mặt hình học thì đây là một đồ thị có hướng, gồm các nút và các cung, gọi là đồ thị tên (naming graph). Đồ thị có cấu trúc: Mỗi nút lá miêu tả một một thực thể. Mỗi nút directory gắn với nhiều nút khác; lưu trữ trong bảng directory, bảng này là tập các cặp (label,indetifier).

Tên thân thiện (Human-friendly name): là các tên được đặt một cách dễ hiểu, thân thuộc với con người.

4.1.2 Độ phân giải tên.

Không gian tên đưa ra kĩ thuật lưu trữ và tìm kiếm các tên trên nó một cách dễ dàng. Một trong những phương pháp hay dùng là sử dụng đường dẫn tên (path name). Quá trình tìm kiếm tên trong không gian tên được gọi là phân giải tên (name resolution). Quá trình phân giải tên trả về định danh một nút.

Closure machanism: là kĩ thuật cho ta biết quá trình tìm kiếm tên được bắt đầu như thế nào và bắt đầu ở đâu.

Linking: kĩ thuật này sử dụng bí danh (alias) - tên giống với tên của thực thể. Với kĩ thuật này cho phép nhiều đường dẫn cùng tham chiếu đến cùng một nút trên đồ thị tên. Một cách tiếp cận khác là dùng một nút lá không phải để lưu trữ địa chỉ hay trạng thái của thực thể mà để lưu trữ đường dẫn tuyệt đối tới thực thể đó.

Mounting: là kĩ thuật được thực hiện khi tìm kiếm trên hai không gian tên. Một nút thư mục được gọi là một mount point (điểm gắn kết) lưu giữ id (hoặc các thông tin cần thiết cho việc xác định và truy nhập) một nút thư mục bên phía không gian tên cần gắn kết được gọi là mounting point.

Thông thường, nếu 2 không gian tên NS1, NS2 – để gắn kết một thực thể bên ngoài trong HPT, chúng ta cần tối thiểu những thông tin sau:

-          Tên của giao thức truy nhập ( được xác định để thực hiện giao thức TT)

-          Tên của server (xá định địa chỉ server)

-          Tên của mounting point (xác định id của nút trong không gian tên bên ngoài)

4.1.3 Thực hiện một không gian tên.

Phân phối không gian tên

Trong HPT, việc quản lý tên được thực hiện bằng cách phân thành các mức:

Mức Global: Chứa những nút thư mục ở mức cao ( gốc và con của nó). Trong lớp này các nút thư mục ít thay đổi.Khả năng sẵn sàng ở lớp Global được yêu cầu cao hơn so với các lớp còn lại. Nếu name server của lớp này bị lỗi thì việc phân giải tên không thể thực hiện.

Mức Administrational: Chứa  những nút thư mục ở mức trung gian, nó có thể được nhóm thành các nhóm, và mỗi nhóm có thể được chia cho những khu vực quản trị khác nhau. Các nút ở trong nhóm này cũng ít khi thay đổi. Khả năng sẵn sàng của name server trong lớp administrational là rất quan trọng đối với các client do name server quản lí. Vì nếu server này lỗi thì có rất nhiều các tài nguyên không thể truy cập

Mức Managerial: Chứa những nút thư mục ở mức thấp. Các nút trong mức này thay đổi khá thường xuyên. Ví dụ như các host trong một mạng LAN. Yêu cầu đối tính sẵn sàng của name server của lớp managerial ít khắt khe hơn so với 2 lớp trên. Song về hiệu năng thì yêu cầu đối với lớp này cao hơn do phải thường xuyên cập nhật các thay đổi.

Thực hiện phân giải tên

Cách 1: phân giải tên tương tác (interactive name sesolution),việc phân giải tên thực hiện bằng cách truyền và nhận qua lại giữa client và các name server ở các mức khác nhau. Theo cách này thì các server không trao đổi trực tiếp với nhau, mỗi server chỉ phân giải nhãn tương ứng với lớp để xác định địa chỉ của server tiếp theo, kết quả trả lại cho client là địa chỉ của name server tiếp theo, và việc liên kết với server tiếp theo là do client đảm nhiệm.

