Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

cc-lenghiabk05

Quân đội, trường đại học lớn: Các món ăn đặc sản của lính QS

Tháng 9/1970, cánh khóa 5 TSQ Nguyễn Văn Trỗi - sau kì thi tuyển ở trường VHQĐ Lạng Sơn – tập trung lên ĐHQS ở Vĩnh Yên. Văn Tiến Huấn, Lê Chí Hòa, Nguyễn Khánh Hòa, Hoàng Văn Chương, Hà Văn Công, Hà Huy Dũng, Phạm Kháng Trường… đến hơn chục mạng Trỗi được phân vào lớp Thông tin khóa 5.

Đơn vị của chúng tôi là C153 (thuộc Khoa Cơ bản). Doanh trại sát cạnh C143 (năm thứ 2 khóa 4), nằm ở góc đồi sau sân vận động Bảo Sơn. Qua mấy thửa ruộng chừng “vài cái quăng dao”

 là 1 xóm nhỏ, cây cối xanh um. Chiều nào nhìn sang cũng thấy thấp thoáng vệt khói lam bay lên từ những nóc nhà…  

Ngay năm đâù tiên, lính chúng tôi học trong cuộc sống được bao điều thú vị mà trước đó chưa hề biết. Người thầy là những lính chiến ở đơn vị về: các anh Nguyễn Phôi,

 Phạm Văn Kỉnh, Nguyễn Văn Tam, Đoàn Mạnh Hùng (min), Đỗ Ngọc Khôi (điếc), Trần Hay, Võ Minh, Tuân "gái", Lộc "chim én", Điền…

Bắt lươn

Nhiều lính chiến xuất thân từ nông thôn nên biết nhiều trò kiếm sống. Anh Trần Hay, dân Nam Định, rủ rê cánh trẻ: “Tớ chỉ trông mấy thửa ruộng dưới kia biết thể nào cũng có lươn”. “Nhưng bắt thế nào, ông anh. Câu à?”, chúng tôi thắc mắc. “Lươn không như cá, không câu được. Để tớ bày cho cách làm hom bắt lươn”.

Chiều ấy, anh vào làng xin các cụ mấy cây nứa và ít đoạn tre già. Chỉ với con dao quắm, anh cắt cây nứa thành những cái ống mà 1 đầu để trống còn 1 đầu bịt sẵn bằng phần mắt nứa già. Dọc ống nứa, anh mở những khe hẹp 2-3mm. “Mở thế này thì nước vẫn chảy qua, còn lươn có đã vào ống cũng không thể ra được”, anh vừa làm vừa dạy, “Còn đầu hở của ống nứa được gài những cái hom bằng tre”. Anh khéo léo bện những vòng bằng lạt nhỏ hơn miệng ống rồi vót

 những “chông tre” gài cho phần nhọn hướng vào trong. Các mũi chông ken dày vào nhau, chỉ còn hở đúng lỗ nhỏ bằng đầu ngón tay út: “Lươn chui vào thì dễ nhưng không cách nào ngược ra được vì vướng hom”. Đúng là phải xuất thân từ làng quê mới biết cách làm hom lươn như anh.

-

      

Chỉ như vậy đặt xuống ruộng là

 bắt được lươn à? – Anh em tôi lượn lờ quanh, thắc mắc.

-

      

Còn lâu. Phải có mồi, nhất là mùi tanh của nhái, của cá sẽ hấp dẫn lươn ghê lắm. Bắt nhái, đập chết, nhét vào bên trong ống rồi gài hom lại. Ngửi thấy mùi tanh, lươn ta sẽ mò tới, tìm cách chui vào ống, chén nhái. Vậy là toi. Mà đặt hom cũng phải có chỗ, có cách.

Sau giờ cơm chiều, chúng tôi theo anh đi đặt hom. Chọn chỗ nước chảy từ ruộng này sang thửa kề bên, anh đặt những hom lươn xuống, nhấn thêm ít đất chèn cho chắc. Rải rác chục ống đặt khắp mấy thửa ruộng.

Sáng hôm sau, anh dậy trước kẻng báo thức rồi rủ chúng tôi đi thu ống lươn. Hầu như dỡ hom nào cũng thấy có ít nhất 1 chú lươn, không thì 2. Mà lạ là ai không đặt hom có thấy cũng không lấy trộm. (Ngày ấy hay thế!).


Chiều ấy có món lươn tươi xào ăn thêm.

Lính già đúng là lắm trò!

Ăn thịt chuột

Giờ về miền Tay tha hồ ăn thịt chuột đồng chứ cách đây 40 năm khi mới vào lính thì làm gì biết ăn. Ở thành thị chỉ quan niệm: chuột là bẩn thỉu, nhất là chuột cống – nguồn sinh bệnh. Vậy mà nghe anh Phôi (lính Quảng Trị tập kết) nói: “Thịt chuột đồng ăn ngon lắm” mà chả đứa nào tin.

Chiều ấy, tăng gia ở vườn sát chân đồi, anh phát hiện có chú chuột đồng chạy vào hang. Vậy là kiếm rơm về hun. Mắt mũi dàn dụa, anh quạt lấy quạt để rồi theo dõi thầy cứ lỗ nào có khói ra là phân người canh: “Chuột chạy ra là đập chết nhé!”. Khói dày quá, không chịu nổi, các chú chuột cứ theo hang mà chạy ra. Bắt cả chục con. Chú nào cũng béo nẫy.

Ông anh quạt rơm thui ngay chuột. Những chú chuột đồng béo ngậy sau khi thui rồi cạo sạch thì có màu nâu vàng như con chó thui. Rồi mổ banh, vứt lòng ruột đi. Sau khi rửa sạch, ông anh bóp muối, ớt bột và đem nướng. Thịt chuột nướng thơm lừng. Nói vậy tôi cũng chả dám ăn, chỉ dám “ăn bằng mắt”. Cái nhà anh Khánh Hòa thì vừa xé thịt chuột ăn vừa cười vô tư: “Thịt chuột ngon ra phết!”.

Sau này, những năm đầu 1980, cuộc sống thiếu thốn đủ điều. Thịt cá cũng thiếu. Nghe nói, mấy hàng phở vì không có xương lợn đã thuê người đi bắt chuột về nấu nước dùng. Ở nông thôn còn có chuột đồng, chứ ở thành thị thì toàn chuột cống.

Chính mắt tôi thấy đêm đã khuya, có những tay quần xắn móng lợn, đạp xe lang thang các phố, trên vai vắt cây gậy mà 1 đầu gắn vợt lưới. Ngay góc Phan Bội Châu – Trần Hưng Đạo có đường cống dẫn ra hố ga mà 1 đầu sát tường đã bật gạch lát. Hai tay xuống xe, 1 thằng lùa lùa

 cửa cống, tay kia dùng vợt chặn ở cuối. Thấy động, chuột đã lao vọt ra đầu kia và chui tọt vào lưới, giãy giụa, miệng kêu chí chóe. Chắc cánh này bán chuột cống cho hàng phở? Để khỏi “lộ hàng”, nhà hàng cho thịt chuột vào bít tất rồi buộc lại, thả dưới đáy nồi nước dùng. Ít mì chính mà nước ngọt ra phết!


Chả hiểu bà con có bị lây bệnh dịch hạch từ những bữa phở này?

Hồi ức (Cao Bắc)

Tôi không giỏi văn , cả cuộc đời từ lớp 1 cho đến lớp 10 chỉ toàn được điểm 3 về văn. Tôi cũng không phải như Quang Thắng, lúc cùng là bạn “nối khố” học lớp vật lý của trường ĐHBK, nó toàn được điểm 5, còn tôi toàn được điểm 4 và một vài điểm 5. Nhưng tôi sống hơi lãng mạng (đã từng bị thầy Khang, kiêm đại đội trưởng phê bình là sống quá lãng mạng, khi thầy bắt được quyển sổ thơ của tôi).
Chắc vì thế tất cả những kỷ niệm 43 năm chợt về tràn nghập trong tôi.

Cái phút ban đầu lưu luyến ấy


Ngàn năm khó có mấy ai quên


                                    (thơ Xuân Diệu)


Tình cờ tuần trước tôi tìm thấy trang web Bantroi5, gặp lại những cái tên quen thuộc: Quốc Khánh, Quốc Việt, Kiến Quốc, Vũ Lợi, Quang Bắc, Tấn Lợi, Phúc Chiến, Ngọc Sơn, Đông Nhân, Kim Trung, Trần Lảnh, Linh “đen”,v.v... những tháng năm sống với tất cả anh em khóa 5 trường Nguyễn Văn Trỗi sống lại trong tôi. Chính tôi cũng không ngờ những kỷ niệm sống trong lòng những bạn viết và bạn đọc báo liếp Bantroi5 đến nay còn rõ như vậy.
Khi Kiến Quốc bảo tôi viết bài đóng góp, để chia sẻ những giờ phút vui buồn khi đó, tôi biết đây cũng chính là trách nhiệm của mình, (có thể đây cũng sẽ là tư liệu để giúp cho một người nào đó, một ngày nào đó viết về lịch sử của trường Nguyễn Văn Trỗi).

Nhầm gạch thành muối
Làm sao tôi có thể quên được ngày hôm đó, khi ở Hưng Hóa, đi ăn cơm chiều. Anh em cùng mâm có tôi, Vũ Lợi, Quốc Việt, Quốc Khánh. Khi chúng tôi bắt đầu ăn những “cục bột mì được làm chín hơi”, thấy nhạt quá , anh em bảo nhau phải đi lấy thêm muối. Quốc Việt xung phong đi. Mọi người cùng chờ muối và khấp khởi mừng thầm khi thấy Quốc Việt gắp một cục muối thật to về.
Thả cục muối vào cái nắp nồi cơm thì nó kêu đánh “bong”. Anh em nhìn thì hóa ra đó là non nửa cục gạch. Tất cả mọi người đều cười:


-Quốc Việt ơi, đeo kính dầy bằng cái đít chai vậy mà mày nhìn cục gạch thành ra cục muối?
Sau đó Quốc Khánh phải vào kho lấy một muôi muối khác.

Món sắn đồ
Một hôm khác, nhờ tài dân vận khéo của Vũ Trung, tôi với Ngọc Liên được đưa tới nhà chị Thắm. Nhà chị ở quá ngã ba giữa làng một chút. Chị làm món sắn đồ: củ sắn mới đào lên, bóc vỏ đi, sau đó băm nhỏ, cho vào chõ đồ xôi đồ lên,  cho ít hành mỡ phi vào thì y hệt như ăn xôi nếp. Ăn ngon nhớ mãi.
Nhờ học lỏm được cách chế biến mà món sắn đồ theo tôi cho đến ngày hôm nay.

Những kỷ niệm ngày đó không thể nào kể ra hết được, nó như một cuộn phim dài vô hạn trong tâm trí của tôi, chỉ viết ra đây được vài dòng để tặng cho những người bạn đã sớm đi xa và mong sẽ có một ngày gặp lại những người còn lại.
Cao Bắc

B

a lòng l

n và gi

c ng

c

i giã g

o

Mùa đông năm 1971 lớp K5Me có một nửa ở ngoài đầu đường ra sân bóng. Tôi và Bá Văn thì ở trong khu k5, nhưng hay tụ tập ra ngoài ấy vì nó gần bếp vả lại tránh sự kiểm tra nội vụ của lớp. Hò hát, chơi đàn, rảnh thì đá cầu và thuận đường ra quán. Một hôm thằng Chi răng vàng đi học ngoài đồi về tay khoe khoe cuốn sách cuộn tròn vừa đi vừa tán phét sôi nổi với hai người đàn ông. Không hiểu nó lôi ở đâu về hai nhân vật lạ hoắc. Đến cửa lớp nó reo lên:

-

A, đây rồi Văn ôi, có hai ông này hỏi mày.

      Mặt Đào Bá Văn đơ đơ nhìn hai người đàn ông... thế là thế nào, các anh ở ngoài ga à? Văn thoáng nghĩ không nhẽ nó làm cái vụ trốn vé ...

      - May quá, chúng tôi ở ngay trên xóm trên là người dân ở đây thôi. Chả là nhà tôi có đám cưới ... ông bà tôi cho chúng tôi vào mời anh Vãn, à quên anh Văn. (Văn lẩm bẩm cha mẹ thằng nào lại khai tên cúng cơm của mình rồi). Mời các anh ra dự cưới và giúp cho cái khoản văn nghệ gọi là nhạc sống.

      Hơ hơ. Văn cười. Đi luôn hả? Mấy người kia vội vàng: Vâng đi luôn. Chiều nay là đám rước dâu về ạ. Văn kêu tôi, mày đi với tao. Nói rồi đi thẳng vào K5 gọi thêm Nông Hồng Quân và Mai văn Bốn. Tôi thấy đội hình toàn thằng cao to. Lượng sức mình không kham nổi nên cáo từ. Vãn lừ mắt. Cho mày nhịn. Thế là mấy thằng nó đi.

      Suốt buổi chiều cứ mong canh cánh chúng nó về. Ít nhất cũng có điếu thuốc Nhị thanh, Tam thanh. Mãi chúng nó không về, mấy thằng đâm ra nhớ Văn quá, chạy ra chạy vô phấp phỏng. Thằng Chi răng vàng chốc lại ra đầu lớp ngóng. Chúng tôi học bài co ro đến chín giờ đêm thì thằng Quân dìu Văn về lớp. Nó thả Văn vào trong nhà rồi cũng chuồn về k5Mc. Văn ngắc ngư cái đầu, móc túi ra mấy viên kẹo nuga và vài điếu thuốc gẫy cong queo vứt lên giường rồi rúc vào cái chăn màu cứt ngựa ngáy ò ò.

      Hôm sau, ngồi trong lớp nó bảo mình: Mày đéo đi, oánh chén no say hát mấy bài, đéo có chỗ nào ngủ tao ra cối giã gạo đầu nhà khò mấy tiếng liền. Mẹ kiếp rượu ở đây nặng quá.

      Mình bảo rét thế ngủ sao đựơc?  Văn bảo nó đậy cho tao cái nong ... đấy đấy mày nghe thấy trong xóm lại có lợn kêu không? Hôm nay nhà nó vẫn oánh chén... Văn bần thần, lâu quá mới được ăn lòng lợn.

    

Sáu tháng sau Văn lên đường đi oánh giặc. Chắc thế nào trên đường Trường Sơn, Chi răng vàng chả kể công với Văn, nhờ tao ghép mối mà mày được bữa lòng lợn rồi ngáy o o ở cối giã gạo nhà người ta.

Hú vía! Nồi cháo lòng

TTC - Vợ chồng tôi nuôi được một chú heo rừng lai. Đến độ ngó thấy ngon ngon, chúng tôi bàn nhau “tự biên, tự diễn”, tiến hành “khai đao” để nâng chú “Trư” lên dĩa. Chủ yếu là muốn đãi đằng hai bên gia đình một bữa lòng lợn, tiết canh thật hoành tráng, còn thịt thì cho tham gia... thị trường. Dù sao đó cũng là con heo “đầu tay” của vợ chồng trẻ mà.

Bữa ấy, cả hai bên gia đình đều được vợ chồng tôi mời tới đông đủ, không khí trong nhà cứ vui như Tết. Cánh đàn ông thì “tay dao, tay thớt”, băm băm, chặt chặt, đám các bà thì tranh thủ “buôn dưa lê” tất cả mọi chuyện trên đời, chờ sẵn sàng vào cuộc...

Sau một chầu tiết canh đông sánh, mát tận ruột, cộng thêm vài ly cuốc lủi, ai nấy đã ngà ngà, chuếnh choáng, kho tàng ngôn ngữ đang chuẩn bị... xuất. Anh rể tôi khệ nệ bưng nồi cháo bự tổ chảng, đặt trước hiên nhà, rồi nhanh tay múc cháo đưa tới từng bàn cho các thực khách. Cha tôi trịnh trọng múc một chén cháo, nâng lên mời ông sui, nhìn vẻ mặt đầy hoan hỉ của hai người cha, vợ chồng tôi cũng tràn ngập niềm vui, pha một chút hãnh diện của những người con biết... mần ăn.

Khi cha vợ tôi đưa muỗng cháo vào miệng, bỗng dưng tôi thấy mặt ông nhăn lại, nhưng có lẽ do phép lịch sự “ngoại giao” nên ông cũng chẳng nói gì. Tiếp theo đó là tiếng xì xào lan ra từ khắp các bàn, cả tiếng nhổ phì phì của ai đó. Tôi phải làm ngay cái công việc của chủ nhà là thẩm định chất lượng của nồi cháo lòng. Trời ạ! Hóa ra hồi nãy anh rể tôi không bưng nồi cháo lòng, mà lại bưng lộn nồi cháo heo, do vợ tôi tiếc lửa hồng nên tranh thủ đặt lên sau khi bưng nồi cháo lòng xuống.

Nhìn hai nồi cháo chẳng khác gì nhau (chỉ khác chỗ nồi cháo heo được nấu bằng... nước vo gạo để chua và nước rửa lòng heo) nên anh tôi chỉ việc tra hành lá rồi bưng lên đãi khách. Cũng may là sự cố được phát hiện sớm và xử lý kịp thời, nếu nồi cháo không có vị chua của nước vo gạo, không biết chuyện còn đi tới đâu nữa. Chỉ tội cho cha vợ tôi vì tuổi cao, bụng dạ lại yếu nên bị ông “Tào Tháo rượt” cho một trận “chạy” tới mệt lừ luôn. Báo hại anh em tôi lại phải lo đưa ông đi bệnh viện mất 3 ngày. Thật là hú vía! Cháo lòng. Và cũng từ đó, cứ nghe thấy nói tới “cháo lòng, tiết canh” là tôi chạy... một nước.

MẤT MỘT BỮA LÒNG        




   Ba

tôi nói: Ngày mai chủ nhật, các con sẽ được ăn lòng.
Thông tin đó chấn động nhà tôi.
Thời chiến tranh, nhà tôi trông nhờ vào tem phiếu gạo và thực phẩm của ba. Ba không mua thịt theo tiêu chuẩn, thỉnh thoảng, ba dồn tiêu chuẩn thịt mua mấy ký lòng heo cho cả nhà được láng miệng. Tôi háo hức suốt đêm đó. Thịt, lòng heo là những loại thức ăn mà thời chiến tranh lũ trẻ chúng tôi luôn mơ ước. Nếu nhà đứa nào có việc gì quan trọng,trong bữa ăn có thịt, thì chắc chắn, thằng đó cũng kiếm được một miếng, ngậm một nửa trong miệng, đi ra ngõ, nhử thèm lũ chúng tôi. Chúng tôi nhìn nó ngậm miếng thịt, ngưỡng mộ vô cùng và nươc miếng chảy ướt cả cằm.
Bây giờ thì tôi đang nằm bên ba tôi, nước miếng cũng chảy ướt cằm:-Ba ạ. Mấy giờ ba đi cửa hàng mua lòng? Ba tôi lật người:-Ngủ đi con. Sáng mai 2 giờ sáng ba đi.


Hồi đêm anh Lập thì thầm với tôi:- Để sáng mai mua được lòng, ba phải đến nhà chú cửa hàng trưởng biếu một gói trà và hai trái mướp đó.


Tôi vùng dậy khi ba tôi cựa mình. Tôi khẩn khoản xin ba tôi theo cùng.
2 giờ sáng. Cửa hàng thịt đã rất đông người. Sau này tôi biết số người đến mua thịt đều như ba tôi: cán bộ, đảng viên hết. Họ chào nhau nhưng không ai nhường chỗ cho ai hết. Tôi thấy dòng người xếp hàng rất dài đã thấy hoảng.


Ba tôi rón rén đến bên cửa phòng chú cửa hàng trưởng, khẽ gõ cửa. Tiếng làu bàu chửi thề:- Thằng nào rứa. Tau đang ngủ. Không biết à. Ba giờ sáng chớ mấy. Ngu như lợn.
Tôi nóng mặt định nhào vào cãi:-Chú mới là con lợn. Chú là cục cứt. Ba cháu là đảng viên, là Hiệu trưởng trường Sư phạm tỉnh, chú dám chửi ba cháu là con lợn à?


Nhưng đó mới chỉ là ý nghĩ, ba tôi kéo tôi lại, nhẫn nhục bước lên sát cửa hơn, thì thào:- Anh ạ. Đạng đây mà...
-Ai? Thằng nào?
-Đạng đây anh ạ...
Cửa kẹt mở, một gói ni lòng rất lớn vứt xoạc ra chân ba tôi cùng với tiếng nói nhanh, rất trầm:-Khổ lắm. Em dặn anh rồi, đến chỉ cần gõ cửa 4 tiếng là em biết. Anh cứ xướng lên thế người ta biết, chết. Đó. Lòng của anh em mua hộ rồi đấy. Về đi. Ngày mai gặp nhau.
Ba tôi định nói gì đó, nhưng cánh cửa đã đóng ập lại.
Ba tôi vội vàng ôm lấy túi ni lông nhoe nhoét máu đỏ, bùng nhùng lòng lợn, mùi cứt lợn bốc lên hôi hám rồi với gương mặt rạng ngời, ba tôi nháy mắt với tôi và hai cha con chui qua hàng rào để tránh những con mắt nhòm ngó và ghen tị rồi vội vã đi bộ về. Ba tôi bước thoăn thoắt. Tôi đi sau cùng. Máu đỏ từ bao ni long đựng lòng lợn nhỏ từng giọt loằng ngoằng trên cát trắng.

TẾT TÙ

Ngày 25 tết.

Đức cụt năn nỉ Ninh hói cho ra phục vụ bếp. Ninh hói nhìn Đức: Mày ngu lắm. Nằm trong ấy cho yên, chân cẳng vậy làm cái chi. Đức cứ năn nỉ. Tôi cũng ngạc nhiên: Làm chi cho khổ mày. Tao ở một mình à?. Đức vẫn năn nỉ. Lúc sau, Ninh hói lại mở cửa: Tao nói gảy lưỡi cán bộ mới cho đấy thằng ngu ạ. Đức cười hì hì, vội vàng xỏ chân giả vào, nháy mắt với tôi rồi bước vội ra khỏi hộp.

Sẩm tối, Đức vào lại, người đầy nhọ nồi nhưng mặt hắn tươi lắm.

Đợi cho cánh cửa hộp đóng sập, Đức cụt vội vã lôi cái chân giả ra khỏi chân. Tôi bàng hoàng nhìn. Từ trong ruột chân giả Đức lôi ra nào là giấy màu, bao ni lông màu, diêm, bật lửa, mấy que hương đã bẻ gập lại chỉ ngắn bằng ngón tay, một lưỡi dao lam, mấy viên than, một viên phấn trắng, một miếng gạch đỏ....Đức cụt nhìn tôi, em xin ra cho bằng được là để kiếm mấy thứ ni. Để làm chi? Anh lạ, hôm ni 25 tết rồi. Thế thì sao? Trời, anh lạ, thì phải chuẩn bị chu đáo để đón tết chứ anh. Tôi ngồi thụp xuống, ngán ngẩm. Anh răng rứa. Buồn hay không buồn thì cũng phải đón tết trong hộp. Đã tết thì mình cũng phải trang hoàng chút chớ. Em khéo tay mấy cái khoản trang hoàng này lắm. Giấy màu để cắt thành đèn lồng, thành dây hoa giấy, than phấn để viết vẽ chúc mừng năm mới, rồi mình sẽ thắm hương đêm giao thừa nữa....Ngày mai em xin ra ngày nữa...Tôi im lặng. Biết tôi buồn, Đức lò cò đi tới, anh Vinh ạ, răng rứa, em làm như vậy là để anh vui sao anh buồn rứa, em ăn tết đây 3 lần rồi, nhưng không khi nào trang trí như ri hết anh ạ, lần này em phải làm là vì anh, cho anh đỡ nhớ nhà anh ạ...Tôi cúi gầm mặt xuống. Đức cáu, anh lạ, em nói thiệt, những thứ trang trí ni em khổ cực lắm mới kiếm được, anh tưởng dễ à, như đi ăn cắp, rồi anh coi, cái hộp này đẹp lung linh, ngay cả nhà em cũng không có tết mô trang hoàng hết. Tôi đập tay vào sàn xi măng thôi im đi mày. Tao đéo cần những thứ đó. Đã ngồi trong này, khổ nhục như chó, trang trí con cặc. Đức mân mê tới bên tôi. Em nói này, anh là nhà văn không phải như bọn em. Người ta đã ép anh vô mà anh cũng cúi đầu xuống là không được anh ạ. Anh phải làm cho ngươi ta hiểu, tao đây, chúng mày làm đéo gì tao, tao vẫn đón tết, vẫn đàng hoàng, tao là rứa, mần chi tao. Em muốn anh khác tất cả, khác em, không cam chịu. Tôi im lặng nằm xuống. Đức cụt vỗ vỗ vào lưng tôi, xoa xít, mơn trớn, tẩm quất nhè nhẹ cốt cho tôi ngủ.


Ngày 26 tết.

Hôm sau vợ và con gái tôi vào thăm. Hàng gửi vào rất nhiều thứ quà tết: Bánh chưng, chuối, cam, thuốc lá, đường, sữa, cà phê, bánh kẹo, khăn mặt, lương khô, mì tôm, thịt kho, cá kho. Tôi nhìn đống hàng thăm nuôi, nước mắt ứa ra, vì tôi hiểu, bao nhiều thứ  mua sắm tết, hình như vợ tôi dồn vào cho tôi hết. Nghe tiếng Ninh hói: Vinh, trèo lên ô gió nhìn ra ngoài kia, con gái mi đang ở ngoài kia, nói với nó vài tiếng. Tôi hấp tấp trèo lên, Đức cụt dựa người vào tường đỡ cho tôi đứng vững. Con gái tôi chạy lon ton dọc bờ ruộng. Tôi gào lên: Con ơi, đừng chạy, đường trơn. Con gái tôi đứng sững nhìn vô trại. Nó không thể thấy tôi được. Gương mặt con tôi ngơ ngác: ba ơi ba. Ba đây này. Ba đây này. Con nhìn thấy tay ba không, tay ba đang vẫy con đây con ạ. Tôi cố sức đưa cánh tay ra khỏi những thanh xi măng ở ô gió, vẫy vẫy, từ xa con gái tôi gọi ba ơi, con nhìn thấy tay ba rồi ba ạ...Tôi gào lên: phải ngoan nghe con...phải ngoan nghe con...được rồi, con về đi, về đi con nhé...về...đi...Con gái tôi quay lại. Từ xa, tôi nhìn thấy vợ mình đang đợi con. Rồi hai mẹ con đi khuất. Tôi tụt xuống như rơi tự do, như người mất trọng lượng, đè cả lên người Đức cụt. Đức cụt  hoảng hốt  ui trời anh Vinh, tay anh đầy máu. Hoá ra, do tôi vội vàng đưa cánh tay mình ra ngoài để con gái nhìn thấy, khe ô gió hẹp, dọc hai cánh tay của tôi máu tứa ra thâm tím thành hai vệt dài. Nhưng tôi chẳng thấy đau đớn. Đức cụt bê bát nước chè cho tôi, tôi đập chan chát bát nước xuống nền xi măng: địt mẹ, tao ra được tao giết hết.

Ngày 27 tết.

Đức cụt lại ra bếp. Hắn phân công tôi phải làm như này như này như này. Anh ngồi buồn, không làm anh chết với em. Cho em điếu thuốc Zét hút cho bọn ngoài bếp nó thèm . Hì hì. Đức nhăn răng cười.Tôi làm theo lời Đức dặn cốt cho đỡ buồn chứ không hề hứng thú một chút nào. Tôi xếp giấy màu, giấy loại, giấy báo, cắt ra từng tệp vuông vắn rồi dùng lưỡi lam khoét từng đường ở giữa, sau dán lại với nhau, được nửa buổi cũng kéo ra được một giây hoa giấy dài, nhìn cũng thích mắt. Tôi tập trung vào việc, quên hết. Chiều vào, Đức lại lôi trong ống chân giả ra một nhúm cát trắng gói trong bao ni lông, một tệp bao ni lông, một miếng chăn rách nhỏ nói là để làm củi đun. Đức lại lôi tiếp ra một nắm đậu lạc, người Nam gọi là đậu phụng chừng nửa lon, một cái đĩa nhựa đã cắt ra thành nhiều mảnh nói là để nhón lửa, một cục đất sét nói là để làm pháo đất. Hắn có vẻ sướng lắm vì tuyên bố, xong, mọi công việc chuẩn bị đón tết chu đáo rồi. Mai em xin anh Ninh hói hái vô một nắm lá cỏ, lá bèo, cành cây khô nữa là có bình hoa anh ạ. Đức khen tôi khéo tay tạo ra được những dây hoa giấy. Suốt chiều hai anh em hì hục giăng những sợi hoa giấy bốn góc phòng, chụm lại ở giữa thì treo cái lồng đèn cũng được xếp bằng giấy. Đức hí húi dùng than và viên gạch đỏ, viết bốn chữ: Chúc mừng năm mới rất to ở vách tường. Tôi vẽ thêm cành tre, Đức nói, anh vẽ được thì vẽ mấy con chim bay qua bay lại, thêm đám mây. Tôi làm. Đức đổ cát vào cái bát ăn cơm, cắm hương  lên thành bát hương đặt ngay ngắn trước giuờng nằm. Rồi hắn soạn bánh trái, chuối, hoa quả, trà thuốc, xếp đặt thành mâm quả trông rất tươm tất. Hắn nhìn mâm quả xuýt xoa: nhà em mơ cũng không ra mâm quả này.

Tôi hỏi sao vợ mày không lên thăm. Đức cười. Tôi để ý mấy ngày liền Đức leo lên lại tụt xuống ô gió mấy lần, Răng hè? Răng hè? Giờ mới biết cậu ta cũng mong vợ lên. Đức làu bàu. Đéo mẹ, mấy tết trước vợ em lên từ 26 tết, nay 27 tết không thấy mặt. E thằng trưởng thôn nó lơị dụng mình đi tù nó đè, rồi  quên em rồi. Tôi cáu: Thôi mày, vợ mày xấu thế, ai đè. Đức nhướn mặt lên: anh nói chi rứa, vợ em xấu nhưng vú to, mông to, nhìn cũng sướng chớ. Tôi an ủi cho qua chuyện, đéo có việc ấy đâu. Đức làu bàu: Răng hè? Răng hè?

Khoảng bốn giờ chiều, nghe tiếng mở cửa. Đức nhào tới, vợ em vợ em. Tôi giữ tay Đức, từ từ mày, mang chân vào đã, sao mày biết. Em biết mà, Tiếng Ninh hói: Đức, ra bóp vú vợ mi hí. Đức nhảy lò cò tìm chân giả, nói to: em ra đây em ra đây. 2 tiếng sau, Đức vô lại hộp. Tôi cũng thấy tò mò: vợ đến à? Dạ. Có mần chi được không. Hôm ni người thăm nuôi đông, vợ em không cho bóp vú nhưng khi chia tay em cũng tranh thủ cho tay vào quần vợ ngoáy được một cái. Sướng. Đức đặt túi ni lông xuống mở ra: anh coi nì, hàng tết của em đó, năm ni còn khá hơn mấy năm trước. Tôi nhìn thấy một quả bưởi xanh, một gói thuốc rê, hai gói thuốc Chợ lớn, một nhúm kẹo rời và một miếng thịt luộc vừa miệng thằng Đức nuốt chững. Vợ em gửi lời thăm anh đó. Tôi nhìn Đức, Đức nhìn tôi. Hai thằng đột nhiên ngồi lặng đi. Rồi Đức đập đầu vào ống chân cụt: em nói vợ em răng không đưa con lên, vợ em nói tốn thêm tiền tàu chợ nên không đưa. Em nhớ con anh ạ. Làm răng? Làm răng? Tôi không thấy Đức khóc. Nhưng rõ ràng một dòng nước mắt lặng lẽ chảy từ đâu đó trên gương mặt đang cúi sấp xuống của Đức cụt, chảy dọc theo cái chân giả. Tôi kéo Đức cụt lại, thôi mày, khóc đéo gì. Đức ngẩng lên, nhăn nhở nhìn tôi cười, khóc đéo chi anh hè? Nhưng anh em mình răng lại rứa?

Răng lại đón tết ở đây anh? Răng rứa?


Ngày 28 tết.

Tháng này thiếu. Hôm nay coi như ngày 30 tết.

Đức cụt dậy sớm làm công việc cuối cùng trang trí hộp đón tết. Hắn khéo léo dùng cành cây khô nhỏ, uốn lại, cắt tỉa, rồi dán lên đó những bông hoa bằng giấy trông rất giống một cành mai. Rôì hắn tỉa tót công phu mấy cây cỏ, lá sen, lá chuối, lá rau muống, một lúc đã thấy một cành mai tết mọc lên giữa một bụi cây cỏ trông rất ưng ý. Đức đặt cành mai ấy dưới dòng chữ Chúc mừng năm mới. Tranh thủ lúc trời chưa tối, Đức tranh thủ nhen lửa nấu xôi, chè. Đức lấy bật lửa, đốt cháy mấy thanh nhựa, nhựa chảy xuống miếng chăn chiên, nhô lên ngọn lửa xanh lét. Cái bát to đặt lên. Gạo nếp đã vò sẵn, cho vào bát to để hong chín. Đức làm rất nhanh, khéo léo đến lạ. Tôi bó gối ngồi nhìn chẳng nói gì. Nấu xôi xong, Đức nấu tiếp chè. Hì hục khoảng 2 tiếng đã có một đĩa xôi và hai bát chè. Đức lại bày ra " bàn thờ". Đức nhìn tôi, mình làm thế này mà cán bộ bắt được nấu trộm, cả hai anh em sẽ bị còng chân tại chỗ, anh chịu không. Tôi buông một tiếng: Bình thường. Đức giục tôi thắp hương. Hắn cắm hương, xì xụp khấn vái gì đó rất lâu, miệng xuýt xoa, tay chắp lại vái. Xong, Đức bảo tôi khấn. Khấn răng? Thì anh ưng chi khấn đó, khấn ông Hộp phù hộ nhanh nhanh tự do. Mày khấn gì? Đức cười cười: Em thì có án rồi, chẳng mong gì, chỉ khấn  xin ông Hộp phù trì bảo hộ để ở nhà, vợ em không bị thằng nào đè. Tôi bật cười. Đức nói, mình phải cúng sớm, đêm giao thừa hay bị cán bộ đột ngột kiểm tra lắm. Khấn chừ, ông bà còn kiếm được chút ăn, đêm mà cán bộ kiểm tra, ông bà ăn cũng nghẹn.

Sẩm tối,  Đưc cụt nhìn ngó khắp bốn phía gật gù: đẹp, như thật, như ngoài đời. Trang trí thế này cán bộ vô thăm, khen là chắc.

Tiếng mở cửa. Đức vội vàng nhét bật lửa, lưỡi lam vô chân cụt rồi vứt chân cụt một góc.

Cửa mờ, đoàn cán bộ ở trại bước vào.

Trung úy Phú đã say (ông này ngày nào cũng say, nghe nói càng kiểm điểm càng say)  nhìn tôi lườm lườn: Anh Vinh, ai bày trò trang trí hộp giam này? Tôi chưa kịp mở miệng thì Đức cụt đã hấp tấp nói dạ em dạ em, anh Vinh không biết chi hết, anh Vinh ngăn cản em mần nhưng em vẫn mần. Tôi nói, hai anh em tôi làm đấy, cho đỡ buồn đỡ nhớ nhà. Trung uý Phú loạng choạng bước đến gần hơn: Các anh muốn cùm chân hả. Xóa hết, gỡ hết, trả lại nguyên trạng. Làm đi.

Rồi loạng choạng quay ra. Ninh hói hằm hè: đéo mẹ các ông, xoá hết đi, chết đó.

Cửa sắt đóng.

Tôi nhìn Đức. Đức nhìn khắp căn phòng đã được trang trí. Rồi hai anh em im lặng tháo dỡ, phá bỏ hết. Trung uý Phú lại vào: mấy chữ trên tường kia nưã, lấy giẻ nhúng nước xóa đi.

Tôi im lặng thực hiện.

Dòng chữ chúc mừng năm mới tan biến, để lại dấu tích trên tường loang lỗ.

Chờ cho đoàn cán bộ đi hết, đóng cửa, Đức cụt lò cò bước lại bên tôi, ôm lấy tôi, ghì rất chặt: Anh Vinh, năm mới đến, em chúc anh...

Tiếng Đức bị gãy giữa chừng. Đức gục lên vai tôi khóc thật sự. Trong tiếng khóc của Đức tôi vẫn lõm bõm nghe: Em đã cố làm mọi thứ cho anh vui mà không được, vì mình đang ở tù anh ạ...

Tôi đẩy Đức ra, nói mạnh mẽ: thằng này, khóc cái gì. Hát đi cho vui, sắp giao thừa rồi.


Đức đột ngột thay đổi giọng: Hồi ở nhà, đêm giao thừa nào em cũng rình rình mấy đứa con rồi lôi vợ vô buồng, mần một nhát từ năm cũ sang năm mới anh ạ. Sướng lắm. Mần trong tiếng pháo nổ mới sướng anh ạ. Anh có mần rứa không?

MỘT NGÀY TÙ....




    T

ôi có may mắn là ngủ tốt, trong bất cứ tình huống nào, chỉ cần đặt lưng xuống là ngủ. Vì vậy, suốt ngảy, dù là ở trong phòng tạm giam, lúc nào tôi cũng tươi tỉnh.

Báo chí gọi là phòng tạm giam. Lũ tù gọi là hộp. Tạm giam là " nằm hộp".

     Rộng 2 mét, dài 3 mét, một sân chơi cho 4 người rộng 1 mét, dài 1,5 mét. Toa lét rộng 90 cm, dài 60 cm. Bể nước rộng 30 cm, cao 20 cm.

Nếu được mở hết cánh cửa phòng giam phía trong thì chiều dài di chuyển của bị can sẽ nới ra được khoảng 1,5 mét.

Ban ngày, sau khi đóng sập hai cánh cửa sắt, ánh sáng chỉ còn ở ô gió nhỏ trên cao. Cả ngày, trong hộp này, ánh sáng chỉ nhờ nhờ, rất khó chịu.

Thường, 5 giờ sáng thằng Đức cụt đã dậy. Hắn ngồi, nhìn tôi, đưa cái chân cụt lên cọ cọ ở ngực tôi, sàm sỡ:

-Anh Vinh...

-Gì?

-Dậy

-Tao ngủ đã.

-Nhưng mà...hôm qua, cái phong lương khô anh cho vào đâu hè?

Tôi với tay lấy phong lương khô cho Đức. Đức ăn nhồm nhoàm, nhìn tôi, nheo nheo mắt:

-Từ ngày anh vô hộp với em, ngoài niềm tự hào, hàng ngày em được ăn sướng. Sáng ăn lương khô, hai bữa cơm lúc nào cũng thịt cá. Ăn thế này, ở nhà em mơ cũng không có. Thỉnh thoảng, cả nhà có được một đĩa thịt. Biết là cha phải dành miếng ngon cho con nhưng thèm quá, đôi lúc lại giả vờ khoắng nhầm đũa, cướp khỏi miệng con một miếng thịt. Mấy đứa con em biết cha nó ăn uống đàng hoàng thế này, e chúng nó xin vô hộp ở hết anh ạ.

Tôi nhìn Đức. Hắn nói nghiêm chỉnh, không đùa.

-Thể dục đi anh Vinh.

Tôi uể oải ngồi dậy. Tôi đã hứa với Đức cụt, sáng sớm nào tôi cũng chạy thể dục trong hộp. Anh phải tập. Phải chạy. Nếu không ngừơi phù lên hết. Em cụt chân, không chạy được thì cổ động viên cho anh.

Nhưng Đức cụt còn làm hơn cả cổ động viên.

Tôi chạy, với chiều dài một vòng là 9 mét, tôi phải cố chạy ít nhất 50 vòng.

Tôi chạy, còn Đức cụt cầm cái cốc nhựa, hét oang oang, tay thì cầm cái chân giả đập chan chát xuống bệ xi măng làm trống. Hắn vừa hét vừa nheo mắt nhìn tôi đang cắm đầu cắm cổ chạy:

-Alô..Alô...Hiện nay Ban tổ chức đang nhìn thấy vận động viên Nguyễn Quang Vinh cố vượt lên qua mặt vận động viên số  56. Anh vượt được không? Chỉ còn 50 mét nữa, 30 mét nữa, rồi....thưa các bạn, anh đã vượt qua số 56. Trời ơi, các bạn nghe thấy không, hàng ngàn người đang vỗ tay cổ vũ cho vận động viên Nguyễn Quang Vinh. Cố lên. Cố lên. Cố lên. Nguyễn Quang Vinh cố lên. Niềm tự hào của người dân Quảng Bình cố lến. Về đích rồi. Thắng rồi. Thắng rồi. Ha ha ha...

Tiếng thằng Đức cụt oang oang theo những bước chân chạy của tôi. Tôi mồ hôi mồ kê nhễ nhại, đã định dừng thì thằng Đức cụt lại hét lên:- Không. Không được dừng lại, hãy tiến lên. Niềm tự hào của nhân dân Quảng Bình hãy tiến lên.

Rồi giờ tập thể dục cũng xong xuôi.

Đúng giờ làm vệ sinh. Cửa mở. Hôm nay trong hộp chỉ có tôi và Đức cụt. Hắn cụt rồi, tôi phải xách nước vệ sinh. Lần đầu tiên tôi xách nước. Hoá ra là chạy xuống ngay hồ nuôi cá. Hai thùng nước dùng để dội toalet, hai thùng còn lại đổ đầy nước bể. Tôi hỏi Đức cụt:-Thế hoá ra mấy ngày nay mày pha mì tôm bằng nước hồ cá à?. Đức cụt gật đầu. Dạ. Nước này còn uống được mà. Tôi lắc đầu. Gớm quá. Tao múc nước mới biết, toàn rong rêu, e có cả cứt. Đức cười. Tháng trước em múc nước pha mỳ tôm, còn thấy một cục vàng vàng, mềm mềm. Nghi là cứt ở hồ cá. Vẫn ăn à? Con chó nhà em ăn toàn cứt, vẫn lớn, bán còn được nắm tiền, như em ăn cơm cả năm, bán ai mua anh? Rứa hết. Hì hì.

Chính xác là bị can vẫn có nước uống. Nhưng nếu uống hết thì phải dùng nước hồ cá chứa trong bể thôi. Chuyện thường.

Bây giờ là đến lượt pha trà.

Đức cụt vô cùng tài hoa trong chuyện này. Trong hộp cho phép hút thuốc nhưng không cho mang lửa vào. Cho phép uống trà nhưng không cho phép đun nấu.

Đức cụt lấy ra một mảnh vải chăn nhỏ bằng bàn tay để ở góc khuất dưới nền xi măng. Một tay hắn cầm cái lưỡi lam được dấu kỹ trong thân dép ra, tay kia cầm nhúm bông. Hắn cà quẹt cả nửa giờ cái lưỡi lam ấy vào thành xi măng cho đến khi lửa bật ra, bén vào nhúm bông. Anh Vinh, đưa bao ni lông cho em. Đức cầm bao ni lông, châm vào nhúm lửa nhỏ. Lửa cháy bao ni lông, từng giọt nhựa nóng mang cả lửa chảy xuống miếng vải chăn. Một lúc sau, nhựa ni lông cuộn chặt vào miếng vải chăn, nghi nghút cháy thành ánh lửa xanh lét. Đức cụt cầm bao ni lông đựng nước, hong trên ngọn lửa. Tôi ngố ra nhìn. Lạ. Bao ni lông đựng nước đặt trên lửa nhưng không những bao ni lông đựng nước không cháy mà một lúc nước lại sôi sùng sục. Đức cụt  cười khùng khục. Hắn nhanh tay cho nước vào bát đã có sẵn chè. Thế là xong. Hai anh em châm thuốc, uống trà nóng, khoan khoái.

Đức cụt còn rút từng sợi bông ở cái chăn chiên cũ rách, rồi nối nhau rất dài, yêu cầu tôi vắt sợi dây bông khắp phòng giam. Đức cụt châm lửa vào một đầu sợi bông. Lửa ngún cháy, rất chậm, cháy dần dần. Một sợi dây chăn như thế có thể ngún cháy cả ngày. Đấy là mồi lửa cho chúng tôi hút thuốc.

Trà lá xong xuôi, chẳng có việc gì nữa. Đức cụt ra lệnh: Hôm nay đếm kiến. Đếm kiến à? Dạ. Anh đếm đàn kia. Em đếm đàn này.

Đàn kiến nâu của tôi chạy ngang qua phòng giam. Đàn kiến của Đức cụt chạy dọc theo thành bệ xi măng làm giường. Hai anh em chăm chú đếm. Độ

hơn một giờ. Đức cụt cười: Em được 8 ngàn 12 con. Của anh mấy? 9 ngàn 24 con.

Hai anh em nằm vật ra bệ xi măng, thở. Em tẩm quất cho. Đức cụt lăn xả lên người tôi. Cái chân cụt đặt gọn trên lưng, hai tay hắn vỗ bôm bốp. Rồi hắn xoa, đấm, véo, giật vô cùng chuyên nghiệp.

Còn hơn một giờ nữa mới đến giờ ăn cơm.

Đức cụt thấy tôi nằm thừ ra, buồn. Hắn cố nghĩ một trò chơi nào nữa...

Tôi quay sang hỏi:- Mày thành án rồi, sao lại ở hộp. Đáng lẽ thành án thì ra ngoài chứ?. Đức cười: Cán bộ nói em cụt, thành án thì cũng chẳng làm được gì. Cho vào hộp luôn. Tôi im lặng. Nhưng ở với anh, ăn uống thoải mái thế này, em thích ở mãi. Án em 9 năm cơ mà. Em sợ ngày anh về... Tôi trừng mắt. Đức cụt im lặng.

Ăn trưa. Bốn thằng phạm nhân khiêng một cái chảo cơm to và một chảo canh. Một thằng xách theo một thùng nước uống. Bọn tôi chìa ra hai cái tô. Vục hai vục vào nồi, tôi mang cơm vào. Đức cụt soạn thức ăn ra. Hắn ăn say mê như ăn tiệc. Nhà em mỗi năm vào ngày tết mới có thịt. Trong hộp, ăn với anh, ngày nào cũng tết. Sướng. Thôi im đi mày, lúc đéo nào cũng sướng. Hì hì.

Ngủ.

2 giờ chiều.

Đức cụt tay cầm cái chăn chiên rách. Anh ẩn em lên nhé. Tôi cồng kênh Đức cụt lên cao. Hai tay hắn bấu lấy thanh sắt ở ô gió phòng giam. Rất thành thục, hắn lòn cái chăn rách qua những thanh sắt ô gió và treo người lủng lẳng bên cạnh ô gió. Tôi ngồi ngóng mặt chờ đợi. Đức cụt dán mắt nhìn qua khe cửa ô gió, miệng liến thoắng:

-Ui anh ơi...Hi hi...Anh mà nhìn được thì hay lắm. Địt mẹ một em đang đi chợ, gánh một gánh rau, rồi em đang ngồi xuống đái, đít rất trắng. Đít con này trắng hơn đít vợ em.

-Còn gì nữa không?

-Một con bò cái đang đi. Con này sắp đẻ, bụng to lắm. Ùi. Có một tốp các em thanh niên...Đi đâu thế các em ơi...

-Còn gì nữa.

-A ha...Hai con chó đang...

-Thôi đi. Nhìn chỗ khác đi.

-Không có chi nữa. Hôm nay vắng quá anh ạ.

Im lặng.

Đức cụt ngày nào cũng treo người lên như thế, nhìn ra bên ngoài, thấy gì cũng reo lên mừng rỡ. Hắn cứ treo người như vậy cho đến lúc sẩm tối, không thấy gì nữa mới tụt người xuống.

Ăn cơm chiều xong thì cũng sẩm tối. Sẩm tối là nói cho lịch sự, chứ trong hộp đã tối đen rồi. Cái tối trong hộp nó đặc sánh, tối như thể người ta dồn cả ngàn đêm tối lại, nấu thành cao, nên bây giờ, cái tối nó nặng lắm, khủng khiếp lắm, dai dẳng lắm, tôi cảm tưởng như tôi đang bị nén chặt, ép xác trong màu đen kịt tởm lợm.

Tâm sự.

Đức cụt ngồi trên đầu tôi. Cái chân cụt của hắn chòi ra, chui xuống dưới đầu tôi. Tôi quen, coi cái chân cụt của thằng Đức như cái gối mềm.

Mày ở hộp hai năm rồi cơ à. Dạ. Tạm giam 4 tháng. Thành án ở tiếp thêm 20 tháng thì anh vô. Sợ nhỉ. Hai năm là 720 ngày. Dạ không. Chỉ có 24 thôi. 24 gì? Anh tính ngày, em tính tháng nên nhanh lắm. Em ở được 24 tháng chứ mấy, có chi lâu. Tháng thì cũng phải bắt đầu từ ngày, thằng ngu. Hì hì. Ngu chi tính ngày cho lâu. Tính tháng đi anh. Mỗi tháng vợ em lên thăm em một lần. Khi thành án, họ cho em ra gặp vợ một đêm liền ở ngoài khu thăm nuôi. Hai năm gặp 24 lần. Nhanh lắm. Cho gặp vợ một đêm cơ à? Dạ. Mỗi tháng một đêm. Đêm nớ, hì hì, em làm 3 nhát, đến nhát thứ 4 đuối, nhưng nghĩ, còn đến 1 tháng nữa mới gặp, thôi, gắng. Vợ em sợ em kiệt sức ẩy người ra. Anh đừng nữa, anh chết trên người em thì răng? Em trợn mắt. A. Cô coi thường tôi quá nhỉ. Công an đã coi thường tôi, đến cô cũng coi thường à. Vợ tôi im lặng kéo tôi vào.  Hì hì. Mỗi lần lên thăm, vợ mang gì cho mày? Dạ mắm cà. Một gói thuốc lá sợi. Vài cuốn sách cũ xin của hàng xóm vì em thích đọc sách. Sách anh cũng là do vợ em mang vô. Giam trong này, ăn khổ thế sao mày vẫn khoẻ. Dạ em xin phạm nhân trong phòng tí thịt, tí cá, đổi lại, đêm em tẩm quất cho họ. Vợ em nói, đi xem bói. thầy nói năm nay số em vượng phát, có quý nhân phù trợ, ăn nên làm ra, phúc lộc đầy đủ. Đang ở tù, phúc lộc cái gì mày? Dạ. Thầy nói đúng đấy chứ. Thì năm nay gặp anh đây này, ăn uống đầy đủ, không phúc lộc là chi nữa anh. Mơ ước lớn nhất đời em là được ăn uống thật sướng. Nay thì bữa nào cũng cá, thịt, rồi hộp thịt, rồi thuốc lá thơm, rồi trà ngon, rồi còn được ăn sáng, đêm đói được ăn. Phúc lộc quá chi nữa anh. Tôi vít lấy đầu Đức cụt, xoa xít, mắt thấy cay cay. Tuần tới là vợ mày lên thăm đấy. Dạ. Đợt này em sẽ làm được 4 nhát đàng hoàng. Sao vậy? Vì có anh, em ăn uống ngon lắm, nên khoẻ. Em sẽ khoe với vợ em là đang được ở với anh. Khoe làm cứt gì. Úi. Anh đừng khiêm tốn. Mấy khi được gặp nhà văn các anh. Nay được ở chung hộp, như mơ. Hì hì. Mày trù tao ở suốt đây à? Nhục nhã mày biết không? Đức cụt cúi xuống sát người tôi. Anh vào hộp hơn hai tháng mà da thịt vẫn thơm như người đời. Thôi im đi mày.

Im lặng.

