Các trận hải chiến lịch sử thời giữa Trung Đại - Châu Âu P2
Trận Lepanto - trận đánh lớn nhất và cuối cùng của các tầu Galley
Ngày: Ngày 07 tháng 10 năm 1571
Vị trí: Vịnh Patras, Biển Ionia
Kết quả: Liên minh thần thánh chiến thắng
Các bên tham chiến
Liên minh Thần thánh gồm có:
Tây Ban Nha
Cộng hòa Venice
Giáo hoàng La Mã
Cộng hòa Genova
Công quốc Savoy
Hiệp sĩ của Malta
Chỉ huy
Don John của Tây Ban Nha
Sebastiano Venier - Tư lệnh hải quân Venezia
Marcantonio Colonna - Chỉ huy Hải quân Ý
Sức mạnh
202 tầu Galley
6 galleasses
76 khác thuyền buồm
Súng đại bác 1.815 khẩu (ước tính)
Thương vong và thiệt hại
7.500 người chết
17 tàu bị mất.
Đế quốc Ottoman
Chỉ huy
Ali Pasha †
Sức mạnh
208 tầu Galley
46 galliots
23 fuste
750 súng đại bác (ước tính)
Thương vong và thiệt hại
20.000 người chết, bị thương hoặc bị bắt
137 tàu bị bắt giữ
50 tàu chìm
10.000 Nô lệ Kitô giáo chèo thuyền galley được giải phóng
Trận Lepanto diễn ra vào ngày 7 tháng 10 năm 1571 khi một hạm đội tầu galley của Liên minh Thần thánh, một liên minh của Tây Ban Nha (bao gồm cả vùng lãnh thổ của Napoli, Sicily và Sardinia), Cộng hòa Venice, Giáo hoàng (dưới Thánh Giáo hoàng Piô V), Cộng hòa Genova, Công quốc Savoy, Hiệp sĩ Cứu tế và những và những thành phố Kitô giáo khác, quyết tâm đánh bại đội tàu Galley chính của Hải quân Đế quốc Ottoman.Trận hải chiến đấu diễn ra trong 5 giờ đồng hồ ở rìa phía bắc của Vịnh Patras, ngoài khơi phía tây Hy Lạp, nơi mà các lực lượng của Hải quân Đế quốc Ottoman tiến về phía tây từ căn cứ hải quân của họ ở thành phố Lepanto để giao chiến với lực lượng liên minh thần thánh, vốn đã đến từ Messina. Chiến thắng này làm cho liên minh thần thánh tạm thời kiểm soát biển Địa Trung Hải, bảo vệ Rome khỏi bị xâm lược, và ngăn chặn Đế Quốc Ottoman tiến sâu vào châu Âu. Trận đánh này là trận hải chiến lớn cuối cùng giữa các tàu chiến dùng mái chèo ( tầu Galley), và sau trận này hàng hải Châu Âu bắt đầu chuyển sang một kỷ nguyên mới - kỷ tầu buồm.
Lực lượng hai bên
Hạm đội của Liên minh Thần thánh gồm 206 tầu galley và 6 galleasses (một loại tầu galley mới rất to, phát minh của Venezia, được trang bị đáng kể pháo binh) và đã được chỉ huy bởi Don Juan de Austria tài năng, người con trai ngoài giá thú của Hoàng đế Charles V và là em trai cùng cha khác mẹ của vua Philip II của Tây Ban Nha. Tàu chiến được đóng góp từ các thành bang Kitô giáo khác nhau: 109 galley và 6 galleasses từ Cộng hòa Venice, 80 galley từ Tây Ban Nha, 12 galley từ Tuscan dưới sự chỉ huy của Saint Stephen, 3 galley đến từ Genoa, Malta, Và Savoy, và một số galley tư nhân. Tất cả thành viên của liên minh đều xem các lực lượng hải quân Thổ Nhĩ Kỳ là một mối đe dọa lớn, đến an ninh của thương mại hàng hải trong biển Địa Trung Hải và an ninh của chính lục địa Châu Âu. Các đội quân Kitô giáo khác nhau đã tập hợp với các lực lượng chính của Venice (dưới sự chỉ huy của Venier), trong tháng Bảy và tháng 8 năm 1571 tại Messina, Sicily. Don Juan de Austria đến đó vào ngày 23 tháng 8.Hạm đội tàu của liên minh Kitô giáo được điều khiển bởi 12.920 thủy thủ. Ngoài ra, nó mang gần 28.000 quân chiến đấu: 10.000 lính bộ binh chính quy thiện chiến người Tây Ban Nha , 7.000 lính Đức và 6.000 lính đánh thuê Ý, và Venezia có 5.000 lính có chất lượng cao đặc biệt. Ngoài ra, các tay chèo Venetian chủ yếu là người tự do và có thể mang vũ khí để tăng thêm sức mạnh chiến đấu của các tàu của họ, trong khi các nô lệ và tù nhân được sử dụng trong nhiều hải đội khác của Liên minh Thần thánh.Nhiều galley trong hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ cũng được chèo bởi nô lệ, thường là những người Kitô giáo bị bắt giữ trong cuộc chinh phục và