Cách 2: phân giải tên đệ quy (recursive name resolution), theo cách này thì mỗi name server sẽ gửi kết quả đến name server tiếp theo mà nó tìm thấy. Và cứ như vậy cho đến khi hoàn thành phân giải toàn bộ đường dẫn.       

4.2 Định vị các thực thể di động.

4.2.1 Tên và việc định vị các thực thể.

Mỗi thực thể đều có tên và địa chỉ tương ứng, việc ánh xạ từ tên đến địa chỉ của thực thể được thực hiện theo hai phương pháp: theo mô hình một lớp và theo mô hình hai lớp.

Theo mô hình một lớp: chỉ có một mức ánh xạ giữa tên và thực thể. Mỗi lần thực thể thay đổi vị trí, ánh xạ cần phải được thay đổi theo

Theo mô hình hai lớp: phân biệt tên và địa chỉ nhờ Entity ID. Gồm hai quá trình: quá trình tìm Entity ID tương ứng từ tên của thực thể được thực hiện bằng DVtên (naming service) và quá trình xác định vị trí của thực thể từ ID được thực hiện bởi DVđịnh vị (Location service).

4.2.2 Các giải pháp định vị thực thể .

Broadcasting và multicasting: gửi ID cần tìm tới tất cả các máy. Máy nào có thực thể đó thì  gửi lại một thông báo chứa địa chỉ của access point. Với phương pháp này, yêu cầu tất cả các tiến trình đều lắng nghe yêu cầu gửi đến.

Dùng con trỏ (forwarding pointer): với một thực thể di động rời khỏi vị trí A  của nó đến vị trí B thì nó sẽ để lại một tham chiếu tới vị trí mới của nó. Nhờ đó, khi định vị được thực thể, client có thể xác định ngay được địa chỉ hiện tại của thực thể này nhờ vết địa chỉ đó.

Home-based approaches: cấp phát cho mỗi thực thể một vị trí gốc (home)

Với phương pháp này sẽ tạo ra một home location để lưu giữ địa chỉ hiện tại của các thực thể (thường là nơi thực thể được tạo ra ).

-Địa chỉ của home được đăng kí tại naming service.

-Home đăng kí địa chỉ ngoài của các thực thể

-Client luôn đến home trước tiên, và sau đó tiếp tục với các vị trí bên ngoài.

Hierarchical approaches: xây dựng một cây tìm kiếm  phân cấp và thực hiện phân miền ở các mức khác nhau. Mỗi domain hình dung như một nút thư mục riêng biệt dir(d). Nútgốc biết tất cả các thực thể. Mỗi thực thể trong một domain D tương ứng với một location record trong nút thư mục dir(D), nó là địa chỉ hiện tại của thực thể hoặc một con trỏ.

Địa chỉ của một thực thể được lưu trong một nút lá, hoặc một nút trung gian. Nút trung gian chứa một con trỏ đến một nút con nếu và chỉ nếu cây con nằm tại nút con lưu trữ một địa chỉ của thực thể. Một thực thể có thể có nhiều địa chỉ (ví dụ trong trường hợp tạo bản sao).

Nguyên lý cơ bản: Bắt đầu tìm kiếm ở các nút lá cục bộ. Nếu nút đó biết thực thể, tiếp theo sẽ đi xuống phía dưới  theo con trỏ, ngược lại đi lên trên. Tìm kiếm lên mức cao nhất là root

4.3 Xóa bỏ các thực thể không còn được tham chiếu

4.3.1 Đếm các tham chiếu

Mỗi lần client tạo(xóa) một tham chiếu đến một đối tượng O, một bộ đếm tham chiếu sẽ tăng thêm (giảm đi).

4.3.2 Lên danh sách các tham chiếu (Reference Listing).

Skeleton duy trì một danh sách tất cả các proxy trỏ đến nó.

Ở đây đưa ra khái niệm Idempotent operation là một thao tác nó có thể lặp đi lặp lại nhiều lần mà không ảnh hưởng đến kết quả ( ví dụ 1*1=1).

Thông điệp để thêm/xóa một proxy của danh sách cũng gần giống như tăng/giảm bộ đếm tham chiếu.

Các thực thể chuyển tham chiếu cho các thực thể khác nhưng không thể lấy được từ root.

Tập hợp loại bỏ dựa trên cơ sở truy nguyên: kiểm tra những phương thức có thể lấy được từ root và remove

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: