Cai cach ruong dat
Cải Cách Ruộng Đất tại miền Bắc
» Tác giả: Võ Trường Sơn
» Dịch giả:
1. Cuộc cải tạo nông nghiệp tại Miền Bắc
* Lời nói đầu:
Những biến động chính trị đang diễn ra trong
nội bộ các nước Cộng sản là những biến cố
lịch sử đánh dấu một giai đoạn đấu tranh mới
của các dân tộc bị áp bức.
Một số học giả Tây phương quen giải thích các
biến cố trên bằng những lập luận cho rằng
các chế độ Cộng sản đang chuyển mình trên
tiến trình dân chủ hoá khiến cho các lực lượng
đối lập có cơ hội vùng lên chống đốị Lập
luận trên mới chỉ là "một nửa của sự thật"
(Pseudo-truth), và một nửa của sự thật ở đây
là một sự sai lầm, một sự lẫn lộn nguyên
nhân với hậu quả.
Đúng ra, người ta phải nói rằng các lực lượng
bị áp bức đã vùng lên đấu tranh và đẩy tập
đoàn Cộng sản thống trị tới chỗ phải nhượng
bộ từng bước một, tạm thời thoả mãn một
cách hạn chế những đòi hỏi dân chủ của nhân
dân bị áp bức và mặc dầu bị bắt buộc phải
nhượng bộ, tập đoàn Cộng sản thống trị chỉ
chịu lùi bước theo chiến thuật giai đoạn, trong
khi đó vẫn luôn luôn tìm cách quật lại đối
phương để giành lại ưu quyền chuyên chính, bất
cứ khi nào chúng có thể làm được chuyện đó.
Một khía cạnh đặc biệt thứ hai của các biến
động chính trị nói trên làcuộc đấu tranh của
các lực lượng bị Cộng sản áp bức đều mang
tính chất phi quy ước. Tuy hoàn cảnh đấu tranh
của mỗi dân tộc và trình độ ý thức của mỗi
lực lượng đấu tranh có khác nhau, nhưng bản
chất chỉ là một. Một đặc điểm thứ ba của
các biến động nói trên là trong các cuộc đấu
tranh phi quy ước ngày nay, các chế độ Cộng sản
đang ở thế thụ động, và các lực lượng quần
chúng đấu tranh đang ở thế chủ đô.ng. Nghĩa là
các lực lượng này đang xoáy sâu vào những
điểm yếu của Cộng sản để làm cho chúng càng
ngày càng suy yếu thêm và cuối cùng bị toàn dân
lật đổ. Vấn đề đặt ra ở đây là các thế
lực tài phiệt Tây phương vẫn có khuynh hướng
chỉ nhìn thấy "một nửa của sự thật", quen lẫn
lộn nguyên nhân với hậu quả. Và như thế, liệu
họ có nhảy xổ vào để cứu nguy và tiếp sức
cho các tập đoàn Cộng sản thống trị phục hồi
sức mạnh để tiếp tục củng cố sự đàn áp hay
không? Đó là điều mà ta sẽ thảo luận trong một
dịp khác.
Trong phạm vi bài này, những biến động chính trị
hiện nay nhắc nhở chúng ta nhớ lại những cuộc
khởi nghĩa tại Ponan, Budapest, vụ án Hồ Phong ở
Trung Quốc, và vụ "Trăm Hoa Đua Nở" trên đất
Bắc cùng thời với cuộc khởi nghĩa của nông
dân ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, cách đây 33 năm. Đó
là những cuộc đấu tranh phi quy ước của các
lực lượng bị áp bức, nhưng, hoàn cảnh đấu
tranh thời đó đã đặt các lực lượng chống
đối ở thế bị động, cô lập và bị đập tan.
Mặt khác, ở Việt Nam lúc đó, Việt cộng cũng
sử dụng hình thái chiến tranh phi quy ước để
đàn áp, tiêu diệt các lực lượng chống đối
vì lúc đó chúng đang nắm ưu thế chủ đô.ng.
Nội dung của bài nghiên cứu này và loạt bài
nghiên cứu sắp tới nhằm trình bày hình thái
chiến tranh phi quy ước mà Việt cộng đã sử
dụng để củng cố bộ máy thống trị miền Bắc,
mở rộng địa bàn "ỷ dốc" Miên-Lào trong tiến
trình xâm chiếm miền Nam.
Những chủ đề quan trọng mà chúng ta sẽ thảo
luận trong loạt bài nghiên cứu sắp tới gồm có:
- Cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại Bắc Việt.
- Cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư
doanh.
- Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất chuẩn bị
xâm chiếm miền Nam.
- Mặt trận Lào trong chiến lược xâm chiếm
miền Nam.
- Đoàn hậu cần chiến lược 559 trên đường
mòn Hạ Làọ
- Cuộc chiến tranh không tập tại Bắc Việt.
Vì khuôn khổ giới hạn của một bài báo, mỗi
chủ đề sẽ được trình bày làm hai, ba kỳ. Ví
dụ, chủ đề "Cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại Bắc
Việt" sẽ được trình bày với những tiết mục
chính sau đây:
- Những vấn đề căn bản của cuộc Cải tạo Nông
nghiệp.
- Bối cảnh cuộc cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
- Chiến lược và sách lược của Việt cộng trong
cuộc cải tạo Nông nghiệp.
- Diễn tiến của cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
- Hậu quả của cuộc Cải tạo Nông nghiệp.
Trong bài phân tích này chúng ta sẽ lần lượt
điểm qua một cách tổng quát ba tiết mục đầu
tiên nói trên.
Ị Những Vấn Đề Căn Bản Của Cuộc Cải Tạo
Nông Nghiệp
Vào tháng Mười năm 1987, nông dân tại một số
tỉnh thuộc đồng bằng Cửu Long đã biểu tình
chống đối Việt cộng vì những hành động tham
nhũng và cướp giật ruộng đất do cán bộ Việt
cộng chủ xướng nhân cuộc "cải cách ruộng đất
năm 1983".
Ngày 9 tháng 11, 1987, hàng trăm nông dân từ các
tỉnh miền Tây đã tổ chức biểu tình chống
chính quyền Việt cộng ngay tại Sài Gòn. Pháp
Tấn Xã tại Sài Gòn mô tả một tình trạng náo
loạn chưa từng thấy kể từ năm 1975. (Thật ra,
kể từ khi Việt cộng trục xuất các phóng viên
báo chí và truyền hình ra khỏi Việt Nam vào năm
1976 thì truyền thông Tây phương hầu như mù tịt
về tình hình Việt Nam. Mãi cho tới 1986, 1987, khi
Nguyễn Văn Linh cho phép báo chí, truyền hình Tây
phương trở lại Việt Nam trong mục đích ve vãn dư
luận quốc tế, thì báo chí mới bắt đầu nhìn
thấy một số hiện tượng bề ngoài với một
mức độ hạn chế).
Những biến cố nói trên tương đối ôn hoà nếu
ta so sánh với vụ Khởi nghĩa của Nông dân Quỳnh
Lưu bị đàn áp đẫm máu vào năm 1956, vụ thanh
niên Nam Bộ tập kết đốt phá bót Cảnh sát bờ
hồ Hà Nội, vụ đảng viên Việt cộng tìm nhau
để chém giết trả thù nhân vụ Cải tạo Nông
nghiệp đưa đến biện pháp "sửa sai". Lý do
chính khiến có sự khác biệt về mức độ bạo
động là vì hoàn cảnh chính trị đã khác nhiều;
năm 1983, bạo quyền Việt cộng đã cực kỳ suy
yếu, ruỗng nát so với năm 1956, và nhân dân ta
ở trong Nam đã được tổ chức và hướng dẫn
để đề kháng một cách hữu hiệu hơn thời gian
30 năm trước. Do đó, Việt cộng đã không dám
thực hiện các biện pháp mạnh tay trong chính sách
ruộng đất. Mặc dầu hai cuộc Cải cách Ruộng
đất có khác nhau ở mức độ sắt máu; nhưng,
những vấn đề căn bản của cả hai cuộc Cải cách
Ruộng đất của Việt cộng chỉ là một: Đó là
các vấn đề Bản Chất, Mục Tiêu và Hậu Quả.
2003-10-19 21:44:59
2. Bản Chất Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Quan niệm Cải cách Ruộng đất không phải là quan
niệm mới mẻ. Montesquieu, trong tác phẩm "Espuis des
Lois" năm 1748, có viết rằng: "Trong một nền dân
chủ tốt, chia đều đất đai chưa đủ; cần phải
chia nhỏ ruộng đất như người La Mã đã làm"
(xem tác phẩm "Espuis des Lois", quyển V, chương VI).
Trong các chế độ dân chủ, bản chất của Cải
cách Ruộng đất là hữu sản hoá dân nghèo để
giúp họ có cơ hội phát triển và xây dựng đời
sống kinh tế bắt đầu từ mảnh đất mà họ làm
chủ, dù chỉ là một mảnh đất nhỏ.
Trong các chế độ Cộng sản, bản chất của Cải
cách Ruộng đất là đảo lộn toàn bộ tổ chức
xã hội bằng cách phế bỏ quyền tư hữu đối
với tất cả ruộng, đất, vườn, ao, hoa màu,
trâu bò và dụng cụ sản xuất như cày, bừa,
cuốc, xẻng, cối xay lúa, cối giã gạo, v.v.... Nói
theo ngôn ngữ Việt cộng, đó là tiến hành cuộc
Cách Mạng Quan Hệ Sản Xuất trong đó có việc thay
đổi quyền làm chủ đất đai, quyền làm chủ tư
liệu sản xuất, và thay đổi quan hệ giữa
người với người (tức là tương quan chủ -
thợ). Có lẽ sự thay đổi tương quan chủ - thợ
có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với số
phận của tất cả mọi nông dân từ bần nông
đến chủ đất, vì nó biến họ vĩnh viễn thành
những người thợ vô sản phục vụ cho chủ nhân
ông Cộng sản, trong một tương quan na ná hoặc
tệ hơn một nông nô dưới chế độ phong kiến.
Một hệ luận quan trọng của việc phế bỏ quyền
tư hữu là sự tập trung đất đai vào tay nhà
nước trong chế độ Cộng sản, thay vì chia nhỏ
đất đai như trong một chế độ dân chủ. Điều
này không phải là điều tình cờ phù hợp với
mục tiêu của Cải cách Ruộng đất mà ta đề cập
dưới đâỵ
2. Mục Tiêu Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Mục tiêu tối hậu của việc phế bỏ quyền tư
hữu đất đai là để giành giật khả năng và
quyền lực chính trị khỏi tay nông dân, và tập
trung quyền lực chính trị đó vào tay chế độ
chuyên chính vô sản. Những người thợ và trí
thức vô sản bị mất hết quyền lực chính trị
vì họ bị khống chế bởi tên chủ Việt cộng qua
hệ thống hộ khẩu và chế độ bình công chấm
điểm. Họ chỉ được đủ ăn tới một mức...
lúc nào cũng còn đói, nếu họ tuân theo những quy
luật do "tên chủ" Việt cộng đề rạ Trong tay họ
không có tài sản, không có tiền, không có vũ
khí; họ bị cô lập bởi hệ thống công an, bởi
thế; về phương diện quyền lực chính trị, mỗi
nông dân là một con số không trong chế độ
Cộng sản. Trong một chế độ dân chủ, một nông
dân dù nghèo rớt cũng còn có một chút vốn kinh
tế vì họ còn làm chủ được tấm thân của họ,
nghĩa là họ còn có một chút quyền lực chính
tri.. Đem gom góp hàng triệu những quyền lực
chính trị nho nhỏ đó, người ta có thể tạo nên
một thế lực tương đối lớn để tự bênh
vực mình.
Trong chế độ Cộng sản, nếu đem gom góp một
triệu con số không (của quyền lực chính trị của
mỗi nông dân), ta cũng vẫn chỉ được một con
số không thiệt tọ Hiểu được như thế, ta
hiểu được hậu quả của cuộc cải cách ruộng
đất đối với việc củng cố bộ máy đàn áp
kềm kẹp của Việt cộng ở miền Bắc.
3. Hậu Quả Ngắn Hạn Của Cuộc Cải Tạo Nông
Nghiệp
Qua sự tập trung đất đai, phương tiện sản
xuất và đoàn ngũ hoá nông dân thành giai cấp
nông nô sau cuộc Cải tạo Nông nghiệp, Việt cộng
hoàn toàn nắm hết tài nguyên, lương thực, khởi
sự xây dựng các nông trường quốc doanh, chuẩn
bị đạo quân xâm lược Lào và miền Nam Việt Nam
(Việt cộng gọi là lấy lương thực phục vụ
chiến trường "C" và "B"). Hậu quả trước mắt
của cuộc Cải tạo Nông nghiệp là giúp Việt cộng
xây dựng cơ sở vật chất để tiến hành chiến
tranh. Hậu quả pháp lý của cuộc Cải tạo Nông
nghiệp là việc định chế hoá các cơ cấu quyền
lực địa phương để tiến hành đấu tranh phi quy
ước trong nội bộ chống lại nhân dân miền
Bắc. Nói một cách rõ hơn, các hợp tác xã nông
nghiệp tại địa phương chính thức trở thành các
cơ sở ban phát quyền lợi, thực thi chính sách
và Bí thư Hợp tác xã, Bí thư Chi bộ xã là
những kẻ có toàn quyền sinh sát tại nông thôn
đã biến thành các cường hào ác bá dưới
triều đại xã hội chủ nghĩa của "Rợ Hồ". Tóm
lại, những hậu quả ngắn hạn và trước mắt là
những điều có lợi cho việc củng cố quyền
lực chính trị của giai cấp thống trị Cộng sản.
Nhưng, hậu quả về lâu về dài là một vấn đề
khác.
4. Hậu Quả Dài Hạn Của Cải Tạo Nông Nghiệp
Là một vấn đề mà Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông,
Hồ Chí Minh và cấp đầu lãnh các Đảng Cộng
sản không nhìn thấy, hoặc vì ảo tưởng trên mây
nên đã nhìn sai và tiên đoán saị Đó là những
vấn đề liên quan đến năng suất lao động,
năng suất đất đai, cơ cấu sản xuất và thị
trường, đưa đến những bế tắc trong nền kinh
tế của mọi quốc gia Cộng sản. Vì chủ quan nghĩ
rằng quyền lực chính trị có thể giải quyết và
"cả vú lấp miệng em" đối với mọi bài toán
trong xã hội, các cấp đầu lãnh Cộng sản, và
Việt cộng nói riêng, đã bị vỡ mặt khi những
bế tắc kinh tế vượt ra ngoài khả năng kiểm
soát của Đảng và các cơ cấu quyền lực chính
trị địa phương biến thành các "sứ quân" tự
chuyên, tự quản nền kinh tế quốc giạ Nhưng,
đây là những chi tiết mà ta sẽ thảo luận khi đi
sâu vào các bài nghiên cứu sắp tớị
Một câu hỏi được đặt ra ở đây là cuộc Cải
tạo Nông nghiệp tại Bắc Việt đã diễn ra trong
hoàn cảnh nàỏ Để trả lời câu hỏi này, loạt
bài nghiên cứu sắp tới sẽ trình bày về bối
cảnh Địa lý, Kinh tế, Xã hội và Chính trị của
giai đoạn 1949-1957 được tóm lược trong Phần II
dưới đâỵ
IỊ Bối Cảnh Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại miền Bắc có thể
được coi như bắt đầu kể từ Sắc luật Giảm
tô số 78/SL ngày 14 tháng 7 năm 1949 và chính sách
thuế nông nghiệp của chính quyền kháng chiến
nằm trong toàn bộ của chính sách thuế khoá gồm
cả thuế Công-Thương nghiệp, sát sinh, Lâm-Thổ
sản, xuất nhập cảng, v.v... ra đời từ ngày 1
tháng 7 năm 1951 do Sắc luật số 42/SL của Hồ Chí
Minh.
Chính sách thuế Nông nghiệp là phát súng khởi
đầu cho các chiến dịch "phân mảnh định hạng"
các loại ruộng, "bình sản lượng", "bình diện
tích" mỗi mảnh đất để làm căn bản tính thuế,
sau đó tiến lên chiến dịch "chống phản động",
"đấu tranh giảm tô" kéo dài tới năm 1954 chỉ
được tạm chấm dứt khi chiến trường Điện
Biên Phủ bắt đầu nghiêm trọng và đưa đến
Hiệp định Genèvẹ Sau đó, Việt cộng miền Bắc
đã tạm ngưng cuộc đấu tranh Cải cách Ruộng
đất tới cuối năm 1955, đầu năm 1956, vì ba lý
do:
- Việt cộng còn bận lo đón tiếp bộ đội
miền Nam tập kết ra Bắc.
- Việt cộng còn phải đối phó với phong trào di
cư và cuộc đàn áp dân Ba Làng v.v....
- Việt cộng còn phải che dấu thủ đoạn tàn bạo
để trấn an lòng dân, che mắt các quan sát viên
quốc tế, và ổn định tình hình nội bô..
Giai đoạn thứ hai của đấu tranh Cải cách Ruộng
đất bắt đầu từ cuối năm 1955 đầu 1956 trong
đợt phóng tay phát động quần chúng đấu tranh
Cải cách Ruộng đất và lên đến mức độ tàn
bạo nhất trong đợt cải cách Điện Biên Phủ.
Để cho cuộc Cải cách Ruộng đất được nhanh
chóng và đồng đều, tại những vùng mới tiếp
thu và đồng bằng sông Nhị Hà, Việt cộng đã
tiến hành hai cuộc "đấu tranh giảm tô" và "đấu
tranh Cải cách Ruộng đất" vào một lần. Thể
thức đấu tranh cải cách ruộng đất cũng giống
như đấu tranh giảm tô, chỉ kháng ở mức độ
tàn bạo gia tăng và con số nạn nhân cũng gia tăng
do sự "càn đi, quét lại" và "tích tỷ lệ" mà ta
sẽ được giải thích trong những bài phân tích
sắp tớị
Điều đáng chú ý là chính sách Cải cách Ruộng
đất ở miền Bắc đã rập khuôn chính sách Cải
cách Ruộng đất của Trung Quốc mà không có sự
chế biến cho hợp với hoàn cảnh và tình trạng
nông nghiệp ở nước tạ
Các cán bộ Việt cộng có nhiệm vụ trong cuộc
Cải cách Ruộng đất đã học tập kinh nghiệm của
cán bộ Cộng sản Trung Quốc trong cuộc Cải cách
Ruộng đất ở Hồ Nam, quê hương của Mao Trạch
Đông. Tại Trung Quốc, gia cấp địa chủ điển
hình còn mang nặng tính chất phong kiến lãnh
chúạ Ngoài đồng ruộng thẳng cánh cò bay, một
địa chủ điển hình còn có lâu đài, dinh cơ
vàquân lính riêng để bảo vệ sản nghiệp cũng
như để đàn áp, bóc lột nhân dân. Trong cuộc
Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, một số lớn
những người bị gán là "địa chủ đại gian đại
ác" thường chỉ có mấy mẫu ruộng hoặc ít hơn,
nhưng thuộc thành phần có uy tín ở nông thôn,
và có thể trở thành chống đối Đảng và Nhà
nước.
Vậy, yếu tố giành giật độc quyền chính trị
là yếu tố quan trọng nhất của Cải cách Ruộng
đất, và do đó, Cải cách Ruộng đất là cơ hội
ngàn năm một thuở để Việt cộng đánh quỵ cả
thế lực tinh thần của Giáo hội Công giáọ
Nhiều vị Linh mục Công giáo cũng bị bắt, bị tra
khảo và bị giết, trong đó có Cha Thanh, đã từng
là Linh mục giảng huấn tại Tiểu Chủng viện Ba
Làng năm 1949-1950, một vị chân tu, hiền lành và
đạo đức cũng bị sát hại một cách dã man trong
tù.
Một cuộc cải cách tàn bạo, dã man nhất trong
lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc do chính
người Việt Nam để đàn áp chính người Việt
Nam, tại sao có thể thành công được? Câu trả
lời nằm trong chiến lược và sách lược của
Việt cộng trong Cải cách Ruộng đất.
IIỊ Chiến Lược Và Sách Lược Cải Cách Ruộng
Đất
Những cuộc nghiên cứu qua các nhân chứng của
cuộc cải cách ruộng đất đã cho người ta một
tầm nhìn sâu và rộng đối với quan niệm chiến
lược của Việt cô.ng. Một số cán binh Việt
cộng xâm nhập từ Bắc vào Nam và sau đó ra hồi
chánh đã cung cấp những dữ kiện vừa phong phú,
vừa chi tiết và cụ thể giúp ta nhìn thấy những
đường đi, nước bước có lớp lang của Việt
cộng, những chuẩn bị rất công phu, những mưu
mô lừa bịp tinh vi, che mắt ngay cả những đảng
viên Việt cộng từng vào sinh ra tử trong kháng
chiến.
Hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, Kỹ sư Thuỷ Lợi,
thuộc Bộ Thuỷ Lợi Bắc Việt, trước kia đã
tham gia cải cách ruộng đất tại Xóm Chuối tỉnh
Ninh Bình, tóm tắt quan niệm chiến lược của
Việt cộng như sau:
"Theo tài liệu của Đại hội Đảng chuẩn bị cho
cải cách ruộng đất thì việc đấu tranh giai
cấp giữa địa chủ và nông dân đã được đặt
ra ngay từ khi thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Họ nhận xét rằng từ 90% đến 95% dân chúng
Việt Nam là nông gia chuyên nghiệp, và trong số
này thì chỉ có khoảng 5% là địa chủ phú nông,
còn đa số đều là kẻ làm thuê, làm mướn, tá
canh, tá điền; do đó, nếu muốn làm cách mạng
xã hội, họ phải lôi cuốn được khối đa số
đó, phải thỏa mãn khối đa số đó bằng quyền
lợi để sau này nắm chặt khối đa số đó
bằng sắt máu...".
Lời tiết lộ ở trên chẳng những tóm tắt quan
niệm chiến lược mà còn phát hiện cả sách
lược của Việt cô.ng. Như ta đã từng định
nghĩa:
Chiến lược là toàn bộ một kế hoạch nhằm
vận dụng sức mạnh căn bản để đánh trúng địch
bằng những đòn chí tử cho tới khi nó gục ngã.
Và sách lược cũng là toàn bộ một kế hoạch
như chiến lược, duy có một điểm khác là để
đạt mục tiêu, toàn bộ kế hoạch sử dụng những
mưu kế để lừa địch, dụ khị địch và qua mặt
đi.ch.
Khi quan niệm rằng đa số dân Việt Nam là nông
dân và đa số nông dân là khối người nghèo và
cần phải lôi cuốn được đa số đó, Việt
cộng đã nói lên được khía cạnh chiến lược
của vấn đề. Sau hết, khi chủ trương phải thỏa
mãn khối đa số đó bằng quyền lợi để sau
này nắm chặt khối đa số đó bằng sắt máu,
Việt cộng nói lên khía cạnh sách lược tức là
phương án lừa bịp và dụ khị, qua mặt đi.ch.
Lừa bịp, dụ khị và qua mặt địch như thế nào
thì đó là những chi tiết kế hoạch sẽ được
trình bày trong nhiều bài sắp tới....
Những giai đoạn "đấu tranh" trước 1954
Đại Cương:
Trong kế hoạch nắm vững toàn bộ nông thôn miền
Bắc, Cộng sản phải tiến qua nhiều giai đoạn,
theo một kỹ thuật tinh vi bắt đầu bằng cuộc
Cải cách Ruộng đất được Đảng mệnh danh là
"một cuộc cải cách long trời lở đất" mà hậu
quả là khiến cho người dân trở thành một đoàn
người khiếp sợ Đảng, đến độ bảo sao cắm
đầu nghe vậy, không dám oán than ngay cả với
người thân trong gia đình.
Nhưng, bắt đầu một cách rất nhẹ tay, năm 1951,
Cộng sản Việt Nam lập ra một tứ thuế nông
nghiệp đánh vào tất cả những ai có ruộng,
vườn trồng trọt được hoa màụ Đến năm
1952-1953 là giai đoạn áp dụng chính sách giảm tô
mà thí điểm là khu Tư như Hoàng Hoá, Phú Thiện
và vùng Trung du Bắc Việt như Bắc Giang, Phú Thọ,
v.v... Chính sách giảm tô đã làm cho hàng ngũ địa
chủ kinh sợ, xuống tinh thần. Các tầng lớp phú
nông, trung nông lo lắng, và sốt sắng tham gia
cách mạng để cầu an vì sợ bị xếp hạng vào
thành phần địa chủ. Trái lại, các tầng lớp
bần nông, cố nông thì sung sướng, thỏa mãn.
Đến năm 1954, chính sách được áp dụng ở Nghệ
An và Trung du Bắc Việt, mặc dầu ở mức tương
đối tàn bạo, nhưng so với năm 1956 hãy còn
được coi là... ôn hòạ
Từ 1954 đến 1955, chính sách Cải cách Ruộng
đất tạm ngưng tiến hành vì Việt cộng đặt
nặng vấn đề chống phong trào di cư, tranh thủ
quần chúng để giữ dân ở lạị
Tới giữa năm 1955, cuộc di cư hoàn tất, việc
phân chia lãnh thổ đã rõ ràng, chính quyền Cộng
sản bắt đầu áp dụng chính sách Cải cách Ruộng
đất trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Việc áp
dụng được thi hành theo từng đợt, mỗi đợt
từ 1 tới 3 tháng với khẩu hiệu: "dựa vào bần
cố nông, đoàn kết trung nông, liên hiệp phú
nông, đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ".
Trong phạm vi bài này, ta sẽ nghiên cứu Thời Kỳ
Đấu Tranh Cải Cách Ruộng Đất trước năm 1954,
và bài kế tiếp sẽ nghiên cứu chi tiết thời kỳ
sau 1954....
oOo
Dựa theo kinh nghiệm đấu tranh tại Hoa Lục, cuộc
Cải cách Ruộng đất tại Bắc Việt lần lượt
trải qua các giai đoạn căn bản sau đây:
- Giai đoạn thi hành chính sách thuế nông nghiệp.
- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu
tranh chống phản động (đấu tranh chính trị).
- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu
tranh giảm tô giảm tức.
- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu
tranh Cải cách Ruộng đất.
Nếu hiểu như trên thì, trong Kế hoạch Cải cách
Ruộng đất, hai giai đoạn đầu là phần chìm hay
là phần chuẩn bị, giai đoạn đấu tranh giảm tô
là phần làm thử để rút tỉa kinh nghiệm, và
giai đoạn sau chót là phần nổi hay là phần thực
hiện. Để nắm vững toàn bộ Kế hoạch Cải cách
Ruộng đất của Cộng sản Việt Nam, ta hãy quay
trở lại giai đoạn 1951, khi chính sách thuế nông
nghiệp mới được ban hành.
oOo
Thời Kỳ Trước Hiệp Định Genève 1954
Ị Chính sách Thuế Nông Nghiệp
Như đã nói trong bài trước, chính sách thuế
nông nghiệp của Chính quyền Kháng chiến nằm
trong toàn bộ chính sách thuế khoá gồm cả thuế
Công nghiệp, Thương nghiệp, Sát sinh, Lâm sản,
Thổ sản, Xuất nhập cảng v.v... ra đời từ ngày
1 tháng 7 năm 1951 do sắc lệnh số 40/SL. Nhưng,
trong tất cả mọi thứ thuế thì thuế Nông nghiệp
là nguồn lợi căn bản thay thế các loại thuế có
từ trước như thuế ruộng đất, đảm phụ Quốc
phòng, công phiếu Kháng chiến, ủng hộ chiến sĩ
mùa Đông v.v.... Thuế Nông nghiệp nhằm cung ứng
một số lượng lương thực và tài chánh lớn lao
cho Việt cộng trong nỗ lực chiến tranh ngày càng
cấp bách và nặng nề.
Hai nữa là, một phần của chính sách Cải cách
Ruộng đất, thuế Nông nghiệp là một đòn phủ
đầu để đánh quỵ những thành phần có nhiều
ruộng đất, mà chưa cần dùng tới bạo lực.
Một số địa chủ không chịu nổi thuế cao quá,
phải tự động hiến ruộng đất cho Đảng và Nhà
nước (lúc đó còn mệnh danh là "Chính quyền
Kháng chiến"). Một số khác, nếu không hiến
đất cho Đảng và Nhà nước, dĩ nhiên sẽ không
đủ sức nộp thuế theo đúng sự đòi hỏi của
Nhà nước. Như thế là chính họ đã gián tiếp
kết bản án cho mình trong giai đoạn sắp tớị
Sau hết, trong việc thi hành chính sách thuế Nông
nghiệp, Cộng sản để cho dân bình nghị lẫn nhau,
nghĩa là người nọ ấn định mức lợi tức của
người kia để cán bộ dựa vào đó bổ thuế
theo tỷ lệ thuế của chính quyền. Khi để cho dân
chúng bình nghị lẫn nhau, Cộng sản đã tự đề
cao là chúng theo chính sách dân chủ, nhưng thực
ra, dụng ý của Đảng là mượn tay người để
đánh người, gây mầm đấu tranh căn bản theo
chiến thuật của Cộng sản là "lấy mâu thuẫn
diệt mâu thuẫn".
Theo tài liệu chính thức, được phổ biến trên
tờ Cứu Quốc số 2080 ngày 6-7-1952, thì tất cả
những nông dân nào có mức lợi tức trung bình
từ 71Kg gạo một năm trở lên đều phải nộp
thuế. Thuế Nông nghiệp là thứ thuế lũy tiến,
lợi tức càng lớn thì tỷ lệ thuế càng caọ
Phân Hạng Thuế Nông Nghiệp
Phân hạng Phân hạng Lợi tức trung bình
mỗi đầu người Tỷ lệ thuế
1 từ 71Kg tới 95Kg 5%
2 96Kg - 115Kg 6%
3 116Kg - 135Kg 7%
4 136Kg - 155Kg 8%
5 156Kg - 175Kg 9%
6 176Kg - 205Kg 10%
7 206Kg - 235Kg 11%
8 236Kg - 265Kg 12%
9 266Kg - 295Kg 13%
10 296Kg - 325Kg 14%
11 326Kg - 355Kg 15%
12 356Kg - 385Kg 16%
13 386Kg - 425Kg 17%
14 426Kg - 465Kg 18%
15 466Kg - 505Kg 19%
16 506Kg - 545Kg 20%
17 546Kg - 585Kg 21%
18 586Kg - 625Kg 22%
19 626Kg - 665Kg 23%
20 666Kg - 705Kg 24%
21 706Kg - 775Kg 25%
22 776Kg - 805Kg 26%
23 806Kg - 855Kg 27%
24 856Kg - 905Kg 28%
25 906Kg - 955Kg 29%
26 956Kg - 1005Kg 30%
27 1006Kg - 1055Kg 31%
28 1056Kg - 1105Kg 32%
29 1106Kg - 1155Kg 33%
30 1156Kg - 1215Kg 34%
31 1216Kg - 1275Kg 35%
32 1276Kg - 1335Kg 36%
33 1336Kg - 1395Kg 37%
34 1396Kg - 1455Kg 38%
35 1456Kg - 1515Kg 39%
36 1516Kg - 1575Kg 40%
37 1576Kg - 1635Kg 41%
38 1636Kg - 1695Kg 42%
39 1696Kg - 1755Kg 43%
40 1756Kg - 1815Kg 44%
41 1816Kg trở lên 45%
Theo bảng phân hạng thuế này thì, trên lý thuyết,
tỷ lệ thuế tối đa là 45% mức lợi tức trung
bình, nhưng trên thực tế, qua kỹ thuật "bình
nghị", chính quyền có thể khiến một người khá
giả phải đóng thuế tới... 100% lợi tức. Ví dụ:
Mức lợi tức trung bình của nông dân A là 1800Kg,
chính quyền có thể vận động để dân "bình
nghị", gán cho nông dân A mức lợi tức là...
4000Kg và khi phải đóng theo tỷ lệ 45% thành 4000 X
45/100 = 1800Kg, thế là nông dân A bị phá sản, vì
làm được bao nhiêu phải nộp thuế hết.
Trước khi bình nghị, cán bộ Đảng lãnh đạo
việc "phân mảnh định hạng" tức là xếp hạng
từng mảnh ruộng tùy theo đất cao, thấp, tốt,
xấu theo thứ tự A, B, C v.v....
Kỹ thuật bình nghị gồm có "bình sản lượng" và
"bình diện tích". Khi đã "phân mảnh định hạng"
xong, cán bộ thuế triệu tập nông dân, gồm tá
điền và chủ điền, để "bình sản lượng", tức
là ấn định mức năng suất của một mảnh ruô.ng.
Điểm cốt yếu của kỹ thuật "bình sản lượng"
là Đảng dùng những phần tử cốt cán là các tá
điền có đảng tịch, hoặc có cảm tình với Đảng
để "bình sản lượng".
Những người này xác nhận mảnh ruộng do mình
canh tác có một sản lượng thật caọ Dĩ nhiên,
người chủ điền hay những người có mảnh ruộng
kế cận, cùng một hạng, phải chấp nhận mà
không có cách gì thanh minh; bởi vì, trên danh
nghĩa, người tá điền là người trực tiếp cày
cấy trên mảnh ruộng và biết được năng suất
của mảnh ruô.ng. Nếu người chủ đất khai báo
một năng suất thấp, mọi người dễ dàng tin
rằng chủ đất đã khai gian để trốn thuế.
"Bình diện tích" nghĩa là xác định lại diện
tích của từng thửa ruô.ng. Mặc dù trong trích
lục của mỗi thửa ruộng đều có ghi diện tích
đó, nhưng cán bộ thuế không chấp nhận, viện
cớ rằng nhân viên của Chính phủ Bảo hộ thời
xưa đã ăn tiền của chủ điền mà bớt diện
tích để bớt thuế.
Dĩ nhiên, khi "bình diện tích" thì bao giờ thửa
ruộng cũng bị gán cho một diện tích lớn hơn,
mặc dù không có đo lường chính xác. Sau khi đã
"bình sản lượng" và "bình diện tích" thì tổng
số thu hoạch của một thửa ruộng chính là sản
lượng nhân với diện tích. Ví dụ: Một thửa
ruộng có diện tích 3 mẫu và có sản lượng 2
tấn mỗi mẫu, thì tổng số thu hoạch của thửa
ruộng là 3 mẫu X 2tấn/mẫu = 6 tấn mỗi năm.
Giai đoạn áp dụng chính sách thuế Nông nghiệp
đã hoàn toàn thành công, với kết quả là chính
quyền vơ vét được một số lượng tài lực
lớn lao, đồng thời gây nên được mầm mống
mâu thuẫn "bình nghị".
oOo
Tới đây, ta cần ôn lại một số danh từ và lề
lối làm ăn sinh sống của nông dân trong giai đoạn
Cải cách Ruộng đất của Việt cô.ng. Những danh
từ như tá điền, điền tốt, bần cố nông,
bần nông, trung nông, phú nông, địa chủ là những
danh từ chỉ các loại nông dân chuyên nghiệp tùy
theo mức độ tài sản mà họ có.
Một bần nông, theo định nghĩa của Việt cộng,
là một nông dân nghèo không có đất đai để
cày cấy, hoặc chỉ có mấy sào ruộng là tối
đạ Một bần cố nông là một người suốt đời
chỉ là một nông dân nghèo (vô sản). Một trung
nông, theo định nghĩa của Việt cộng, là một
người có một vài mẫu ruộng trở lạị Một phú
nông là người có cả chục mẫu ruộng trở lên.
Một trung nông hay phú nông có thể là một địa
chủ nếu người đó không trực tiếp canh tác mà
thuê người khác làm cho mình. Một điền tốt là
một nông dân đi làm công cho một địa chủ và
được trả công như một người thơ.. Một tá
điền là một nông dân mướn đất của địa chủ
với điều kiện phải trả một mức lời nào đó
cho địa chủ, theo từng mùa canh tác. Số lời đó
được gọi là địa tô và lối làm ăn như thế
gọi là "tá canh" hay "làm rẽ". Số lời (địa tô)
chia cho chủ đất có thể dưới hình thức tiền
bạc hoặc hoa màu; ví dụ như trong giai thoại ông
Trạng Quỳnh cấy rẽ đất của Bà Chúa (có lẽ
thời Vua Lê, Chúa Trịnh). Những nông dân trực
tiếp canh tác đất của mình thì gọi là "trực
canh".
Trong thời kỳ chiến tranh Viê.t-Pháp, một số
đông nông dân bỏ vùng mất an ninh để về Tề,
và Việt Minh đã khuyến khích những người khác
chiếm hữu đất đai bỏ lại để canh tác. Tình
trạng này được gọi là "chiếm canh", một vấn
đề tế nhị về chính trị, đã được chính
quyền Quốc gia dưới chế độ Bảo Đại giải
quyết bằng cách chấp nhận cho những người
chiếm canh được hưởng toàn bộ hoa lợi do họ
làm ra, tuy nhiên quyền sở hữu đối với ruộng
đất vẫn thuộc chủ đất nếu họ trở về canh
tác (Thông điệp đầu Xuân Ân lịch 1951 của Quốc
Trưởng Bảo Đại).
Vấn đề định nghĩa các thành phần bần nông,
trung nông, phú nông và địa chủ là vấn đề rất
quan trọng đối với Việt cộng trong việc ngầm
xác định ai là đối tượng cần liên hiệp và ai
là đối tượng cần tiêu diệt trong giai đoạn
đấu tranh chính trị sắp tớị Gọi là ngầm xác
định vì, trong giai đoạn "Thuế Nông Nghiệp",
Việt cộng chưa công khai hoá chủ trương tiêu
diệt địa chủ mà chỉ nhắm vào một số nạn nhân
có tính cách điển hình, và "tội danh" của họ
dựa trên "căn bản pháp lý" của Thuế Nông
Nghiệp, chứ không phải trên căn bản thành phần
giai cấp.
2003-10-19 21:47:06
3. Giai Đoạn Đấu Tranh Chính Trị
Như đã nói trong giai đoạn thi hành Thuế Nông
Nghiệp, Việt cộng đã dùng đảng viên xúi giục
một số nông dân, nhất là bần nông làm tá
điền, gán cho những thửa ruộng mà họ cày cấy
có một năng suất rất cao, khiến cho người chủ
đất phải trả một số thuế nhiều khi tới 100%
hoặc trên 100% số thu hoa.ch.
Người chủ đất nạn nhân chỉ có hai sự lựa
chọn, hoặc chịu đầu hàng bằng cách hiến đất
cho Đảng và Nhà nước (lúc đó còn mệnh danh là
"Chính quyền Kháng chiến"), hoặc ỳ ra đấy vì
không đủ sức nộp thuế theo đúng sự đòi hỏi
của Chính sách Thuế Nông nghiệp. Bằng cách thứ
hai, họ đã tự kết bản án cho mình trong Giai
đoạn Đấu tranh Chính trị mà Việt cộng gọi là
"phát động quần chúng đấu tranh chống phản
động".
Trong giai đoạn "phát động quần chúng đấu tranh
chống phản động", Đảng Cộng sản nhắm vào ba
mục đích chính yếụ
Mục đích thứ nhất là Đảng dùng bạo lực của
quần chúng để đánh quỵ bớt một số phần tử
lừng khừng chống đối nguy hiểm, trong đó có
một số địa chủ, nhưng Đảng chưa để lộ kế
hoạch đấu tranh giai cấp hạ địa chủ. Tất cả
những phần tử bất mãn với chính sách của
Đảng, nhất là chính sách Nông nghiệp đều bị
quy cho tội "phản động", "thông với giặc".
Mục đích thứ hai là Đảng chuẩn bị kỹ thuật
đấu tranh bạo lực, luyện tập cho cán bộ quen
với các kỹ thuật xâm nhập. khai thác mâu thuẫn,
đấu tranh bạo động dành cho cuộc Cải cách
Ruộng đất.
Mục đích thứ ba là Đảng muốn vơ vét dân công
và tân binh, đồng thời làm áp lực thu thuế
Nông nghiệp. Đảng đã đạt được mục đích này
vì nhiều người bở vía trước cuộc đấu tranh
bạo lực đã xung phong đi dân công hoặc đi tân
binh, giúp Đảng giải quyết được nhu cầu cấp
bách của chiến tranh.
Cuộc "phát động quần chúng đấu tranh chống
phản động" đã lấy đề tài Thuế Nông nghiệp
và Đảng muốn nhóm họp Đại hội Nông dân để
nêu câu hỏi: "Tại sao có người chưa thanh toán
thuế?".
Anh Nguyễn Văn Thân, một hồi chánh viên, đã kể
lại một cách tóm lược nội dung một buổi Đại
hội Nông dân như sau:
"Chủ tọa của buổi họp là những phần tử nông
dân cốt cán, nghĩa là đảng viên hoặc cảm tình
viên, và họ đã nắm trong tay một danh sách những
phần tử cần phải triệt ha.. Khi nêu câu hỏi về
việc thiếu thuế Nông nghiệp, chủ tọa đoàn kêu
tên một người thiếu thuế và ra lệnh du kích
trói nạn nhân lại, treo lên, rồi dùng cực hình
tra tấn, đánh đập, mớm cung để nạn nhân khai
tội "chủ mưu xúi giục" cho những người có tên
trong danh sách có sẵn, tức là sổ đen của Đảng.
Nhờ kỹ thuật này, Đảng đã bắt đầu bằng
một người thiếu thuế Nông nghiệp mà kết tội
những phần tử đối lập chính trị nằm trong
sổ đen, không nhất thiết phải là những người
thiếu thuế. Và, tất cả những tội nhân, sau khi
bị đánh đập tra tấn theo kỹ thuật mớm cung,
lần lượt từ người này chuyền lan tội lỗi
sang người khác, họ bị giam giữ để chờ ngày ra
Tòa án Quân sự Tỉnh".
Tóm lại, một nông dân thiếu thuế Nông nghiệp
được dùng làm đầu nối để triệt hạ những
kẻ đối lập bị Việt cộng mệnh danh là "việt
gian", "phản động" hay "theo Tây". Đó là điểm
mấu chốt của phong trào "phát động quần chúng
đấu tranh chống phản động".
Cuộc "đấu tranh chống phản động" được phát
động vào khoảng cuối năm 1952, đầu năm 1953,
đã làm nông thôn kinh hoàng nghẹt thở. Và kế
tiếp theo đó, Đảng cho phát động "đấu tranh
giảm tô" vào khoảng tháng 4 năm 1953.
IIỊ Đấu Tranh Giảm Tô
Cuộc "phóng tay phát động quần chúng đấu tranh
giảm tô giảm tức" là cuộc thí nghiệm thực sự
của kỹ thuật Cải cách Ruộng đất theo phương
pháp Cộng sản.
Để phát động đấu tranh, Đảng tổ chức những
"Đội đấu tố", gồm những cán bộ đã được
Trung Cộng huấn luyện, và gửi họ xâm nhập vào
làng. Những "Đội đấu tố", này về sau trở
thành các "Đội Cải cách Ruộng đất", đã giả
dạng làm nông dân và được các Uỷ ban Hành chánh
làng, xã giới thiệu tới cư ngụ tại những gia
đình nghèo nhất trong xã.
Các Đội này áp dụng một kỹ thuật tâm lý
chiến rất tinh vi để mua chuộc cảm tình những
gia đình nông dân nghèo nơi họ cư ngụ, đó là kỹ
thuật tam cùng: cùng ăn (góp phần ăn chung), cùng
ở (cùng ở chung một nhà) và cùng làm (mà không
lấy công). Đây là giai đoạn chuẩn bị đấu
tranh, một giai đoạn quan trọng nhất, gồm ba mục
tiêu:
- Mua chuộc tình cảm nông dân nghèọ
- Gây căm thù giữa các nông dân nghèo đối với
địa chủ và xúi giục họ đấu tranh.
- Điều tra tỉ mỉ các gia đình khác trong làng,
xã.
Kỹ thuật "tam cùng" này rất thành công. Sau khi
đã chịu sống cực khổ với bần nông, giúp đỡ
tận tình trong mọi công việc, mua chuộc được
cảm tình của bần nông, "cán bộ tam cùng" bắt
đầu rỉ rả nhồi sọ, tuyên truyền cho bần nông
căm thù địa chủ là chính địa chủ đã gây nên
cảnh cùng khổ cho ho.. Sau khi gây được căm thù,
cán bộ tam cùng phải thuyết phục bần nông đứng
lên đấu tranh tiêu diệt địa chủ.
Khi đã thuyết phục được một bần nông chịu
đứng lên đấu tranh với địa chủ, cán bộ gọi
là đã "xây dựng được một rễ". Một "rễ"
phải ưu tiên là một thân nhân gần nhất của
địa chủ có tội, chẳng hạn như là vợ bé, con
gái, con nuôi, hoặc gia nhân,... vì trong trường
hợp như vậy, những lời tố cáo (vu oan giá họa)
của "rễ" đối với địa chủ sẽ gây được xúc
động tâm lý mạnh mẽ hơn.. Nếu không tìm được
người có liên hệ gần với địa chủ thì phải
tìm người có liên hệ xa, và nếu cùng quá không
tìm được người có liên hệ xa gần thì mới
phải tìm người ngoài để "xây dựng rễ".
Khi đã xây dựng được một rễ, lại có thể
móc nối thêm các rễ khác làm thành một "chuỗi
rễ". Trong trường hợp cán bộ không thuyết phục
được một "rễ" thuận ý đấu tranh với địa
chủ, cán bộ nói là "gặp phải rễ thối". Sau bao
nhiêu công lao "tam cùng", họ lại phải đi tìm một
"rễ" khác.
Anh Nguyễn Văn Thân, và một số nhân chứng hồi
chánh viên khác, đã kể lại những mẩu giai thoại
bi hài về "Đấu tranh Giảm tô" như:
".... Cảnh sống tam cùng đã đưa đến nhiều
bi-hài kịch: Có khi đội viên là một chàng trai
mà gia đình bần cố lại có con gái lớn nên
chuyện hủ hóa đã xảy ra; hoặc giả khi người
nghèo khổ nhất làng lại là một bà cụ già bị
bệnh thần kinh, ăn nói bất nhất, hoặc một
người có lương tâm tốt nên dù đội viên Cải
cách Ruộng đất có cố gắng đến mấy, họ cũng
không thể hoặc không chịu đứng ra tố người
địa chủ, nhất là khi họ đã từng chịu ơn của
người địa chủ đó. Vì vậy mới có danh từ
"rễ thối" để chỉ các loại này...".
Sau khi đã chuẩn bị xong các nhân vật chính trong
cuộc đấu giảm tô, các Đội Cải cách Ruộng
đất mới ra mắt công khai tại làng, xã, và lập
tức, các cơ cấu tổ chức cũ như Uỷ ban Hành
chánh Xã v.v... đều bị giải tán để giao quyền
hành lại cho Đội và những phần tử cốt cán
đảm nhiệm. Làng xã lúc đó lập tức bị phong
tỏa, chỉ riêng Đội Cải cách có thể liên lạc
bằng đường dây điện thoại với trung ương
hoặc cấp trên của họ là Đoàn Cải cách Ruộng
đất. Các địa chủ liền bị cô lập, giam lỏng
hoặc bị quản chế thực sự, tài sản của họ bị
niêm phong.
Tất cả gia đình của địa chủ cũng bị cô lập,
bị khủng bố tinh thần, bị nhục mạ, trẻ con
được xúi giục ném đá, đánh đập gia đình
địa chủ mà họ không có quyền phản ứng lại,
người lớn được quyền chửi bới gia đình
địa chủ mỗi khi gặp mặt. Chẳng những gia đình
địa chủ lâm vào cảnh cùng đường, mà thân nhân,
bạn bè cũng bị đẩy vào tuyệt lô.. Những
người này, nếu còn giữ cảm tình với gia đình
địa chủ, tìm cách ngấm ngầm giúp đỡ hoặc
bênh vực địa chủ mà bị Đội Cải cách phát giác
là sẽ bị ghép vào tội "Liên quan phản động".
Phần chính của tấn kịch Đấu Giảm tô là phần
"Thoái Tô", "Đấu Địa Chủ" và "Xử án Địa chủ".
oOo
Ta biết rằng việc giảm tô đã được "Chính
quyền Kháng chiến" quy định bằng một sắc lệnh
số 78/SL ngày 14 tháng 7 năm 1949 ấn định một
mức chung là giảm đi 25%. Điều này có nghĩa là
ưu đãi các tá điền và theo luật mới, địa chủ
phải giảm bớt số lời ("địa tô") đánh trên tá
điền.
Vì lề lối làm việc luộm thuộm ở nông thôn,
khi địa chủ giảm tô cho tá điền chẳng hề có
việc ghi biên lai làm bằng chứng. Vì thế, 4 năm
sau, khi có phong trào Đấu Giảm tô, địa chủ bị
coi như không hề giảm tô cho tá điền theo như
sắc lệnh, và Đội Cải cách hướng dẫn tá
điền "khai nợ" để đòi địa chủ phải "Thoái
tô" cho tá điền, nghĩa là hoàn trả cho tá điền
số địa tô thặng dư mà địa chủ đã lấy một
cách trái phép (theo sự "mớm cung" của cán bộ
Cải cách và sự khai gian của tá điền). Số nợ
"thoái tô" này nhiều hay ít là do Đội ấn định
trước, tùy theo số tài sản, nữ trang của địa
chủ mà "Đội" đã điều tra biết được.
oOo
Sau khi "xây dựng" xong "chuỗi rễ" và trước khi
địa chủ bị đem ra tố khổ, đội viên Cải cách
phải nhồi sọ "chuỗi rễ" qua một khóa học về
"Tội ác của địa chủ", dạy họ cách nói, cách kể
tội... với những bằng chứng ngụy tạo, như lời
anh Nguyễn Văn Thân thuật lại dưới đây:
".... Chủ yếu là dạy họ tả chân với những
chứng tích cụ thể (nhưng gian trá) để làm xúc
động quần chúng. Thí dụ như một cái sẹo cũ bị
ngã từ hồi còn bé sẽ được trình bày là vết
dao chém của địa chủ ác ôn, hoặc cặp mắt bị
kèm nhèm, mù lòa vì bệnh đau mắt hột hay lông
quặm (trichiasis) sẽ dùng để tố là địa chủ ác
ôn bắt thức khuya, dậy sớm chăn heo, nuôi gà,
không cho ngủ.... Hoặc nếu một bà lão rụng tóc
hết vì già hay vì bệnh hoạn thì sẽ dùng chứng
tích này để tố địa chủ nắm tóc giựt, đánh
đập.... Nếu là phụ nữ thì sẽ tố rằng bị
địa chủ hiếp dâm hàng trăm lần v.v...".
Sau khi lập xong "bản tội ác" của từng địa chủ,
các đội viên Cải cách bắt đầu tập dượt các
"chuỗi rễ" cho thuần thục về "Cách tố khổ
địa chủ trước quần chúng", y như như công việc
của Đạo diễn và Diễn viên trước khi trình
diễn. Họ phải học tập từ cách ăn nói, tới
điệu bô.... trước một hình nộm địa chủ.
Tiếp đó, Đội Cải cách mới công bố "Ngày
đấu tố".
".... Trong thời gian này, dân làng rất sợ sệt
và ngoan ngoãn, nhất là các thành phần trung nông
và phú nông, bảo họp là họ đi họp, bảo khóc là
họ khóc, bởi ai cũng sợ bị "nâng" lên thành
phần địa chủ. Đại hội họp mấy đêm liền,
mỗi đêm sẽ có một "rễ" chính lên tố khổ kể
tội địa chủ với sự phụ họa của một vài "rễ"
phu.. Đại hội này được gọi là "ôn nghèo kể
khổ". Trước khi lập báo cáo, Đại hội được
xem trình chiếu phim "Bạch Mao Nữ" (một nhân vật
với cốt truyện của Trung Quốc). Truyện phim nói
về một cô gái đi ở cho địa chủ, sau bị tên
này hiếp dâm, áp bức, hành hạ, nên cô ta phải
trốn lên núi theo "Cách Mạng" cho đến khi Đội
Cải cách Ruộng đất về làng, cô mới trở lại
thì tóc cô đã bạc trắng.
"Ảnh hưởng của cuốn phim đã tác động sâu
đậm trong tâm lý quần chúng nông thôn chất
phác. Họ đã xúc động, khóc thật sự trước
cảnh dã man, tàn ác của tên địa chủ trong phim ảnh
vừa chiếu thì, ngay sau đó, Đội Cải cách liền
đưa các "rễ" ra trình diện nông dân và kể
khổ. Thế là khí thế sắt máu của giai cấp bần
cố nông nổi dậy theo tiếng khóc, tiếng kể lể
của các "rễ", đã được Đội cho học tập từ
trước. Khí thế ghê rợn đó đi từ việc hô
các khẩu hiệu "đả đảo địa chủ cường hào"
đến việc ký tên vào quyết nghị xin xử tử
hoặc kết án tù tên địa chủ cường hào đó.
Thư ký Đội Cải cách sẽ lập biên bản phiên Đại
hội, lập báo cáo điển hình và trình lên Đoàn
Uỷ duyệt lại để xin quyết định của Trung ương.
Mấy hôm sau, Đoàn gửi công văn xuống chỉ thị
rằng Trung ương đồng ý với bản án của... toàn
dân đưa rạ
"Sau đó là việc tổ chức "Pháp trường đấu".
Các đội viên Đội Cải cách Ruộng đất sẽ
không tham dự nữa mà phải xây dựng (huấn
luyện, nhồi sọ) cho các gia đình bần cố "chuỗi
rễ" làm việc đấu tố, và lập Tòa án nhân
dân, gồm có: Chủ tịch đoàn và các Uỷ viên Hội
đồng Tòa án là các thành phần "chuỗi rễ" đã
được các đội viên "xây dựng", không có Luật
sư bào chữa cho bị can, có Đoàn Uỷ và chính
quyền địa phương tham dư.. Bị can là các địa
chủ cường hào đã bị giam từ trước và đến
khi đó, bị giải ra "đấu trường" tại sân đình
hay sân trường làng, toàn thể dân làng đều
phải có mặt và tập trung theo thành phần để
tham dư.. Trong phiên đấu này, các "chuỗi rễ"
đã được huấn luyện cũng lại đứng ra kể
tội, tố một cách tóm tắt hơn, và sau đó, vì
không có Luật sư nên "Tòa" cho phép "bị can" tự
bào chữa; tuy có hình thức "dân chủ" như thế,
nhưng thực ra, bị can chỉ còn cách cúi đầu nhận
tội, nếu người nào ngoan cố không nhận, hoặc
nói sai ý của Chủ tịch đoàn thì lập tức Chủ
tịch đoàn hô khẩu hiệu đả đảo và nông dân
tham dự ở dưới hô theo để áp đảo tinh thần
bị can và cấm không cho bị can nói tiếp. Sau đó,
Chủ tịch đoàn chỉ việc tuyên án bị can theo một
bản án đã do Trung ương định sẵn".
Đoạn dưới đây thuật lại một cuộc đấu tố
với những tội nhân điển hình tại Xóm Chuối,
tỉnh Ninh Bình, khi Đội Cải cách về làng và anh
Nguyễn Văn Thân được cử làm Thư ký Đội:
".... Đoàn tôi về thi hành chính sách tại Ninh
Bình. Đoàn trưởng là anh Thu, đã từng là Chính
uỷ Trung đoàn và lúc đó đang làm Tỉnh uỷ viên.
Tôi thuộc Đội 6. Đội trưởng là chị Văn, lúc
đó mới 20 tuổi, mồ côi, đi ở đợ cho địa
chủ từ nhỏ và đã tham gia Cải cách Ruộng đất
các đợt 1, 2, 3 và 4 với tư cách "rễ". Đợt
này là đợt thứ 5 chị được đề cử làm Đội
trưởng. Về văn hoá, chị chỉ biết ký tên mà
thôi, nhờ chúng tôi dạy cho chi.. Đội chúng tôi
được cử về Xóm Chuối, tỉnh Ninh Bình. Xóm này
rất nghèo, số gia đình có khoảng trên 100, và
thực tế thì chúng tôi chỉ thấy có 3 gia đình
tạm gọi là khá giả, nghĩa là có từ 10 đến 15
mẫu ruộng, có ao, có vườn. Thứ nhất là gia
đình ông Quản Năm, có con là Thiếu tá Trung đoàn
phó 3/14, có 15 mẫu ruộng, con cháu đông nên chỉ
mướn 3 anh tá điền làm công. Chúng tôi về "xây
dựng" 3 anh này để đứng ra tố ông Quản Năm,
nhưng 3 anh không chịu, nên sau phải vận động cô
cháu họ của ông cụ tên là Min đứng ra đấụ Gia
đình thứ hai có 10 mẫu ruộng, nhưng lại giao cho
người cháu quản lý, còn chính gia chủ lại đi
buôn bán ở thị xã Hà Nam, có con đi bộ đội
chết (tử sĩ); sau, người cháu sợ bị ghép tội
"Liên quan phản động" nên đứng ra đấu tố gia
đình ông nàỵ Gia đình thứ ba là gia đình bà
Quản Hảo, một thành phần địa chủ mới giàu do
công khó làm ăn vì ruộng đất toàn do con cái
tự canh tác, không mượn ngườị Đội tôi đưa
cháu gái đứng ra tố bà cộ
"Sau khi tìm được ba địa chủ, xây dựng được
"chuỗi rễ", Đội tôi làm báo cáo điển hình
về Đoàn xin duyệt y, nhưng Đoàn không chấp
nhận vì chưa đạt tiêu chuẩn tỷ lệ là 5% và
Đội tôi phải "cố" làm sao để nâng số gia
đình địa chủ lên 5 ngườị Làm đi làm lại,
Đội tôi đành chịu thua nên Đoàn phải cử một
anh cố vấn tên Thanh về để giúp giải quyết.
Anh Thanh này có thành tích chuyên môn phát hiện
địa chủ; nên sau khi có sự giúp đỡ của anh ta,
chúng tôi có thêm hai gia đình địa chủ nữa để
đấu tố. Hai gia đình này chỉ có một hai mẫu
ruộng, nhưng có xe đạp, có con đi học ở Hà
Nội, và nhất là một trong hai gia đình địa chủ
có lần đi lính cho Pháp trước rồi sau về làm
Phó lý tên gọi là Phó Hội Khạ
"Khi đã xây dựng đủ số 5 gia đình cường hào
địa chủ, chúng tôi lập báo cáo và khi đó Đoàn
mới duyệt phương án và đòi phải có ít ra là 2
cường hào ác bá phải bị xử tử. Chúng tôi
định đưa bà Phó Hội Kha ra làm vật hy sinh vì
ông chồng bà trước kia đi lính cho Pháp và làm
Phó lý, tuy nay đã chết, nhưng nợ máu vẫn còn
và bà vợ phải trả. Nhưng, bà Phó Hội Kha nghe
được tin này đã thắt cổ tự tử trước khi
bị chúng tôi đưa ra đấu trường. Tuy vậy, khi
lập Tòa án Nhân dân, bà Phó Hội Kha vẫn bị xử
khuyết tịch và bị tịch biên gia sản để trả lại
cho nông dân.
"Riêng tôi được phân công "bắt rễ" với một
bà 55 tuổi, không con, có họ với ông Quản Năm.
Bà này bị bệnh thần kinh nhe.. Tôi đã phải áp
dụng kỹ thuật "tam cùng" thật là khổ sở: ăn
đói, ngủ thiếu, làm khổ, nên trong thời gian
này, tôi bị sút năm, sáu Kí-lô, và điều nản
nữa là bà này lại là một "rễ thối", nghĩa là
bà ta chẳng nói, chẳng hiểu và chẳng làm gì
cả. Sau, tôi phải bỏ lờ bà ta để tìm một "rễ"
khác để xây dựng, đó là anh Thà, một thanh
niên tá điền, cờ bạc, rượu chè nên rất căm
thù ông Quản Năm. Rồi cô cháu họ của ông Năm,
tức chị Min, tố bị ông hiếp tất cả 17 lần....
Mặc dù các gia đình này có con là bộ đội cũng
vẫn bị tố như thường, mà khi con về còn bị
Đội Cải cách bắt vì nghi là về liên lạc với
địa chủ...".
oOo
Tóm lại, "Đấu giảm tô" chính là một giai đoạn
thực tập thí nghiệm cho chiến dịch "Đấu tranh
Cải cách Ruộng đất". Phong trào Đấu giảm tô
đã thực sự sử dụng đến bạo lực của nông
dân, đã thực sự gây chém giết, đổ máu và tỏ
ra thành công hơn giai đoạn "Đấu tranh chống phản
động" nhờ đã rút tỉa được nhiều kinh nghiệm
hơn. Trong giai đoạn đấu tranh chống phản động,
qua kỹ thuật "mớm cung" theo dây chuyền, nhiều
nạn nhân đã khai lung tung ra ngoài sự dự liệu
của cán bộ Đảng khiến cho Đảng không nắm vững
được phong tràọ Trong giai đoạn đấu tranh giảm
tô, những người đứng ra tố cáo đã được
cán bộ huấn luyện, giáo dục, nhồi sọ và chuẩn
bị rất kỹ lưỡng tới mức hoàn hảọ
Một điểm rất quan trọng đáng lưu ý ở đây là
quy tắc kích tỷ lê.. Đảng đã nhắm đến trong
giai đoạn đấu tranh giảm tô là không phải chỉ
riêng địa chủ mới bị xử tử mà cà những
người có một, hai mẫu ruộng cũng phải lãnh
những phát đạn kết liễu cuộc đời, vì bị
kết vào những tội phản động, phản quốc, thông
đồng với giặc Pháp v.v.... Làm như vậy, Đảng
đã gián tiếp cảnh cáo những phần tử phú nông
và trung nông khác phải coi chừng, đừng có nho
nhoe chống đốị
oOo
Cuộc Đấu tranh Giảm Tô đã kéo dài tới đầu
năm 1954 thì tạm thời được ngưng lại khi Chiến
trường Điện Biên Phủ đi vào giai đoạn nghiêm
trọng và quyết đi.nh.
Nói tóm lại, cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại miền
Bắc bắt đầu vào năm 1951 với chính sách Thuế
Nông Nghiệp, trùng hợp với giai đoạn Tổng Phản
Công trên phương diện quân sự với các trận
đánh lớn như Trận Vĩnh Yên (khai diễn ngày 13
tháng 1, 1951), Trận Mao Khê (khai diễn đêm 23 rạng
ngày 24 tháng 3) và Trận Sông Đáy (khai diễn ngày
29 tháng 5). Sự trùng hợp này giải thích nhu cầu
cấp bách trên ba phương diện:
- Động viên nhân lực và tài lực cho chiến
tranh.
- Đánh gục các thành phần Quốc gia yêu nước
nhưng không ủng hộ Việt cộng dưới danh hiệu
Việt Minh.
- Chuẩn bị đánh gục các thành phần Quốc gia yêu
nước đang tham gia cuộc Kháng Chiến Chống Pháp,
nhưng có thể trở thành chống lại Việt cộng khi
Kháng Chiến thành công.
Sự chuẩn bị này dành cho giai đoạn sắt máu sắp
tới, mà ta sẽ nghiên cứu trong bài báo kế tiếp;
trong đó, các câu hỏi sau đây sẽ được giải
đáp:
- Việt cộng làm cách nào tiêu diệt các thành
phần Quốc gia yêu nước tham gia Kháng Chiến?
- Nhân dân có thái độ như thế nào để chống
lại các hành động gian ác của Việt cộng?
- Việt cộng dùng thủ đoạn gì để đối phó
với phản ứng của nhân dân?
Cải cách ruộng đất Miền Bắc (3)
* Giai đoạn đấu tranh sắt máu sau 1954
Trận Điện Biên Phủ và Hiệp Định Geneve 1954 là
hai biến cố chính khiến cho chiến dịch Đấu
Tranh Giảm Tô được tạm ngưng. Mặc dầu sau Hiệp
Định Genève, Việt cộng hoàn toàn làm chủ miền
Bắc trong một khí thế đầy phấn khởi, bộ
đội Việt cộng về thủ đô với một vinh dự
chiến thắng, nhưng Hồ Chí Minh và giới đầu
lãnh Hà Nội phải đối phó với nhiều vấn đề
cấp bách: Phong trào di cư của gần một triệu
đồng bào miền Bắc bỏ trốn cộng sản vào Nam,
việc tập kết khoảng 50 ngàn bộ đội và cán
bộ cộng sản từ Nam ra Bắc tạo nên nhu cầu ổn
định tâm lý quần chúng cũng như củng cố an ninh.
Do đó, Việt cộng đã dành một thời gian khoảng
một năm để chấn chỉnh tình hình nội bộ và
chuẩn bị làm nốt phần tối quan trọng của Cải
Cách Ruộng Đất để bắt đầu công việc xây
dựng cơ sở vật chất cho công cuộc xâm lược
miền Nam.
Trong phạm vi bài này ta sẽ đi vào các phần chính
sau đây:
- Giai đọan đấu tranh đẫm máu
- Phản ứng của nhân dân đưa đến quyết định
sửa sai
- Cuộc đấu tranh tiếp theo của nhân dân miền
Bắc
- Những đặc điểm điển hình của giai đoạn Cải
Cách Ruộng Đất 1951-1956 đưa đến chiến dịch
sửa sai.
2003-10-19 21:47:49
4. Giai Đoạn Đấu Tranh Đẫm Máu
Giai đoạn này bắt đầu vào khoảng giữa năm 1955
trên toàn thể miền Bắc với những trường hợp
sau đây:
- Khu rừng núi không có cải cách ruộng đất (xem
bản đồ đính kèm)
- Vùng đồng bằng sông Nhị Hà trước kia chưa có
đấu giảm tô, thì trong giai đoạn này cả hai cuộc
"đấu tranh giảm tô" và "đấu tranh Cải Cách
Ruộng Đất" được xúc tiến cùng một lượt
(xem bản đồ).
Như đã trình bày trước đây, thể thức đấu
tranh cải cách ruộng đất cũng giống như đấu
tranh giảm tô, chỉ khác ở mức độ tàn bạo gia
tăng và con số nạn nhân cũng gia tăng do sự "càn
đi quét lại" và "kích tỷ lệ".
Điểm căn bản là sau cuộc cải tạo nông nghiệp
ruộng đất cũng như gia tài sản nghiệp của địa
chủ bị tịch thu và được chia cho nông dân nghèọ
Đây chính là cái mồi ngon cuối cùng mà đảng
dành cho nông dân suốt trong những giai đoạn đấu
tranh đã quạ
Cuộc đấu tranh cải cách ruộng đất được Trung
Ương Đảng giao cho Trường Chinh lãnh đạo qua một
Trung Ương ủy viên phụ trách là Hồ Viết Thắng;
dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng
đất cho mỗi tỉnh và dưới đoàn có các đội
cải cách ruộng đất cho mỗi xã. Các đội và
đoàn đều trực tiếp nhận lệnh của trung ương
mà không cần qua ủy ban hành chánh địa phương.
Nguyên tắc chọn lựa các đội viên của đội cải
cách ruộng đất phải là những thành phần cốt
cán, bần cố nông, là đảng viên trung kiên đã
chiến đấu trong bộ độị Đấy là các đội
viên của đợt đầu tiên cải cách ruộng đất.
Sau mỗi đợt, lại có một số thành phần cốt
cán bần cố nông khác được bồi dưỡng để
trở thành đội viên các đợt saụ Do đó càng
về sau, chính sách cải cách ruộng đất càng
khốc liệt bởi phần đông đội viên toàn là
những người trẻ tuổi, cuồng tín được bồi
dưỡng tư tưởng đấu tranh giai cấp để căm
thù thật sự; và cũng do đó mà vào năm 1956,
đợt Cải Cách Ruộng Đất được phát động
lấy tên là đợt Tổng tấn công Điện Biên Phủ
đưa số người bị tàn sát lên đến 10 ngàn
người, riêng trong đợt này; đội cải cách
ruộng đất trở thành một công cụ khủng bố ghê
gớm khiến nhân dân đồng thanh coi là "nhất
đội nhì trời" mỗi khi đội về làng. Sở dĩ
có sự tàn sát ghê gớm như vậy, vì chiến
thuật kích tỷ lệ (nâng tỷ lệ) của Việt cô.ng.
Thí dụ: cứ mỗi xã có 100 gia đình thì dù đủ
hay không đủ, có hay không có, đội cải cách
ruộng đất của xã đó phải tìm cho ra ít nhất
là 5 gia đình địa chủ (tỷ lệ 5%) nếu hơn càng
tốt, và trong số 5 gia đình này phải quy cho
được 2 gia đình là cường hào ác bá để xử
tử. Nếu đội không làm đủ tiêu chuẩn tỷ lệ
sẽ bị phê bình là thiếu ý thức đấu tranh giai
cấp, công tác kém, v.v....
Cuộc "phóng tay phát động quần chúng đấu tranh
cải cách ruộng đất" còn là cơ hội để đảng
thực hiện một cuộc thanh trừng quy mô nội bộ
Đảng cũng như hàng ngũ kháng chiến, sau khi thực
dân Pháp đã bị đánh bạị Và theo chính sự thú
nhận của Việt cộng khi có chính sách sửa sai,
trong cuộc thanh trừng này có tới 23 ngàn đảng
viên trung kiên bị "chết oan" , ngoài ra còn bao
nhiêu ngàn đảng viên "không trung kiên" bị chết
"một cách đích đáng" thì không thấy có tài
liệu chính thức nào của đảng ghi chép cả.
Khi cuộc cải cách ruộng đất lên tới mức độ
tàn bạo nhất, tức là đợt cải cách Điện Biên
Phủ, rất nhiều người thuộc thành phần trung
nông, tiểu thương bị "kích" lên thành địa chủ
phản động và bị đem đấu tố. Thê thảm hơn
nữa là những cán bộ cao cấp có công với kháng
chiến mà cũng bị kết tội là cường hào ác bá
và có chân trong tổ chức Quốc Dân Đảng. Nhân
chứng Nguyễn Văn Thân mô tả một cuộc đấu tố
chụp mũ như sau:
...."Cuộc đấu tố điển hình nhất mà tôi
được dự là lần đấu ông Nguyễn Văn Đô, bí
thư huyện ủy tại Ô Cầu Giấy ngoại thành Hà
Nội..." ...."Nạn nhân Nguyễn Văn Đô là bí thư
huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng
lại bị kết tội là cường hào ác bá và có chân
trong tổ chức Quốc Dân Đảng. Chủ tịch đoàn nói
rằng ông lợi dụng chức vụ của Đảng hoạt động
cho Quốc Dân Đảng. Người đứng kể tội là
một nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông
Độ Một cụ già khác lên tố về việc cướp
đất ruộng nương và cô con gái của ông lên
đấu tố là đã bị ông cưỡng hiếp tất cả là
117 lần, v.v.... Đến khi ông Đô được phép lên
phát biểu ý kiến nhận tội, ông đã cứng cỏi
trả lời: Ông không phải là Quốc Dân Đảng, ông
chỉ làm việc cho Bác cho kháng chiến mà thôị Ông
trả lời cô con gái là: "Thưa bà, bà còn quên
đấy, tôi đã hiếp cả mẹ bà để đẻ ra bà
nữa". Câu trả lời này làm mọi người phải bật
cười và làm đấu trường mất vẻ tôn nghiêm,
chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu "đả đảo
tên Đô ngoan cố" để đàn áp và che lấp tiếng
nói của ông nàỵ Sau đó họ không cho ông nói
tiếp. Họ nghị án và quyết định xử tử ông ngay
tại chỗ. Cuộc đấu này kéo dài từ 5 giờ sáng
tới 13 giờ, tức 1 giờ trưa mới xong". (Nguyễn
Văn Thân)
Rất nhiều cựu cán bộ cộng sản có tham dự
cuộc cải cách ruộng đất đều thắc mắc không
hiểu ẩn ý của Đảng khi thẳng tay triệt hạ
chính những cán bộ Đảng cao cấp và trung kiên,
và triệt hạ luôn cả cơ cấu tổ chức Đảng ở
nông thôn, thay vào đấy bằng những thanh thiếu
niên bần cố nông từ 15 tới 18 tuổị Rất
nhiều người thắc mắc không hiểu Đảng vô tình
hay cố ý giết oan người của Đảng.
Nhưng nếu người ta có cơ hội nghiên cứu kỹ
cuộc cách mạng văn hóa của Mao Trạch Đông, thì
ẩn ý của Đảng trở thành rõ rệt. Đó là chủ
trương đấu tranh liên tục trong nội bộ cộng
sản bằng những cuộc thanh trừng đẫm máụ Đảng
phải luôn luôn đào thải những cán bộ đảng viên
cũ không thuộc thành phần vô sản, những người
đã lỗi thời, có thể trở thành nguy hiểm cho
đảng vì đã trau dồi những kinh nghiệm đấu
tranh, đã có khả năng lãnh đạo, có uy tín, nắm
vững tình hình Đảng, quy tụ được thế lực
mạnh, và có thể phản Đảng. Thay vì dùng nghị
đình, thông tư, sự vụ lệnh để thải hồi
những phần tử này, Đảng đã mượn tay quần
chúng nông dân để tiêu diệt cho hết hậu họạ
Kết quả là chính nạn nhân của cải cách ruộng
đất cũng không biết được thâm ý của "Hồ chủ
tịch" và của "Đảng", mà tưởng rằng cấp dưới
làm sai, nên có người khi chết còn tung hô "Hồ
chủ tịch".
IỊ Phản Ứng Của Nhân Dân Đưa Đến Quyết Định
Sửa Sai
Mức độ sắt máu của Cải Cách Ruộng Đất đã
được chính những tên thợ thơ nô dịch của
Việt cộng cổ võ để nịnh Đảng và nạt dân.
Tố Hữu, một cán bộ lạnh đạo văn hóa của
Việt cộng miền Bắc viết bằng một giọng khát
máu:
"Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít ta lin... bất diệt."
Còn Xuân Diệu cũng cuồng say với cuộc đấu tố
bằng những vần thơ như sau:
Địa hào đối lập ra tro
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đưốc cho sáng đình làng đêm naỵ
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôị
(trích Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, trang 22 và
23)
Nhưng những vụ tàn sát của Cuộc Cải Cách Ruộng
Đất đã gây xúc động công phẫn mãnh liệt ở
khắp mọi nơị Mặc dầu dân chúng chưa võ trang
nổi dậy quy mô, nhưng những vụ phục kích giết
cán bộ đấu tố và những vụ chém giết giữa
bần cố nông và thân nhân của người bị đấu
tố đã xảy ra thường xuyên. Những người bị
đẩy đến bước đường cùng đã liều mạng
một sống một còn với kẻ thù của mình, bất
chấp những đe dọa của Đoàn Cải Cách Ruộng
Đất.
Đúng vào lúc đó, Đại Hội Đảng Liên Xô lần
thứ 20 đã đem lại một biến cố làm chấn
động dư luận thế giới và có ảnh hưởng đến
tình hình Việt cộng miền Bắc. Ngày 20 tháng 2
năm 1956, Krushchev đọc bài diễn văn trong Đại
Hội Cộng Đảng, công khai lên án bản chất khát
máu của Satalin qua những vụ thủ tiêu hàng vạn
đảng viên đối lập đồng thời tiết lộ nhiều
tội lỗi khác của Stalin, kể cả tội bắt dân Nga
sùng bái cá nhân của Stalin như một vị thánh
sống.
Cũng trong Hội Nghị lần thứ 20, Cộng Đảng Liên
Xô đã sửa đổi "chủ thuyết Stalin" bác bỏ chủ
trương quá khích của Stalin đòi hỏi "Cách mạng
phải bạo động và càng tiến tới xã hội chủ
nghĩa thì đấu tranh giai cấp càng quyết liệt".
Việc hạ bệ Stalin và việc thay đổi đường
lối chính sách tại Liên Xô chỉ là một sách
lược lừa địch và dụ khị đi.ch. Trên phương
diện đối nội, sau khi lật đổ Beria và Malenkov,
phe của Krushchev có nhu cầu đánh gục "bọn tàn dư"
của khuynh hướng Stalin để củng cố quyền lực
cho phe phái của mình, chứ không hề có ý định
thực hiện những cải cách dân chủ.
Trên phương diện đối ngoại, sách lược dụ khị
của Krushchev nhằm quảng cáo cho món hàng "sống
chung hòa bình", lôi kéo một số quốc gia Á Phi
vào một khối trung lập thân cộng gọi là "Phi
Liên Kết", đồng thời mở đầu cho giai đoạn
"Hòa Dịu" nhằm ru ngủ các cường quốc Tây
phương nhất là Hoa Kỳ, với mục đích chính:
Mượn tiền và kỹ thuật Tây phương để phát
triển kinh tế và kỹ thuật Liên Xô, tạo nên phong
trào đòi giảm vũ trang tại các nước Tây phương,
trong khi Liên Xô ngấm ngầm sản xuất vũ khí hạch
tâm chiến lược nhằm đánh thắng trong một
cuộc chiến tranh hạch tâm.
Với thâm ý như trên, Krushchev phái Nikoyan sang Hà
Nội để giải thích cho Hồ Chí Minh và Việt
cộng miền Bắc, về nhu cầu sách lược "xét
lại". Vào lúc đó, Hồ Chí Minh tâm sự với đàn
em rằng "Khí thế của cuộc đấu tranh cải cách
ruộng đất đang phừng phừng bốc cháy, không lẽ
lại dội một gáo nước lạnh vào đầu cán bộ
và anh em nông dân". Vì thế Việt cộng miền Bắc
vẫn bít kín không phổ biến "chính sách mới"
của Liên Xộ Tuy nhiên đứng trước những phản
ứng bạo động của nhân dân, cũng như những bất
mãn của tầng lớp trí thức đã từng tham gia
tích cực ủng hộ Việt Minh trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, vào tháng 3 năm 1956, Hồ Chí
Minh đã phải chuẩn bị kế hoạch dừng taỵ
Những biến cố trên thế giới và phong trào
chống đối trong nước liên tiếp đánh mạnh vào
uy tín của Hồ Chí Minh và giới đầu lãnh Việt
cô.ng. Ngày 26 tháng 5 năm 1956, Mao Trạch Đông công
bố chính sách "Bách Gia Tranh Minh, Bách Hoa Tề
Phóng" nghĩa là các môn phái tư tưởng được
mặc sức phát biểu ý nghĩ của mình như trăm
thứ hoa đua nở. Với chính sách mới, giới trí
thức Trung Quốc được "mở mồm nói trong phạm vi
có sự kiểm soát của Đảng".
Ngày 28-6-1956 công nhân Ba Lan sát cánh với sinh
viên bviểu tình ở Poznan chống lại chế độ
độc tài và đòi Tự Do, cơm áọ Ngày 23-10-1956
công nhân Hung Gia Lợi nổi dậy làm cách mạng ở
Budapest khiến Krushchev phải dùng vũ lực đàn áp
một cách tàn bạọ Tại Bắc Việt, Hồ Chí Minh
cố chờ cho cuộc cải cách ruộng đất kết thúc
với đợt Điện Biên Phủ, mới ra lệnh đình chỉ
mọi vụ hành quyết địa chủ, và tháng 10-1956 Trung
Ương Đảng Việt Cộng ra nghị quyết "sửa sai".
Chiến dịch sửa sai được bắt đầu bằng các
đợt học tập dành cho Đảng viên về nghị quyết
của Hội Nghị lần thứ 20 của Cộng Đảng Liên
Xô, đồng thời, báo chí của nhà nước giải
thích cho quần chúng về sự thay đổi bên Liên
xộ Tiếp theo đó Hồ Chí Minh chọn Trường Chinh
và Hồ Viết Thắng làm con vật tế thần
(Trường Chinh mất chức Tổng Bí Thư Đảng, và
Hồ Viết Thắng mất chức Thứ Trưởng phụ trách
cải cách ruộng đất). Mười hai ngàn đảng viên
còn sống sót trong tù vì bị kết tội là địa
chủ đã được thả rạ Trong số này có nhiều
người đã bị kết án tử hình. Hồ Chí Minh đã
khóc lóc và đổ tội cho cấp dưới phạm phải sai
lầm. Khả năng trình diễn của họ hồ rất cao
khiến nhiều người dân miền Bắc tưởng Hồ
khóc thật, và ít nhiều tin vào sự vô trách
nhiệm của Hồ.
Trong Hội Nghị thứ 10 của Trung Ương Đảng, Võ
Nguyên Giáp thay mặt Đảng đọc một bản thú nhận
những sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất.
Hội nghị Mặt Trận Trung Ương họp để nghiên
cứu các sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất
và chính sách sửa saị Sự sửa sai đưa ra để
xoa dịu lòng dân không có nghĩa là chính sách cải
cách ruộng đất của Đảng sai lầm, và theo như
Võ Nguyên Giáp nhận định trong bản báo cáo lên
Trung Ương Đảng thì thắng lợi cơ bản của cuộc
cải cách ruộng đất là đã đạt được mục tiêu
cốt yếu đề ra, đó là đánh đổ toàn bộ giai
cấp địa chủ. Những sự sai lầm, theo Đảng nhận
định, là do sự "quá tay" của cán bộ, ví dụ như:
- Phủ nhận thành tích kháng chiến của những
người bị đấu tố.
- Không đoàn kết trung nông, liên hiệp phú nông
như đã hứa mà lại đẩy họ vào hàng ngũ kẻ
thù.
- Xử tử oan người ngay, đả kích bừa bãi, tra
tấn đàn áp người vô tộị
- Xúc phạm tới tôn giáọ
- Không nhẹ tay với vùng dân thiểu số.
Hành động "sửa sai" của Việt cộng chỉ là một
"sách lược" để đối phó với tâm trạng công
phẫn bất mãn của nhân dân, tạo một cơ hội
để cho sự công phẫn xẹp xuống, và tránh nguy
cơ một cuộc nổi loạn trên toàn miền Bắc. Căn
bản của cuộc sửa sai là xác nhận chính sách Cải
Cách Ruộng Đất vẫn là đường lối lâu dài
của Đảng và Nhà Nước Việt cô.ng. Nếu có
những "sai lầm" trong việc thi hành chính sách,
thì đó là lỗi của một vài cá nhân đã "quá
tay" làm nhiều người chết oan, và những cá nhân
phạm lỗi khiến hàng trăm ngàn người bị chết
oan chỉ bị khiển trách một cách tượng trưng,
không có ai bị truy tố ra trước tòa án, không có
ai phải đền tội một cách đích đáng. Hồ Chí
Minh và giới đầu lãnh Việt cộng ngang nhiên coi
việc tàn sát giết người là quyền tự nhiên
của Đảng, không cần phải thắc mắc, và nếu có
giết oan vài chục ngàn người thì chỉ cần đổ
tội cho cấp dưới "lỡ tay", và phủi tay xin lỗi
với một thái độ hoan toàn vô trách nhiệm.
Nhưng quần chúng nhân dân miền Bắc không chấp
nhận thái độ đó, và họ đã nắm lấy cơ hội
"sửa sai" để vùng lên.
2003-10-19 21:48:18
5. Cuộc Đấu Tranh Tiếp Của Nhân Dân Miền Bắc
Lợi dụng hành động phủi tay của Hồ Chí Minh khi
đổ tội cho cấp dưới đi quá trớn, các nạn
nhân còn sống sót sau đợt đấu tranh Cải Cách
Ruộng Đất đã tìm những cán bộ cải cách để
trả thù. Tình trạng rối loạn được mô tả trong
cuốn "Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc" như dưới
đây:
"Sau khi các đảng viên trung kiên được tha từ
nhà tù về, được khôi phục công quyền, khôi
phục đảng tịch và chức vụ thì họ tìm ngay đến
các "đồng chí" đã "tố sai" để trả thù. Do đó
tình trạng xung đột, giết chóc giữa đảng viên
cũ và đảng viên mới lan rộng khắp mọi nơị Uy
tín của Đảng bị xụp đổ, cán bộ đâm ra hoang
mang. Trong dịp này nhà văn Nguyễn Sáng có nói
một cách hài hước: "Lạc quan sai; bi quan cũng sai;
chỉ có hoang mang mới đúng". Nhân dân được dịp
đòi lại ruộng nương nhà cửa bị tịch thụ
Ở nông thôn các đảng viên đi họp phải mang búa
theo để "thảo luận" với nhaụ Những địa chủ
được tha về, thấy tình trạng làng xóm như
vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia
đình "tiểu tư sản" hồi kháng chiến đã trú ngụ
tại nhà mình. Các bần cố nông, chót nghe lời
Đảng "tố điêu" nay sợ bị rạch mồm, cắt
lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp
xích-lô và đi ở thuệ Vì vậy nên dân số ở
Hà Nội, Nam Định đột nhiên tăng gấp bội và
không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố,
lây cho công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí
thức. Đáp lại vụ nổi loạn của nông dân ở
Quỳnh Lưu, thanh niên và công nhân "Nam bộ tập
kết" đập phá bót cảnh sát Bờ hồ Hà Nội (bên
cạnh ga tầu điện, đầu phố Cầu gỗ)".
Tại khắp các vùng nông thôn miền Bắc, đâu đâu
người ta cũng thấy những vành khăn tang của thân
nhân những người bị giết trong cải cách ruộng
đất. Cho tới nay, không ai biết được con số
chính xác những nạn nhân bị Việt cộng tàn sát.
Chỉ có một yếu tố then chốt để giúp người
ta ước lượng số nạn nhân đó là yếu tố
"kích tỷ lệ" được đề cập ở phần đầụ
Với dân số miền Bắc vào giai đoạn 1956 khoảng
chừng 20 triệu người tức là vào khoảng 4 triệu
gia đình nông dân, ta hãy giả sử 2% gia đình nông
dân bị liệt vào giai cấp cường hào địa chủ
nằm trong sổ đen của Việt cô.ng. Qua kỹ thuật
"kích tỷ lệ", những tên cán bộ trung kiên trong
các đội cải cách đã thực hiện đúng chỉ tiêu
bằng cách phát hiện và đem ra giết đủ tỷ lệ
tối thiểu là 2% mỗi xã. Như vậy trên toàn
miền Bắc, những gia đình nông dân có thể bị
giết ít nhất là 80.000 người trong cuộc cải
cách ruộng đất nếu các đội cải cách "kích tỷ
lệ" theo đúng chỉ tiêu của Đảng đề rạ
Trong lịch sử Việt Nam, chưa ai nghe thấy có thời
kỳ nào lực lượng ngoại bang thống trị đã tàn
sát nhân dân một cách lạnh lùng máy móc như
vậỵ Nỗi căm hờn uất hận của nạn nhân cải
cách ruộng đất cùng thân nhân của họ đã lên
tới mức cùng cực, nhưng sau khi Hồ Chí Minh đưa
ra chính sách sửa sai, thì chế độ Việt cộng
đã thoát khỏi một cuộc nổi loạn bạo động lan
rộng vì một số nguyên nhân chính:
a) Đa số những người mà tính mệnh bị đe dọa
đồng thời là những người có tiềm năng lãnh
đạo nổi loạn thì đã chết rồi, còn lại một
số nhỏ được tha về và được khôi phục lại
công quyền, tự coi là mình đã thoát chết trong
đường tơ kẽ tóc và cần được yên thân. Mặc
dù có một số người liều mạng đi tìm đội
cải cách để trả thù, nhưng hầu hết không dám
có ý định chống lại kẻ chủ mưu đại gian đại
ác là Hồ Chí Minh và Đảng Lao Động, hoặc là
vì họ tưởng cấp dưới làm sai chính sách Đảng,
hoặc vì họ nhìn ra Hồ Chí Minh và Đảng của họ
Hồ quá nguy hiểm và quá ma.nh. Nguy hiểm vì chúng
ném đá dấu tay, xúi giai cấp nọ giết giai cấp
kia để chúng bảo toàn lực lươ.ng. Mặt khác,
chúng quá mạnh vì có súng đạn trong tay, còn họ
thì thân cô thế cộ
b) Phần đại đa số nông dân còn lại là phú
nông, trung nông và bần nông thì như cá nằm
trốc thớt. Tuy tính mạng của họ chưa bị đe dọa
vì chưa bị liệt vào hàng cường hào địa chủ
nhưng trông gương những vụ đấu tố chụp mũ, họ
biết rằng bất cứ ai cũng có thể bị kết tội
là "liên quan" hoặc "phản động" ("liên quan" là
nói tắt của "liên quan với địa chủ cường
hào").
Vậy, cho dù có nhiều người trong lòng còn căm
hận, nhưng ngoài mặt không dám ngo ngoẹ Duy có
một thành phần trí thức văn nghệ sĩ dám hiên
ngang đứng lên chống Đảng và kể tội Đảng.
Thành phần này gồm có những nhân vật đã tham
gia kháng chiến từ những ngay đầu cho tới khi
kháng chiến chống Pháp thành công. Đó là những
người đã nằm trong lòng của cuộc kháng chiến
chống Pháp và đã nhìn ra bản chất cộng sản của
bọn Hồ Chí Minh. Là những người có tinh thần
Quốc Gia, một số những người này đã ngây thơ
lựa chọn con đường chống thực dân trước, cho
tới khi thành công rồi sẽ thanh toán cộng sản sau
(!!!). Một số còn lại đã tìm cớ nọ cớ kia
để từ từ ngưng hợp tác với Đảng ngay từ
trước khi kháng chiến chống Pháp thành công,
mặc dầu họ vẫn được mọi người mến chuộng
và được coi là giới trí thức và văn nghệ sĩ
kháng chiến.
Là những người nặng lòng với đất nước,
giới trí thức và văn nghệ sĩ kháng chiến về
thủ đô đã rất đau lòng và căm hận chính sách
tương tàn của bọn Hồ Chí Minh, và lợi dụng hoàn
cảnh thuận lợi khi họ Hồ đề ra chính sách sửa
sai, giới trí thức văn nghệ sĩ đã vùng lên
đấu tranh, tạo nên một chấn động trong dư
luận thế giới sau khi có cuộc nổi dậy của
nông dân Quỳnh lưu, Nghệ An.
Cuộc nổi dậy của nông dân Quỳnh Lưu gây một
chấn động lớn vì nó xảy ra ngay tại tỉnh Nghệ
An, quê quán của Hồ Chí Minh, và nó cho thấy ngay
đối với nhân dân tỉnh nhà, Hồ Chí Minh là một
đứa con vô liêm sỉ bị từ bỏ. Hồ Chí Minh rất
căm hận hành động nổi dậy, nên đã dùng các
sư đoàn Nam Bộ Tập Kết để đàn áp, giết và
đày ải hơn 6.000 nông dân, đồng thời cố tình
bít kín mọi tin tức liên quan đến cuộc nổi
dậy này không lọt ra thế giới bên ngoàị
Trong khi nông dân Nghệ An nổi dậy dùng gậy
gộc, dáo mác đánh Việt cộng thì văn nghệ sĩ
miền Bắc dùng ngòi bút, đánh Việt cộng bằng
những bài văn, những lời thơ sắc như thép:
Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi, ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá
(Phùng Quán trong bài "Lời mẹ dặn")
Cải cách ruộng đất Miền Bắc (4)
Trong khi thế giới biết rất ít về những chi
tiết của cuộc nổi loạn của nông dân Quỳnh Lưu,
thì trái lại những tài liệu của cuộc nổi dậy
của văn nghệ sĩ miền Bắc đã được bí mật
gởi ra ngoài, bằng giấy trắng mực đen, khiến
cho lịch sử văn học đã ghi được đầy đủ chi
tiết về nội dung cuộc nổi dậy, những văn
nghệ sĩ tham gia và đường lối đấu tranh của
giới văn nghệ sĩ miền Bắc, v.v.... Nhờ đó,
những văn thi họa phẩm của giai đoạn "Trăm Hoa
Đua Nở" trên đất Bắc đã không bị mai một, dù
cộng sản tìm cách thủ tiêu, và những tài liệu
trên đã đóng góp vào kho tàng văn hóa dân tộc,
tiêu biểu cho một trong những giai đoạn văn học
phản ảnh trung thực sức đấu tranh dũng mãnh của
dân tộc.
1. Nội Dung Cuộc Nổi Dậy Của Văn Nghệ Sĩ Và
Trí Thức Miền Bắc
Diễn đàn của giới trí thức văn nghệ sĩ đấu
tranh khởi đầu là cuốn sách Giai Phẩm 1956 còn
gọi là Giai Phẩm Mùa Xuân được xuất bản vào
khoảng tháng 3-1956, trước khi có chiến dịch sửa
sai . Sau khi Nikoyan sang Hà Nội giải thích chính
sách của Liên Xô, đưa đến vụ sửa sai, thì phong
trào nổi dậy đã bùng lên với Giai Phẩm Mùa Thu
(29-8-1956) Giai Phẩm Mùa Đông (1956), tờ báo Nhân
Văn (liên tiếp trong nhiều số), tờ Đất Mới,
tuần báo Trăm Hoa, tờ nhật báo Thời Mới, và
ngay cả báo Văn của Đảng. Tuy nhiên, tiêu biểu
nhất trong những tài liệu trên là báo Nhân Văn
và các quyển Giai Phẩm, cho nên người ta quen gọi
phong trào nổi dậy của văn nghệ sĩ là Phong Trào
Nhân Văn - Giai Phẩm
Nội dung của Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm là
đấu tranh chống chế độ Việt cộng trên hai
lãnh vực chính:
- Đường lối chính sách của Đảng
- Hệ thống lãnh đạo của Đảng
Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm đánh vào đường
lối chính sách tức là đánh tận gốc Chủ Nghĩa
Cộng Sản, chĩa mũi dùi vào chủ trương giai cấp
đấu tranh người bóc lột người, chính sách cải
cách ruộng đất, chính sách cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh tại thành thị, đồng thời
tấn công vào liên minh giai cấp đấu tranh giữa
Việt cộng và Trung Quốc. Một trong những tài
liệu quan trọng nhất thuộc loại này là cuốn
"Nắng Chiều" của cụ Phan Khôi, gồm nhiều bài
bút ký, tạp văn, bị Việt cộng cấm xuất bản,
may nhờ có Đoàn Giỏi, một cán bộ Đảng đem ra
mổ xẻ phê bình trên báo Văn Nghệ của Đảng số
15, xuất bản tháng 8-1958, người ta mới biết về
nó. Sau đó, Đoàn Giỏi đã bị phê bình kiểm thảo
là cố tình mổ xẻ chửi bới cụ Phan Khôi nhằm
mục đích phổ biến tài liệu chống Đảng. Tội
nặng nhất của cụ Phan khôi được phát hiện
trong cuốn Nắng Chiều nằm trong các chuyện Nuôi
vịt ở miền Nam, "Tiếng Chim", "Thái Văn Thu" và
chuyện Ba Ông Vua Càn Long, Quang Trung và Chiêu
Thống.
Trong chuyện "Tiếng Chim", cụ Phan Khôi đã thuật
chuyện hai con quạ không dành nhau miếng ăn để
ngụ ý mỉa mai vấn đề đấu tranh giai cấp là
vấn đề căn bản của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong
chuyện Nuôi vịt ở miền Nam, cụ Phan Khôi thuật
lại cách làm việc và cách sống của chủ và
người làm thuê đều cực khổ như nhau, đồng
thời chủ chẳng những trả công cho thợ mà còn
chia hoa hồng cho thợ mỗi khi được mùa, vừa có
ý ám chỉ rằng cảnh người bóc lột người theo
quan niệm đấu tranh giai cấp là không hoàn toàn
có thực mà còn có ý ám chỉ Đảng bóc lột
người hơn những người chủ nuôi vịt. Trong
chuyện "Ba Ông Vua", Đoàn Giỏi giải thích rằng cụ
Phan có ý ám chỉ "quan hệ ngoại giao giữa Quang
Trung và Càn Long ngày xưa không khác gì quan hệ
hữu nghị giữa ta và Trung Quốc ngày nay, một con
cáo và một con sói đồng tình vật chết một con
dê".(Xem Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, trang 94)
Ngoài việc đả kích tư tưởng đấu tranh giai
cấp, căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Phong Trào
Nhân Văn - Giai Phẩm còn kêu gọi mọi người
đứng lên chống lại chủ nghĩa đó. Trong bài
"Tiếng Hát", một vở kịch thơ ngắn, Hoàng Cầm
đã cất tiếng kêu gọi qua tiếng hát của Trương
Chi:
Nào người quả phụ trắng khăn tang
Nào đứa em mồ côi khát sữa
Nào ai sống nhục chết oan
Nào ai tan lìa đôi lứa
Nghe tiếng hát này...
để ám chỉ những nạn nhân của cải cách ruộng
đất, và tiếp theo đó kêu gọi mọi người hãy
theo "Tiếng gọi của trời cao, của đất rộng"
quyết "Vượt qua tường đá" của hệ thống kềm
kẹp áp bức của Việt cô.ng.
Một mặt chống đường lối chủ trương Đấu
Tranh Giai Cấp của Đảng, một mặt khác Phong Trào
Nhân Văn - Giai Phẩm đánh thẳng vào hệ thống
lãnh đạo Đảng gồm có con người và tổ chức.
Về con người lãnh đạo, các văn nghệ sĩ đánh
từ Hồ Chí Minh trở xuống cho tới các cán bộ
cao cấp Trung Ương như Trường Chinh, các cán bộ
lãnh đạo văn nghệ như Tố Hữu, Hoài thanh, Xuân
Diệu mà mọi người gọi là những tên "cai văn
nghệ".
Một nhà thơ trẻ là Lê Đạt đã dám ví Hồ Chí
Minh như cái bình vôi:
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Cụ Phan Khôi còn viết bài "Ông Bình Vôi" trong Giai
Phẩm Mùa Thu tập I, với một câu giải thích
rằng cái bình vôi sống lâu "cũng như pho tượng
đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích,
thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng
"Ông". Chẳng những cụ đánh thẳng vào Hồ Chí
Minh mà còn đánh luôn những bọn văn nô đã tôn
thờ sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh nữạ Cụ Phan
Khôi còn chọc quê Hồ Chí Minh là Ông Bình Vôi vì
Hồ Chí Minh đã phạm tội tầy đình trong cuộc
cải cách ruộng đất, mà còn giả đò ù lỳ vô
trách nhiệm, phủi tay chối tội và bắt Trường
Chinh chịu tội thay cho mình.
Bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần đã
khiến nhà thơ này bị ngồi tù, bị đấu tố và
đã dùng lưỡi dao cạo cứa cổ tự tử mà không
chết. Trần Dần là nhà văn Đảng viên thuộc
giới trẻ trong Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm, đã
tham dự trận Điện Biên Phủ, sau đó vì chống
Đảng mà bị đi tù ở Việt Bắc. Tới khi dư
luận chống đối của giới trí thức kháng chiến
trở nên quá sôi nổi, Trần Dần mới được
Việt cộng đưa về miền đồng bằng và bắt đi
theo chiến dịch cải cách ruộng đất. Tiếp theo
đó xảy ra Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm, Hoàng
Cầm là bạn của Trần Dần đã đem in một bài
thơ của Trần Dần vốn được viết từ năm 1954
với nội dung đấu tranh chống đối, đồng thời
đề nghị Trần Dần viết thêm một đoạn cho có
"lập trường tốt" như thế mới được phép
xuất bản và đặt tên bài thơ là "Nhất định
thắng". Ngay trong phần đầu có tính chất đấu
tranh, Trần Dần cũng đánh bằng những đòn rất
kín khiến Việt cộng dù đem ông ra đấu tố,
cũng chỉ bắt bẻ bâng quơ về cách dùng chữ
không ổn, "phạm húy". Đọc bài thơ Nhất định
thắng của Trần Dần, người ta phải đặt mình
vào khung cảnh 1954 với không khí bàng hoàng của
Hiệp Định Genève cắt đôi đất nước, hàng
triệu người nông dân miền Bắc hốt hoảng bỏ
trốn cộng sản, trong tâm tư họ còn hằn vết
thương đỏ lòm của đấu tranh Giảm Tô trước
1954, rồi cảnh gia đình xé đôi vì người đi Nam
kẻ ở lại Bắc (người vợ trẻ của Trần Dần
lạc lõng giữa Hà Nội vì cha mẹ đã di cư), rồi
cảnh bộ đội Nam bộ tập kết được sử dụng
để đàn áp cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưụ Có
đặt mình vào hoàn cảnh 1954 người ta mới
mường tượng đọc ra được những ẩn ý lên án
Hồ Chí Minh chia đôi đất nước bằng cách ký
Hiệp Định Genève:
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng, máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A! Cái lưỡi dao cùn
Không giết được, mà đau
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ôi cả nước! Nếu mà lưng tôi lạnh
Hãy nhìn xem có phải vết daỏ
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc hôm nay rướm máụ
Và kế đến là cảnh đát nước miền Bắc ngập
trong điêu linh dưới chế độ mới:
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ....
Rồi bằng những câu hỏi "buộc tội" đối với
trách nhiệm về phong trào di cư, Trần Dần cầm
bút chỉ vào Hồ Chí Minh:
"Họ vẫn ra đi
Nhưng sao bước rã rờỉ
Sao họ khóc? Họ có gì thất vọng?"
Và:
"Ai dẫn họ đỉ
Aỉ
Dẫn đi đâủ
Mà họ khóc mãi thôi"
Và cũng vẫn bằng những câu hỏi làm Việt cộng
không trả lời được:
Ai có lý và ai có lực?
Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?
Cuối cùng, Trần Dần phang bốn câu làm cán bộ
lãnh đạo văn hóa của Việt cộng hết nhịn nổi:
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước tương lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội -
Người chưa kiên nhẫn mấỵ
Trần Dần bị hạch tội đã dùng danh từ "Người"
viết bằng chữ lớn xưa nay được cán bộ Việt
cộng dùng để chỉ Hồ Chí Minh với sự tôn sùng
tột đô.. Tuy Trần Dần bị bỏ tù nhưng cán bộ
Việt cộng không dám nói đích danh tội phỉ báng
Hồ Chí Minh của Trần Dần cũng như của cụ Phan
Khôị Giống như dưới thời đại "cực kỳ phong
kiến", riêng việc nhắc tới những lời "khi
quân" phỉ báng của người khác cũng đủ là một
sự phạm thượng đại nghịch, và không một tên
Việt cộng nào dám làm.
Ngoài việc tấn công tên đầu sỏ của Việt
cộng, các văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc
còn đả kích hệ thống lãnh đạo Việt cộng qua
tổ chức "Hội các nhà văn", tổ chức Mậu Dịch
Quốc Doanh, đồng thời đả kích tính chất phi
pháp của cải cách ruộng đất qua bài tham luận
của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường mà ta sẽ có dịp
đề cập tới trong một đoạn khác.
* Trên đây ta đã tóm lược cuộc đấu tranh
tiếp theo của Nhân Dân miền Bắc để chống lại
sự phản bội kháng chiến của Hồ Chí Minh và
cuộc tàn sát dã man qua Cải Cách Ruộng Đất.
Phong Trào Nhân Văn - Giai Phẩm tượng trưng cho
một cuộc nổi dậy có tổ chức và tư tưởng
chỉ đạo quy mô hơn cả. Tuy nhiênnó cũng có
nhược điểm quan trọng và đã bị dập tắt sau
khi Hồ Chí Minh ký một sắc lệnh ngày 15-12-1956
chính thức hủy bỏ quyền tự do ngôn luận, cấm
lưu hành tất cả các nhật báo, tạp chí, sách vở
văn nghệ phẩm chống đốị
Trước khi ký sắc lệnh bịt miệng văn nghệ sĩ,
Hồ Chí Minh đã phóng ra một chiến dịch dùng báo
chí Đảng chụp mũ tội "gián điệp" của Pháp và
của Mỹ lên đầu nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, tổ
chức học tập khắp nơi, và cán bộ Đảng thúc
đẩy các đoàn thể công nông binh, học sinh và
dân Nam bộ tập kết ký kiến nghị tự xưng là
"mọi từng lớp nhân dân" đòi nhà nước trừng
trị nhóm Nhân Văn.
Sau khi bịt miệng văn nghệ sĩ, Việt cộng chỉ cho
phép báo của Đảng múa võ một mình. Hội văn
nghệ của Đảng được chỉ thị cho ra báo Văn.
Nhưng múa võ một mình trong một thời gian, báo
Văn trở nên nhạt nhẽo quá khiến ban chủ nhiệm
cũng phải cảm thấy nản, và quay ra chống Đảng
bằng cách đăng những bài của nhóm Nhân Văn Giai
Phẩm. Việt cộng bèn đàn áp thẳng tay, bắt 304
văn nghệ sĩ đi chỉnh huấn, sau đó đi "Lao Động
Cải Tạo" ở những vùng rừng thiêng nước độc
của Việt Bắc. Hành động bịt miệng và đàn áp
thẳng tay đối với văn nghệ sĩ đã tạm thời
chấm dứt một hình thức chống đối trên Mặt
Trận Văn Hóa, nhưng chưa chấm dứt phong trào
đấu tranh của nhân dân dưới các hình thức
khác. Cuộc đấu tranh phi quy ước giữa Việt
cộng và các tầng lớp nhân dân bị áp bức còn
đương diễn ra trên Mặt Trận Kinh Tế qua các
giai đoạn tiếp theo gồm có công hữu hóa ruộng
đất vườn ao, hợp tác xã cấp thấp, hợp tác
xã cấp cao,v.v...
Các cuộc đấu tố của giai đoạn đã qua cho tới
năm 1956 mới chỉ là Màn I của tấn kịch cải cách
ruộng đất.Giai đoạn đấu tranh từ 1951 đến
1956 đưa tới vụ sửa sai và Phong Trào Nhân Văn -
Giai Phẩm có một số đặc điểm rất điển
hình đáng cho ta ghi chép lại đâỵ
2003-10-19 21:48:51
6. Những Đặc Điểm Của Giai Đoạn Cải Cách Ruộng Đất 1951-1956 Đưa Đến Chiến Dịch Sửa Sai
Những nỗ lực và những hoạt động của cộng
sản nhằm dành giựt quyền lực hoặc từ vai trò
có quyền lực trong tay để đàn áp quần chúng
nhân dân, tất cả đều là những nỗ lực và
hoạt động của chiến tranh mặc dầu nhiều khi
không có tiếng súng nổ. Đó là cuộc chiến tranh
diễn ra từ 1951 tới 1956 phối hợp hai loại đặc
điểm nổi bật:
- Những đặc điểm có tính cách chiến tranh phi
quy ước
- Những đặc điểm có tính cách Mác-xít
Lênin-nít điển hình
Nếu ta còn nhớ những đặc điểm của chiến
tranh phi quy ước trong bài nghiên cứu đầu tiên
đại cương về chiến tranh quy ước và phi quy
ước, ta sẽ thấy lại những đặc điểm này trong
cuộc cải cách ruộng đất của giai đoạn 1951-1956.
1. Dựa vào lực lượng quần chúng
Đây là một đặc điểm điển hình của chiến
tranh phi quy ước cũng như của chiến dịch Đấu
Tranh Chống Phản Động, Đấu Tranh Giảm Tô, Đấu
Tranh Cải Cách Ruộng Đất. Để tiêu diệt mầm
mống chống đối, Việt cộng đã không sử dụng
biện pháp pháp lý, biện pháp hành chánh, hay sử
dụng cảnh sát công an, quân đội, mà đã huy
động nông dân, bằng cách nhóm Đại Hội Nông
Dân, dùng các "đội đấu tố" và "đội cải
cách" xâm nhập vào dân để xách động dân, làm
như thể nông dân đứng chủ động đòi tiêu
diệt phản động, tiêu diệt địa chủ. Việt cộng
còn công khai giải tán hệ thống hành chánh xã
trong giai đoạn "đội cải cách" về làng phát
động đấu tranh, bề ngoài làm như đề cao
quyền lực của nông dân, nhưng thực sự bên trong
là gán ghép trách nhiệm cho dân, làm cho bàn tay
nông dân có dây máu địa chủ, nghĩa là nếu họ
không có chủ động thì ít ra cũng là kẻ đồng
lõa tội ác.Ta.i sao họ Hồ lại cần có liên minh
tội ác đó? Theo sự suy đoán của các hồi chánh
viên có liên hệ tới cải cách ruộng đất thì
một trong những lý do có tính cách chiến lược
là tương quan lực lượng giữa Đảng và giới
địa chủ, phú nông, trung nông và tất cả nông dân
hữu sản cho thấy Đảng là thiểu số. Quan niệm
dựa vào lực lượng quần chúng vừa là một
đặc điểm của chiến tranh phi quy ước lại vừa
phù hợp chủ trương cố hữu của cộng sản và kỹ
thuật đấu tranh của cộng sản. chủ trương của
cộng sản là tiêu diệt tư hữu, tiêu diệt tư
sản, tất nhiên phải tiêu diệt địa chủ là những
phần tử tư sản "ngoan cố" nhất. Kỹ thuật đấu
tranh của cộng sản là "lấy mâu thuẫn giải quyết
mâu thuẫn": nghĩa là Tạo ra mâu thuẫn giữa các
lực lượng thù địch đẩ các lực lượng này
tiêu diệt lẫn nhau và cộng sản ngồi rung đùi
hưởng lợị Đó là chiến lược xúi Ngô đánh
Ngụy để mình lấy ngon đất Kinh Châu (Tam Quốc
Chí). Áp dụng vào trường hợp đấu tranh cải
cách ruộng đất, "lấy mâu thuẫn giải quyết mâu
thuẫn" là lấy bần cố nông giải quyết bài toán
địa chủ. Nếu dùng biện pháp pháp lý để cải
cách ruộng đất như các nước Á Châu khác,
Việt cộng phải quốc hữu hóa hoặc mua rẻ ruộng
đất của địa chủ rồi chia cho nông dân, như thế
đích thân Đảng phải đối phó với khoảng 1
triệu người thuộc thành phần địa chủ phú nông
và trung nông, mà trong đó có nhiều người có
công với kháng chiến, có uy tín với dân. Tự
lực đối phó với khoảng 1 triệu có tư sản,
trong khi đảng viên nòng cốt của Việt cộng lúc
đó chưa đầy 500 ngàn người là một việc nguy
hiểm.
2. Bất chấp pháp lý, bất chấp quy ước hành
chánh
Đây là đặc điểm thứ hai của cộng sản khi áp
dụng hình thái chiến tranh phi quy ước vào cải
cách ruộng đất. Chẳng những Việt cộng không
sử dụng các biện pháp pháp lý và các quy ước
hành chánh thông thường, mà chúng còn trắng
trợn vi phạm các nguyên tắc pháp lý và hành
chánh được coi là khuôn mẫu để duy trì trật
tự quốc gia và xã hội của các nước văn minh
từ 400 năm quạ
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, qua bài diễn văn
đọc ngày 30-10-1956 trong một cuộc họp của Mặt
Trận Tổ Quốc Hà Nội, đã nêu lên những vi
phạm nguyên tắc pháp lý, trong Cải Cách Ruộng
Đất:
a) Nguyên tắc thứ nhất: Không hành phạt các tội
đã phạm quá lâu rồi mới bị khám phá vì khó
xác định các bằng chứng buộc tộị Khi buộc
tội một người với những bằng chứng hồ
đồ, xã hội sẽ tạo ra những tiền lệ bất công
làm mất uy tín của cơ chế cầm quyền và gây
xáo trộn xã hộị Việt cộng đã vi phạm thô bạo
nguyên tắc thư nhất khi mớm cung cho những bần
cố nông vu oan gia họa cho nạn nhân Cải Cách Ruộng
Đất về những tội đã phạm từ mấy chục năm
trước, dựa vào những bằng chứng hồ đồ (như
hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân đã tường
thuật).
b) Nguyên tắc thứ hai: Theo lời Luật sự Nguyễn
Mạnh Tường: Trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ
một mình phạm nhân phải chịu, không có trách
nhiệm chung với vợ con, của gia đình", chỉ trong
thời đại phong kiến dã man mới có luật tru di
tam tộc để trừng phạt bà con họ hàng của
người có tộị Nhưng riêng trong chế độ Việt
cộng, không những thân nhân của người có tội
phải trả nợ máu, mà ngay cả những người không
có liên hệ máu mủ gì với nhau mà cũng bị chết
chùm với nhau vì mang cái nhãn hiệu chung là địa
chủ, phú nông. "Kích tỷ lệ" là một vi phạm thô
bạo của nguyên tăc thứ hai về pháp lý.
c) Nguyên tắc thứ ba: Theo luật sư Nguyễn Mạnh
Tường là "muốn kết án một người phải có
bằng chứng xác đáng. Phải có nhân chứng là
những kẻ đã mục kích sự phạm pháp và cung khai
một cách cụ thể, rõ ràng và chắc chắn. Một
nhân chứng thôi cũng chưa đủ, ít ra phải có hai
nhân chứng khai phù hợp với nhau, mới được là
đáng kể... Khi nêu lên nguyên tắc thứ ba trên
đây, có lẽ ông Nguyễn Mạnh Tường muốn ám chỉ
những vụ Đấu Giảm Tô như anh Nguyễn Văn Thân
thuật lại, ví dụ: "Một cái sẹo cũ vì bị ngã
từ hồi còn bé sẽ được trình bày là vết dao
chém của địa chủ ác ông... Hoặc nếu một bà
lão rụng hết tóc vì già hay vì bệnh hoạn thì sẽ
dùng chứng tích này để tố địa chủ nắm tóc
giật đánh", (xem bài trước). Những bằng chứng
cần thiết để chứng tỏ vết dao chém tối
thiểu là phải trình bày được con dao có vết
máu của nạn nhân. Vì bất chấp nguyên tắc thứ
ba trên đây, trong giai đoạn "Đấu tranh chống
phản động" đội cải cách của Việt cộng đã
"mớm cung theo dây chuyền", khiến nhiều nạn nhân
đã khai lung tung ra ngoài sự dự liệu của cán
bộ Đảng và làm trò cười cho đấu trường cải
cách, cũng như làm trò cười cho lịch sử mai
hậụ
d) Nguyên tắc pháp lý thứ tư: "Thủ tục điều
tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố
nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào
chữa cho mình, và khi thiếu điều kiện nhờ
luật sư, khi nào là một trọng tội, tòa phải cử
luật sư bào chữa không, cho bị can... Khi điều
tra, thẩm vấn, tuyệt đối không được dùng
phương pháp tra khảo, đánh đập, hành hạ bị cn,
mớm cung cho bị can, dọa nạt hay dụ dỗ đương
sự"...
3. Thủ Tiêu Chế Độ Pháp Trị Chân Chính
Một chế độ pháp trị chân chính phải xác định
rõ đâu là quyền lợi và trách nhiệm của mỗi
người từ thường dân cho tới người lãnh đạọ
Việt cộng chẳng những thủ tiêu quyền lợi của
người dân qua việc bất chấp các nguyên tắc
pháp lý căn bản, mà còn lờ luôn trách nhiệm
pháp lý của cấp lãnh đạo đảng, nhất là họ
Hồ, tên chủ mưu trong chiến dịch Cải Cách Ruộng
Đất đẫm máụ Về điểm này ông Nguyễn Mạnh
Tường viết: ..."Trước hết, bức thư của ông
Hồ Viết Thắng tự phê bình và xin rút lui khỏi
Mặt Trận Trung Ương chỉ là một giải pháp chính
trị mà thôi..." "...là một nhà luật học, tôi
chưa thể nào nhận định được trách nhiệm của
ông Thắng. Có thể trách nhiệm của ông ấy rất
lớn, có thể rất nhỏ. Đứng trên tinh thần pháp
lý, sự nhận tội lỗi của một người không đủ
để quy định trách nhiệm của người ấy...".
Lập luận của ông Nguyễn Mạnh Tường có ý nói
rằng:
Thứ nhất: Giải pháp hạ tầng công tác Trường
Chinh và sự từ chức của Hồ Viết Thắng chỉ là
một giải pháp chính trị, và nếu ngưng ở đó,
Việt cộng đã cố tình xí xóa trách nhiệm pháp
lý đối với các vụ sát nhân có mưu định rõ
ràng. Và ông Tường gọi đó là "chính trị lấn
áp pháp lý".
Thứ hai: Trách nhiệm của Hồ Viết Thắng có thể
rất lớn, có thể rất nhỏ, nghĩa là nếu Hồ
Viết Thắng chỉ là một kẻ thừa hành, thì cần
phải truy nguyên ra cái trách nhiệm pháp lý cao
chót vót là Trung Ương Đảng và Hồ Chí Minh.
Không xác định quyền lợi cùa người dân và
trách nhiệm pháp lý của Đảng và nhà nước Việt
cộng đã thủ tiêu chế độ pháp trị chân chính.
Mà thủ tiêu chế độ pháp trị chân chính là một
đặc điểm có tính cách Mác-xít Lênin-nít điển
hình. Và nó là nguyên nhân của bao xương máu,
chết chóc và đau thương diễn ra trên đất Việt
Nam từ hơn 30 năm naỵ
Bài nghiên cứu này kết thúc một giai đoạn đặc
biệt của Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc, và
không có nghĩa cuộc cải cách ruộng đất của
Việt cộng đã chấm dứt khi ruộng đất được
lấy từ địa chủ để chia cho nông dân nghèọ
Không! Sau khi chia ruộng cho nông dân nghèo, Việt
cộng đã từ từ lấy lại hết tất cả ruộng
đất tài sản của họ qua các chiến dịch Tổ Đổi
Công, Hợp Tác Xã Cấp Thấp, Hợp Tác Xã Cấp
Cao,v.v... song hành với các kế hoạch kinh tế 3
năm, kế hoạch kinh tế 5 năm,v.v.. mà chúng ta sẽ
nghiên cứu trong những bài tớị
Trong phần kết luận của bài này, chúng ta hãy
đưa ra một nhận xét về trách nhiệm chính trị
và pháp lý của một hành động liên quan đến
trật tự công cộng và tính mạng của người dân.
Một người thường dân phạm tội giết người
phải chịu trách nhiệm pháp lý cho hành động đó.
Nếu việc giết người có chủ mưu, đó là một
trọng tội về hình sự, và hình phạt thường là
lấy mạng đền ma.ng. Một cấp lãnh đạo chính
trị, nếu giết người có chủ mưu vì mục đích
chính trị thì phải chịu trách nhiệm về pháp lý,
và sau đó còn phải chịu thêm trách nhiệm về
chính tri.. Trách nhiệm pháp lý càng gia tăng gấp
bội nếu là tội tàn sát nhiều người với sự
dự mưu kỹ càng. Một chế độ, một tập đoàn
thống trị phạm tội tàn sát tập thể cả trăm
ngàn người cũng phải chịu trách nhiệm chính trị
và pháp lý như trường hợp chế độ phát xít
Đức, phát xít Ý và quân phiệt Nhật,v.v...
Những kẻ lãnh đạo, tùy theo trách nhiệm và sự
dự mưu đều phải đền tội cả về phương diện
chính trị và pháp lý. Trước hết bị tước hết
quyền hành chính trị và sau đó lấy mạng đền
ma.ng.
Công lý đã được thi hành tại Đức, tại Ý, tại
Nhật, sau Đệ Nhị Thế Chiến, và trật tự quốc
gia nhờ đó đã được tái lập tại Đức, tại
Ý, tại Nhật. Nhưng cũng kể từ sau Đệ Nhị Thế
Chiến, vì Liên Xô không bị trừng phạt về những
tội diệt chủng nên các chế độ cộng sản từ
Âu sang Á đã thừa kế thủ tiêu nền pháp trị
chân chính. Chúng phủi tay chối bỏ mọi trách
nhiệm pháp lý đối với tội ác của chúng vì
nhân dân bất lực trước họng súng đàn áp, và
vì công lý không có sức mạnh để thực thị
Ở Việt Nam, Hồ chí Minh và đảng Việt cộng đã
phạm nhiều tội ác chồng chất. Tội tàn sát
trong Cải Cách Ruộng Đất chỉ là một trong nhiều
tội ác tày đình của chúng trong hơn 30 năm quạ
Mỗi lần gặp khó khăn vì nhân dân ta đấu tranh,
chúng lại tìm cách xoa dịu, xí xóa, khi thì bằng
chính sách sửa sai, khi thì bằng chính sách nới
lỏng các biện pháp kềm kẹp kinh tế, khi thì
bằng màn xiệc "đổi mới tư duy". Nhưng luôn
luôn có nhiều người bị chúng lường gạt, và
mỗi lần như thế, Việt cộng lại chối bỏ
được trách nhiệm về tội ác, và trở nên mạnh
hơn khi những nhóm người hoặc thế lực ngu
xuẩn giúp chúng cơ hội và phương tiện phục
hồi sức mạnh để tiếp tục tội ác.
Ngày nay, dân ta đã thức tỉnh, và đã đấu tranh
mạnh mẽ buộc Việt cộng phải lãnh trách nhiệm
đối với tội ác của chúng. Dân ta cương quyết
thì hành động công lý bằng cách lật đổ chế
độ Việt cộng và thiết lập một nền pháp trị
chân chính, nghĩa là bất cứ tập đoàn nào phản
nước hại dân phải chịu trách nhiệm chính trị và
pháp lý trước toàn dân, tức là trả lại quyền
hành chính trị và chịu sự phán đoán của luật
pháp quốc giạ Nhân Dân Việt Nam coi những biện
pháp "sửa sai" hoặc "cởi mở" hoặc "đổi mới"
hoặc "hòa giải hòa hợp" là những trò xiệc bịp
bợm để bịp những nhóm người ngu xuẩn, hoặc
đón gió làm tay sai cho ngoại bang.
Cải cách ruộng đất Miền Bắc (5)
* Mục Tiêu Của Hợp Tác Hóa Nông Nghiệp: Khống
Chế Nông Dân Bắc Việt
Giai đoạn đấu tố địa chủ và lấy ruộng đất
chia lại cho bần cố nông chỉ là màn I của tấn
kịch Cải Cách Ruộng Đất. Mỗi bần cố nông
được chia một mảnh đất nhỏ, một số nồi
niêu, xoong chảo, bàn ghế, giường nằm của địa
chủ, cuốc xẻng cầy bừa, kể cả chổi cùn, rế
rách. Đối với bần cố nông chất phác, đây là
một cuộc đổi đời chưa bao giờ họ ngờ tớị
Trong thời kỳ đấu tố địa chủ, các bần cố
nông bị xúi giục, bị áp lực của cán bộ Đảng
đi đến chỗ đồng lõa tội ác nhúng tay vào máu
địa chủ; nhưng đến giai đoạn sửa sai, họ bị
trả thù khiến nhiều người phải bỏ nông thôn
chạy ra thành thị đi ở đơ.. Những người còn
lại biết rằng số phận của họ khá bấp bênh,
tuy nhiên điều mà họ không ngờ nhất là: Cuộc
"đổi đời" chỉ cho họ hưởng tài sản chiếm
được của địa chủ trong một thời gian rất
ngắn. Họ không biết rằng Đảng cho tay này nhưng
sẽ lấy lại bằng tay kia với những thủ đoạn
tráo trở lừa lọc tinh vi, khiến ngay cả những
người khôn ngoan, có kiến thức hoặc có thế
lực còn không thể ngờ.... Sau khi đã lợi dụng
bần cố nông để đạt mục tiêu chiến lược giai
đoạn là đánh gục giai cấp địa chủ, Việt cộng
dần dần tước hết tài sản của trung nông kể
cả bần cố nông qua chính sách công hữu hóa toàn
bộ ruộng đất vườn aọ
Cuộc cải cách được gọi là "long trời lở
đất" ở miền Bắc đã đập nát các giai cấp,
các thế lực ở nông thôn. Đối với giai cấp
phú nông địa chủ, đó là một kinh nghiệm đẫm
máu mà họ nhớ và sợ cho đến suốt đờị Đối
với giai cấp trung nông, tuy chưa nếm mùi đau
đớn nhục nhã, nhưng họ biết họ chỉ là con cá
đang nằm trên thớt. Còn giới bần cố nông,
những người chất phác, chưa có kinh nghiệm lãnh
đạo, thì mặc dầu cuộc cải cách ruộng đất ban
cho họ một số quyền lợi, họ thừa biết người
đứng chủ mưu là Việt cô.ng. Nhưng họ không thể
kết hợp thành một lực lượng nào đáng kể.
Tóm lại, ở nông thôn không có một lực lượng
nào tồn tại để thách thức quyền lực của
Đảng. Tất cả chỉ là những cá nhân bị bỏ rơi
đơn độc, không nơi nương tựa, trừ bần cố
nông được dựa vào Đảng để hưởng một số
ưu thế nếu chịu làm tay sai cho Đảng. Khối dân
chúng nông thôn hoàn toàn tan rã. Mặc dầu có
chiến dịch sửa sai, phục hồi danh dự cho người
có công với kháng chiến, nhưng chiến dịch này
chỉ cứu được một số người còn sống trong
tù, chứ không cứu được cả trăm ngàn người
đã bị chôn dưới đất. Hơn nữa chiến dịch
sửa sai không tái lập giai cấp cũ vì Việt cộng
xác nhận đường lối cải cách ruộng đất là
đúng, chỉ có những cá nhân phạm phải sai lầm mà
thôị
Sau khi chiến dịch sửa sai đã làm xẹp cơn thịnh
nộ của quần chúng, Việt cộng phải đối phó
với Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm. Mặc dầu phong
trào này có đường lối quy mô (xem cuốn Trăm Hoa
Đua Nở Trên Đất Bắc) nhưng không có tổ chức
sâu rộng và không có sức mạnh vũ trang trong tay
nên sau một thời gian đã bị Việt cộng đàn áp
thẳng cánh.
Giải quyết được Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm,
Việt cộng đã triệt hạ được lực lượng căn
bản chống lại đường lối vô sản chuyên chính,
chúng bèn tiến hành luôn giai đoạn kế tiếp của
Cải Cách Ruộng Đất. Đó là nội dung của bài
nghiên cứu kỳ nàỵ
Kể từ cuối năm 1955 và đầu năm 1956, chính
sách ruộng đất ở miền Bắc của Việt cộng
đã được lồng vào trong khuôn khổ đường lối
công hữu hóa tư sản và tư bản được tiến hành
qua nhiều bước liên tiếp nhau, gọi là những
"kế hoạch" kinh tế 3 năm hoặc 5 năm. Những kế
hoạch kinh tế này nhắm vào hai ngành chính là
Nông Nghiệp và Công Nghiệp (Công nghiệp là danh
từ Việt cộng để chỉ kỹ nghệ). Ngành Thương
Nghiệp sẽ bị Việt cộng bóp chết dần theo đúng
chủ trương đường lối Mác-xít không chấp nhận
giới thương nhân trung gian trong guồng máy kinh
tế cộng sản.
Trong giai đoạn từ 1959 tới 1970, Việt cộng đã
theo đuổi những kế hoạch kinh tế sau đây:
- Kế hoạch 3 năm lần thứ nhất (1955-1957).
- Kế hoạch 3 năm lần thứ nhì (1955-1960.
- Kế hoạch hoàn thành và chuẩn bị cho kế hoạch 5
năm (1960-1961).
- Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).
- Kế hoạch 5 năm lần thứ nhì (1966-1970).
Trong khuôn khổ nói trên, đợt Cải Cách Ruộng
Đất đưa đến "sửa sai" là một phần căn bản
của kế hoạch 3 năm lần thứ nhất. Nó giúp Đảng
đánh gục giai cấp địa chủ và nhất là các thành
phần chống đối bị coi là nguy hiểm, để dọn
đường tiến tới mục tiêu tối hậu là truất
hữu toàn bộ ruộng đất tài sản của nông dân
sát nhập vào tài sản Nhà Nước. Làm sao cộng
sản Việt Nam có thể ăn cướp một cách trắng
trợn như vậy mà nông dân lại cam chịu đắng cay,
và thế giới bên ngoài hầu như hoàn toàn không
biết gì hết? Để trả lời câu hỏi trên, ta cần
đi lần lượt qua các giai đoạn căn bản của chính
sách Công Hữu Hóa Ruộng Đất:
- Giai đoạn Tổ Đổi Công.
- Giai đoạn Hợp Tác Xã Cấp Thấp.
- Giai đoạn Hợp Tác Xã Cấp Caọ
Ba bước căn bản nói trên được tiến hành nhịp
nhàng với các kế hoạch kinh tế 3 năm và 5 năm,
nhưng có hai đặc điểm rất quan trọng trong việc
Việt cộng thi hành đường lối chính sách mà ta
cần nắm vững.
Thứ nhất: Việt cộng luôn luôn đặt ra những
thí điểm để cho cán bộ học tập kinh nghiệm
và dạy lẫn nhaụ
Thứ hai: Mỗi chính sách, mỗi giai đoạn không
nhất thiết phải được tiến hành đều khắp
trên toàn miền Bắc, nhưng tùy thuộc vào điều
kiện thực tế từng vùng, ví dụ: Chính sách hợp
tác xã cấp thấp có thể hoàn thành tại một
vùng và đẩy lên hợp tác xã cấp cao, nhưng nếu
tại những vùng khác, điều kiện chưa cho phép
thực hiện hợp tác xã cấp cao, thì nông dân
vẫn còn ở trong hợp tác xã cấp thấp. Tình
trạng này dẫn đến những quy luật không đồng
đều cho mỗi vùng, chẳng hạn như tiêu chuẩn
lương thực khác nhau, và thuế nông nghiệp cũng
khác nhau, cho mỗi vùng.
2003-10-19 21:49:47
7. Giai Đoạn Tổ Đổi Công
Như đã trình bày, giai đoạn tổ đổi công nằm
trong kế hoạch 3 năm lần thứ nhất sau khi kết
thúc cuộc đấu tố "long trời lở đất". Mỗi
nông dân đều được chia một mảnh đất nhỏ
để canh tác, phù hợp với tinh thần tư sản
thiên nhiên của con ngườị Trong không khí mới
đó, một số đông quần chúng la bần nông đều
cảm thấy hân hoan. Việt cộng khơi dậy không khí
vui vẻ phấn khởi bằng cách phổ biến thơ văn
của các văn nô như hai câu thơ dưới đây:
Từ đây ta có đất cày
Con ơi bưng bát cơm đầy nhớ ai
(văn nô Trần Hữu Thung)
Không phải tất cả các bần nông đều hăng hái
cánh tác trên mảnh đất mớị Có một số bỏ ra
thành thị sinh sống, một số khác cần tiền
hoặc thiếu nông cụ sản xuất nên bán ruộng đi
để làm thuệ Do đó, những người có khả năng
mua lại ruộng và có khả năng canh tác trở nên
sung túc hơn. Đó là điều Việt cộng kỵ nhất,
vì khi có sự tích lũy tư sản trong tay một số
người là có sự suy yếu quyền lực của Việt
cô.ng. Nhưng tình trạng này không kéo dài vì Việt
cộng tung hàng loạt cán bộ về nông thôn tổ
chức nông hội và "Nhóm sản xuất". Một nhóm sản
xuất là một tập hợp từ 5 đến 10 hay 15 gia
đình giúp nhau sản xuất trong tất cả các công
tác nông nghiệp. Nhóm sản xuất là hình thức
giới thiệu cho "Tổ Đổi Công". Tổ đổi công
cũng tương tự như nhóm sản xuất nhưng số gia
đình tham gia lớn hơn, từ 25 đến 30 gia đình.
Một sự khác biệt quan trọng ở sự giúp đỡ
lẫn nhau dựa trên căn bản trao đổi ngày công.
Để hướng dẫn về tổ đổi công, cán bộ
Việt cộng giải thích cho nông dân như sau:
- Một anh nông dân A không có trâu để cày hoặc
bừa mảnh đất cho kịp gieo mạ, có thể mượn
trâu của anh nông dân B. Khi mạ đã lên, tới lúc
cần cấy lúa, anh nông dân B tuy có trâu nhưng
không sử dụng vào việc cấy lúa được, mà trong
gia đình lại neo ngườị Vậy anh nông dân B có
thể mượn người trong gia đình anh nông dân A
để cấy lúa, cũng trên căn bản ngày công. Một
ngày công của một người cũng tính bằng một
ngày công của trâu, và có thể trả bằng lúa, ví
dụ 3 kg lúa một ngày công cho người thì cũng trả
như vậy cho trâụ Với tổ đổi công, Đảng ủy
xã ấn định một lịch trình theo đó các gia đình
trong tổ luân phiên làm giúp nhau, mang cày bừa,
cuốc xẻng đi canh tác giúp, hoặc sửa nhà, lợp
mái cho các gia đình trong tổ.
Quan niệm của tổ đổi công đã tạo một ấn
tượng tốt trong đầu nông dân, vì nó đưa ra
những tiêu chuẩn đẹp và đề cao tinh thần liên
đới hỗ tương. Không những thế, nó còn có vẻ
hợp lý vì giúp nông dân giải quyết được tình
trạng bế tắc khi thiếu phương tiện hoặc nông
cụ cánh tác để cho kịp "thời vụ". Ví dụ nếu
không kịp có trân để cày bừa thì không kịp gieo
mạ lúc ruộng đang có nước. Nếu lấy sức
người để cày bừa sẽ quá lâu, và sau một
trận nắng lớn đất khô sẽ không cấy lúa
được nữa, và ngôn ngữ Việt cộng gọi là
"không kịp thời vụ".
Ngoài ra, trên phương diện kinh tế, lối làm ăn
trong tổ đổi công có các đặc điểm (trên
nguyên tắc) như sau:
- Quyền tư hữu ruộng đất vẫn còn được duy
trì như trước.
- Quyền làm chủ hoa màu vẫn thuộc về người
chủ đất nông dân.
- Công của ai người ấy hưởng.
Duy có ba ý niệm mà Việt cộng muốn mớm cho
nông dân qua hình thức tổ đổi công:
Thứ nhất: Nếu có thể sử dụng trâu bò, nông
cụ của nhau, tại sao không tập trung vào một nơi
để sử dụng chung (mở đầu cho giai đoạn hợp
tác hóa nông nghiệp).
Thứ hai: Trong tổ đổi công, mọi người cùng
chung vai làm việc tập trung nhân lực, khiến cho
dân quen dần với lối làm ăn tập thể.
Thứ ba: Trong tổ đổi công có tổ trưởng, tổ
phó, tổ nông hội, tổ thanh niên, tổ chức như
công đoàn sau này, có sinh hoạt học tập đôn
đốc chủ trương của Đảng, của nhà nước, đặc
biệt là chính sách thuế nông nghiệp. Với guồng
máy tổ chức này, một mặt Việt cộng gài cán
bộ vào làm tai mắt theo dõi hành vi và tư tưởng
chính trị của mỗi nông dân, một mặt đôn đốc
chuẩn bị dân sản xuất dưới chiêu bài nhân dân
làm chủ và Đảng lãnh đạo (chưa tới giai đoạn
Nhà Nước Quản Lý). Trong mỗi buổi sinh hoạt tổ
hoặc sinh hoạt rộng lớn hơn, thành phần Đảng
viên thường len lỏi vào chiếm chừng một phần
ba, thành phần cảm tình viên cũng vào khoảng một
phần ba, và đã được Đảng vận động trước
để ủng hộ những đề nghị có lợi cho chính
sách Đảng. Như vậy bất cứ những nghị quyết
nào quan trọng đều được hai phần ba biểu
quyết, lợi cho Đảng mà bề ngoài Đảng vẫn khoe
khoang là dân chủ vì dân quyết định mọi việc.
Trong giai đoạn Tổ Đổi Công, thuế nông nghiệp
bắt đầu tăng caọ Ngay ở những vùng đất nghèo
nàn cằn cỗi như phía Nam Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tĩnh, thuế nông nghiệp cũng từ 20% đến 25%,
nghĩa là cứ 1000 kg thóc thì phải nộp tới 250 kg,
và số thóc đó phải phơi thật khô và quạt thật
sa.ch. Ở những vùng đất tốt như Thái Bình Nam
Định, thuế nông nghiệp còn cao hơn nữa, và nói
chung, thuế nông nghiệp có tiêu chuẩn cố định,
bất kể thiên tai, hạn hán hoặc lụt lộị
Việc tiến hành kế hoạch Tổ Đổi Công không
đồng loạt và đều khắp trên toàn cõi Bắc
Việt, vì Việt cộng rất dè dặt và tiến hành
làm nhiều đợt tại nhiều thí điểm khác nhaụ
Tại khu Tự Trị Việt Bắc (xem bản đồ) gồm các
tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng,
Bắc Kạn, kế hoạch tổ đổi công mãi tới năm
1964 mới bắt đầụ Như vậy, cho tới tháng
12-1958 kế hoạch tổ đổi công vẫn chưa thực
hiện xong hết trên toàn miền Bắc, chỉ mới có
65% gia đình nông dân tham gia tổ đổi công. Tuy
nhiên, tại những nơi mà tổ đổi công tiến
triển điều hòa thì chế độ hợp tác xã cấp
thấp bắt đầu được thí nghiệm.
Trong giai đoạn tổ đổi công, đời sống nông
thôn Bắc Việt tương đối còn tạm dễ thở.
Mặc dầu có một số cá nhân đi làm thuê, nhưng
những gia đình đông người nhờ nhiều nhân công
đã sản xuất nhiều, trở nên sung túc, mua thêm
trâu cày, mua thêm nông cu.. Những gia đình ít
người, tuy sản xuất ít hơn, nhưng vì ít miệng
ăn nên cũng dành dụm được ít tư sản. Đó là
hiện tượng "tích lũy tư bản" mà cộng sản không
chấp nhận. Thực ra, giai đoạn công hữu hóa đã
được hoạch định tiếp theo để giải quyết vấn
đề tích lũy tư bản nàỵ Một ích lợi hiển
nhiên trong giai đoạn tổ đổi công là Việt cộng
đã có cơ hội ước lượng chính xác năng suất
trung bình của nông dân, để đo lường trước xem
tối thiểu có thể bóc lột được của nông dân
là bao nhiêu khi bước lên giai đoạn hợp tác xã
cấp thấp (danh từ Việt cộng dùng để chỉ thủ
đoạn bóc lột này là: "Giải Phóng Sức Sản
Xuất").
oOo
Tổ Đổi Công
Thời điểm
thực hiện Số Tổ
Đổi Công Tỷ số gia đình
tham gia Tài Liệu
10-1957 72000 24,3% Báo Nhân Dân 3-10-57
11-1957 8569 29% Báo Nhân Dân 28-11-57
01-1958 102000
07-1958 137600 31,6% VNI 15-8-58 (*)
10-1958 203582 51,1% VNI 23-1-59 (*)
12-1958 300000 (**) 65% Đài Hà Nội 29-12-58
Ghi chú:
(*) VNI: Tạp chí Viet Nam Information xuất bản ở
Rangoon
(**) 300000 tổ đổi công gồm khoảng 2 đến 3
triệu gia đình nông dân
IỊ Giai Đoạn Hợp Tác Xã Cấp Thấp
Trong khi chế độ Tổ Đổi Công chưa hoàn tất
đều khắp trên toàn cõi Bắc Việt, thì vào năm
1958, nghị quyết 14 của Trung Ương Đảng Lao Động
Bắc Việt đề ra nhiệm vụ và mục đích của Kế
Hoạch 3 Năm lần thứ hai là để "Xây Dựng Nền
Kinh Tế Dân Chủ Nhân Dân", khác với nền kinh tế
trong giai đoạn Tổ Đổi Công mà Việt cộng gọi
là Nền Kinh Tế Dân Tộc Tư Sản.
Cán bộ Việt cộng tổ chức học tập khắp nơi
về nhu cầu phải vượt qua giai đoạn Kinh Tế Dân
Tộc: "Cảnh Làm Thuê Cho Chủ" vẫn còn, từ đó
đưa đến tình trạng bất bình đẳng, và kềm
chế sức sản xuất, vậy phải tiến lên giai đoạn
kinh tế dân chủ nhân dân để "giải phóng sức
sản xuất và thành lập quan hệ kinh tế bình
đẳng giữa con ngườị
Hệ thống sản xuất mới trong ngành nông nghiệp
được gọi là Hợp Tác Xã Cấp Thấp. Cùng lúc
với Hợp Tác Xã Cấp Thấp ở nông thôn, có
cuộc cải tạo Công Thương Nghiệp Tư Bản Tư Doanh
ở thành thị mà ta sẽ nghiên cứu sau nàỵ Mặc
dầu từ cuối năm 1957 trong khi các tổ đổi công
chưa hoàn tất, một số Hợp Tác Xã Cấp Thấp
đã được phát động làm thí điểm, nhưng chính
thức vào năm 1958 phong trào Hợp Tác Xã Cấp
Thấp mới ra đời, và được thực hiện sớm
muộn tùy nơị Nhất là tại Khu Tự Trị Thái Mèo
và ở Việt Bắc như Tuyên Quang, Thái Nguyên
v.v..., phong trào hợp tác xã được thực hiện
rất muộn vì Đảng còn phải ve vuốt các nhóm
thiểu số.
Khi chế độ Hợp Tác Xã mới ra đời, Việt
cộng chưa bắt buộc toàn thể dân chúng phải gia
nhập, và phần lớn chỉ có đảng viên, giai cấp
bần nông gia nhập trước và được hưởng
những ưu quyền như con em được đi học, xã viên
được cấp phân bón, nông cụ v...v....
Những khẩu hiệu trong giai đoạn này là:
Đảng viên đi trước
Làng nước đi sau,
Đoàn viên đầu tàu
Vào hợp tác xã.
Việt cộng đã phát động phong trào hợp tác xã
một cách rầm rộ như một đại hội, với bích
chương, biểu ngữ, chiêng trống, chương trình
phát thanh, báo chí, phim ảnh cổ động cho quan
niệm hợp tác xã làm ăn,
"Buôn có bạn, bán có phường
Làm ăn có xóm có làng mới vui"
hoặc:
"Làm ăn riêng lẻ như nghé không đàn
Có tổ có đoàn, mạnh lắm ai ơi"
Để diễn tả sức mạnh của lối làm ăn hợp tác,
các văn nô nghĩ ra những lời thơ nghe rất phấn
khởi và khoái lỗ tai:
"Nghiêng đồng đổ nước ra sông"
hay là:
"Vắt đất ra nước thay trời làm mưa"
Câu trên ngợi ca cảnh tát nước từ những cánh
đồng bị úng nước để cứu cho lúa khỏi chết.
Câu dưới tả cảnh tát nước từ sông vào cánh
đồng khô cạn để cứu hạn hán. Ngoài ra, hai câu
trên còn đề cao khả năng "cải tạo thiên nhiên"
của lối làm ăn tập thể.
oOo
1. Nguyên Tắc Căn Bản của Hợp Tác Xã Cấp Thấp
Hợp tác xã cấp thấp có một số khác biệt căn
bản so với Tổ Đổi Công.
Thứ nhất: Trong Hợp tác xã cấp thấp, những xã
viên không còn làm chủ đất đai và dụng cụ làm
ruộng của mình (Việt cộng gọi là "phá vỡ
quyền tư hữu tư liệu sản xuất của tư nhân"),
những nông dân, sau khi được chia ruộng đất qua
cuộc cải cách, được cán bộ tuyên truyền gia
nhập hợp tác xã bằng cách nộp hết ruộng
đất cho hợp tác xã, nông cụ được tập trung
vào một nơi gọi là kho vật liệụ
Thứ hai: Ban quản trị hợp tác xã gồm những
thành phần đảng viên ưu tú mà thôị Ban quản trị
này lãnh đạo việc "Phân phối sức kéo" (tức là
người và trâu bò), phân phối nông cụ thành các
đội hoặc tổ sản xuất. Một xã viên sẽ không
còn làm việc trên mảnh đất cũ của mình, mà sẽ
làm trên mảnh ruộng của hợp tác xã.
Thứ ba: người nông dân sau khi vào hợp tác xã
không còn làm chủ hoa màu do mình sản xuất, không
còn gánh thóc về nhà sau mỗi mùa gặt, mà gánh
thóc vào kho lẫm của hợp tác xã. Thay vì hoa màu
thu được, người nông dân xã viên được trả
lương như một công nhân viên Nhà Nước. Tiêu
chuẩn trả lương ra sao là điều ta sẽ nói tới
saụ
Mặc dầu những nguyên tắc trên đi ngược lại
tinh thần tư sản cố hữu của người nông dân,
nhưng cán bộ Đảng đã vẽ ra trước mắt người
dân quê Việt Nam một hình ảnh huy hoàng của
tương lai: Nhờ hợp tác làm ăn, năng suất sẽ cao
hơn trước, và người hưởng lợi trực tiếp là
xã viên. Những khẩu hiệu như: "Hợp Tác, cánh
đồng năm bảy tấn" trở thành những chỉ tiêu
về gia tăng năng suất trong những kế hoạch 3 năm
và 5 năm. Ngoài ra cán bộ Đảng còn hứa hẹn
những tiến bộ kỹ thuật để nâng cao đời
sống xã viên như máy cày, máy bơm nước, điện
khí hóa nông thôn....
Nông dân miền Bắc nói chung vốn cầu an và có
tinh thần làm ăn theo xóm theo phường, nên ban
đầu cũng có nhiều người nghe lời tuyên truyền
của Đảng gia nhập hợp tác xã. Có một số ít
không gia nhập hợp tác xã vì lúc này chưa có
sự bó buộc. Theo nông dân Lê văn Hùng, thì tại
làng Hàm Cách của anh, thuộc huyện Thành Hà, tỉnh
Hải Dương, ban đầu chỉ có 20% nông dân tham gia
hợp tác xã cấp thấp. Những nông dân không gia
nhập hợp tác xã nghĩ rằng họ có thể làm ăn
riêng lẻ được, và Việt cộng cũng tạm để cho
họ yên trong giai đoạn đầụ
Đối với những nông dân gia nhập hợp tác xã,
chỉ trong vòng một thời gian ngắn đã vỡ mộng
vì những thu hoạch mà họ mang về cho gia đình
không tương xứng với một phần nhỏ của mồ hôi
nước mắt mà họ nhỏ xuống gốc ra.. Họ đã phải
đóng góp rất nhiều cho hợp tác xã, nhưng đến
cuối mùa họ tổng kết lại thì thấy phần lớn
những đóng góp của họ rơi vào một cái thùng
không đáỵ Sở dĩ như vậy là vì sự cách biệt
quá xa giữa một bên là chế độ đóng góp (gồm
có lao động, thuế, và các quỹ xã hội...), và
một bên là chế độ hưởng thụ theo công điểm
(ghi công làm việc của mỗi người).
Chế độ lao động ấn định mức làm việc của
mỗi ngườị Chế độ thuế ấn định bổn phận
tài chánh của mỗi công dân. Còn các quỹ đóng
góp thì trên lý thuyết tượng trưng cho sự để
dành hoặc sự đầu tư của nông dân giống như
quỹ an sinh xã hội hoặc những quỹ bảo hiểm của
các nước tự dọ Chế độ công điểm ghi chép
số giờ lao động mỗi người đóng góp mỗi
ngày để dựa vào đó trả tiền công cho mỗi
ngườị
Để dễ dàng nhìn thấy sự lợi hại của hợp
tác xã, ta hãy đặt lên bàn cân để so sánh sự
đóng góp công sức tài vật của nông dân, với
những số thù lao mà họ được hưởng.
oOo
2. Chế^' Độ Đóng Góp Của Xã Viên
Một đặc điểm quan trọng và nổi bật của chế
độ hợp tác xã là "hạch toán kinh tế", danh từ
Việt cộng chỉ mọi tính toán thu chi lời lỗ, ở
đây chỉ về sự đóng góp của xã viên cũng như
sự hưởng thụ của xã viên. Đây là đặc điểm
quan trọng vào bậc nhất vì nó liên quan mật
thiết đến sự tình trạng đói của xã viên, vì
thế cho nên hầu như bất cứ hồi chánh viên
nông dân nào khi được phỏng vấn cũng biết tính
toán một cách rành mạch từng đồng, từng xu
những đóng góp và hưởng thụ của xã viên. Vì
những con số đó tượng trưng cho sự no đói của
xã viên nên sẽ được trình bày khá tỉ mỉ trong
bài nghiên cứu nàỵ
ạ Đóng Góp Lao Động
Trong một hợp tác xã nông nghiệp, ban quản trị
gồm những người được Đảng lựa chọn từ
trước và được vận động ngầm từ trước,
mặc dầu cũng được bầu cho đủ hình thức dân
chủ.
Sơ đồ này cho thấy cái khung của hợp tác xã
gồm có những xã viên nằm trong các đội sản
xuất và tổ sản xuất tượng trưng cho bộ máy
sản xuất. Bộ máy này được điều khiển bởi
các đội trưởng sản xuất theo nguyên tắc "làm
việc tại đồng, phân công tại sở" có nghĩa là
các đội trưởng trở lên ban quản trị hợp tác
xã chỉ việc ngồi rung đùi tại sở để phân
công tác, và các xã viên mới là những người
phải đổ sức lao động ra tại đồng. Các tổ
trưởng là những phần tử bần nông trung kiên
vừa làm việc vừa đôn đốc, và ban kiểm soát
theo dõi ở trên, đánh giá sự làm việc của mỗi
người theo từng loại:
- Loại A: loại khỏe mạnh, làm nhanh, tích cực đi
làm sớm.
- Loại B: là loại làm việc trung bình.
- Loại C: là loại làm việc kém, hay đi trễ, không
tích cực.
Bình Công Chấm Điểm
Sau mỗi ngày làm việc, mỗi người được đánh
giá lao động bằng cách Bình Công Chấm Điểm
tức là dựa vào một người giỏi nhất để làm
tiêu chuẩn cho điểm những người khác, và gọi
tiêu chuẩn đó là "mốc khoán". Ví dụ: Trên một
mảnh ruộng do một số người làm việc gồm đủ
cả 3 loại A, B và C.