trận đánh trước đó. Các tay chèo tự do nói chung được công nhận là tốt hơn, nhưng đã dần dần bị thay thế trong tất cả các đội tàu galley (kể cả của Venice từ 1549) trong suốt thế kỷ 16 bởi những nô lệ , tù nhân hình sự và tù nhân chiến tranh rẻ hơn do áp lực tăng nhanh của chi phí cho các hạm đội galley.Những chiếc Galley của Hải quân Đế Quốc Ottoman được điều khiển bởi 13.000 thủy thủ và 34.000 binh lính. Ali Pasha ( tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: "Kaptan-ı Derya Ali Pasa "), được hỗ trợ bởi lực lượng cướp biển Chulouk Bey của Alexandria và Uluj Ali (Ulich Ali), chỉ huy một lực lượng Hải quân của Đế quốc Ottoman gồm 222 tầu chiến galley, 56 galliots, và một số tàu thuyền nhỏ. Người Thổ có các đội thủy thủ có tay nghề và kinh nghiệm, nhưng không đủ lính trong đạo quân tinh nhuệ Janissary của họ.Một lợi thế được cho là cực kỳ quan trọng và quyết định để cho phe Kitô giáo chiếm ưu thế là sự vượt trội về số súng và pháo trên những chiếc tàu của họ. Theo ước tính phe Kitô giáo có 1.815 khẩu súng lớn, trong khi đó người Thổ chỉ có 750 với đạn dược không đầy đủ.Phái Kitô giáo cũng có súng hoả mai và pháo thủ với chất lượng tốt hơn, Trong khi người Ottoman lại khá tin cậy vào tay nghề cao nhưng lại là các tay cung bắn cung sừng trâu (composite bowmen )
Triển khai trận đánh
Hạm đội của người Kitô giáo được chia thành bốn hải đội trong một đội hình hàng dọc theo hướng Bắc-Nam. Ở cuối phía Bắc, rất gần bờ biển, là Hải đội cánh trái với 53 tầu galley, chủ yếu là tầu của Venezia, do Agostino Barbarigo chỉ huy, với sự hỗ trợ của Marco Querini và Antonio da Canale. Hải đội Trung tâm gồm 62 tầu galley nhỏ do Don Juan de Austria đích thân chỉ huy trên chiến hạm Real, cùng với Sebastiano Venier, phía sau là Đô thống của Venice, Mathurin Romegas và Marcantonio Colonna. Hải đội ở cánh phải ở phía nam bao gồm 53 galley dưới sự chỉ huy của viên chỉ huy người Genoa, Giovanni Andrea Doria, người cháu lừng danh của đô đốc hải quân vĩ đại người Genoa, Andrea Doria. Hai galleasses, loại có gắn pháo ở mũi tầu, đã được điều lên phía trước của mỗi hải đội chính, mục đích này là để, theo Miguel de Cervantes - bác nhà văn viết truyện Đôngkisốt (người đã chiến đấu trên tầu galley Marquesa trong trận đánh), ngăn cản người Thổ dùng những chiếc thuyền nhỏ dùng nhựa cháy ngầm phá hỏng hoặc nhảy lên tầu của người Kitô giáo. Một hải đội dự bị đóng ở phía sau (có nghĩa là, về phía tây ở ngoài khơi ) hạm đội chính, để tung ra sự hỗ trợ bất cứ nơi nào họ thấy là cần thiết. Bộ phận này bao gồm 38 galley dự trữ - 30 chiếc phía sau Hải đội Trung tâm dưới sự chỉ huy của Álvaro de Bazán, và bốn chiếc phía sau mỗi cánh. Một nhóm tầu trinh sát được thành lập, từ hai chiếc galley ở cánh phải và sáu chiếc galley từ bộ phận dự trữ. Khi hạm đội của Kitô giáo đã từ từ xoay quanh Point Scropha, hải đội cánh phải của Doria, tại ngoài khơi bờ biển, đã bị trì hoãn tại đầu của trận đánh và chiếc galleasses của cánh phải đã không được tung vào đúng vị trí.Hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ gồm 57 galley và 2 galliots ở phía cánh phải của nó dưới quyền chỉ huy của Chulouk Bey, 61 galley và 32 galliots ở phía Trung tâm dưới sự chỉ huy của Ali Pasha trên chiếc kỳ hạm Sultana, và khoảng 63 galley với 30 galliots ở ngoài khơi phía Nam dưới sự chỉ huy của Uluj Ali. Một lực lượng dự bị nhỏ gồm 8 galley, 22 galliots và 64 fustas ở phía sau hải đội Trung tâm. Ali Pasha đã được cho là đã nói với các nô lệ Kitô chèo thuyền galley của ông rằng: "Nếu tôi giành chiến thắng trong trận chiến này, tôi hứa trả tự do cho các bạn. Nếu ngày hôm nay là của các bạn, thì Chúa sẽ mang tự do đến cho các bạn."
Trận đánh
Các tầu galleasses ở hải đội cánh Trái và Trung tâm đã tiến lên nửa dặm phía trước dòng tầu của Thiên chúa giáo. Khi trận chiến bắt đầu, người Thổ nhầm các tầu Galeasses là tàu buôn và không ra lệnh tấn công chúng. Điều này được chứng minh là một thảm họa, chỉ mình các tầu galeasses với rất nhiều súng của họ, đã được cho là đánh chìm đến 70 galley của Thổ Nhĩ Kỳ, trước khi hạm đội của Thổ Nhĩ Kỳ bỏ họ lại phía sau. Cuộc tấn công của họ cũng làm gián đoạn đội hình của Hải quân Ottoman. Khi trận đánh bắt đầu, Doria thấy rằng các galley của Uluj Ali mở rộng hơn nữa về phía nam, và do đó ông ta ra lệnh tiến về phía nam để tránh bị đánh thọc sườn, thay vì giữ vị trí dòng tầu của người Thiên chúa giáo. Sau trận đánh Doria bị cáo buộc có lái đội tầu của mình ra khỏi hàng loạt các trận đánh để tránh việc thương vong và thiệt hại. Bất kể là như thế nào, ông đã bị chèn ra ngoài bởi Uluj Ali, người đã quay lại và tấn công vào cuối phía nam của hải đội Trung tâm, lợi dụng khoảng không lớn mà Doria đã để lại.Ở phía Bắc, Chulouk Bey đã cố gắng để đến được giữa bờ biển và Hải đội phía Bắc của người Kitô giáo, với sáu Galley trong một động thái nhằm đánh thọc sườn, và bước đầu gây ra thiệt hại cho hạm đội Thiên chúa giáo. Barbarigo đã bị giết bởi một mũi tên, nhưng các tầu của người Venezia, quay lại để chiến đấu đối mặt với mối đe dọa này, siết chặt đội ngũ của mình. Sự trở lại của một galleass đã cứu cho hải đội phái Bắc của người Kitô. Hải đội phía Trung tâm của người Kitô giáo cũng đã tổ chức phù hợp với sự chi viện của Dự bị, sau khi phải chịu rất nhiều thiệt hại, đã gây ra thiệt hại lớn cho cánh Trung tâm của quân Hồi giáo. Ở phía nam, phía xa bờ, Doria đã tham gia vào một cuộc hỗn chiến với tàu của Uluj Ali, và đang bị thiệt hại nặng hơn. Trong khi đó mình Uluj Ali chỉ huy 16 galley tạo một cuộc tấn công nhanh trên hải đội của Trung tâm người Kitô giáo, chiếm lấy sáu galley - trong số những người đến từ Malta Capitana, người Hồi Giáo giết chết tất cả, nhưng ba người trên tàu may mắn vẫn còn sống sót. Chỉ huy của đội tầu Pietro Giustiniani, Hiệp sỹ dòng Cứu tế, bị thương nặng nề bởi năm mũi tên, nhưng được tìm thấy còn sống trong cabin của mình. Sự can thiệp của người Tây Ban Nha Álvaro de BaZan và Juan de Cardona với lực lượng dự trữ đã đổi chiều của trận chiến, cả hai cánh Trung tâm và Doria ở cánh phía Nam.Uluj Ali đã buộc phải bỏ chạy với 16 tầu galley và 24 galliots, từ bỏ tất cả, nhưng trong tất cả những tầu của ông thì chỉ một tầu bị bắt. Trong quá trình trận đánh, Tầu của Tư lệnh Hải quân Ottoman đã bị áp mạn và các phân đội lính thuỷ vũ trang Tây Ban Nha từ 3 chiêc Galley và lính Janissary Thổ Nhĩ Kỳ từ bảy chiếc Galley đã chiến đấu với nhau trên sàn của chiếc Sultana. Hai lần lính Tây Ban Nha đã bị đẩy lùi với tổn thất lớn, nhưng ở lần cố gắng thứ ba, với quân tiếp viện từ chiếc galley của Álvaro de BaZan, họ thắng thế. Müezzinzade Ali Pasha bị giết chết và bị chặt đầu, trái với mong muốn của Don Juan ( chắc bác này muốn bắt sống cơ). Tuy nhiên, khi đầu của ông ta bị treo thị trên một cột buồm của một chiến hạm Tây Ban Nha, nó đã góp phần rất lớn đến tiêu hủy tinh thần của người Thổ Nhĩ Kỳ. Ngay cả sau khi kết quả của trận chiến đã rõ ràng quay lưng lại với người Thổ, các nhóm lính Janissary vẫn tiếp tục chiến đấu với tất cả những gì họ có. Người ta nói rằng tại một số nơi lính Janissary hết đạn và họ bắt đầu ném cả cam và chanh vào kẻ thù Kitô giáo của mình ( thì còn cái lai quần cũng đánh còn gì nữa - nhưng đúng là họ thật dũng cảm phải không các bác), dẫn đến những cảnh đáng cười một cách vụng về trong nỗi đau khổ chung của trận đấu.Trận đánh kết thúc khoảng lúc 16:00. Hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ bị mất khoảng 210 tàu, trong đó có 117 galley, 10 galliots và ba fustas bị bắt vẫn ở trong điều kiện đủ tốt cho các lực lượng Kitô sử dụng. Bên lực lượng Kittô 20 galley đã bị phá hủy và 30 bị hư hại nghiêm trọng và chúng đã bị đánh đắm. Một tầu galley của người Venetian bị người Thổ chiếm như là phần thưởng cho họ, tất cả những tầu bị chiếm khác đã bị bỏ lại bởi người Thổ và tái chiếm lại bởi người Kitô giáo.Uluj Ali, người đã bắt kỳ được chiếc kỳ hạm của các Hiệp sĩ Malta, đã thành công trong việc giải cứu nhiều nhất các tàu chiến của mình từ khi thắng bại được xác định rõ ràng. Mặc dù ông ta đã phải cắt toa bỏ lại chiếc kỳ hạm Malta để bỏ chạy, ông chạy về phía Constantinople, thu thập tổng số 87 chiếc tầu các loại còn sống sót sau trận đánh và chạy về phía thủ đô của Đế quốc Ottoman, ông ta dâng lá cờ khổng lồ của Mantơ lên Sultan Selim II, người sau đó ban cho ông ta chức danh danh dự "kιlιç" (Sword); Uluj do đó đã được biết đến như là Kılıç Ali Pasha.