Hát anh hè.

Lại hát. Đêm nào cũng hát. Những phòng giam bên cạnh cũng bắt đầu hát, ngâm thơ, cải lương, cười phe phé.

Đức cụt cầm cái chân giả, cầm cái muỗng, gỗ lóc cốc vào chân giả và hát, người hắn rung lên theo mỗi câu ca.

Nghe chán, tôi cũng vùng dậy hát.

Rồi cả hai thằng cùng đứng lên. Nào song ca. Sau đây đôi song ca giọng nam cao quyện chặt với giọng nam lùn xin phép trình bày một ca khúc rất dễ thương của nhạc sỹ Thuận Yến, ca khúc Hương Tràm. Cốc cốc cốc. Đức cụt hát tốt. Hắn dựa người vào tôi, cái chân cụt thọc vào thắt lưng của tôi. Tay cầm cái chân giả lên gõ lốc cốc. Hát một lúc rồi bỗng quên mình là ai, quên mình đang ở hộp, quên hết, chỉ muốn gào lên, hét lên, ngân nga lên để chiến đấu với đêm tối.

Thằng nào có thuốc cho xin điếu.

Tiếng công an bảo vệ trại giam vang ở bên ngoài phòng giam.

Đức cụt hét, có đây, có đây.

Đức cụt xin tôi điếu thuốc, rồi nhờ tôi nâng hắn lên, hắn ném điếu thuốc qua ô gió.

Nghe tiếng nói bên ngoài: Địt mẹ mấy thằng tù, nằm hộp hút toàn thuốc thơm. Địt mẹ chúng mày.

Tôi cau mặt. Đức cụt an ủi. Anh đừng buồn. Người ngoài nói với người trong hộp giam như anh em mình phải địt mẹ một cái thế mới sướng miệng.

Nhưng tao không phải là thằng tù. Tao không có tội.

Đức cụt cười hì hì. Anh nói vậy, cán bộ nghe được lại chửi: Địt mẹ mày. Mày muốn có tội thì chúng tao cho mày có tội, hiểu chưa?

Bất công. Tôi gằm mặt xuống. Đức cụt thả vào bóng đêm một câu tôi không bao giờ quên: Sinh ra nhà tù là để nuôi dưỡng bất công mà anh.

Mày nghĩ ra câu này à?

Dạ đâu. Em nghĩ ra được câu này em quá giỏi, em làm trưởng thôn từ lâu.

Thế của ai?

Tháng trước, có con đĩ nó bị bắt, nói thế.

Vì sao nó nói thế?

Nó bảo, nó chính xác là con đĩ, thế mà cán bộ lại bảo nó giả vờ nói con  đĩ để tránh tội buôn hàng lậu. Nó thấy oan. Nó thấy ép tội nó buôn lậu là bất công. Vì nó khẳng định nó là con đĩ thật mà không ai tin lời khai của nó, cứ ép tội nó là tội buôn lậu, xử tù. Vì nếu là con đĩ thì ai đi xử tù con đĩ. Chuyện xảy ra ở tỉnh này à? Không. Mấy thằng tù trước kể. Hết án, con đĩ kia viết một dòng vào giấy đưa cho giám thị: Nhà tù các ông là nơi nuôi dưỡng sự bất công. Ông giám thị điên tiết chửi. Địt mẹ mày. Con đĩ kia dạng chân. Này. Tôi nói cho ông biết, tôi đã là người tự do, tôi là công dân, ông là công an mà dám địt mẹ công dân à. Xin lỗi tôi đi.

Tôi phì cười. Mày bịa đặt.

MẤT MỘT BỮA LÒNG -TIẾP



...Mạ tôi đang đun nước sôi để luộc lòng. Anh Lập đang ngủ. Thực ra tôi biết thừa là anh Lập thức rồi, nhưng anh tôi có tính thế, biết là thèm lắm nhưng ra vẻ cóc cần với lý luận:-Lòng lợn chỉ cần cho ta khi và chỉ khi có người mang đến biếu. Còn không nên hệ lụy, nịnh bợ ông cửa hàng trưởng chỉ để mua được vài cân lòng. Khi và chỉ khi như vậy.


Còn tôi thì không thể đợi khi và chỉ khi. Tôi nhảy tót xuống bếp. Ngồi cạnh ba tôi. Ba tôi thả đống lòng vào chậu, tìm bới trong thau nước đỏ lòm máu rồi kêu lên:- Ơ kìa. Sao không có lấy chút gan, chút cật, toàn lòng già thế này. Mạ tôi nói:- Mình nhờ người ta, người ta mua cho cái gì thì chịu cái đó thôi. Lão cửa hàng trưởng này ham lắn, lão cứ lợi dụng mua hộ để ăn bớt.


Ba tôi im lặng, nhưng mắt ông rất buồn.
Mờ sáng. Mạ tôi đã luộc lòng xong. Hôm nay tôi sẽ được ăn một bữa lòng nhức răng. Tôi sướng ra mặt. Nuốt nước miếng mãi. Mùi lòng luộc bốc lên thơm nưng nức.
Mạ tôi còn nấu thêm nồi cháo nữa.
Cả nhà đang chuẩn bị dọn ăn thì nghe tiếng cười nói xôn xao. Nhìn ra, bốn năm người cùng quê tôi bước vào.
Ba tôi chào họ niềm nở, tay bắt mặt mừng. Mạ tôi cũng niềm nở:- Mấy bác mới lên. Đã ăn uống gì chưa?
Một người trong số họ hân hoan:
-Dạ chưa. Bọn em đi dân công hỏa tuyến, tiện đường ghé thăm anh chị, cũng chưa ăn uống gì. Chị nấu chào lòng dấy à. Em ngửi mùi là biết ngay cháo lòng. Ba năm nay chưa biết chào lòng là chi.
Một người khác:
-Chị nấu chào lòng chắc ngon lắm. Nào các ông, ngồi xuống ăn chút chào rồi đi nào.
Mạ tôi chưa kịp múc cháo dành riêng cho tôi và anh Lập thì chỉ một lúc sau, mấy người đàn ông cùng quê ăn hết. Niềm hy vọng cuối cùng là ở đĩa lòng luộc nhưng không ngờ họ cũng ăn xong.
Xong, tất cảt niềm nở chào ba mạ tôi lên đường nói là " bọn em đi bảo vệ Tổ Quốc", lại còn vuốt đầu tôi:-Cu Vinh phải học giỏi, phải là cháu ngoan Bác Hồ nhé.
Họ đi. Tôi lao vào nhà. Mồi cháo hết sạch. Đĩa lòng hết sạch.
Tôi òa lên khóc. Anh Lập đi thấng ra ngõ không nói gì. Ba tôi kéo tôi vào lòng vỗ vỗ vào đầu. Mạ tôi ngồi cô độc trước mâm cháo sạch bóng.
Tôi bỗng gào lên:- Sau này lớn lên, con sẽ phấn đấu làm cửa hàng trưởng cửa hàng bán thịt ba ạ.
Anh Lập nhào vào ủng hộ:
-Khi và chỉ khi như vậy thì nỗi thèm khát ăn lòng lợn của nhà ta mới thực hiện một cách an toàn mà không còn sợ khách đến chơi nhà như hồi nay

BỚI CÁT LẤY CƠM



      Nhà tôi sơ tán ở làng Đông. Sau lưng làng là động cát. Trên cát là rừng trâm bầu. Trong rừng trâm bầu là một trận địa pháo của bộ đội. Hồi ấy cực lắm. Nhà tôi ăn toàn khoai, ăn cả cám, ăn cả xương rồng luộc. Cơm trắng là điều gì đó cao cả, sang trọng chất ngất mà bọn trẻ chúng tôi ngày đêm ao ước. Nhưng một hôm, tôi lân la chơi gần đơn vị các chú bộ đội. Giờ ăn cơm. Các chú ngồi quanh mâm cơm, cơm trắng. Tôi nuốt nước miếng. Ăn xong, còn thừa cơm, tôi thấy một chú bộ đội bưng cơm đi xa lên cát, đào cát chôn. Tôi chạy về hỏi ba tôi. Ba tôi giải thích:" Thừa cơm cũng phải chôn con ạ. Vì trong khi nhân dân đang khổ cực, không được phép cho nhân dân biết bộ đội ăn thừa cơm được. Thừa cơm cũng không được cho nhân dân, phải chôn để giữ quan điểm". Tôi không biết trong cụm từ nhân dân ba tôi nói có tôi và Lập không. Nhưng cơm chôn trong cát thì tiếc quá. Tôi thì thầm với Lập. Lập " thế à?" rồi kéo tôi chạy. Hai anh em rón rén đi rồi bò đến gần chỗ các chú bộ đội chôn cơm. Chúng tôi đào cơm lên. Hai thằng sướng hú mắt. Gạt cát một cách sơ sài, hai thằng chia nhau ăn, ăn no kềnh. Tôi nói:" Cơm ngon thiệt. Răng bộ đội lại được ăn cơm trắng?". Lập giải thích:" Ăn cơm trắng mới bắn rơi máy bay". Gần 6 tháng như vậy, hai anh em chuyên ăn cơm đào trong cát của bộ đội. Hai thằng béo tốt ra. Các chú bộ đội ăn cơm trắng như vậy nhưng tôi không thấy bắn rơi máy bay. Rồi một ngày tôi đi học về, anh Lập nói buồn rầu:" Từ nay tao và mi không được ăn cơm trắng nữa". Tôi hoảng hốt:" Răng rứa?"-"Máy bay vừa thả bom, các chú bộ đội chết hết rồi"-"Răng các chú ăn cơm trắng cả ngày mà không bắn rơi máy bay, lại để máy bay đến thả bom giết mình?". Lập cáu:" Hỏi ngu rứa? Hỏi rứa thì tau trả lời răng được?". Tôi ngơ ngác:" Anh nói ăn nhiều cơm trắng sẽ giỏi, sẽ thông minh, sẽ thành nhà văn mà, sao anh không trả lời được". Anh Lập đá chân vào cái nồi rách nhà tôi để chỏng chơ trên cát văng tục:" Nhà văn... Cặc".

TRỘM CÁ



Sau nhà tôi ở làng Đông, trên cát, có cái chợ làng. Nói là chợ làng nhưng gần tết rất đông người. Mạ tôi bán cháo bánh canh. Ngày gần tết này, cháo bán hết sạch. Nhưng ngày thường, ít ai ăn, thừa nửa nồi, cả nhà xúm lại ăn. Những ngày đó tôi no. Dù mạ tôi bán ế buồn, nhưng tôi thích mạ bán ế, bán ế thì tôi no.



Ngày gần tết tôi hay lân la ra chợ. Anh Lập nói:" Mi ra kiếm mấy quả pháo đốt. Kiếm cá nướng ăn". Tôi hỏi:" Sao anh không đi ăn trộm cá và pháo, răng bắt tui đi?". Lập cáu:" Tau sắp kết nạp đoàn". Tôi ra chợ, ngồi gần mấy o bán cá. Tôi khèo tay lấy được ba con cá trích, chôn ngay xuống cát. Lại sang chỗ bán pháo tép, khèo được mấy quả pháo tép bỏ vào túi. Sẩm tối, Lập đi học về tìm tôi:" Răng?". Tôi hỏi:" Răng là răng?". Lập thì thầm thì thầm thì thầm. Tôi kéo Lập ra sau động cát. Bới lên ba con cá trích. Lập hô:" Nướng. Tau có mang muối đây. Thèm cá hè?". Tôi hỏi:" Răng mạ không mua cá cho anh em mình ăn?". Lập nói:" Muốn mua được cá phải có 2 điều kiện. Một là, khi và chỉ khi có tiền nhiều. Hai là, khi và chỉ khi nhà mình làm được cá".

Hai thằng nướng cá ăn. Cá cháy trong lửa, thơm lắm. Tôi cúi xuống thổi lửa. Mấy viên pháo tép rơi ra, gặp lửa nổ đì đùm. Mũi tôi bị lửa bắn lên, toét máu, sưng vù. Tôi ôm mũi khóc. Lập nhìn tôi lại nhìn ba con cá nướng thơm phức, nói:" Mi bị pháo nổ toét mũi, đau rồi, để cá tau ăn nhé". Tôi vừa khóc vừa gật gật đầu.

BẮT HỦ HÓA


Thời tôi học lớp 4, ở làng Đông thấy rộ lên phong trào dân quân đi bắt các đôi nam nữ hủ hóa. Anh Lập và tôi rất hào hứng chuyện này. Anh Lập hào hứng vì muốn biết hủ hóa như thế nào, muốn biết thằng đàn ông đè dí người đàn bà ra làm sao. Anh Lập nói, tao phải biết để sau này tao làm nhà văn. Tôi thì háo danh, muốn tận tay bắt quả tang một vụ hủ hóa để được cô giáo hiệu trưởng nêu gương dưới cờ vào sáng thứ 2. Nghe tôi nói thế, anh Lập hằm hằm:" Mi thích biểu dương thế, sau này mi sẽ Đảng viên". Tôi hỏi:" Đảng viên là răng?". Lập nói:" Tao cũng đéo biết. Nhưng làng mình ai lớn lên cũng đua nhau vô đảng. Chắc là rất hay. Khi mô lớn, tao và mi sẽ vô đảng nhé". Tôi sướng lắm. Nhưng bây giờ thì kể chuyện đi bắt hủ hóa đã.

Rình rập mãi cũng bắt gặp được một vụ. Tôi phát hiện đầu tiên. Tôi định lao lên hô hoán thì anh Lập giữ tay lại:" Ngu. Hai người đó đang ngồi tâm sự thì mắc chi mà hô hoán?". Tôi tròn mắt:" Chớ đàn ông ngồi cạnh đàn bà là được mà". Lập giải thích:" Thằng ngu. Nghe đây. Hủ hóa là gì? Một. Là khi và chỉ khi con cặc của người đàn ông đâm vào bướm đàn bà. Hai. Khi và chỉ khi, người đàn ông và người đàn không phải vợ chồng, không phải đã xin ý kiến chi bộ để được yêu nhau mà họ vẫn đâm vào nhau thì mới gọi là hủ hóa, mới bắt". Phức tạp. Nhưng vì để được cô giáo khen tôi lại phải nhớ trong đầu lời Lập " khi và chỉ khi...".

Anh Lập kéo tôi nằm xuống trên một đống cỏ. Nín thở. Anh Lập không cần bắt, chỉ cần nhìn thấy người đàn ông đâm người đàn bà như thế nào để biết sau này làm nhà văn. Còn tôi thì hau háu với thành tích. Cách chúng tôi khoảng 3 mét, đôi nam nữ vẫn ngồi bên nhau, rì rầm nói chuyện. Anh Lập yêu cầu tôi nằm im. Tôi thấy ở bụng mình ươn ướt. Hóa ra chúng tôi đang nằm trên bãi cứt. Tôi thì thần:" Chết. Cứt". Anh Lập thì thầm:" Biết rồi. Khả năng thằng kia sau khi ỉa xong thì bắt đầu tâm sự với cô này". Lâu quá. Gần một giờ sau thì tôi nghe oạch một cái. Người đàn ông đè người đàn bà lên cát. Tôi nói nhỏ:" Bắt ". Lập cản lại:" Thằng này. Chưa đâu. Giai đoạn 1 thôi. Khi nào thấy áo quần cởi ra thì lúc ấy mới...". Tôi nghe tiếng cô gái kêu lện một tiếng. Lại nghe tiếng hực. Rồi hai người nhấp nhổm trong ánh sáng mờ trên cát. Anh Lập dán mắt nhìn lẩm bẩm:" Đéo mẹ. Sao không ai cởi áo quần?". Ba mươi phút sau, nghe tiếng họ cười. Cả hai dắt tay nhau đi. Hai anh em nhìn nhau. Lập nói:" Sao vậy?". Tôi không biết. Sau này, mãi sau này, khi Lập thành nhà văn, Lập nói:" Hồi đó tao và mày ngu. Thằng cha đó nó không cần cởi áo quần, nó chỉ thò con chim của nó ra đâm thôi. Ngu thật". Tôi hỏi:" Sao anh biết. Anh cũng làm thế rồi à?". Lập ấp úng:" Nói chung là, khi cần thì vẫn phải thế. Chim mình như khẩu súng, lúc công khai, lúc bí mật, miễn là tiêu diệt được quân thù...". Tôi im.

Lòng lợn Liên Xô

Thời bao cấp, thịt lợn là mặt hàng do Nhà nước quản lý và phân phối qua tem phiếu. Theo tiêu chuẩn đầu người hàng tháng thì “thịt nhân dân” được 2 lạng, “thịt trẻ em” khá hơn được 3 lạng, riêng “thịt cán bộ” thơm nhất được 3 - 4 lạng cơ!

Vì quá ít ỏi, nên gia đình nào cũng muốn mua được mỡ để xào nấu trong 30 ngày, chứ chả ai muốn lấy nạc, chỉ tắc lẻm một bữa là xong, ăn chay cả tháng thì cực lắm. Hồi ấy, xếp hàng chen nhau rách hết áo, nhưng mua được mỡ lá (mỡ sa) thì vẫn mừng như trúng độc đắc. Ngặt một nỗi, ngày ấy ở miền Bắc chỉ có giống lợn ta nhỏ con, thịt tuy ngon nhưng mỡ ít nạc nhiều, nên mỡ càng trở thành hàng xa xỉ phẩm.

Khoảng cuối thập niên 60, lần đầu tiên xuất hiện giống lợn lai kinh tế có mỡ dày cả tấc, khiến bà con rất phấn khởi. Do không biết xuất xứ của giống đại bạch này, dân ta cứ gọi đó là “lợn Liên Xô”. Thời này hàng ngoại hiếm hoi, mà chủ yếu là hàng xã hội chủ nghĩa, nên “lợn Liên Xô” cũng như dây may-so, bàn là, quạt tai voi, nồi áp suất... cứ được coi là “nhất thế giới”.

Theo thông lệ, tháng Tết tiêu chuẩn thịt được gấp đôi, nên nhà tôi sẽ được trên 2 cân. Đêm hôm trước, mẹ tôi cứ dặn đi dặn lại rằng cố mua được giò thủ vừa có thịt nọng để gói bánh chưng, nhưng đặc sắc nhất là được tính bằng 2,5 loại thịt thường. Kể ra, lợi nhất phải kể đến ruột non, được tính gấp 4 lần cơ! Tuy nhiên, người lớn không ham vì lòng lợn không thể dùng để cúng tổ tiên ông bà trong ngày Tết được.

Riêng lũ con nít chúng tôi thì thấy cháo lòng cũng ngon chẳng kém bánh chưng, chứ đâu có biết điều cấm kỵ này. Tết năm ấy, do có “lợn Liên Xô” nên xếp hàng như rồng rắn, chẳng may khi tới lượt tôi thì mỡ hết sạch, muốn mua cả cái thủ thì không đủ tiêu chuẩn, thủ Liên Xô nặng gần chục cân chứ đâu có ít.

Thời may, thằng bé đứng trước tôi cũng chung hoàn cảnh, nên cô bán hàng gợi ý hai thằng mua chung cái thủ. Phần tôi còn dư tiêu chuẩn muốn chọn gì thì chọn. Ánh mắt tôi bỗng chạm vào đống ruột non, đồng thời với con số gấp 4 nhảy múa trong đầu.

“Quí hồ đa bất quí hồ tinh”

, còn chờ gì nữa? Bưng rổ lòng đầy ắp trên tay mà lòng tôi như mở cờ trong bụng, chứ có biết đâu gần 5 cân lòng lợn này đang là tai họa chờ sẵn ở nhà. Ai mà biết được các cụ không thích lòng của con cháu trong dịp Tết chứ?

Lỗi không phải tại tôi, tại khi lập trình, mẹ đã không lường đến tình huống tham ăn của thằng con. Việc chia cái thủ làm 5 cũng khá khó khăn (nhà kia 3 phần, nhà tôi 2 phần) vì óc và lưỡi heo cũng phải chia cho đều, nhưng rốt cũng xong. Chỉ còn rổ lòng... Chà biết tính làm sao? Bỗng mẹ tôi nảy ra một ý...

Thế là người tất tả bưng đi khắp hàng xóm để quảng cáo cho lòng lợn Liên Xô:

“Con lợn có béo cỗ lòng mới ngon! Lòng ta đã ngon thì lòng Liên Xô phải biết bà ạ! Cứ gọi là giòn sừn sựt...”.

May quá, kết quả cuối cùng, người cũng đem về gần cân thịt và nửa cân lòng ế “để nhà đánh chén”.

Ngày 30 Tết năm ấy, chúng tôi được thưởng thức bữa lòng chay ngon nhất trên đời, và chỉ mãi sau này khi “đối chứng”, tôi mới biết lòng lợn Liên Xô thua lòng lợn ta cả thước. Dẫu sao thì lòng Liên Xô cũng vẫn đi vào kỷ niệm của một thời tem phiếu

CÂY MẬT GẤU

Sáng  nay, Vũ Văn Minh ở tít rừng Cát Tiên (Lâm Đồng ) điện thoại cho mình hỏi: ”Anh có biết cây bá bệnh không?”. Mình trả lời: Không? Chỉ biết cây lược vàng chữa bá bệnh .Minh bảo: không? Cây lược vàng em biết rồi , nhưng cây này không phải là Lược vàng.Nó còn có tên là cây mật nhân.nó có màu vàng, củ nó to lắm .dùng để ngâm rượu hoặc pha nước chữa được nhiều bệnh lắm ! Mình nghe thằng Minh nói thì  đoán là cây mật gấu.Thằng Minh “ Ờ! Ờ! Có  lẽ thế đó!”

Nói đến cây mật gấu mình, Mình chợt nhớ tới một vài chuyện vui xung quanh cái loại cây đắng như mật chó này. Cách đây khoảng hơn mười năm. Hồi đó,  mình mới vào làng báo. Tính mình ưa nhậu nhẹt, nên hay tổ chức chương trình: ”GẶP NHAU CUỐI TUẦN”, mời bạn bè ở phố về ‘thi đấu trên chiếu rượu làng ở xứ Đoài. Hồi đó,mình tuổi 30  mà ngỡ  như trẻ thơ. Sống vô tư không mộng mơ nhiều, chỉ thích uống rượu cùng bạn bè mà nói chuyện vui ở làng. Tỷ như trong chiếu rượu bọn mình đều gật gù ytans dương nhau: Làng anh ,làng tôi cùng giống nhỉ có lũy tre xanh có con chim xanh ,có mái nhà tranh.có người cày cấy nuôi tôi và anh….Chán thì quay ra khích bác nhau, cho tiệc rượu thêm vui vẻ đại loại: Làng ông thì giỏi nhất Việt Nam rồi. Có hẳn…  Cua đẻ ra Người thế mới tài. Nghe bạn  bè “kích đểu”.Mình ngẩn tò te  mãi mới nhớ ra ngày xưa thôn Liên Trì (Ao Sen ) cạnh làng mình . có Cô gái tên Dương thị Cua  hoang thai đến lúc ra trạm y tế   sinh nở bọn trẻ con chạy đi xem đông vui như trẩy hội .Chúng nó reo hò :Chúng mày ơi ! Đi xem Cua đẻ ra Người . He he cả tiệc rượu cười  như  nghé.

Hay tổ chức tiệc rượu, Thứ Bảy chủ Nhật nào về quê, mình cũng nghĩ ra nhiều chiêu trò. Mình thích sưu tầm ếch nhái chẳng chuộc(Mình hay gọi là Diệt ngố ,vì thằng ấyở làng  cũng gầy như.. chẳng chuộc), thịt thỏ, gà nướng ống nứa .Ngan vịt giả cầy .Thôi thì đủ thứ .Rượu thì phải kiếm một chum thả vào đó đủ các loại cây cỏ mà thiên hạ bảo là bổ béo,tăng cường sinh lực  như: Xuyên khung, Hành sâm, Dâm dương hoắc, hoặc Đinh Lăng(món Sâm Nam thần diệu)  .Một dạo mình nghe  thằng Văn Vỹ cán bộ Ban Trị sự của Báo Hà Tây giới thiệu cách làm món Gà già xào xả ớt với nước  cốt dừa.Về nhà, mình cũng “chém gió”chỉ đạo mấy em làm món Gà già xào xả ớt. Ngày đó ,mình còn trẻ,  uy tín  với  em út lắm,  nên nói gì các cô chú  cũng nhiệt tình ủng hộ lùng mua gà già bằng mọi giá. Mà cái giống gà cao tuổi ở quê mình nó rẻ , rất dai và ngon .Mình chỉ đạo làm theo món Gà  già xào xả ớt nước cốt dừa theo đúng công thức của Văn Vỹ  tiên sinh bày ra mà thơm ngon vô cùng. Ngày ấy,  ở  đầu đường  Cao tốc  Láng – Hòa Lạc(Bây giờ là Đại lộ Thăng long) các quán thịt thú rừng, đặc sản núi đồi  mọc ra nhiều  như quân Nguyên,  phomg trào nhậu thịt thú rừng đang ở độ …cao trào. Hồi đó, mình  làm ở Ban chống tiêu cực (Ban Bạn đọc và Pháp luật – Báo Hà Tây) đi công tác,hay được cơ sở mời đi nhậu,mình chỉ thích nhậu thịt thú rừng. vì nó có mùi thơm ngon rất đặc trưng.Thịt gà già xào xả ớt được lọc hết xương thịt thái con chì nấu theo công thức của giáo sư Văn Vỹ  nó cũng  mùi  rất… thú rừng. Một hôm, thằng Kiều Đình Thúc ở làng Vĩnh  bạn học hồi phổ thông  với mình vào chơi .Mình rót một ly rượu “50 năm ngâm trên  ,trời nửa thế kỷ ủ đưới đất “.(Mình hay thích dùng những cái  slogan với rượu và các món nhậu thế cho oách) cho thằng Thúc nhậu với món gà cao tuổi xào xả ớt .Thằng Thúc hỏi rượu gì? .Mình bảo rượu ngon , rượu  Tây  gọi bằng… cha nuôi đấy.Thằng Thúc làm một phát trăm trăm phần trăm  và đưa cay, lại hỏi thịt này là thịt gì ?Mình trả lời thịt thú rừng đấy ngon không? Thằng Thúc ăn rón rén như nhan sắc  nghe ngóng và hỏi :Mùi vị thì   thơm như thịt thú rừng nhưng đích thị là con gì hả ông? Mình cười :Ông cứ nhậu và biết đó là thịt thú rừng ghi trong sách đỏ đang trong bờ vực thẳm của sự tuyệt chủng. Nhà nước cấm tiệt Có thằng Tiêu cực nó  biếu tôi là nhà báo .Thằng Thúc tưởng là thịt thú rừng quý hiếm có trong sách đỏ cũng không dám ăn uống tích cực nó không dám ở lại nhậu cùng  bạn bè mình chỉ bắt tay  lắc lắc:”ÔNg thế mà sướng tôi tự hào vì là bạn ông đấy”.Đủ rồi nhiều người bảo thế mà! He he..

Mình cứ lấy cái danh nhà báo  có mấy thằng tiêu cực nó biếu mà  “ chém  gió’ đến nỗi  cán bộ xã và huyện tin sái cổ.Hôm mình  đi công tác về thấy trên đường bán món da trâu .Mình khoái nhậu cái con “tờ lu” này  vì da nó rất dai .Thứ Bảy  gọi bạn làm việc ở xã ở huyện về nhà nhậumón lạ. Để cho bữa tiệc trở nên long trọng và nâng cao giá trị một cuộc văn hóa ẩm thực.Mình chém gió tưng  tửng: Hôm rồi, mình đi giải quyết  cái đơn tố cáo . Một thằng tiêu cực nó biếu  mình mấy cân chân voi mua được ở bản Đôn trong Tây nguyên. Lộc bất tận hưởng mình mời anh em bạn bè  chiến hữu đến thụ lộc với rượu AMAKông cũng ở trỏng cho vui. Từ thuở bé mình và bạn bè có thằng nào biết mùi vị của chân voi nó như thế nào? Nhưng nghe mình nói thế ai mà không tin cái thằng Nhà báo lùn tịt mà uy tín thì cao ngất ngưởng như mình, cứ đánh chén món da trâu được chân voi hóa.Có đứa bảo tưởng thịt voi nó phải dai lắm cơ chứ nó cũng gần giống da nghé nhẩy.Ấy! tôi phải ngâm lá thuốc của đồng bào dân tộc thiểu số mãi tận Tây Nguyên và ninh trong nồi áp suất nó mới bở đấy.mình cứ tự kỷ ám thị như vậy uống rượu quắc cần câu rồi Chính mình  cũng tưởng là mình có tiệc chân voi  hoành tráng thật, thế mới lạ chứ lỵ

Anh họ mình , hắn tên là Hoàng Loan  bảo :”Thằng ngắn này (thằng lùn)học nhiều đi lắm  biết nhiều của ngon vật lạ . Mình cũng   tự kỷ ám thị chém gió với ông anh họ cho nó oách: “Của ngon thì không nhiều,nhưng vật lạ thì thằng em cũng đã  biết. Em sang bên Trung Quốc  gặp một con ca ve gậm bệ cũng cao ráo,.tưởng con vật Trung hoa ấy nó là giống lạ.  Thật ra, nó  cũng chẳng khác gì gái Việt Nam mình. Mình và nó  tiếng của nhau  thì không biết chỉ có các động tác trên giường thì ở đâu cũng hiểu nhau. Nó xí xổm thì mình cũng xia xỉa lại nó và cười .Thậm chí mình còn chửi nó :Mẹ cha con đĩ ông cha mày đô hộ dân tộc bố cả một nghìn năm .Nay bố   chỉ cần 100 tệ  là đô hộ mày cả một đêm để trả thù cho …Hai Bà Trưng. Con vật Trung quốc ấy nằm dưới nó cứ cười è è Hoàng  Loan ạ! Viết đến đây mình  nghĩ:”Giá bây giờ nó bạo lực ở Trường Sa. Đảng và Chính phủ ta đài thọ mỗi cán bộ  công nhân viên chức là đàn ông đôi ngàn Tệ ,sang Trung Quốc  mà đô hộ như mình thì có lẽ Ai ccũng tích cực bày tỏ lòng yêu nước, chứ chẳng khoanh tay đứng nhìn bđồng bào biểu tình … như mình.Còn lúc ấy,  Hoàng Loan nghe mình bốc phét thì  nhăn cái bộ răng rêu phong cổ kính  :”Ước gì được như thằng ngắn một đêm trả thù cho… Hai Bà Trưng thì khoái nhẩy”

Thực ra,  mình hay hài hước cứ thích chém gió cho nó vui những điều người khác giấu kín trong lòng.Văn Vỹ tiên sinh cùng cơ quan với mình cũng thích hài hước và long trọng hóa vấn đề.Nên nó mới  có chuyện về Cây mật gấu…

Hôm đám cưới nhà báo Tư Văn – Văn Thành. Bọn mình về Lại  Thượng(Thạch Thất – Hà Nội).Tiệc cưới xong thì kéo xuống nhà mình  chơi. Chẳng  mấy khi có  các bạn ở phố về làng, mình làm quả Chương trình  gặp nhau cuối tuần cho nó xôm tụ.

Mình kêu gọi bạn bè mua những con ngan,con vịt cao tuổi nhất làng về làm món chả cầy cho hoành tráng.Có được món nhậu thịt thú rừng trong sách đỏ rồi.  Cần phải có rượu ngon  đãi bạn bè.Quê mình thì xóm nhỏ,ngõ nhỏ, cả làng toàn…chó cắn áo rách. Mình chạy dọc làng không đâu kiếm được một chai rượu Tây.A! Cái khó ló cái khôn. Giá kể như bây giờ có  mấy cc mật gấu thì bữa rượu không những ngon lại sang mang đặc thù xứ Đoài quê ta . Thời điểm Văn Thành cưới vợ, những người đàn ông nhậu đang đánh giá rất cao món rượu mật gấu.Nhất là thời điểm ấy mật gấu  đang được coi là… của độc, chữa bá bệnh. Mình biết có nhà báo chức tước đầy mình uy tín lắm.Vậy  mà phải gây dựng mọi mối quan hệ mới lên được xóm Mỏ Gang ,Trạch Mỹ Lộc,huyện Phúc Thọ và phải  tài giỏi lắm nhà báo ấy  mới mua được 2cc mật gấu tươi đặc quánh,rồi thì nâng niu và khoe khoang tự hào  hơn vợ mới cưới. Lại có nhà báo suốt ngày chơi thân mời bia hơi một thằng cha là chủ trang trại nuôi gấu  ở Yên Nghĩa (Hà đông) để thỉnh thoảng nó tặng một vài cc mật gấu thứ thiệt về ngâm rượu cho vợ con có dính gai hay chăn con công  Trung Quốc rơi xuông chân thì để bóp cho nó ..thần dược.Chính vì cái mật gấu nó quý hiếm và đặc biệt như thế  nên thiên hạ chắc cũng giống mấy ông bạn người dân tộc nghĩ ra nhiều chiêu lắm trò:  Họ tìm được một loại cây ngâm rượu.  Cây đó phai ra cũng xanh lét và đắng liên ngâm bọ nẹt như… mật gấu tươi.

Thằng Đức Béo ,bạn mình, lúc đó là Phó phòng kinh doanh của Nhà máy cơ khí – (Bây giờ là giám đốc rồi) thuộc Coma 18 có bạn  làm bộ đội biên phòng ở Quảng Ninh biếu một khúc rễ cây mật gấu.Thắng Đức suốt ngày đi nhậu ở phố thịt chó,chẳng biết làm gì  nó thả vào hũ rượu 5 lít.Để lâu rượu đặc và đắng hơn mật gấu xịn.Hôm đó mình gọi ĐT cho thằng Đức mời về quê nhậu,dặn Đức  nhớ mang mấy cc mật gấu  về.Thằng Đức Ok liền.Nó phi xe từ Hà Đông về nhà mình  mang  hẳn một chai lavie nước cây mật gấu xanh lè.Mình lại có cơ hội “Chém gió”  với tbạn bè:  Đây là mật con gấu chó ở bên lào   đấy.quý lắmRồi mình đổ luôn chai Lavie nước cây mật gấu vào can rượu 10 lít .Ái chà! chát cha :Vàng xanh và đắng như mật gấu.Bạn bè nhìn can rượu  mà …ngưỡng mộ.Ai cũng uống nhiệt tình tích cực đến khuya.Sáng sớm hôm sau, mình nhờ Hoàng Loan mua  8,5 kg lòng lợn tiết canh.Nhìn mâm cỗ Hoàng Loan bày la liệt ra chiếu mình bảo :”Nhờ ông anh đi khua khoắng hết các chợ trong vùng mới được ít lòng lợn mời các bạn ăn sáng cho vui. Chẳng ngờ sau này,  Văn Vỹ tiên sinh ngồi trong tiệc rượu nào cũng “chém gió” về nhà mình ăn sáng hết một yến  lòng lợn và 10 lít rượu mật gấu.Nên nhớ ,trên phố một đĩa lòng Bán đắt bằng một yến lòng ở quê theo giá thành lúc bấy giờ,nên ai nghe cũng lắc đầu về cái sự hoành tráng …

Thực ra hôm đó,bọn mình uống rượu xong tuy có hơi bất nhẫn một chút nhưng mình cũng nói cho nó phản ánh chân thật:”Các con say mèm mình mẹ dọn mâm…

Bẵng đi bữa tiệc GẶP NHAU CUỐI TUẦN ấy cũng trôi qua được một số tuần.Một chủ nhật mình về quê.Buổi  trưa, đang uống chè tươi xem ti vi trông nhà cho mẹ mình đi thăm người ốm,chợt có một ông khách mang một bọc ni lon quà đến nhà nào đường sữa,bánh kẹo…   Anh ta đặt gói quà lên bàn và trịnh trọng:” Báo cáo bác , hôm rồi bà nhà em nếu không được tí ti cụ cho  thì  có khi nguy to .Của quý của bác đem về nên hiệu nghiệm như thuốc tiên! Em tát nước trượt chân ngã giập mông mà chỉ xoa bóp có tí ti mà khỏi ngay. Cũng may mình là người họ Hoàng nên  cụ nhà ta cũng chẳng hẹp hòi gì ,em nghe mọi người mách đến xin cụ là cụ cho ngay.Nay, em có chút quà đến cảm ơn cụ và bác.Mình nghe người đàn ông nói mà chẳng nghe ra thế nào? Tí ti là cái quái quỷ gì  mà hiệu nghiệm như thuốc của thần tiên Cứ ngẩn tò te,cho đến lúc người đàn ông ấy hỏi:”Em hỏi khí không phải!Bác đi công tác thế chắc người ta phải quý bác lắm nên mới biếu cái mật gấu thứ thiệt đó. Mình vẫn ù ù cạc cạc không nghe ra thế nào.Nhưng theo đà câu chuyện cũng cho qua gật gù theo sự tán dương của người đàn ông trong họ mà từ thuở bé đến giờ mình không biết mặt.Mình từ chối gói quà nhưng người đàn ông khẩn khoản :”Bác sợ lần sau em lại đến xin nên không dám nhận chứ gì cụ cho một ít em vẫn để dành,không dám nói cho ai biết họ lại đến xin cụ nhà ta.Đây là tấm lòng của vợ chồng em biết ơn cụ và bác thôi. Em biết mình là anh em họ cụ mới cho như vậy quý hóa quá chẳng tiền bạc nào mà mua được tình nghĩa anh em”.Mình đành lòng nhận gói quà ,đợi mẹ về hỏi ,mẹ mới nói:Hôm các anh ở cơ quan về uống rượu đổ cả cái mật gấu chó ở bên Lào vào can rượu.Mẹ thấy tiếc quá liền ăn trộm một ít cất đi ai bị ngã hay đau lưng mẹ cho người ta làm phúc .Nhưng phải công nhận mật gấu của anh  Đức Béo công hiệu lắm .Ai đau mẹ cho xoa bóp cũng khỏi và khen hiệu nghiệm.Mình cố nhịn cười không dám nói ra  với mẹ rượu cây mật gấu,không phải mật gấu chó bên Lào,Mình nói tào lao cho vui,  chỉ buột miệng đúng 2 từ: “ Bố khỉ! ”.

Đưa “võ sỹ”… lên đĩa

Cập nhật:

22/7/2010 07:23

Vốn xưa kia dế được biết đến trong trò “chọi” dân gian của trẻ nông thôn, rồi được nhà văn Tô Hoài hóa thân thành hình tượng ly kỳ trong tác phẩm nổi tiếng “Dế mèn phiêu lưu ký”. Còn ngày nay, những “võ sỹ” hoang dã này đã được thuần hóa thành vật nuôi thương phẩm, trở thành món khoái khẩu trong thực đơn của các nhà hàng.

Trong y học dân gian, dế được cho là có vị cay, tính bình, tác dụng lợi tiểu và chữa bệnh thở dốc, cổ trướng, sỏi thận… Ngày trước bà tôi thường bắt dế sấy khô tán nhỏ cất đi để làm thuốc dùng dần. Còn với tôi, dế đơn giản là những kẻ “côn đồ” hung hăng hiếu chiến, có cặp càng sắc lẹm, luôn ton tót như múa kiếm mỗi khi lên sàn đấu.



Bẵng đi bao nhiêu năm, ngỡ những câu chuyện về dế chỉ còn trong ký ức, cho đến ngày mới đây về quê đến thăm nhà Bình - một anh bạn trong đội “trẻ trâu” xưa, món dế lại gợi cho tôi nhớ lại tuổi thơ chan chứa kỷ niệm. Hôm ấy Bình toe hàm răng “dô”, xóc xóc chiếc thau nhựa khoe với tôi mẻ dế trũi béo nung núc vừa moi được ngoài chân đống rạ và nền… chuồng lợn cũ. Bình nói: “Đặc sản đấy, chỗ này được gần hai lạng, nếu mua phải mất năm chục ngàn…”. Bữa ăn được dọn ra, giữa những món quê như gà luộc, lòng lợn, riêu cá, đĩa dế nướng bày trông có vẻ thô kệch, vừa thơm vị rơm khô lại đen khét mùi chân cánh cháy. Thế thôi nhưng khi cuốn lá mít non, kẹp thêm nhánh lá đinh lăng, chấm muối ớt vắt chanh, đĩa dế là món bị “xơi” hết đầu tiên với cả chai rượu nếp nồng nàn.



Đem cảm giác của bữa dế nướng về khoe với đám bạn ngoài phố, anh bạn tên Dũng ở ngành giao thông cười nhăn miệng: “Ông lạc hậu rồi, dế bây giờ là đặc sản, nhà hàng nào chẳng có, cuối tuần tôi với ông đi làm một chầu…”. Y hẹn, chúng tôi đến một nhà hàng trên đường Hoàng Diệu, nằm hơi lùi vào một dãy kho cảng cũ, nhà hàng này khá nổi tiếng với những món ăn “rừng biển”, nhưng trên thực đơn lại không thấy có món dế. Dũng nháy mắt cười vẻ như muốn nói “hãy đợi đấy” rồi gọi nhân viên nhà hàng: “Hôm nay có món võ sỹ không?”. Cô nhân viên trả lời: “Có cả hai loại đói và rút ruột, anh ăn loại nào?”, Dũng gọi một câu cộc lốc: “Đói!”. Nghe cách đối thoại, tôi hiểu rằng Dũng là tay khá sành món dế và cũng là khách quen thuộc của nhà hàng này.

heo Dũng, vì giá dế thương phẩm hiện nay còn đắt, mà ăn côn trùng chưa phải là thói quen của người Hải Phòng, nên nhà hàng không dám nhập nhiều, đây có lẽ là lý do vì sao đặc sản này chưa có tên trên thực đơn. Tuy vậy nhưng dế cũng bắt đầu được dùng phổ biến trong nhiều nhà hàng, được chế biến cơ bản thành bốn năm món đơn giản. Dũng quê ở Bắc Giang, anh khoe em gái mình cũng là chủ một “trại” dế, chính anh là người tiếp thị giúp cô em đem dế bán tại Hải Phòng, thảo nào! Dũng cho biết, trước khi đem đến nhà hàng, dế đã được sơ chế, cách được lựa chọn nhiều nhất là ngâm muối vừa để cho dế chết vừa là khử trùng, sau đó rút hết “nội tạng”. Cách thứ hai để dế nhịn ăn mấy ngày cho tự sạch ruột gọi là dế đói, nhưng cách này làm dế gày rất hao mà tâm lý nhiều vị khách cũng sợ mất vệ sinh. Nhưng Dũng thô thiển quả quyết: “Dế đói ăn cả… mới đáng ăn!”.



Nghe anh bạn thao thao bất tuyệt mãi rồi mấy món dế cũng được bưng ra, Dũng lại được phen giới thiệu: “Món thứ nhất là dế để cả càng rán giòn, trong bụng mỗi con dế có một hạt lạc, ăn với lá lộc chát chấm xúp ớt chanh. Món thứ hai là gỏi, dế rang trộn với lạc, xoài xanh, rau thơm, ớt và nhúng dấm ăn cùng phồng tôm. Món thứ ba dế tẩm bột rán, cũng nhét vào bụng mỗi con một hạt lạc, tẩm bột và rán vàng chấm tương ớt…”.



Bữa tiệc bắt đầu, rượu vốt-ca uống vào tê đầu lưỡi, những con dế béo ngậy vỡ tan trong miệng, trong niềm khoan khoái tôi mơ mơ về đồng cỏ gió heo may những ngày đông, những đứa trẻ chăn trâu tay cầm mảnh cật tre bới lá, đào gò cỏ gừng tìm dế. Mãn tiệc, rượu say nhưng vẫn còn kịp nghĩ rằng, tất cả những món ở nhà hàng dường như với tôi cũng không ngon bằng dế tươi vừa lôi khỏi tổ, sống nguây nguẩy ném vào đống lửa rơm, rồi moi ra vừa thổi vừa dụi, nhóp nhép nhai đến bỏng cả lưỡi…



Bữa ăn 3 món dế cộng cả rượu cho 2 người hết hơn năm trăm ngàn đồng, khi tỉnh ra nhẩm tính với lương viên chức, tôi cảm thấy lòng ngậm ngùi dù là người được chiêu đãi. Tôi ngạc nhiên vì dế đã được nuôi ở rất nhiều nơi như Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên… và đã xuất hiện nhiều triệu phú nhờ dế, vậy tại sao Hải Phòng mình chưa nghe nói đến ai nuôi dế bao giờ? Rồi một đồng nghiệp tên là Thu Hà - phóng viên của Đài phát thanh huyện An Lão đã giúp tôi giải nỗi thắc mắc. Qua cuộc điện thoại ngắn ngủi, cô hẹn tôi về thăm chuồng dế của một “ông chủ” trẻ, người đang say sưa với niềm tin làm giàu từ mô hình này.

Ông quan trọng

Nguyễn Quang Lập

Ngày lễ mồng 2 tháng 9 mình ra phố lo mấy việc lặt vặt, vừa về chưa kịp cởi áo đã nghe anh gọi điện thoại, nói mày ra khách sạn Mường Thanh uống với anh ly bia, chưa kịp chối anh đã cúp máy, coi như mình phải ra ngồi với anh là chuyện đương nhiên.

Đang tính xem nếu anh gọi lại thì bịa chuyện chối khéo như thế nào thì anh lại gọi, nói mau lên em, lại cúp máy tắp lự.

Thực ra mình với anh chỉ là đồng hương, chỉ quen nhau sơ sơ, rất ít khi gặp nhau. Gọi là bạn văn cũng chả phải, anh viết văn trước mình khá lâu, chỉ viết chừng dăm truyện ngắn rồi bỏ đi làm báo, toàn ghi chép với bút ký dài ngoằng, ca ngợi hết lượt bộ này ngành kia từ Nam ra Bắc. Anh giàu có lên bắt đầu từ đó.

Bút ký của anh ghê lắm, thời cả nước còn đi xe đạp anh đã viết tôi ngồi trên máy bay Boing nhìn xuống thế này, tôi ngồi xe Volga cùng bộ trưởng thế kia, rồi tôi đàm đạo chuyện làm ăn kinh tế hết ông ủy viên này sang ông ủy viên khác, thất kinh. Cái kết bao giờ anh cũng để nhân vật chính đứng với anh, rồi “anh nhìn xa xăm và đôi mắt ánh lên một khát vọng cháy bỏng”, lại thất kinh nữa he he.

Mọi người cứ nói bút ký ghi chép của anh nghe rất hay nhưng không có nội dung gì cả, nếu không có ai quan trọng thì anh cười khì khì, nháy mắt cái chậc lưỡi cái, nói báo béo thì thế thôi, tao viết cho mấy thằng ngu sướng chứ viết cho chúng mày sướng à.

Gặp người quan trọng, nghe nói thế thì anh nhăn mặt vẻ coi thường, hắng giọng cái lắc đầu cái rồi chỉ tay vào đầu, nói các ông không hiểu gì hết, nội dung nó ở trong cái này này. Chẳng ai biết trong cái này này của anh có cái gì nhưng nghe anh nói thế thì cũng nể, nghĩ bụng chắc anh đang làm cái ý tại ngôn ngoại, ghê.

Hồi xưa làm báo cực khổ lắm, đạp xe đạp lọc cọc xuống cơ sở, hễ được mời gói thuốc lá Sông Cầu mắt đã sáng trưng. Nếu được mời bữa cơm có chai rượu trắng, đĩa lòng lợn thì gọi là phúc lớn. Đứa nào được cơ sở dúi cho cái phông bì nhỏ, sướng củ tỉ, chỉ mong mau ra chỗ vắng mở xem được bao nhiêu. Thường chỉ được năm bảy chục một trăm thôi, thế cũng đã mừng hết lớn rồi.

Thấy anh đi làm báo mà thèm, ở tòa soạn chỉ là phóng viên hạng bét, vào vào ra ra vật vờ không ai hỏi, những hễ về cơ sở anh bỗng nhiên thoát xác, rũ bùn đứng dậy sáng lòa hi hi. Xe cơ sở đón tận nhà, nếu ở xa thì máy bay tàu hỏa hạng sang. Có lần anh yêu cầu được ngồi máy bay trực thăng lượn một vòng quanh thành phố, lập tức được đáp ứng, thật phục quá đi mất.

Anh có cái mã ngoài cực đẹp, cao to đẹp trai, cái nhìn ấm áp thân thiện, thái độ ung dung tự tại, nói năng khoan thai, ngắt nghỉ đúng chỗ, người như thế ít ai nghĩ là nhà báo quèn.

Anh đi xe nào đến đâu người ta cũng chạy ra bắt tay đầu tiên, anh cứ tỉnh bơ không hề đính chính, vỗ vỗ vai chủ giới thiệu khách, nói ông này là, ông này là… còn tôi chỉ điếu đóm cho mấy ông này thôi. Anh nói thực như đùa, khách chủ vui vẻ còn anh được thêm phần trọng vọng. Chẳng ai dám hỏi ông điếu đóm thật hay đùa, thấy cái dáng quan trên của anh trăm người kính trọng cả trăm.

Anh vào nhà ông to dễ dàng như vào chỗ không người, rất đáng nể. Anh mượn xe ông to này đến nhà ông to khác. Đến cổng xuống xe bật mobile vờ gọi tên chủ nhà oang oang, nói tôi đến đây rồi, thôi thôi tôi không vào nhà đâu, anh em mình ra ngoài ngồi cho mát, à thế à, thôi được tôi vào vậy. Xong, cúp máy, hất hàm với cảnh vệ phát y chang ông chủ ra lệnh gia nhân.

Cảnh vệ thấy anh đi xe ông to, lại nói năng suồng sã với xếp, anh chưa cần hỏi tới đã vội vã kéo barie lên rồi. Vợ chủ nhà thấy anh vào thì ngạc nhiên lắm, chẳng biết anh là ai cứ lừng lững đi vào cũng đã nể, chưa kịp lên tiếng anh đã bắt tay bắt chân vồn vã, nói chị à, dạo này chị trẻ ra bao nhiêu. Nhưng nước da hơi xanh, anh có nói dạo này chị ăn ngủ không được tốt. Chết chết chết thế là không được. Thôi được, để em gọi mấy thằng sứ Pháp, sứ Mỹ bắt chúng nó phải tìm thuốc cho chị, không để chị thế này được, chết chết chết. Bà chủ thì lắm khách, chẳng nhớ hết mặt, ai cũng ngờ ngợ như đã gặp, nghe anh nói năng thân mật liên vui vẻ kéo anh vô nhà. Tài.

Dạo này anh bỏ viết báo, chỉ lấy cái tên tòa soạn cho nó có cái tước bạ để mà giao du, ai cũng biết anh không chức tước gì, ở tòa soạn một cái chức trưởng phòng cũng không ai dám giao, nhưng ra ngoài người ta vẫn nể trọng anh như thường.

Với mấy xếp ngoài, anh đóng vai kẻ sĩ bất cần hư danh, nói ông này ông kia mời tôi về làm việc này việc nọ nhưng tôi dại gì, ách giữa đàng lại mang vào cổ, ngu à. Nếu thấy người ta có vẻ không tin, anh liền bật mobile gọi, nói anh à, em đang ngồi với thằng nọ thằng kia đây, anh nói chuyện với nó chút nhé. Ôi, anh đang họp à, tí em gọi lại. Thấy thế ai cũng tin sái cổ.

Cứ tưởng anh làm mấy trò đó để chơi vui, uốn ba tấc lưỡi để đùa cợt thôi chứ chẳng để làm gì, không ngờ anh giàu có là nhờ thế. Anh có ba vợ gần chục đứa con, nhà nào cũng đầy đủ sung sướng, thật tài quá. Lắm khi muốn hỏi anh làm cách nào mà giàu thế nhưng không dám hỏi.