Khi chấm điểm mỗi người, loại A được 10
điểm nếu làm đủ 12 giờ một ngày, loại B
được 8 điểm và loại C chỉ được 6 điểm. Và
số 10 điểm trong một ngày làm việc của một xã
viên loại A được dùng làm chuẩn gọi là một
công. Một người loại A làm việc 3 ngày được
số điểm tương đương với 3 công lao động,
trong khi một người loại C làm việc 3 ngày chỉ
được ghi có 18 điểm, tức là chưa được 2
công lao đô.ng. Muốn đạt được 3 công, xã viên
loại C chỉ có hai cách, một là làm thêm ngày, hai
là tăng thêm giờ làm việc mỗi ngàỵ Nhưng cách
thứ nhất không thể thực hiện được vì không
ai có ngày nghỉ để làm bù nên xã viên loại C
chỉ còn một sự lựa chọn là tăng số giờ làm
mỗi ngàỵ Do đó mới có câu "Làm ngày không đủ
tranh thủ làm đêm".
2003-10-19 21:50:20
8. Tại Sao Phải Làm Cho Đủ Công?
Ban quản trị giao khoán cho từng gia đình phải làm
đủ một số công điểm cho mỗi vụ mùa, và danh
từ Việt cộng gọi là "mức giao điểm", tùy theo
số nhân khẩu trong mỗi gia đình.
Nếu gia đình đông người thì mức giao điểm
caọ Ví dụ một gia đình có hai lao động chính và
một lao động phụ thì mức giao điểm là 5000
điểm, tức là trong một vụ 6 tháng phải làm đủ
5000 điểm, tức là 500 công (10 điểm là một
ngày công) mỗi lao động chính phải làm khoảng 170
công và lao động phụ 140 công.
Nghĩa là trung bình mỗi người trong gia đình đó
phải làm 170 ngày trong 6 tháng (180 ngày) và mỗi
ngày 12 giờ mới hy vọng đạt được mức điểm
giao để được tính khẩu phần theo loại Ạ
Nói như vậy, có phải cứ sáu tháng thì có 10
ngày nghi??
Không, con số 170 ngày công là con số lao động
được trả lương gọi là "lao động sản xuất"
như cày, bừa, gặt, háị Mỗi năm, nông dân còn
phải làm lao động không công tức là lao động
"Nghĩa Vụ". Việt cộng đặt ra hai loại lao động
nghĩa vụ chính:
- Loại A: Lao Động Thủy Lợi - đó là lao động
bắt buộc như đắp bờ đập, tát nước, khai
nương v...v..., mỗi năm từ 15 đến 30 công.
- Loại B: Lao Động Xã Hội - như đắp đường,
xây trụ sở, xây cầu, đi gác ban đêm.
Hai loại nghĩa vụ trên không tính công để lãnh
lương, trái lại chỉ có phạt nếu thiếu nghĩa vu..
Ví dụ một người được ban quản trị hợp tác
xã phân công đi đắp đường mà vì lý do gì đó
không đi thì bị phạt từ 1 cho tới 3 công (3 ngày
công).
Như vậy, nếu gồm cả lao động nghĩa vụ với lao
động sản xuất, một xã viên không có đủ số
ngày trong một năm để làm cho đủ công điểm.
Vì thế hầu như ai cũng phải làm thêm bằng cách
ra đồng sớm hơn và ở lại tới khuya để làm
thêm. Nhưng không phải ngày nào cũng có thể ở
lại khuya để làm thêm, vì còn phải đi họp để
học tập về chính sách nông nghiệp, học tập
chính trị và đủ thứ học tập khác.
Điều đó có nghĩa là dù có muốn làm cho đủ
công điểm, cũng không có đủ giờ để làm theo
ý muốn. Và thiếu công điểm là thiếu ăn.
Dù có làm đủ công điểm cũng chưa có nghĩa là
đủ ăn, vì đến lúc thu hoạch vào cuối mùa, hợp
tác xã cộng điểm của toàn gia đình và khấu
trừ ra 25% gọi là điểm Kiến Thiết Xã Hội Chủ
Nghĩa, còn lại bao nhiêu mới tính ra giá bằng lúa
tùy theo từng vu.. Số lúa tương ứng với mỗi
công điểm cũng không nhất định, vì gặp năm
mất mùa, số lúa cũng giảm theo, mặc dù công
điểm không đổị
Công dân Lê văn Hùng giải thích rất rõ như sau:
"Tiền chia cho mỗi điểm tùy theo số thu tổng
kết của Hợp Tác Xã. Hợp tác xã hàng tháng
cộng chung số điểm của toàn thể dân làng. Đem
số tiền tổng thu chia cho số điểm chung của cả
dân làng, ta có tiền cho mỗi điểm. Thí dụ hợp
tác xã tổng thu được 10000 đồng và số điểm
chung của hợp tác xã là 100000 điểm, như vậy
mỗi điểm trị giá 10 xụ Mặt khác nếu số tổng
thu chỉ có 8000 đồng, thì giá trị mỗi điểm chỉ
còn có 8 xụ Tóm lại giá trị mỗi điểm tùy số
tổng thu, cho nên, nếu nông dân muốn được số
tổng thu cao hơn thì phải gia tăng sản xuất. Hạn
hán hay mất mùa là một thảm họa cho nông dân".
Hình thức bình công chấm điểm bắt buộc mọi
người, đàn ông cũng như đàn bà, ông già cũng
như bà lão phải làm việc như máy suốt ngày:
"Mệt nhọc đến độ tình vợ chồng cũng bị ảnh
hưởng, không còn sức nào mà yêu thương ân ái
với nhau được nữa". (Lời anh Lê văn Hùng)
Tuy số giờ làm việc chính thức là 12 giờ một
ngày, nhưng vì ai cũng sợ đói, và nếu có một
hai đứa con thì phải làm việc suốt từ 4 giờ
sáng tới 10 giờ đêm (18/24 giờ một ngày) mới
đủ ăn.
b. Đóng Góp Thuế Nông Nghiệp Và Thuế Đảm Phu..
Khi nhà nước đã nắm toàn bộ sinh hoạt, lợi
tức của dân, thì nông dân có còn phải đóng
thuế nữa không?
Câu hỏi này được anh Lê văn Hùng trả lời như
sau:
"Người dân quê đâu còn gì là của riêng nữa mà
đóng thuế. Nhưng trên thực tế họ vẫn gián
tiếp phải đóng thuế vì hợp tác xã nhân danh
tập thể đóng thuế cho nhà nước: Thuế Nông
Nghiệp, Thuế đảm phụ nghĩa vụ, Thuế đảm phụ
nghĩa thương.
"Khi hợp tác xã đóng thuế cho nhà nước dĩ
nhiên số thóc còn lại để chia cho xã viên phải
ít đị Thí dụ cụ thể cho dễ hiểu: Tại làng Hàm
Cách của tôi chẳng hạn, mỗi vụ lúa phải đóng 15
tấn thóc thuế nông nghiệp, 5 tấn thóc thuế
đảm phụ nghĩa vụ và 3 tấn thóc thuế đảm phụ
nghĩa thương. Tổng số thu hoạch mỗi mùa là 100
tấn thóc, đóng thuế xong chỉ còn 77 tấn. Thuế
nông nghiệp ấn định là 15% sản lượng, thuế
đảm phụ nghĩa vụ tùy theo tình hình chung, nhưng
không quá 5% sản lượng".
Thuế đảm phụ nghĩa vụ được cán bộ Đảng giải
thích như là một thứ thuế đóng thế chân cho
việc đi lính làm nghĩa vụ quân sư.. Còn thuế
đảm phụ nghĩa thương là để giúp cho các thương
bệnh binh bị đau ốm hoặc bị thương vì đi làm
nghĩa vụ quân sư..
Thuế nông nghiệp là một thứ thuế nặng nề
nhất đối với nông dân Bắc Việt, và cán bộ
Đảng trong hợp tác xã thi hành rất khắt khe, ví
dụ một cán bộ làm thổ sản ở Thanh Thủy, tỉnh
Thanh Hóa tên là Hoàng văn Kính, là cán bộ phụ
trách của tỉnh, có người cha thiếu thuế hai năm
liền, tức là phạm vào tội "dây dưa thuế nông
nghiệp". Anh Hoàng văn Kính đã bị Đảng thi hành
biện pháp kỷ luật bằng cách khai trừ khỏi
Đảng. Sau đó, anh Kính đã "thắc mắc" với chính
quyền địa phương nên bị đi cải tạọ
Chẳng những thuế nông nghiệp là một sự bóc
lột khắt khe, nhưng nông dân oán hận nhất là
nhà nước bắt trả các thứ thuế bằng thóc,
chứ không phải bằng tiền. Nông dân Nguyễn văn
Hùng đã giải thích tại sao trả thuế bằng thóc
lại thiệt hại cho dân hơn là trả bằng tiền:
"Nhà nước mỗi mùa lấy 23 tấn thóc (gồm thuế
nông nghiệp, thuế đảm phụ nghĩa vụ và thuế
đảm phụ nghĩa thương, áp dụng cho làng Hàm Cách
mỗi mùa sản xuất 100 tấn phải đóng thuế 23
tấn), như vậy nghĩa là dân mất đi 23 tấn thóc
mỗi mùạ Tại miền Bắc mỗi hột thóc quý như
hột vàng. Nếu nhà nước lấy tiền thay thóc thì
hợp tác xã thay mặt tập thể dân chúng chỉ phải
đóng 6200 đồng (giá chính thức 270 đồng một
tấn thóc). Như vậy đổ đồng mỗi người dân
(làng tôi có 100 dân) đóng 62 đồng. Với 62
đồng đó, trên thị trường chợ đen chỉ tương
đương với 70 kg thóc hay 50 kg gạo mỗi mùạ Trong
khi đó nếu dân được giữ lại 23 tấn thóc
(nếu đóng thuế bằng tiền) thì chia đều mỗi
người được 230 kg thóc (tức là khoảng 164 kg
gạo, và nếu chia cho 6 tháng thì trung bình mỗi
ngày một nông dân được thêm gần 1 kg gạo tức
là 4 bát cơm đầy). Giá trị một hột thóc ở
chỗ đó".
Chú thích: giá thóc chính thức là 270 đồng một
tấn, trong khi giá chợ đen là khoảng 800 đồng
tới 900 đồng một tấn vào lúc đó.
Sau khi đã được đóng góp sức lao động, đóng
các thứ thuế "nghĩa vụ cao cả" nghe khoái lỗ tai,
nông dân còn được Đảng thương cho đóng nhiều
loại quỹ khác nữạ
Cải cách ruộng đất Miền Bắc (6)
c. Đóng Góp Cho Các Thứ Quỹ Của Hợp Tác Xã.
Hợp tác xã cũng "thay mặt xã viên" để đóng
vào các loại quỹ dưới đây:
Quỹ Thủy Lợi: "Ban quản trị nói là để mua dụng
cụ máy móc làm công tác thủy lợi như dẫn nước
vào ruộng khô, hút nước ra khỏi ruộng ngập
nước, hoặc hệ thống đập nước v.v... nhân
dân đóng khá nhiều cho quỹ này, nhưng trên thực
tế, quỹ thủy lợi thực sự đi đâu mất tiêu và
không ai thấy có bằng chứng cụ thể là quỹ thủy
lợi được dùng vào mục tiêu thủy lợị Quỹ thủy
lợi đã như nước ngấm vào sa mạc hết trơn,
máy bơm nước, máy hút nước không thấy đâu,
chỉ thấy nông dân tiếp tục dùng gầu để tát
nước thấy ông bà nội".
Quỹ Tích Lũy: "Cán bộ Việt cộng tuyên truyền
rằng quỹ này được dùng để giúp đỡ xã viên
gặp hoàn cảnh khó khăn. Trên thực tế một phần
nhỏ được dùng để mua dụng cụ làm việc, còn
phần lớn để tổ chức những buổi liên hoan
của ban quản trị hợp tác xã, tức là các ông
trời con ở nông thôn".
Quỹ Xã Hội: "Được dùng để xây trường học,
xây nhà thương. Tất cả quỹ này được nộp cho
xã và từ xã đưa về huyện, hoàn toàn do nhà
nước nắm giữ, nhân dân làm chủ nó, nhưng không
hề biết nó được chi tiêu ra sao".
Quỹ Bảo Hiểm: Cán bộ Việt cộng tuyên truyền
cổ động như sau về quỹ bảo hiểm:
"Lao động phải an toàn. An toàn để lao động"
Việt cộng đã lên tới đỉnh cao trong việc sản
xuất những khẩu hiệu nghe qua thấy mê mẩn tâm
thần, nhưng không có liên hệ gì tới thực tế
của vấn đề bảo hiểm cả. Các xã viên sau khi
"nhờ" hợp tác xã "đóng tiền dùm" vào các quỹ
bảo hiểm, thì chẳng biết những quỹ này đi
đâu, mà cũng chẳng bao giờ được hưởng những
quyền lợi do quỹ này mang lạị Tuy biết rằng
mất của, đa số nông dân vẫn đành để cho "của
đi thay người" mà không dám thắc mắc, sợ rằng
có thể được Việt cộng cho đi xa để tìm ra
sự thật như trường hợp anh Hoàng văn Kính đã
nói ở trên.
Tuy nhiên họ cũng phản ứng lại bằng cách khác
như ta sẽ thấy sau nàỵ Trong hiện tại nông dân
còn nhẫn nhịn thì Việt cộng còn tiếp tục nhẩn
nha làm tớị Việt cộng coi nông dân miền Bắc
như một thứ trái cây có nhiều lớp vỏ ngọt
ngào tha hồ bóc lột từ lớp vỏ này tới lớp
vỏ khác để mà ăn. Từ Hồ Chí Minh cho đến tên
cán bộ hạng bét của Việt cộng đều thi đua
phát huy sáng kiến để bóc lột nông dân.
Sau khi bắt dân góp sức lao động, đóng các thứ
thuế, góp các thứ quỹ, hợp tác xã còn "phát huy
sáng kiến" ra một thứ "nhiệm vụ tình nguyện"
nuôi gà, nuôi heo cho nhà nước.
Anh Lê văn Hùng kể lại như sau:
"Về chăn nuôi, mỗi gia đình bắt buộc phải nuôi
một số lợn tương đương với 100 kg thịt mỗi
năm để bán cho hợp tác xã. Việc nuôi lợn là
việc cưỡng bách và người nuôi không được
bán ra ngoài hoặc giết ăn thịt. Mỗi gia đình
còn phải nuôi hai con gà cho hợp tác xã. Không ai
muốn nuôi lợn vì bị lỗ vốn, nhưng vẫn bị
bắt buộc phải nuôi".
Vấn đề nuôi heo lỗ vốn đã thành quy luật của
xã hội chủ nghĩa Việt cô.ng. Anh Lê văn Hùng
giải thích lý do:
"Hợp tác xã không cung cấp lợn giống, mà cũng
không bán lợn con cho dân. Vì thế, người nuôi
lợn phải mua lợn giống ở ngoài với giá tự dọ
Những người nuôi lợn giống được bán lợn con
tự dọ Một con lợn con nặng 10 kg giá 30 đồng
(tiền miền Bắc). Lợn ở ngoài Bắc thì nhỏ và
chậm lớn. Phải nuôi tới tám chín tháng mới
lớn tới 50 kg. Lợn được nuôi bằng cám, mà
cám thì rất đắt. Mỗi con lợn ăn hết 4 hào
tiền cám, nghĩa là 12 đồng một tháng, hay là 96
đồng trong 8 tháng. Hai con lợn mất 192 đồng
tiền cám, và giá mua 2 con hết 60 đồng, tổng
cộng là 252 đồng tiền vốn. Hai con lợn nặng
100 kg bán cho hợp tác xã 1 đồng mỗi kg thịt theo
giá chính thức, tức là lỗ hết 152 đồng không
kể công lao khó nhọc trong tám tháng. Do đó không
ai muốn nuôi lợn nếu không bị cưỡng bách. 152
đồng là tiền công 4 tháng lao động cực nhọc
ở ngoài đồng. Nhưng nếu không chịu nuôi lợn
thì sẽ không được ăn thịt và bị kết tội là
phản động chống lại xã hội chủ nghĩa, chỉ
biết nghĩ đến quyền lợi ích kỷ làm hại quyền
lợi chung. Ngoài ra còn bị phạt 30% số thóc
được mua của hợp tác xã ...".
Lý do căn bản khiến việc nuôi lợn lỗ vốn là
vì phải mua lợn con và thức ăn ở thị trường
tự do (gần như chợ đen) và cuối cùng bán thịt
heo giá chính thức cho nhà nước. Khi tất cả nông
dân bị lỗ, thì chỉ có một bọn hưởng lời trên
sức lao động của nông dân. Ai cũng đoán đước
bọn đó là bọn nàọ Khi anh Lê văn Hùng nói đến
việc "bị phạt 30% số thóc được mua của hợp
tác xã" thì các độc giả chưa nếm mùi Việt
cộng có thể không hiểu điều đó nghĩa là cái
gì, và có thể sẽ có người bảo "cần chi phải
mua thóc của hợp tác xã?".
Thực ra đây là căn bản của chế độ hưởng
thụ, tức là vấn đề no đói của xã viên mà ta
sắp phân tích dưới đâỵ
oOo
3. Chê Độ Hưởng Thụ Của Hợp Tác Xã Cấp Thấp
Chế độ hưởng thụ của hợp tác xã cấp thấp
thay đổi theo từng mùa hay từng vụ tùy theo sự
thu hoa.ch. Vì thế, cứ tới mùa gặt hái là tất
cả ba ban kiểm soát, kế hoạch và kế toán châu
đầu lại họp với ban quản trị hợp tác xã để
ấn định mức hưởng thụ của xã viên, và danh
từ Việt cộng gọi việc này là "làm phương án
kết toán ăn chia".
ạ Định Giá Trị Của Một Công
Phương án kết toán ăn chia là đường lối đại
cương mỗi vụ mùạ Sau khi phương án làm xong, ban
quản trị quyết định mức ăn chia tức là mức
độ hưởng thụ dựa trên giá trị của mỗi công
theo cách thức mà anh Lê văn Hùng đã mô tả (một
công có thể từ 8 xu tới 10 xu). Cán bộ Việt
cộng đi kiểm tra tất cả các mảnh ruộng bằng
cách đo năng suất mỗi mảnh, rồi từ đó tính ra
mức tổng thụ
Xã viên không được trả công dựa trên mức
tổng thụ Hợp tác xã trích một phần của số
tổng thu để đóng các loại thuế, các loại quỹ,
các loại công khác. Còn lại mới chia cho số
điểm tổng cộng của toàn thể xã viên để ấn
định giá trị của công điểm.
Hợp tác xã sẽ tùy theo công điểm của mỗi xã
viên để trả tiền cho từng người, và với số
tiền đó xã viên đến hợp tác xã để mua gạo
về ăn. Dĩ nhiên ai cũng muốn mua gạo của hợp
tác xã theo giá chính thức thay vì mua ở ngoài
theo giá chợ đen. Nhưng điều đó không có nghĩa
là "có tiền mua tiên cũng được". Thật ra ít có
xã viên nào có đủ công điểm để mua gạo theo
đúng tiêu chuẩn ăn của mình. Và dù có dư công
điểm, số gạo được mua cũng bị hạn chế bởi
cái "mức ăn quy định" giống như gông cùm để
kềm kẹp cái miệng và bao tử.
b. Mức Ăn Quy Định:
Tức là tiêu chuẩn lương thực, bao gồm những
"cấp bậc ăn uống" khác nhau tùy theo khả năng lao
động cũng như loại lao đô.ng. Khả năng lao động
được chia theo cấp bậc A, B, C như đã nói ở
trên.
Còn các loại lao động gồm có: Lao động chính:
Những người sản xuất nông nghiệp. Lao động
phụ: Những người làm các nghề khác như đánh
cá, thủ công nghiệp, chăn nuôi, thợ nề, thợ
mộc. Mất sức lao động: Những người già cả.
Không lao động: Con nít dưới 8 tuổị
Mức ăn quy định còn thay đổi tùy theo vùng và
tùy theo từng giai đoạn.
Nguyễn văn Việt, một cán binh xâm nhập từ Bắc
Việt vào Nam, sinh năm 1952, khi hồi chánh năm 1970
mới được 18 tuổi cho biết về vấn đề thực
phẩm ở tỉnh Tuyên Quang (khu tự trị Việt Bắc
là nơi anh sinh trưởng). Trước khi Hoa Kỳ oanh tạc
miền Bắc (1965) thì anh Việt còn nhỏ tuổi nên
không lưu ý về khẩu phần gạo là bao nhiêu,
nhưng:
"...Sau khi người Mỹ ngừng ném bom miền Bắc,
đời sống của nhân dân riêng tỉnh Tuyên Quang
trở nên sung túc hơn.... Tiêu chuẩn gạo hàng
tháng của người dân khu tự trị Việt Bắc là 21
cân gạo (21 kg) cho một lao động chính, học sinh
được 18 cân, trẻ em được 6 cân".
Về lý do tại sao người dân ở khu tự trị
được tiêu chuẩn gạo cao trong khi đa số người
dân đồng bằng miền Bắc chỉ được tối đa là
13 đến 18 cân gạo, anh Việt giải thích như sau:
"Người dân ở khu tự trị Việt Bắc vốn được
ăn uống tự do, nên tiêu chuẩn 21 cân gạo một
tháng cũng là quá ít ỏị Nếu phải ăn ít hơn
nữa họ sẽ không tin tưởng vào nhà nước".
Tình trạng anh Việt mô tả là tình trạng dễ thở
tại khu tự trị Việt Bắc mà Việt cộng cần ve
vuốt nhẹ tay để tránh sự nổi loạn. Ở những
vùng khác như Thanh Hóa, vào năm 1967-1968, tiêu
chuẩn lương thực đại khái như sau:
Tiêu chuẩn gạo mỗi tháng
(lao động cừ, thừa công điểm
Loại A Số lượng
Lao động chính 9,6kg
Lao động phụ 7kg
Mất sức lao động 6,4kg
(trung bình, vừa đủ công điểm)
Loại B Số lượng
Lao động chính 8,4kg
Lao động phụ 6kg
Mất sức lao động 4,8kg
8 tuổi trở xuống 4-6kg
(lao động kém, thiếu công điểm)
Loại C Số lượng
Lao động chính 7kg
Lao động phụ 5,25Kg
Mất sức lao động 4kg
Dưới 8 tuổi 2-3kg
Ở làng Hàm Cách, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương,
tiêu chuẩn gạo cao hơn vùng Thanh Hóa nhưng, câu
hỏi đáng đặt ra ở đây là: "nếu đã trả tiền
theo công điểm thì cần gì Việt cộng phải ấn
định tiêu chuẩn lương thực?"
Anh Lê văn Hùng đã trả lời câu hỏi trên theo
hoàn cảnh ở làng Hàm Cách, nhưng câu trả lời
của anh cũng áp dụng được cho tất cả các địa
phương khác:
"Vấn đề mức ăn quy định thực sự không giản
di.. Nhà nước ấn định cho mỗi lao động chính
là 14,4 kg gạo một tháng, lao động phụ 12 kg gạo
một tháng, trẻ nhỏ dưới 10 tuổi được 6 hoặc
7 kg gạọ Thí dụ gia đình tôi 2 vợ chồng, 2 đứa
con dưới 10 tuổi, tôi được quyền mua gạo theo
tiêu chuẩn 14,4 kg cho tôi 12 kg cho vợ tôi, và 12
kg cho 2 đứa con, tổng cộng 38,4 kg gạo một
tháng. Hợp tác xã tính công điểm trả thành
tiền. Tôi lấy tiền đó mua thóc (hoặc tính ra
gạo) ở hợp tác xã. Nếu tôi làm khỏe được
nhiều điểm, tôi mua thóc đủ tiêu chuẩn, còn
thừa tiền mang về tiêu riêng và mua thực phẩm,
chứ không được quyền mua thêm quá tiêu chuẩn.
Nếu chẳng may vì ốm đau hay vì một lý do nào
đó tôi làm không đủ điểm, nhất định tôi
không đủ tiền mua thóc, thì nguy hiểm vô cùng.
Thí dụ cho dễ hiểu: Tháng X, tôi làm ít công
điểm, cả gia đình chỉ đủ mua 24 kg gạo, tức là
thiếu 14,4 kg gạọ Theo như tiêu chuẩn ấn định,
tôi không được quyền mua 14,4 kg đó, cho dù tôi
có tiền".
Tới đây, độc giả có thể hiểu "bị phạt 30%
số thóc được mua của hợp tác xã" nghĩa là gì,
và hậu quả ra saọ Đó là 30% số lương thực
để ăn trong cả vụ mùạ Nếu bị phạt 30% số thóc
được mua của hợp tác xã, người ta phải mua bù
ở chợ đen với giá cắt cổ thì chỉ có nước
treo cổ lên xà nhà để tự vận (Nhưng khổ là
Đảng không cho ai chết vì Đảng cần lao động
để sản xuất).
2003-10-19 21:50:51
9. Phản Ứng Của Nông Dân Đối Với Hợp Tác Xã Cấp Thấp
Sau khi đa số nông dân dại dột nghe theo Đảng
để vào hợp tác xã cấp thấp, cuộc đời của
họ tuy được sống trong những năm hòa bình và
ổn định hơn thời đấu tranh sắt máu trước
đó, nhưng điều kiện làm việc thật là khắt
khe và sự thu hoạch về cho gia đình không đủ số
dù đã làm việc như trâu bò. Hơn nữa, họ hoàn
toàn mất hết quyền tư hữu, quyền tự do, lại
thêm bị nhồi sọ ngày đêm về chính trị riết
rồi phát khùng. Nông dân nhìn ra hợp tác xã
không nhằm mục đích giúp đỡ dân, mà thực ra
là để bóc lột dân đến kiệt quệ, và họ đã
phản ứng.
Nhưng rút kinh nghiệm của cuộc đấu tranh cải
cách ruộng đất, những nông dân bất mãn không
dám tỏ ra chống đối hoặc vi phạm những quy
luật chính trị mà chỉ dám phản ứng trong phạm vi
có thể được. Vì Đảng nói rằng không ép buộc
mọi người vào hợp tác xã nên những nông dân
bất mãn đã làm đơn rút ra khỏi hợp tác xã.
Có hai loại gia đình xin ra khỏi hợp tác xã.
Loại thứ nhất gồm những gia đình có đông
người mạnh khỏe, có trâu bò, và họ lại là
những người lao động giỏi, siêng năng. Nhưng ở
trong hợp tác xã dù làm giỏi, dư công điểm cũng
phải bán hết số thu hoạch cho nhà nước theo chế
độ "thu mua".
Loại thứ hai gồm những gia đình thiếu người
lao động giỏi, nên vụ mùa nào cũng thiếu điểm,
mang nợ liên tiếp trong nhiều mùa, mà còn bị
nhục mạ là lười biếng, ích kỷ, không tích cực
đối với quyền lợi tập thể.
Khi những cá nhân riêng lẻ này rút ra khỏi hợp
tác xã thì họ đã hành động đơn phương chứ
không dám rủ nhau, nhưng vì nhiều người đơn
phương rút ra nên tình cờ đã biến thành phong
trào xảy ra khắp nơi, làm cho nhiều hợp tác xã
phải giải tán. Ví dụ ở vùng Bình Cát, Thanh Thủy,
Thanh Hóa, Việt cộng phải giải tán 3 hợp tác xã ^.t để gom lại
làm một. Ở vùng Xích Thổ, Ninh
Bình, nhiều hợp tác xã phải giải tán toàn bộ
để tổ chức lạị
Đối với khu tự trị Thái Mèo, vì đồng bào
thiểu số chống đối mạnh nên cho mãi tới năm
1964 vẫn chưa tiến lên được hợp tác xã cấp
thấp. Nói chung trên toàn miền Bắc trước kia
vẫn có một số nông dân đứng ngoài hợp tác
xã và Việt cộng vẫn để yên cho họ sống.
Những người này trao đi đổi lại những sản
phẩm với nhau và làm thành một thứ thị trường
ngoài hợp tác xã mà ta gọi là thị trường tự do
và chợ đen.
Việt Cộng Đối Phó Ra Saỏ
Khi những người xã viên rút ra khỏi hợp tác xã,
lối làm ăn cá thể và thị trường tự do đột
nhiên lớn hẳn lên và đe dọa quyền lực Đảng,
do đó Việt cộng chỉ thị cho các chính quyền
địa phương và ban quản trị hợp tác xã phải có
biện pháp đối phó. Có ba biện pháp chính
được áp du.ng.
Biện pháp tuyên truyền giáo dục và dùng đoàn
viên vận động với gia đình
Đối với các đoàn viên (chưa phải là đảng
viên) có gia đình ra khỏi hợp tác xã, Đảng và
Đoàn áp dụng biện pháp kỷ luật như phê bình
kiểm thảo, áp lực để đoàn viên dùng tình cảm
lôi kéo gia đình trở lại hợp tác xã. Nếu không
thành công có thể dùng biện pháp khai trừ khỏi
Đoàn.
Biện pháp này cũng không đạt nhiều kết quả, và
Việt cộng phải tiến thêm một bước nữạ
Biện pháp cấp thẻ xã viên
Thẻ xã viên có công dụng cho xã viên có thể mua
đồ dùng hay thực phẩm ở Mậu Dịch Quốc Doanh.
Biện pháp này tương đối hữu hiệu hơn, vì đa
số xã viên sống bằng nông nghiệp, nên khi ra
khỏi hợp tác xã chỉ có thể cấy lúạ Nhưng khi
muốn có muối ăn, vải mặc, họ phải tới cửa
hàng mậu dịch Diêm-Nghiệp hoặc mậu dịch của
hợp tác xã dệt vải để muạ (các ngành này
đều được tổ chức thành hợp tác xã). Nếu
không có thẻ xã viên thì không mua được muối
được vảị Biện pháp này tương đối có hiệu
quả hơn và đã buộc nhiều người quay trở vào
hợp tác xã.
Biện pháp khoanh vùng
Nói chung, đối với những xã viên ra khỏi hợp
tác xã, ban quản trị phải trả lại đất. Nhưng vì
những bờ ruộng đều phá hết cả, nên không ai
có thể nói rằng đất cũ của mình ở đâụ Lợi
dụng tình trạng này, hợp tác xã đã đưa ra biện
pháp khoanh vùng để bóp chết những nông dân
nàỵ Hợp tác xã đã dành những mảnh đất thật
xấu hoặc ở những vùng cao không có nước, lại
bị ruộng của hợp tác xã bao vây, muốn lấy
nước vào ruộng không được vì hợp tác xã
không cho nước chảy quạ Cuối cùng nhiều người
đành phải trở vào hợp tác xã, và tất cả đều
phải bị phạt công điểm rất nă.ng.
Cũng vào khoảng mùa Đông 1957, miền Bắc bị mất
mùa rất trầm trọng, khắp nơi bị đói, và Đảng
đã tổ chức cứu trợ, nhưng chỉ cứu những
người ở trong hợp tác xã mà thôị Dĩ nhiên,
những ai ở ngoài hợp tác xã nếu muốn khỏi
chết đói thì phải gia nhập hợp tác xã. Thật ra
nếu năm 1957 không có nạn đói thì sớm muộn gì
cũng có một nạn đói khác để giúp Đảng thanh
toán hợp tác xã cấp thấp vì từ năm 1956 tới
1968 miền Bắc đã trải qua 7, 8 lần mất mùa đói
kém.
Tại những nơi mà đa số nông dân bị bắt buộc
phải quay trở lại hợp tác xã, Đảng bèn thừa
thắng xông lên, đẩy mạnh phong trào Hợp Tác Xã
Cấp Caọ Điển hình là tại làng Hàm Cách lúc này
nông dân đã hoàn toàn bị đoàn ngũ hóa và Đảng
đề ra chiến dịch cải tiến đợt I với khẩu
hiệu "công hữu hóa ruộng đất trâu bò", và
thanh toán nốt số 5% hoa mầu mà nông dân được
hưởng trong hợp tác xã cấp thấp.
oOo
Trong giai đoạn hợp tác xã cấp cao, Đảng đã gia
tăng năng xuất nông dân như thế nào, và nông
dân "sung sướng" như thế nào, đó là điều
chúng ta sẽ nghiên cứu trong kỳ tớị
Cải cách ruộng đất Miền Bắc (7)
Xây Dựng Lực Lượng Để Chuẩn Bị Xâm Chiếm
Miền Nam
Ngày 21-7-1954, trong buổi họp kết thúc hội nghị
Genève, Phạm Văn Đồng tuyên bố sẽ đạt tới
thống nhất như đã chiến thắng nước Pháp.
Ngày hôm sau, 22-7-1954, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh
sự quyết tâm này bằng cách công khai kêu gọi
nhân dân miền Bắc đấu tranh gian khổ và
trường kỳ để chiếm cho được miền Nam, mà họ
Hồ gọi là "lãnh thổ của chúng ta". Để có thể
chiếm được miềnNam, Việt cộng phải củng cố
ách thống trị trên miền Bắc, một công việc mà
Hồ Chí Minh gọi là "Xây Dựng Xã Hội Chủ Nghĩa".
Sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất, Việt cộng đã
đoàn ngũ hóa được khối nhân lực ở nông
thôn. Đồng thời cuộc cải tạo tư bản tư doanh,
đưa đến công tư hợp doanh, và biến thành quốc
doanh cùng hợp tác hóa nông nghiệp, đăng ký hộ
khẩu giúp nhà nước cộng sản đoàn ngũ hóa
được khối nhân lực thành thi.. Tổng cộng trong
những năm sau đó, Việt cộng đã động viên
được một khối nhân lực lao động lên tới
9.600.000 người dưới sự lãnh đạo sản xuất của
nhà nước. Họ làm đêm làm ngày, tăng gia sản
xuất, "một người làm việc bằng hai" để tăng
cường củng cố sức mạnh của chế độc và
chuẩn bị xâm chiếm miềnNam. Tất cả các nỗ
lực của miềnBắc đều dồn vào việc thực
hiện hai mục tiêu trên.
Tháng 2 năm 1957, Việt cộng triệu tập Đại Hội
Trung Ương Đảng Lao Động khóa 12 để thông qua
kế hoạch nhà nước năm 1957, và để tăng cường
quốc phòng.
Tháng 4 năm 1960, quốc hội bù nhìn Việt cộng
thông qua đạo luật động viên thanh niên miền
Bắc mà Việt cộng gọi là đạo luật về Nghĩa
Vụ Quân Sư..
Đó là những nét đại cương về đường lối
chính sách trên phương diện quân sư.. Nhìn lại
thực tế thì, vào thời điểm 1955 sau khi chiếm
được miềnBắc, cuộc chiến tranh chống Pháp
đã để lại cho Việt cộng một quân đội tuy
háo chiến nhưng còn yếu kém về tổ chức và kỹ
thuật hiện đạị Muốn xâm lăng miềnNam, Việt
cộng cần cải tổ lại quân đội đó. Công tác
này được gọi là "công cuộc xây dựng quân
đội chính quy miền Bắc" mà ta sẽ nói ở phần
saụ Nhưng công tác này không đòi hỏi nhiều thì
giờ cho bằng công tác xây dựng kinh tế
miềnBắc, vì muốn vơ vét nhân lực miền Bắc,
cộng sản đã lợi dụng luôn lực lượng quân
đội làm cái khung cho công việc sản xuất, và
chuẩn bị các cơ sở có tính cách phục vụ cho
một cuộc chiến tranh lâu dàị Với ý niệm trên,
trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu 3 chủ
đề chính:
- Tổng Biên Chế quân đội miềnBắc.
- Xây dựng các công trình sản xuất chiến lược,
cơ sở quân sự và xa lộ chiến lược.
- Xây dựng lực lượng chính quy Việt cộng trong
đó có công tác hiện đại và công tác chính trị
hóa quân độị
Ị Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc
Năm 1956 Phạm Văn Đồng "đệ trình" lên quốc
hội bù nhìn Việt cộng dự luật "Giảm Trừ Quân
Bị". Nguyễn Ngọc Mai, một hồi chánh viên thuật
lại:
"Theo dự luật này, Việt cộng nói rằng sẽ giảm
bớt 80.000 bộ đội chính quy, và tuyên truyền
ầm lên rằng miềnNam vi phạm hiệp định Geneve,
không chịu Hiệp Thương Tổng Tuyển Cử". Thực
chất của vấn đề là Việt cộng miền Bắc dùng
dự luật Giảm Trừ Quân Bị làm bình phong cho
chính sách Tổng Biên Chế Quân Đội Miền Bắc.
Danh từ Tổng Biên Chế có nghĩa là chuyển một
cách quy mô số 80.000 quân đội từ công tác
chiến đấu sang công tác sản xuất mà vẫn duy
trì khả năng võ trang. Danh từ Tổng Biên Chế
khác với danh từ Phục Viên của Việt cộng dùng
để chỉ việc giải ngũ quân đội cho họ trở
thành thường dân. Phục viên có nghĩa là về
vườn (mượn của Tàu).
Điểm chủ yếu của chính sách Tổng Biên Chế
quân đội Miền Bắc là quân đội đóng vai trò
chính trong mọi công tác sản xuất, làm thành phần
tiên phong để xây dựng nhất là ngành công
nghiệp và nông nghiệp. Sau chiến dịch sửa sai và
ổn định tình hình chính trị, ổn định tình hình
an ninh lãnh thổ. Việt cộng đặt một kế hoạch
ba năm (1957,1958,1959) ổn định kinh tế với mức
yêu cầu là phải đạt được nền kinh tế 1939
(Việt cộng lấy tiêu chuẩn năng suất canh nông
của năm 1939 là năm tấn mỗi hectare). Chính sách
Tổng Biên Chế quân đội mang phần lớn nhân
lực của quân đội Việt cộng ra thực hiện công
tác phục hồi kinh tế và chỉ giữ lại một số
quân thường trực để đáp ứng tình hình.
1. Sự lợi hại của chính sách Tổng Biên Chế
Chính sách Tổng Biên Chế đã giải quyết một
lúc hai vấn đề gai góc: - Thứ nhất là các đơn
vị Miền Nam ra tập kết ngoài Bắc, sau công tác
đàn áp di cư và Cải Cách Ruộng Đất, trở nên
dư thừa và có nhiều bộ đội tập kết thất
vọng vì Hồ Chí Minh không thực hiện được sự
thống nhất đất nước qua một cuộc tổng
tuyển cử như đã hứa hẹn long tro.ng. Không
thống nhất được đất nước, nghĩa là sau 2
năm xa cách miền Nam những bộ đội tập kết ra
Bắc nhìn thấy hy vọng được phép về đoàn tụ
với gia đình trở nên quá mờ mịt. Trong 5 năm hay
10 năm, chưa chắc đã gặp lại thân nhân còn ở
lại miền Nam, việc "hội nhập" một số đông
đảo thanh niên gốc miền Nam ở đất Bắc là
một vấn đề khó khăn, gây nhiều áp lực tâm
lý trên tập thể nàỵ
Đề ra chính sách Tổng Biên Chế, Việt cộng
hứa hẹn sẽ xây dựng gia đình cho các anh em bộ
đội tập kết bằng cách đưa anh em đi khai phá
miền thượng du lập nông trường, nơi mà nhà
nước gọi là "quê hương mới". Khi đã đưa anh em
tới nơi khai phá nông trường, một mặt nhà
nước hứa hẹn xây dựng vợ con cho bộ đội,
một mặt ra lệnh cho Tỉnh uỷ địa phương tuyển
mộ những thiếu nữ địa phương từ 18 tới 25
tuổi vào làm công nhân trong nông trường. Các
nữ công nhân này khi đã vào trong nông trường
mới biết rằng mình không được phép ra khỏi
nông trường, vì lệnh trên truyền xuống là bất
cứ nữ công nhân nào muốn ra nông trường phải
có giấy phép của "chồng" . Như vậy họ chỉ còn
có cách lấy bộ đội tập kết chứ còn cách
nào khác nữa! Tình trạng này đã đưa đến
những sự mâu thuẫn giữa bộ đội tập kết và
dân chúng địa phương, vì trong số những nữ
công nhân bị đưa vào nông trường, có nhiều
người đã hứa hôn với thanh niên tại địa
phương. Do đó nhiều thanh niên địa phương tìm
đánh bộ đội tập kết vì cho rằng các anh em
tập kết đã chiếm đất lại còn chiếm cả vợ
của họ nữạ
Vấn đề gai góc thứ hai là tại Việt cộng có
nhiều nơi ở đồng bằng dân cư quá đông, mà
đất đai cằn cỗi không canh tác được, trong khi
ở miền thượng du nhiều nơi đất còn nguyên
mầu mỡ chưa được khai phá. Những người nông
dân Việt Nam rất sợ nơi rừng thiêng nước
độc, vả lại công việc phá rừng lấy đất
trồng trọt là một công tác cực kỳ gian khổ.
Đề ra chính sách Tổng Biên Chế quân đội,
đảng và nhà nước có một lực lượng nhân công
có sẵn tinh thần kỷ luật, chịu đựng gian khổ.
Có nhiều nông trường "quê hương mới" được
bắt đầu thiết lập từ 1957-1958, mà quan trọng
nhất phải kể nông trường Lam Sơn ở Thanh Hóa,
nông trường Đồng Vàng ở Phú Thọ, nông trường
Gỗ Cao-Bắc-Lạng (thuộc ba tỉnh Cao Bằng, Bắc
Kạn và Lạng Sơn).
Tại nông trường Lam Sơn, chính sách Tổng Biên
Chế sử dụng bộ đội của Sư đoàn 338 tập
kết, mỗi tiểu đoàn lấy ra một đại đội
xuất sắc. Sự gian khổ cực nhọc của công việc
khai phá nông trường có khi còn vượt quá mức
độ ở nông thôn, nơi giờ lao động hàng ngày
là 12 giờ, từ 6 giờ sáng tới 6 giờ tốị Một
cán binh tập kết thuộc Sư đoàn 338 đã phải
phục vụ tại nông trường Lam Sơn 3 năm từ 1958
đến 1961, kể lại nỗi gian khổ và công trình
trồng cà phê, cao su:
"Công việc khai thác rừng để thành lập nông
trường là một công tác cực nhọc vô biên, không
tả xiết. Từ nhỏ đến lớn, chưa bao giờ tôi
phải làm cực nhọc như thế. Nông trường lấy
tên là nông trường Lam Sơn tại huyện Hòa Lạc,
tỉnh Thanh Hóa, quê hương vua Lê Lợị Chúng tôi
đến đây phá rừng để trồng cà phê, cao su và
chăn nuôi trâu bò gà vịt. Chiến sĩ lúc này trở
thành một tên cu-li, đầu đội nón lá tay cầm
rựa suốt ngày đi chặt cây đốt rừng, cuốc
đất v.v.... Nắng cháy da thịt. Chúng tôi có cảm
tưởng như tù khổ sai bị đầy ải..." (Nguyễn
Văn Hoài). Ngoài Sư đoàn 338 tập kết, tại Nông
trường Lam Sơn còn có nhiều đơn vị khác nữa
vì tổng số bộ đội tập kết tại đây là 39
đại đội, mỗi đại đội phụ trách một khu
rừng và được tăng cường thêm một số công
nhân địa phương.
"Đời sống anh em mình ngày Bắc đêm Nam" đó là
câu nói thường xuyên của các anh em tập kết, có
nghĩa là ban ngày gian lao khổ cực không còn thì
giờ suy nghĩ nhưng đêm xuống là tâm hồn bộ
đội tập kết đều hướng về miền Nam nơi gia
đình thân yêu đương sống.
Tại nông trường Đồng Vàng, Phú Thọ, bộ đội
tập kết được tổng biên chế để khai khẩn
nông trường trồng trà và cà phệ Thượng uý
Đặng Anh Kiến thuộc Trung đoàn tập kết 96 từ
An Khê ra Bắc và hoạt động tại nông trường
Đồng Vàng, cho biết hai phần ba trung đoàn và cơ
quan Trung đoàn Bộ được đưa tới nông trường:
"...Lúc mới đầu tuy sản xuất nhưng vẫn giữ
nguyên cách thức tổ chức và điều hành của
quân đội, nhưng về sau, khi nông trường đã
hoạt động đều, hình thức quân đội được
xoá bỏ. Anh em bộ đội biến thành công nhân của
nông trường, trực thuộc Bộ Nông Trường. Nghĩa
là họ chính thức thành công nhân, họ ăn lương
theo cấp bậc công nhân nông trường chứ không
còn ăn lương của quân đội nữa.... Trong thời
gian khai phá nông trường Đồng Vàng (lúc ban
đầu) chúng tôi vẫn ăn uống theo chế độ cung
cấp của quân đội) 1 ngày là 0.70 đồng (tức là
21 đồng một tháng). Ngoài ra chúng tôi không
được bồi dưỡng thêm gì cả. Có thể nói thời
gian này mồ hôi chúng tôi đổ rất nhiều..."
"... Sau khi các nông trường đã hoàn chỉnh, nghĩa
là các nông trường đã bắt đầu hoạt động
thì nhà nước đẩy các chị em phụ nữ chưa
chồng vào các nông trường. Và sau đó, anh em bộ
đội và chị em phụ nữ xây dựng với nhau thành
những cặp vợ chồng. Trong tinh thần đó các
nông trường dần dần lớn mạnh và trở thành
những trung tâm kinh tế đông dân cư...". Chính
sách Tổng Biên Chế không phải chỉ đem quân đội
vào nông trường, mà nói chung vào tất cả mọi
ngành:
"Nông trường là ngành mà quân đội xây dựng
đến 80% hay 90% Về công nghiệp (công trường)
quân đội cũng chuyển ngành qua xây dựng, như khu
công nghiệp Việt Trì là do Trung đoàn 108 thuộc
Sư đoàn 305 xây dựng hoàn toàn, hoặc khu Liên
Hợp Gang Thép Thái Nguyên là do Sư đoàn 316 xây
dựng.... Hoặc công tác cải tạo tư bản tư doanh,
công tư hợp doanh ở thành thị cũng đều do cán
bộ quân đội đảm trách... "Có thể nói quân
đội chiếm trên 90%.Ngay công an dân cảnh Hà Nội
bây giờ, các hầm mỏ, cảng Hải Phòng". (Đăng Anh
Kiến). Ngoài việc Tổng Biên Chế các đơn vị
chiến đấu chính quy để làm công tác sản xuất,
Việt cộng bắt bộ đội phải thi hành Lời Thề
Thứ 5: "Quân đội làm tròn trách nhiệm là chiến
đấu và sản xuất" . Vì thế các đơn vị chủ
lực của các tỉnh, hay các đơn vị công binh, cầu
đường sống tại căn cứ, ít di chuyển cũng phải
sản xuất để tự túc cung cấp lương thực một
tháng mỗi năm. Các đơn vị này còn phải chăn
nuôi thêm để trực tiếp cung cấp thịt ăn.
2. Các Nông Trường, Công Trường Do Quân Đội
Được Tổng Biên Chế Để Xây Dựng Và Quản Lý
Mặc dầu các cán binh bị đem vào nông trường và
công trường làm công tác sản xuất như một công
nhân viên, họ vẫn phải nằm trong khuôn khổ huấn
luyện quân sư.. Trên toàn miền Bắc có 43 nông
trường, thì 32 cái được gọi là nông trường
quân đội, trong đó hàng tuần công nhân được
huấn luyện quân sự, và được biên chế vào
các đơn vị đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn
chiến đấụ
Một hồi chánh viên cho biết như sau:
"Mỗi nông trường coi như một trung đoàn tự
vê.. Khi cần thiết họ có thể điều động một
lúc hàng trăm người ra chiến đấu ngay được,
ví dụ cụ thể năm 1961, nông trường Rạng Đông
tỉnh Nam Định thuộc Quân khu Hữu Ngạn Sông Hồng
điều động một lần được 300 sĩ quan và binh
sĩ đi chiến đấu ở chiến trường B (miền Nam)
chiến trường C (Lào) và sau đó mỗi quý, mỗi 6
tháng hay một năm lại điều động một loạt cho
đến khi hết cựu sĩ quan và binh sĩ ở nông
trường mới ngưng lạị Như vậy mục đích họ
thành lập nông trường Quốc doanh do bộ đội
chuyển ngành sang (Tổng Biên Chế) là để giữ
lượng cựu sĩ quan và binh sĩ lại để vừa sản
xuất kinh doanh vừa huấn luyện quân sự, và khi
cần thiết có thể điều động ngay ra chiến
trường chiến đấu...". Các nông trường còn là
nguồn bổ sung lực lượng trừ bi.. Đó là các
thanh niên được tuyển từ các thành phố, thị
xã hoặc các vùng nông thôn vào làm công nhân
trong nông trường. Một khi đã vào nông trường,
họ bị khép vào kỷ luật quân đội, kỷ luật tập
thể, phải học tập chính trị và bị nhồi sọ
bằng tư tưởng Mác-xít.
Trên phương diện an ninh diện địa, các nông
trường còn có nhiệm vụ phòng thủ biên giới,
bờ biển và các vị trí trọng yếu như ta sẽ
thấy trên bản đồ dưới đâỵ
(xem bản đồ)
- Hai tỉnh Sơn La, Lai Châu ở phía Tây-Bắc của
Việt cộng có 2 nông trường Điện Biên Phủ và
nông trường Mộc Châu do hai trung đoàn thuộc Sư
đoàn 305 tập kết và 316 đóng giữ.
- Tỉnh Sơn Tây có nông trường Xuân Mai do một
trung đoàn của Sư đoàn 338 tập kết trấn đóng.
- Tỉnh Thanh Hóa có nông trường Sao Vàng do một
trung đoàn của Sư đoàn 338 quản trị, cùng với
nhiều đơn vị khác, tổng cộng 39 đại đội tập
kết (tương đương một Sư đoàn).
- Tỉnh Nam Định có nông trường Rạng Đông do Trung
đoàn độc lập 269 quản tri..
- Tỉnh Ninh Bình có nông trường Bình Minh do Trung
đoàn độc lập 271 quản tri..
- Tỉnh Nghệ An có các nông trường Sông Con, Đông
Tây Hiếu do một trung đoàn của Sư đoàn 324 tập
kết quản tri..
- Tỉnh Quảng Bình có nông trường Lệ Thủy do một
trung đoàn của Sư đoàn 325 tập kết quản tri..
- Tỉnh Phú Thọ có nông trường Đồng Vàng do Trung
đoàn tập kết 96 (từ An khê ra Bắc) quản tri..
- Khu công nghiệp Việt Trì do Trung đoàn 108 thuộc
Sư đoàn 305 tập kết quản tri..
- Khu Liên Hợp Gang Thép Thái Nguyên do Sư đoàn 316
xây dựng và quản tri..
2003-10-19 21:51:27
10. Hệ Thống Tổ Chức Các Nông Trường, Công Trường
Mặc dầu các nông trường, công trường quốc
doanh là do quân đội xây dựng và quản trị, nhưng
các nông trường đều do một bộ nông trường
chỉ huy trên phương diện chính quyền, và các
Đảng uỷ trong nông trường thì chịu sự lãnh đạo
trực tiếp của Tỉnh uỷ chứ không ở dưới sự
lãnh đạo của Huyện uỷ địa phương, mặc dầu
trên phương diện địa dư nó có thể nằm trong
phạm vi một huyện. Ví dụ nông trường Rạng Đông
thuộc phạm vi địa dư và hành chánh huyện Nghĩa
Hưng, tỉnh Nam Định, thì Đảng uỷ nông trường
chịu sự điều khiển của tỉnh uỷ Nam Định, mặc
dầu trong những vấn đề hành chánh thì cũng có
liên lạc hội ý với cơ quan hành chánh địa
phương của huyện Nghĩa Hưng.
Những nông trường hoặc công trường tùy theo
phạm vi lớn nhỏ phải sử dụng ít hoặc nhiều
công nhân, hoặc phải dùng cơ giớị Ví dụ khu
Liên hợp Gang Thép Thái Nguyên là một công
trường đại quy mô có tới 20.000 nhân công. Nông
trường Rạng Đông là một nông trường trung quy
mô, còn gọi là nông trường loại II, sử dụng
khoảng 2500 cán bộ và công nhân (từ 2.500 đến
5.000 nhân công là trung quy mộ Theo tài liệu phỏng
vấn các hồi chánh viên, hệ thống tổ chức của
một nông trường điển hình có thể được mô
tả theo sơ đồ dưới đây của nông trường Rạng
Đông. (xem sơ đồ)
Nông trường trung quy mô nói trên có một Giám
đốc và 2 Phó giám đốc, dưới sự lãnh đạo
của một bí thư Đảng uỷ với cấp bậc Đại úy
hoặc Thiếu tá trong quân độị Quân hàm của Phó
giám đốc là Thượng úỵ
Bên công đoàn có một thư ký công đoàn cấp
bậc Thượng úy và 2 thư ký công đoàn cấp bậc
Trung úy có nhiệm vụ giám sát kiểm tra từ Giám
đốc xuống đến công nhân, mặc dầu trên danh
nghĩa là để bảo vệ quyền lợi công nhân.
Tổ Chức Công Đoàn Trong Nông Trường
Công đoàn là tổ chức hàng dọc để đoàn ngũ
hoá mọi công nhân không phải là đảng viên, và
như vậy, không có một công nhân nào thoát ra
khỏi màng lưới của đảng và nhà nước.
Danh từ Công Đoàn khiến nhiều người bên ngoài
nhầm lẫn với Công Đoàn của các nước tự do
nhằm bảo vệ quyền lợi của công nhân, hoặc
trong một số trường hợp bảo vệ quyền lợi
riêng của một bọn đầu nậụ Dưới chế độ
Việt cộng, bọn đầu nậu chính là đảng, và
đảng kiểm soát công nhân một cách chặt chẽ qua
Công Đoàn và hệ thống Đảng ủỵ
Tổ Chức Đảng Ủy Trong Nông Trường
Giống như trong hợp tác xã nông nghiệp hay bất
cứ một tổ chức quy mô nào của cộng sản, Đảng
ủy giống như hệ thống thần kinh nối liền cấp
chỉ huy xuống tới mọi thành phần nhỏ nhất là
một đội hoặc một tổ sản xuất. Đảng ủy từ
cao xuống thấp có tên gọi là Chi ủy, Chi bộ,
Liên tổ đảng và Tổ đảng, có nhiệm vụ lãnh
đạo, giám sát, làm đầu tàu gương mẫu để
thúc đẩy và bắt buộc công nhân lao động sản
xuất. Cũng giống như trong hợp tác xã nông
nghiệp, "làm việc tại đồng, phân công tại sở",
trong nông trường quốc doanh cán bộ có nhiệm vụ
thi công, tức là thi hành công tác bằng cách chỉ
tay năm ngón phân phối công việc, còn công nhân
đổ mồ hôi và sức lao động xuống nông
trường. Về tình trạng bóc lột công nhân trong
các nông trường và công trường, ta sẽ có dịp
nghiên cứu một cách chi tiết trong tương lai, khi
nói về những nỗ lực đẩy mạnh chiến tranh của
Việt cô.ng.
IỊ Xây Dựng Các Công Trình Sản Xuất ChiếN
Lược, Cơ Sở Quân Sự Và Xa Lộ Chiến Lược
Đầu tháng 9 năm 1960, Đại Hội Đảng Lao Động
Việt cộng lần thứ III họp tại Hà Nội để
thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhằm
xây dựng một nền công nghiệp làm "cơ sở vật
chất của xã hội chủ nghĩa", mà căn bản là
chiến tranh bành trướng.
Bắt đầu từ năm 1961 trở đi rất nhiều xí
nghiệp kỹ nghệ được thiết lập, và các nhà
máy này được xây dựng chung quanh các khu công
nghiệp quan trọng nhất sau đây:
- Khu công nghiệp Hà Nội
- Khu công nghiệp Hải Phòng
- Khu công nghiệp Việt Trì (khánh thành ngày
18-1-1962)
- Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên
1. Sản xuất chiến lược
Nằm trong mục tiêu chiến lược dài hạn, ngành
công nghiệp nặng được chú trọng đặc biệt.
Với sự giúp đỡ của Liên Xô và khối cộng
sản, Việt cộng đã đẩy mạnh việc sản xuất
điện lực, khai thác than đá và luyện thép.
Các nhà Máy Điện quan trọng nhất là:
Nhà máy thủy điện Bàn Thạch, Thanh Hóa (khánh
thành ngày 2-1-1962)
Nhà máy thủy điện Thác Bà, Bắc Kạn
Nhà máy nhiệt điện Uông Bí, Hồng Quảng
Nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn, Thái Nguyên
Nhà máy nhiệt điện Cọc 5, Cẩm Phả
Nhà máy nhiệt điện Lào Kay
Nhà máy nhiệt điện Việt Trì
Nhà máy nhiệt điện Hà Nội
Nhà máy nhiệt điện Vinh
và một trạm biến điện lớn nhất miền Bắc
tại Đông Anh, ngoại thành Hà Nội, với đường
giây điện cao thế Đông Anh Thái Nguyên, khánh
thành ngày 5-1-1963.
Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên do Trung Quốc
viện trợ là một kỳ vọng của Việt cộng cho
nền công nghiệp nặng và nền kinh tế tự túc
và chiến lược. Khu gang thép dùng 20.000 công nhân
làm việc ngày đêm, và năm 1965 mức sản xuất
lên tới 150,000 tấn. Ngày 20-12-1963 Việt cộng
khánh thành lò luyện thép đầu tiên tại Thái
Nguyên. Ngày 23-9-1965, lò luyện thép số II được
khánh thành.
Song song với nền công nghiệp gang thép là việc
khai thác than đá tại khu vực Hòn Gay, Đông
Triều, Cẩm Phả, Vàng Gianh, Thái Nguyên phần lớn
là loại anthracite (năng xuất nhiệt rất cao) và
số lượng sản xuất năm 1965 đã lên tới
4.000.000 tấn.
Vẫn trong phạm vi mục tiêu chiến lược lâu dài,
Việt cộng thiết lập những ngành sản xuất có
tính chất lưỡng thể, cần thiết trong thời
bình cũng như thời chiến:
- Các nhà máy phân đạm Hà-Bắc: Trong thời bình,
các nhà máy này yểm trợ cho canh nông, còn trong
thời chiến chỉ cần thay đổi công thức hóa học
một chút để sản xuất thuốc nổ.
- Các nhà máy cơ khí: nhà máy cơ khí Hà Nội,
nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, nhà máy cơ khí xe
lửa Gia Lâm, nhà máy cơ khí Lương Yên, nhà máy
sửa chữa xe hơi "1 tháng 5", nhà máy cơ khí ZK
120. Để phục vụ chiến tranh các nhà máy có thể
sản xuất võ khí, vỏ lựu đạn, vỏ mìn, một số
phụ tùng thay thế cho đại bác, xe tăng v.v....
Cải cách ruộng đất Miền Bắc (8)
2. Sản xuất hàng tiêu thu..
- Có lẽ Hà Nội nghĩ rằng với sách lược chiến
tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng, các nước
chống cộng không có lý do can thiệp mạnh tới
mức độ oanh tạc Miền Bắc và tàn phá nền kỹ
nghệ của cộng sản. Vì thế Hà Nội đã xây
dựng hàng loạt những nhà máy sản xuất đồ tiêu
thụ (danh từ Việt cộng gọi là hàng tiêu dùng)
để cho các cấp cán bộ đảng được ưu đãi
sử dụng theo "phiếu cung cấp", còn công nhân viên
phải là những người xuất sắc trong những
người xuất sắc nhất mới được rút thăm (danh
từ Việt cộng gọi là "bình bầu chiến sĩ thi
đua") để mua trong những dịp đặc biệt. Những
nhà máy này tập trung ở những khu vực quan trọng
dưới đâỵ
- Khu Hải Phòng: Nhà máy len, nhà máy đồ hộp,
nhà máy hóa chất, nhà máy thủy tinh.