Sau trận đánh
Trận đánh là một thất bại nặng nề cho người Ottoman, người đã không thua một trận đánh lớn hải quân nào kể từ thế kỷ 15. Trận thua này được chia buồn bởi Divine Will, biên niên sử gia ghi rằng "hạm đội của Đế quốc gặp phải hạm đội của những kẻ ngoại đạo và ý của Chúa đã chuyển sang một hướng khác." Đến một nửa số những người dân Kitô, sung sướng trước sự kiện này hy vọng cho sự sụp đổ của người Turk, người được coi là " Kẻ thù vĩnh cửu của Kitô giáo". Thật vậy, đế quốc đã mất tất cả gần 300 tàu của nó và khoảng là 30.000 lính, và một số sử gia phương Tây đã nói rằng đây là trận hải chiến quyết định nhất thế giới kể từ sau trận Actium của 31 TCN. Tuy nhiên, ngay sau khi bị đánh bại, Tổng bộ trưởng Vizier Mehmed Sokullu của Selim II, nói với Barbaro, sứ giả của Venetian rằng chiến thắng Christian tại Lepanto là vô nghĩa, nói rằng:" Ngài đến để xem chúng tôi chịu bất hạnh của chúng tôi như thế nào. Nhưng tôi sẽ cho ngài biết sự khác biệt giữa sự mất mát của các ngài và của chúng tôi. Trong khi đoạt lấy đảo Síp từ các ngài , chúng tôi tước của các ngài một cánh tay; trong đánh bại hạm đội của chúng tôi, các ngài chỉ cạo mất bộ râu của chúng tôi. Một cánh tay khi bị cắt thì không thể mọc lại một lần nữa, nhưng một chòm râu sẽ phát triển tốt hơn sau khi đã bị cạo sạch đi."Thật vậy, mặc dù có được một chiến thắng quan trọng, sự chia rẽ trong Liên minh Thánh Thần ngăn cản những người thắng trận tận dụng chiến thắng của họ. Kế hoạch để chiếm lấy eo biển Dardanelles, như là một bước tiến trong việc phục hồi thành phố Constantinople cho những người Kitô giáo, đã bị phá hoại bởi những tranh cãi giữa các đồng minh. Với một nỗ lực lớn, Đế quốc Ottoman xây dựng lại hải quân của nó và bắt chước thành công các galeasses của người Venetian. Vào năm 1572, hơn 150 galley và 8 galleasses đã dượcđóng mới, thêm tám trong các chiến thuyền lớn nhất từng được thấy tại Địa Trung Hải. Trong vòng sáu tháng một hạm đội mới gồm 250 tàu (bao gồm 8 galleasses) đã có thể lấy lại uy quyền của hải quân Đế quốc Ottoman ở phía đông Địa Trung Hải. Ngày 07 Tháng 3 năm 1573 Venezia đã công nhận bằng hiệp ước quyền sở hữu đảo Sípcủa Đế quốc Ottoman, vốn đã rơi vào người Thổ dưới thời Piyale Pasha vào ngày 3 Tháng Tám 1571, chỉ hai tháng trước khi Lepanto, và ở trong tay người hổ Nhĩ Kỳ trong ba thế kỷ kế tiếp, và trong mùa hè đó hải quân Ottoman tiếp tục tàn phá các bờ biển dễ bị tổn thương của Sicilia và miền nam Italia. Tuy nhiên, trong khi tàu bè tương đối dễ dàng để thay thế, rất khó khăn cho việc thay thế con người, kể khi từ rất nhiều thủy thủ giàu kinh nghiệm, tay chèo và binh sĩ đã bị mất. Việc mất mát quá nhiều các thủy thủ đoàn dày dạn kinh nghiệm của mình tại Lepanto giảm hiệu quả chiến đấu của hải quân.