Mình đi ra khách sạn Mường Thanh thấy một bàn lớn toàn ông to, hãi quá tính chuồn, anh kéo lại, vỗ vỗ vai xoa xoa đầu vô cùng âu yếm, nói thằng em tôi đây, rồi anh kể tôi bảo nó viết cái này, tôi bày nó viết cái kia, cứ như không, mình ngượng chứ anh chẳng ngượng.

Tan cuộc mình nhìn anh cười cười, nói anh cứ lông bông lêu bêu thế mà giàu có cự vạn nhỉ. Anh cười khì khì, nói từ ngày phát hiện ra giá trị nước bọt, tao bỏ chữ buôn nước bọt, trúng cực kì, chưa thời nào buôn nước bọt trúng như thời này, dại gì không buôn, khe khe khe.

Tiền căn báo hậu - Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa






Xóm lò heo bắt đầu sinh hoạt từ ba giờ sáng, chưa hết giờ giới nghiêm. Dãy nhà từ ngã tư đường đi Long Xuyên thẳng xuống Chùa Dưới, sau lưng nhà ông quận Sóc. Dãy nhà gỗ lợp lá khang trang là xóm mổ heo hàng ngày cung cấp cho thớt thịt ngoài chợ.



Vô tình hay hữu ý, xóm tọa lạc ở một góc quận, gần như biệt lập bởi mấy con đường, cách một khu đất vườn hoang, tường đá dầy loang lở rêu xanh phủ, vết tích của nhà quyền quý thuở trước.



Cả xóm làm nghề cạo heo. Chủ nhân lò heo hầu hết gốc Tàu. Có người làm ăn phát đạt, cất nhà lầu đúc, suy sụp thì ở nhà lá. Ít ai dời nhà đi xóm khác trừ khi họ đổi nghề.



Chú Xua và người nhà vô chuồng bắt heo từ khuya, mỗi ngày cạo hai con heo chừng năm mươi ký.



Đêm trước, trước khi đi ngủ, chú đã chuẩn bị xong xuôi. Sau nửa đêm, chú dậy nấu sẵn hai chảo đụn nước sôi, pha sẵn hai diệm nước muối đúng lượng (khi huyết đặc sẽ mềm và xốp, mặn vừa phải để cắt bán ngay).



Đồ nghề là những con dao thép rèn bằng nhíp xe, dao yếm để cắt thịt ba rọi, mỡ, dao măng tô chặt xương cứng, quan trọng nhứt là dao thọc huyết. Nghề nghiệp và đồ nghề mấy đời cha truyền con nối để lại. La liệt chung quanh là những thùng gỗ dầy lớn niền bằng sắt để đựng lòng heo, thịt vụn, mỡ heo hay những thứ tạp nhạp.



Heo bị trói bốn chân được nằm ngửa trên mặt bàn xi măng thấp, miệng kêu en ét chói tai. Người phụ nắm hai tai heo cứng, đè đầu qua một bên. Chú Xua cầm cây dao bề ngang chừng bốn phân, dài độ năm tấc tây, dao nhọn bén ngót màu đen mướt. Chú nhanh nhẹn thọc một dao lút cán vô cổ heo, dao đi ngọt xớt nghe một tiếng xoạt. Heo bị thọc huyết kêu en ét, ột ạt, tiếng đứt đoạn; huyết đỏ sậm vọt ra như suối, phun từng bụm vô thùng nước muối đặt bên dưới, theo mỗi hơi thở. Chú cầm dao đều tay quậy diệm máu cho đặc, máu nổi bọt đỏ ngầu trong diệm.



Xong đâu đãy, chú dời thùng huyết đi, lấy cái gáo cán tre múc nước sôi tưới từng chỗ trên mình heo, rồi bắt đầu dùng dao ngắn cầm sống dao cạo sồn sột, lông heo dính theo lớp da đen ngoài rớt từng mảng xuống đất. Cạo cả giờ mới trắng được con heo, khó nhứt là cạo cái thủ, mặt heo lồi lỏm, và kẻ của hai lổ tai heo.



Xong phần cạo, chú lấy chổi ráng quét lông vô góc nhà, sắp mấy thùng gỗ dọc theo bàn mỗ cho đúng chỗ. chú lật ngửa heo, dùng cây dao mổ rọc thẳng một đường từ ức xuống, bụng heo mở toát bày buồng phổi lòng đỏ bầy nhầy. Khéo léo như một bác sĩ giải phẫu, đúng ra chú còn khéo hơn bác sĩ. Tay phải cầm dao ngắn mỏng, dài độ hơn một gang tay, cắt, xén, vuốt, thẻo, mỡ, thịt, lòng heo. Tay trái chú cầm những món cắt ra ném vô thùng gỗ, thứ nào thùng nấy, mỡ sa, mỡ thịt, ruột non ruột già ... để riêng, mỗi món có người đặt mua, có thể cân bán ngay tại lò, trước khi dọn ra thớt thịt. Thịt ba rọi, thịt nạc, xương nấu nước lèo để sẵn trong thùng cho người đặt tới cân.



Cùng loại thịt đồng giá, nhưng thịt ngon dành cho bạn hàng trả tiền mặt, thịt hơi vụn mỡ nặng xương giao cho người mua chịu trả lâu. Chú Xua quen tay, liếc dao ken két nghe ê răng rợn người trước khi cắt hay thẻo thịt. Cắt một lác, đặt lên cân là đúng trân theo ý, khỏi cắt thêm bớt cho thịt vụn.



Sau cùng, chú Xua dùng dao lớn chặt heo ra nhiều phần sắp lên xe cho vợ đẩy ra thớt thịt, rồi bắt đầu mổ con heo thứ nhì.



Ngày thường, mỗi tiệm hủ tiếu cà phê cân chừng trên dưới mười ký thịt nạc và ba rọi, mua mão một thùng xương heo nấu nước lèo, năm sáu ký thịt mỡ vụn để làm nhưn bánh bao hay xiếu mại, mấy bà bán bánh hỏi chỉ cân vài ký thịt bụng rẻ tiền. Xương heo lò chú Xua rẻ nhứt vì tài khéo léo lạn không còn miếng thịt của chú.



Nhà lồng chợ có khoảng sáu thớt thịt; mỗi thớt bán chừng hai con, lỡ ế phải đem về muối, mỡ dư thì đem thắng bán lẻ, da thì bán cho người mua đem phồng mỡ. Lâu lâu cũng có người nhứt là ông Bảy Sên thầy cúng, đặt mua một bộ ‘thào búi’, chú Xua cẩn thận cắt cái đầu heo, bốn móng heo, cái bong bóng heo, một miếng huyết, cái đuôi heo. Các bộ phận đặt đúng vị trí trên mâm giống như cao heo trắng nguyên. Bộ ‘thào búi’ (thủ vĩ) dùng để cúng trả lễ thay cho con heo trắng. Ông thần bị gạt, tưởng mình được hưởng trọn con heo, lại vừa cho túi tiền người cúng trả lễ.



Dân sống trong dãy nhà đối diện với xóm lò heo đã quen thuộc với sinh hoạt và âm thanh bắt đầu từ sau nửa đêm, không tỏ ra khó chịu khi nghe tiếng heo giẫy đành đạch và tiếng lục đục lụi đụi trong các lò heo, hơn nữa phần nhiều việc làm ăn của họ cũng dính dáng phần nào với lò heo, nên họ yên chí ngủ say.



Sinh hoạt xóm bắt đầu thức giấc rộn rịp khi các chủ thớt thịt tới cân thịt, bà bán cháo lòng tới chia huyết v.v... Tiếng trả giá, lời qua tiếng lại, cãi cọ không sót một ngày. Tiếng lào xào ‘mỡ sa mỡ thịt? Giò trước giò sau?’ Khi âm thanh xô bồ độ nửa tiếng loãng dần, người ta nghe giọng nói ôn tồn hòa nhã của chú Tám Giò khi chú ghé các lò heo lựa lòng về khìa bán. Nhà chú Tám Giò cũng ở xóm Lò heo, mỗi sáng sớm chú đi rảo qua các lò heo lựa chọn thứ ngon nhứt, ‘vài ký phèo, bao tử, gan, lỗ tai heo, đùi heo trước, móng heo ...’ Chủ lò biết điều đó, vì quyền lợi hổ tương, chú Tám Giò mua trước, bán hết mới trả sau, ‘mượn đầu heo nấu cháo’, khi bán ế ẩm phải hẹn lại trả sau, lôi thôi khó nhớ lắm. thêm cái nạn nợ chồng nợ, nếu chủ lò không bán lòng, chú Tám lấy gì bán để trả nợ cũ?



Chú Tám Giò lựa lòng kỹ lắm,, vì nhà ở gần lò heo, chú biết ngày nào chủ lò cạo heo đau, heo bỏ ăn, heo gạo, heo nái ... để tránh.



Đống tim heo phèo phổi bầy nhầy trong các thùng gỗ lớn. Chú Tám dùng đôi mắt nhà nghề, bàn tay kinh nghiệm lựa khúc phèo ngon nhứt, khúc ruột dòn, cái bao tử nào dầy, lá gan phải còn nguyên để đủ bán buổi chiều, không dư không thiếu.



Chủ lò biết ý người mua, muốn gạt cũng không được. Chú Tám ưu tiên chọn trước, dư mới giao cho thớt thịt ngoài chợ.



Bước vô lò, không cần chào hỏi lôi thôi lằng nhằng cho hao hơi tổn tiếng. Chú Tám bắt đầu như thường lệ.



‘Đồ lòng bây giờ ít ai chịu ăn, khó bán. Chú để nới nới cho tôi kiếm lời chút đỉnh nuôi con ...’.



Chú Xua vui vẻ cười cầu tài:



- ‘Hà, cái lầy bán dẻ dồi! Mãy cái đùi heo lần trước Nị trả chưa đủ, Ngộ vô Sóc bắt heo hổng trả tiền sao?’



Chú Tám cũng có chuyện để nói:



- ‘Nghe nói bây giờ đánh lung tung, giá heo rẻ mạt, chú bắt năm sáu con còn nuôi trong chuồng, nói ai mà tin được ...’



Lời qua tiếng lại, mắt chú Tám cứ chăm chăm nhìn cái cân xách tay, ngón tay chú Xua đẩy trái cân nhích nhích trên đòn cây cân, mỗi nấc là một trăm cà ram. Chú Tám cao giọng, ‘vô ra một nấc, lợi hại lắm à!’



- ‘Hà! Ngộ cân non cân già cho Nị làm gì, buôn bán sinh lợi, giàu nghèo do cái ông trời định. Coi nè, cân giát rồi nghe cha nội’.



- ‘Giát chút đỉnh mà, thêm khúc ruột vụn đó đi, bửa nào cũng lấy lòng mà, chú không thêm chút nào hết’.



- ‘Hà, mấy năm dồi, Ngộ ăn cháo, Nị có cơm ăn’.



Đống lòng heo được bỏ chung trong thùng nhựa xách tay. Chú Tám bước qua nhìn cái đầu heo mới cạo, tay lật đầu heo coi cho kỹ, thịt dầy, lưỡi còn nguyên.



Chú Xua lên tiếng trước:



- ‘Lấy cái đầu heo đi, thịt không đó, xăng dịch thằng con ngộ nó ngủ gục cắt gần tới cổ. Coi cái nọng heo nè, mấy đứa uống rượu ưa lắm. Bán cho người khác tám chục, bán cho nị bà con lối xóm mở hàng, bán bửa nay còn bán ngày mai’.



Chú Tám nài nỉ:



- Năm chục được rồi, bửa nay mưa là mồ tổ tui ăn hổng hết’.



Giọng nói chú Xua không giận hờn quạu quọ, miễn kiếm thêm đồng nào hay đồng nấy. Tám Giò cũng năn nỉ đồng nào được đồng nấy.



- ‘Thôi, năm lăm đó. Tôi lấy cho rồi, cải vã với chú mệt quá’.



- ‘Hà, cái lầy nị nhiều chuyện quá, sáng sớm mở hàng, sáu lăm dẻ dồi, lấy đi mở hàng, ngộ còn đẩy thịt ra chợ’.



Miệng nói, tay Chú Xua đặt đầu heo vào thùng. Chú Tám vừa quay đi, Chú Xua vói theo dặn:



- ‘Trước sau là bốn trăm sáu, chiều nay bán đắt, nị qua trả mớ nhấm để mai ngộ vô Sóc bắt heo. Nị ăn cơm mà bắt ngộ ăn cháo hoài vậy’.



Nghề cạo heo cũng thăng trầm chung với giới liên hệ như Chú Tám, tiệm nước, giới bán bánh tằm, bánh hỏi, cháo lòng ... Lâu lâu có đám cưới, cạo thêm con heo nhỏ, hoặc quay kiếm lời thêm đắp đổi lúc ế ẩm, ối đọng.



Nợ nần trong cùng giới làm sao tránh được, thịt làm sao để lâu, để dành ngày sau bán? Dư phải nài ép bán rẻ thúi cho hết, để càng lổ. Nhiều bạn hàng trả nợ không nổi, chửi lộn trừ, rồi lại tiếp tục mua bán, nợ khác tính sau.



Heo vừa cạo xong, giao cho vợ bán ngoài chợ, Chú Xua lui cui quét dọn rửa ráy bàn xi măng, chảo, dao kéo cho sạch. Dù rửa bằng xà bông, bàn chải chà mạnh tay, dội nước trôi hết máu và mỡ, mùi tanh hôi vẫn còn lẩn quẩn, ai đi ngang cũng ngửi và cảm thấy mùi của tử khí, của xác chết đọng trong không khí trong lò heo.




Chú Tám xách mấy chùm gà vừa làm xong đi giao cho người đặt làm rồi trở về nhà. Vợ chú đã quẩy gánh ra chợ bán hàng sáo.



Chú Tám bắt đầu công việc chánh hàng ngày. Nhà chú chỉ có một gian, cùng dãy với mấy cái lò heo hàng xóm. Bếp xây bằng gạch, trên để hai cái chảo đụn, bên cạnh là mấy bao trấu và củi để đốt lò. Đồ nghề như dao, kéo bén nhọn giắt trên vách lá. Một cái kệ chất nhiều keo hủ đựng gia vị đủ loại. Vách lá bám khói đen xám có mùi thoang thoảng mùi thịt ướp, mùi gia vị hành tỏi và mùi ngũ vị hương.



Chú Tám lúi húi đốt lò, đổ trấu cho lửa cháy lên ngọn để nấu nước sôi trong chảo đụn. Chú đổ mớ lòng heo trên bàn, bàn là một cái thớt dầy, gỗ cây me, rồi bắt đầu nhúng đùi heo vào chảo nước sôi, cạo cho thật sạch nhớt và lông, thỉnh thoảng chú dùng nhíp nhổ những sợi lông cứng.



Chú lộn ngược bao tử heo trong ra ngoài, rửa cạo qua loa, cắt bỏ những miếng mỡ thừa. Chảo đã nóng, chú hốt muối bọt rải đều trên chảo, để bao tử vô chảo lăn qua lăn lại cho muối hút hết chất nhớt. Sau đó lại mang ra chà với muối, rửa lại bằng nước lạnh, rồi treo trên móc. Đống tai heo phải cạo cho sạch chất bợn đóng đen, phải quen tay lắm, cạo nhẹ không ra hết chất bợn, cạo mạnh rách da lùi xùi khó coi. Rồi đến đống ruột non, phèo. Hai ngón tay chú nhẹ nhàng vuốt sạch chất bợn trong ruột, cạo cho sạch nhớt, vừa nhẹ vừa đều tay để khúc ruột kéo ra dài cả thước, để thun lại còn nguyên như còn nằm trong bụng heo, như vậy khi treo bán trông hấp dẫn, ngon lành. Chừng vài tiếng đồng hồ mới xong việc đầu tiên. Chảo nước xâm xấp đã sủi bọt sôi, chú bỏ mấy cái giò heo trụng cho săn thịt, phải đứng tại chảo, trở tay liền, không cho thịt quá chín, thịt bệu hết dòn, xương vẫn còn đỏ máu bên trong. Chú vớt đùi heo móc treo lên cho ráo nước, rồi tiếp tục tới các món lòng khác, mỗi loại trụng nước sôi lâu mau tùy, chỉ có chú biết.



Xong xuôi đâu đó, chú tát chảo cho sạch nước dơ, xúc đường rải vô chảo, đổ nước thắng đường tới khi đường có chỉ. Hai cái chảo, tay mặt một chảo, tay trái một chảo, hai tay chú cầm hai cây tiểu lư đẩy tới lui nhẹ nhàng. Chú đổ nước vô hai cái chảo, liếc nhìn ra cửa, chú không muốn ai quan sát khi chú làm việc, nhứt là lúc nếm gia vị. Chú bắt đầu xử dụng những hủ nhỏ đựng gia vị ướp trên kệ, tất cả được giữ kín, không cho tên hay nhãn dán trên hủ. Chú muốn thứ nào, thò tay lấy đúng thứ đó, không sai chạy hay phải ngửi lại. Chú hốt một nắm tỏi, dùng bề bản dao yếm đập xạch một cái, hốt lên thổi bay vỏ tỏi, đặt trên thớt. Hành tây thì chú cắt hai đầu, xẻ hai, lột vỏ gọn hơ, cắt xồn xột, trộn chung hành với tỏi, tay trái kềm đầu dao, tay phải cầm cán dao, giở lên ấn xuống vòng thớt, hốt hai bụm, mỗi bụm liệng vô mỗi chảo, xèo một tiếng, mùi thơm lừng bay lên trong bếp. Chú nghiêng đầu xuống nhìn hai bếp lửa dưới chảo, thêm bớt củi tùy lúc.



Sau cùng, chú vói tay lấy từng hủ gia vị đặc biệt trên kệ, nghiêng hủ gia vị, đổ hoặc rải đều đúng phân lượng chính xác mà không cần cân đo mất thì giờ. Chú biết hủ nào là tiêu, đường, bột ngọt, hàn the, phèn chua, ngũ vị hương, tài hồi, hay một loại gia vị đặc biệt chỉ có chú biết, khó ai ăn cắp nghề. Chú giữ kỹ bí mật để làm cần câu cơm.



Chú cúi xuống kiểm soát lửa, bớt củi, cời than chung quanh chảo cho lửa hạ, cháy riu riu, chú gật đầu vừa ý, lấy muỗng múc chút nước trong chảo nếm lần cuối cùng rồi mới thả mấy cái đùi heo vào, đùi heo và lòng đã được ướp sẵn vài giờ nên đã thấm. Mỗi thứ phải khìa riêng, ruột không thể khìa chung với bao tử hay gan hoặc giò, vì thời gian khìa lâu mau tùy món.



Chú Tám không dư khoảng thời gian nào suốt khi làm việc, khi chờ đùi heo chín, chú lo làm keo tương ớt, nước mắm chanh, dưa đu đủ, dưa leo chua, đang lúi húi làm, chú ngừng lại, lo trở mấy cái đùi heo hay lòng heo mà không cần đồng hồ reo nhắc nhở, rồi lại tiếp tục trộn đồ chua. Vừa xong vài công việc vụn vặt, giò heo đã chín, chú móc lên sào cho ráo, lại nêm chảo khác để làm tới mấy món lòng.



Nếu ai có thân lắm, vui miệng hỏi, ‘Chú Tám à, làm ơn dạy cho tôi cách ram thịt, khìa giò heo và ruột heo cho dòn, gan cho bùi, cách nào phá lấu bao tử dòn và ngon như của chú’.



Chú Tám trả lời lúng túng, ai hiểu lầm tưởng chú hiểm, dấu nghề, điều này chỉ đúng phần nào thôi. Chú khìa lòng theo thói quen, động tác, thời gian phối hợp chính xác tỉ mỉ, mà chính chú cũng không ý thức được chú đang làm gì, dù là vài động tác có vẻ dư thừa như lúc nào đó, chú giở vung ra rảy cho ráo mồ hôi đọng trên nắp vung, cầm hai cái quai chảo lắc vài vòng gọn hơ. Chính chú không đủ kiên nhẫn nhắc từng ly từng tý cho vợ chú, thì còn dạy được ai. ‘Nghề dạy nghề’, chú thường nói. Vài tiệm cơm làm không kịp cũng hay chia vài đùi heo khìa của chú khi họ gặp khách đông bất ngờ.



Cái tên Tám Giò, chữ giò có nghĩa là giò heo chớ đâu phải tên chú, vì chú thứ tám nên bà con gọi luôn tên nghề nghiệp.



Đám cưới quê hay các gia đình nghèo mượn chú làm tổng khậu, chỉ cần mổ con heo, giao tất cả cho chú, chú sẽ đặt đủ thực đơn, từ món nhậu như lòng khìa, dưa đầu heo chấm mắm nêm, món canh như bao tử phá lấu tiêu, món ăn no như thịt kho nước dừa, ruột heo xào khóm ... vừa rẻ vừa ngon, không cần vi cá, nấm đông cô, bào ngư mắc tiền, tiếng là sang, chưa chắc thích hợp với khẩu vị thực khách và túi tiền giới nghèo.




Khoảng sau năm giờ chiều, khu chợ trống, những gánh chè cháo kéo ra ngồi dọc theo ngã tư chợ, để phục vụ khách ăn dậm thêm sau buổi cơm chiều. Thanh niên, xồn xồn từ các xóm dập dìu kéo ra, chỗ này uống cà phê, ngồi tán gẩu cho qua giờ.



Chú Tám sửa soạn xong nồi cháo trắng,đặt hỏa lò than trong xe đẩy. Xe có giá thấp treo lòng heo lủng lẳng, thứ tự, màu lòng thấy thèm. Chú mặc áo kaki vàng cũ bạc màu, lành lặn sạch sẽ, thong thả đẩy xe ra ngã tư đậu bên cạnh xe nước đá của Chệt Xái, tại đó có sẵn ba bốn cái bàn và nhiều ghế xếp.



Hai người biết nhau, gặp nhau thường ngày, gặp nhau hề hà, gặp thì vui vui, xa thì nhớ. Đồng cảnh ngộ nghèo, không cần cạnh tranh nhau, nương nhờ nhau để sống, cả hai rất thoải mái đậu xe song song với nhau, vả lại, cả hai đứng tuổi biết điều, tương quan quyền lợi thật hoàn hão. Uống la ve phải cần món bổi nhậu, món nhậu ngon không thể thiếu la ve, ăn một miếng bao tử khìa của Chú Tám, muốn ăn thêm miếng nữa, phải kêu thêm chai la ve kế tiếp.



Chú sắp một dĩa thịt đùi heo khìa thái mỏng đặt trên dĩa, góc dĩa là miếng tương ớt đỏ ao, một nhúm ngò, rau sống, dưa chua tùy món. Mùi thơm ngũ vị hương quyện với hành, tương, ớt; cái bùi bùi của lát gan heo, cái dòn nhai sướng răng của bao tử heo và phèo, cái vừa dòn vừa béo của đùi heo. Gắp một đủa nhai xong, vị thơm còn trên đầu khứu giác và vị giác, hơi cay còn tê tê trên lưỡi và nồng trong cổ, tớp một ngụm la ve mát từ miệng xuống thực quản, vừa nhìn hai bàn tay xinh xắn trắng muốt của cô bán xưng xa hột lựu đang múc chè vô ly cho khách, thực khách khoái chí đùa vài câu, cười hăng hắc, Chú Tám và Chệt Xái vui lây. Nhậu lưng lửng, thấy đói đói, cần dằn cho chắc bụng, Chú Tám múc ra tô cháo trắng nóng, chặt hai hột vịt muối đặt trên dĩa bưng cho khách, húp xong cháo, dẻ miếng trứng bùi bùi mặn mặn là giả rượu ngay. Nhắm mắt lại, còn nghe âm thanh dễ nghe của dao xắt lòng trên thớt me, cạo sột một cái, úp dao lên dĩa, một dĩa lòng thứ tự với dưa chua, tiếng đập nước đá chan chát, rồi tiếng nổ bốp của chai la ve khui. Ngã tư này thiếu Chú Tám và Chệt Xái thì hết ai muốn ghé.



Nghề bán lòng heo và la ve nước ngọt là làm dâu trăm họ, tùy đủ điều kiện thời tiết và an ninh.



Đêm nào chưa bán được lại có tin mấy chả về, vài tiếng súng lạch tạch, tiếng pháo kích thụt đi ình ình đau tim, giới nghiêm sớm, Chú Tám và Chệt Xái dọn dẹp nhanh, cùng nhau lủi thủi đẩy xe về, mặt buồn thiu, thân mình hai người gầy đi như chiếc bóng cô đơn trên lộ đá xanh. Chú Tám lo lòng để lâu hư nếu không bán rẻ hoặc ăn cho hết, Chệt Xái buồn vì cây nước đá ủ trấu mỗi ngày hao đi gần hết một phần ba. Hai chiếc xe đẩy lạch cạch bên nhau, cả hai nhìn nhau lắc đầu. Chưa kể tới mùa mưa, chiều nào mưa đổ tầm tã, cả hai ngồi nhà bó gối buồn tênh, nhìn mưa nhìn trời, nghe gió. Có hôm càng tệ, vừa đẩy xe ra, trời đang trong, gió bất ngờ mang mưa tới, hoặc đương bán, quận bị pháo kích, mạnh ai nấy bỏ chạy, bỏ mặc đồ đạc ra sao thì ra. Bầy chó hoang được một bữa ăn thịnh soạn, giành giựt sủa cắn nhau. Bán ế ẩm lỗ lã, đồ ăn làm sao để lâu được, chú nài nỉ bán tháo, nợ lò heo chồng thêm, chủ lò heo nợ chủ heo ...



Vòng lẩn quẩn chấm dứt nếu có một người phủi tay nằm xuống. Vợ con họ nheo nhóc, không lẽ cắt thịt họ trừ? Nói không phải khoe, dân xóm lò heo gấu ó, ẩu đả nhau, vì quyền lợi tiền bạc không trật ngày, như tiếng heo en ét khi bị thọc huyết, nhưng khi ai gặp nguy nàn, nhân tình người ta lại hiện lên, tiếp tục qua lại giúp đỡ nhau khi tối lửa tắt đèn.



Nói cho cùng, Chú Tám cũng chưa quịt nợ ai bao giờ, vừa đủ hai buổi cơm dưa, mắm, qua ngày. Chú Tám không ghiền số đuôi, không uống giọt rượu, đòi hỏi gì hơn nữa. Gặp hôm Tết, hội hè, có gánh hát ghé, bán khá hơn gấp mấy lần, bù lại những chiều mưa hay pháo kích, ‘trời sinh voi sinh cỏ’.



Hôm nào xóm ngã tư vắng Chú Tám, xe nước đá cũng bị ảnh hưởng nặng nề thấy rõ. Ngược lại, hôm nào Chệt Xái bịnh, Chú Tám cũng bị tình trạng tương tự, chỉ có vài người qua, mua một miếng bao tử khìa, lấy cây tăm ghim, vừa đi vừa ăn cho vui miệng.



Năm qua tháng lại, ai cũng già còm đi mà không hay. Chú Tám độ trên năm mươi rồi, người thấp, chắc nịch, nước da màu sậm giống màu bao tử khìa, một sự trùng hợp hay hay. Ai đứng gần Chú Tám gặp hôm trời nắng, mồ hôi chú toát ra mùi hăng hăng, mùi của ngũ vị hương, của gia vị ướp thịt thấm vào làn da thớ thịt và hơi thở chú. Cả người chú là cây thịt khìa bị cháy khét vì quá lửa. Đó là nhận xét của Chú Xua cạo heo.



Chú Tám cũng vui miệng đùa ông bạn già, ‘Chú Xua à, mỡ heo nó rút vô da chú, đứng ngoài nắng cho chảy ra được chảo mỡ à!’




Chú Xua đau rề rề cả tháng rồi, mặt chú xám như màu gan heo luộc. Chú nằm chịu trận, uống thuốc cầm hơi, trên chiếc chiếu trơn nhớt như thoa mỡ, những ngày cuối sống không vui, chết không sướng. Chú lăn lộn vẫy vùng, người nhà phải dùng sức kềm lại. Trong cổ họng chú bị đờm chận, phát ra âm thanh ồn ột đứt quảng, hai tay cào cấu bụng, ú ớ:



- Kéo, kéo phèo ngon, phèo ngon.



Nghe người ta kể lại, cách đó vài tuần, Chú Xua vẫn còn mạnh khỏe, vào Sóc bắt con heo nái và hai con heo con vừa bỏ sữa, gặp lúc chiến tranh, giá heo rẻ mạt. Ổ heo mang về nuôi chưa được tháng thì đúng lúc nhà thuốc bắc Thiên Bảo Đường đặt chú làm hai con heo sữa quay, đãi đám cưới con gái. Làm xong hai con heo sữa thì heo nái biếng ăn. Thứ heo bỏ ăn mau xuống cân lắm, để trễ ngày nào bất lợi ngày đó, chưa kể trường hợp heo chết bất ngờ phải khai báo tốn tiền lôi thôi. Chú đành bắt heo ra cạo.



Lúc mổ bụng, mỡ heo tuôn ra một thùng lớn, màu hơi khác, mùi tanh tanh. Thịt heo cũng ngã màu không đỏ tươi như heo tốt. Lúc cắt lòng, chú kéo ra được một bọc hàm nàm (thai heo chưa đẻ, mới tượng hình).



- Ừ ự! Heo có chửa, hèn chi nó biếng ăn.



Chú được bọc hàm nàm, đếm được chừng sáu con heo nằm co quắp trong bọc, khoảng bằng con chuột xạ.



Đang lúc sức khỏe kém, lại gặp món đại bổ, chú mừng húm:



- Hàm nàm hầm thuốc bắc, đại bổ, đại bổ!



Làm xong con heo nái, đêm đó Chú Xua tự nhiên đổi tính bất ngờ. Nhằm ngày rằm, theo kinh nghiệm, lượng thịt sẽ giảm đi một phần ba, nên làm con heo nái này vừa đủ bán.



Chú Xua dở chứng bất thường, quái dị, mắt chú láo liên, gõ sống dao lên đầu heo trắng toát lè nhè:



- Vật dưỡng nhơn, ngày nào ăn mà không được. Nghe lời mấy ông thầy chùa ăn chay làm cái gì cho ốm. Ăn thịt heo thì bổ, thì mập, ăn gan bổ gan, ăn óc bổ óc.



Chú nói nhiều, nói lảm nhảm, trái với bản tính trầm tỉnh của chú, cả xóm chú không làm mất lòng dù đứa con nít.



Chú dùng cây móc sắt móc hai chân heo treo ngược đầu trên giàn cho ráo nước. Đầu heo xệ như mặt con quỷ mập hai mắt ti hí, nhe răng hiểm ác cười, vài giọt máu oan cừu từ miệng nhỏ xuống.



Heo bị treo nhúc nhích không yên, Chú Xua liếc dao xoàn xoạt trên phiến đá mài. Chú cười khành khạch:


- Phú, mổ bụng rồi mà còn nhúc nhích hả?



Ai đâu nhập vào chú, chú hứng chí hát như trong tuồng hát bội:



- Ta là đồ tể Trần Bình, vì chưa gặp thời nên xẻ heo chia thịt đều cho thiên hạ. Gặp thời vận ta là tướng quốc phò Lưu Bang nên nghiệp đế.



- Ta là Phàn Khoái rút gươm cắt thịt heo uống rượu, mới là hảo hán!



Chú hứng chí hát khò khè khúc ca Đại Phong của Lưu Bang Hán Cao Tổ khi về đất Bái.



- Đại phong khởi hề, vân phi dương. Uy gia hải nội hề, quy cố hương. (Gió lớn nổi lên hề, mây bay ngang. Uy gia khắp nơi hề, trở về làng).



Chú lại gõ dao như gươm thiêng trên diệm huyết hát:



- Wá bò kia, lứ mái cháo! (Tao không sợ, mầy đừng chạy).



- Mầy là con heo, ông trời sanh ra mầy cho người ta ăn thịt. Món tam sên có miếng thịt mầy, đừng trách dao tao bén, đừng giận tao.



Chú vỗ đầu heo, đầu heo lắc lư, mỏ heo hỉnh, hai lổ mũi đỏ máu và sâu hoắm. Chú xách dao bước tới hạ heo xuống để cắt cái thủ, loay hoay thế nào lại đạp nhằm miếng mỡ heo trơn trợt trên mặt nền xi măng. Chú mất thăng bằng té ngửa, tay buông dao, chụp đầu heo gượng lại. Xác heo treo tòn ten bằng hai cái móc sắt rớt sầm xuống nằm trọn trên người chú, đầu heo đập phạch lên mặt chú, nanh heo xỉa trên hàm chú đau điếng. Vì bất ngờ, trọng lượng của heo đập ập lên mình chú, đầu chú bị đập ngã trên nền xi măng.



‘Con nít té mau lớn, người lớn té mang bịnh, người già té là chết’.



Da heo lạnh như thây ma, sàn nhà ẩm ướt nhơn nhớt mỡ, máu heo lông heo lẫn lộn, cộng thêm cái lạnh lúc gần sáng. Chú bị khối thịt heo lạnh lẽo đè mẹp, không có thể xoay sở để lật nó qua một bên. Nằm mê mệt lờ đờ, mất thần khí, chú không còn tàn hơi để cựa quậy. Lúc ấy, vợ chú đang dọn dẹp thớt thịt ngoài chợ cho sạch sẽ (vì ban đêm bầy chó hoang thường ngủ trên thớt) chờ chú đẩy thịt ra.



Đứa con chú có lò heo riêng, cách đó mấy căn, hay đâu mà tiếp cứu.



Hơi đất lạnh ẩm, thấm dần vào cơ thể, muốn rùng mình đuổi hàn khí đi mà không đủ sức.



Miệng chú lảm nhảm mấp máy. Trong cơn mê, chú thấy một mụ đàn bà xồn xồn, mặt mập trắng bệt, hai bên má mụ, thịt nọng xệ gần tới vai. Hai tai mụ ve vẫy, miệng và mũi dài đỏ hoét hinh hỉnh như đánh hơi, táp phầm phập.



Mụ lê tấm thân mập ú lù, hai hàng vú thộn thện trên ngực, mụ bước phình phịch tới xáp lại chú, chú có cảm giác như bị ai giữ lại, không thể thối lui. Mụ kê miệng sát lên mặt chú, hà hơi lạnh giá, nước bọt mụ chảy trơn nhớt tanh rình vô miệng chú. Chú ú ớ, kêu cứu. Mụ nhăn hàm răng to lớn cắn cổ chú, cổ họng mụ phát ra tiếng ột ệt tắt nghẻn, âm thanh ma quỷ cô hồn:



- Chú đâm cổ mổ họng hai đứa con trai ta, chú thọc huyết ta khi đương thai nghén, chú muốn đem sáu đứa con vô tội, chưa lọt lòng mẹ của ta ra ăn dộng, chú bất nhơn quá mà, ta trả thù chú đâu có oan ức gì?




Chú Xua chết khó khăn quá, nghe tiếng thở hồng hộc ai mà không kinh tởm. Chú Tám Giò cũng có mặt bên giường bịnh lo lắng cho bạn già phút lâm chung. Chú Tám lẵng lặng lấy cái diệm, đổ vô ít nước, cầm con dao thọc huyết hàng ngày để bên cạnh giường người bịnh. Con cháu ai cũng hiểu việc làm của chú, không thể nói ra, phải để chuyện này cho người ngoài làm.



Chú Tám nghiêm trang cầm dao quậy nước trong diệm, chú ngập ngừng lạc giọng, lưỡi dao lạnh ngắt rùng mình suýt vuột khỏi tay chú, tiếng quậy róc rách, bọt nước đục ngầu nổi bong bóng như máu rồi vỡ tan. Chú vái van:



- Cô hồn ơi! nghề nghiệp mà, biết sao cho vẹn? Sinh nghề tử nghiệp! Anh Xua ơi, anh đi thì đi cho yên, đừng làm khổ con cháu. Anh Xua ơi, tiền căn báo hậu, nhản tiền anh thấy chưa?



Chú Tám cũng già yếu rồi, nợ chú Xua chồng chất, chú xót lòng nghĩ tới chính mình, thở dài, đặt cây dao nằm ngang trên miệng diệm nước hay diệm máu của chú Xua mà cô hồn hiện về đòi cho được.



Tiếng ú ớ đều hơn, nhỏ dần một lúc lâu rồi tắt hẵn.



Chú Tám thất thểu bước ra, chú hình như không nghe tiếng khóc sướt mướt quanh đây. Chú thở dài lẩm bẩm một mình:



- Y trả hết nợ rồi, gần tới phiên mình.



Bước về đến nhà, nhìn đống lòng heo nhầy nhụa trên bàn, mấy lá gan heo còn đọng mấy giọt máu tươi. Chú tưởng tượng như núi thịt bên ao rượu của Trụ Vương và Đắc Kỷ. Mùi lòng heo lúc trước thơm tho, bây giờ bốc mùi tanh ói lợm giọng. Chú khạc nhổ liên hồi, chân tay uể oải hết hăng hái làm việc. Ngày mai phải giao sớm mười cái giò heo đám cưới, ‘thây kệ’, chú ngã mình trên giường lim dim, bản tính chú siêng năng, nhưng hôm ấy tinh thần đã mệt mỏi, cơ thể rã rời, lần đầu tiên chú buông lung, báo hiệu cho sự nãn chí. Gác tay trên trán, chú nhớ Chú Xua, mấy mươi năm gần gũi, bây giờ kẻ ở người đi. Chú Xua đi khó khăn quá, nghĩ tới mình, ‘số phận mà’. Chú nhắm mắt nghỉ giây lát để lấy sức, trong óc chú thấy mình bị một núi lòng heo, cao ngất, những nùi ruột quấn lòng thòng nhểu máu đỏ ao, những sợi lông heo đâm ê lưng. Trên bầu trời xám, những tờ giấy tiền vàng bạc bay chập chờn, chú cố rượt theo chụp, giấy tiền vàng bạc càng bay cao, cao lên mãi, chú đứt hơi té xuống đống lòng nhão nhẹt, chú lún xuống cố cựa quậy thoát ra, càng cựa quậy càng lún sâu tuyệt vọng, hàng ngàn bao tử heo bay lơ lững phình ra tóp vào như ruột xe hơi bị lủng, bơm lên bị xẹp trở lại. Chú Tám cố gượng, chổi dậy, vỗ trán bành bạch, xăm xăm di ra lu nước múc nước rửa mặt, mệt phải chịu, đồ lãnh phải giao đúng hẹn, rồi sau đó ra sao thì ra.




Trước khi bỏ xứ, Chú Tám đi từng lò heo, từng nhà chủ nợ, chú ngay thẳng năn nỉ:



- Bà con ơi, tui nghèo quá phải bỏ xứ đi, nợ nần chưa trả nỗi, tôi hứa với bà con, chừng nào khá, tôi trở về xứ trả lại cho bà con. Chú nghẹn ngào:



- Bà con cũng biết, tôi không uống giọt rượu, không cờ bạc, chỉ có làm mà không đủ ăn, bà con thấy đó, giới nghiêm từ tám giờ tối hàng đêm thì bán buôn gì được.



Chủ nợ ‘thấy đó’, cũng mủi lòng, nỡ nào mở miệng trách móc chửi bới như bạn hàng tôm hàng cá. Nhơn tình xóm nầy vậy đó mà, thiếu đủ rồi chan qua chan lại cũng xong. Chú thật thà và hiền lành từ xưa tới giờ.




Mãy năm sau, Chú Tám trở về thật, có ai tin được, những món nợ như gáo nước đổ đi, làm sao hốt lại được. Chủ nợ quên nợ, quên luôn chú, ‘bằng như gáo nước tưới hành không tươi’.



Chú Tám thì khác, lời hứa như đinh đóng cột. Chú về vẫn như xưa, không huy hoàng, mà giữ được trọn vẹn lời hứa xưa, tròn câu ơn nghĩa, chú chắt mót trả đầy đủ nợ, nghèo cho sạch, rách cho thơm.



Người ta vừa ý lắm, không tâng bốc chú, vì chú nghèo, tâng bốc chú được cái mốc gì.



Chú về đẩy chiếc xe lòng tới ngả tư chiều đầu tiên sớm hơn, Chệt Xái ngạc nhiên mừng reo, quơ tay nói chuyện liên miên với chú:



- Lứ cứ ở đây bán với úa, đừng có bỏ xứ đi, ở đây có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo.



Chú Tám mừng mừng tủi tủi gặp lại bạn già, nắm tay Chệt Xái , lòng bàn tay và ngón tay Chệt Xái đỏ dầy lạnh ngắt vì ngày ngày bào đập nước đá, cái lạnh của nước đá thấm luôn vô hai bàn tay chú Xái.



Gia đình Chú Tám vẫn lây lất sống, yên lành như thuở nào nếu không có thằng con đi lính nghĩa quân, lâu lâu anh ta kéo bạn bè về lấy lòng khìa nhậu be bét, quậy chán rồi đi.



Chú Tám tuổi xấp xỉ sáu mươi, một cở với Chú Xua, mỗi lần đi ngang lò heo Chú Xua, chú Tám thấy nhơ nhớ man mác trong lòng, ngại ngại cho chính mình mà chưa dám nói ra, chú lầm lũi đẩy xe lao chao trên đường đất cát.




Ra giêng, mấy đám cưới đám hỏi liên miên. Đám cưới nhà nghèo đặt làm giò heo, nhà giàu đặt làm gà vịt.



Chiều đó, họ giao một xe gà vịt đến cho chú làm, hôm sau giao cho họ để nấu nướng. Đám cưới chắc phải lớn, con chủ nhà máy xay lúa gã gấp cho con chủ tiệm đề bô la ve nước ngọt ở tỉnh, nghe đồn nó ngấp nghé muốn ôm gói theo thằng bạn đờn ca.



Những lồng gà vịt lớn nhỏ đủ loại chất đầy nhà, không hăng hái như lúc trước, lần này chú nửa mừng nửa lo. Mừng là thêm món tiền công khá, bà chủ nhà máy tính rộng rải, lo là chú cảm thấy mệt cầm canh từ đầu hôm tới sáng, vừa gà vừa vịt tròm trèm trăm con. Món tiền công dư dã trả tiền thuốc men vừa rồi, món tiền công và tiền cho thêm của bà chủ nhà máy lởn vởn trong đầu, chú linh cảm mình không được hưởng món tiền đó, không biết tại sao, có điều, hiện tại chú phải bắt đầu làm việc ngay, không thể để trễ giây phút nào. Từ đầu hôm phải làm gà vịt tới sáng, sau đó còn khìa lòng bán cho chiều, thêm mấy cái giò bán riêng cho tiệm cơm ngoài chợ. Chú sắp xếp thời giờ, liên tiếp vừa đêm vừa ngày, chú quên sắp thời giờ để ngủ, tưởng mình còn sức trai trẻ mấy mươi năm về trước.



Chú đẩy xe lòng vô nhà, dọn dẹp cho gọn gàng, bỏ lòng thịt bán dư vô thau đậy cẩn thận để vô tủ sợ chuột và gián, rồi lấy đủ loại dao ra mài cho bén; đâu đó xong xuôi, chú bắt hai chảo nước lên lò, đốt trấu và củi chờ nước sôi. Chú để những cái lồng gà một bên, lồng vịt một bên cho gọn ghẽ, sau đó lấy mấy chồng chén màu gan gà nhỏ cũ kỹ để sẵn dưới đất chỗ chú sắp sửa hành nghề bên cạnh mấy cây dao cắt cổ gà vịt.



Gần mười giờ đêm mà gà trong lồng rộ lên oang oác phản đối, ở góc nhà vịt thò đầu ra khỏi lồng, lắc đầu nghe ngóng nháy mắt tròn như hai hột cườm trong vắt, ngơ ngác, càm cạp.



Chúng đoán được số phận sắp chấm dứt khi nhìn và cảm thấy khung cảnh chung quanh, hôm sau, xác thân chúng sẽ nằm trong dĩa, trong tô, trong cù lao than hồng ... trên các bàn tiệc cưới.



Chú nắm cổ từ con gà kéo ra khỏi lồng đặt nằm trên mặt đất. Chú bẻ quặt tréo cánh gà rồi dùng chân phải đạp lên, chân trái đạp hai chân gà, tay trái nắm mỏ gà kéo cổ lên, ba ngón tay phải nhổ lông cổ cho sạch, cầm con dao ngắn, bề dài độ gang tay kéo một đường trên chỗ cổ đã trụi lông, đúng mạch máu. Gà kêu con cót trong cổ, mắt nháy láo liên, máu phún đúng vô chén nước muối dùng đựng máu để bên cạnh. Chú Tám kiên nhẫn đợi máu chảy ra hết, tay cầm con dao quậy đều tay chén tiết gà. Gà giẫy giụa yếu ớt, mình gà giựt giựt mấy cái rồi yên, máu đã chảy ra hết, Chú Tám dùng tay cầm chén tiết để lên bàn, tay xách cánh gà liệng vô góc nhà. Chú thường nói:



- Có người không biết, cắt cổ xong bỏ ra, gà phát chạy ngờ ngờ vì cắt không trúng chỗ.



Xong con này, tới con khác. Từ lúc bắt gà ra khỏi lồng đến cắt tiết xong, chú làm gọn gàng, các động tác phối hợp cùng lúc đều đặn và chính xác, lúc nhanh, lúc chậm, lúc chờ đợi kiên nhẫn. Vì thế nên nửa đêm, hai bên nhà chú không nghe tiếng gà vịt oang oác nữa, bếp chú chỉ còn tiếng nước sôi trong chảo, bầy gà vịt nằm im lìm một góc. Chú múc những miếng tiết đặc trong chén thả vô chảo nước sôi luộc cho cứng và dai, rồi vớt ra để trong rổ riêng, chén thì chồng lại để trên kệ. Chú sắp mấy thùng gỗ lớn để bên rồi nắm hai chân gà nhúng vào chảo nước sôi, trở qua trở lại, bắt đầu nhổ lông. Nhúng nước sôi cũng phải quen tay, nhúng lâu quá, da gà chín, lúc nhổ da tróc theo lông; không đủ nóng nhổ không sút lông. Tay trái cầm mỏ gà, tay phải vuốt từ đầu xuống tới ức gà sạch lông. Nắm đầu gà, nhúng mình gà vào chảo lần nữa, hai bàn tay vuốt lưng, mình, xuống hai đùi gà, xong mới dùng ngón tay nhổ lông cánh và những sợi lông còn sót lại. Chú Tám có thể nhắm mắt, hay vừa nói chuyện vừa nhổ lông gà mà không cần nhìn gà, ‘nhổ lông chỉ cần hai bàn tay, không cần tới mắt’. Chú từng làm đủ loại gà, gà cồ, gà nòi, gà giò, gà mái dầu, gà nồi, gà chân đen, chân vàng, gà thiến ... Vịt như vịt tàu, vịt hảng, vịt xiêm lai, ngỗng, ngan, thậm chí chú từng làm thịt công, trỉ, gà lôi, các loại chim nhỏ như se sẻ, áo già, mỏ sắt v.v... Cũng gà vịt, nhưng cách nhổ lông khó dễ tùy loại, thường thì làm mỗi con gà ăn công mười đồng, vịt phải mười hai đồng vì vịt phải nhổ lông măng bằng nhíp, lâu hơn gà. Nghề nghiệp biết sao, chú làm ăn công, nhưng thỉnh thoảng lúc cắt cổ vịt, mắt vịt tròn ngây thơ đễ thương quá, chú thấy ngại ngại chùn tay, ý tưởng chỉ thoáng qua, chú phải tiếp tục, lột cho hết vẫy và da trên chân gà vịt.



Gần hai giờ đêm, gà vịt trắng toát nằm trong mấy cái thùng gỗ, chú đứng dậy rửa tay, chuẩn bị mổ bụng gà vịt, chú lau sạch bàn thớt và sửa soạn loại dao để chặt. Chú đặt gà nằm ngửa, dùng dao chặt giữa ức, rọc xuống cho thẳng hai phần bằng nhau, bẻ gà ra, móc hết ruột gan lòng bỏ vô thùng bên phải chú, gà thì chú nhúng nước lạnh rửa sạch để trong rổ tre cho ráo nước, từ con này sang con khác, gà rồi tới vịt. Không như lúc bị cắt cổ, gà vịt bấy giờ nằm yên cho chú làm việc dễ dàng hơn.



Sau cùng là việc làm tỉ mỉ cẩn thận. Khó khăn nhứt là mổ mề gà vịt, rứt những miếng mỡ dính trên mề cho sạch, dễ bị đứt tay vì mề nhỏ trơn khó giữ, sớ thịt lại cứng. Ruột gà vịt cạo sạch để riêng, nhỏ ngắn hơn ruột heo, gan gà phải nguyên vẹn không rách, đầu bếp xắt miếng để vô cù lao.



Thỉnh thoảng được một đùm trứng non màu vàng tươi trong bụng gà mái đẻ, luộc ăn bùi bùi. Trứng non không cần phải giao cho chủ, nhưng chú Tám không dấu lại dù là một nắm mỡ gà, một đùm trứng non, chú chỉ lấy tiền công, đổi bằng mồ hôi nước mắt nhọc nhằn trắng đêm như đêm này.



Tiếng lao xao trả giá thịt mấy lò heo bên cạnh nhà bắt đầu, Chú Tám cũng sắp sửa xong. Chú đặt từng con gà, con vịt làm xong trên thớt, trước mặt chú là những thau lòng làm sạch, để riêng, tim gà theo tim gà, mề gà theo mề gà ... Chú mổ bụng gà ra, để một trái tim, một lá gan, một cái mề, một xâu ruột vô bụng gà, lấy dây lạt buộc lại cho lòng đừng rớt ra, đầu bếp đám cưới dễ kiểm soát, huyết gà giao riêng, vì để chung sẽ bị bể.



Chuông nhà thờ bên đồn lính Tây cũ vừa đổ hồi. Người tổng khậu đám cưới tới lấy gà vịt, đếm xong rồi bưng ra xe lôi chở đi, hắn ngoáy đầu lại dặn: ‘Trưa trưa, bà chủ qua đưa tiền’.



Chú Tám chống tay trên bàn lấy điểm tựa, tay chân nhức nhối, mình mẩy bần thần lạ. Ngán ngẫm nhìn quanh, rồi lặng lẽ hốt lông vịt để vô rổ, gác trên giàn bếp cho khô để bán cho người mua ve chai lông vịt, rổ lông vịt là món tiền bỏ ống của chú. Nền xi măng ướt mem, chú lấy chổi ráng quét soàn soạt lông gà dính trên sàn nhà, đẩy vô một góc, rồi ra giếng múc từng gàu nước dội cho sạch. Chú tới lui chậm chạp thấy rõ, hậu quả của suốt đêm làm việc. Chú trừng trừng nhìn góc nhà, đống lông gà dính máu mỡ và thịt vụn bầy nhầy.



Cơn gió núi sáng sớm lọt qua khe cửa lá, chú rùng mình khó biết là chú đang bị nỗi lo sợ vu vơ ám ảnh từ ngày trước. Gà vịt giao rồi mà tiền công chưa trả, tiền chưa vô túi, chú chưa thấy yên tâm, mọi khi lấy tiền trước hay ngay sau khi giao, món tiền khá cao chú chờ đợi với chút đỉnh lì xì. Chắc chắn bà chủ nhà máy sẽ trả, lại cho thêm là khác. Vậy mà sao chú cảm thấy chú khó lòng nhận được món tiền này, lạ thiệt. Nhớ tới đống gà vịt vừa giao, dạ dày chú trào lên một dịch vị tanh ói. Không khí âm lãnh bao trùm bếp. Đã đến giờ qua lò heo lựa lòng, chú thiếu hứng thú vì mỏi mệt. Cả mình mẩy áo quần dính máu mỡ ẩm ướt, lông gà, mạc gà ngứa ngáy, bùn đất từ đầu đến chân nhớp nhúa làm sao ngủ, muốn tắm cho trôi hết chất bẩn mà sợ gáo nước giếng lạnh giá buổi sáng sớm. Suốt đời chưa được nghỉ ngơi ngày nào, dù là ba ngày Tết. Lúc thiên hạ vui chơi giải trí là lúc chú cực khổ nhứt.