-Khu công nghiệp Việt Trì: Nhà máy hoá chất, nhà
máy mì chính, nhà máy giấy, nhà máy đường, nhà
máy sấy chuối khộ
-Khu công nghiệp Hà Nội: Nhà máy phích nước,
bóng đèn, nhà máy Cao-Xà-Lá (cao su, xà phòng,
thuốc lá) do Trung Quốc viện trợ và được
khánh thành ngày 18-5-1960; nhà máy dệt kim Đồng
Xuân (dệt áo lót và bí tất) do Trung Quốc viện
trợ, khánh thành ngày 13-4-1959; nhà máy xe đạp
Thống Nhất, nhà máy Pin Văn Điể^n tà máy in
Tiến Bộ, nhà máy diêm Thống Nhất v.v....
3. Những công trình xây cất chiến lược.
Ngoài những nhà máy sản xuất võ khí như công
trường 14 ở Tuyên Quang (sản xuất súng AK mang
nhãn hiệu Trung Quốc, lựu đạn, súng đại bác,
mìn) Việt cộng xúc tiến mạnh mẽ những công
trình chiến lược có tính cách quan trọng như sân
bay, đường chiến lược với sự giúp đỡ của
Liên Xô và Trung Quốc. Tại mỗi tỉnh của miền
Bắc ngày nay đều có một phi trường chiến
lược dành riêng cho mục tiêu quân sư.. Ngoài
những phi trường quan trọng có từ trước như
sân bay Cát-Bi, sân bay Bạch Mai, sân bay Gia Lâm,
được mở rộng, Việt cộng còn xây cất thêm
các phi đạo quan trọng khác như:
- Sân bay Đa Phúc (Vĩnh Yên)
- Sân bay Hòa Lạc (Sơn Tây)
- Sân bay Kép (Bắc Giang)
- Sân bay Sao Vàng (Thanh Hóa)
Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thủy lợi nói về phi
trường Đa Phúc tại Vĩnh Yên:
"...Tôi biết rõ nhất là sân bay Đa Phúc vì sân
bay này ở ngay cạnh đập Đại Lãị Khi bộ Giao
thông Vận tải thiết kế sân bay này cũng có tham
khảo ý kiến của tôị Theo như họ nói thì sân bay
Đa Phúc là sân bay chiến lược lớn nhất Đông
Nam Á, có thể chứa được từ 500 tới 700 phi cơ
phản lực Mig, tuyệt đối không có máy bay vận
tải tại đâỵ Phi trường này rộng một chiều 12
km và một chiều 9km. Nằm theo trục quốc lộ số
2 và số 3. Đường bay được làm rất kỹ với
các lớp đệm cát rất dày và mặt đường bay
được lát bằng tấm bê tông dày từ 50 phân
tới 70 phân. Bởi vì làm bằng các tấm bê tông
như vậy nên khi bị đánh phá hư hỏng trong các vụ
oanh tạc của Mỹ ở miền Bắc, phi trường được
sửa chữa và sử dụng lại mau chóng bởi vì đã
có sẵn các tấm bê tông. Hơn nữa phi trường Đa
Phúc ở cạnh núi Sóc Sơn nên có nhiều hầm hố
kiên cố do Nhật để lại, nay Việt cộng dùng
để chứa nhiên liệu hoặc cất dấu máy bay rất
kín đáo..." (Nguyễn Văn Thân). Về đường bộ
có việc xây cất hai con đường chiến lược quan
trọng do Trung Quốc thiết kế và thi công:
"...Đường thứ nhất là đường từ biên giới
Trung Quốc qua các tỉnh Bắc Kạn, Bắc-Thái (Bắc
Giang và Thái Nguyên) đường rộng từ 18 thước
tới 24 thước, không tráng nhựa mà trải đá lớn
dầy 50 phân rồi đổ đá dăm và đất Biên Hòa
cán bằng. Nói tóm lại các tỉnh ven biên giới
Việt Nam-Trung Quốc đều do Trung Quốc đài tho..
Các đường này đều được mở cấp tốc từ
khoảng năm 1961-1962, và có thể chịu đựng được
các chiến xa nặng khoảng 70 tấn".
Con đường chiến lược lớn thứ hai là đường
lộ từ Trung Quốc qua biên giới Việt Nam đến
Điện Biên Phủ rồi sang Lào tới Cánh đồng Chum,
Savanakhet. Đường này đã có từ trước, nay chỉ
làm công tác mở rộng và đảm bảo lại cho chắc
chắn, kỹ càng hơn..." (Nguyễn Văn Thân). Theo kỹ
sư Nguyễn Văn Thân thì con đường chiến lược
Điện Biên Phủ tới cánh đồng Chum và Savanakhet
đã có từ trước, nhưng đương sự không cho
biết có từ bao giờ. Hệ thống này không thể
là hệ thống quốc lộ số 13 vì quốc lộ này
nằm trong khu vực quân đội Hoàng gia Lào, khiến
cho Việt cộng không thể sử dụng thường xuyên
cho những đoàn xe vận tải như thực tế đã
chứng tỏ. Ở một đoạn khác, Nguyễn Văn Thân
nói rõ con đường chiến lược này song song với
đường mòn thượng đạo (sách báo Tây phương
quen gọi là đường mòn Hồ Chí Minh) vì trong khi
đi đường vẫn nghe thấy tiếng xe ô tô di
chuyển gần đó. Nhưng đương sự lại gọi lầm
đường đó là đường số 9 đưa đến Khe Sanh
bởi vì đường số 9 băng ngang từ Việt Nam qua
Lào tới Savanakhet, chứ không chạy song song với
đường mòn thượng đạo dọc biên giới Việt
Làọ
Ngoài ra Nguyễn Văn Thân không nói đến con
đường chiến lược từ Bắc Việt băng qua khu
Bắc Lào sang Thái Lan.
2003-10-19 21:52:08
11. Xây Dựng Lực Lượng Chính Quy Bắc Việt
Năm 1956, sau khi việc chia đôi hai miền Nam Bằc
đã dứt khoát, vấn đề an ninh lãnh thổ tạm ổn
định, Hà Nội bằt đầu bỏ ra nhiều năm xây
dựng quân đội chính quỵ Lực lượng võ trang
của Việt cộng nói chung có ba ngành: lực lượng
chính quy, lực lượng địa phương và dân quân du
kích. Tại mỗi xã ngoài Bằc, lực lượng địa
phương có một xã đội với ban chỉ huy và lực
lượng du kích có từ một trung đội đến một
đại đội tùy theo xã lớn hay nhỏ và tùy theo
tầm quan tro.ng. Tại mỗi huyện có một huyện
đội và ít nhất một đại đội, còn tại mỗi
tỉnh có tỉnh đội và một tiểu đoàn. Ngoài ra
tại các đô thị, thị xã, xí nghiệp còn có các
đơn vị tự vệ giữ an ninh, và có một cán bộ
cấp Đảng uỷ-viên tại mỗi nơi này phụ trách
việc tổ chức, lãnh đạo, huấn luyện các lực
lượng tự vê..
Ở một phần khác ta sẽ nói kỹ về lực lượng
địa phương quân và dân du quân kích trong vai trò
giữ nhà. Ở đây ta chỉ nói về công trình xây
dựng quân đội chính quy Việt cộng trong kế
hoạch thôn tính Đông Dương, kể từ năm 1956 khi
Phạm Văn Đồng đệ trình lên quốc hội Việt
cộng dự luật "giảm trừ quân bị".
Đạo luật "giảm trừ quân bị" được thông qua
nằm trong chính sách Tổng Biên Chế quân đội
Miền Bằc, và 80.000 quân chính quy giải ngũ gồm
một số lớn thương phế binh, số còn lại quy tụ
các thành phần bị coi là địa chủ, cường hào,
ác bá, tư sản v.v... và được đem vào khai thác
các nông trường "quê hương mới" cùng với một
số lớn các bộ đội tập kết miền Nam (ở
những nông trường riêng).
Những đơn vị Nam Bộ tập kết năm 1954 ra Bằc
được tổ chức thành những sư đoàn mang phiên
hiệu Việt cộng 305, 324, 325, 330, 338 và một số
trung đoàn biệt lập. Như ta đã thấy trong bài
trước, một phần của các sư đoàn này được
chia ra xây dựng và quản trị các nông trường,
phần còn lại có nhiệm vụ giữ an ninh, hoặc
được huấn luyện tại các quân trường như sẽ
được trình bày trong phần dưới đâỵ
Theo đạo luật về "Nghĩa vụ quân sự" của Việt
cộng năm 1960, tất cả các thanh niên từ 18 đến
28 tuổi đều phải nhập ngũ và phục vụ ít nhất
3 năm. Bằt đầu từ đó, Việt cộng xúc tiến
công tác xây dựng quân đội chính quy, mà xuyên
qua các tài liệu về Việt cộng, ta có thể nhận
định thấy hai nét chính yếu:
- Hiện đại hóa quân đội
- Chính trị hóa quân đội
1. Hiện đại hóa quân đội
Hiện đại hóa là khuynh hướng chung của bất cứ
một nhà cầm quyền mới nào chứ không riêng gì
Việt cô.ng. Nhưng việc hiện đại hóa quân đội
của Việt cộng có một số đặc điểm làm nổi
bật những ưu điểm cũng như khuyết điểm của
Hà Nội trong khung cảnh chiến tranh Đông Dương.
Sau khi đã nằm vững được tình hình chính trị
Miền Bằc, Hồ Chí Minh và cấp đầu lãnh Việt
cộng có nhiều vấn đề phải giải quyết liên
quan đến công tác hiện đại hóa quân độị Năm
1956, khi dự tính nuốt trôi miền Nam qua âm mưu
Tổng Tuyển Cử không thành, viễn ảnh xâm chiếm
Miền Nam bằng một cuộc chiến tranh võ trang đã
trở thành một sự lựa chọn chằc chằn. Trong
dự tính xâm lăng Miền Nam, Việt cộng cũng nhìn
thấy khả năng can thiệp của Hoa Kỳ bằng một
lực lượng quân sự hiện đạị
Mặt khác, trong khi rêu rao rằng "không có gì quý
hơn độc lập và tự do", Hồ Chí Minh và đảng
Việt cộng còn nhằm thôn tính Đông Dương và
Thái Lan, một công tác phục vụ cho quan thầy
được mệnh danh là "nghĩa vụ quốc tế".
Quân đội Việt cộng Miền Bằc lúc đó còn mang
tính chất một lực lượng võ trang của một
cuộc chiến tranh du kích, thích hợp với một
cuộc chiến tranh phi quy ước, nhưng thiếu những
đặc tính cần có trong một cuộc viễn chinh quy
ước tại các chiến trường ngoại lai như Kampuchia
và Thái Lan, hoặc trong trường hợp phải đương
đầu với quân đội Việt Nam Cộng Hòa và lực
lượng yểm trợ của Hoa Kỳ tại miền Nam.
Cho tới năm 1958, ngay các đơn vị chủ lực của
quân đội Việt cộng còn được trang bị bằng
đủ loại võ khí hỗn tạp của Pháp và Nhật để
lại cùng với võ khí và trang bị của Trung Quốc.
Các sĩ quan và binh lính Việt cộng còn mang quân
phục của thời kháng Pháp.
Ngày 20-6-1958, chính quyền Việt cộng ký nghị
định số 307/TTG chính thức ấn định quân hàm cho
các cấp trong quân đội, và ngày 22 tháng 12, Hồ
Chí Minh và Phạm Văn Đồng gằn lon cho các cấp
Tướng Miền Bằc. Từ ngày các cấp Tướng Tá
Việt cộng mang lon, báo chí Việt cộng lại mở
một chiến dịch tuyên truyền về sự khác biệt
giữa hệ thống "lon tư bản phản cách mạng" và
hệ thống "quân hàm tiến bộ" của quân đội
nhân dân (bài diễn văn của Nguyễn Chí Thanh đăng
trong báo Quân Đội Nhân Dân ngày 9-9-1958).
Nhưng vấn đề quan trọng nhất của công tác hiện
đại hóa là vấn đề tổ chức, huấn luyện và
trang bi.. Trên phương diện tổ chức một đạo
quân hiện đại, Việt cộng Miền Bằc phải thành
lập thêm các quân chủng ngoài quân chủng Bộ binh.
Đó là các quân chủng Hải quân, Không quân, và
các binh chủng Pháo binh, Công binh, Truyền tin và
Thiết ky.. Việc thành lập thêm những binh chủng
mới đòi hỏi công tác huấn luyện trong nước
cũng như gửi các thành phần đảng viên trung kiên
hoặc con của các lãnh tụ và cán bộ đầu sỏ đi
học ở các trường quân sự của các nước cộng
sản khác.
Từ năm 1958, Việt cộng thiết lập các trường
huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc mọi quân
binh chủng:
- Trường Bộ binh
- Trường Hải quân Bãi Cháy, Hòn Gay
- Trường Hải quân Hải Phòng
- Trường Hải quân Vinh
- Trường Pháo binh Sơn Tây
- Trường Truyền tin
- Trường Công binh
- Trường sĩ quan Thiết kỵ
Việt cộng đã gửi quân nhân đi các nước cộng
sản để được huấn luyện về không quân,
rađda, tên lửa (hỏa tiễn), hải quân (chủ yếu là
tàu ngầm và phóng ngư lôi), công binh, quân giới,
đặc công v.v.... Đồng thời các chế độ cộng
sản, nhất là Liên Xô và Trung Quốc, đã trang bị
võ khí hiện đại cho Việt cô.ng. Quan niệm hiện
đại hóa quân đội của Việt cộng bị giằng co
giữa hai khuynh hướng đối nghi.ch. Khuynh hướng
Võ Nguyên Giáp chủ trương sử dụng võ khí hiện
đại, kỹ thuật hiện đạị Vì "chiến tranh nhân
dân" đã lỗi thờị Dĩ nhiên, trong khối cộng
sản chỉ Liên Xô là có khả năng trang bị đầy đủ
võ khí hiện đại cho Việt cô.ng. Đối nghịch
với khuynh hướng Võ Nguyên Giáp là khuynh hướng
Trường Chinh gồm có Trường Chinh, Nguyễn Chí
Thanh và Lê Đức Thọ chủ trương lấy "chiến tranh
nhân dân" để đánh thắng chiến tranh hiện đại
và trong chủ trương "chiến tranh nhân dân", vấn
đề tối quan trọng là lãnh đạo tư tưởng, là
chính trị hóa quân đội, và võ trang một cách dư
thừa bằng võ khí cổ điển. Quan điểm của
Trường Chinh cũng là quan điểm Mao Trạch Đông
đã thằng thế trong Bộ chính trị, vì thế việc
hiện đại hóa quân đội Miền Bằc chỉ được
thực một cách hạn chế. Hậu quả là Việt cộng
nhận tương đối ít võ khí hiện đại của Liên
Xô, mặc dầu tính thành tiền, con số viện trợ
của Liên Xô rất lớn vì vũ khí hiện đại trị
giá caọ Mặt khác Việt cộng nhận được rất
nhiều võ khí cổ điển của Trung Quốc từ súng
lục súng trường tới tiểu liên, trung liên, súng
phòng không 37, phòng không 57, đại bác phòng không
v.v....
Ưu điểm thứ nhất của đường lối hiện đại
hóa quân đội Việt cộng là việc thành lập binh
chủng đặc công, tượng trưng cho quan điểm trang
bị hạn chế võ khí hiện đại nhưng chú trọng
tới chiến thuật, kỹ thuật chiến đấu chuyên
biệt và tinh nhuê.. Bộ Tư lệnh Đặc công trực
thuộc Bộ Tổng Tư lệnh quân đội Miền Bằc và
Bộ Tổng Tham Mưụ Ban chỉ huy rường cột là Lữ
đoàn 305 tức là Lữ đoàn Dù được thành lập
từ năm 1958. Nhưng vì binh chủng Dù không đắc
dụng trong cuộc chiến tranh Đông Dương nên bộ
Tổng Tư lệnh Việt cộng đã giải tán và lấy
toàn thể Bộ Tư lệnh Dù lập thành Bộ Tư lệnh
Đặc công, do Đại tá Điều làm Tư Lệnh trưởng
và Thượng tá Đạo làm Chính ủỵ Đặc điểm về
tổ chức là binh chủng này không có cấp trung
đoàn, trung đội và tiểu đội, chỉ có cấp
tiểu đoàn, đại đội, phân đội và thấp nhất
là tổ, gồm từ 3 đến 5 ngườị Từ 4 tới 5
tổ hợp thành một phân đội và 5 phân đội
thành một đại độị Đặc điểm thứ hai là sự
chuyên biệt. Ví dụ Tiểu đoàn 5 chuyên đánh
dưới nước, đánh cầu, đánh tàụ Tiểu đoàn 2
chuyên huấn luyện bổ sung miền Nam. Tiểu đoàn 4
chuyên đánh thành phố....
Ưu điểm của đặc công là lấy chuyên môn đánh
không chuyên môn, lấy ít đánh nhiều, và về
phương diện này, bộ đội đặc công giống các
chiến sĩ biệt kích và các chiến sĩ người nhái
của Việt Nam Cộng Hòa trước đâỵ
Ưu điểm thứ hai của đường lối hiện đại hóa
hạn chế là ngành pháo binh của Việt cô.ng. Pháo
binh đã dùng hỏa lực cực kỳ ồ ạt phối hợp
với việc quan trằc địa hình rất kỹ lưỡng.
Pháo diện địa cũng như pháo phòng không của
Việt cộng đã nằm ưu thế tại miền Bằc cũng
như ở Hạ Làọ Ở Miền Nam, pháo của cộng quân
đã nâng đỡ cho chúng rất nhiều trước ưu thế
trên không, ưu thế lưu động tính, và ưu thế
cơ giới của quân đội Miền Nam và Đồng Minh.
Mặt khác, đường lối hiện đại hóa hạn chế
cũng có một số khuyết điểm. Trước hết, quân
chủng Hải quân, mặc dầu với tàu ngầm, với
phóng ngư lôi hạm, với tên lửa trang bị cho
chiến hạm, đã bị Hạm đội 7 của Hoa Kỳ đè bẹp
ngay trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh
không tập và Việt cộng đã phải giải tán quân
chủng này, chỉ giữ lại một ít tàu tượng trưng
để tuần tiểụ Toàn bộ sĩ quan và binh sĩ tàu
nổi đều được chuyển sang các quân chủng khác,
phần lớn là bộ binh. Riêng quân số tàu ngầm
được tăng cường thêm. Một khuyết điểm thứ
hai là về không quân. Sau 10 năm chiến tranh, không
quân Việt cộng hầu như đã không có dịp nào
tung hoành trên mặt trận Đông Dương, mà chỉ
quanh quẩn trong nội bộ Việt cộng, hơn nữa,
còn bị đàn áp trước ưu thế của không lực Hoa
Kỳ, suốt trong 3 năm không tập từ 1965 tới 1968,
Việt cộng đã mất 50% không lực trong các cuộc
không chiến cũng như trong các cuộc không tập
của Hoa Kỳ. Khuyết điểm thứ ba là về hoả
tiễn. Từ 1965 tới tháng 1-1967, Việt cộng đã
bằn 1.000 hỏa tiễn SAM mà chỉ hạ 30 máy bay Hoa Kỳ
trị giá 60 triệu Mỹ kim.
Trong khi các loại võ khí thường hạ được 430
máy bay trị giá hơn 1 tỷ Mỹ kim, thì trong suốt
thời gian chiến tranh không tập, Việt cộng đã
bằn hơn 3.500 hỏa tiễn SAM trị giá gần 100 triệu
Mỹ kim mà không đạt được kết quả mong muốn.
2. Chính trị hoá quân đội
Đường lối hiện đại hoá quân đội một cách
hạn chế và khuynh hướng ngả về loại chiến tranh
phi quy ước mà Việt cộng mệnh danh là "chiến
tranh nhân dân" đã đưa đến việc rập khuôn
mẫu tổ chức của Trung Quốc trong công tác "chính
trị hóa" quân độị
Cấp cao nhất của hệ thống chính quyền trong
quân đội Việt cộng là Hội Đồng Tối Cao
Quốc Phòng gồm toàn Ủy viên chính trị bộ và
Trung ương đảng: Chủ tịch: là Chủ tịch Nhà nước
Hồ Chí Minh (chủ tịch đầu tiên)
và là Tôn Đức Thắng (chủ tịch thứ hai).
Phó chủ tịch:
Phạm Văn Đồng (chính trị bộ)
Võ Nguyên Giáp (chính trị bộ)
Ủy viên:
Nguyễn Chí Thanh (chính trị bộ)
Văn Tiến Dũng (chính trị bộ)
Nguyễn Duy Trinh (chính trị bộ)
Trần Quốc Hoàn (chính trị bộ)
Nguyễn Văn Trân (Trung ương đảng bộ)
Chu Văn Tấn (Trung ương đảng bộ)
Song Hào (Trung ương đảng Bộ)
(sơ đồ tổ chức)
Dưới Hội đồng Tối cao Quốc phòng là Bộ
Quốc phòng rồi đến Bộ Tổng Tư lê.nh. Cấp
đảng ủy kiểm soát Bộ Tổng Tư lệnh Miền Bằc
là Tổng Quân ủy Trung ương, gồm một số Tướng
lãnh Việt cộng: Võ Nguyên Giáp (quân hàm Đại
tướng), Song Hào (Trung tướng), Phạm Ngọc Mẫu
(Thiếu tướng) và một số Ủy viên Trung ương
đảng như Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng
v.v....
Đường lối chính trị hóa quân đội, theo sơ
đồ, cho thấy mấy đặc điểm chính sau đây:
- Thủ trưởng (chỉ huy) các cấp đơn vị từ Bộ
chỉ huy đến ban chỉ huy đều phải chịu sự lãnh
đạo của đảng. Sự lãnh đạo của đảng đi tới
cấp thấp nhất là một tổ trong một tiểu
độị Đơn vị nhỏ nhất của quân đội là "Tổ
tam tam", gồm 3 người, trong đó tổ trưởng hoặc
phải là một đảng viên, hoặc một thành phần
trung kiên cơ bản. Một tiểu đội có ba ba "Tổ
tam tam".
- Cấp chỉ huy quân đội chịu sự kiểm tra của
cấp đảng ủy đơn vị, ví dụ Sư đoàn Trưởng
chịu sự kiểm tra của Chính ủy sư đoàn là
người chấp hành đường lối đảng thi hành các
Nghị Quyết do đảng đề rạ
- Các chức vụ Chính trị viên hay Chính ủy trong
quân đội đều do Bí thư Đảng ủy, Đảng bộ
cấp đó nằm giữ mà bí thư là nhân vật quan
trọng nhất của Đảng ủy, Đảng bô..
Dĩ nhiên đường lối chính trị hóa quân đội
nói trên cũng được áp dụng cho tất cả các đơn
vị võ trang của Việt cộng ở trong Nam, và đảng
của Việt cộng ở trong Nam mang "ngụy danh" là
Đảng Nhân Dân Cách Mạng để che dấu sự can
thiệp của Việt cô.ng.
Tóm lại, với tổ chức chính trị hóa như trên,
đảng đã nằm chằc quân đội trong tay, đã nhào
nặn cả triệu thanh niên trong một hệ thống "bịt
mằt bằt hào quang giải phóng miền Nam ruột
thịt", đã lừa bịp và thúc đẩy cả triệu thanh
niên miền Bằc chết cho cái ảo vọng đẫm máu
của Các-Mác, Lê-nin.
Cũng theo sơ đồ nói trên, song song với vai trò
kiểm soát và lãnh đạo chính trị của hệ thống
Đảng ủy, Tổng cục Chính trị có nhiệm vụ thi
hành các công tác chính trị qua các Cục Tuyên
huấn, Cục Cán bộ, Cục Tổ chức, Cục Bảo vệ,
Cục Địch vận, Cục Dân vận và Cục Văn hoá.
Chuẩn Bị Xâm Nhập Miền Nam
Đồng thời với công việc xây dựng lực lượng
quân đội Miền Bằc, Việt cộng đã bí mật
huấn luyện cán binh để âm thầm xâm nhập miền
Nam, thành lập khung cho lực lượng cộng quân ở
miền Nam mệnh danh là "Lực lượng võ trang giải
phóng miền Nam". Các cán binh Việt cộng ở miền
Nam tập kết ra Bằc được huấn luyện tại các
trung tâm sau đây:
- Trung tâm Mạch Lũng ở làng Mạch Lũng, huyện
Đông Anh, tỉnh Hải Dương.
- Trung tâm Xuân Mai, tỉnh Hòa Bình.
- Trung tâm Sơn Tâỵ
- Trung tâm Phú Yên, tỉnh Bằc-Thái (Băc Ka.n-Thái
Nguyên)
- Khu vực "Thép" tại Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, huấn
luyện bộ binh, pháo binh, cơ giới, công binh,
thông tin, hóa học.
- Trường đặc công, núi Na-Sơn, tỉnh Sơn Tâỵ
- Trường đặc công xã Đông Yên, huyện Quốc
Oai, tỉnh Sơn Tâỵ
Các cán binh thuộc Sư đoàn Nam Bộ tập kết 324
là những cán binh xâm nhập trong đợt đầu tiên
vào năm 1960, và được bí mật huấn luyện tại
một doanh trại của bản doanh Sư đoàn 338 của Tô
Ký.
Riêng trung tâm Xuân Mai có khả năng huấn luyện
mỗi đợt 1.000 ngườị
Tổng Kết
Những nỗ lực của Hồ Chí Minh và Việt cộng
trong việc xây dựng cơ sở vật chất nhằm thôn
tính Đông Dương đã làm nổi bật kế hoạch hai
mặt của Việt cộng: mặt chìm và mặt nổị Mặt
nổi là xây dựng và phát triển, mặt chìm là
chiến tranh thôn tính và bành trướng mà Hồ Chí
Minh gọi là "nghĩa vụ quốc tế", trong đó Hồ
bằt nhân dân Việt Nam đóng vai trò tên lính
tiền phong cho cộng sản Liên Xộ
Trong giai đoạn chuẩn bị cơ sở vật chất cho
cuộc chiến tranh, một nhà máy phân đạm (chlorure
de potassium) được Việt cộng đề cao là để
phục vụ cho nông nghiệp, tăng gia năng xuất và
nâng cao mức sống nhân dân. Nhưng khi phát động
cuộc chiến tranh, nhà máy phân đạm biến thành
nhà máy thuốc súng (sản xuất chlorate de potassium)
và nhà nước nói là để "giải phóng miền Nam
ruột thịt và các nước anh em Miên-Lào".
Khi nhân dân phải ăn đói để nhà nước xây cất
các nhà máy cơ khí, thì họ hy vọng có máy cày,
máy nổ, xe đạp, bình thủy, để nâng cao mức
sống. Nhưng khi Việt cộng phát động chiến tranh
thôn tính, nhân dân mới vỡ lẽ ra rằng nhà máy
cơ khí là nơi sản xuất vỏ lựu đạn, mìn, súng
đạn, cơ giới chiến tranh.
Xây dựng xã hội chủ nghĩa trong mấy chục năm qua
đã gằn liền với chiến tranh thôn tính. Hình
thức bề ngoài có khác, nhưng bản chất bên trong
nếu có khác thì cũng chỉ là sự khác biệt giữa
chlorure de potassium và chlorate de potassium.
Chiến tranh thôn tính trong mấy chục năm qua đã
đem lại gì cho nhân dân, và đã phục vụ cho aỉ
Nhân dân nghĩ gì về cuộc chiến tranh mà Hồ Chí
Minh nói là sẽ đem lại Thống Nhất, Độc Lập và
Tự Dỏ Ta hãy đọc những vần thơ dưới đây của
thi sĩ Nguyễn Chí Thiện:
Không có gì quý hơn độc lập tự do!
Tôi biết nó, thằng nói câu đó.
Tôi biết nó, đồng bào miền Bằc này biết nó
Việc nó làm, tội phạm nó ra sao
Nó đầu tiên đem râu nó bện vào
Hình xác lão Mao lông lá
Bàn tay Nga đầy băng tuyết giá
Cũng nhoài qua lục địa Trung Hoa
Không phải xoa đầu mà túm tóc nó từ xa
Nó không đứng yên, tất bật điên đầu
Lúc rụi vào Tàu, lúc rụi vào Nga
Nó gọi Tàu Nga là cha anh nó
Và tình nguyện làm con chó nhỏ
Xông xáo giữ nhà gác ngõ cho cha anh
Nó tận thu từ quả trứng trái chanh
Học lối hung tàn của cha anh nó
Cuộc chiến tranh chết vội hết thanh niên
Đương diễn ra triền miên ghê gớm đó
Cũng là do Nga giật Tàu co
Tiếp nhiên liệu gây mồi cho nó:
-Súng, tăng, tên lửa, tàu bay
Nếu không, nó đánh bằng taỷ
Ôi đó, thứ độc lập không có gì quý hơn của nó!
Tôi biết rõ, đồng bào miền Bằc này biết rõ Việc nó làm,
tội phạm nó ra sao Nó là tên trùm đao phủ năm nào Hồi cải cách
đã đem tù, đem bằn Độ nửa triệu nông dân Rồi bảo là
nhầm lẫn Đường nó đi trùng điệp bất nhân Hâm hấp trời
đêm nguyên thủy Đói khổ dựng cờ đại súy Con cá, lá rau nát
nhầu quản lý Tiếng thớt tiếng dao vọng từ hồi ký Tiếng thở
lời than đan họa ụp vào thân Nó tập trung hàng chục vạn "ngụy
quân" Nạn nhân của đường lối "khoan hồng chí nhân" của nó Mọi
tầng lớp nhân dân bị cầm chân trên đất nó Tự do, không thời
hạn đi tù! Mắt nó nhìn ai cũng hóa kẻ thù Vì ai cũng đói mòn
nhục nhằn cằn răng tạm nuốt Hiếm có gia đình không có người
bị nó cho đi suốt Đất nó thầm câm cũng chẳng được tha! Tất
cả phải thành loa Sa sả đêm ngày ngợi ca nó và đảng nó Đó là
thứ tự do không có gì quý hơn của nó!
Ôi! Độc Lập! Tự Do
Xưa cũng chỉ vì quý hai thứ đó
Đất Bằc mằc lừa mất vào tay nó
Nhưng nay mà vẫn còn có người mơ hồ nghe nó!
Nó mới vạn lần cần nguyền rủa thực to!
2003-10-19 21:52:39
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com