Các tầu Galeasses của liên quân Thiên chúa giáo
Việc mất quá nhiều các thủy thủ thuỷ thủ giàu kinh nghiệm của mình tại Lepanto đã làm giảm hiệu quả chiến đấu của hải quân Ottoman, một thực tế cho thấy các cuộc đối đầu của hải quân của họ với hải quân các nước Kitô giáo đã giảm xuống tối thiểu trong những năm ngay sau trận đánh.Đặc biệt quan trọng là sự mất mát của lực lượng cung thủ vốn là vũ khí chính trang bị trên chiến hạm của Đế quốc,vượt hơn hẳn số tầu được trang bị súng thời đó . Nhà Sử học John Keegan viết lại rằng các lỗ hổng trong trình độ chuyên môn của các chiến binh là không thể thay thế trong một thế hệ, và trong thực tế, chúng đại diện cho "cái chết của một truyền thống sống" của người Ottoman. Sử học Paul K. Davis đã lập luận rằng:"Thất bại của Thổ Nhĩ Kỳ đã chặn đứng tham vọng của người Thổ mở rộng ảnh hưởng của họ ở vùng biển Địa Trung Hải, và duy trì sự thống trị của phương Tây, và sự tự tin đã tăng lên ở các nước nhỏ ở phía tây rằng người Thổ, trước đây là không thể chặn nổi, bây giờ có thể bị đánh bại."Trong 1574 trong chiến dịch Tunis, Đế quốc Ottoman chiếm lại thành phố chiến lược Tunis từ tay người Tây Ban Nha, lúc đó đang hỗ trợ cho triều đại Hafsid, khi binh lính của Don Juan chiếm thành phố trong tay Đế quốc Ottoman từ năm trước. Với liên minh lâu dài Pháp-Ottoman sắp tới họ đã có thể tiếp tục hoạt động hải quân tại phía Tây biển Địa Trung Hải. Năm 1579 việc chiếm hoàn thành cứ điểm Fez đã kết thúc cuộc chinh phục Ma-rốc của Đế quốc Ottoman, chiến dịch bày được bắt đầu bởi Süleyman the Magnificent. Việc thành lập quyền bá chủ của Đế quốc Ottoman trên khu vực này đã đặt toàn bộ bờ biển Địa Trung Hải từ eo biển Gibraltar tới Hy Lạp (với ngoại lệ của thành phố, kinh doanh kiểm soát của Tây Ban Nha Oran và các khu định cư của chiến lược như Melilla và Ceuta) - dưới quyền kiểm soát của Đế quốc Ottoman.
Các loại tầu bè thường được sử dụng trong hải chiến thời trung Trung Cổ
Tầu Galley
Một tầu galley là một con tàu cổ có thể cơ động được là do toàn bộ hệ thống tay chèo, dược sử dụng cho mục đích chiến tranh và buôn bán. Hệ thống tay chèo được biết đến ít nhất là từ thời Ai Cập Cổ đại. Nhiều tầu Galley đã có cột buồm và buồm được sử dụng khi gió ở trong các điều kiện thuận lợi. Như vậy đối với tầu Galley thì cơ động bằng sức chèo là chính, buồm là phụ.Có nhiều loại Galley làn trụ cột cho các lực lượng hải quân Địa Trung Hải từ khoảng thế kỷ thứ 8 TCN đến khi có sự phát triển của pháo hải quân trên toàn thế kỷ 15 và 16. Tầu chiến Galley được tìm thấy trong cuộc chiến tranh cổ đại Ba Tư, Hy Lạp, Carthage và Rome cho đến thế kỷ thứ 4. Sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã, tầu Galley lại là lực lượng nòng cốt trong Hải quân Byzantine và các triều đại kế tục của Đế quốc La Mã, và hải quân Hồi giáo. Thời Trung cổ ở các thành bang Địa Trung Hải, đáng chú ý nhất là các nước cộng hòa hàng hải Ý như Venice, Pisa, và Genoa, tầu Galley được sử dụng cho đến sự ra đời của lớp tầu buồm man-of-war có khả năng hành trình lâu dài trên Đại dương làm cho tầu Galley trở thành quá lạc hậu. Trận Lepanto (1571) là một trong những trận hải chiến lớn nhất mà tầu Galley đóng vai trò chính.Tầu Galley tiếp tục được sử dụng làm chủ đạo cho đến sự ra đời sử dụng loại tầu buồm sử dụng hệ thống pháo mạn ở Địa Trung Hải trong thế kỷ 17, và tiếp tục được sử dụng trong vai trò kém dần cho đến khi có sự ra đời của máy hơi nước.