Chú buông mình trên ghế đẩu, tay chân buông thỏng, nhắm mắt thiêm thiếp được chốc lát, tai văng vẳng tiếng cạp cạp oang oác, cọt cọt của loài gia cầm. Tiếng đập cánh phành phạch giẫy giụa vô vọng, lúc đầu ít, nhỏ, sau rầm rộ hơn, lớn dần vang dậy.



Xác gà vịt trắng xác nằm ngổn ngang trên bàn loi ngoi cựa quậy đứng dậy. Bầy vịt mọc lông trở lại bay tán loạn kêu cạp cạp vang trời. Bầy gà giương cổ gáy the thé oán hờn. Hàng hàng lớp lớp gà mỏ đỏ máu nhọn hoắc cứng như sắt bay ập lại mổ mắt chú, bầy vịt rỉa nhức nhối thịt xương chú. Chú thấy mình bơ vơ trong thế giới âm u lạnh lẽo, hai tay chú quơ quào tìm cách chống đỡ, chân cố bước chập choạng thối lui, chú cố lấy hơi thở. Bầy gà vịt biến thành hàng vạn kên kên đầu sói quái đãn, đầu ngúc ngắc, rồi quạ đen tinh quái bay tới mổ mắt chú, bụng chú tuôn ra đùm ruột già nhơn nhớt tanh tanh. Bầy kên kên giành nhau những khúc ruột chú, bay lởn vởn, kêu chí chóe. Chú bay phất phơ trong không gian lạnh buốt, giành chùm tim phổi với bầy kên kên quà quạ. Chú càng bay cao, bầy kên kên tha ruột càng bay xa. Lạnh quá, chú muốn quay trở về, nhưng ở trạng thái bồng bềnh không chỗ tựa, chú vô vọng tìm đường về, chú lạc mất đường về.



Chú há miệng, mùi trà gừng trôi xuống cổ, hình như có ai xoa bóp và cạo sồn sột trên lưng chú, chú nghe tiếng khóc kêu gào trong thế giới mê mờ, gương mặt vợ con chú thấp thoáng rồi tan đi. Nhưng chú thấy rõ lắm, Chú Xua lãng đãng gần xa, cổ Chú Xua quấn một nùi ruột heo lủng lẳng, đầu đội cái đầu heo nọng lắc lư, nhăn răng trắng nhởn cười hềnh hệch, vừa đưa tay ngoắc.



Người ta đứng cạnh giường chú nghe chú nghèn nghẹn kéo từng hơi thở, mắt chèm nhèm nhắm nghiền, nước mắt tuôn ròng ròng. Chú cong mình, nghiến răng trèo trẹo, ú ớ:



- Tội nghiệp ... Tội nghiệp tui! Ai ... người ta ... ai ăn ngon, bắt tui cắt ... cổ, tại tui nghèo ...




Chệt Xái ngồi ủ rủ im lìm trên ghế sau xe nước đá, ngậm miệng nuốt nước bọt khi đám ma Chú Tám Giò đi qua. Chệt Xái nhớ chú Tám, dù chưa qua lại thân đến độ phải đi đưa đám ma chú. Chệt Xái nhớ Chú Tám, cả hai làm ăn lương thiện, lấy công làm lời, cả hai nương tựa nhờ vả nhau sống, một người nằm xuống, người còn lại cũng đi xuống, ai uống la ve mà thiếu món bao tử khìa?



Đêm cúp điện, trăng lu, sắp mưa, Chệt Xái buồn bả đẩy lọc cọc xe nước đá về, ánh trăng vàng vọt, bóng Chệt Xái ngã dài trên đường đá gập ghình. Chệt Xái thấy bóng dáng gầy guộc của Chú Tám Giò khòm lưng lủi thủi đẩy xe lòng thịt khìa đi trước mặt mình. Chệt thấy thương Chú Tám vô hạn, mất Chú Tám, chệt bị mất mát quá nhiều, ngoài lợi tức còn tình cảm. Hình ảnh Chú Tám thái dĩa lòng để trên bàn cho khách, khách kêu chai le ve. Khách đứng dậy, Chú Tám thâu tiền dĩa lòng, Chệt Xái thâu tiền la ve. Càng nhiều dĩa lòng thì càng nhiều la ve.



Hôm nào mưa vắng khách, cả hai cùng chung niềm lo âu, cùng cầu mong mưa tạnh, cùng xây mặt ra đường, cùng mời mọc người qua kẻ lại.



Chệt Xái ngồi bơ phờ nhìn đám mây đen cuồn cuộn, xoa hai bàn tay tê cóng vì cả đời chỉ bào và đập nước đá, lòng bàn tay mất cả cảm giác. Hết hy vọng, chệt đành đứng dậy dọn dẹp, xếp ghế rồi đẩy xe về, vừa đi vừa chép miệng an phận:



- Ông trời hổng thương thì mình đi về ngủ cho khỏe cái thân.



Đêm đó, Chệt Xái nằm gác tay lên trán, mưa dập vùi mái lá, vẩn vơ thấy nhớ Chú Tám Giò. Thấy khô cổ lạt miệng, chệt chổi dậy uống một gáo nước lạnh cho mát cổ. Cơn gió bên ngoài phần phật thổi bung cánh cửa sổ lá, chệt chóng mặt ớn lạnh, ngả quay lên giường trùm mền ngủ. Cả người Chệt Xái run bần bật, cái lạnh từ trong ra ngoài, hàm răng đánh lách cách, mền không đủ ấm, vì Chệt Xái đã biến thành cây nước đá ủ trấu tan dần. Quá sức chịu đựng vì bị cảm hàn, Chệt Xái thét lên:



- Phú, chết theo thằng Tám Giò cho có bạn.

Nhái đồng (MP2)

Viết lúc 06:02 sáng 18/05/2011

Hai giờ sáng. Trời đột ngột đổ mưa giông tầm tã. Gió rít lên ngoài khung cửa, mang theo bao nhiêu lá, bụi bay vào căn phòng. Loạng choạng rời khỏi chăn ấm, ra đóng chặt cánh cửa lại.  "Đoàng"

...

đột nhiên sấm đánh oang tai, làm mình giật hết cả mình. Lâu lâu bị thần sấm dọa cho một lần bạt vía.

Ba giờ sáng. Vẫn không ngủ được.  Tự dưng lại nhớ chuyện lúc ở nhà cùng đứa em trai yêu quý, ban đêm đi bắt cóc, nhái bị gặp mưa giông, ướt nhẹp hết cả mình mẩy, về đến nhà co ro vì lạnh nhưng vẫn bị mắng vì cái tội không nghe lời.

Không nhớ rõ là ngày tháng năm nào là bắt đầu sinh ra nghiện cái món nhái băm cuốn lá lốt. Chỉ nhớ là cứ sau mỗi độ cơn mưa dông vừa dứt, chờ đêm đến hai anh em lại lóp ngóp cầm đèn pha, giỏ đựng hăm hở đi. Mùa nhái nhiều nhất là phải sau khi thu hoạch lạc xong, còn khoảng một tuần nữa là bước vào mùa trồng đậu xanh. Sau cơn mưa, nước ngập lênh lác cánh đồng, những chú nhái béo phị ngóc đầu lên tắm táp hơi sương và ngắm trăng. Lúc này, khắp cánh đồng rộn lên tiếng ếch, nhái râm ran chuyện trò í ơi, tiếng vĩ cầm của những chú dế mèn xinh xắn nhưng cũng rất ưa ngạnh.

Mỗi lần đi như vậy, thu hoạch được ít hay nhiều còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có cả thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nói có vẻ như cầm quân đi đánh giặc vậy nhưng mà cũng không ngoa chút nào cả. Trời càng mưa lớn thì nhái ra càng nhiều. Đèn pin hay đèn pha phải sáng để tập trung độ sáng chiếu vào mắt ếch, nhái. Giỏ đựng thì hãy "kiểm tra cẩn thận trước khi dùng", vì đang trong cuộc vui chinh chiến mà giỏ không có đáy, bị rách thì cuối buổi chỉ còn cách là "Take Mo Face" trở về nhà thôi. Còn nhân hòa thì đó là phụ thuộc vào đội ngũ thợ săn nhái là nhiều hay ít.

Giờ G đã điểm. Chân phải bước thứ nhất, chân trái bước thứ 2... Let go! Hê, hôm nay may quá, vừa bước chân ra khỏi sân, quét ánh đèn pha thì đã bắt gặp ngay chú nhái béo mộng đang giương mắt nhìn chằm chằm đầy thách thức. Kinh nghiệm từng trải, tôi chiếu ánh đèn vào đôi mắt của nó, do bị lóa ánh đèn nên nó như bị thôi miên không chớp. Khâu finish thì dành cho chiến hữu My brother. Trước khi cho vào giỏ không quên kiểm tra một lần nữa, không thì công toi. Bây giờ thì đã chắc lòng khi nghe chú nhái ta đang nhảy nhót trong giỏ. Tiếp thêm một con nữa, lại một con nữa. Cứ theo chiến thuật đã định, lần lượt hết chú nhái này đến chú nhái khác thay nhau vào giỏ. Tuy nhiên, không phải bất cứ con nào cũng bắt được dễ dàng cả. Mà gặp nhiều con cũng rất cứng đầu, có lẽ là do chúng là hậu duệ của các nhái ông nhái cụ nhà nó từng bị tôi tóm hụt nên giờ được truyền lại bí kíp chống đối chăng? Sau vài chiêu mệt nhọc mà không thành thôi đành hậm hực bỏ qua cho tụi nó. Hôm nào may mắn thì tóm được vài chú ếch bự, ngon lành.

Mỗi lần đi săn nhái, tôi phụ trách ánh sáng, còn em tôi là khâu kết thúc. Thật ra đi bắt nhái nhưng tôi có chút gì đó hơi sợ sệt. Bởi vậy mà thằng em lúc nào cũng bảo tôi là "khôn ranh". Thôi kệ, làm anh khôn chút có sao đâu.

Lúc này đã gần 10g đêm. Ánh trăng mờ tỏ trên đầu, hắt bóng nghiêng soi trên mặt ao nhưng so với ánh đèn pin thì không sáng bằng. Nhìn xa cánh đồng, gần chục ánh đèn pin của những tay săn nhái, lập lòe như đom đóm trong đêm, thỉnh thoảng lại quét dọi lên không trung vài vệt sáng mơ hồ, mông lung, càng gợi lại khung cảnh nghèo khó của làng quê. Cái giỏ mang bên hông giờ đã khá nặng. Càng về khuya, trên cánh đồng càng thưa người dần.

Khoảng chưa đầy một tiếng đồng hồ sau đó, anh em tôi Come back home và không quên hái lá lốt mọc ven đường.

Giờ đây nhường lại những âm thanh của băm chặt, chế biến cho cha. Nói chung đây cũng là món ăn khá đơn giản, nhưng lại đậm chất đồng quê. Sau khi cho nhái trụng sơ qua nước sôi, làm sạch da, mổ sẻ làm sạch. Sau đó là bằm nhỏ, có thể ướp qua chút gia vị. Lá lốt rửa sạch, để nguyên lá. Cho thịt nhái băm vào cuộn trong lá lốt, bắc chảo lên, cho chút mỡ vào chiên vàng.  Chốc lát, mùi nhái quyện với lá lốt dậy mùi thơm lừng. Còn gia vị thì tùy khẩu vị từng người mà dùng nước chấm cho thích hợp. Cầm miếng ăn nhẹ nhàng đưa vào miệng để cho  hương đồng gió nội từ từ thẩm thấu vào 5 giác quan. Không uổng phí một đêm vất vã.

Tuổi thơ nhiều lúc đơn giản chỉ là vậy, nhưng lại làm ta càng gắn bó với quê hương, thêm yêu quý gia đình. Giờ anh em thôi không còn đi bắt nhái đêm trăng, không phải vì chúng tôi đã lớn mà chúng tôi hiểu rằng những chú nhái ngỗ ngược đã làm xanh tốt những cánh đồng, cùng những người nông dân lam lũ góp nên những vụ mùa ấm no,

Những tay "săn nhái" ngày xưa giờ đã trở thành những người "ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng" ngày ngày góp công bảo vệ những sinh vật có ích, trong đó có họ hàng nhà nhái.

Sơn Tây tứ quý

alt=PDF v:shapes="_x0000_i1030">

alt=In v:shapes="_x0000_i1031">

alt=Email v:shapes="_x0000_i1032">

Viết bởi Administrator

  

Thứ bảy, 16 Tháng 10 2010 08:46

Trong số bạn bè của tôi, có một tay rất sành sỏi trong sự ẩm thực, có nhiều dịp được thưởng thức của ngon vật lạ khắp nơi. Riêng đất Hà Tây, anh khoe đã đến bánh dầy Quán Gánh, rượu làng Chuôn, bánh tẻ Cầu Liêu, chè lam làng Thạch, thịt chó - cháo vịt Vân Đình... Tôi phải công nhận đấy là những đồ ăn thức uống ngon. Nhưng ngon chưa hẳn đã là quý. Chưa có món nào trong “ranh mục” của anh là quý hiếm đã từng được đem tiến vua cả. Ấy vậy Sơn Tây quê tôi có 4 món tiến vua: Dân gian vẫn thường gọi là “Tứ quý”. Đó là:

Sài Sơn chi biển bức
Cấn Xá chi lý ngư
Khánh Hiệp chi kỳ bành
Linh Chiểu chi úng thái

(Dơi mặt ngựa Sài Sơn,
Cá chépvàng Cấn Xá,
Cua kềnh Khánh Hiệp,
Rau muống Linh Chiều).

Dơi, cua, cá, rau muống chỉ là những món tầm thường chốn dân gian, cớ sao gọi là quý được? Từ nhỏ tôi đã nghe các cụ kể về bốn thức đó, lớn lên lại đem phô cùng bạn bè. Thực tình tôi cũng chẳng biết nó thế nào. Tôi bèn rủ anh bạn “tốt bụng” của tôi làm một chuyến du khảo tìm về những nơi sản ra bốn thứ quý đó. Chúng tôi gọi đó là chuyến đi tìm về với cội nguồn văn hóa dân tộc. Chứ sao, Ai bảo chuyện ăn uống của người xưa không phải là câu chuyện văn hóa?
.
Đây rồi Sài Sơn non xanh nước biếc. Ngồi lân la ở quán nước cô Tuyết dưới chân núi Thầy, bọn tôi túm ngay được một “ông văn hóa xã”. Việc đầu tiên là phải “điều trị” nhau vài chén rượu để cho chủ khách nóng mặt lên cái đã. Sau ba chén rượu, mặt đỏ như tô phẩm, tiếng thời đã méo như tiếng loa thùng đầu phố huyện, “ông văn hóa xã” cứ day đi day lại một câu rằng: Các vị chớ có mà coi thường con dơi ở đất này!

Loanh quanh thế nào, bọn tôi cũng đã có được một cặp dơi Sài Sơn “chính hiệu” trong tay. Một cái mặt ngựa gân guốc với đôi mắt chòng chọc nhìn bọn tôi rồi nghiêng ngó cái đầu như bảo rằng: Khách ở nơi nào lại? Trời? Béo núc! Cầm lún cả những ngón tay. Lông nó ngắn, màu tro bếp và mịn như lông chim vành khuyên. Thôi đúng là loại dơi được chép trong sách “Đại Nam nhất thống chí” rồi! Bạn tôi khư khư giữ lấy nó, cứ như là nó sắp vụt bay vào đám khói lam chiều mà về với thiên nhiên xứ này vậy. “Ông văn hóa xã” bảo dơi ở đây cũng có vài loại. Dơi mặt chuột là loại thường. Dơi đặc biệt chia làm hai hoại: Trung cách, ức màu vàng nhạt, Thượng cách, là bạch dơi (dơi trắng). Những con dơi mà chúng tồi có trong tay là Trung cách.Người ta đồn rằng lợn ốm chỉ một bữa cám có da, ruột dơi là khỏi hết. Người ta còn đồn rằng thịt dơi ngon đã đành, lại còn chữa được cả bách bệnh.

Đôi dơi của chúng tôi được “hóa kiếp”, đặt xuống đất một lúc (đáng lẽ phải “hạ thổ” thế những một đêm mới phải), cho nó tự sinh ra mỡ, rồi đem lột da. Một bà cụ đi qua xin ngay cái bộ da quý hóa ấy về cho con lợn ốm đã mấy ngày. Đôi dơi được rán lên, không cho gia vị, vậy mà thịt nó chẳng có mùi hôi cứ thơm nức mũi. Hoa thơm quả ngọt xứ này thấm vào da thịt chúng, chạy trong máu chúng để có mùi thơm dễ chịu này chăng? (Đây là loại dơi “sang”, chỉ ăn hoa quả chín chứ không thèm ăn muỗi như bọn dơi tầm thường khác).

Thịt dơi rán giòn được bày lên một cái đĩa sứ trắng muốt đã được phủ một làn rau xanh mát. Khi miếng thịt được đặt lên đầu lưỡi, thì lạ chưa cứ nức lên mùi hoa quả chín? Chả thế mà ông bạn tôi, một người rất nhiệt tình trong “cuộc sát sinh” này, đã bảo rằng không cần phải “gia” một tí “vị” nào sất. Đám tục khách trong quán nhìn bọn tôi với con mắt đầy ghen tỵ...

Bắt loại dơi này cũng chẳng dễ dàng gì. Và không phải lúc nào cũng bắt được, mà phải là trong những tháng đông - xuân rét đậm. Người đi săn dơi phải lên núi từ chập tối, lúc đàn dơi đi ăn, ngồi đợi trong hang đá, chịu khí đá buốt thấu xương cho sạch hơi người, đến canh ba canh tư căng lưới lên đón dơi đông hàng vạn con như những luồng khói xám ùa vào hang động.Con dơi có tên chữ là PHÚC, đồng âm với PHÚC là hạnh phúc, là may mắn, là tốt lành. Mới hay con dơi Sài Sơn mang đúng ý nghĩa của từ này. Bạn tôi bản: Ai có phúc lắm mới được ăn thịt dơi Sài Sơn đấy? “Ông văn hóa xã” bảo năm trước cụ Vũ Kỳ, thư ký riêng của Bác Hồ về thăm Sài Sơn, trong bữa tiệc đãi khách do Huyện ủy tổ chức, cũng mỗi người được một con dơi Sài Sơn “chính hiệu”. Ăn dơi Sài Sơn bên chùa Thiên Phúc (chùa Thầy) thì thật là thiên phúc: Phúc lộc giời cho. Sài Sơn thật đại phúc vì hàng năm được dâng lên vua một món, tưởng là tầm thường hóa ra lại là một món “Thời Trân” thượng hạng.

Từ biệt Sài Sơn sau khi đã vào thắp hương Đức Thánh Từ Đạo Hạnh, đọc vài đôi câu đối trong chùa Thiên Phúc và ngước trông núi chùa Thầy hùng vĩ, thầm cảm tạ trời đất đưa lại duyên lành, chúng tôi vội về Cấn Hữu (cũng thuộc huyện Quốc oai) để “khảo” về cá chép ngay.
Anh bạn tôi vốn là tay láu cá có hạng, bảo tôi dứt khoát phải vào ngày chợ Bung, là cái chợ to nhất Phủ Quốc đã vào chợ, xông ngay vào mấy chị hàng cá để khảo giá và xem cá mú ở đây thế nào mà dám liệt vào “Sơn Tây tứ quý” như thế. Chúng tôi thấy cũng chẳng có gì lạ cả.Hỏi thăm đường vào làng Cấn Xá Thượng, bọn tôi tìm đến nhà cụ Lê Hữu San, 75 tuổi, nhà nho cuối cùng của làng Cấn để hỏi cho ra nhẽ. Chúng tôi được cụ trò chuyện rất niềm nở. Cụ bảo: Xã này bây giờ là Cấn, nhưng ai đọc: “Cấn Hữu chi lý ngưu” là sai đấy các bác ạ phải đọc là “Cấn Xá chi lý ngư” mới đúng. Vì Cấn Xá Thượng và Cấn Xá Hạ mới sáp nhập với Hữu Quang thành ra Cấn Hữu thôi? Cụ còn cho biết làng Cấn, gần cả làng mang họ Cấn. À, thi ra Cấn Xá là cái làng được định danh bởi họ Cấn. Cấn Xá, nơi cư trú của họ Cấn, cũng giống như Nguyễn Xá, Đào Xá vậy.

Cụ san dẫn chúng tôi ra đầm Bung, một cái đầm rộng và sâu, trước đây gồm cả “tứ xã”. Cấn Xá là cái rốn của đầm Bung. Dân ở đây có câu “Nhà con một chớ đi đò đầm Bung” là vì thế. Người có công khai phá đầm Bung là một bà họ Cấn, mà trong văn khấn gợi là “Cấn tôn tỷ khảo”, nay còn được thờ ở Đền Nhà Nhà Bà. Đầm Bung rộng và sâu nên có nhiều cá chép lưu niên, có con nặng đến vài ký. Cụ San bảo đầm Bung có một loài cá chép đặc biệt, da vàng hộm, đuôi đỏ hồng, béo múp đầu, trông chẳng khác gì con cá trong tranh “Lý ngư vọng nguyệt”. Loài cá này thịt béo mà không ngấy, mềm mà không nát, thơm chứ không tanh. Mỗi năm dân làng Cấn có một ngày đi đánh cá đầm Bung. Ai được cá chép loại này đều nộp lại cho làng để hội đồng lý dịch tuyển chọn lấy những con to nhất, đẹp nhất đưa về kinh dâng vua. Nay loài cá này đã ít đi, nhưng thỉnh thoảng người ta vẫn gặp ở chợ Bung.

Cụ bà Dương Thị Nhiên bảo, mới năm ngoái thời cụ đi chợ Bung còn gặp được con cá chép như thế. Con cá có chiều ngang bằng quyển vở học trò, da vàng hộm, miệng còn ngoáp ngoáp. Cái đầu nó nhỏ thôi, béo múp lại, trơn nhẫy; hai cái râu ngắn ngắn bên miệng trông thật xinh. Vây cá đều đặn xếp chồng lên nhau tang lớp. Đuôi cá xòe ra, vẫy vẫy Mắt cá trố lên nhìn mọi người. Ấy thế mà dân chợ chỉ xúm lại xem chứ không ai dám mua về ăn. Họ bảo “Chim trời cá nước”, nhỡ “phạm” thì khốn, biết đâu họa phúc thế nào.

Đây là cái “kỳ” của con cá chép Cấn Xá. Chuyện con cua Khánh Hiệp còn “kỳ” hơn chăng?Thôn Khánh Hiệp (thuộc xã Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ, Hà Tây) có một cái chợ. Chợ nằm trên một cái gò, gọi là gò Ma Khống. Xưa gò này nẩy ra một loài cua to bằng cái bát ăn cơm, da vàng xôm. Mỗi năm cua chi ra có một lần, mà oái oăm thay, nó ra vào một ngày bất kỳ trong năm. Ai thấy cua ra phải hô hoán để mọi người cùng bắt. Ai bắt được, nộp ngay cho lý trưởng để giống dâng vua. Ngày cua bò ra, chợ Hiệp như một ngày hội huyên náo.

Vào một năm nọ, đã lâu lắm rồi, cua bò ra, vết chân cua in xuống nền đất sỏi như những mũi dùi sắt chọc vào đất. Người ta đã bắt được vài con. Vô phúc thế nào, ai đó đã Làm gãy chân của một con cua. Lý trưởng sợ xanh mắt. Hội đồng lý dịch gồm đủ mọi quan viên lớn bé ra công khảo xét, cố công tìm cho ra kẻ làm gãy chân con cua quý để phạt tội. Thủ phạm không tìm được, đành chịu. Dân làng bí mật làm thịt con cua gãy chân đó. Người ta làm một bữa canh cua trong cái nồi đồng tám. Bữa đó dân làng được nếm một bữa canh cua mà trong đời mỗi người không có cơ may được nếm thêm một lần não nữa. Cũng may, lần đó không có ai tố giác chuyện đó với quan trên.

À ra thế. Thế mới gọi là quý chứ! Quý vì ngon và lạ. Ở đồng Thùi (xã Đồng Quang, Quốc Oai) có một loài cua ngon nổi tiếng, nổi tiếng đến nỗi:

Lòng em cũng muốn lấy vua
Nhưng em còn tiếc con cua đồng Thùi
(Ca dao Quốc Oai)

Nhưng lạ và hiếm thì đâu dám sánh với cua Khánh Hiệp.

Khác với dơi Sài Sơn, cá chép Cấn Xá, cua KhánhHiệp là những loài được tạo nên bởi trời đất; rau muống Linh Chiều là một sản phẩm của con người. Linh Chiều thuộc “vành đai rau xanh” của Sơn Tây. Rau muống Linh Chiểu (huyện Phúc Thọ), Sen Chiều hay Tiền Huân thì cũng chẳng khác gì nhau cả; cũng thân mềm, xanh mướt, rễ trắng và hơn đứt thứ rau muống Trung Quốc dễ mềm nát, bở và nhão. Vậy đâu là cái thứ “Rau muống tiến vua” đây? Các cụ già làng Linh cho biết rau tiến vua là thứ rau muống của làng Linh Chiểu, nhưng được mọc mầm trong một con ốc. Người ta bắt ốc về, làm cho chết đi rồi cấy mầm rau vào đấy Cái mầm rau xanh màu cốm ấy sẽ lớn lên nhờ chất béo của con ốc. Khi rau đã tầy một gang tay, người ta đem cả cái con ốc - rau ấy lên kinh dâng vua. Chúng tôi cùng “à” lên một tràng. Một kiểu gieo trồng độc đáo, kỳ lạ; đến nỗi dân cả vùng ấy cũng chẳng làng nào nghĩ ra được. Nó quý vì nó không sống bằng đất mà nhờ vào xác một con ốc đã từng ăn rêu xanh, bùn đất xứ này. “Thiên nhiên” đến thế là cùng?

Từ Linh Chiểu ra về, trong bảng làng hoàng hôn xứ Đoài bạn tôi phấn chấn bảo với tôi rằng: “Sơn Tây tứ quý” quả là “danh bất hư truyền”; thỉnh thoảng ông lại cho tôi về chơi nhé? Chứ sao!!!

Muông thú khắc khoải... (Bài 1)

Thứ tư, 22 Tháng 6 2011 08:50

Bài 1: Theo chân thợ săn

Những họng súng của giới thợ săn, cùng với phong tục bẫy bắt của người dân đã tàn sát theo kiểu tận diệt động vật trong rừng.

Nhiều ngôi làng ở xã Cà Dy, Tà Bhing, thị trấn Thạnh Mỹ (Nam Giang), Phước Xuân, Phước Năng (Phước Sơn)… nằm sát cạnh Khu bảo tồn thiên nhiên nhiên Sông Thanh được biết đến như “làng săn bắn” động vật rừng. Món lợi từ nghề săn thú đem lại khá lớn, khiến không ít người dân địa phương lén lút mua sắm súng đạn, tự chế đồ nghề bẫy bắt, bất chấp pháp luật. 

Vào rừng xem bẫy thú

Chúng tôi theo chân Alăng Nghía, một thợ săn chuyên nghiệp của làng Pa Roong, xã Cà Dy lội bộ vào nhiều khoảnh rừng trong vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Sông Thanh. Chiều vùng cao mây mù giăng xám xịt, thi thoảng sấm sét vần vũ trên không trung; rồi mưa rừng xối xả trút xuống. Alăng Nghía bình thản chẳng lo lắng gì khi lọt thỏm trong cánh rừng già âm u. Chỉ tay về cánh rừng dày đặc cây cổ thụ phía trước, Alăng Nghía nói: “Ngày trước chỉ cần vào rừng khoảng vài trăm sải chân là có thể đặt bẫy, nhưng giờ thú rừng thưa dần. Để bẫy bắt được thú, chủ yếu là nai, hoẵng, heo rừng phải đi đến tận rừng sâu. Nếu bẫy ở vùng đệm khu bảo tồn, cánh thợ săn sẽ đụng đầu. Trong rừng này, mỗi làng đều có lãnh địa săn bắt riêng”. Vượt qua không biết bao nhiêu con suối, lách qua nhiều dây leo bụi rậm, thỉnh thoảng nghe vài tiếng tác của thú rừng vọng lại, lạc lõng. Đến một bụi cây um tùm, Alăng Nghía bỗng ngồi phệt xuống, mắt lần theo những dấu chân nai. Anh đào một hố đất rộng 40cm, sâu 30cm, thả sợi dây cáp đã thắt xuống, đồng thời buộc một đầu sợi dây cáp này lên ngọn tre đã làm cần bẫy xuống hố. Sau đó, anh lấy cành củi khô bắc ngang qua hố và phủ lá khô lên trên hố đất. Chỉ khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ, Alăng Nghía đã đặt được gần 10 cái bẫy ở nhiều vị trí khác nhau trong rừng. Hết bẫy Alăng Nghía ra tín hiệu trở về làng trước khi trời nhá nhem tối. “Thường thì dân làng bẫy nhiều nhất là nai, heo rừng. Nếu chịu khó bẫy càng nhiều thì khả năng thú rừng bị dính càng cao. Bình quân mỗi tuần tôi bẫy được ít nhất 2 con thú. Nhóm thợ săn bây giờ còn trang bị cả súng nữa” - Alăng Nghía nói. 

Theo giới thợ săn, các công đoạn bẫy heo rừng, nai, hoẵng thì đơn giản, khó khăn nhất là bẫy những con thú nhanh nhảu như voọc, chồn hương, báo lửa… Nếu phát hiện ra các loại thú này, người thợ săn phải đi nhẹ nói khẽ, trườn bò từng mét như… bộ đội đặc công. “Với hổ, báo, chồn hương nếu phát hiện, chỉ có cách dùng súng sát hại. Người dân có trang bị súng nhưng sử dụng lén lút nhằm tránh sự kiểm soát của kiểm lâm” - Alăng Nhiên,  một tay thợ săn khác của làng Cà Dy tiết lộ thêm.

Ký ức xa xăm

Nhiều nơi ở vùng cao hiện vẫn còn nhiều tên đất, tên làng gắn liền với sự đa dạng của thế giới động vật. Đó là hang Dơi, xã Mà Cooih - Đông Giang; bãi hang Nhím, làng Trà Văn - xã Phước Kim và đồi Chim - xã Phước Thành (Phước Sơn). Đây là những “miền đất lành” cho muông thú trú ẩn, sinh nở. Tập tục săn bắt của đồng bào hình thành từ lâu, nhưng tất cả đều tuân theo hương ước, quy định rất nghiêm ngặt. Nếu thợ săn nào vi phạm sẽ bị xử công khai theo luật của làng. Trong ký ức của già Alăng Ri (xã Mà Cooih  - Đông Giang), cứ vào đầu tháng 9 âm lịch, đàn dơi khắp nơi di cư về các hang núi để trú đông. Dơi nhiều vô kể, đến mùa sẽ sinh sôi nảy nở trong khe núi. Theo đó, tục của làng chỉ cho phép bắt dơi đực đã trưởng thành, tuyệt nhiên không được bắt dơi con, dơi cái sinh sản. Thế nhưng, bây giờ, hang Dơi đã xóa sổ do hầu hết diện tích đất rừng của làng đã ngập sâu trong lòng hồ thủy điện Avương. Alăng Ri thật thà: “Xưa, cả làng tôi sống được là nhờ nghề săn bắt động vật rừng. Dân nào bắt được thú sẽ chia thịt đều cho cả làng cùng ăn. Tuy nhiên, hương ước của làng quy định rất rõ, chỉ dùng bẫy bắt thú già. Một số loài thú thì chỉ cho bắt con đực. Nếu lỡ bẫy được con cái và thú chưa trưởng thành, lập tức thả về rừng ngay”. 

Theo lời già Alăng Ri, phần lớn nghi lễ của đồng bào Cơ Tu xưa lẫn nay đều thờ cúng thịt thú rừng. Các gươl truyền thống bây giờ còn treo đầy xương của các ĐVHD săn bắn được. Việc dựng vợ gả chồng cho con cái, tục ở rể cũng không ngoài nghi lễ nào khác ngoài việc đem đầu thú rừng đến. “Một số thanh niên ở làng khác bị xử phạt nặng do không nắm được tập tục săn bắt thú rừng của làng. Vì muốn cưới được vợ ngay, có chàng thanh niên đã vào rừng bẫy heo rừng và nai cái về ra mắt già làng, nhưng bà con đã phát hiện, cuối cùng xử chàng trai đó sống đơn độc trong rừng… 1 tuần và không được lấy vợ của làng” - ông Alăng Ri nhớ lại. 

BAO GIỜ TRỞ LẠI ĐỒNG BƯƠNG CẤN

Phạm Thanh Quy

Cá chép, tên chữ Hán gọi là Lý ngư. Trong dân gian cá chép được coi là loài cá tôn quý, gắn với tích cá chép vượt vũ môn hoá thành rồng vào dịp tháng Ba:
Bao giờ cá chép hoá rồng
Đền ơn cha mẹ bế bồng ngày xưa

Cá chép cũng là vật linh, được nhân dân ta cung kính dâng lên tổ tiên, các vị thần thánh và Táo Quân vào dịp Tết ông Công ông Táo 23 tháng Chạp. Có biết bao thơ văn, tranh hoạ về đề tài cá chép. Dòng tranh dân gian Hàng Trống có tranh Lý Ngư vọng nguyệt nổi tiếng. Trong đông y, ăn cá chép kết hợp với các vị thuốc có thể chữa được một số bệnh như gan, thận, kể cả bệnh ung thư bởi cá chép bổ tì, lợi tiểu, tiêu phù, thông sữa, chữa ho, lở loét, bổ thai…
Với những người làm nghề chài lưới thì cá chép là giống mang lại điều may mắn, tốt lành. Thế nên đến dịp xuân về, khi những hạt mưa xuân lất phất rơi cũng là lúc cá chép vào bờ đẻ trứng và dân chài lưới, dân thuỷ cơ lại rủ nhau đi săn cá chép.
Cá chép thì nơi nào trên đất Việt Nam chẳng có. Nhưng chẳng ở đâu có giống cá chép đẹp và ngon như cá chép ở vùng Bương Cấn. Người dân nơi đây thường tự hào về giống chép quý quê mình bởi nó đẹp hơn cả cá chép trong tranh Lý ngư Vọng nguyệt. Theo cụ Sỹ Danh Tuyên 84 tuổi và cụ Cấn Văn Tính 75 tuổi người Cấn Xá Thượng thì giống cá ấy có đôi mắt rất to, màu hồng đỏ, vẩy cũng rất to, hình tròn, mềm, có ánh vàng lấp lánh. Đặc biệt đầu cá chép có khuôn hình giống đầu rồng, béo múp, mang màu đỏ hồng, mình thuôn dài, da cá có màu vàng, đuôi màu đỏ hồng, ánh vàng nhũ. Dân Cấn Hữu còn gọi là cá Gáy. Cá nặng trung bình từ 2-3kg/con, con to nặng từ 5-7kg. Cá chỉ sống trong đầm lầy nước sâu, chỉ ăn cỏ, ăn rong, tắm bùn nên thịt rất ngon. Khi ăn, thịt cá béo mà không ngấy, mềm mà không nát và rất thơm nếu như không cho gia giảm. Cá được người Cấn Hữu chế biến thành nhiều món như cá rán, cá nấu (gồm nấu riêu, om dưa) và cá hấp. Ngon nhất là cá hấp vì nó giữ được hương vị thơm, béo, ngậy, ngọt đậm đà của cá. Cá thường được hấp bằng rượu nếp trắng. Dù hấp, dù rán, dù nấu riêu hay om dưa thì gia giảm không thể thiếu được cho cá chép đó là gừng và hành tăm, mà phải là loại gừng già và hành tươi mới ngon. Khi mổ cá, người ta phải mổ rất khéo sao cho ruột cá không vỡ. Bởi ruột cá chép Đầm Bung ngon, giòn, thơm, bùi, béo do các lá mỡ quấn quanh nên không ai vứt bỏ như cá chép thông thường. Vẩy cá cũng mềm và ngon nên ít khi người ta đánh vẩy mà để nguyên rồi chế biến. Loài cá chép Đầm Bung rất hiếm và khó đánh bắt. Có người cả năm chẳng gặp được một con, có người cả đời đánh cá cũng chưa một lần được chạm tay vào cá quý ấy. Thế nhưng cả làng, cả tổng vẫn đi đánh cá để mong gặp may và năm nào cũng vậy, vẫn có vài người đánh bắt được. Mỗi khi đánh bắt được cá, dân làng cho đó là điềm may mắn, là lộc Trời, Thánh ban vì vậy cá chép bắt được người ta cung kính rửa sạch, mổ bụng, gỡ mang và giữ nguyên máu tươi. Sau khi chế biến còn đang nóng hổi cá được cả chòm xóm thưởng thức, mỗi người một miếng bé xíu.  Vì sao cá chép Cấn Hữu lại ngon đến vậy?
Từ thị trấn Quốc Oai đi về Cấn Hữu chỉ chừng 3 cây số. Đây là một xã ở phía Tây Nam huyện Quốc Oai, nằm dọc ven đê tả ngạn, đoạn cuối sông Tích, dân đông, ruộng đất nhiều. Cấn Hữu là vùng đất cổ. Khi nhà Lý rời đô về Thăng Long đã cho người dẫn một số dân kinh đô cũ về vùng Kinh Xá, huyện An Sơn hợp thành Kinh Xá Thượng, Kinh Xá Hạ, sau đổi chữ Kinh thành Cấn, tên Nôm là Kẻ Bương, Kẻ Cấn (có lẽ do ở đây tập trung đông người họ Cấn bản địa) và dựng nên ngôi đình Cấn Xá Thượng đồ sộ, to nhất vùng, đi vào ngạn ngữ xứ Đoài: Đẹp nhất đình So, to nhất đình Cấn. 
Thời ấy Cấn Hữu là một chằm lầy, trước núi ven sông. Chính địa thế ấy đã tạo ra nhiều đầm hồ, trong đó có một cánh đồng rộng lớn rất trũng lầy, gọi là Đầm Bung hay đồng Bung cũng thế. Đầm còn có tên gọi khác là cánh đồng Thập Cửu bởi có 19 làng của 2 huyện Quốc Oai, Chương Mỹ vây quanh, muốn qua đầm phải dùng đò di chuyển. Đầm Bung sâu đến nỗi người dân quanh vùng thường răn bảo nhau: “Con một thì chớ đi đò Đầm Bung”, đề phòng tai nạn rủi ro. Trong cánh đầm sâu và rộng ấy chỉ toàn cỏ lăn, cỏ lác mọc cao quá đầu người khiến cánh đầm trở nên huyền bí, xa vời. Dưới đầm sâu chỉ có cỏ chân vịt sống nên nước rất trong và ngọt. Đầm Bung nước sâu nên khó đánh bắt vì vậy cá tôm ở đây rất nhiều. Nhất là khi mùa mưa đến nước sông Tích, sông Cấn gần đó tràn vào khiến lượng cá về đây nhiều vô kể. Dân Quốc Oai thường có câu ví: “Đòn Cấn Xá, cá Đầm Bung” (đòn Cấn Xá là đòn đánh võ hiểm hóc của dân Cấn Xá, dân Cấn Xá hầu như ai cũng biết võ. Cá Đầm Bung là chỉ cá ở đây nhiều vô tận và ngon, nhất là loài cá chép sống trong đầm như vừa kể trên). Theo các cụ già ở Cấn Xá thì cá chép Đầm Bung chỉ ưa sống ở nước sâu và sạch, đẻ ít, khó nuôi, lại chỉ xuất hiện vào những ngày trời trong, nắng đẹp.
Xa xưa, khi con cá đầu tiên đánh được sẽ được dân làng dâng lên cụ bà Thánh Tổ - người Cấn Xá đã có công thu phục, giúp đỡ muông thú, trong đó có loài hổ và khai phá đầm lầy, giúp dân cấy trồng. Cá để cúng là cá sống, nguyên con. Cúng tế xong cá ấy được chế biến, chia cho cả làng, mỗi người chỉ được một tí xíu thịt, nhỏ như que tăm. Sau lần ấy mọi người mới được đánh bắt tự do. Tiếng lành đồn xa về loài cá quý, chẳng mấy chốc đến tai nhà vua. Người bèn truyền lệnh dâng cá lên cho Người ngự lãm. Tương truyền khi ấy là vào thời Trần. Quả là danh bất hưu truyền. Từ ấy, hàng năm dân Cấn Hữu hễ đánh được con cá chép nào là phải dâng tiến lên vua. Nếu không theo lệnh, bị bắt được sẽ đánh đòn và phạt tiền rất nặng nên ai cũng sợ. Lâu ngày, dân Cấn Hữu lập thành lệ khi mùa nước cạn, sau khi tế lễ ở đền Thánh Tổ xong thì phát lệnh cho cả làng cùng xuống đánh cá, cả các làng chung quanh cũng được đánh hôi, ngày thường nghiêm cấm đánh bắt nên các loài tôm cá nhiều đến nỗi có thể giơ tay bắt được cả vốc. 
Cùng với 3 vật quý khác, cá chép Đầm Bung Cấn Hữu đã trở thành vật quý được bao đời nay truyền tụng: “Sài Sơn chi biển bức, Cấn Xá chi lý ngư, Khánh Hiệp chi kỳ bành, Linh Chiểu chi úng thái”(Dơi ngựa Sài Sơn, cá chép Cấn Xá (đều thuộc huyện Quốc Oai), cua đồng Khánh Hiệp, rau muống Linh Chiểu (của huyện Phúc Thọ)). Sách “Sơn Tây tỉnh địa chí” của Phạm Xuân Độ khẳng định đó là tứ dị - 4 của ngon vật lạ của đất Sơn Tây dùng để cung tiến vua chúa.
Loài dơi quý ở Sài Sơn thịt rán thơm, ngon mà không cần ướp gia vị. Khi đặt miếng thịt dơi vào lưỡi cảm nhận có mùi thơm của quả chín. Thịt loài dơi này còn chữa được nhiều bệnh. Đây là loài dơi quý mà trong sách Đại Nam nhất thống chí có nói đến. 
Cua Khánh Hiệp (thuộc xã Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ) sống ở gò Ma Khống. Cua đó mình to bằng cái bát ăn cơm, mai mầu vàng rộm. Mỗi năm, người ta chỉ thấy cua bò ra ngoài một lần vào một ngày bất thường. Nên ai trông thấy phải thông báo để mọi người đến bắt đem tiến vua.
Rau muống tiến vua ở Linh Chiểu (Phúc Thọ) được trồng một cách độc đáo: Người ta bắt những con ốc to đem về làm cho ốc chết, rồi cấy mầm rau muống vào từng con ốc đó. Mầm rau muống sống lớn lên nhờ chất của con ốc. Khi rau muống dài độ một gang tay thì người ta mang những con ốc - rau muống (để nguyên như thế) đem tiến vua.
Lại nói về vùng Bương Cấn. Trải qua bao đời, những cánh đồng bát ngát mênh mông ở đây vẫn còn, nhưng không lầy trũng như trước đây. Đầm Bung vẫn lớn rộng nhưng đã khô cạn gần hết do quai đê, lấp đi sông Cấn, sông Tích thì lùi xa. Đầm Bung giờ có thể cầy cấy, làm trang trại, đem lại nguồn lương thực và thu nhập đáng kể cho địa phương. Tiếc thay, giống cá chép quý cũng lâu lắm rồi không thấy, chỉ còn lại trong kí ức người dân, để mỗi khi qua chợ Bương, đồng Bương, đồng Bung của Kẻ Bương, Kẻ Cấn Quốc Oai, du khách lại bồi hồi nhớ đến những câu thơ của nhà thơ Quang Dũng:

Nhậu thịt cò

Trong góc xép của một quán nhậu đặc sản có tiếng ở TP Đồng Hới, ngồi giữa những tay ăn nhậu có thương hiệu lẫy lừng, Tuấn gắp vào bát của tôi một miếng thịt và bảo: "Ông nhai nó từ từ thôi và phát biểu cảm tưởng".

Theo lời, tôi nhâm nhi miếng thịt và thú thực không thể đoán ra được đó là thứ thịt gì. Một ly rượu tiết đỏ tươi sóng sánh trước mặt cùng với một lời mời: "Uống đi rồi ông sẽ thấy thế nào là người đàn ông đích thực”. Nhắm mắt ực một hơi để chẳng biết mình vừa nuốt thứ gì vào bụng...

Tuấn lại gắp miếng thứ hai vào bát và nháy mắt: "Thế nào, vẫn không thể biết là thịt gì à?". Tôi lắc đầu: "Chịu. Nó chẳng phải là thịt gà cũng không phải là thịt chim". "Đúng", Tuấn thừa nhận "nó không phải là gà thì đương nhiên rồi, nhưng bảo nó không phải là chim thì... vì ông chưa bao giờ được ăn thịt nó, bởi nó chỉ tồn tại trong ca dao, cổ tích thôi.

"Giờ bọn này hoài cổ đặt nó lên bàn nhậu chơi. Nó là cò, con cò lặn lội, bay lả bay la, con cò trắng muốt, con cò đi ăn đêm...", Tuấn cười rổn rảng.

Tôi cứ ám ảnh bữa nhậu thịt cò kia. Ám ảnh khi nhìn hàng chục con cò còn sống nguyên ru rú, run sợ rụt cổ rúc đầu vào cánh cạnh ngay bếp lửa. Đã lâu lắm rồi, dễ chừng 40 năm trước, món muối cò mẹ tôi làm ngày ấy còn mặn cho đến bây giờ.

Món muối cò đi suốt quãng tuổi thơ nghèo khó và lam lũ. Mùi sả và mùi ruốc còn đậm vị trong ký ức tôi. Ngần ấy năm để bây giờ tôi lại gặp phận cò ngay trên bàn nhậu. Tiết cò và thân cò gầy nhom được rô ti vàng ruộm, lạ lùng, lạc lõng, nhưng nó lại là đặc sản của những thực khách đã quá chán với tôm, cua, rùa, cá...

Theo chỉ dẫn của bà mối chuyên đi nhập cò cho các nhà hàng, chúng tôi tìm đường về Đồng Trạch (Bố Trạch, Quảng Bình). Cánh đồng sau vụ gặt nằm sát ngay Quốc lộ 1A. Từ xa đã thấy hàng đàn cò trắng muốt dễ đến cả ngàn con. Chúng đứng im bất động.

Một nhóm chừng mươi người dựng xe máy bên góc tre làng, hướng mắt về phía đàn cò chờ đợi. Tấp xe vào bên vệ đường, trong vai khách du lịch, nhập chung cùng nhóm người kia để xem họ đang chờ đợi điều gì.

Nhiều cánh tay đang chỉ về hướng Bắc và có tiếng reo: "Thêm một đàn nữa kìa. Chắc chắn lần này phải dính". Nhìn theo hướng chỉ tay, xa kia một đàn cò đang bay đến gần. Gần nữa, khi phát hiện có đàn cò dưới ruộng, chúng xoải cánh sà xuống và...chấp chới.

Đồng thanh những tiếng reo lên: "Dính rồi". Hơn mười con. Chúng tôi ngơ ngác chưa thể hiểu điều gì đang xảy ra. Vị đứng cạnh được mọi người gọi là Bảy Sẹo liến thoắng giải thích: "Đàn cò trắng bất động kia chỉ là cò mồi".

hỉnh thoảng trong đám cò mồi ấy có một con cò thật bị buộc chỉ vào chân để làm cho trận địa bẫy cò cứ như thật. Nó dụ những con cò thật kia ngỡ phía dưới là “đất lành” nên cùng nhau hạ cánh và thế là dính bẫy... Hai người trong nhóm, quần xắn cao, lội phăm phăm giữa ruộng bùn.

Chỉ thoáng chốc 10 con cò lẩy bẩy được mang về. Mỗi người một tay, họ thành thạo dùng móng chân cò vạch và đâm thủng mí mắt, rồi dùng chính ngay lông cánh xiên qua hai lỗ thủng trên mí mắt buộc lại.

Theo lời Bảy Sẹo, khâu mắt cò là động tác bắt buộc của nghề đơm cò. Nếu không khâu mắt cò thì rất nguy hiểm, vì khi đưa cò đang sống về nhà thấy bất cứ thứ gì long lanh, nhất là mắt trẻ con, là cò mổ ngay. Bao vụ trẻ con bị cò mổ vào mắt khi có người nuôi cò trong nhà. Những con cò bị buộc mắt loạng choạng, quờ quạng ngã nghiêng tựa vào nhau, cho dù lúc đó chân của chúng không hề bị trói buộc...

Lại tiếp một đàn cò khác hồn nhiên bay tới và chấp chới dính keo. Lại những tiếng reo. Lại những động tác thuần thục đục mí khâu mắt.

Tư Thọ, quê ở Đức Trạch xem chừng là thợ cả của nhóm bẫy cò này, rành rẽ nói về nghề: "Gần 30 năm làm nghề này, hơn nhau ở chỗ là bố trí “trận địa” đàn cò mồi. Nhìn hướng gió, đoán hướng bay của cò mà dàn trận".

Chỉ tay vào đống que tre dài chừng 50 cm, một đầu vót nhọn, một đầu được ngâm trong một lọ nước sền sệt, Tư Thọ nói: "Những que tre này được cắm dày đặc quanh đám cò mồi. phía trên nó được phết keo. Thứ keo này được làm từ vỏ cây Cửu Dạ trên rừng".

Không phải ai cũng làm được thứ keo này. Đây là bí truyền của một làng nghề Quảng Trạch. Chúng tôi phải ra đó để mua. Người ta giã nhuyễn vỏ cây, sau đó lọc lấy nước, cho một ít phụ gia gì đó thì nó mới ra loại keo mà chỉ cần một sợi lông cò dính vào thì cò không tài nào bay lên được...

Lại thêm một đàn cò nữa dính keo. Lại những bước chạy phăm phăm giữa ruộng bùn nhặt cò. Lại những tiếng reo mừng xen lẫn tiếng nói cười hỉ hả.

Đống cò dưới chân ngày càng nhiều thêm. Bà mối cò đã xuất hiện. Mặc cả chớp nhoáng. Tiền trao và cò được buộc gọn lên xe... Bảy Sẹo nói: "Mỗi con cò người ta mua tại đồng chỉ với giá 12-15 ngàn đồng thôi. Nghe đâu khi vào quán nhậu mỗi con như vậy có giá đến 60.000 đồng".

Chắc Bảy Sẹo chưa vào quán nhậu bao giờ. Như cái hôm tôi được mời kia, rượu tiết cò cùng với trọn vẹn một con cò rô ti đã có giá hơn trăm ngàn. Đặc sản cò đâu đâu cũng quảng cáo và không phải lúc nào cũng có nếu như không đặt trước.

Ngay dưới chân cầu Gianh, cả cánh đồng Bắc Trạch trắng loá cò mồi. Cũng một nhóm mươi người sẵn sàng xe máy và những chiếc lồng to buộc sẵn phía sau sẵn sàng chờ đợi. Một vị tên là Hiền Béo thấp tịt quê ở vùng này thở dài: Suốt cả buổi mà chẳng thấy đàn nào sà xuống. Đâu đâu cũng bẫy cò. Cò bây giờ ít hẳn.