Chi tiết kỹ thuật tiêu biểu của tầu Galley thời Trung Cổ
Các đặc điểm kỹ thuật của tầu galley tìm đượcđến từ một đặt hàng của Charles I của Sicilia, Năm 1275 AD (trong cả hai Bass & Pryor). Nhìn chung chiều dài của tầu galley là 39,30 m, keel ( đáy) dài 28,03 m, độ sâu 2,08 m. chiều rộng thân 3,67 m. Chiều rộng của các phần bao quanh 4,45 m. 108 mái chèo, phần lớn dài 6,81 m, thỉnh thoảng có mái dài 7,86 m, 2 mái chèo lái dài 6,03 m. Cột buồm mui và cột buồm giữa cao 16,08 m, 11,00 m, chu vi cột buồm 0,79 m, chiều dài sàn tầu 26,72 m, 17,29 m. Toàn bộ trọng tải khoảng 80 tấn. Loại tàu có hai, sau đó là ba người trên một ghế chèo. Điều này cho thấy mái chèo của tàu galley dài hơn so với các trireme của Athens, loại dài 4,41 m và 4,66 m (Morrison p269).Tầu Galley Trung cổ này đi tiên phong trong việc sử dụng súng hải quân, những điểm này như là một bổ sung được thiết kế để phá huỷ các phần bao trên tầu của đối phương. Chỉ trong thế kỷ 16 tầu Galley được dùng để gọi cho loại tầu phát triển bằng rất nhiều tay chèo(Pryor p67).Tại Trận Lepanto năm 1571, các tầu chiến Galley tiêu chuâne của Venetian dài 42 m và rộng 5,1 m (6,7 m với khung chèo), đã có phần rẽ nước dài 1,7 m và chiều cao của boong tàu ở trên mức nước là 1,0 m và nặng khoảng 140 tấn. Các kỳ hạm galley (lanter) lớn hơn có kích cỡ là dài 46 m và rộng 5,5 m (7,3 m với khung chèo), phần rẽ nước dài 1,8 m và chiều cao của boong tàu ở trên mức nước là 1.1. và nặng 180 tấn. Những Galley tiêu chuẩn có 24 ghế chèo mỗi bên, với ba tay chèo một băng ghế. Các thuỷ thủ đoàn thường bao gồm 10 sỹ quan, khoảng 65 thủy thủ, pháo thủ và nhân viên khác cộng với 168 tay chèo. Chiếc Lanter có 27 ghế trên mỗi bên, với 156 tay chèo, và thuỷ thủ đoàn là một trong 15 nhân viên và khoảng 105 thủy thủ, pháo thủ và binh lính khác. Các tầu Galley thường mang một pháo nặng 50-pound hoặc 32-pound tại mũi tầu cùng với bốn súng nhẹ hơn và bốn pháo xoay. Các Lanter lớn mang một khẩu súng hạng nặng cộng với sáu súng 12 và 6 pound và tám súng xoay.
Tầu Galêy được sử dụng ở miền Bắc Âu
Có bằng chứng khảo cổ học của tầu Galley kỷ Dark Age phía biển Bắc từ các di tích tầu bị chôn, không giống như tầu Galley cổ ở Địa Trung Hải. Ấn tượng nhất là tầu Gokstad. Một sự phát triển của các tầu Viking longships và knarrs, các tầu Galley thời Trung cổ Bắc Âu được chế tạo theo phương pháp - clinker, sử dụng một cánh buồm hình vuông và các hàng mái chèo, và trông rất giống như người tiền nhiệm của họ Bắc Âu.Trong vùng biển ngoài khơi phía tây của Scotland giữa năm 1263 và 1500, các chúa đảo được sử dụng Galley cho mục đích chiến tranh và vận tải hàng hải xung quanh lãnh thổ của họ, trong đó bao gồm các bờ biển phía tây của Cao nguyên Scotland, và các vùng Hebrides, Antrim của Ai-len. Họ sử dụng tàu Galley cho các trận tấn công các lâu đài hoặc pháo đài được xây dựng gần bờ biển. Là một lãnh chúa phong kiến cao cấp, chúa đảo yêu cầu sự cung cấp về tầu Galley theo một số quy định và kích thước tiêu chuẩn từ mỗi vùng đất. Ví dụ đảo Man đã phải cung cấp sáu Galley 26 mái chèo, và Sleat thuộc Skye đã phải cung cấp một Galley 18 mái chèo.Chạm trổ trong tầu Galley trên mộ đá từ năm 1350 trở đi cho thấy việc đóng các tàu thuyền. Từ thế kỷ 14 họ bỏ một mái chèo bánh lái và sử dụng một bánh lái phía đuôi, với một đuôi tầu thẳng cho phù hợp. Từ một tài liệu của năm 1624, một galley đúng nghĩa sẽ có 18-24 mái chèo, một birlinn có 12-18 mái chèo và một lymphad còn có ít hơn.