Hiền Béo cũng có thâm niên mấy chục năm bẫy cò. Theo Hiền thì trong năm chỉ có tháng 3 và tháng 8 là cò về nhiều nhất. Như tháng 3 vừa rồi có ngày Hiền bẫy đến 200 con. Như đầu tháng 8, ngày nhiều nhất Hiền chỉ bẫy được trăm con.

Hiền bảo người ta đổ xô đi bẫy cò vì đầu tư quá rẻ và thu nhập thì rất được. Vài trăm con cò mồi cắt bằng xốp chỉ tốn trăm ngàn. Một lọ keo cửu dạ vài chục ngàn nữa là hành nghề được cả mùa. Một ngày chỉ cần dính 3 con cò thôi đã có thu nhập 45.000 đồng, bằng công của thợ phụ hồ. Nhẹ nhàng, nhàn nhã như đi picnic. Mang theo xị rượu đế nhâm nhi cùng đám bạn bẫy cò, chờ cò dính bẫy, chẳng có thú nào bằng.

Cứ vào mùa này, những làng nghề chuyên đi bẫy cò túa đi khắp các vùng. Những cánh đồng xâm xấp nước đều trắng loá cò mồi. Hiền Béo, Tư Thọ ước tính, mỗi ngày “đoàn quân cò mồi” xuất trận là có ít nhất cả ngàn con cò thật dính bẫy. Ngày qua ngày như thế, đàn cò ít dần đi và chúng chỉ sẽ mãi còn trong cổ tích.

Nghề săn rết

Từ ngày cá kiểng lên đời, rất nhiều thanh niên ở vùng nông thôn An Giang đi săn rết độc bán cho các người nuôi cá rồng. Một nghề cực nhọc và bấp bênh.

Mồi khoái khẩu cho cá rồng

Cứ cách vài tuần anh Thanh Phương (Long Xuyên, An Giang) lại đi tới các nhà có nuôi cá rồng giao rết, mỗi điểm 5 - 10 con. Đấy là những con rết chỉ to bằng đầu cây nhang, màu đen nâu, giá 2.000 đồng/con. Anh Lương Công Khanh nói: “Cá rồng khoái ăn rết lắm, vừa thấy rơi xuống nước là nó lao tới đớp liền. Ăn rết xong cá “sung” lắm: toát lên màu đỏ rực, lội tung tăng, vươn vây vươn kỳ, phình đuôi rất đẹp. Nếu ăn rết “bự” (bằng ngón tay út trở lên) thì cá càng sáng màu lâu, vài ngày sau mới trở lại như thường”. Tuy nhiên phải là rết sống thì cá ăn xong mới “biến màu”. Người ta nghĩ nọc rết có chất gì đó kích thích cá lên màu! Nhưng cũng nên hạn chế cho cá rồng ăn rết bởi nó có thể “ghiền” mùi rết, không chịu ăn côn trùng khác.

Giữa trưa trên vùng Bảy Núi chúng tôi gặp anh Kim Bang đang chở rết bán. Những con rết núi to hơn ngón tay út, màu nâu đỏ bò lừ đừ trong các vỏ chai nước. Loại rết to được gọi là “ngô công”, anh đem bán cho các điểm thu mua côn trùng và bò sát với giá 4.000 - 6.000 đồng/con. Các điểm thu mua này sẽ bán lại cho khách 10.000 - 15.000 đồng/con. Người ta còn ngâm rượu rết trị bệnh. Tại An Giang món “gỏi ngô công” làm bằng thịt rết nướng.

Nghề nguy hiểm

Rết (rít, bách túc trùng) sống ở những nơi ẩm thấp, dưới tảng đá, lá cây, thanh gỗ mục, gò đất, mái nhà lá, mái ngói. Người dân rất sợ rết trên mái nhà bất thình lình rơi xuống ngay người vì nọc rết rất độc.

Săn rết là một nghề nguy hiểm. Anh Phương đã trổ tài bắt rết cho chúng tôi xem: anh trút thùng đựng rết ra, những con rết lẹ như chớp lao vùn vụt tìm đường thoát, Phương chỉ cần cầm cây kiềm xớt nhẹ là bắt dính. Anh Bang cho biết đuôi và các chân sau của rết lớn trông thật dữ dằn, nhưng thực ra rết chỉ dùng chúng để hù, và cái miệng rết mới đáng sợ. Ai bị rết cắn sẽ bị đau nhức, nóng lạnh... Rết rất lẹ và hung dữ, nếu chậm tay hay sơ sẩy thì dễ bị cắn, lúc ấy phải tìm nhớt gà hay vôi ăn trầu bôi lên vết cắn.

Anh Phương nói điều anh lo nhất là nghề bắt rết chỉ sống theo phong trào nuôi cá rồng. Lúc người ta hết thích nuôi cá rồng, chạy theo thú chơi kiểng khác, thì những người săn rết như anh sẽ thất nghiệp, bởi vậy anh hiện đang tìm cách học nghề sửa xe. Anh Bang thì cho biết bạn bè anh cũng chán với cái nghề bắt côn trùng này, vì vừa nguy hiểm vừa chẳng được ai xem trọng (?)...

Quán nhậu


Tiếng mành trúc lao xao một lát rồi chủ quán mới hiện ra. Thoáng trông, tôi ngỡ ông là dân vạn chài vùng biển. Cao lớn, quần áo bà ba nhuộm gụ, da đỏ au, để râu dài, và đi guốc. Ông nhìn hai chúng tôi từ đầu đến chân, hỏi: 

- Các chú muốn gì? 

Cậu Tuyến bạn tôi ấp úng: 

- Đây có phải quán đặc sản rết? 

- Phải. Nhưng ví các cậu có dày không mà đến đây? 

Tôi chạnh tự ái: 

- Theo ông, phải bao nhiêu mới gọi là dày? 

- Tùy. Tiền triệu cũng gọi là dày, tiền trăm cũng gọi là dày. Mà tay không cũng gọi là dày. 

- Thế thì ông cho chúng tôi thưởng thức đặc sản của ông đi. Nếu ví không đủ dày, đã có cái kia - tôi chỉ vào cái xe máy to lênh khênh như con lạc đà của bạn tôi dựng trước quán - được chưa? 

Ông già vuốt chòm râu rủ xuống tới cái cúc áo thứ hai trước ngực, lẹp kẹp lê guốc quay vào. Tiếng mành trúc bên trong lại lao xao và tiếng ông già vọng ra: "Các chú vào đây. Quán này, ai cũng phải làm mới có ăn. Thích ngồi một chỗ gọi bồi bàn, thì đi nơi khác". 

Tuyến đưa mắt nhìn tôi. Tôi cũng liếc sang nó. Hai đứa ngầm trao đổi với nhau một cảm giác rờn rợn như lạc vào một tửu quán nơi Lương Sơn Bạc. Có điều Lương Sơn Bạc này không hồ rộng núi cao, không đèo dốc hiểm trở, mà là bên một cánh đồng lúa vàng bát ngát trải dọc theo quốc lộ 6, ở phía tây thủ đô Hà Nội. Còn "Tụ nghĩa đường" chỉ là ngôi nhà tre lợp lá cọ, rộng mông mênh, ngoài cổng có giàn hoa giấy và một cây đại sù sì hình như đã sống cả nghìn năm. 

Dưới gốc đại là cái cổng tre có hai thanh chốt ngang, thứ cổng cực kỳ "cổ điển" ở nông thôn. Và qua khỏi đó là con đường đất thẳng, dưới hai hàng nhãn, quét sạch như ly như lau. 

Khi chúng tôi dắt xe qua cái cổng chốt, ông chủ quán ra chốt cửa lại. Vừa chốt ông vừa lẩm bẩm nói trống không, cốt giải thích cho chúng tôi hiểu: 

- Quán Tư Hiền không bao giờ tiếp khách quá ba lần một ngày. Không bao giờ tiếp hai hội khách cùng một lúc. 

Các thủ tục tiếp đón thế là đã xong. Không treo biển quán. Không trang trí lòe loẹt để mời chào. Vắng teo. Bốn bề lặng lẽ như tờ. Chỉ có gió sáng tháng chín se lạnh và lồng lộng nắng vàng cuối thu. 

Rợn thật. Nhưng hãy dấn thân một lần xem thử. Nếu đây là chốn giang hồ, ắt có luật giang hồ của nó. Luật giang hồ cũng có nét phân minh dễ chịu, đâu phải tất cả đều hãi hùng kinh tởm như người đời vẫn tưởng. 

ấy là theo lối suy luận bạt mạng của riêng tôi. Thằng Tuyến, không hiểu nó nghĩ thế nào mà mặt hơi tái đi. Nó sợ lõm túi chăng. Chắc là không. Nó từng sống ở thành phố Rôm bên ý mới về. Nghe đâu nó còn có cả đô la gửi nhà băng bên ấy nữa. Là "con nhà nòi", nó giàu có hơn tôi là chuyện hẳn nhiên. Nhưng tôi ngầm bất bình vì từ hôm về nước tới nay nó tỏ vẻ in hệt một ông kễnh bên Tây sang chơi xứ mọi, hễ mở miệng là bên ấy người ta thế này, bên ấy người ta thế nọ, chứ đâu lặt vặt tủn mủn như xứ mình. Tôi nổi cáu, xì một tiếng rõ dài: 

- Cậu mới đi xa mấy năm mà khéo quên cả quê hương rồi. Tớ ấy à, đi chơi nước này nước nọ vài ba tuần lễ thì khoái, chứ phải ăn cơm Tây tới một tháng là ớn tận cổ. Tớ thích ăn cơm ngồi xếp bằng trên chiếu, dưa cay với cá rô rán dòn, với ốc nhồi nấu đậu phụ chuối xanh... 

Cuộc khích bác lẫn nhau dẫn đến cuộc phiêu lưu quán nhậu Tư Hiền sáng nay. Thực tình, tôi mới nghe mấy tay nhà báo bẻm mép khoe về cái quán nhậu ngoại thành này chứ đâu dám mon men tới. Tại thằng Tuyến thách: "Đố cậu tìm được cửa hàng ăn nào sang trọng, sạch sẽ như bên ấy, nên tôi liều đưa nó đi, vừa đi vừa hỏi dò đường tới đây. 

° ° ° 

Phòng tiệc quán Tư Hiền chỉ là một chái lợp lá, vẩy ra sau hồi nhà, bên cạnh con mương thủy lợi, và phải kể thêm cả cái phông vĩ đại là cánh đồng vàng cùng vòm trời mùa thu trong veo không một gợn mây. Nền không lát gạch, mà là thứ đất nện phẳng như mặt kính. Gần một nửa diện tích trong phòng dùng để dựng nên một phong cảnh núi non hùng vĩ, tất cả đều được đắp bằng đất sét. ở một "sườn núi đổ dốc xuống "dòng khe" cạn ngoằn ngoèo, có một cái lồng lưới sắt, bên trong lúc nhúc tới vài trăm con rết, không con nào thật to, chỉ sàn sàn cỡ cái bút chì, cái bút máy trở xuống; nhưng cũng không có con nào quá nhỏ. 

Từ cái "trại rết" này, có chiếc cầu bắc qua "khe" cạn, bằng một thanh nứa dài uốn cong, để sang đám sân rộng chừng nửa tờ báo được quây kín ba phía bằng lưới thép. Ngay dưới cây cầu vồng nứa, trong lòng khe cạn, có ba ông đầu nhau đội một cái chảo nhôm rộng vành đựng nước. 

ông Tư Hiền ném vào mảnh sân quây lưới thép một con gà giò đã mổ sạch sẽ; lại để cạnh con gà một cái nắp ga men đựng nước trong, ông bảo là rượu. Đoạn, ông đưa cho tôi và Tuyến mỗi đứa một cái que nhỏ, rồi mở cửa "trại" rết. 

- Các chú thích ăn bao nhiêu con thì gạt chúng ra. 

Bọn rết đói ngửi thấy mùi thịt gà sống liền nháo nhào dẫm đạp lên nhau. Chẳng đợi chúng tôi phải gạt, chúng kìn kìn kéo ra khỏi cửa lồng, chen chúc bò qua cầu... Ông Tư Hiền hỏi Tuyến "Thế đủ ăn chưa"? Tuyến gật đầu. Cái cửa lồng được sập lại. ở mảnh sân bên kia cầu có khoảng bốn, năm chục con rết đang ngấu nghiến bâu quanh con gà ăn rào rào. Không ngờ lũ rết phàm ăn đến thế. Con gà chừng bảy, tám lạng, mà mươi phút sau chỉ còn trơ lại bộ xương. ăn xong con nào con nấy bụng phình ra, lại vục đầu vào cái nắp ga men tranh nhau uống nước mà kỳ thực là uống rượu. Cha sinh mẹ đẻ ra lũ rết chưa bao giờ được nếm cái thứ nước kỳ quái ấy của loài người. Lại, từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi mới được thấy cảnh lũ rết say rượu ngất ngư bò qua thanh nứa uốn cong để về lồng. Nhưng chẳng con nào về được lồng. Chảo nước bên dưới cái cầu vồng kia đã sôi bùng bùng từ lúc nào. Lũ rết say qua đó gặp hơi nước xông lên đều lần lượt rơi lõm bõm xuống chảo. 

Đợi hóa kiếp cho con rết cuối cùng xong, ông Tư Hiền cầm cái môi dùi lỗ như môi nhúng bánh phở, sục vào chảo vớt rết lên. Mỗi con ông cầm tuốt một nhát, xếp vào chiếc đĩa sứ. Thoắt cái, đĩa rết trắng ngần như đĩa ngó cần, đầy có ngọn. 

Hóa ra trong quán còn một ông già nữa mà ông Tư Hiền giới thiệu là chú Năm úc. ông Năm úc người xương xương, cũng bận quần áo bà ba nhuộm gụ, cũng để râu dài nhưng khác với ông Tư Hiền là có mái tóc búi tó như quả bưởi treo sau ót. 

Ông Năm úc chắp tay khiêm nhường chào khách, mỉm cười không nói. Ông xuất hiện với những công việc của người phục vụ: trải chiếu ra nền đất, xếp cây đèn cồn và mấy cái soong có cán bằng thép không rỉ vào một góc. Tiếp sau, ông bê một đĩa rau thơm, một đĩa ớt đỏ, một đĩa tôm chua cùng các thứ ăn kèm như bát gừng sắt chỉ, khế xanh, chuối chát, hành chẻ, thịt lợn ba chỉ,... món nào cũng được thái mỏng, xếp sắp hài hòa đẹp mắt chung quanh cái khay đựng bún lá, trông như bức tranh, lại như bông hoa mỗi cánh một mầu vừa nở trên mặt chiếu. 

Ông Tư Hiền bê ra một hũ sành nút lá chuối. Cả chủ và khách cùng vào tiệc. Với cây đèn cồn, lọ dầu rán thực vật, mấy cái soong có cán, ai muốn ăn rết nướng, rết luộc, rết đảo dầu,... ông Năm úc vui vẻ chiều ý. 

Thiết tưởng cũng nên kể thêm chi tiết này: những năm đánh Mỹ trong Nam bộ, chúng tôi vẫn từng suy tôn món thịt rết ngang hàng với món tôm sú, tôm nghệ, tôm gạo, tôm he ở các cửa biển miệt rừng đước ven bờ vịnh Thái-lan. Nhưng thảng hoặc lắm chúng tôi mới tóm được một con từ các ngách hầm, từ trong lá mục, có khi từ kho đạn và cả từ trong nòng súng B40 bò ra. Những dịp hiếm hoi ấy, việc đầu tiên là phải nhóm một đống lửa, gạt cho chú rết bò thẳng vào đó, rồi bẻ mấy khúc chia nhau. ăn kiểu lính mà. Bởi thế, với tôi dù không lạ món thịt rết, mà vẫn phải trố mắt trước đĩa rết ở quán nhậu Tư Hiền. Tôi chọn món rết nướng lửa đèn cồn, rất "truyền thống" con nhà lính. Tuyến đòi thưởng thức cả rết nướng, rết luộc, và rết đảo dầu. Ông Tư Hiền gật gù với ông Năm úc. 

- Chú cho tôi món tái dấm. 

Thế là cả Tuyến và tôi cùng đòi theo. Rết tái dấm, nghe đủ mê rồi . Chỉ nể ông Năm úc bận rộn thêm một lúc nữa. Rồi chúng tôi chuẩn bị nâng chén. Cái nút lá chuối trong tay ông Tư Hiền vừa bật khỏi miệng hũ, tôi và Tuyến cùng sững sờ. Rượu gì mà chưa uống đã thấy ấm ran người, và cứ ngỡ như mình đang được ngồi giữa ruộng lúa nếp cái trổ đòng đòng. 

Tôi nhìn Tuyến, thay cho câu hỏi: ở bên ấy cậu uống rượu nho mấy trăm tuổi, uống Hênétsi, Uýtky, Napôlêông các loại thượng thặng của xứ Tây, đã được nếm loại "thánh tửu" này lần nào chưa? 

Hình như Tuyến không hiểu ý tôi. Nó ngồi ngây như phỗng, hai cánh mũi phập phồng. Tay nâng chén rượu sáng long lanh từ tay ông Tư Hiền trao, cu cậu chỉ dám chạm ướt môi rồi lại ngẩng lên, đầu nghiêng nghiêng ra vẻ ngẫm ngợi, ra vẻ cố mà chiêm ngưỡng một kỳ tích vô tiền khoáng hậu trong cõi trời đất bao la. Bất ngờ, Tuyến buông một câu hỏi rất chi là thị trường: 

- Rượu này bao nhiêu một lít. Bác? 

Ông Tư Hiền cười rung cả chòm râu: 

- Của đâu mà có lắm thế? Nhân thể tôi nói cho các chú hay: Rượu này không ở đâu có, ngoài quán Tư Hiền. Chính tay Tư Hiền lựa giống nếp cái hoa vàng, chính tay Tư Hiền ủ, cất. Do đó mà không bán, không tính tiền với khách. Nếu tính, chắc phải mười đô la một chén... 

Tuyến nghe thế giật mình. Ông già càng cười to, chỉ đũa vào đĩa tôm chua: 

- Món này là "độc chiêu" của chú Năm nhà tôi. Chú ấy phải xuống tận cửa sông Vân úc, đón tôm nước lợ, mua lúc còn búng tanh tách. Rồi phải muối ngay dưới đó mang về. 

Thịt rết, tôm chua, khế xanh, chuối chát,... gắp sáu, bảy gắp mới vừa một miếng và thêm ngụm "thánh tửu" nữa bỗng như trời và đất, mây và nắng hòa nhập cả vào mình đưa mình bay đến tột cùng vũ trụ. 

Đĩa thịt rết đã vơi. Có tiếng người gọi ngoài cổng. Tôi nhanh nhảu tình nguyện thay mặt chủ quán ra hẹn với khách 3 giờ chiều hẵng trở lại, nếu chiều không tiện thì hẹn 8 giờ tối.



Tốp khách lên xe ô-tô con phóng đi. Tôi trở vào, đã thấy ông Tư Hiền bế cậu Tuyến đặt nằm thẳng cẳng trên chiếc giường có đệm mút, phủ "ra" trắng. Ông Tư Hiền lần ngón tay bấm vào cái huyệt nào đó dưới gan bàn chân Tuyến, đắp cho cậu ta tấm chăn mỏng rồi mới trở lại chiếu tiệc.



- Chú này đi Tây đi Tàu mà tửu lượng xoàng - ông Tư Hiền nói - Nhưng yên chí. Ngủ một lúc dậy lại khỏe như không. Khách đến đây chẳng mấy tay về ngay được đâu.



Cũng nhờ cảnh báo ấy của ông chủ quán, tôi cố hết sức giữ cho đầu óc tỉnh táo. Trong lúc ông Năm úc thu dọn chiếu tiệc, tôi ngồi uống trà cùng ông Tư Hiền, bắt qua chuyện khác:



- Thưa bác - tôi gợi chuyện - Theo cháu biết người miền bắc ít khi gọi thứ thay tên?...



Ông già điềm nhiên gật đầu: "Đúng thế".



- Nhưng, vì sao tên của bác nghe lại rất miền nam?



- à... chú muốn biết chuyện đó hả?



- Thưa vâng.



Ông già trầm ngâm một lát.



- Tôi người tỉnh Hà Đông cũ. Còn cái thứ Tư, là cách gọi theo tôn ty trật tự của giới giang hồ. Trên giang hồ, tôi chỉ vào loại thứ tư thôi.



- Vậy thứ nhất là ai?



- Ông bị bọn Mỹ bắn chết rồi - đột nhiên ông già nói giọng miền nam - Bọn nầy tuy là giang hồ, nhưng ủng hộ Việt Cộng. Một lần đi diệt ác ôn, cả ổng và tui lọt vô ổ kích của mấy thằng cha cảnh sát. Vì có đứa phản...



Ông già ngồi im rất lâu, hai bàn tay hộ pháp mân mê hoài bộ râu muối tiêu, khiến tôi bối rối biết mình vừa vô tình chạm vào một quá khứ sâu kín của con người này. Nhưng rồi ông Tư lại kể tiếp:



- Bọn này vừa đỡ tay cho anh em biệt động thành, lại vừa sanh nhai bằng nghề đi cướp. Nhưng chú yên tâm heng. Tụi nầy chỉ cướp của, chớ không giết người. Cướp của người giàu, mà đều bao giờ cũng phải để lại cho họ ít nhiều đặng họ khỏi tuyệt đường làm ăn buôn bán.



Tôi ngập ngừng:



- Thưa bác. Bác đang nói chuyện trong nam?



- ủa. Tôi ngỡ chú hiểu rồi chớ! Cái giới tuyến Mỹ Diệm dựng lên, đối với giới giang hồ bọn tôi đâu có xá gì. Bà con ngoài mình nghèo khổ, lại còn giặc giã lu bu, mình sao nỡ tay. Vậy nên muốn mần ăn động trời, ắt phải vô trỏng.



- Nhưng thưa bác...



- Gì nữa?



- Bác... bác "giải nghệ" hồi nào?



- Ha ha ha. Chuyện đó dài, nhưng muốn thâu ngắn cũng thâu ngắn được. Cái dạo đằng mình tràn vô Quy Nhơn, chú ở đâu?



- Dạ, cháu đang cùng đơn vị hoạt động trên lộ Bốn.



- Vậy hả. Tôi thì từ Sài Gòn nhào ra Quy Nhơn. Giữa thời ly loạn, tính mần ăn một món lớn rồi thôi. Vậy là tôi nhằm trúng tiệm vàng "Âu- Mỹ", to nhứt Quy Nhơn hồi đó.



Ông Tư Hiền ngừng lại, vớ cái hũ rượu còn để cạnh bàn trà, rót đầy hai chén. Ông đưa cho tôi một chén, và giơ cao chén của mình lên:



- Sáng, là chuyện nhậu có khách có chủ, kẻ bán người mua sòng phẳng. Còn giờ này là chuyện bác cháu mình bộc bạch tâm tình với nhau. Nào, ta cụng ly!



Hai chén rượu được dốc cạn. Ông Tư Hiền rót thêm hai chén, nhưng bảo hai chén này đợi lúc kể xong câu chuyện:



- Có mở đầu, phải có kết thúc. Phải không?



Ông già trấn an sự nôn nóng lộ trên nét mặt tôi :



- Sắp xong rồi đấy. Tôi lựa lúc trời nhá nhem tối, súng đạn ì ùng, người chạy loạn ngập đường, bèn lẻn vào tiệm vàng Âu- Mỹ. Đang hốt nào cà rá, dây chuyền, hạt xoàn bỏ vô túi thì có người thình lình bẻ quặt cả hai tay mình ra sau. Người đó hỏi: "ăn trộm hay ăn cướp, cha nội?". Cơ sự đã đến nước đó, còn chối cãi mà làm chi. Mình đáp: "Cướp. Bộ không thấy sao còn hỏi?".



- Phải hỏi mới biết rõ trắng đen chớ. Ông định lấy hết tiệm của tui?



- Lấy một ít thôi.



- Còn một ít, để lại làm chi?



- Để lại cho anh làm vốn.



Hắn bật cười:



- Muốn lấy hết thì lấy, nhưng phải theo một điều kiện.



- Điều kiện gì?



Hắn buông tay mình ra, hai đứa nhìn dằn mặt nhau.



- Điều kiện là, ông phải đấu với tôi. Nếu ông thắng, tôi cho ông lấy cả.



- Còn nếu thua, anh nộp tôi cho cảnh sát chớ gì?



Hắn lại cười:



- Còn đâu cảnh sát nữa mà nộp. Tụi nó dông hết trơn rồi.



- Vậy thì sao?



- Nếu ông thua, tôi sẽ biếu ông chút ít rồi mời ông đi kiếm nơi khác mần ăn. Được chưa, cha nội?



Từ lâu tôi đã biết Bình Định là đất võ - lời ông Tư Hiền - Nhưng ngó bộ thằng cha này nhỏ con, người ốm nhách, mình gật đầu nhận đấu. Hai đứa đưa nhau ra vườn sau nhà hắn quần thảo một trận trời long đất lở. Lạ lùng một nỗi, mình tung ra độc chiêu nào là hắn đỡ lại dễ như không. Tới chừng mình thấm mệt, mồ hôi ướt lưng áo, hắn bảo:



- Thôi huề. Đừng đánh nhau nữa. Thế gian không nên để mất hai kẻ anh hùng trong một ngày. Mời anh vào nhà uống nước ta nói chuyện...



Tới đây, tôi như kẻ khát nước không sao dằn lòng được, đành lên tiếng giục ông Tư Hiền:



- Rồi sao nữa. Thưa bác?



Ông thong thả trả lời:



- Sau đó, tôi với hắn kết nghĩa anh em.



- Thật vậy ư?



- Hắn nói: "Từ thuở tìm thầy học võ, tôi chưa từng được thử sức với người nào võ nghệ cao cường như quý anh". Còn tôi thì mắc cỡ mà nhận rằng tôi chỉ đáng bậc học trò của hắn. Thế mới là sự đời. Chú!



- Nhưng, thưa bác. Cho cháu hỏi thêm một câu.



- Thì cứ hỏi. Sao khách khí thế?



- Thưa. Cái người nhận anh em kết nghĩa với bác, hiện giờ ra sao?



Thấy ông Tư chưa trả lời, tôi nhắc lại:



- Cái ông chủ tiệm vàng Âu - Mỹ ấy?



Ông Tư vẫn im lặng, vớ cái hũ sành rót thêm một chén rượu đầy tràn, rồi cất giọng oang oang gọi xuống nhà dưới:



- Chú Năm đâu rồi? Lên đây!



Hình như ông Năm úc đang rửa bát đĩa ngoài mương nước. Ông vừa chạy vào vừa dùng vạt áo bà ba lau vội đôi bàn tay ướt.



- Dạ. Anh Tư kêu em?



Ông Tư Hiền chia ba chén rượu cho ba người. Với ông Năm, ông bảo:



- Cụng ly đi. Rồi chú trả lời cậu này giùm tôi: Ông chủ tiệm vàng Âu - Mỹ giờ ở đâu?



Sau khi uống cạn chén rượu, ông Năm úc chắp hai bàn tay vào nhau.



- Dạ thưa cậu. Chủ tiệm Âu - Mỹ chính là tôi.



Tôi bàng hoàng không tin ở mắt mình:



- Trời đất! Sao lại có chuyện kỳ lạ này?



- Dạ thưa cậu - vẫn lời ông Năm úc - chia tay với anh Tư tôi hôm trước, hôm sau lính Cộng hòa kéo tới đập phá, cướp hết tài sản của tôi. Xong, tụi nó đem chiến xa tới bắn sập nhà tôi. Bỗng chốc tôi thành tay trắng, vợ con không còn. Điêu linh, tan nát. Đang lúc tôi tính chuyện xuống tóc quy y nơi cửa phật thì nhận được tin anh tôi đã ra ngoài này...


Một thời tuổi thơ câu nhái

Ngoài việc chính là học hành ra thì các việc lặt vặt trong nhà, như nấu cơm, đun nước, băm bèo, nấu cám cho lợn cho gà ăn… chúng tôi cũng luôn phải lo chu toàn để bố, mẹ, anh, chị chuyên tâm lo chuyện đồng áng. Vào những dịp mùa gặt, mùa cấy, do công việc bộn bề, người lớn làm không xuể, nên đôi khi trẻ con trong làng cũng phải lo ra đồng để phụ giúp làm mùa cho kịp. Nhà tôi neo người, chỉ có bố, mẹ và một anh trai, chính vì vậy mà với hơn 1 mẫu ruộng khoán của hợp tác xã, bốn lao động phải tất tả, quần quật quanh năm mà cái đói, cái nghèo vẫn luôn đeo đẳng.

Làm ruộng không đủ ăn, gia đình tôi thường chăn nuôi thêm gia súc, gia cầm trong khoảng sân, cái ao nhỏ phía trước nhà để cải thiện đời sống. Thức ăn của lợn, của ngan, gà, vịt ngày xưa chỉ là cám sát từ gạo và cây bèo tây băm nhỏ trộn lẫn, chứ không giàu dinh dưỡng như bây giờ với các thứ cám tổng hợp khiến gia cầm, gia súc nhanh lớn hơn. Muốn đàn lợn, đàn ngan, gà, vịt của nhà lớn nhanh, sau giờ tới trường tôi vẫn hay lang thang ra cánh đồng cao phía chân đồi để câu nhái. Con nhái mang về được bằm nhỏ, trộn lẫn với muối cho vào nồi cám lợn nấu lên cho lợn, cho ngan, gà, vịt ăn thì nhanh lớn phải biết. Không chỉ tôi, mà bọn trẻ con hàng xóm cũng rất hăng hái ra đồng bắt nhái khiến cho cánh đồng của làng, của xã luôn rộn ràng đầy tiếng cười nói của con trẻ.

Chân ruộng cao thường không trồng lúa, mà chỉ canh tác những loại cây rau màu, ngô, khoai, đậu tương, lạc, vừng…, vì vậy nhái trú ngụ rất nhiều dưới những tán cây. Đồ nghề câu nhái của chúng tôi rất đơn giản, chỉ là một cái bị bằng nilon, hoặc vải mỏng được khâu, dán với chiều dài khoảng từ 50-60cm, bên trên miệng níu lại bằng một vòng tròn thép hoặc tre. Chiếc cần câu bằng nhánh tre to bằng ngón chân cái, đầu buộc một sợi chỉ, có thể là cước, nối với chiếc móc câu bằng thép uốn cong để móc mồi vào. Mồi câu nhái là một loại giun dài cũng được đào ở những rãnh nước ẩm ngoài đồng. Với đồ nghề như vậy, chúng tôi tung tẩy ra khỏi nhà và khi về bao giờ cũng được một, vài kg nhái là chuyện thường tình, bởi nhái nhiều vô kể. chỉ cần đứng một chỗ, thả câu vào bụi ngô, bụi khoai, đậu tương… là có thể đứng giật liên tục. Từng chú nhái bụng trắng ởn, ham mồi mắc câu bị bỏ vào bị. Có hôm, chỉ đi câu chừng vài tiếng là tôi đã về rồi vì câu được nhiều do trước đó trời mưa, mát trời nên nhái ra rất nhiều. Khi đi những cái bị nhẹ tênh, khi về đứa nào đứa nấy đều mang nặng trĩu nửa bị nhái. Ngày nào tôi cũng đi câu nhái như vậy nên ở nhà mẹ tôi mua hẳn một cái chum to để dành ướp muối với nhái dùng cho lợn, gà, ngan, vịt ăn dần.

Nếu như thời nay, con nhái được xem là "đặc sản” để chế biến món chả nhái ngon đến khó quên, thì thời ấy, chúng tôi bắt được rất nhiều nhái là vậy nhưng hầu như chẳng nhà ai ăn bao giờ. Chỉ có ít nhà do túng kém quá nên thi thoảng họ mới lựa một số con nhái to bắt được để lột da, bằm nhỏ rán ăn mà thôi. Hình như, cũng đã có vài lần mẹ tôi cũng đã làm món chả nhái nhưng tôi không dám ăn. Có lẽ tôi không thấy thích với món này lắm thì phải. Chẳng vậy mà từ đó mẹ cũng chẳng bao giờ làm món này nữa…

Kỷ niệm của một thời tuổi thơ đi câu nhái cũng có lắm trò vui mà hẳn đứa trẻ nào sinh ra và lớn lên ở cái làng quê nghèo khó này cũng khó lòng quên được. Đó là, bao giờ cũng vậy, hôm nào câu xong, đứa nào cũng lưng bị, đầy bị nhái rồi là chúng tôi lại tụ tập tại một khúc sông nhỏ bên đồng để tắm. Có bữa, cả hội vào nhổ trộm lạc ra sông vừa rửa, vừa tắm ăn ngon lành. Nếu mùa đông giá rét thì trò đốt lửa sưởi ấm và sau đó đi bẻ trộm ngô, đào khoai để nướng ăn cũng không bao giờ thiếu trong những buổi ra đồng câu nhái.

Thấm thoát vậy mà thời gian đã trôi qua đi hơn chục năm, gia đình tôi đã chuyển khỏi làng quê để đến với một miền quê mới. Tuy vậy, thi thoảng thư thả tôi vẫn trở về với mảnh đất nghèo nhưng rất đỗi thân yêu- nơi chôn nhau cắt rốn, đã sinh ra và nuôi tôi lớn khôn - để thăm lại bè bạn, xóm làng và tìm lại những ký ức của một thời hồng hoang. Bao giờ cũng vậy, cứ trở về làng là tôi lại ra đồng, theo bọn trẻ tung tăng câu nhái đó đây và những lúc như vậy tôi thường khe khẽ gọi thầm: "Quê hương tuổi thơ ơi!”…

Ăn chay đi học

QĐND - Hết giờ học, Hạng A Chua và Hạng Thị Day cắm cúi thổi lửa nấu cơm. Trong căn nhà gỗ xập xệ chừng 30m2, dễ có đến 20 học sinh cùng trang lứa với Chua, Day cũng đang nấu cơm. Tôi mở xoong canh, thấy có chút rau cải, hỏi Hạng A Chua: “Chiều em ăn canh gì?”. “Canh cải ạ”. “Mai em ăn canh gì?”. “Cũng canh cải thôi”. “Thế ăn canh cải cả tuần à?”. “Vâng”.

Ở Trường Tiểu học Mường Lạn (xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La), có chừng 40 học sinh người Mông học bán trú do nhà ở xa điểm trường. Nhà Hạng A Chua và Hạng Thị Day ở bản Cò Hạ, cách trường hơn 10km. Chiều thứ 6 hằng tuần, Hạng A Chua cùng chúng bạn về nhà, để đến chiều chủ nhật, hành trang bọn trẻ mang đến trường là gạo, là măng rừng, là rau cả

Măng rừng thì có thể để được lâu nhưng rau cải chỉ độ 2, 3 ngày là hỏng. Vì thế các hộ dân tộc Mông ở Mường Lạn thường cho con, mỗi đứa khoảng 10 cân gạo mang đến trường. 3-4 cân gạo để ăn trong tuần, số gạo còn lại, bọn trẻ mang bán lấy tiền mua rau. Ác nỗi, trẻ con nghèo mang gạo bán cũng bị ép giá. Bình thường, người lớn bán 15 nghìn đồng/kg, nhưng gạo các em bán, một ki-lô-gam thường chỉ được 2 gói mì ăn liền loại bình dân.

Bên cạnh bếp lửa của Hạng A Chua và Hạng Thị Day, tôi thấy

Sồng

Thị Giống đang vất vả nhóm lửa nấu cơm một mình. Học lớp 4 nhưng nét ưu tư đã nhuốm vào gương mặt của Giống. Trong số học sinh người Mông ở trường, Sộng Thị Giống xinh nhất. Chẳng biết có phải bọn trẻ vùng cao hay “chế” nhau như ở dưới xuôi, mà Giống thường phải tự nấu ăn một mình, không có bạn cùng nổi lửa. Nhà

Sồng

Thị Giống ở bản Nong Phụ, cách trường 15 cây số. Phải khó khăn lắm, tôi mới bắt chuyện được với Giống, khi giúp em nấu canh măng, mà lớp măng rừng mỏng tang, chỉ vừa phủ kín đáy nồi bé tẹo. Tôi hỏi

Sồng

Thị Giống: “Chắc cả tuần ăn măng nhỉ?”. “Vâng”. “Thế tuần trước em ăn cơm với gì”. “Rau cải thôi”. “Không có thịt, cá, lấy đâu sức mà học”. Giống cười, không trả lời, cúi xuống chụm đôi môi xinh xắn thổi lửa.

Đứng cạnh tôi, Thào A Chư khẽ bảo: “Nhà bạn Giống hoàn cảnh lắm. Nhà nghèo, có khi thứ 5 đã hết gạo ăn, phải bỏ học thứ 6 để về nhà lấy gạo”.

Ở lớp 4C, Thào A Chư được biết đến như là phiên dịch viên. Có khách đến thăm, Chư đứng ra làm phiên dịch vì nói tiếng Kinh khá chuẩn, lại nhanh nhẹn. Nhà Chư ở bản Nậm Lạn, cách trường tới 25 cây số. Tuy không đến nỗi thiếu gạo ăn nhưng để biết đến miếng thịt, con cá, Chư phải đợi đến dịp lễ, tết. Chư bảo tôi: “Trong số các bạn người Mông học ở trường, có Giàng Thị Lu là khổ nhất, bố mất khi mới 8 tuổi; mẹ là Mùa Thị Song phải vất vả nuôi mấy chị em”. “Sao Chư rành về gia cảnh bạn vậy?”. “Bạn Lu ở cùng bản với em mà”. Ra vậy. Trong câu chuyện với tôi, Giàng Thị Lu tâm sự: “Chủ nhật em về trường, mẹ lại cho 5 cân gạo và 10 nghìn đồng”. “10 nghìn đồng, liệu có đủ tiền mua rau ăn trong 5 ngày không em?”. “Hết tiền thì mình phải ăn cơm không thôi”.

“Trong các em ở đây, bạn nào hay được ăn thịt, cá?”. Tôi cất tiếng hỏi. Thào A Chư ngó mắt nhìn quanh rồi đáp: “Có bạn Thọ A Vàng”. “Thế nhà Thọ A Vàng giàu không?”. “Nhà bạn Vàng nghèo mà! Chỉ vì bạn giỏi bắt nên hay có cua, cá, ếch, nhái để ăn”.

heo chân Thào A Chư, tôi men theo phía bờ ruộng sau trường tìm gặp Thọ A Vàng. Tìm Vàng không khó, vì em cũng chỉ bắt cua, bắt nhái gần trường. Vàng trông khá thấp bé nếu so với chúng bạn ở lớp 4C. Tôi hỏi Vàng: “Bắt được mấy con nhái rồi em?”. “Hai con ạ”. “Cho xem nào”. “Ăn hết rồi”. “Ôi, ăn kiểu gì vậy?”. “Nhóm lửa, nướng ăn luôn mà”.

Quay trở lại chỗ các em học sinh người Mông đang nấu cơm,

Chủ tịch UBND huyện

Sốp Cộp Phạm Văn Chung bảo tôi: “Đúng là các em còn nhiều khó khăn quá. Tôi đi ngó qua một lượt “bếp ăn”, thấy có mỗi một xoong cơm là có cá khô ở trên. Còn lại các em chỉ ăn cơm với rau cải và măng rừng”. Buổi sáng, đồng chí Phạm Văn Chung đã cùng chúng tôi đi xe thẳng vào Mường Lạn, mà không thông báo trước cho chính quyền xã. Được tin

Chủ tịch UBND huyện

đến thăm, một lúc sau, cô Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Mường Lạn Tòng Thị Quyên chạy đến, cho hay: “Đa số học sinh người Mông ở trường đều có hoàn cảnh khó khăn. Trường không có kinh phí để xây dựng nhà cửa cho các em học. Cái lán này là nơi các em ăn nghỉ từ chục năm qua rồi. Năm ngoái, Đồn biên phòng Mường Lạn đã xây cho các em một ngôi nhà bốn gian”.

Bọn trẻ người Mông biết rõ thế nào là cuộc sống cơ cực. Giàng Thị Lu, Hạng A Chua, Thào A Chư… gắng theo học con chữ chắc bởi trong sâu thẳm, những lúc ngồi cầm dao đẽo gọt bên bờ suối, ruộng lúa, chúng lờ mờ nhận ra việc đi học sẽ giúp cuộc sống sau này bớt tăm tối hơn. Còn hiện tại, nếu không đi học, thì chúng hẳn sẽ nhập hội, ngồi chơi bên vệ đường đầy bụi cùng mấy đứa trẻ ở bản, hoặc theo cha mẹ đi nương...

Chia tay các bạn nhỏ, chúng tôi nhờ lãnh đạo Đồn biên phòng Mường Lạn chia hộ tới các em chút quà phương xa là mì ăn liền, bánh kẹo và quần áo. Bọn trẻ vui lắm, đứa nào nhận quà cũng nhảy cẫng lên. Trong thâm tâm chúng tôi thầm hứa, có một ngày sẽ quay về thăm Mường Lạn.

Khi th

y mo tr

n kh

i nhà Ti

ế

n s

S

ơ

n đi b

t nhái…


Ghi chép c

a Đ

Doãn Hoàng



Lâu nay, gi

i quan tâm đ

ế

n s

t

n vong c

a các giá tr

văn hoá v

t th

và phi v

t th

truy

n th

ng

Th

đô v

n th

ườ

ng l

c đ

u lè l

ưỡ

i m

i l

n th

y Tr

n H

u S

ơ

n t

t t

t

i B

c” v

d

h

i ngh

hay là “ch

y ch

t” (theo cách nói vui) cái d

án gì đó. Là T

nh u

viên, Giám đ

c S

Văn hoá -Thông tin, T

ng biên t

p T

p chí Văn ngh

t

nh Lào Cai đã lâu lâu; l

i gi

r

t nhi

u ch

c danh toàn c

Ban Ch

p hành, v

i U

viên th

ườ

ng v

này

n

các t

ch

c, H

i

Trung

ươ

ng; nh

ư

ng Tr

n H

u S

ơ

n lúc nào cũng t

t t

, m

ướ

t m

i th

ế

. Anh h

u nh

ư

không bao gi

v

Hà N

i b

ng ôtô con, t

t t

t là đi tàu ho

, lý do: “

n

m m

t đêm là t

i Th

đô, sáng ra c

p c

p đi lo công vi

c. T

i, c

p c

p lên tàu, ng

m

t đêm trong phòng máy l

nh v

Lào Cai. Sáng ra v

n h

p

S

t

lúc 7 gi

đ

ượ

c nh

ư

ai. Đ

cho c

ơ

quan ít nh

t 2 tri

u đ

ng ti

n xăng!


Th

y mo ra công viên b

t nhái v

n

ướ

ng



Đi r

ng rú s

ư

u t

m toàn nh

ng cái đ

c nh

t vô nh

, l

m lúc đi b

đ

ế

n r

c c

ng;

nh

ư

ng Tr

n H

u S

ơ

n toàn u

ng n

ướ

c tr

ng, ăn l

ươ

ng khô. Anh “chén” l

ươ

ng khô gi

i đ

ế

n m

c anh em

S

Văn hoá Thông tin t

nh phát “s

”. Nhi

u khi đi công tác v

, v

con tá ho

th

y anh d

n theo m

t đoàn toàn các già làng tr

ưở

ng b

n, ăn m

c m

i ng

ườ

i m

t v

h

ế

t s

c kỳ d

. Anh gi

i thi

u: đó là các

 báu v

t nhân văn

s

ng (ngh

nhân dân gian-khái ni

m này mang tính qu

c t

ế

), h

s

giúp các nhà văn hoá b

o t

n và phát huy đ

ượ

c các giá tr

muôn m

t s

p th

t truy

n. Nghe “gi

i thi

u đ

i bi

u”, các th

y mo th

y cún

g ch

bi

ế

t hì h

i… c

ườ

i, b

i h

làm gì bi

ế

t ti

ế

ng Kinh? Th

ế

m

i có chuy

n th

t mà nh

ư

b

a: n

a đêm, m

t th

y mo tr

n kh

i nhà Tr

n H

u S

ơ

n ra ngoài Thành ph

Lào Cai. Ông đ

p ngoé cái m

t con nhái ngoài công viên c

r

, r

i đem v

góc b

ế

p nhà “Ti

ế

n s

S

ơ

n”

lì l

t n

ướ

ng ăn cho đ

nh

quê nhà.


Hãy nghe Tr

n H

u S

ơ

n phân tr

n v

s

c

này: “

Lúc đ

u tôi nghĩ đ

ơ

n gi

n, tr

ướ

c thì tôi th

ườ

ng xuyên đ

ế

n s

ng v

i ng

ườ

i ta

tít các b

n làng heo hút đ

ượ

c. Gi

làm lãnh đ

o, không có th

i gian, tôi tính đ

ư

a h

v

nhà mì

nh. H

s

s

ng

nhà mình; h

d

ch sách, k

chuy

n cho mình nghe, “l

ươ

ng” tr

khá h

u hĩnh (so v

i

b

n). Tôi đi kh

p, g

p g

giao du v

i h

, ch

lo n

ế

u h

ch

ế

t m

t mà mình ch

ư

a k

p khai thác… thì gay! Hôm

y, ng

i v

i tôi đ

ế

n kho

ng 9gi

đêm, ông c

ng

ườ

i La Ha b

o: xin phép mình ph

i đi có vi

c! Th

ế

là ông

y ra công viên, b

i c

v

ch lá, đ

p đ

ượ

c m

t túm nhái. Đem v

nhà n

ướ

ng ăn. Ông b

o thi

ế

u cái ch

t tanh c

a con nhái ông

y không tài nào ch

u đ

ượ

c

”.

Những món ăn mùa làm nương của người H’Mông

Sau khi ăn Tết xong, nếu trời nắng ấm lên, thì người H’Mông bắt tay vào làm nương ngô. Xưa kia đất rộng, người thưa, nên người H’mông thường đi làm nương xa nhà. Có thể cả nhà phải đi từ rất sớm cho đến tối mịt mới về, hoặc có thể phải đi một vài ngày, thậm chí một, hai phiên chợ. (Xưa kia người H’mông chưa có khái niệm tuần, mà người ta tính thời gian theo một vòng chợ, là sáu ngày một phiên). Trước ngày chuẩn bị lên nương, người ta thường tổ chức bữa cơm tẩu pàng để khai trương bắt đầu bước vào mùa vụ.

Tẩu pàng là một món ăn rất đặc trưng của người H’mông. Bữa khai trương này, người ta thường mời khách trong xóm làng cùng ăn để bàn bạc việc đổi công, hoặc hợp sức cùng phát rẫy nương.

Trước tiên, người ta ngâm đậu tương vào nước ấm. Vớt những hạt nổi lên để nấu cám lợn. Còn lại những hạt chắc, người ta ngâm cho kĩ, rồi cho vào cối đá xay. Khi xay, người bón hạt thỉnh thoảng phải bón thêm một chút nước.

Xay xong, người ta lọc lại bằng cái xảo đan lóng mốt mau để bỏ hết mày. Số còn lại để làm thức ăn là tinh bột lỏng. Khi cho vào chảo để nấu chín, nhất thiết người ta phải trộn thêm một số loại rau chua và có thể thái thêm rau cải, gừng củ cho vào nấu cùng.

Các thức ăn để mang đi nương có thể ăn dài ngày thì phải kể đến món

tủ xênh

, có nơi còn gọi là tẩu xênh. Đó là món sườn lợn băm thật nhuyễn, rồi trộn tỉ lệ một-một với gừng, muối, thảo quả và có thể cả ớt.

Tất cả cho vào chảo rang kĩ. Sau đó người ta dồn chặt vào các hóp tươi, nướng qua lửa đến khi cháy xém hết phần vỏ ống. Như vậy, món xương băm đã hấp thụ cả hương thơm và vị nhựa ngòn ngọt của ống hóp, sẽ tạo nên một món ăn có hương vị đặc biệt quyến rũ và để dành bao lâu cũng được.

Đến bữa ăn, người ta chỉ việc bửa từng khúc dài, ngắn tùy theo lượng người ăn, có thể đem nướng qua cho nóng.

Cũng tương tự như vậy, người ta có thể làm món này bằng thịt sóc, cầy, dúi, chuột rừng, hoặc cá suối.

Riêng với cá suối, thì cá phải được nướng qua trước khi băm trộn với gia vị, rồi mới nhồi vào ống hóp. Tất cả đồ ăn nhồi ống để làm, người ta chỉ chọn cây hóp, vì cây hóp có hương thơm, vị ngòn ngọt.

Đối với món

cá chạch

, rất ít khi người ta ăn nướng hoặc rán để nguyên cả con như một số nhà hàng hiện nay.

Cá chạch khi trở thành một món hàng “kinh tế”, do người ta nuôi trong bể xây, hoặc quây riêng một mảnh đồng để nuôi, nên dù có thể chế biến kiểu gì thì vẫn rất nặng mùi vị tanh.

Cá chạch ở vùng cao sống tự nhiên trong các ruộng chằm, nên có thể được coi là cá sạch. Ở những vũng bùn nước lặng, nếu thấy có lỗ, tức là có cá. Người ta thọc hai tay xuống, bứng cả tảng bùn lên, con cá sẽ lộ ra.

Mang cá về, người ta mổ bỏ ruột, tuốt nhớn bằng lá cỏ cứt lợn, rửa sạch, rồi kẹp lại, đem nướng trên than hồng. Khi đã nướng chín, nếu phàm ăn và muốn ăn ngay, thì có thể ăn kèm với lá non của cây liễu đá thường mọc ở bờ suối, hoặc ăn với lá dấp tanh, cũng có thể ăn ghém với lá đào non.

Còn nếu cần làm thức ăn mang đi, thì người ta cho vào cối giã cùng với gừng củ thái lát đã sấy khô, thảo quả, ớt khô, và có thể thêm một ít quả sá. Giã xong, cho lên chảo nóng đảo đều.

Món

thịt nướng nhừ

ngày nay đã xuất hiện tuy còn rất hiếm hoi tại các nhà hàng đặc sản. Nhưng xưa kia, đó là món ăn của người H’mông mang đi nương.

Con gà, hoặc các con vật nuôi khác được làm sạch lông và lòng, sau đó nhồi lại vào trong bụng cùng với các loại rau thơm như răng cưa, tía tô, củ sả, gừng, thảo quả non hoặc hạt thảo quả đã nghiền thành bột, lá ớt và một vài quả ớt xanh, cho muối vừa đủ.

Người ta tìm chọn đất sét thật mịn trát kín xung quanh càng dày thì món ăn càng nhừ, rồi cho vào bếp lửa, hoặc chất riêng một đống lửa để đốt. Khi quả cầu đất đỏ rực lên rồi thì không cời thêm lửa nữa.

Trong quá trình lửa tắt dần, thì quả cầu lửa cũng nguội dần. Sau một vài ngày phát mương, cuốc rẫy đã thấm mệt, người ta bửa quả cầu đất ra, món ăn sẽ tỏa lên mùi thơm nức, cả thịt, cả xương đều nhừ. Nếu món ăn đã quá nguội, người ta có thể nướng lại. Đó vừa là một món ăn độc đáo, lạ miệng, vừa bồi bổ sức khỏe.

“Đến đâu phải ăn ngóe đấy”, hoặc “đến đâu phải ăn mắm ngóe đấy” là câu nói cửa miệng có ý nghĩa cần phải biết thích nghi, thích ứng với môi trường mới lạ. “Mắm ngóe” có thể là từ khoa ngôn. Nhưng món

thịt nhái

thì quả là ngon có hạng, cho nên xin chớ vội lè lưỡi chê bai: “Eo ôi! Khiếp! Bẩn quá!”.

Khi sấm đầu mùa rền vang, mưa rào trút xuống, thì ếch nhái không biết chui rúc ở đâu suốt cả mùa đông, nay thi nhau nhảy túa ra đường, ra ruộng, đêm đêm, chúng kêu rộn lên.