Tầu Galley được sử dụng như là tàu buôn
Từ nửa đầu thế kỷ 14 các galere da mercato của Venezia "tầu galley thương mại" đã đang được đóng tại các xưởng đóng tàu của Quân giới do chính phủ điều hành như là "một sự kết hợp của các hiệp hội doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, hoặc là một loại côngxoocxiom của thương nhân xuất khẩu", như Fernand Braudel miêu tả. Các tàu khởi hành theo đoàn convoy, được bảo vệ bằng cung thủ và pháo thủ bắn ballestieri trên tàu, và sau đó có mang pháo.Trong tầu Galley thế kỷ 14 và 15 chuyên trở hàng hoá có giá trị cao và hành khách. Các tuyến đường chính trong thời gian của các cuộc Thập tự chinh đầu là con đường hành hương đến Đất Thánh. Sau đó các tuyến đường liên kết với các cảng trong Địa Trung Hải, giữa Địa Trung Hải với Biển Đen (một trung tâm thương mại lớn bị xoá sổ do Thổ Nhĩ Kỳ chiếm giữ thành phố Constantinople, 1453) và giữa Địa Trung Hải với Bruges- Nơi galley đầu tiên của Genoese đến là Sluys trong năm 1277, là Galley đầu tiên của Venetian đến năm 1314 - và Southampton. Mặc dù chủ yếu là tàu buồm, họ đã sử dụng mái chèo để vào các trung tâm buôn bán, cách hiệu quả nhất để vào vả ra khỏi Lagoon of Venice. Tầu Galley của Venetian, bắt đầu từ 100 tấn và được đóng to lên thành 300, cũng không phải là những tầu buôn lớn nhất ngày đó, khi tầu Carrack của Genoese ở thế kỷ 15 có thể vượt quá 1.000 tấn. Năm 1447 ví dụ, Galley của Florentine lên kế hoạch để đến 14 cảng trên đường đi từ Alexandria (Pryor p57). Đặc tính của mái chèo cho phép các tàu di chuyển gần với bờ biển, nơi họ không thể tận dụng gió từ đất liền và gió biển cùng dòng chảy ven biển, mái chèo cho pháp họ vận động một cách đáng tin cậy và tương đối nhanh so với gió biển ven bờ. Các thuỷ thủ đoàn lớn cũng cung cấp bảo vệ chống cướp biển. Những tàu này rất có khả năng chịu dựng giông tố từ biển; một tầu Galley Florence lớn rời Southampton ngày 23 tháng 2 1430 và trở về cảng của mình tại Pisa trong 32 ngày. Họ an toàn đến mức mà hàng hóa thường không cần phải mua bảo hiểm (Mallet). Những tàu có kích thước lớn trong thời gian này đã được làm tiêu bản mà từ đó phát triển các tầu galleass.
Suy thoái của tầu Galley
Sự suy giảm của galley đã bị kéo dài vô cùng, bắt đầu từtrước khi có sự phát triển của pháo và tiếp tục một cách từ từ trong nhiều thế kỷ. Đầu năm 1304, kiểu tàu theo yêu cầu của Uỷ ban quốc phòng Đan Mạch đã thay đổi từ loại galley sang Cog, một loại tâu buồm có chèo và đáy bằng(Bass p191). Loại tàu buồm lớn, mạn tầu cao luôn là những trở ngại rất ghê gớm cho tầu Galley. Đầu năm 413 TCN lớp tầu triremes bị đánh bại có thể tìm nơi trú ẩn đằng sau một mạn cao của các tàu buôn (Thucydides (7, 41), 4 Needham, PT3, p693). Cuối thế kỷ 15 chứng kiến sự phát triển của tầu lớp man-of-war, lớp tầu buôn và là tàu chiến đi trên Đại dương thực thụ, bắt đầu từ lớp carrack, sau đó phát triển thành lớp Galleon và sau đó là tầu buồm vuông rigger. Các tàu chiến sử dụng buồm tiên tiến mà cho phép di chuyển nương theo gió (tacking) , và được trang bị pháo hạng nặng. Trong Địa Trung Hải, sự suy giảm của galley bắt đầu khoảng 1595-1605. Đây cũng là điểm bắt đầu của một lớp tầu thương mại Hà Lan trong thế kỷ 17. Chúng được trang bị vũ khí hạng nặng và có bánh lái và chịu sóng biển tốt để họ có thể cạnh tranh thương mại và chống trộm cắp, cũng như cướp biển. Tầu Galley Venetian hiếm khi có thể đối phó với cướp biển trong mùa hè, và càng không thể đối phó với chúng trong mùa đông (Tenenti). Quân sự, tầu lớp Men- of -war bổ trợ cho những khuyết điểm của tầu Galley, ngoại trừ cho các hoạt động gần với bờ biển trong thời tiết không có gió. Trong đại dương sự thống trị của tầu lớp Men- of -war trở nên rõ ràng với các chiến thắng của Bồ Đào Nha trong Trận Diu năm 1509. Sự chuyển đổi chậm chập tại Địa Trung Hải bắt đầu với một Trận năm 1616, khi một đội nhỏ tàu Galeon của Tây Ban Nha đánh bại một hạm đội tầu Galley lớn của Đế Quốc Ottoman. Nhưng việc dừng sử dụng tầu Galley để tránh khỏi bị tiêu diệt cũng minh hoạ những lợi thế của các công trường thủ công trong các điều kiện liên tục thay đổi của vùng Địa Trung Hải. Vào Thập niên 1660 