Ở vùng cao loại ếch đồng rất hiếm, chỉ có ếch đá sống ở các khe suối đá, ếch xanh sống ở các đầm, còn ở ruộng thì chủ yếu là nhái đất, tức là con ngóe. Người ta bắt nhái về, xóc qua nước sạch, rồi mổ bằng cách rạch một đường dao bằng sống lưng, tuốt sạch, chỉ lấy nguyên hai cái đùi, cho muối, hoặc tro sạch vò kĩ, rồi rửa đi.

Món thịt nhái chế biến như thế nào là tùy thích. Song có thể làm rang khô, nếu là để mang đi nương ăn dần.

Thịt nhái được băm kĩ, trộn với các loại gia vị như gừng giã nhỏ cả củ, cả lá, bột thảo quả, ớt khô và muối vừa đủ. Khi đã rang khô, giòn, thì gói vào lá chuối khô. Mùi thơm của lá chuối khô hấp vào món ăn, tạo nên hương vị thơm thoang thoảng.

Thịt nhái ăn ngay, thì có thể kẹp, nướng qua lửa, sau đó băm nhỏ đem xào cùng với rau cải thái nhỏ, tra thêm gừng củ giã và lá gừng thái thật nhỏ. Nếu phàm ăn mà số lượng thịt nhái khá nhiều, người ta nướng qua lửa, rồi đem rán. Hoặc có thể băm thịt nhái trộn đều với gừng củ, lá, tra muối, bột thảo quả, rồi vo viên rán lên làm thành món chả nhái.

Các món ăn thuộc về động vật để mang đi nương ăn dần, còn có thể kể đến thịt trâu khô, thịt bò khô, thịt lợn muối…

Đối với các món ăn thuộc về thực vật, chỉ xin kể vài thức trong truyền thống.

Trước hết, có một món xin tạm gọi là

món ớt, nhưng hiện nay đã trở nên quá hiếm, làm nguyên liệu mà người H’mông gọi là quả sá.

Sá là loại cây vừa thân gỗ, vừa thân dây leo và có gai, ra từng chùm quả trông tựa như hạt tiêu (hay hồ tiêu). Đến độ có thể hái được, người ta hái cả chùm mang về cất trên gác bếp cho khô để ăn dần.

Khi ăn, người ta tuốt một nắm quả nướng qua tro nóng, hoặc rang cho giòn, sau đó giã với muối ớt. Món ớt sá ăn vừa thơm, vừa tê tê lưỡi.

Món

dưa chua

tưởng chừng đơn giản. Nhưng chỉ có những người phụ nữ khéo tay mới làm được. Người ta hái rau cả cây đem về rửa sạch, phơi qua nắng cho héo, sau đó dồn vào ngâm trong chum cho đến khi đã chua thì vớt rau. Vắt khô nước rồi mang ra phơi càng khô càng tốt.

Đến bữa, người ta chỉ việc thái ra ăn ngay, hoặc xào mỡ, và có thể nấu với món tủ xênh, hay nấu với thịt thú rừng sấy khô.

Với món

măng chua, là món ăn được ưa chuộng trong những ngày tết, và người ta còn để dành mang đi nương sau tết. Bí quyết của món măng chua là càng để lâu thì càng ngon.

Người ta chỉ chọn măng củ, là măng mai, măng trúc hoặc măng sặt. riêng với măng mai, măng hóp thì phải thái lát. Măng đã được luộc qua một nước, rồi xếp vào chum vại. Muốn để lâu, người ta phải cho thêm nõn riềng, và nhất thiết phải có một loại hoa, tiếng H’Mông gọi là

pàng kống.

Cây kống mọc từng khóm như riềng, gié, hoặc thảo quả. Hoa của loại cây này chồi từ dưới đất lên, có màu hồng. Do đó, khi măng ngâm đã đủ độ chua, sẽ có màu hồng trông thật đẹp mắt.

Khi ăn măng chua, người ta ăn cả hoa kống. Măng chua có màu hồng thái chỉ đem xào với thịt ba chỉ, sẽ thành món ăn sang trọng cho những ngày tết. Và đó cũng là món người ta cố dành dụm để ăn vào mùa làm nương.

Ngoài việc xào với thịt ba chỉ, còn có thể xào với thịt trâu bò khô, hoặc thịt thú rừng sấy khô.

Đối với những món khai thác tại chỗ trên nương, trên ruộng, có thể kể đến món

bi chuối rừng, hoặc

thảo quả non. Bi chuối rừng luộc trong ống nứa, ống mai, hoặc nướng chấm muối ớt, sả ớt đã ngon.

Nếu thái nhỏ nấu, xào với thịt trâu, bò khô, hay với thịt thú rừng sấy khô, băm nhỏ, hoặc nấu với món tủ xênh thì sẽ được một món ăn sang. Với thảo quả non thì người ta nướng chín, để cả vỏ, băm cùng với thịt trâu, bò khô hoặc thịt thú rừng sấy khô, rồi rang lên.

Trong nhiều đám ruộng, có một loại cây tự mọc, người H’Mông gọi là

kao lẩu là, xin tạm dịch là khoai rúc ruộng, hoặc khoai khoan rộng, là loại cây thân củ, trông gần giống như cây bông mã đề, lá hình lưỡi gà. Mỗi một cây có vài sợi rễ cái ăn theo nhiều hướng.

Đầu cụt của rễ cái sẽ có một cũ khoai, đất tốt thì to bằng ngón chân cái, đất xấu thì nhỏ hơn. Người ta bới được nhiều, sau khi nướng chín, người ta nghiền ra, rồi xào mỡ, sẽ thành một thức nhắm vừa ngon, vừa bổ.

Cũng vào mùa cày bừa, trên những mảnh ruộng xuất hiện rất nhiều con dế chũi. Mỗi con dế chũi có hai cái càng to ở phía trước để dũi đất mở lối. Người lớn cày bừa đi trước, trẻ em mang giỏ theo sau để bắt dế.

Dế được bóp ruột, rửa sạch, đem rang giòn, rồi nghiền với gừng sấy, ớt khô, hoặc quả sá, đảo qua mỡ là sẽ được một

món ruốc dế

ăn thơm ngậy.

Tuổi thơ

Dạo này trời âm rải rác từng cơn mưa nhỏ, báo hiệu mùa mưa sắp bắt đầu. Mùa nghỉ hè cũng gần kề. Nhớ hồi nhỏ mỗi lần đi đâu xa là nhớ nhà nhớ quê khiếp luôn. Ít khi ở đêm bất cứ nơi nào trừ ngôi nhà của mình.

Thuở ấy chỉ có đi học là mới có bạn bè. Mỗi lần nghỉ học là buồn da diết. Ở nhà thì có mấy đứa là bạn… Mà bạn lúc ấy với nhiều độ tuổi lớn nhỏ... vẫn là bạn.

Nhớ mấy lúc tát mương… cá ơi là cá. Nào cá lóc, cá trê... lươn thì đem um… Rùa, rắn nhiều lắm! Vui nhất là chiều chiều cùng nhau đá banh, đánh cõng. Mùa mưa này thường trồng khoai lang. Mưa đậm hạt thì trồng lúa trên đất giồng cát. Những nơi trũng ấy gọi là rọc (hay gọc gì ấy nghe phát âm là vậy).

Mấy đứa trong xóm thì hay lắm: cắm câu, soi ếch nhái, bắt chuột... Rủ nhau đi từng nhóm... về cùng nhau nấu nướng. Buổi tối vui nhất là xem truyền hình. Mấy khi có gánh hát hay đoàn chiếu phim về là chiều xôn xao hẳn lên. Đôi khi Đoàn văn công địa phương tổ chức miễn phí hát các tuồng cải lương cũng vui lắm!

Mùa hè tuổi thơ có những ước mơ chưa hình thành rõ nét trong tâm trí. Những buổi tắm sông cùng bạn bè hay mưa xong đi lượm xoài chín, bắt dế đá, đào hang bắt dế giồng nướng ăn thì không thể nào quên kí ức tuổi thơ.

Mùa hè và quê hương trong tâm trí tuổi thơ nay mang sắc diện mới của cuộc sống đầy đủ cả vật chất lẫn tinh thần. Song các bé cũng sẽ có những cảm nhận riêng, mà người lớn hiện nay không thể so với tuổi thơ một thời đã đi qua của mình.

Mùa hè đang chờ đợi các em với những chuyến đi vui chơi thỏa thích sau kì thi. Mùa thi cũng gần kề rồi các bé nhé!

Khi ký ức tuổi thơ chợt về...

Con côn cốn - tức là con muồm muỗm đó ạ. Mỗi vùng quê có cách gọi khác nhau (chắc chỉ duy nhất quê mình gọi là côn cốn).

Côn cốn hình dạng gần giống cào cào, nhưng miệng nó có răng màu đỏ, lúc nào cũng ngoàm ngoạm muốn cắn cái gì đó chứ ko hiền như mấy chị cào cào. Loại này mà nướng ăn thì...tuyệt vời, ko thể tả bằng lời được ^^ . Trẻ con nông thôn rất thích côn cốn là vì thế.

Khi gặt lúa, chờ tới khi gặt gần hết ruộng lúa là bắt đầu ùa nhau đi bắt côn cốn. Những con côn cốn bị dồn lại vào những đám lúa cuối cùng, nhảy chôm chôm, tha hồ bắt. Đứa nào nhanh và khéo thì bắt được nhiều, đứa nào chậm thì cũng phải được năm bảy con, lấy cỏ xâu lại rồi lại tung tăng đi tìm ruộng lúa nào đang gặt để bắt.

Sau khi bắt xong rồi thì tìm nơi nào đó, lấy cỏ khô đốt rồi cho côn côn vào nướng, hoặc mang về cho vào bếp. Côn côn cực ngon khi nướng bằng chính bếp rơm, ném nó vào bếp rơm đang cháy, đợi một lúc thấy mùi thơm là đã chín. Lấy que gẩy nó ra, phủi bụi tro đi, bóc lớp cánh giòn đã cháy gần hết là xơi được rồi. Ngon tuyệt luôn!

Hôm nào ko đi bắt đc thì chờ mẹ đi gặt về, kiểu gì chẳng có vài con côn cốn được bọc trong lớp ống tay áo xăn lên hoặc cạp quần của mẹ. Mẹ làm lụng vất vả nhưng ko bao giờ quên mang về cho mấy đứa con cái món khoái khẩu này..!!!

Như bài viết bạn gì viết trên kia, những lần mà mình bắt được nhiều côn cốn, thì ko nướng, mà cho vào chảo rang, rang chín rồi cho ra đĩa làm thức ăn cho cả nhà. Bữa cơm nào có côn cốn thì xin thưa là côn côn hết trước tiên. Bố mẹ cũng chỉ ăn vài con góp vui, chủ yếu là nhường con cái ăn thôi...

Chia sẻ vài dòng với các bạn đôi chút về tuổi thơ. Khi nào rảnh xin viết tiếp, ko biết mọi người đọc có hiểu ko, văn lủng củng quá!

Hồi nhỏ khoái nhất tụ tập với trẻ con hàng xóm, tầm 6-7g tối, tức là sau bữa tối, tụ tập ở nhà 1 đứa nào đó chơi trốn tìm. Trời tối, nhà chúng nhiều cây cối, chuồng lợn, chuồng gà, bếp....Cả 1 bầy trẻ con hàng chục đứa chạy tóe loe, chui rúc vào mọi ngóc ngách xó xỉnh.....đụng nhau côm cốp, chửi bới nhau nhặng xị.



Trời mưa em thích đi câu ếch nhái, bắt về nhét cho chúng ăn đủ thứ, xong rồi rạch bụng ra xem nội tạng, xem những thứ mình cho ăn đang ở chỗ nào. Sau đó làm đám ma, làm vòng hoa, đắp mộ, bóc lõi cành mít để làm hương. Cành mít khi khô đi, lớp xơ bên ngoài sẽ mủn ra, nhưng cái lõi bên trong không bị mủn, bóc bỏ lớp xơ, đốt lên nó cháy như 1 cây hương đích thực, mùi thơm như hương trầm ngoài Bắc.



Nói đến hương mới nhớ, vào SG mới biết ngoài hương trầm ra còn có hương nước hoa. Người miền Nam hình như chuộng loại hương này, cây hương rất nhỏ, không biết thành phần làm bằng gì nhưng đốt lên mùi như mùi nước hoa tầu rẻ tiền, càng ngửi càng ong đầu (bác nào miền Nam đừng ném đá em, đó chỉ là cảm quan cá nhân

) Bữa rồi em lang thang buổi tối ở chợ Bến Thành với đứa bạn, đi qua 1 hàng bán hương, họ đốt hương trầm, 2 đứa cứ đứng lại hít lấy hít để.

class=inlineimg v:shapes="_x0000_i1034">

Nói tiếp chuyện ếch nhái, sau khi làm đám ma và chôn xong, sẽ tiếp tục làm 3 ngày, 49 ngày rồi giỗ giếc vào những ngày tiếp theo đó, tiếp tục hương khói 1 thời gian rồi bỏ bẵng. Vài tuần sau nhớ ra là sẽ "cải mộ", đào xương lên rồi lại chôn xuống....:Laughing:



Còn trời nắng thì em thích câu cá, xúc cá, câu chuồn chuồn. Câu cá với xúc cá thì ai cũng biết rồi. Còn câu chuồn chuồn thì chắc ít người biết. Cần phải bắt cho được con chuồn chuồn con bé bằng nửa cái bút chì thôi (không phải chuồn chuồn kim nha, chuồn chuồn nhỡ), cắm nó vào 1 cái thân cây cỏ dài, cầm cái cây đó ngoáy ngoáy con chuồn chuồn con trước mặt 1 con chuồn chuồn to khác, con chuồn chuồn to lao vào túm mồi là ta túm nó luôn. Chuồn chuồn to có mấy loại cơ bản như: chuồn chuồn đá (loại này hiếm, khó câu), chuồn chuồn đen (rất phổ biến), chuồn chuồn ớt (chuồn chuồn đỏ). Chuồn chuồn câu được sẽ xiên vào 1 cộng cỏ dài, mang về cho gà hoặc ngan ăn. Em rất thích thú với việc xẻ thịt ở cái mình con chuồn chuồn để chơi trò bán thịt, trò nấu nướng, thịt chuồn chuồn màu nâu, từng thớ từng thớ, gợi cho ta ý nghĩ về thịt bò.



Ngoài ra còn có trò làm diều, nuôi cá, nuôi nhện, bắt rắn tun, câu thằn lằn, chọc tổ chim, nuôi chim sẻ, nhảy dây, oánh khăng,....thập cẩm bát âm. Có trò đẽo gụ với làm súng cao su thì em chưa thử nhưng em biết chơi 2 trò đó, "đồ nghề" thì tụi con giai chúng nó cho.

' border=0 class=inlineimg v:shapes="_x0000_i1035">

Của đáng tội, ít ra thì em cũng là con gái, nên ngoài những trò đó ra em cũng biết làm búp bê và thích chơi đồ hàng.



Chắc ông trời còn thương bố mẹ em.



Ngày đó nghèo nên trẻ con toàn phải tự chế đồ chơi, em thích làm búp bê từ vải vụn, từ quần áo cũ, tước sợi vải để làm tóc, lấy bút vẽ mặt mũi cho nó, khâu quần áo cho nó. Làm nhà búp bê, thích nấu nướng và tưởng tượng ra các món ăn....( Điều đó giải thích vì sao bây giờ mình khéo tay và nấu ăn ngon :Silly: )



Nhiều lúc cảm thấy vui sướng và tự hào vì mình có 1 tuổi thơ vui vẻ như vậy. Trẻ con bây giờ thiệt thòi bởi chúng phải chơi đồ chơi nhập khẩu từ TQ, phải chơi game online, phải nằm điều hòa, tập bơi bằng bể bơi công cộng.....



Trò chơi trẻ con kích thích trí tưởng tượng, khiến trẻ thông minh và phát triển lành mạnh hơn. Biết là thế nhưng bây giờ có con cũng không cách nào mang đến cho chúng những điều như vậy được.

Thơm lừng cháo nhái “bò tọt”

Khi đã trưởng thành, xa quê hương, mỗi lần nhớ món cháo “bò tọt”, lòng tôi nao nao nhớ về một miền quê yêu dấu.

Cha tôi nổi tiếng là người có biệt tài nấu

nướng

, bởi thế dù ở nông thôn nhưng chúng tôi luôn được thưởng thức những món ăn dân dã ngon miệng một cách lạ kỳ. Trong đó, món

ăn

mà chúng tôi ưa thích và nhớ đời là cháo nhái “bò tọt”!

Quê tôi, mùa mưa thường đến sớm. Sau những trận mưa đầu mùa, lũ nhái bầu, cóc, ếch cùng nhau hợp tấu inh ỏi, âm vang. Đặc biệt, trong đó có gia đình nhà nhái nhỏ, mà ở quê tôi người ta thường gọi là nhái “bò tọt”. Tôi còn nhớ ngày ấy cha bảo:

“Đêm nay, cha con mình cùng nhau bồi dưỡng món nhái bò tọt".  

Thế là sau đó, anh em chúng tôi trang bị mỗi người một cây đuốc quấn vải nhúng dầu, chia nhóm, một người cầm rọi chụp nhái, một người cầm bao, đi theo mé lộ trong xóm hay men theo các bờ đê.

Do nhái “bò tọt” dễ bắt nên chỉ khoảng một giờ đồng hồ là trở về nhà. Nhái “bò tọt” có hình dáng như ếch, lớn lắm cũng chỉ độ ngón tay cái. Theo kinh nghiệm của người dân quê tôi, thịt loại này

ăn

rất ngon, mềm, ngọt thịt, xương rất nhỏ và bổ dưỡng. Do đó, cứ đến mùa mưa là chúng tôi lại đi tìm

bắt

và chế biến món cháo nhái “bò tọt” đầy hấp dẫn.

Nhái “bò tọt” mang về, cắt đầu, lột da, bỏ ruột và bốn bàn chân, rửa sạch, đem băm nhuyễn, ướp gia vị như đường, bột ngọt, hành, tiêu đâm nhỏ và ít muối bột. Bắc chảo lên bếp cho mỡ hay dầu ăn, cho tỏi, hành phi thơm, cho thịt nhái “bò tọt” vào xào chín. Nồi cháo trắng nấu vừa nở búp (không đặc quá), khi cháo đang sôi trút hết thịt nhái vào, dùng vá trộn đều. Chờ cháo sôi trở lại, nêm gia vị vừa

ăn

cùng ngò (rau mùi), hành lá thái nhỏ và thêm ít tiêu xay.

Anh em tôi ngồi bên nhau, từng tô cháo nóng được múc ra, cho thêm ít rau thơm, nước mắm cùng vài giọt chanh. Tô cháo toả mùi thơm phức kết hợp từ sắc trắng của gạo, vị thơm của hành, ngò, sự ngọt ngào từ thịt nhái, màu vàng thơm của tỏi, hành phi và lác đác những hạt tiêu nhỏ. Tất cả đều toát lên hương vị đậm đà đồng quê.

Cháo Cóc



Mùa này, vào những buổi chiều sẫm tối có cơn dông, tôi vẫn thường nhớ đến một căn nhà thấp ở phố Hàng Gai, Hà-nội, quanh năm ẩm thấp, hễ có mưa rào thì nước dâng lên mấp mé chân giường. Nhà ấy là nhà của cụ tôi, sau để lại cho thầy mẹ tôị Có lẽ vì sợ làm mếch lòng các cụ, thầy tôi không dám sửa lại, thành thử mỗi khi mưa thì nhà dột đất ẩm, nửa đêm chợt tỉnh giấc nồng, cứ nghe ồm ộp bên tai tiếng cóc nhái kêu gào như thể mình đương nằm giữa cánh đồng: ghét quá! Tôi còn nhớ có đêm, mất ngủ, tôi lén thức dậy thắp một cây nến nhỏ đi soi ở dưới gậm giường, bắt cóc, đem hành phạt. Mẹ tôi mắng: "Bắt nó phải thì tội chết". Và mẹ tôi lại bảo: "Mình nó có nhựa, chạm phải, hóa hủi, không thể nào chữa được". "Con cóc là cậu ông trời, Hễ ai đánh cóc thì trời đánh cho". Từ đó, tôi không dám đánh cóc, giết cóc nữạ Và cũng từ đó, tôi yên trí rằng nhựa cóc sẽ sinh bệnh hủi cho mãi tới bây giờ... để thú thực rằng tôi đã ngạc nhiên và kinh sợ hết sức khi thấy có người ở đây ăn cháo cóc Cóc ai mà lại còn không biết nó? Xấu đến thế là cùng! Nó nặng nề, ì ạch, lúc nào cũng ngồi chồm hỗm, mắt cứ giương ra trừng trừng, mà da thì đen mai mái, lại sù sì, tởm quá. Nhìn bát cháo cóc mà tưởng tượng lại cái thân hình như thế, thực tôi không hiểu sao người ta có thể ăn uống "lẩm cẩm" như thế được... Nhưng đến khi liều chết, húp thử vài miếng xem sao thì mình cũng thấy nó có một hương vị lạ, ngon ngọt, thơm thơm, man mát như thể thịt có ướp hoa bưởi vậỵ Thử cho mà biết như thế cũng haỵ Có một thuở nào xa xưa lắm rồi, tôi đã ở trong rừng với người Chàm, lấy lá đu đủ nấu canh, ăn ốc ma leo ở hàng rào ẩm cả tháng mà không làm sao hết, trái lại vẫn cứ ngon... Có người sống hàng năm trong rừng ăn kiến, ăn gián còn ghê hơn tôi, mà có làm sao đâu? Còn ở tỉnh thành, ai mà không ăn ốc nhồi, ốc vặn, ai mà lại không ăn rươi, ăn ếch? Thế thì tại sao không thể bắt con chằng hiu nhắm rượu chơi, nướng con dế cơm lên lửa ăn với củ lạc rang và rửa con cóc cho sạch nhớt, lột da, chặt đầu nấu cháỏ ếch và cóc cùng thuộc loài "lưỡng thể động vật".

Người Tây phương ăn ếch chiên, ếch xào lăn với hành và nuôi ếch "to thế này này" đóng hộp để xuất cảng thì nghĩ cho kỹ, cóc cũng chỉ thế mà thôị Người ta sợ ăn cóc chỉ vì có thành kiến về da nó, nhưng có ai đã được xem làm một mẻ cóc rồi mới biết "tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh", thịt ếch cũng chẳng hơn gì thịt cóc. Cho tới bây giờ chưa có một ai bảo cho tôi biết da cóc có truyền bệnh hủi đích thực hay không, những trông một mẻ cóc chặt đầu, lột da rồi, để trên thớt chờ làm thịt, ta thấy thịt cóc hấp dẫn như thịt "ba dọi" vậỵ Thịt ấy màu trắng ngà, thớ nhỏ, đanh mà ráo rẻ đáo để. Thử tượng tượng để cho khô nước, chiên hành tỏi cho dậy mùi rồi bỏ thịt cóc vào mà xào, cái thơm tho tiết ra trong không khí quyễn rũ khứu giác của người ta biết chừng nào! Ông nào nhậu, chờ cho thịt chín vàng, xúc ra đĩa, gia thêm sả, hạt tiêu, ớt vào mà nhắm nhót có thể thấy thích thú hơn ăn thịt gà mái tợ Thịt dê dai lắm, mà thịt thỏ thì xác quá, không thể đem ra so sánh được với thịt cóc, mềm, mà nhai sừn sựt, ngọt nhưng ý vị, đậm đà, chớ không trơ trẽn như thịt ngan, thịt ngỗng. "Bẩm các cụ, chúng tôi xin lỗi, chớ ăn cóc như thế này, ngon nhất món gì?" Tôi đã hỏi ý kiến nhiều người sành ăn ở đây thì cóc ăm sướng nhất là món cháọ

Thịt cóc luộc với cháo, ăn thanh cảnh mà không ngấỵ Nhưng phần đông thích ăn cháo với thịt cóc xàọ Ăn kiểu này, cũng như "cập tầy" hay "kê ạp chúc", nghĩa là để cháo với thịt riêng ra, duy khác một chút là cá thì để tái, gà thì luộc "lòng đào", còn cóc thì xào lên trước. Lúc ăn, trút thịt cóc vào cháo, quậy lên. Ai ăn được màđầu, rẩy một chút lên cho thêm thơm, thêm béo; nhưng nếu không có thì cũng chẳng sao, bởi vì riêng thịt cóc, cũng đã thơm và ngọt lắm rồi. Vừa húp, vừa ngẫm nghĩ, ta có cảm giác cái thơm, ngọt đó tựa như cái thơm ngọt của tôm he và bào ngư hòa hợp với nhau để tạo thành một "lực lượng thơm thứ ba" vừa lành vừa mát. Thực thế, nhiều người bảo tôi rằng cháo cóc mát lắm, trẻ con, người lớn ăn vào giải nhiệt; hơn thế có ông lại bảo nó trừ được cả một vài chứng kinh, sũng và chứng khóc "dạ đề" của trẻ mới sinh - chẳng biết có đúng hay không? Nói thì nghe sướng lắm, nhưng bởi mình mới "tập sự" ăn cháo cóc nên vẫn cứ thấy rờn rợn, sợ một cái gì... Thì ra là mình sợ chết. Chớ sao! Đọc báo hàng ngày, người ta há chẳng thấy đôi khi có đăng tin ăn thịt cóc chết người là gì đấy! Một ông bạn bảo tôi:

- Có thế thực, ăn cóc có khi chết người, nhưng chết là tại người ta làm lòng không kỹ.

Lúc làm cóc cần nhất là phải sạch, đừng để cho dập mật, đừng để cho sót trứng vì nếu trứng cóc làm không kỹ, nó dính vào mỡ, ăn vào dễ chết như chơị Mật lấy không hết cũng vậỵ Người ta bảo rằng một nồi cháo cóc mà để xót mươi cái rứng ăn vào chỉ nửa tiếng đồng hồ thấy xây xẩm mày mặt lại, quỵ luôn. Các ông già, bà cả lại còn nói rằng thịt cóc tối kỵ củi cà và khoai mì. Nấu thịt cóc với rõ cây cà tím phơi khô hay ăn thịt cóc lẫn với khoai mỳ cũng độc lắm, dễ chết người. Nghe thấy mà bắt ớn! Song le những người ưa thưởng thức món ăn ngon khôn g vì thế mà chịu thôi thịt cóc. ờ phải, cứ vào vụ mưa này đây, có ai về chơi thăm những vùng quê Cái-bè, Cần-giuộc, ở lại nghỉ đêm ở Tân-phước hay Chợ Gạo mới thấy người ta ham bắt cóc ăn đến chừng nàọ Mấy thằng nhỏ cởi trần trùng trục, đóng khố, lội mưa, xách một cái đèn đi lùi lũi vào vườn nhà người ta rón rén tìm đến chỗ cóc kêu lấy xiên xiên từng con hoặc nằm xoài ra để chộp cho vào trong một cái giỏ đeo ở bên sườn. Nhưng đấy chỉ là những tốp người lẻ tẻ đi bắt cóc vô tổ chức. Muốn hiểu thế nào là bắt cóc "chân chính", ta phải đi ra ngoài, đi quan sát dưới trời mưa, ở ruộng, hay dọc một con đệ Hoàng hôn vừa lả xuống trên nội cỏ, đồng cây từ Laođung qua Trà-bến, từ Long-thành đến Lái-an từ Cồn-lát đổ về, từ bờ sông cái vọng sang, tiếng cóc ì à ì ộp liên thanh bất chỉ như một bản nhạc thô kệch nhưng xúc tích hương cau, mùi lúạ Từng nhóm người bận áo đen quần cụt, lầm lầm lũi lũi đi ở trên bờ ruộng, vểnh tai lên nghe xem tiếng nhạc cóc từ nơi nào vọng rạ Chỉ một giây, họ biết ngay nơi cóc "hội". Thường thường, đó là một cái gò cỏ rậm hoặc một lu đất bên cạnh những vũng nước dợ Chiếu một ánh đèn vào đó mà coi: chúng "bắt cặp" với nhau kỹ lắm; ánh đèn vừa chiếu vào, léo mắt, cặp nào cặp nấy nhảy đì đà đì đạch, nhưng cấm có cặp nào chịu rời nhaụ Một cuộc bố ráp diễn ra, làm cho kẻ bàng quanh tưởng tượng như mình đương chứng kiến một cuộc bố ráp ở Chuồng Chó hay Ngã ba chú íạ Mười cặp thì cả mười bị tóm! Người "chuyên viên" thong thả giơ từng cặp bắt được, đưa lên ánh đèn dầu để coi nở một nụ cười khoái trá khi bắt được cặp cóc đen và mập. Cái giống cóc bụng đỏ là cóc bệnh, ăn chẳng ra cái chết gì, chỉ để dành trong nhà ăn với nhau, chớ không bán được tiền.Cóc được ưa chuộng phải là cóc "bự", có nhiều "mụt" đen ở trên lưng, chân "no" mà sáng. Người ta cho tất cả vào trong một cái vó tre hay thùng thiếc đem về, lột da rồi đưa ra chợ. Các chợ Sài-gòn, Phú-nhuận, Ngã ba ông Tạ... thường vẫn bán cóc cho người thủ đô mua xàị Hỡi cô Hai, cô Ba, Cô Sáu, cô Bảỵ.. cô Chín, cô Mười ơi! Gà nhúng hèm, ăn mãi bứ; chạo tôm, gỏi sứa, bì cuốn, dùng luôn cũng ngán! Hôm nào thử ra chợ mua một mẻ cóc về làm vài món ăn chơi, các cô sẽ thấy chồng bớt khó tính đi, và các ông sẽ vừa thưởng thức miếng ngon vừa kể những câu chuyện hay hay đáo để:

- Em có biết tại sao về cữ mưa này, người ta bắt được nhiều cóc không?

Nguyên giống cóc, cũng như giống ếch nhái, là một loại động vật vùa nước mà vừa cạn. "Cái trứng nở ra như mộ thứ ấu trùng, có mang để thở, ở dưới nước như loài cá. ít lâu sau, mang nó rụng đi, chân mọc ra, đồng thời cái đuôi mất nốt". Cứ vào cữ mưa thì cóc dưới nước lên trên bờ ở, nhưng cũng chính vào lúc đó, những cóc dậy thì, cũng như các cóc nạ giòng, lớn tuổi nằm trong những đồng ruộng đầy sao rụng, mơ chuyện â tình, thi nhau làm công việc truyền tử nhươc tôn. "Những tiếng kêu oai oái, có lúc như đau đớn, có lúc như thở dài, có lúc như rên rú, có lúc như nhõng nhẽo, chính là tiếng nói của tình yêu đấy, em thương ạ!" Vậy mà, tội nghiệp, đang lúc cóc mến thương trao nhịp thở chung tình với nahu trong đêm xanh mát rượi thì loài người từ khắp nơi đổ đến, vơ cả lũ rồi ném cả vào thùng. Hú vía! Có con sây sát cả mình; có con gãy đùi, sứt trán; lại có cặ bị dứt ngang ra, nhưng đa tình thay là giống cóc! Bị sa cơ đến như thế, cặp nào cặp nấy vẫn không chịu rời nhau, nhất thiết khắng khít cho đến chết. "Yêu là chết ở trong lòng một ít" có phải nhà thi sĩ đã viết như thế phải không, em? Với loài cóc, yêu là chết thực sự, chết đứ đừ, chết "toàn diện", chết giẫy lên đành đạch; nhưng không hề gì, ở trong thùng, trong vó chùng vẫn "song ca" bản nhạc mê lỵ Vì thế, đừng tưởng ăn thế này là chỉ ăn thịt cóc mà thôi, nhưng chính là ta ăn hương thơm đồng ruộng, ăn... những bản nhạc dân ca, ăn... bao nhiêu cuộc ân tình ra rít? vào lòng...Ỏ Người chồng nói tới đó, đưa mắt nhìn vợ, thì thấy long lanh cặp mắt lá khoai, hồng lên đôi má mịn màng... Đêm ấy, bên chùm dạ lý hương, hai mái đầu xanh sát lạị.. Đâu đây, có mùi hoa bưởi thơm thơm...

Dòng sông quê

Thân tặng tuổi thơ tôi

Trong cuộc đời, bất cứ ai đó cũng có một dòng sông của riêng mình, dòng sông chứa đựng giấc mơ, nỗi lòng và những khát khao tuổi nhỏ, dòng sông kỷ niệm một thời. Thật may mắn cho tôi vì được sinh ra ở một vùng quê có cả sông cả biển. Biển dập dềnh, ầm ào phía trước, sông lững lờ, hiền hòa phía sau, như một sự sắp xếp hài hòa của tự nhiên.

Dòng sông quê tôi không được rộng lớn và bồi đắp nhiều phù sa như các dòng sông khác nhưng nó mang nét bình yên của ngàn xưa mà ít dòng sông nào có được.

Sông vốn là con kênh, thường gọi là kênh nhà Lê. Ngày xưa, nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi đã bao ngày vất vả đào nên con kênh này để làm tuyến đường thủy vận chuyển quân và lương thực thực phẩm đánh giặc Minh. Dòng sông như dải lụa xanh ngoằn ngoèo, chỗ nở ra, chỗ lại thắt vào những xóm làng như eo thiếu nữ. Dòng sông xanh trong đến tê lòng.

Tuổi thơ của tôi gắn bó, nổi trôi với dòng xanh ấy. Tôi, thằng bé chưa đầy mười tuổi đầu trần, chân đất, da cháy màu ruộng đồng cùng lũ bạn cứ mỗi buổi trưa rủ nhau ra sông bắt chim. Hai bên bờ sông những rặng phi lao và bạch đàn rậm rạp xanh ngút mắt. Đó là nơi lý tưởng cho lũ chim sẻ và chim ri làm tổ. Tôi rất thích nuôi chim, đặc biệt là chim ri. Chúng có giọng hót rất hay. Sau khi mỗi đứa tìm được vài ba tổ chim rồi, cả bọn rủ nhau xuống sông tắm. Lũ trẻ như lũ chim non lao xuống dòng nước mẹ. Chúng tôi cởi trần, để quần áo trên bờ nhảy ùm xuống sông tận hưởng cảm giác mát lạnh giữa buổi trưa hè nóng nực. Chưa đầy mười tuổi nhưng tôi bơi rất giỏi. Cả lũ thi nhau bơi, nhào lộn, vẫy vùng trong làn nước trong mát, ngọt ngào.

Sông quê tôi nhỏ, nước xanh, ít vũng sâu nên lũ trẻ chúng tôi tha hồ tắm táp mà không sợ bị đuối nước. Ven hai bờ sông hoa cúc dại cùng hoa xuyến chi nở lấp loáng mặt sông trông thật đẹp.

Suốt cả mùa hè, tôi gắn bó với dòng sông như người bạn thân thiết không rời, khi thì bắt chim, khi thì đi câu cáy. Loài cáy (một loài cua nhỏ), sống gần mép nước. Chúng đào hang và thường ra khỏi hang sưởi nắng. Loài này rất nhát người, chúng tôi phải dùng cần câu là một đoạn tre dài, mồi câu là giun đất hoặc châu chấu. Bao giờ tôi cũng là đứa đầy giỏ trước nhất. Thịt cáy kho tương rất ngon.

Mùa lũ về, chúng tôi lại rủ nhau đi giăng lưới bắt cá. Cá tràn ra các ruộng lúa, ruộng khoai. Những rãnh nước chảy vào các chân ruộng. Từng con cá rô căng tròn, béo núc lăn lóc dưới mặt nước xâm xấp. Cá rô là loài cá thích nhảy ngược dòng nước mỗi khi có mưa hoặc lũ tràn. Rồi cá lóc, cá mương, cá đối... loại nào cũng có thể tìm thấy vào mùa này.

Chúng tôi giăng lưới ở các rãnh thoát nước, trước cửa cống vì ở những chỗ này cá rất nhiều. Có khi may mắn còn bắt được cả ba ba, rùa nhỏ...

Những ngày đông, trời rét căm, chúng tôi lại lùa trâu thả trên bãi cỏ ven sông. Cả lũ túm tụm nhau lại quanh đống lửa nhỏ có củ khoai lang lùi, vài ba bắp ngô nướng chia nhau ăn. Mặt mày đứa nào cũng lem luốc khói than. Có khi mấy đứa rủ nhau trèo lên cây phi lao hoặc bạch đàn bắt châu chấu, bọ ngựa nướng ăn hay thỉnh thoảng "sát sinh" mấy chú chim sẻ, chim ri để thay đổi khẩu vị.

Vào mùa chim di cư, từng đàn cò trắng xóa cả triền sông. Chúng bay là là trên mặt nước bắt con tôm con tép... Trong các bụi dứa gai, chim cuốc, bìm bịp kêu da diết. Ban đêm tiếng vạc nghe rất não nề. Vào mùa ấy lũ trẻ chúng tôi lại rủ nhau đi bắn chim. Đạn là nhưng viên đất sét vắt tròn đã phơi khô với chiếc súng cao su và chiếc nạng gỗ làm từ ngọn phi lao. Đó là nỗi kinh hoàng của những chú chim xấu số. Quanh các bụi dứa gai đều giăng lưới, chú chim nào không may mắn là dính bẫy. Bẫy nhậy, có khi dính cả chuột. Ở các ruộng lúa gần sông, người ta đánh cò bằng những con cò mồi hoặc cò rơm quét vôi trắng, bên dưới tua tủa nhựa bẫy.

Tuổi thơ trôi qua êm đềm như dòng sông ấy. Bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu nỗi niềm đã trôi theo những con sóng nhỏ ra tận lòng biển lớn. Dòng sông ngụp lặn trong cả tuổi thơ tôi. Bây giờ ở nơi xa, thèm được cái cảm giác trần truồng tuổi nhỏ lao vào dòng nước xanh mát, trở về với tuổi thơ một thời. Nhưng dòng sông nay đã khác rồi. Qua thời gian đất bồi cộng với đời sống dân cư phát triển, dòng sông không còn cái vẻ hoang sơ cổ tích như xưa nữa. Bờ bãi ít nhiều thay đổi khác xưa. Cái màu xanh hoang dại cũng chẳng còn... Nhưng dòng sông kỷ niệm thì còn mãi, chảy mãi trong tôi. Nơi phố thị nhộn nhịp, tôi mơ hồ nghe tiếng sóng dập dềnh của dòng sông vỗ vào tiềm thức, mơ hồ trông thấy một cánh hoa cúc dại lững lờ trôi...

Người với chó mèo.


Nguyễn văn Lục

Chó mèo ở xứ người cứ bề ngoài thì chúng sướng thật. Lần đầu đi siêu thị, thấy đồ ăn bầy trên kệ tưởng là cho người hóa cho súc vật. Chó mèo ngồi xe hơi nhởn nhơ, ngồi salông chễm trệ, được ôm , được bế, được đầm hôn hít. Trong khi người viết chưa được cái diễm phúc đó lần nào.. Cứ nhìn thấy hình ảnh đó, có cảm tưởng là hình ảnh của hai người bạn, biểu tượng của niềm vui, hạnh phúc. Lúc chết thì khóc thương như cha chết, mẹ chết.
Đi ngoài đường thì kè kè cái bị để sẵn sàng hốt cứt cho chó. Hốt cứt cho chó thì được, nhưng nếu bảo hốt cho người thì chắc vàng cũng không làm. Cũng không hẳn là vậy.
Đọc ông Tô Hoài kể khi về quê, ông đã tranh thủ dạy thật sớm để tranh nhau đi hốt phân. Dạy trễ một tý là phân bị kẻ khác phỗng tay trên. Nghĩ mà tội. Tranh nhau từng cục phân. Nhưng vẫn chưa tội bằng những người làm nghề buôn bán phân ở Hànội. Họ còn lấy tay thò, khoắng vào gánh phân, rồi đưa lên mũi ngửi để phân biệt phân "tốt" hay phân "xấu ".. Phân nhà giầu thì thối hơn được kể là phẩm chất tốt, có giá hơn phân nhà nghèo thường chỉ là bã rau cỏ. Chẳng biết có cần phải nếm không? Nghĩ mà kinh hãi quá.
Người bên này quý trọng súc vật như thế. Từ con chim, thú rừng đến một cái cây cũng được bảo tồn , gìn giữ . Lấy cái gậy hay lấy chân đá con chó kêu ăng ẳng thì nên nhìn trước nhìn sau kẻo hàng xóm thấy được thì rắc rối. Cảnh sát sẽ đến hỏi thăm ngay. Còn hơn các hội bảo vệ nhân quyền nữa. Đủ thứ hội bảo vệ súc vật. Nghĩ đến bên mình thì săn bắt bất cứ động vật nào biết đi, biết bò, biết lội, biết bay. Từ hai chân đến bốn chân, có lông hay không có lông, có vẩy, có da, có đuôi hay không đuôi, nhỏ hay lớn, hót hay nói, bất cứ ở đâu, ở rừng, trên núi, dưới biển, ở quê hay tỉnh, còn trinh hay mất trinh.. Cứ nhìn cảnh "câu trời " theo lộ 843, huyện Tam Nông, Đồng Tháp Mười thì sẽ thấy cái nguy cơ hủy diệt sinh thái : Nào các loại cò, cúm núm, trích, ốc cáo, chằng nghịch. Chẳng súc vật nào thoát nạn. Người ta bắt bất cứ súc vật nào, ăn bất cứ cái gì hiếm nhất, lạ nhất mà trí tưởng tượng nghĩ ra được.


Bao giờ thì bầu trời VN không còn tiếng chim hót, dưới nước không có cá, trong rừng không có thú vật để chỉ còn lại có một giống người? Chưa có một nếp sống văn hóa súc vật, biết tôn trọng sự sống thiên nhiên, nói vội chi đến văn hoá con người.
Tôi có chị bạn có hai con chó con. Chúng có tên hẳn hoi, có khai sinh hay không thì không rõ. Tên chúng là Tiki, Tika. Nhưng nội cái tên nghe đã đẹp và dễ thương rồi. Ít lắm Tiki và Tika cũng hơn một anh đi tù chỉ có bảng số mà không có tên. Vì tên một người tù đã không còn trong danh sách giống người nữa. Có lần , tôi đi đến lãnh về con mèo đực 7 tháng được đưa đi thiến.
Cô thư ký hỏi tôi :
Thế tên con mèo của ông là gì.
Tôi cứ ngớ ra. Tưởng chỉ người mới có tên .
Lại có màn giải thích, cô thư ký dở hồ sơ cho biết con mèo nhà tôi có tên là Phăng Phăng.
Theo lời chị bạn tôi cho biết Tiki và Tika không phải là con của chị. Số là lúc chúng được gần một năm thì có người bạn vì lý do gì đó không nuôi được nên đã cho Tiki và Tika.


Người bạn gái đến cho hai con chó đã quyến luyến rơi nước mắt trước khi để chúng ở lại. Ít lâu sau, cũng tình cờ tôi có mặt ở đó, chị bạn tôi nhận được cú điện thoại của chủ cũ muốn đến thăm Tiki và Tika. Lúc đó Tiki và Tika đã ở với chị bạn tôi gần một năm.


Vậy mà vừa trông thấy chủ cũ, cả hai chú chó đã cuống lên, ngồi phệt xuống, hai chân trước ngồi chống lên rồi kêu ư ứ trong miệng. Sau đó nằm lăn ngửa chổng vó lên trời, đuôi quẫy ra chiều sung sướng lắm. Tiki đã quá đỗi vui mừng gặp lại chủ cũ và tè một bãi. Sướng đến vãi đái ra quả thật không sai. Phải một lúc sau mới bình tĩnh trở lại quấn lấy chủ. Trông cảnh đó ai mà không cảm động. Được một lúc thì chị bạn tôi đề nghị :
Thôi ba má con dẵn nhau ra ngoài chơi một lúc đi.
Thế là người và chó rứu ra tứu rít ra đường ST. Dorothée. Cảnh đó cứ làm tôi suy nghĩ mãi khi về nhà, vì đôi khi người với người cũng chả được như vậy. Nhiều lúc nghĩ cũng ngượng, đã có bao giờ mà người viết dắt vợ con ríu ra rít rít, tung tăng ngoài đường phố như thế không. Ấy là không dám nghĩ xa nữa.
Chó VN ở ngoài Bắc chỉ làm mỗi một việc dọn cứt đái cho mấy đứa nhỏ. Đói quá ăn liều chứ ngon nỗi gì. Đúng là khổ như chó.. Nào đã xong, nhơn nhởn một chút, có da có thịt là liệu cái thần hồn bị trở thành rựa mận, dồi chó lúc nào không hay.
Quên chưa thưa với quý vị là cả hai Tiki và Tika thuộc loại chó nhỏ síu..


Tôi cũng không rành rẽ là giống gì. Nhưng hình như, thân hình gầy đến nhỏ thó của Tiki và Tika là thuộc loại người mẫu thời thượng bây giờ. Các bà, các cô đều mơ ước được gầy như Tiki tika. Bà nào đến chơi cũng muốn nưng niu hai chú chó nhỏ xíu dễ thương. Chị bạn tôi mỗi lần dắt chó ra đường là một hãnh diện.. cho chị. Vì tây đầm chạy lại, cúi xuống vuốt ve, cười hỏi thăm tíu tít..
Trong khi người chồng thì dừng lại xa xa, cách đó mấy bước, mặt mũi như một hiền triết. Đôi lúc thấy chị bạn ôm cứng con chó, nghiến răng nghiến lợi nói :
Tôi cưng nó lắm cơ làm con chó đến nghẹt thở.


Tôi lại có dịp ngước mắt nhìn anh bạn thăm dò. Anh vẫn điềm nhiên tọa thị. Hình như cảnh đó đã quen quá đối với anh rồi.
Về đến nhà, tôi bâng quơ tự hỏi, đây là biểu thị tình yêu giữa người với vật hay là biểu thị một niềm cô đơn, lấp đầy một khoảng trống? Người ta yêu chó chỉ vì không yêu được người hay bị người phản bội? Có sự thất vọng về người? Có những đắng cay, chua xót về người ? Có sự ruồng bỏ, khinh miệt, có bôi nhọ? Yêu chó phải chăng chỉ là lấp chỗ trống, thay thế chỗ của người? Càng ngày cái xu hướng " thời đại" yêu chó hơn yêu người càng có có cơ sở tồn tại. Có một nếp sống văn hóa súc vật ló dạng và hiện hình.
Thử hỏi, người bạn tin cẩn nhất của ông Bush, ông Putine là ai? Tại sao chỉ có mình chó có thể thay thế con người trong một số chức năng cao thượng, lý tưởng và siêu vợt tưởng chừng chỉ có con người mới đảm đương nổi :
Thông xẻ và yêu thương, cho mà không cần đáp trả, hy sinh và tận dâng nếu cần cả cuộc đời, cả mạng sống mình, nhẫn nại kiên trì và chờ đợi, trung thành và chính trực.
Tại sao chó lại lãnh cái vai trò trung gian, làm hoà, nối liền người-người mà con người đã không đảm đương nổi? Những chức năng và đức tính mà khó có thể đòi hỏi ngay cả nơi những bậc đại nhân, những người gần bước đến "cổng trời" cũng không chắc làm được. Tôi có nói quá cho chó không? Giống mà vẫn bị con người khinh miệt và đối xử thật tồi tệ . Nghĩ đến nó phải chăng là thiết lập lại một nếp sống văn hóa súc vật, mở đầu cho văn hóa người?
Tuần vừa rồi, chị bạn lại phone kể lể cho biết về hai đứa con của mình. Tôi vẫn có thói quen vảnh tai nghe chuyện về súc vật như thế. Chị vừa cho hai đứa đi thử máu hết 120 đồng. Sau đó chích ngừa dại 12O đồng nữa. Nhưng vì Tiki và Tika đều là thanh niên nên chị đã quyết định thiến cả hai. Tốn thêm 180 nữa. Vị chi mất 420 đồng . Vừa bằng tiền lương một tuần lễ của một người thợ và hơn lương của một người đi làm lương tối thiểu ở Canada. Và nếu tính bình quân cho một người dân VN bây giờ thì bằng số lương của một người Việt Nam đi làm trong một năm. Và dĩ nhiên, với số tiền đó sẽ nuôi được ít lắm bốn người trong suốt một năm.
So sánh như vậy rồi lại chẳng muốn nghĩ nữa. Hoá ra nuôi chó còn tốn hơn nuôi người, hóa ra quý chó hơn quý người. Thay vì nuôi hai con chó, có thể nuôi được hai gia đình bên VN. Thôi, thôi, đừng nghĩ nữa..

Tôi lại không dám nghĩ xa hơn nữa. Nhưng chị bạn tôi kiếm nhiều tiền thì số tiền đó có nhằm nhò gì ở xứ người. Chuyện tiền bạc là chuyện nhỏ. Điều làm tôi suy nghĩ thêm là thương chó, sao nỡ thiến nó đi như vậy? Có bất nhẫn quá không? Có mỗi một sinh thú ở đời, có mỗi một nguồn vui mà Thượng Đế đã dành cho mọi loài thì bị thiến mất. Chó và Hoạn quan có gì khác nhau? Cái kẻ đã nghĩ ra được kế thiến người phải chăng mở đường cho việc thiến chó?


Thiến như thế thì thương chó hay thương mình? Ở nhà tôi cũng vậy, sợ con mèo phăng phăng cào rách bộ salon bằng da nên các con tôi quyết định cho rút móng chân của mèo.
Từ đó, có sự xung đột, mâu thuẫn cha con về việc thiến hay không thiến, rút hay không rút móng. Mèo mất móng là thứ "gà chết", không chạy nhảy như trước nữa, chẳng khác gì người què. Ra ngoài vườn trèo leo đâm khập khễnh, gặp chuột chỉ đành cười trừ xã giao :
đằng ấy có khoẻ không?


Chuột biết mèo không có móng khinh khỉnh không thèm trả lời. Chuột thong thả đi qua mặt mèo như một khách nhàn du, cười hích hích. Mèo nhìn chuột trong nỗi bất lực và niềm oán hận về khuyết tật của mình.
Chẳng hiểu mèo có nhìn ra được cái lẽ , cái mầm mống của sự mất móng không? Rách bộ Salông có phải là lý do cần và đủ để con người hành xử tàn tệ với số phận của mèo không ? Nghĩ đến thấy rùng rợn, thấy có vẻ ác độc làm sao.
Giả dụ,

rút móng chân người như vậy có được không? Rút móng chân mình có được không?
Hội bảo vệ súc vật tại sao chấp nhận những việc làm như vậy. Đánh con vật thì không được, có thể ra tòa nếu bị thưa. Nhưng rút móng chân, thiến chó , thiến mèo thì lại không sao cả. Càng nghĩ, tôi càng thấy quẩn. Có cái gì không ổn, có cái gì mâu thuẫn chưa hiểu đầu cua tai nheo ra sao?
Mới đây thì tai họa xảy đến cho Tiki Tika rồi. Cuộc đời Tiki và Tika bước vào một ngõ cụt đến thảm thương. Vốn thương chủ nên mỗi lần chị bạn tôi về nhà là cả hai vui mầng sủa gâu gâu. Trăm lần như một, cảnh đó diễn ra và nếu chị về trễ thì Tiki và Tika buồn và chảy nước mắt .
Thấy mắt Tiki, Tika có rỉ mắt, chị bảo :
hôm qua về trễ nó khóc đấy. Thương quá là thương. Chúng xốn xang xốn ruột, chúng cồn cào bầy tỏ tâm trạng chán ngán, thất vọng, chạy ra chạy vào, rên ư ử. Thật đến tội nghiệp.