thậm chí toàn bộ sức mạnh của Địa Trung Hải giống như ở Venice bắt đầu tập trung vào đóng tầu lớp Men-of-war. Đến cuối thế kỷ 17, khi Thuyền trưởng Kidd làm lễ rửa tội cho con tầu tư nhân của ông, tàu Adventure Galley, Tầu Galley không còn là trụ cột trong các trận đánh lớn, nhưng sự lựa chọn của Kidd cho thấy, nó vẫn hữu ích để tấn công các vùng ven biển.Tại Mỹ tầu Galley được sử dụng trong Trận đảo Valcour năm 1776.Tầu Galley cũng được sử dụng trong chiến tranh cách mạng khi tàu săn cá voi Mỹ công kích các tầu vận tải Anh dọc theo bờ biển Mỹ.Các tầu Galley cũng rất hữu ích trong việc cung cấp cho quân Cách mạng với nhiều nguồn cung cấp cần thiết.Tầu Galley là chỗ dựa chính của Hạm đội cướp biển Bắc Phi và tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong vùng Địa Trung Hải vào thế kỷ 18. Chúng tham dự một trong những trận cuối cùng của chúng trong một trận chiến ở Địa Trung Hải, Trận Chesma vào năm 1770; chúng nấn ná trong vùng biển nông Baltic và đã tham gia vào Chiến tranh Nga-Thụy Điển trong năm 1790.Tầu Galley được sử dụng, một cách không có hiệu quả, do Hiệp sĩ Malta trong khi Napoléon vây hãm Valetta năm 1798.Những tầu chiến Galley cuối được đóng năm 1796 cho hải quân Nga như là một cách để đối phó đối thủ trong vùng biển Baltic, Hải quân Thụy Điển vẫn còn giữ lại 27 Galley năm 1809, và galley cuối của Thụy Điển được giữ lại trên ụ tàu cho đến 1835, trước khi nó nghỉ hưu ở tuổi 86 năm.
Các biến thể nâng cấp của tầu Galley thời Trung Cổ
Tầu Galeass
Tầu galleass hoặc "galliass" được phát triển từ loại tầu buôn Galley lớn. Mục đích chuyển đổi để dùng cho mục đích sử dụng quân sự tầu galleass cao hơn và lớn hơn các Galley bình thường. Chúng có tới 32 mái chèo, mỗi mái chèo có tới 5 tay chèo. Chúng thường có ba cột buồm, một forecastle (chỉ phần trên boong của một tàu buồm phía trước của cột buồm mui, nơi thường được đóng cao lên giống như phía trước của một lâu đài Trung cổ để cho cung thủ đướng ngắm bắn và chiến đấu) và aftcastle(là những tầng trên của một chiếc tàu buồm vị trí phía sau cột buồm thứ ba. Nó được thiết kế ở tầu Galley hoặc galleasses thời Trung cổ để tạo ra vị trí thuận lợi về chiều cao mà từ cung thủ có thể đó bắn sang tên lửa sang tầu địch, đây cũng là một nơi bố phòng để đánh trả trong trường hợp đối phương nhảy lên boong). Nhiều nỗ lực được thực hiện ở thành phố Venice để làm cho các galleasses chạy càng nhanh càng tốt để cạnh tranh với các Galley bình thường. Bong súng thường chạy qua phía trên đầu của các tay chèo, nhưng cũng có hình ảnh hiển thị sự sắp xếp ngược lại.Galleasses thường mang nhiều buồm hơn loại Galley thật sự, và có nhiều ổ súng hơn; một galley cũng có thể có hệ thống pháo mạn nhưng không thực sự hiệu quả, nhưng pháo mạn của một tầu galleass thì gần như của một chiếc tàu tiền tuyến, tung ra các cuộc tấn công vào kẻ địch bằng súng của nó. Tầu galleass là thí dụ cho một loại trung gian giữa các galley và lớp Men -of- war. Tàu Galleass được đóng tương đối ít - một trong những bất lợi là bị phụ thuộc nhiều vào buồm, vị trí của chúng ở phía trước của đội hình tầu galley lúc bắt đầu một cuộc chiến là không thể được đảm bảo - nhưng chúng đã được sử dụng tại Trận Lepanto (Ngày 07 tháng 10 1571), hỏa lực của chúng góp nhiều vào việc giành chiến thắng cho hạm đội Thiên chúa giáo, và một số galleass đủ sức bền để đi kèm theo Hạm đội Armada Tây Ban Nha năm 1588 (e.g. La Girona). Trong thế kỷ 15 có một loại tầu galleass hạng nhẹ, được gọi là các tàu tuần duyên, được đóng ở các nước miền nam châu Âu để trả lời cho những thách thức ngày càng tăng của tầu Galley chạy nhanh của bọn cướp biển Barbary ở bắc Phi.Trong biển Địa Trung Hải, với vùng nước nông của mình, thời tiết ít nguy hiểm và gió hay thay đổi, cả hai loại tầu galley và galleass tiếp tục sử dụng, đặc biệt là ở Venice và Thổ Nhĩ Kỳ, từ lâu sau khi chúng đã trở nên lỗi thời ở các nơi khác. Sau đó, galley và galleass đã được thay thế bằng tàu galleon và tàu tiền tuyến, loại có nguồn gốc từ các quốc gia ở biển Đại Tay Dương. Chiếc tàu tiền tuyến đầu tiên của Venezia được đóng vào năm 1660.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com