Sự bầy tỏ như thế, con người đôi khi cũng không so sánh bằng. Người ta đã nhiều lần thấy giống chó trung thành với chủ đến bỏ ăn, nhịn đói đến chết theo chủ, hoặc mỗi ngày ra nằm phủ phục trước mộ chủ như tỏ lòng thương tiếc. Đôi người đã nhẹ dạ phán rằng : chó còn hơn người. Tôi lại cũng không dám nghĩ xa hơn nữa.


Quên chưa nói là chị bạn tôi ở trong một chung cư nhiều tầng. Có bà hàng xóm không chịu được tiếng chó sủa đã đâm đơn kiện. Có thể bà hàng xóm này vẫn ra vào gặp Tiki và Tika và đã từng vuốt ve Tiki. Nhưng nghe tiếng chó sủa lại là chuyện khác. Bà có thể khó chịu, có thể mất ngủ và rất có thể nổi khùng lên không chịu đựng được. Bà kiện lên chủ chung cư. Chủ chung cư gửi giấy phạt 75 đồng vì chó gây ồn ào trong chung cư. Xứ người nó lạ lắm, thái độ, cách hành xử khác ta lắm. Ở bên nhà, chó sủa là chuyện thường. Gà gáy sáng là chuyện thuờng.
Tiếng chim chóc hót buổi sáng là chuyện cũng rất bình thường. Tiếng ve sầu ra rả suốt ngày nghe điếc tai, rồi cũng quen. Ban đêm tiếng chó chu, sủa trăng cả đêm vẫn ngủ được. Mà có ai điên khùng đi kiện nhà có chó? Có ai đi ngăn tiếng chim hót? Mất tiếng hót thì chim không còn là chim. Có ai đi ngăn tiếng gà gáy te te mỗi sáng? Con gà trống trong ngày chỉ hứng tình lúc đó và chỉ gáy lúc đó. Người ta bảo gà gáy sáng Tôi không tin như vậy.
Thiếu tiếng gà gáy buổi sáng, thiếu tiếng chim hót, thiếu tiếng ve sầu thì như đời sống không bình thường nữa. Ta quen quá rồi đến độ gần gũi thân thương, đến độ không có không được. Vậy mà nghe tiếng chó gâu gâu vài tiếng đã nổi điên lên, chịu không nổi.. đó cũng là nét cá biệt của người da trắng.. Chỉ một chút xíu như xầy da, tróc vẩy đã trở thành một kiếp nạn đối với họ rồi. Vì thế, họ lấy làm lạ lắm khi thấy chúng ta khốn đốn nào chiến tranh, nào nghèo đói, nào tất bật chạy gạo từng bữa mà vẫn nhởn nhơ, vẫn có nụ cười.. Họ không hiểu được ta. Ta cũng không hiểu được họ.
Chị bạn tôi vì thương Tiki, Tika, vì muốn giữ hai con chó với mình nên đành đọan quyết định mang chúng đến thú y giải phẩu cắt đi thanh khí của nó. Phắc tuya lên tới 1500 đồng gồm đủ thứ lỉnh kỉnh ở trong. Tôi không dám lạm bàn vào chi tiết. Nên phê phán bà hàng xóm khó tính hay phê phán chị bạn ác quá? Phần trách nhiệm, lỗi phải về ai ? Về chủ con chó là chị bạn? Hay người hàng xóm? Chó đã mất sinh thực khí nay lại mất béng thanh quản còn sống làm gì nữa. Nếu tôi ở trường hợp nó, tôi sẽ sống làm sao? Trông thấy đàn bà đẹp, dỏ nước dãi, máu chạy ngược ứ lên đầu muốn vỡ bung ra. Mồm thì muốn nói cũng không được, muốn chửi thề cũng không xong.
Lại chuyện tiền. Nhưng như đã nói ở trên. Chị bạn tôi không ke chuyện tiền bạc. Nhưng tôi lại nghĩ lang thang vớ vẩn, so sánh đủ chuyện. Tôi có người bạn kể cho biết, anh đã xin tiền để giúp một cơ sở y tế ở vùng Nhatrang, trong đó có khám bệnh và phát thuốc cho người nghèo và người dân tộc thiểu số. Vậy mà số tiền chi phí hằng năm chỉ trên 3000 đồng. Rồi còn phát gạo 20 kílô cho người nghèo. Với hơn 3000 đồng đó, biết đâu đã cứu sống được nhiều mạng đứa trẻ. Mạng người là quý, những đồng tiền cứu trợ đó cũng vô giá. Đừng nghĩ thì thôi, nghĩ tôi lại buồn.
Còn số phận Tiki và Tika bây giờ đến thảm thương. Mỗi lần chủ về, hai chú không sủa được nữa. Chỉ khò khò trong cuống họng. Có lẽ thiến, hai chú cũng còn chịu đựng được. Nhưng muốn bầy tỏ lòng thương chủ thì nay đành chịu. Phải chăng, đó là nỗi khốn khổ nhất của hai chú.
Nghĩ lại con Phăng Phăng nhà tôi còn may mắn lắm. Nó được chiều như chiều vọng . Không cho ra ngoài, Phăng Phăng tức mình hất mọi thứ ở trên bàn xuống đất kêu loảng xoảng. Sách vở, tài liệu của tôi xếp đâu ra đó, nó lấy chân hất xuống đất. Cỏ vẻ khinh tôi ra mặt, khinh cả cái đám chữ nghĩa của tôi và cả những người bạn của tôi nữa. Nằm phơi dưới sàn, ngổn ngang, lẫn lộn các nhà văn, nhà báo nam nữ, các triết gia, các nhà sử học. Cả nhà chỉ cười. Con trai tôi vừa cười vừa mắng yêu :
Phăng Phăng hư quá à.
Nói xong, liệu mà đi nhặt tài liệu vung vãi dưới đất. Về mùa hè, đôi lúc tôi khổ với Phăng Phăng. Nó bắt chim, bắt chuột nhắt đủ thứ công về nhà, vứt vào xó nào đó. Nhà thối hoăng lên mới biết tại Phăng phăng.
Chính điều đó làm tôi giận Phăng Phăng. Bắt chim, bắt chuột rồi ăn cho thêm dinh dưỡng như mèo bên nhà là điều tốt, hợp với bản năng của nó. Nhưng ở đây sát sinh để đùa, để chơi, để nghịch là điều bất nhẫn. Mà thường cái chức năng đó chỉ dành cho con người. Phăng Phăng ăn ngon đủ thứ đâu thèm ăn chim sớng chuột chết. Tôi giận Phăng Phăng là vì thế. Nó chẳng nên bắt chước con người. Tôi giận P.P còn có lý do nữa. Nghĩ lại vào năm từ 1946 đến 1952, tôi lưu lạc ở Hànội một mình giữa hai lằn đạn. Không có mà ăn, cũng đi bắt chim sẻ về nướng ăn. Đó là bữa tiệc. Bụng đói, nhìn bất cứ cái gì cũng chãy nước dãi, dù chỉ là nắm cơm. Thiếu dinh dưỡng hai chân tôi phù, đôi lúc phải bò lê, bò càng. Nghĩ mà càng tức Phăng Phăng.
Nói chi đâu xa, khoảng năm 1982 gì đó, tôi được thư ông anh lớn ở Sàigon gửi thư sang căn dặn :
Chú phải gửi về Sàigòn loại cá hộp xắc đin của Marốc về để bồi dưỡng cho ông anh cả đang đau nặng. Nay phải bồi dưỡng cho

"anh ăn uống theo tiêu chuẩn Quốc tế".
Cứ nghĩ đến câu ăn theo tiêu chuẩn quốc tế, tôi lại không nhịn được cười. Bên nhà cho thế là sang lắm. Soài, mít. ổi, chôm chôm, măng cụt ngon gấp 10 lần cam , lê táo xứ người lại chê. Cam lê táo mới quý cơ, mới sang. An cá lóc, cá rô nướng , lươn sào lăn thì bổ gấp trăm, ngon gấp trăm cái đồ vứt đi ở xứ người là mấy con "xặc đin". Biết vậy, tôi làm thinh không gửi về. Trong khi đó, Phăng Phăng xơi cá Tuna, hộp nhỏ xíu, đắt 2,3 lần xặc đin .
Được cái Phăng phăng có cái hay là không thèm ăn vụng. Đồ ăn dọn trên bàn , nó không thèm để mắt tới. Thường thì mèo ăn vụng, người thì ăn hối lộ. Luật thiên nhiên là vậy. Nghĩ thế, biết đâu cứ gửi cho người Việt Nam cá Tuna ở bên này về họa may hết bệnh chăn? Chỉ sợ bệnh chưa hết mà Tuna lên giá thì bỏ mẹ cả nước. Cũng thú thực là nhiều lúc, tôi cũng lấy ăn ké. Chẳng hiểu ăn như thế, phải gọi Phăng Phăng ăn theo tiêu chuẩn nào? Đúng là người không bằng vật.
Nước ta còn nghèo, bà con còn nghèo biết làm sao được. Thôi thì sống ở đâu thì theo đó, so sánh làm gì cho thêm mệt.
Trước khi chấm dứt bài , người viết thấy cái bộ óc con người nó kỳ diệu lắm, có thể nghĩ ra những điều tốt nhất và cả những điều ghê tởm nhất. Cứ nhìn đám chữ nghĩa con người xử dụng hẳn thấy điều đó. Sự toàn thiện, toàn mỹ và sự tàn bạo, ô nhục cách nhau có một lằn ranh nhỏ. Khốn cho thời đại chúng ta, lúc nào cũng phải sống giưã những làn ranh đó trong vòng tranh chấp thị phi. Vì thế, con người đi tìm một trái đệm, một chỗ tựa, một chỗ ẩn náu nơi giống chó.
Chó càng lên ngôi, sự phá sản niềm tin vào người, vào đồng loại càng sâu đặm. Trong tương lai, mà đã có rồi đấy, sẽ có chuyện bảo hiểm cho chó, mèo, thừa kế di sản, nghĩa địa cho chó mèo và biết đâu có cả bàn thờ với di ảnh, linh vị như người chết. Người Nhật mới đấy làm lễ bái lậy trước trước vong linh hằng trăm ngàn gà bị dịch cúm gà phải tiêu hủy. Phải biết đâu đấy. Chó mèo sẽ ngồi lên chỗ mà trước đây chỉ có bậc tổ tiên, cha mẹ, bậc anh hùng được ngồi? Cái điều tồi tệ nhất có thể xảy ra không còn xa nữa.. Lúc đó thì sẽ có một nếp sống văn hóa súc vật.. bị đảo ngược.


Người viết quả tình không mong điều đó xảy ra.
Nhưng tôi vẫn còn câu hỏi canh cánh bên lòng chưa có câu trả lời :
Tiki và Tika cũng như Phăng Phăng sướng hay những chú mèo chú chó Việt nam chạy dông ngoài đường sướng? Được cưng chiều, được thiến, được ăn ngon, được cắt thanh khí, được để di ảnh, được là bạn chân tình của hai người mạnh nhất hoàn cầu..? hay ngược lại bị phải ăn cứt, bị xua đuổi, bị hành hạ, bị mất mạng như chơi, được tự do muốn đi đâu thì đi, muốn làm gì thì làm ? Thật sự, tôi không đủ sức để trả lời một câu hỏi đơn giản như thế.
Riêng bản thân người viết, kỳ tới sẽ phải đương đầu với một lương tâm khó xử , một xung đột văn hoá giữa trong và ngoài khi đặt chân về nước : Có nên chiều theo cái dạ dầy đi xe ôm xuống khu Ngã Ba ông Tạ làm một đĩa thịt chó cho có hương vị quê hương? Sự chọn lựa ắt cũng không phải dễ..

Thịt chim Đồng Tháp

Đ

ng Tháp M

ườ

i, chi

ế

c nôi c

a chim tr

i, cá n

ướ

c.

đó có bi

ế

t bao đ

c s

n phong phú mà thiên nhiên đã hào phóng ban t

ng cho con ng

ườ

i t

trên tr

i xu

ng d

ướ

i n

ướ

c


Mùa nào thức ấy, người sành ăn phải biết được tháng nào, mùa nào, thịt của động vật nào ngon và đông ken nhất. Muốn ăn thịt chim (một loại gà hoang dã, ngon hơn thịt gà nuôi) thì vào đầu mùa mưa, khoảng tháng 3, tháng 4 ÂL, lúc ấy lúa đang ngậm sữa trổ đòng, đàn chim trời kéo đến kiếm ăn. Lúc ấy, dòng họ nhà chim hiện diện đủ mặt như vịt trời (le le) chằng nghịch, cúm núm, gà nước, quốc, trích, ốc cao, võ vẽ… Thôi thì “Trời sinh, mỗi thứ mỗi ngon” không thể so sánh được thịt con nầy ngon hơn thịt con kia nhưng có thể kết luận chung là thịt chim ngon hơn thịt gà.

Muốn đánh bắt những đặc sản trên trời này có nhiều cách mà không cách nào dễ dàng cả (nhưng nhớ đừng đánh bắt những loại vô hại, mang hình ảnh quê nhà như cò, diệc, sếu…) Người ta có thể dùng những cái đăng bắt cá để bắt chim. Đăng đan bằng tre cao khoảng 1,5m, bề ngang 4m được đặt theo hình chữ V, nơi giáp nhau là một cái đó dài khỏng 1,5m. Chim chóc sà xuống ăn lúa nghe tiếng la của người hoảng hốt bay lên, gặp mấy cái đăng chận lại thế là chun tọt vô cái đó, đành chịu cảnh chim lồng, cá chậu để sau cùng biến thành món chim rô ti, chim nướng đậu phộng, hiến cho con người những món ăn lạ miệng.

Ngoài cách bắt bằng đăng, người ta còn đặt bẫy như bẫy chuột hoặc quăng chày lên ngọn cây hay bắn giàn ná…Tuy nhiên ngày nay, do ý thức được yêu cầu bảo vệ môi trường, bảo vệ sinh thái, hơn nữa việc đánh bắt “trên không” này tương đối khó khăn, cực nhọc nên nghề bẫy chim đã hạn chế nhiều. Do vậy, chim quay ở cầu Bắc Mỹ Thuận, ở chợ Cái Răng (Phụng Hiệp) luôn là món quà hấp dẫn cho du khách.

Người nông dân đôi lúc đi thăm đồng bẫy được con cúm núm, gà nước hay một chị le le là niềm vui nho nhỏ khi kiếm được món ăn cao cấp cho gia đình. Có thể làm món xào đơn giản với mướp, bầu cũng khiến cho bữa ăn thêm đầm ấm: “Chồng chan, vợ húp, gật đầu khen ngon” hoặc đem con vịt trời rô ti, chồng có thể làm món nhắm với rượu đế, vợ con ăn với cơm nếp đậu, mỗi người ăn một cách, ngon theo kiểu của riêng mình.


Le le làm sạch lông như gà, để ráo nước rồi xát gừng ngâm rượu trắng quanh mình chim cho thơm thịt. Ướp tiêu, muối, bột ngọt, đường, hành, tỏi để thấm khoảng một giờ. Phi hành tỏi thật thơm, bỏ thịt vào chiên vàng đều, đổ nước dừa tươi rim thật vàng, nước còn sền sệt là được. Ăn nóng với bánh mì là đúng cách nhất.

Tuy không là món ăn thông dụng nhưng thịt chim đã để lại một hương vị khó quên cho những ai có “tâm hồn ăn uống”.


Một ngày làm ngư dân Vàm Sát

TTCT - Với kỳ nghỉ ngắn ngày hoặc giới hạn trong ngày cuối tuần, nhiều du khách ở TP.HCM chọn Cần Giờ để thư giãn, hít thở không khí trong lành và vui chơi cùng gia đình.

Cần Giờ - được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới - tuy chưa phải tuyến điểm hấp dẫn nhưng xem ra cũng là lựa chọn thú vị, đường đi thuận tiện, lại không quá xa.

ề rừng Sác nghe lịch sử

Cần Giờ được biết đến tên với lâm viên đảo khỉ (có hàng ngàn chú khỉ dạn dĩ, tinh nghịch), khu căn cứ Rừng Sác (tái hiện cảnh sống và chiến đấu của trung đội đặc công Rừng Sác), len lỏi cùng ghe xuồng qua các nhánh sông xanh ngắt cây bần gốc đước, tham gia lễ hội nghinh ông thủy tướng tổ chức hằng năm…

Thiếu bãi biển xinh đẹp, làn nước trong xanh để khách thỏa niềm đam mê bơi lội, nhưng Cần Giờ là nơi du khách có thể tìm cảm giác gần gũi với thiên nhiên, tìm về những trang sử vẻ vang của khu căn cứ cách mạng Rừng Sác…

Có thể đến với Cần Giờ bằng nhiều cách như chọn canô cao tốc khởi hành từ bến Bạch Đằng, nhưng phương tiện được ưu tiên là ôtô. Còn nếu bạn thích tìm "cảm giác" thì đi xe máy cũng khá tiện, vì con đường từ trung tâm TP.HCM đến cầu Dần Xây - nơi bến tàu đưa du khách đến Vàm Sát - chưa đến 50km.

Từ trạm cầu Dần Xây có ba loại canô để khách lựa chọn: nhỏ nhất sức chứa bốn khách, loại trung sức chứa 10 khách và loại lớn chứa 25 khách. Vận tốc trung bình của canô là 20km/giờ, đủ để mọi người vừa đi vừa cảm nhận vẻ đẹp yên bình của những nhánh sông mênh mông dòng nước xanh biếc bao quanh rừng ngập mặn Cần Giờ.

Đường đến khu căn cứ Rừng Sác có thể để lại cho du khách cảm giác thích thú khi những chiếc canô xé nước, ôm những vòng cua làm đứng tim người yếu vía. Hai bên bờ là rừng xanh bạt ngàn của các loại đước, mắm, sú, vẹt khoe bộ rễ cuồn cuộn nổi trên mặt nước.

Thuyền cập bến, bất giác nghe văng vẳng tiếng hát Quốc ca đâu đó. Thì ra là buổi sinh hoạt của một đơn vị đoàn thể nào đó ngay tại tượng đài kỷ niệm. Tại đây du khách sẽ được nghe kể những câu chuyện huyền thoại của bộ đội đặc công oai hùng, tìm hiểu về cuộc sống khó khăn của họ trước đây với nhiều chi tiết lý thú đến kỳ lạ.

Làm nông dân

Từng tham gia loại hình du lịch làm nông dân tại miền Tây, đối với những người suốt ngày quen đời sống công chức như chúng tôi, cảm giác dân dã "thật đã", nên khi biết tin Vàm Sát "biến" du khách thành ngư dân, chúng tôi đã không ngần ngại chọn cho mình chuyến đi dịp cuối tuần.

Hành trình trở thành ngư dân của chúng tôi khởi đầu từ khu bảo tồn Dơi Nghệ, nơi lưu trú của hàng ngàn chú dơi, trong đó có con to, sải cánh như chim đại bàng sống tự nhiên trên cây. Mỗi khách được phát bộ đồ bà ba Nam bộ. Công việc đầu tiên của "du khách - ngư dân" là chèo thuyền rập cua kiểu Vàm Sát. Mồi bỏ trong rập, thả xuống nước.

Trong thời gian chờ cua vào rập, khách ngồi trên xuồng nhỏ đi len lỏi rừng đước tham quan khu bảo tồn dơi, 30 phút sau quay lại kéo rập lên, tóm những chú cua y khá nổi tiếng thịt thơm ngon. Ngư dân bản địa tận tình hướng dẫn khách cách chọn cua chắc, ngon, tập tính đời sống của loài cua. Cua bắt được có thể nướng ăn tại chỗ hoặc bổ sung nguồn thực phẩm buổi trưa.

Tiếp tục hành trình, đoàn được chuyển qua tàu gỗ để tìm hiểu nghề lặn bắt hàu. Du khách sẽ trải nghiệm loại hình đánh bắt thủy hải sản đặc trưng này ở Cần Giờ. Đi cùng chúng tôi hôm ấy có ba ngư dân thứ thiệt thuộc hàng săn hàu "chiến" nhất trong vùng. Địa điểm nằm trên sông Mũi Dinh. Chúng tôi chia thành hai tốp. Tốp nam ngụp lặn xuống sông mò hàu. Tốp nữ một số cô ngồi trên thuyền câu cá, một số đốt lò than chuẩn bị nướng "chiến lợi phẩm"…

Câu cá thòi lòi, tát mương bắt cá và bao chà bắt cá cùng người dân địa phương cũng là loại hình mang lại cho chúng tôi cảm giác thú vị. Nếu câu cá thòi lòi đơn giản thì hai loại hình sau cần kỹ thuật và độ tham chiến cao. Tham gia tát mương bắt cá, khách được phát nơm, giỏ đựng cá, sau đó lội bì bõm xuống hồ đã tát nước gần cạn, tìm chỗ nghi có cá úp nơm xuống nước, thò tay vào nơm lôi những chú cá ra bỏ vào giỏ một cách thích thú.

Nếu khách ở lại qua đêm, có thể được tham gia lội sông bắt ba khía cũng không kém thú vị, nhưng nhớ chú ý đi theo sự chỉ dẫn của ngư dân trong vùng, vì ban đêm ở đây muỗi vắt nhiều, tấn công khách bất cứ lúc nào!

Trường hợp thích đóng vai ngư dân đi tìm cảm giác mạnh, khách có thể tham gia trò chơi du thuyền cho cá sấu ăn bằng cách gắn mồi vào cần, đứng trên thuyền ra giữa dòng nước, thả cần câu để cá sấu nhảy lên đớp mồi một cách tự nhiên và khá hung dữ.

Rủ nhau đi bẫy chim trời

uét đèn về phía trước, tôi phát hiện thêm hai bóng đen đang giãy dụa trên lưới nữa. Trống ngực đập thình thình như trống trận, tôi la lên anh Hữu ơi có hai con mắc nữa rồi.

Chúng tôi ngồi chuyện trò được một lúc thì trời cũng vừa sập tối. Ánh hoàng hôn còn sót lại ném những tia sáng yếu ớt màu xanh nhạt lên nền trời như cố níu kéo bịn rịn không muốn chia tay về với bóng đêm. Đêm đến trời thật mát mẻ và trong trẻo. Chỉ có mùi thơm của hương lúa thoảng thoảng và làn gió nhẹ từ hướng đại dương thổi lên mơn man. Dải đất Quảng Bình là nơi hẹp nhất như vòng eo thắt đáy lưng ong của cô thiếu nữ. Rừng núi và biển cả liền kề được cách nhau bởi một dải đồng bằng hẹp. Những đêm yên tĩnh nằm nhà có thể nghe được tiếng sóng vỗ bờ của đại dương.

ay cầm cây đèn pin sáng lóa. Chúng tôi chia làm hai nhóm theo hai hướng đi dọc theo các tay lưới để xua những chú Mỏ Nhát ăn đêm trên các thửa ruộng. Đôi chân trần của tôi ngập sâu trong lớp đất màu mỡ ẩm ướt, sau mỗi bước chân lại phát ra tiếng kêu ì oạp. Mũi tôi ngửi thoang thoảng mùi đất nồng nồng và tai tôi nghe tiếng anh Hữu “

xuỳ xuỳ

” đuổi chim bay về phía những tấm lưới hoà cùng tiếng ếch nhái kêu inh ỏi.

Trên thửa ruộng, ếch nhái nhảy tứ tung dưới ánh quét loang loáng của những cây đèn. Một vài cặp nhái đang tình tự chồng lên nhau trong cơn mê say tình ái miên man đến độ vẫn ngồi yên không hề cử động, mặc kệ chúng tôi dọi đèn vào. Đối với chúng lúc ấy đất trời này như chỉ dành riêng cho đôi tình “nhái” là chúng mà thôi. Bóng một chú Niềng niệng đang kiếm ăn ánh lên dưới ánh đèn. Không nổi tiếng như Cà cuống nhưng Niềng niệng cũng cùng họ, cùng hàng, cùng sống ở dưới nước như Cà cuống. Chúng có bộ vỏ màu đen bóng loáng, nhánh chân rất khỏe với thân hình dèn dẹt to khoảng ngón tay cái. Ở miền quê đi nhủi hoặc cất vó thường hay bắt được chúng. Niềng niệng nướng hoặc Niềng niệng rang mỡ ăn với

xôi nếp mới

béo ngậy và bùi bùi rất lạ miệng. Món này tuy đồng quê dân dã nhưng rất hiếm và chắc gì ai cũng được nếm dù chỉ một lần trong đời.



Vấp phải một nhành cây khô đau điếng, tôi co chân sút tung nó sang một bên rồi bước tiếp. Miệng suýt xoa vì đau. Mắt tôi căng ra nhìn theo ánh đèn, thấp thoáng đằng xa có những bóng đen vút lên từ phía thửa ruộng phía trước mặt. Ngay lập tức tai tôi nghe tiếng kêu “

kíu kíu

” liên hồi. “

Dính rồi, ở phía này

” tiếng anh Hữu đi bên cạnh kêu lên gấp gáp. Tim đập dồn dập trong lồng ngưc. Chúng tôi nhanh chóng chạy về hướng phát ra tiếng kêu mặc cho bùn đất dưới ruộng như muốn níu lấy chân mình.

Dưới ánh đèn sáng quắc, trên tấm lưới 4 mỏng manh một chú Mỏ Nhát đang giãy loạn xạ. Càng giãy dụa chú càng bị tấm lưới dồn lại bó chặt vào. Tôi thò tay vào gỡ nhưng càng gỡ càng rối, anh Hữu cười bảo để anh gỡ cho chứ em không quen thì không gỡ được đâu. Quét đèn về phía trước, tôi phát hiện thêm hai bóng đen nữa đang giãy dụa trên lưới đằng xa. Trống ngực đập thình thình như trống trận, tôi la lên anh Hữu ơi có hai con mắc nữa rồi. Chúng tôi vui mừng chạy đến gỡ chim, miệng vừa la hét và cười như nắc nẻ. Khóa cánh những chú chim vừa bẫy được cho vào túi, chúng tôi lại phấn khởi tiến lên lần theo những tay lưới khác để bắt chim.

Một vòng rồi thêm một vòng nữa, chúng tôi liên tiếp gặp những chú chim dính lưới. Hai nhóm nhập lại thành một đoàn, chúng tôi vừa đi vòng vòng vừa cười nói râm ran sau những thu hoạch liên tiếp. Nhóm tôi và anh Hữu bắt được sáu con Mỏ Nhát, còn nhóm Bọ và anh Hùng cũng được mười mấy con.

Sau hai vòng lần lưới với kết quả không tồi. Bọ quyết định ra lệnh thu quân. Từng này chim là quá thừa để cho cả đoàn quân ăn nhậu đêm nay rồi, tiếng Bọ vừa cười vừa oang oang nói. Chúng tôi lại chia hai hướng đi thu lưới rồi tập trung lại tại bờ ruộng ven đường.

Tay

cầm ly rượu tiết chim nóng hổi anh Hùng vừa trao qua, tôi làm một ngụm to, hương rượu thơm nồng cánh mũi, vị ngòn ngọt như thấm đẫm cả người. Sau ngụm rượu, người tôi lại bừng bừng khí thế, một luồng sức mạnh tiềm ẩn từ Đan điền bỗng dâng lên ngập tràn cả cơ thể. Người tôi như được tiếp thêm công lực nhờ món tiết ngọt này. Nếu quả đúng như vậy thì món tiết chim này thật là một phương thuốc tăng cường sinh lực tuyệt vời. Ngoài kia, những chú chim béo mây mẫy vừa được nhổ sạch lông đang được thui sơ qua lửa cho thơm thịt.

Khi tôi vừa tắm xong trở ra thì mọi việc chuẩn bị cho bữa liên hoan tối đó đã đâu vào đấy. Những miếng mồi đã được chặt ra gọn gàng và được ướp gia vị với củ sả băm mịn. Từng miếng thịt chim đỏ au ngấm gia vị chưa nướng nhưng đã thấm gia vị bốc mùi thơm nức. Chúng nhanh chóng được

gói lại gọn gàng như gói bánh chưng

bởi ba lớp lá Môn ngứa rất non ở bên trong, ba lớp lá Chuối sứ ở bên ngoài dưới bàn tay khéo léo và thuần thục. Chiếc bánh “chưng chim” nhanh chóng được kẹp vào một cái vĩ nướng để chuẩn bị đưa lên lò.



Luôn tiện nói qua một tý về lá cây Môn : Cây Môn có hai loại, Môn ngọt và Môn ngứa. Môn ngọt trên đọt tầu lá có chấm mầu nâu thì ai cũng có đôi lần ăn: môn xào thịt, môn làm bánh xèo, môn nấu canh chua cá lóc, môn nấu canh chua với lươn … Môn ngứa trên đọt tầu lá có chấm màu trắng chẳng những ăn không đuợc mà còn ngứa, ai không biết ăn nhằm sẽ bị ngứa xé miệng, không có thuốc trị, nếu lỡ lội vào nơi đầm lầy có nhiều môn ngứa người đó kể như gặp xui xẻo ngứa gãi tróc da. Nhưng ông bà mình thường nói trong cái độc hại có cái bổ , “lấy độc trị độc” mà. Không biết thịt con chim Mỏ Nhát có chất gì hoá giải nên khi đem thịt loại chim này quấn trong những lá Môn ngứa non nướng trên lửa than hoa thì tuyệt vời. Khi ăn thường kẹp miếng chim nướng với tý lá Môn bọc ngoài, chẳng những ăn không ngứa mà còn cảm thấy rất ngon ngọt. Đối với món này thì những món đặc sản khác ít món nào sánh kịp được với nó.

Bếp than hoa được quạt lên đỏ rực, tay cầm vĩ nướng kẹp bọc chim quấn lá Môn trở qua trở lại đều tay trên ngọn lửa than cháy đượm. Tiếng mỡ chảy xèo xèo bốc mùi thơm lừng cả xóm. Mùi chim bọc lá Môn kẹp vĩ nướng than hoa hôm đó thơm đến nỗi, mấy anh hàng xóm dù đã cơm nước no nê nhưng vẫn không sao chịu nỗi mùi thơm quyến rũ đó đều lần lượt bỏ vợ đẹp con ngoan ở nhà, trốn vợ leo rào, quần đùi áo cộc lũ lượt mò sang để . . . kiếm miếng mồi. Khi ba lớp lá Chuối bên ngoài đã cháy sạm đen cũng là lúc thịt chim bên trong vừa chín tới. Đây cũng là một kinh nghiệm quý báu khi nướng chim, thịt chim muốn nướng ngon phải căn đều độ lửa, nếu lửa to nướng chín quá thịt sẽ khô xáp mất vị ngọt, nếu lửa nhỏ nướng chưa chín tới thì thịt sẽ dai và tanh rất khó ăn. Thịt chim nướng bọc lá Môn non ngoài cái sự hợp nhau giữa Môn và Chim ra còn một lý do khác nữa là tất cả các dưỡng chất cũng như nước béo từ thịt chim tiết ra khi gặp nhiệt độ cao sẽ được những tấm lá Môn bọc chặt không làm rơi một giọt nào, cũng như hạn chế được miếng thịt nướng bị khói bám.

Lần đầu tiên trong đời tôi được ăn món chim nướng lá Môn ngon đến như thế. Cứ một miếng chim, lại kẹp với một tý lá Môn ngứa bọc ngoài chấm tý muối sống dầm ớt xanh giã nhỏ sao nghe hương vị thơm tho và vị thịt chim giòn ngọt đến nao lòng. Vị lá Môn ngấm vị thịt chim chẳng những không ngứa mà còn ngọt chẳng kém thịt chim chút nào. Nghe mọi người thường nói món chim rô ty là ngon nhưng thật ra chim rô ty thì sẽ thịt sẽ khô và xáp nên sẽ mất đi độ ngon ngọt. Nếu so với món này thì chẳng thấm vào đâu.



Vừa nâng chén rượu thơm nồng vừa khề khà nhấm nháp miếng đùi chim béo giòn rụm thơm nhức mũi. Bọ kể rằng giăng lưới bẫy chim trời là thú chơi được truyền từ đời này sang đời khác ở vùng Lộc Thủy - Lệ Thủy. Vùng đó là quê hương của Bọ. Như Bọ bây giờ lâu lâu rảnh rỗi ngứa nghề lại vác đồ đi bẫy vài con về, ít thì nhậu chơi, nhiều thì vừa nhậu vừa cho hàng xóm láng giềng chứ chẳng phải để mua bán gì. Bọ cũng chỉ thường bẫy những loại chim Dẽ, chim Sẻ . . . là những loại chim không có lợi cũng không có hại hay những loại chim phá hoại mùa màng mà thôi. Với những người già thường hay mắc các bệnh về khớp thì đi bẫy chim lại chính là môn thể thao có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh hoặc có thể chữa khỏi loại bệnh này rất hiệu nghiệm. Cũng đúng thôi vì môn này đòi hỏi người tham gia phải đi bộ rất nhiều.



Và với những ai chưa một lần rủ nhau đi bẫy chim trời. Chắc các bạn sẽ chưa thể nào hình dung ra được cảnh đồng quê yên ả với những ruộng lúa xanh ngát, những cánh cò trắng muốt bay lững lờ dưới ánh hoàng hôn tuyệt đẹp. Những làn gió nhè nhẹ đưa hương lúa thoang thoảng thổi miên man. Càng đi nhiều, càng trải nghiệm nhiều, chúng ta sẽ càng khám phá được thêm nhiều cái hay, cái đẹp ẩn sau nét dân dã, mộc mạc của quê hương mến yêu.

NHỚ

CHUYỆN

RUỘNG ÐỒNG

bài của

LÊ CẦN THƠ

(Houston, Texas, Hoa Kỳ)

C

àng lớn tuổi người ta càng có nhiều phút giây ngẫm ngợi lại chuyện

đã qua. Ban ngày làm việc nhiều,

đêm về

đáng lý dành thời gian nghỉ ngơi... thế nhưng "ngủ" chẳng

được bao nhiêu mà cứ gát tay trằn trọc suy nghĩ chuyện

đâu đâu. Có hôm ngủ sớm, con cháu thấy vậy mừng thầm..., vậy mà khuya lơ khuya lắc chợt nhiên mở bừng

đôi mắt ráo hoảnh nhìn trong màn

đêm

đày

đặc. Cố nhắm nghiền mắt lại để dỗ giấc nhưng không sao ngủ tiếp được, đành phải thức trong

đêm. Rồi thì bao nhiêu chuyên xảy ra trong

đời cứ luân phiên trở về tâm trí. Chuyện mới xảy ra trong ngày, trong tuần, trong tháng, trong năm... Rồi chuyện thời xa lắc xa lơ chẳng biết từ bấy lâu nay chui rúc nơi đâu, nay lại hiện lên như một màn ảnh truyền hình, bắt mình phải nhớ, nhớ một cách chi li. Ðó là nguyên nhân có bài viết ngắn nầy, mong bạn

đọc cảm thông và chia sẻ cho.

ÐUỔI BẮT CHIM TRÊN RUỘNG LÚA

L

úc còn ở quê nhà, mỗi lần có dịp

đi qua phà Mỹ Thuận có lẽ bạn gặp cảnh bán chim rô-ti vàng hực thơm lừng trên các tiệm bán cơm cho khách qua

đường, hay các cô gái bưng trên các mâm chất

đầy chim hết sức quyến rũ? Bạn cũng bắt gặp những chị, những em cầm từng chùm chim sống, mỗi chùm một chục con lớn nhỏ chạy theo các xe chờ qua phà hay phà vừa cặp bến

để mời khách qua đường mua làm quà tặng thân nhân? Chim là món

ăn ngon và dĩ nhiên giá chim cũng

đắt so với những loại thức ăn khác. Nhưng để có được chim bán ngoài chợ, nơi bến phà, người dân phải trải qua giai

đoạn săn bắt không kém phần vất vả. -

Ðồng Tháp Mười vì là

đồng cỏ bạt ngàn nên rất nhiều chim sinh sống ở

đó, là chỗ

để người dân tìm mọi cách săn bắt để đổi lấy cái ăn cái mặc. “Chim trời cá nước”, ai bắt được nấy ăn. Ông bà ta khi xưa từng nói như vậy.

Bắt chim, người ta có nhiều cách: cắm câu, soi

đèn,

đuổi bóng, gài bẫy, quất bằng cây..., phần

đông là trên ruộng lúa

đang chín, vì lúc

đó chim mới gom về để kiếm ăn. Ngày trước mỗi năm chỉ làm ruộng một mùa, nên khoảng thời gian từ tháng mười một, tháng chạp, tháng giêng âm lịch là lúc có lúa chín

đồng, mới có nhiều chim để bán. Sau nầy do làm lúa thần nông, mỗi năm hai ba vụ nên hầu như lúc nào cũng thấy có bán chim. Chim bán ngoài chợ thường là dỏ dẻ, ốc cao, chằng nghịt (gà nước), thỉnh thoảng mới thấy bán chim quốc, le le... Thịt chim ngon nhứt là ốc cao (mắt

đỏ), chằng nghịt và dỏ dẻ, nên khi mua, người ta thường lựa những loại chimđó.

Việc bắt chim

để bán đã trở thành "nghề nghiệp", tôi không nói rõ ở

đây, mà chỉ kể vài cách thông thường có tính cách gia

đình mà vùng quê tôi

đã thực hiện vào những năm tôi còn thơ trẻ.

Cắm câu chim: Thường vào mùa nước rút, lúa bắt

đầu chín vàng, trên ruộng các loại cá tép cũng theo con nước xuống các chỗ trũng

để tiếp tục sống. Mặt ruộng cạn nước, nên loài chim cũng lội dẫm dấu trên

đó để tìm mồi. Chúng tôi mua lưỡi câu cá lòng tong (lưỡi nhỏ), tóm dây chỉ (sau nầy xài dây gân), dài

độ 3 tấc, đầu kia cột vào lóng sậy, móc con tép vào lưỡi rồi ra khu ruộng lúa chín có vũng nước, cắm các lưỡi câu có tép. Cứ rải

đều như vậy hằng trăm lưỡi, một vài giờ trở lại thăm. Chim thấy tép thì mổ

ăn, nuốt vào sẽ mắc lưỡi, ban

đầu còn giãy giụa,

đến khi mệt chỉ còn nằm im chờ... người

đến “tóm” lấy bỏ vô giỏ. Bẫy chim cách nầy, có lẽ bạn cũng phần nào

để ý, vì khi mua chim sống về làm thịt, thường bạn thấy có lưỡi câu mắc trong cổ hay trong bong bóng chim!

Quất chim bằng roi: Bắt chim cách nầy thường thì hai ba người cùng rủ nhau

đi vào các khu ruộng có nhiều chim

đang kêu

ăn trong đó, nhưng chủ ruộng không cho mình lội dẫm rụng lúa hột. Mỗi người cầm một cây tầm vông nhỏ, dài mấy mét như cần câu nhấp (câu rê), vừa

đi cặp mé ruộng, vừa đuổi “hù hù" bằng miệng, hay gõ vào thùng thiếc gây tiếng

động, chim đang ăn dưới ruộng hoảng sợ vụt bay lên, người cầm roi nhanh chóng quất, nếu may mắn sẽ trúng vào cánh và chim rớt xuống... lúc

đó mới lội vô bắt. Săn chim cách nầy được rất ít, chỉ đủ để ăn một bữa trong gia đình mà thôi.

Ðuổi chim bằng bóng (lọp): Cách nầy sẽ bắt

được nhiều chim hơn, có thể dư ăn và còn

đi bán nữa. Người ta dùng cái bóng (giống như cái lọp

đặt cá), đặt vào một nơi có nhiều chim

đi qua, hai bên miệng bóng trải

đăng chạy dài tạo thành hình chữ V, phía bên trên miệng bóng phủ lớp cỏ hay rơm. Khi chim bị

đuổi dồn, đến gặp mí đăng sẽ chạy lần tới miệng rồi “nột” quá chui vào bóng - trường hợp vỗ cánh bay lên cũng khó thoát vì

đã có lớp cỏ hay rơm phủ chận. Ðuổi chim cách nầy cũng không cần phải lội vôi ruộng lúa, mà người ta cột nhiều cái lon sữa bò có

đụt lỗ bỏ đá hay cây đinh vào rồi cột nhiều cái vô một sợi dây luộc dài, căng ngang khu ruộng. Từ hướng phía trước miệng bóng một khoảng xa, người ta căng dây rồi giựt mạnh, tiếng động leng keng hoà với tiếng la của nhiều người... chim sợ phải tìm

đường trốn chạy. Những con chim lớn vỗ cánh bay lên sẽ bị "quất" rớt xuống, những con chim nhỏ cỡ ốc cao, chằng nghịt, dỏ dẻ... thì co chân chạy tìm chỗ thoát thân; càng chạy, chúng càng gần "rọ",

để rồi... tất cả lại gặp nhau trong chiếc bóng hết sức “bóng lộn”, chen nhau ở đó kêu chí choé. Tới nơi người ta chỉ cần giở bóng lên, tháo

đít bóng, thọc tay vô bắt từng cô chú chim để vô giỏ như người ta làm một trò chơi không hơn không kém! Thỉnh thoảng cũng có mấy chú chuột

đồng lẻ bầy đi “ăn vụng” ban ngày hoảng hốt chui vào hay một vài con chồn mướp chẳng may tìm vào bóng trước, nhất là chồn, thì lần

đuổi bắt chim nầy xem như “thua”, vì khi chồn chui vào trước sẽ giãy giụa làm cái bóng rung rinh, chim bị

đuổi nà tới chẳng dám chui vào mà bay túa ra bất kể hiểm nguy!

Chim

đuổi được đem về làm lông, ướp chiêm rô-ti hay khìa nước dừa, là món

ăn ngon nhiều người ưa thích.

ÐẶT TRÚM BẮT LƯƠN

L

ươn là món

ăn khá quen thuộc trong mỗi gia đình: lươn xào sả ớt, lươn um, nấu canh chua, kho mắm, xào lăn v.v... - quán nhậu, canh chua lươn còn gọi là "lẩu lươn"! Ðó là món

ăn đặc sản, hấp dẫn. Nhưng có khi nào bạn nghĩ tới cách "bắt nó"? Công phu và "trầy trật" lắm bạn ơi!

Vào mùa khô, người ta có thể tìm "mà" (để xác định miệng hang trong đó có lươn) rồi đào, xom bằng chĩa hoặc câu bằng lưỡi câu có mồi thuốc. Mùa nước thì "đặt trúm” là cách phổ biến nhất.

"Trúm" là tên gọi một loại bẫy

để bắt lươn. Nó được làm bằng ống tre dài khoảng một thước, các mắt bên trong

được xoi thủng, mắt cuối ống để nguyên cho kín. Lóng tre cuối người ta vùi vài lỗ tròn, hay khoét một khe nhỏ

để không khí lọt vào cho lươn thở mà không thể chui ra

được.

Ðầu ống có một cái hom bện rất khéo, lươn chui vào theo thế xoay tròn, khi vào

được thì không thể trở ra. Ðể hom không rớt ra, có một cây gài nhọn

đầu xỏ ngang, khi đặt trúm cây này ghim sâu xuống

đất, phần trên quấn vô cỏ cho miệng trúm không nổi lên. Ðầu trúm kia nhỏng lên trên cho không khi lọt vô các lỗ hay khe hở cho lươn thở.

Trúm

đặt ban đêm, sáng mới

đem về. Khi đặt trúm phải để mồi vào ống. Mồi có hai loại: mồi nấu hay mồi

đất (gồm đầu ruột cá, ếch nhái v.v...) nấu xong trộn với đất bùn rồi túm vào miếng lá môn), mồi nướng (ếch nhái, thòi lòi v.v...). Cả hai loại mồi

đều có trộn cám cho thơm. Thường người ta đặt lươn trên những mương nước

đọng (nếu nước chảy thông thương cũng ít thôi, có nhiều cỏ, lục bình, vì lươn hay ở những nơi

đó), hay trên ruộng có trầm thủy (đặt dọc theo các giồng cỏ, mé mương). Miệng ống trúm quay về hướng “dưới gió” hoặc phía “trên nước"

để mùi thơm của mồi theo gió hay xuôi nước cho lươn bắt

đuợc mùi... dẫn xác tới chui vào ống là

đã chấp nhận "không hẹn ngày trở lại với

đồng bọn, với khoảng trời tự do”! Sáng ra bạn chỉ việc giở ống trúm lên với cảm giác

đặc biệt: ống trúm nào nặng trịch, không có nước, hoặc nước trong ống chảy ra nhơn nhớt, là chắcăn, lươn đã nằm chen trong

đó “lềnh khênh"! Về tới nhà, bạn lấy hom ra trút ngược ống trúm vô rổ xúc, những con lươn vàng hườm hay

đốm bông đen vàng bò lểnh nghểnh... phát ham!

Có một lúc giá tre quá

đắt, mỗi mùa trúm phải tốn rất nhiều, người ta có thể thay thế ống tre bằng loại "tự chế rẻ tiền":

đó là lấy bẹ chuối ốp lại,

để hom vào rồi lấy dây chuối quấn xung quanh,

đem đặt bình thường. Sáng rađi gom, thấy ống nào lươn chun vô thì trút vô xuồng hay giỏ rồi quăng ống bẹ chuối, lấy cái hom để tiếp tục đặt cho đêm hôm sau. Một cây chuối có bao nhiêu bẹ là

được bấy nhiêu ống trúm. Lo xong mồi, ra vườn chặt mấy cây chuối (đã

đốn buồng) chở ra ruộng là ta có mấy chục ống trúm.

Nếu có dịp về miền quê sông nước

đồng bằng sông Cửu Long quanh năm phù sa nước ngọt như vùng Trường Long - Phong Ðiền quê tôi, bạn sẽ mê biết mấy cảnh

đặt trúm bắt lươn mà tôi vừa kể trên

đây.

ÐẶT LỜ BẮT CÁ SẶT

C

á sặt là loại cá thông dụng nhứt của bà con sống ở thôn quê. Bắt

được cá sặt, mùa khô thì tát mương, tát

đìa, mùa nước nổi thì

đặt lờ để bắt. Cá sặt thường sặt bướm, còn sặt rằn ở

đồng chúng tôi rất ít. - đây tôi chỉ nói tới việc đặt lờ bắt cá sặt bướm để ăn, để bán... Còn làm mắm thì người ta tát

đìa mới có số lượng nhiều.

Lờ

đan bằng nan tre vót mỏng và bóng,

đan ô vuông cỡ ngón tay cái vừa lọt để cá không thể chui ra. Mỗi cái lờ đan chiều dài chừng 1 mét, chiều ngang chừng 4 tấc (có thể kích thước lớn hơn - lờ sẽ to hơn khi cần

đặt những vùng

đất thấp, nước dâng cao). Cóp chiều dài lại, chồm mí hai chéo bên ngoài với nhau, chừa khoảng giữa làm miệng lờ. Hai

đầu ráp hai mặt đan loại nan vót tròn, mịn bà thật bóng, có một cái hom cũng thật bóng lộn, cá có thể chui vào và lội ra

được.

Ðặt lờ trên những luồng dọn sẵn trên

đồng, bằng cách dùng phảng phát cỏ trống vài mét, gom cỏ lại,

đặt chiếc lờ xuống, hai hom hướng theo hai bên khoảng trống

đã dọn, cỏ tấn hai bên lờ,

đậy trên miệng lờ một nhúm cỏ cho có bóng mát bên trong lờ. Trường hợp trên

đồng có nhiều giồng cỏ, người ta có thể cắt ngang giồng một khoảng bằng chiếc lờ rồi đặt lờ đưa hai mặt có hom sang hai phía ruộng. Cá sẽ lội qua lại chiếc lờ. Tôi có dịp quan sát diễn tiến cá lội vô ra một chiếc lờ và hình dung

được như sau:

Trên kinh Hội

đồng Quỳ trong vùng Kinh Mới - Trường Long, trưa

đó tôi nằm trên chiếc sạp tre cao, trên sạp có mui ghe che

để hai anh em chúng tôi đi đặt lờ và giăng lưới về nghỉ ngơi (như một cái chòi nhỏ), bên dưới nước sâu có bóng mát, tôi thử

đặt một chiếc lờ sau khi dọn luồng trống thật im vắng.

Ðứng bóng,

đầu tiên tôi thấy có một con cá sặt

đang lội tới mặt lờ. Nó vờn qua vờn lại, cụng đầu vô mặt lờ và lần riết tới lỗ có hom, con cá thong thả bơi vào. Nó vô

được bên trong lờ, bỗng tung tăng đùa giỡn một mình trong chiếc lờ bóng lộn. Một lát nó bơi trở ra ngoài. Ít phút sau, năm sáu con cá cùng

đến lần lượt chui vào lờ. Rồi lại có mấy con chui ra

đi rủ nhiều con khác cùng

đến rồi chui vào. Cứ diễn ra như vậy, khiến tôi chợt nghĩ, chiếc hom chỉ làm

để giữ bắt cá lúc mình

đến gần gây tiếng động chớ không phải là chiếc bẫy

để giữ cá trong lúc bình thường. Cá lội tự do vô ra và chúng rủ rê nhau vào chỗ bóng lộn, lạ lẫm như vậy

để đùa giỡn, không ngờ

đó là cái bẫy

để tóm gọn bọn chúng? Người ta đi thăm lờ, nếu may mắn đúng vào lúc cá rủ nhau vào

đông thì "trúng", bằng ngược lại, lúc chúng lội ra

đi tìm thêm bạn bè... thì xem như "thất". Tôi nghĩ như vậy. Dĩ nhiên là lần nằm theo dõi

đó, tôi lợi dụng lúc lũ cá rủ nhau vào

đông nhứt, nhảy xuống giở lờ lên. Các bạn có biết, tôi

đã bắt

được đến một cân cá sặt ngon lành!

Bủa lưới

để bắt cá rô, nhứt là cá rô mề cỡ 3, 4 ngón tay là một

điều thú vị. Dịp khác tôi sẽ kể bạn nghe.

GIĂNG CÂU BẮT CÁ THEO MÙA

Mỹ muốn

ăn cá chỉ cần vào các chợ là

đã có

đủ loại để lựa mua, mặc tình khen chê

đủ điều. Lúc còn ở quê nhà, cá

được bày bán ngoài chợ dưới hai hình thức: cá bán trong các lô sạp của vựa cá và cá bán rong ngoài chợ nhóm do chính những người từ trong quê mang

đến không thường xuyên. Tôi có thói quen, nếu cần

đi mua cá thì lội bộ dọc theo khu vực dành cho hàng hoá của mọi người dân

được bày bán

đủ loại mà ngày nay trong nước dùng nhóm từ ngữ "tự tiêu tự sản", vì ở

đó tôi có thể tìm

được các loại cá mình thích mua, và mua với một giá có thể

đắt hơn hoặc rẻ hơn trong các lô sạp bán buôn chuyên nghiệp - người bán chính là người

đã tự tìm bắt

được các loại cá đó để bán lấy tiền mua sắm những thứ cần thiết trong cuộc sống của họ.

Người dân thôn quê thật thà chất phác, nghĩ sao nói vậy, không "đầu môi chót lưỡi”, họ bán buôn theo cách tính công sức của mình

đối với sản phẩm làm ra, và khi họ nói giá thế nào là bán thế

đó, không thách giá cao để nghe người mua trả rẻ lại.

Ðặc

điểm thứ hai là,

đa số những gì họ tạo ra, vì cần lo trang trải gia

đình nên thường thì họ "chắt mót"

đến đáng thương: không dám ăn những loại tốt, loại ngon, cố sàng lọc

để đem bán lấy tiền, có cần ăn thì lựa thứ hư xấu, thứ giạt ra. Trái cây, rau cải, cá mắm... thứ nào cũng vậy, họ chọn những loại tốt, ngon mang ra chợ bán cho

được khá tiền hơn. Hiểu được tâm tính như vậy nên mỗi khi mua của những người nầy, tôi không bao giờ trả giá - họ nói bao nhiêu, nếu xét thấy

đủ tiền thì mua, không thì thôi... vì tôi

đã cảm thông

được nỗi khó nhọc mà họ

đã tạo ra sản phẩm mang bán kiếm tiền. Chỉ riêng về "cá",

đã nhắc nhớ trong tôi bao nhiêu chuyện mà tôi

đã trải qua trong thời thơ trẻ, xin

được kể ra đây như một kỷ niệm đời mình: chuyện giăng câu bắt cá.

Nơi miền quê tôi ở thời thập niên năm mươi sáu mươi có thể bắt cá quanh năm. Mùa nước nổi thì bắt trên

đồng ruộng, mùa nước rút cạn

đồng thì bắt cá dưới sông, dưới rạch. Bắt cá có nhiều cách: câu, lưới,

đặt lờ, đăng lọp, đuổi bóng, kéo vó, chận ụ, dở chà, tát mương

đìa v.v... Riêng bài viết nầy tôi chỉ nói về câu cá theo mùa.

Câu cá có nhiều cách: câu tay bằng cần câu (kể cả câu rê, câu nhấp), câu cắm (mỗi cần câu có một lưỡi), câu giăng (mỗi giềng câu 3 hoặc 4 lưỡi, khi giăng ở hai đầu giềng câu gắn vào hai cây

đài bằng sậy hoặc

đế, cắm xuống đất, căng thẳng dây ra), câu thả dưới sông (mỗi giềng câu dài

đôi ba trăm mét và có

đến hằng mấy trăm lưỡi). Lưỡi câu có nhiều loại (câu đúc, câu giáo ó), nhiều cỡ (từ nhỏ đến lớn), riêng câu rê - câu nhấp lưỡi tođược uốn dạng đặc biệt để móc con mồi thường là con thằn lằn, con nhái, khi móc vào xong, còn bứt cọng rau muống chận lại từ

đầu lưỡi đến đốc câu (chỗ tóm vào dây câu)

để khi kéo rê lưỡi câu trên mặt nước, mặt cỏ không bị vướng vật cản và mồi không sút ra. Câu rê - câu nhấp thường vào lúc chạng vạng tối hay lúc mờ sáng và chỉ bắt loại cá lóc vào mùa nước nổi, nước bắt

đầu rút cạn trên

đồng, cá gom xuống ao đìa mương ruộng. Trường hợp rê hoặc nhấp cá bông thường thì trên sông mà người ta thấy sự xuất hiện của loài cá nầy, nhưng không cần xài loại lưỡi câu nhấp, mà xài một loại khác, lưỡi câu

đúc hay lưỡi câu hai, ba chia, tóm dây rồi cột dưới chân con vịt nhỏ để nó bơi trên mặt nước, cá bông thấy vịt nhào

đến táp sẽ vướng vào các lưỡi cột bên dưới chân vịt. Lưỡi câu giáo ó thường

để giăng, cấm bắt cá trê và lưỡi câu

đúc để bắt cá lóc. Các loại cá khác như cá rô, cá trèn, cá chốt, cá thác lác, cá chài, cá mè dinh, cá he v.v... thì lưỡi câu loại nào cũng có thể bắt

được nếu chúng đói mồi, chịu cắn câu.

Mồi câu có nhiều loại, nhưng có thể xếp thành hai loại: mồi chạy (là mồi di

động được) như con nhái bầu, con cá sặt non, con cua nhỏ; mồi đứng yên như mồi trùn (trùn hổ, trùn quắn, trùn huyết), mồi tép, mồi cắt (cá sặt chết), mồi khoai lang ngâm nước một

đêm rồi nấu chín (dùng cho câu thả trên sông và bắt các loại cá trắng ), mồi ốc (bắt cá lóc vào

đầu mùa mưa lúc cá mới lên

đồng). Bởi có nhiều loại mồi nên tôi xin nói thêm chi tiết, vì sao?

Cắm câu, giăng câu trên

đồng, tùy theo mùa mà sử dụng loại mồi thích hợp

để cá chịu ăn. Vào mỗi

đầu mùa mưa, cá dưới sông tìm cách lên

đồng để tìm chỗ

đẻ. Những nơi đọng nước như lung, đìa, các

đường lươn ngập nước, cá tập trung nhiều là những nơi có thể cắm, giăng câu để bắt. Lúc nầy đất ruộng bắt đầu tơi ra, những đường nứt nẻ đã liền lại, các loại ốc như ốc bươu, ốc lác bấy lâu nằm trong

đất đã xuất hiện. Người ta bắt ốc lác lể ra, dùng làm mồi

để cắm, giăng câu bắt cá lóc. Khi nước đã tràn

đồng, cá đã

đẻ xong, cá mẹ dẫn từng đàn ròng ròng

đi ăn khắp nơi, người ta cũng đã bắt

đầu phát cỏ dọn đất để cấy (cấy giâm khoảng tháng 7 và cấy liền khoảng tháng 10 âm lịch - là cách làm ruộng mỗi năm một mùa vào thời

điểm thập niên năm mươi, sáu mươi ở quê tôi), muốn bắt các loại cá thì người ta sử dụng mồi nhái bầu; khi cả

đồng đã cấy liền xong thì dùng mồi cá sặt non. Lúc nầy còn dùng mồi cua con. Khi giăng câu bằng mồi cua, thường thì người ta dọn luồng dọc theo các giồng cỏ, móc con cua vào lưỡi thả xuống gần sát mặt

đất, cố làm sao cho cua cử

động nhử cho cá lóc vào các giồng cỏ tìm mồi

ăn, gặp cua chúng sẽ táp và dính câu. Mồi cắt cũng dùng trong thời

điểm nầy, vì lúc

đó đã vào mùa lạnh, cá

ăn ngầm dưới sâu, có thể móc mồi cắt, mồi trùn. Ðặc biệt trùn huyết thì nhử bắt cá trê. Trùn huyết nhỏ con và rất nhớt, khó cầm

để móc vào lưỡi, người ta nhai cau tươi rồi nhổ nước cau vào lon mồi, sẽ móc vào lưỡi dễ hơn. Móc mồi trùn huyết, chỉ cần móc một

đầu trùn vào lưỡi rồi quấn vòng theo lưỡi (giáo ó), cuối con trùn móc thêm lần nữa là

đã có miếng mồi nhử cá ngon lành. Lưỡi câu thả nằm trên mặt

đất ngầm, cá trê lội tìm khi gặp miếng mồi sẽ ngoạm ngay. Lưỡi câu nhỏ (để câu cá lòng tong), có thể tóm vào sợi dây gân nhỏ, cột vào một lóng sậy rồi móc trùn, quăng thả trên những lô ruộng

đất biền (chỗ nước vô ra thông thương cặp với mé vườn và chỗ mà cá trạch thường sinh sống), sẽ bắt

được rất nhiều cá trạch mỗi khi nước lớn trôi vàođây. Mồi tép cũng được sử dụng để móc câu vào những khi nước sắp rút cạn trên

đồng, sau đó móc câu dưới mương, đìa và dưới sông khi cá

đã theo nước xuống sinh sống nơi

đây.

Câu cá thiểu thì

đặc biệt hơn. Người ta không sử dụng lưỡi, mà nhợ câu một

đầu cột vô cần trúc, một đầu xỏ vô miếng mồi là củ bèo cỡ

đầu đũa ăn. Người câu chỉ cần ngồi, một tay cầm cần câu, tay kia hốt cám ném xuống mặt nước để dụ cá đến giành

ăn, khi đó chỉ cần quăng, giựt liên tục, con cá thiểu nào ngậm mồi thì bị quăng lên bờ... Giật một hồi thì nghỉ tay

để lượm cá bỏ vô rổ, xong rồi tiếp tục vãi cám và quăng giựt liên tục như thế. Câu cá rô, ngoài mồi tép, mồi trùn, người ta còn dùng mồi nhền nhện, mồi cào cào, châu chấu

để câu trên ruộng lúa

đã trổ

đòng

đòng, trên mương rạch có cá

ăn móng. Câu cá rô thường thì chỉ

để tìm cá

ăn trong ngày chớ ít khi

đem bán. Cá rô bán ngoài chợ là cá giăng lưới, tát đìa...

Thả câu trên sông, thường vào tháng chạp

đến tháng tư tháng năm âm lịch (tức trước mùa mưa), có thể dùng mồi tép, mồi trùn hay mồi khoai lang. Câu thả có giềng rất dài, nhiều lưỡi. Cách khoảng năm mươi lưỡi có cột một cục đá cỡ cườm tay để khi giềng câu được quăng xuống sông, sẽ giữ độ chìm xuống mặt

đất. Người ta móc mồi vào lưỡi xong, xếp lên một cái "xề" hay cái "sàng" thật khéo, bắt

đầu bơi xuồng quăng câu sẽ không bị rối. Thả câu trên sông vào lúc nước những (gần

đứng) sắp bắt đầu ròng hay bắt

đầu lớn. Như vậy mỗi lần quăng câu chỉ cần trên dưới hai tiếng

đồng hồ và thăm câu chỉ một hai lần rồi cuốn câu. Quăng câu, người ta ngồi trên chiếc xuồng, phía sau có gắn bánh lái. Người giăng câu ngồi phía trước, một tay cầm giầm điều khiển xuồng trôi xuôi theo dòng nước, một tay cầm dây câu và cầm quăng xuống sông thật nhịp nhàng,

đều đặn. - đầu và cuối

đường dây câu, người ta có một sợi dây cột cái phao, ném xuống. Quăng hết câu, cặp xuồng vô bờ ngồi nghỉ, chờ vài mươi phút sau sẽ bơi ra cái phao phăng dây thăm câu, thay mồi và gỡ cá. Có cá dính câu, người ta lấy cái vợt lưới hay cái bội cầm tay hớt giữ cá

đề phòng bị cá giẫy và sứt khỏi lưỡi câu. Thăm câu sẽ phăng ngược chiều với dòng nước chảy, trong khi thả câu thì xuôi theo dòng nước. Quăng câu thả trên sông sẽ nhàn hơn giăng hoặc cắm câu trên ruộng, vì trên ruộng, có khi không

được phép chống xuồng trên lúa mà phải xăn quần lội, vai quảy cái giỏ đựng cá và lon mồi, sẽ bị lạnh lẽo

đến cóng chân tay.

Kinh nghiệm cho thấy, cá trên

đồng thường tìm mồi

ăn vào lúc chạng vạng tối và lúc sắp hừng

đông sáng. Bởi vậy, khi giăng câu ngoài

đồng, có thể năm ba xuồng rủ nhau đậu lại một chỗ ngồi hút thuốc, uống trà chờ thăm và móc mồi mới, hoặc lật nóp ngủ

đôi ba tiếng đồng hồ để lấy sức, rồi thức dậy đi thay mồi mới chờ đến đợt cá đi tìm

ăn khi trời gần sáng mới cuốn câu về. Tất cả các loại và cách giăng, cắm câu đòi hỏi sự bền bỉ, kiên trì và nhất là...

đừng nóng tính, bởi vì "chim trời cá nước" ai bắt

được nấy ăn, dù trên

đồng, dưới sông rất nhiều cá, nó chẳng thèm

ăn câu thì

đành chịu chớ không làm sao hơn

được. Hoặc cùng với bạn bè

đi giăng câu, người thì gỡ cá mệt nghỉ, người thì lủi thủi cứ thay mồi mà chẳng thấy con cá nào mắc câu. Thay mồi, vì khi

đến giở lưỡi, chẳng thấy mồi đâu, phải móc mồi khác. Có thể mồi thả xuống đã bị các loại cá nhỏ

đến rỉa mất, hay đã bị con

điên

điển, con cua đến cắn phá!. Hơn nữa, cá đi có luồng, nếu thả câu trúng vào luồng cá

đi qua nó sẽ ăn nhiều, và ngược lại. Còn nói "tay sát cá", là

điều cũng đáng tin lắm - có thể “tay sát cá” là người có một kỹ thuật giăng cắm câu mà chính họ không hiểu

được thì sao? Dù là tay sát cá hay không, thì nghề giăng cắm câu bắt cá trên

đồng ruộng mà tôi vừa kể, là một nghề thật lạnh lẽo, khổ nhọc, phải thức

đêm thức hôm mới bắt

được con cá, nhiều thì mang ra chợ bán

để mua sắm những thứ cần dùng khác, ít thì

để ăn trong gia đình khỏi phải mua. Nên, như trên tôi có

đề cập, khi ra chợ mua cá, gặp phải những người dân từ trong thôn quê ra ngồi bán, thật tình tôi chẳng bao giờ trả giá, dù biết rằng khi trả, có thể họ sẽ bán, nhưng nghĩ

đến công khó nhọc của họ mới bắt được con cá thì tôi không

đành lòng. Tôi

đã có thời gian sống trong hoàn cảnh giăng bắt cá khó nhọc như vậy nên sự

đồng cảm sâu đậm biết bao.

Tôi nghĩ, muốn

đánh giá đúng mức giá trị của sản phẩm làm ra, không gì hơn là chính những ai

đã bỏ công sức làm ra

được sản phẩm đó. Sự định mức bán mua ngoài xã hội cần có tiếng nói của giới sản xuất trực tiếp, tránh nạn trung gian o ép giá cả và

đôi lúc tạo mâu thuẫn, thiệt thòi cho họ. Nghe qua có vẻ chủ quan, nhưng xét cho cùng

đó là

điều rất công bằng và hợp lý.

Về Cửa Lò ăn nhậu mùa du lịch

ôi có người bạn thân là Chủ tịch đầu tiên của thị xã Cửa Lò suốt chục năm liền, nên thời đó, không năm nào tôi không về thăm anh. Về vào mùa “mở biển” như anh nói thì vui như đi hội.

 Người xe nườm nượp. Hàng quán tưng bừng. Anh lại là một đệ tử Lưu Linh, uống rượu không biết say nên bạn bè bốn phương rất yêu quý. Chủ tịch một địa danh du lịch mà quảng đại quảng bá như anh, thì khách dù đến một lần cũng không thể nào quên.

Nhớ lần đầu về Cửa Lò, tôi được anh mời ăn sáng. Cứ tưởng bún, phở gì, nhưng không, anh đãi món mực luộc và một chai cuốc lủi Nghi Phú. Rượu Nghi Phú ngon nổi tiếng, còn mực luộc thì quê biển nào chẳng có? Anh cười. Mực Cửa Lò khác. Vùng biển này có những hòn đảo như bình phong phía trước và cũng là nơi cuối cùng của hai con sông Lam, sông Cấm đổ về nên hải sản giàu dinh dưỡng và thơm ngon đặc biệt. Những con mực mới đưa từ biển lên lúc nửa đêm, còn tươi nguyên trong bể mặn. Đầu bếp chỉ cần làm sạch rồi luộc với nước pha gừng, vớt ra đĩa. Nó sẽ được cặp rau húng, diếp cá hay mùi tầu rồi chấm với nước mắm Cửa Lò hạ thổ pha chút tỏi ớt và mấy lát gừng giã dập. Phải nói, đó là món “đưa cay” tuyệt vời cho đến khi no nê mới thôi. Ăn sáng món này thì no đến trưa, tha hồ tắm biển, dạo chơi.

Nói đến mực thì có thể chế thành nhiều món ăn hấp dẫn như mực xào, mực nhồi thịt rán, mực một nắng, mực nướng, mực rim, mực trộn tép bưởi, mực chả, và đặc biệt là mực chim. Mực chim là loại mực nhỏ như con chim nằm thu cánh lại, bụng chứa đầy trứng. Loại mực này mà luộc hoặc chiên rán thì ăn béo ngậy. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là món mực nhảy. Món này chỉ xuất hiện vào lúc gần nửa đêm. Lúc đó thuyền câu mực trở về, những rổ mực tươi ròng, con mực còn trong như bơi trong nước biển, nhảy tanh tách, đôi mắt phát ra ánh sáng lấp láy. Thực khách thức khuya cũng chỉ chờ có thế, họ cùng các chủ nhà hàng tranh nhau mua từng rổ, từng mớ. Các quán ven biển san sát vẫn thức đợi thực khách mang mực nhảy vào để chế biến, phục vụ cuộc nhậu khuya. Có nhiều cuộc nhậu kéo dài tới sáng để thưởng thức bình minh biển Cửa Lò đẹp hơn tranh vẽ.

Biển Cửa Lò lúc bình minh sôi động vô cùng. Người từ trăm khách sạn đổ ra biển. Kẻ đi bộ, người chơi bóng đá, bóng chuyền trên cát. Người, phao muôn sắc bồng bềnh tắm biển. Trẻ con nghịch cát xây lâu đài, đắp tượng cát đợi sóng biển đến xóa đi, lại xây, lại xóa… Và thuyền khơi lộng trở về đầy ắp cá tôm cua ghẹ, bạch tuộc. Kẻ bán người mua í ới, rộn ràng. Bà già, trẻ em, thôn nữ bản địa lúc này trở thành những người bán hải sản lưu động dọc bãi biển. Người Cửa Lò mộc mạc, chân thật. Tiếng Cửa Lò líu lo mất dấu khiến khách phương xa đến lớ ngớ không hiểu, phải có người “phiên dịch”. Có cảm giác như đang đến một xứ biển nào xa lắm, tận bên châu Úc, châu Phi. Người bán hải sản bê từng rổ cá, rổ ghẹ, chậu mực, chậu cua. Hải sản tươi sống đầy hấp dẫn. Nhưng hấp dẫn hơn cả vẫn là giá rẻ bất ngờ. Dân đi chợ hải sản Hà Nội đến Cửa Lò sau khi hỏi giá, họ muốn mua cả biển về.

Tôi cũng đã có lần hỏi thử giá rổ ghẹ của một bà cụ, để cho biết thôi; nhưng khi nghe bà cụ nói giá chỉ vài trăm nghìn thì liền mua cả rổ vì không ngờ nó lại rẻ đến thế. Mấy anh em mà chỉ nhậu hết nửa, còn nửa kia đưa về cho các cô cậu phục vụ khách sạn. 

Có một mùi thơm gì đó khắp phố biển này thật quyến rũ. Thì ra đó là mùi cá nướng. Dân ở đây có hàng trăm hộ sống bằng nghề nướng cá. Cá mua về được phân loại trước khi nướng. Nhiều nhất là cá trích, cá bạc má, cá thu, cá chim. Những con cá còn tươi được nướng bằng than hồng không khói để cá chín đều và giữ nguyên hương vị. Có hộ nướng ngày dăm chục cân cá, nhưng cũng có hộ kinh doanh lớn đến cả tấn cá nướng/ngày. Cá nướng lên chợ Vinh, lên miền Tây, sang Lào, ra Hà Nội… Và cá nướng ngay trong các quán hàng ven biển. Mùi cá nướng làm tôi nhớ đến món ăn “bún-giá-cá-ruốc” tuổi thơ, là món đặc sản của xứ Nghệ quê tôi. Ở Cửa Lò, “bún-giá-cá-ruốc” cũng là món đặc biệt mà các bà, các cô rất ưa thích. Gọi vài vỉ cá bạc má nướng, một đĩa giá kèm rau thơm, một bát mắm ruốc, mấy cái bánh đa vừng và một đĩa bún là mấy bà mấy cô có thể ngồi cả buổi mà tận hưởng các mùi vị thơm tho của miền quê biển cùng với những câu chuyện mà chỉ có đàn bà nói với nhau. Còn các chàng thanh niên thì tự mình vào tận bếp xem các o nướng những con cá to và bê ra bàn nhậu. Cá chim nướng chấm với nước mắm ớt tỏi thì tốn bia tốn rượu vô cùng.

Cửa Lò cũng đầy những món nghêu sò ốc hến. Ốc hương ở đây ngon và thơm hơn bất cứ nơi nào tôi đã được ăn. Những con ốc hương vằn vi, to đều được nướng hoặc hấp bày lên đĩa còn nóng hổi. Hến ở đây không phải loại hến Huế nhỏ xíu mà to như con nghêu được đưa về từ sông Lam, sông Cấm. Ngọt và thơm. Thịt hến được thái ra để nấu canh lá lốt, ăn vào làm mát cả cái nắng mùa hè. Còn nghêu thì nhiều vô kể. Nghêu to, nghêu nhỏ, nghêu trắng, nghêu nâu, nghêu sọc… Người ta thường dùng nghêu nhỏ nấu cháo, nghêu to thì lấy thịt ra thái miếng xào lá lốt, xào lá hẹ thành món ăn xa xỉ. Tôi cũng đã từng được ăn cháo nghêu ở quán Hằng, quán ruột của bạn tôi, bởi vì trong các món cháo thì anh thích nhất món cháo nghêu, mà cháo nghêu phải quán Hằng. Tôi nghĩ: cháo nghêu Cửa Lò thì đâu mà chả thế. Nhưng anh bảo ở quán Hằng có khác, bát cháo nghêu có thêm vị chua của quả chay và vị chát của quả sung. Thì ra có được bát cháo nghêu đặc biệt cũng cầu kỳ thế.

Ăn ở quán Hằng còn có lò nước mắm hạ thổ (dưới cát). Nước mắm này là loại đặc biệt được để lâu, có ngâm vừng vàng dùng chống rét cho người đi biển mùa đông, tăng thêm độ bền cho thợ lặn, làm thuốc trị bệnh đau bụng gió, bụng bão. Đây là loại nước mắm đầu nõ, còn gọi là mắm cốt, độ đạm cao, thường làm nước chấm trong bữa ăn của nhà khá giả, nhưng ở Cửa Lò thì nhà dân thường nào cũng có. Chấm xôi, chấm dưa đều trội mùi thơm. Chấm miếng thịt luộc ba chỉ nó làm cho miếng thịt cong lên thật thú vị. Nghe nói thị xã đã quy hoạch làng nghề nước mắm để tạo nên một thương hiệu đặc biệt “nước mắm Cửa Lò”. Còn ăn ở quán Hằng, ta có thể mua cả can nước mắm hạ thổ mang về nhà mà chẳng khó khăn gì.

Mà không chỉ ở quán Hằng mới có đặc sản tuyệt hảo, rất nhiều nhà hàng luôn có đặc sản chính hiệu “made in Cửa Lò” sẵn sàng phục vụ quí khách 24/24h như nhà hàng Thúy Hiếu, Hồng Tin, Lan Châu, v.v… Lan Châu là một hòn đảo đá ở phía bắc thị xã, có bãi tắm đẹp như tranh sơn thủy. Xa hơn, ngoài biển có đảo Hòn Ngư. Tôi đã ra Hòn Ngư bằng thuyền cao tốc mà người ở đây gọi là “Honda biển”, đi 5 km chỉ mất 7 phút. Hòn Ngư có 2 hòn lớn nhỏ mang hình hai con cá nép vào nhau nên còn gọi là Song Ngư. Ở đây có bãi tắm đẹp như cổ tích, có tên là Bãi Tắm Tiên, ven bờ cát vàng rực và nước thì xanh màu lá ngọc. Trên đảo cây cối um tùm, có ngôi chùa cổ được xây dựng từ thế kỷ thứ XIII. Chùa có chùa Thượng, chùa Hạ, lợp ngói âm dương. Các xà hạ khắc chạm các vật Tứ linh (Long, Ly, Quy, Phượng) rất đẹp và rất linh thiêng. Vườn chùa có nhiều cây xanh mọc tự nhiên như: Đại, Mưng, Duối cổ thụ và giếng nước ngọt gọi là Giếng Ngọc. Sân chùa có 2 cây Lộc Vừng khoảng 700 năm tuổi. Một đơn vị bộ đội đang canh giữ ngày đêm. Thị xã cho thả hàng trăm con dê vào khu rừng trên đảo. Đàn dê ngày càng sinh sôi nảy nở. Ở ngoài xa bãi tắm là một vùng biển được khoanh lại bằng lưới sắt nuôi cá Giò - có con nặng đến ba bốn chục cân, thịt rắn chắc và có hình như khúc giò nên người ta thường gọi là cá Giò - vẫn thường xuất cho nhà hàng Viễn Đông, Hà Nội.

Khi chúng tôi ra đảo lại gặp đúng ngày lễ, bộ đội bắt cá ngừ về “cải thiện” bữa đại tiệc. Bữa tiệc có mấy món cá Giò, lại có cả món dê đảo thui cả con, nhậu trên đảo thật thú vị. Thịt dê thì ai cũng biết là làm được rất nhiều món: dê nướng, lườn dê xào lăn, dê tái chanh, dê hấp sả, dê xào sa tế, dê xào thập cẩm, ngọc dương xào xả ớt, dê bóp thấu, dê hấp cách thuỷ, dê hầm rượu vang, dê nướng xá xíu Trung Hoa, sườn dê tẩm mật ong quạt than hồng, lẩu dê ngàn dặm, cháo ngọc dương, óc dê chiên bột, lẩu dê khô, dê cuộn pho-ma, ngọc dương hầm thuốc bắc, thịt dê hầm phụ tử, sườn dê nướng ngũ vị, canh hạ nguyên, cà ri dê, chả dê ba lớp, dê nướng ngũ vị hương, vú dê nướng, dê nướng mọi, né mọi, dê con quay, rượu huyết dê, chân móng dê hầm thuốc… Nhưng dê đảo Ngư thui cả con thì thịt thơm vô cùng. Ăn miếng thịt dê trên đảo, thấy còn ngon hơn cả dê núi Ninh Bình. Cá Giò có thể chế biến thành 7 món ăn hấp dẫn mà độ dinh dưỡng vẫn được đảm bảo: cá gỏi, cá hấp sả, lòng cá xào, lẩu cá, cháo cá, vây cá rán, da chiên dòn. Bữa tiệc của lính chế biến đơn giản hơn, chỉ món nướng, món gỏi và món cháo. Riêng lòng cá ngừ thì nấu canh lá lằng. Canh lá lằng có vị đắng, lúc đầu cảm giác đắng lạ lạ, nhưng ăn quen thì thành nghiện. Lá lằng ở đảo Ngư nhiều vô kể, chỉ hái một lát đủ chất đầy bao tải. Mấy anh bạn tôi xin mỗi người một bao tải mang về Hà Nội, phơi khô để nấu canh, ăn vào mùa hạ cho người đỡ nhiệt.

Kể chuyện ăn nhậu ở Cửa Lò thì không bao giờ hết. Điều quan trọng là ngon và rẻ. Cái ngon của món ăn đôi khi lại nằm ở cái sự lạ. Lạ người, lạ cảnh, lạ nghĩa, lạ tình. Từ thành phố chật hẹp hay miền quê xa xôi hẻo lánh đến với một vùng nước biếc non xanh có bãi cát trắng tinh mùa hè nở đầy hoa cúc biển rực màu gạch cua, nơi tướng quân Nguyễn Sư Hồi, Nguyễn Xí đã từng làm nên lịch sử lập những lò muối đầu tiên, nơi vua Bảo Đại đã từng xây “nhà mát”, để rồi nó trở thành một thành phố biển du lịch kỳ diệu như hôm nay thì quả là vô cùng thích thú.

Một ngày trên sông Chà Và

Thứ Bảy, 05/05/2012 19:00

Đến xã đảo Long Sơn (TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), ngoài việc tham quan di tích Nhà Lớn, du khách cũng có thể chọn tour sông nước, tham quan các bè cá, rừng ngập mặn trên sông Chà Và và thưởng thức hải sản tươi sống tại bè cá trên sông.

Một ngày cuối tuần, từ TP. Vũng Tàu, chiếc ghe đưa chúng tôi rời xa cảnh ồn ào, náo nhiệt của đô thị hướng về xã đảo Long Sơn. Khung cảnh trên sông Chà Và thật thanh bình, vài ba bè nuôi cá bên dưới, xa xa là núi Nứa xanh ngát... trông như một bức tranh sơn thủy hữu tình. Từng cơn gió phả vào mặt mát rượi càng làm cho tinh thần thêm sảng khoái. Theo hẹn từ trước, ghe chúng tôi tấp vào nhà hàng Sông Chà ngay trên sông.

Anh Trương Lăng, chủ nhà hàng ra đón và giới thiệu với chúng tôi về ngôi nhà của mình. Nhà hàng gồm 1 nhà chính, 2 nhà phụ và 1 nhà nghỉ để du khách thoải mái câu cá, ăn uống và nghỉ ngơi. Nhà hàng được dựng chủ yếu bằng tre, từ những chiếc bàn, ghế đến bộ khung, lại được tô điểm bằng những chiếc nơm cá và những con cá khô treo lủng lẳng, gợi nên một khung cảnh làng chài bình dị.

Tiếp đó, anh đưa chúng tôi tham quan các cụm nuôi hải sản sau lưng nhà hàng. Những loại cá chim, cá mú, cá bớp, cá chẽm hay hàu được nuôi trong môi trường tự nhiên, không mập mạp nhưng trông khỏe khoắn và săn chắc. Thấy động, vài con cá quẫy mạnh làm nước bắn tung tóe khiến du khách giật mình lẫn thích thú, nhất là đám trẻ đi theo.

Một nhóm du khách đến từ TP. Hồ Chí Minh vừa cập bến trước chúng tôi đã nhanh tay chọn thực đơn cho bữa ăn trưa bằng cách câu cá trong bè, dính con nào, nhà hàng đưa lên chế biến con đó. Khuôn mặt họ tỏ rõ vẻ phấn khích.

Nhóm đến từ TP. Vũng Tàu thì chọn loại cá có sẵn và nhân viên nhà hàng dùng vợt bắt lên chế biến. Tùy theo sở thích của mình, du khách có thể chọn cá chim nướng muối ớt hoặc nấu lẩu, cá chẽm hấp hay xốt thơm, hàu nướng, cá bớp phần thì nấu lẩu chua, phần để nướng muối ớt.

Trong khi chờ món ăn, chúng tôi ra 2 nhà phụ để câu cá thư giãn. Ngồi câu cá, tận hưởng không khí trong lành, ngắm những chiếc ghe, tàu chạy qua cầu Chà Và tạo thành những cơn sóng xô nhẹ lăn tăn, bọt tung trắng xóa trên mặt nước, chúng tôi như quên đi những ngày làm việc căng thẳng. Trẻ em thì chạy nhảy trên bè, ngắm những chú cá đang tung tăng bơi lội và chụp những tấm hình kỷ niệm, thỉnh thoảng lại hò hét làm náo động cả một khúc sông.

Sau 30 phút chờ đợi, những món ăn chúng tôi gọi đã được bày biện tươm tất. Món cá bớp nướng muối ớt thơm lừng khiến ai cũng không thể trì hoãn bữa tiệc của mình.

Do cá được nuôi theo kiểu tự nhiên nên thịt dai và ngọt, lại được ướp muối ớt rồi mới nướng nên hương vị càng thêm đậm đà. Món cá chẽm sốt thơm cũng ngon không kém. Vị chua thanh của thơm hòa cùng vị ngọt của cá khiến ai cũng háo hức...

Tan tiệc, chúng tôi tản ra ngả lưng trên những chiếc võng mắc sẵn trong nhà hàng. Những cơn gió mát nhẹ nhàng đưa chúng tôi vào “giấc mộng thần tiên”, “nạp” đầy năng lượng trước khi trở về thành phố, chuẩn bị cho tuần làm việc mới.

Cào cào tre rang, nướng

Ai thử món này chưa?



Làng tôi xưa kia nhà nào cũng có ít nhất vài bụi tre gai ở đầu ngõ hoặc sau vườn. Có nhà, xung quanh bờ vườn toàn tre là tre. Tre với đời sống sinh hoạt của người dân quê gắn bó keo sơn từ bao đời. Những vật dụng trong nhà, động đến thứ gì cũng làm từ cây tre mà ra. Với bọn trẻ chúng tôi hồi ấy nếu không có tre thì cũng chẳng có cái bẫy chèo pheo, chim cuốc. Và chẳng bao giờ được… ''nghiện'' món cào cào tre rang, nướng.



Cào cào tre to hơn cào cào ngoài đồng, có màu vàng ngà, con cái to bằng ngón tay trỏ trẻ con, con đực to bằng đầu đũa, chúng xuất hiện nhiều nhất vào giữa mùa hè, từng đôi "cặp díp" nhau đậu kín trên những cành tre, tay tre tưởng như bất động, nhưng lại rất nhạy cảm với mọi động tĩnh xung quanh. Việc dùng tay trực tiếp chộp bắt chúng là rất khó khăn, chúng lại đậu ở trên cao. Muốn bắt chúng chẳng còn cách nào khác là dùng nhựa ở quả mít quánh đặc to bằng hạt ngô đính vào một đầu või tre cật vót thật nhỏ như gọng ô dài chừng một mét, rồi buộc nối vào cây tre róc dài tùy ý để dính chúng hoặc buộc một thòng lọng bằng cước thật nhỏ vào đầu või tre rồi khéo léo luồn vào thân mình chúng mà khẽ giật. Người lớn cũng đã nghĩ ra cách dùng vợt bằng lưới, bằng vải màn nhưng bắt không được, bởi gai tre sẽ mắc vướng vào làm rách lưới, không gỡ ra được.

Bắt được một ít cào cào bọn trẻ chúng tôi cứ để nguyên cả con, xiên vào một que sắt hoặc que tre nhỏ xíu nướng hoặc bóp chết rải lần lượt trên than hoa mà nướng cho tới khi chân, cánh chúng cháy trụi, chuyển sang màu nâu cánh gián và tỏa ra mùi thơm béo ngậy là ăn được. Cũng chẳng đứa nào thèm cấu đầu, rút ruột vì sợ "hết thịt" và ăn nó xác. Bọn tôi nghĩ rằng thức ăn của nó là lá tre non, mà lá tre các cụ lang y gọi là vị thuốc "trúc nhự", có tác dụng thanh tân, giải nhiệt, nên chẳng cần vệ sinh cẩn thận làm gì.

Nếu bắt được nhiều, đủ một bữa ăn cho cả gia đình thì mang về chế biến cẩn thận, cấu cánh, cấu đầu, rút ruột, vặt gai ở càng, rồi rắc ít muối vào xóc cho đều, để độ vài ba phút, sau đó rửa lại bằng nước sạch, rồi vớt ra để ráo nước. Chờ chảo nóng già, cho vào một lớp mỡ lợn mỏng láng đều, đổ cào cào vào rang nhỏ lửa khi nào thấy có mùi thơm đặc trưng, từ màu vàng ngà chuyển sang màu nâu thì tra chút nước mắm vào đảo đều tới khi khô cạn bắc chảo ra, múc cào cào bày lên đĩa rồi rắc lá chanh thái chỉ lên trên.

Cào cào tre rang hoặc nướng, ăn nóng có thể nhâm nhi với rượu, hay giầm vào bát mắm chanh ớt để ăn với cơm. Một món ăn dân dã, mang hương vị làng quê. Ngày nay, khi mà cuộc sống kinh tế nông thôn ngày một đi lên, những lũy tre được thay bằng những bức tường bao xây kiên cố, thì những đĩa cào cào tre rang, nướng đạm bạc cũng vắng bóng dần trên mâm cơm ngày hạ. Họa chăng có còn cào cào tre, thì giờ đây nó đã là một món đặc sản và chắc gì người dân quê còn được thưởng thức..

Ngầy ngậy vị cào cào rang

Sau khi ăn cơm xong, tôi ngoan ngoãn rửa hết chỗ chén, bát mẹ giao. Chỉ đợi tiếng huýt sáo đầu ngõ của thằng Chũn là tôi với nó ba chân bốn cẳng chạy. Thắng lợi hôm đó khiến tụi tôi được bữa giương oai đắc chí với lũ trẻ làng bên. Để ăn mừng chiến thắng, cả hội rủ nhau xiên một ít cào cào vào que rồi nướng ngay tại trận. Lửa bén vào xiên, cào cào chín vàng ươm, giòn dai, thơm lừng. Đứa nào đứa ấy thòm thèm, nhấp nhổm rồi tranh nhau ăn ngon lành như thể chưa bao giờ được ăn. Nếm một miếng cào cào nướng, hít hà hương thơm phức hòa vào vị giòn tan, bùi béo trong miệng cảm giác sao mà tuyệt vời đến thế.

Vui thì vui thật đấy nhưng cứ nghĩ đến trận đòn tối nay của mẹ đợi sẵn ở nhà, tôi lại thấp thỏm lo lắng. Cuối cùng, tôi cũng nghĩ ra kế dùng chiến lợi phẩm là giỏ cào cào bắt được khi trưa tự tay chế biến món ăn bữa tối cho cả nhà.

Tôi chạy sang bà ngoại hỏi cách rang món cào cào. Ngoại hướng dẫn tôi bắt những chú cào cào béo tròn, mỡ màng cho vào chậu. Ngoại giội qua nước sôi rồi xóc mạnh cho rụng bớt cánh và càng, sau đó đổ chúng ra chậu nước lạnh và rút ruột. Ngoại nói: “Muốn rang được món cào cào giòn, thơm ngon, béo ngậy là cả một bí quyết. Để cào cào không có mùi hôi tanh trước khi rang, con rắc một chút muối xóc đều rồi rửa sạch và để cào cào ráo nước mới đem rang”. Trước khi rang, ngoại thả vào chảo một ít mỡ heo, đun nóng rồi cho cào cào vào đảo thật nhanh cho chúng có độ bóng và bùi. Ngoại xoa đầu bảo tôi: “Món cào cào rang là món mang hương vị của tuổi thơ đó cháu ạ”.

Ngửi thấy mùi thơm của món cào cào rang, anh tôi chạy ngay vào bếp, mở vung chảo ra rồi đắc chí cười: “Hi hi! Định lấy công chuộc tội hả nhưng hôm nay mẹ không tha cho Bim đâu”.

Tim tôi bắt đầu đập loạn xạ, chân tay thi nhau run lẩy bẩy nhưng mẹ chỉ nhắc nhở tôi nhẹ nhàng: “Hôm nay mẹ tha nhưng nếu lần sau con đi bắt cào cào giữa trưa nắng như vậy nữa là mẹ sẽ đánh đòn đấy, con nhớ chưa?”.

Mẹ truyền thêm một bí quyết nữa cho tôi: “Để cào cào rang dậy mùi thơm, khi cào cào chuyển từ màu vàng sang màu cánh gián nên cho vào một bát nước dưa muối và nêm thêm chút gia vị để tăng độ đậm đà. Cứ thế đảo đều tay cho tới khi nước cạn hết và không được quên rắc ít lá chanh thái chỉ lên trên”.

Cào cào nướng!

Đăng ngày: 16:06 18-03-2011

Thư mục:

Tổng hợp

Trưa đi làm, qua quán nước gần chỗ gửi xe, thấy một câu choai choai đang thao thao về cào cào nướng. Nào là cào cào ăn ngon, rồi ăn cào cào lúc vụ lúa thì ăn được cả trứng cào cào còn trong bụng rất thơm....Cào cào ở quê to, cho que xiên vào nướng, ăn giữa đồng...


Tôi đã từng nướng cào cào, xong không dám ăn. Vì sợ đau bụng. Nhưng mùi thì thơm thật. Cào cào rang và chiên, thì ngày ra Hà Nội mới được thưởng thức. Nhờ vào mùa cào cào, người ta bán đầy chợ. Thử mua về ăn xem. Người ta vặt cánh cho hết rồi, bụng cào cào cũng lép kẹp, không có ruột đắng nữa. Không biết cào cào ở đâu mà nhiều thế. Không biết có phải nuôi không, vì cào cào bé bé bằng nhau, màu đỏ đồng, không xanh mướt như những con tôi từng bắt. Ăn lúc đầu không quen thấy ngái ngái, và có lúc bị chân nó dắt vào răng khó chịu. Nhưng vì đã quen ăn nhộng tằm và cả nhộng ong nên tôi cũng dần quen ăn cào cào chiên.


Tôi cứ phân vân mãi, vì chưa được thưởng thức trứng cào cào như cậu chàng kia bảo.

Cào cào rang lá chanh - món ngon vùng đất lúa



Độ giữa hè, trời nắng oi ả, mùa gặt về, cả miền quê nhuộm một màu vàng, của nắng, của lúa, của rơm. Người lớn tất bật với vụ gặt còn bọn trẻ con chúng tôi chạy khắp ruộng, đầu ngó nghiêng, tay cầm chai nhựa, tay cầm chiếc vỉ để rình bắt cào cào.



Được nghỉ hè, nhưng tụi trẻ con ít khi ở nhà, hết câu cá, mò ốc lại đến bắt ve, bắt muồm muỗm nhưng tuyệt nhất vẫn là đi bắt cào cào. Đồng hành với tôi là đứa em từ thành phố về, ngày đầu quần áo nó rõ sạch, người nó rõ thơm, nhưng chỉ sau khi theo tôi đi bắt cào cào thì người nó cũng lấm lem hết cả. 



Chúng tôi thường bắt cào cào ở hai nơi: ngoài cánh đồng và ở những bụi tre. Tre ở làng tôi thì nhiều lắm, đầu ngõ, trong vườn hay chạy dọc bờ dòng sông đều có cả. Nơi ấy những con cào cào tre trú ngụ. Việc bắt cào cào ở bụi tre rất khó, vì tre mọc dầy, lại màu xanh như màu thân cào cào. Bố tôi bày cách bắt bằng việc lấy nhựa mít, loại nhựa đặc sệt, quánh dẻo bôi vào đầu một chiếc gậy nhỏ để dính chúng.




Cào cào rang lá chanh.



Cào cào đồng nhỏ hơn và dễ dàng bắt được hơn, có thể dùng tay để vồ, nhưng không cẩn thận chúng sẽ “trốn” lẫn vào cỏ dại. Gặp phải những hôm trời mưa, cào cào bị ướt cánh, bay chậm chạp hơn, chúng tôi tha hồ bắt. Khi ấy những chiếc chai nhựa sẽ đầy ắp cào cào.



Mỗi chiều, chúng tôi thường để nguyên con, xiên vào que tre mà nướng ngay ngoài cánh đồng. Nướng cho tới khi chân cánh chúng cháy rụi, thân chuyển sang màu vàng cánh gián, tỏa mùi thơm béo ngậy thì cả lũ ngấu nghiến ăn. Miệng đứa nào đứa đấy như bôi nhọ nồi, nụ cười đen nhẻm.



Hôm nào bắt được nhiều chúng tôi mang về nhà, mẹ là người chế biến. Mẹ cắt cánh, cắt đầu chúng sạch sẽ rồi vứt bỏ ruột, đem sát với muối sau đó rửa lại bằng nước. Mẹ để cho ráo rồi bắc chảo lên cho sôi mỡ. Mỡ già, mẹ đổ cào cào vào rang nhỏ lửa cùng gia vị cho dậy mùi thơm ngậy. Cào cào rang rất hợp với lá chanh, nên mẹ rắc lá chanh thái chỉ lên trên, được một đĩa cào cào hấp dẫn. 



Cào cào rang còn có thể dầm vào bát nước chấm chanh ớt để ăn cùng cơm nóng. Nếm một miếng cào cào, hít hà hương thơm phức, cảm nhận vị giòn tan, bùi béo trong miệng, cảm giác thật tuyệt. Bữa cơm mùa gặt thường có món cào cào, tôi ăn mãi mà không biết chán. Qua những tuần được ăn cào cào rang, đứa em tôi trên thành phố cứ lớn bổng lên.



Bây giờ về quê, ruộng lúa thu hẹp dần cho nhà máy công nghiệp, tre cũng bị chặt đi nhiều để xây tường gạch kiên cố, lũ cào cào bỏ đi đâu hết cả. Nhiều khi nhớ những ngày thơ ấu, thèm lắm một bữa cơm cào cào rang lá chanh.

Đặc sản miền thơ ấu

Chiều hôm kia sau khi Tiến tui sửa xong cái laptop cho một anh đồng nghiệp cũ, làm chung cơ quan với tui thuở tui còn làm bác sĩ thú y ở Thủ Đức, anh ta dắt tui vào quán Bánh Xèo “Ăn Là Ghiền” nằm ngay góc Nam Kỳ Khởi Nghĩa-Trần Huy Liệu để đãi tui một bữa ra trò…

Lần đầu tiên biết quán này, ngay cái tên quán cũng làm cho tui hết sức tò mò không biết bánh xèo ở đây có gì đặc biệt mà lại dám quả quyết rằng “Ăn là ghiền” như vậy? Nhìn vào thực đơn tui cũng hơi rối với mấy chục loại bánh Xèo của quán, nhìn chung cũng là bánh xèo nhưng được làm với nhiều loại nhưn khác nhau...cũng bình thường thôi…. Đột nhiên tui sửng người khi thấy trong thực đơn có ghi món “Dế Cơm Lăn Bột”….



Chà… Tui chợt nghe có cái gì đó chạy rần rật trong tôi, những dòng chảy thời gian như cuốn tôi ngược về quá khứ, Dế Cơm…có lẽ với người Xì-gòn thì hơi lạ lẫm, có người còn thấy ghê gớm không dám ăn… nhưng với tui thì tui còn lạ gì cái món “độc” này nữa. Không chỉ có con Dế Cơm mà còn nhiều con “độc chiêu” khác tui đã từng ăn hồi còn nhỏ. Nhiều con mà khi nghe tên ít người nghĩ là nó có thể ăn ngon được…nhưng tui đã ăn được và cho tới bây giờ nó đã trở thành những kỷ niệm không thể phai mờ….Ít nhất cũng gần 20 năm rồi tui không còn được ăn những món ăn như thế nhưng dư âm về chúng thì vẫn còn đầy ắp trong tui.



Thuở nhỏ, vào những ngày hè như thế này, được nghĩ học, lũ trẻ con nhà nghèo chúng tôi thường ít khi nào chịu nằm nhà. Không xuống sông bắt Cua, bắt Lịch, mò Tôm, câu cá Thòi Lòi… thì cũng lên bờ câu Rắn Mối, bắt Dế Cơm, Cào Cào Dồ, (loại cào cào to bằng ngón tay cái, có nơi người ta kêu nó là châu chấu, nhưng ở quê tui con châu chấu nó khác, cái đầu nó nhọn hoắc hà, còn từ “dồ” cũng có nghĩa là bự đó) … hay không thì cũng leo dừa bắt Chuột…và hầu như bắt được con gì thì tụi tui cũng hốt rơm, bật hộp quẹt nướng liền tại chổ….nướng "mọi" luôn chứ không thèm chế biến gì hết, mà lúc đó tụi tui cũng có biết chế biến món ăn là thế nào đâu.



Mà kể cũng lạ nghen, cái con gì khi nướng lên nó cũng thơm, cũng ngon hết á? Mấy món tôm, cua, cá…nướng thì bà con quen mặt hết rồi. tui không nói tới nữa, nhưng còn mấy con mà tui sắp kể ra đây chắc bà con chưa được tường tận bao giờ…



Trước tiên phải nói tới món Cào cào dồ nướng. Cứ sau khi vừa dứt một trận mưa rào, tụi tui liền chạy ra sau bếp lấy cái hộp quẹt đá lửa lận vô lưng quần rồi xách theo cái bọc nilon đi ra mấy bãi cỏ, hay bãi sậy tìm bắt cào cào dồ, trời mưa làm tụi nó không có chổ núp, bị ướt cánh, nên cất cách bay chậm hơn bình thường.


Mỗi lần đi bắt như thế mỗi thằng tụi tui bắt được chục con là ít, mà con nào con nấy bự bằng ngón tay cái thấy mà bắt ham.



Tụi tui đem hết cào cào ra ngồi dưới hàng dừa ven bờ ruộng của bà Bảy Hổ, bắt từng con cào cào ra, bẻ bỏ cái chân có gai nhọn của nó đi, ngắt cánh sạch sẽ, rồi giật mấy cái lá dừa, tuốt hết lá, lấy cái cọng, thứ mà bà Năm Già xóm tui hay lấy bó chổi mang ra chợ bán đó. Đâm cái cọng dừa vào miệng cào cào như kiểu người ta nướng trui cá lóc rồi hốt rơm, hốt lá cây khô, bật quẹt đốt. đợi lửa cháy dịu xuống một chút, bớt khói thì tụi tui cầm cọng dừa có con cào cào đưa vô nướng. nướng cũng phải có “nghệ thực” à nghen, nướng sao mà con cào cào chín vàng mà cọng dừa không bị cháy mới độc chiêu, chứ để cọng dừa bị cháy, rớt con cào cào vô lữa là rụi hết, khỏi ăn luôn đó.

Cứ thấy con cào cào vừa chín, nhìn nó vàng ửng y như con tôm nướng, mùi thơm bốc lên, thơm hơn con tôm nướng nữa đó. Trước tiên lấy cái cọng dừa khều sơ sơ mấy chổ bị cháy cho sạch rồi đưa qua mũi hửi một cái coi thơm hông nè (dù biết chắc là con nào cũng thơm lừng hết rồi nhưng lần nào tụi tui cũng “test mũi” một cái như vậy đó… he he) rồi ngắt nhẹ phía đuôi con cào cào, từ từ kéo nhẹ để rút ruột nó ra bỏ. xong rồi một hai ba…hả miệng ra…lủm… Ta nói…ngon bá chấy bù chét luôn… Viết ra cho bà con ở miền khác hiểu nên hơi dài dòng vậy thôi chứ cái thao tác khi nướng cào cào tụi tui mần lẹ lắm, hơ cào cào qua lữa, thấy chín, hít một cái, ngắt đuôi, rút ruột…ùm…cứ vậy đó... tụi tui mần nhanh cứ như công nhân làm dây chuyền ở khu chế xuất vậy đó…nướng con nào lủm con đó liền, ai nướng nấy ăn, không thằng nào mời thằng nào, ăn chưa đã thậm chí con giựt của thằng khác mà ăn nữa chứ nói chi là mời nhau…nghe lịch sự quá đáng… còn “phia” á!!!…he he



Với Dế Cơm thì cũng chế biến tương tự như cào cào nhưng có hơi khác hơn một chút là vì con dế cơm nó bự hơn con cào cào nhiều, có con bự bằng ngón chưn cái à nghe. Bắt dế cơm thì công phu hơn nhiều, tìm nơi nào có đất bị đùn lên thì chổ đó là hang dế cơm, lấy cuốc nhỏ đào lên, từng lớp một từ miệng hang sâu vô trong là tóm được dế cơm liền.

Trước khi nướng, tụi tui ngắt đuôi lấy ruột dế cơm ra, nhét vô bụng nó mấy hột đậu phộng rang rồi mới nướng (tui nói nhét vô tới mấy hột… là bà con biết cái bụng con dế cơm nó bự tới cỡ nào rồi heng?). Và dĩ nhiên khi “lủm” con dế cơm nướng sẽ thấy đã hơn con cào cào nướng vì thịt dế cơm nhiều hơn và cũng vì có thêm mấy hột đậu phộng đó đó.



Ngày xưa tụi tui nào biết chế biến dế cơm kiểu gì khác ngoài nướng đâu, không thể ngờ rằng bây giờ con dế cơm lại có tên trong thực đơn của những nhà hàng sang trọng, được chế biến nhiều kiểu lạ hoắc như là dế cơm chiên giòn, lăn bột chiên, cuốn bánh tráng….



Kế tiếp tui nói về món tiếp, từ một con có cái tên nghe dữ dằn hơn nhiều đó là Rắn Mối nướng. nhìn cái hình nó nè, dòm thấy ớn vậy đó chứ ăn thịt ngon hết xẩy đó nghen.

Bây giờ nghe đâu tên nó được oánh máy “di tính” và được dán ở góc sang nhất, đẹp nhất trong mấy nhà hàng đặc sản quê tui rồi đó. Ở Xì Gòn thì tui thực tình chưa thấy có món này.



Rắn mối thường chỉ lớn hơn ngón tay cái, dài hơn gang tay, thân hình như con Tắc kè hay con Dông ở Bình Thuận, nhưng khác là nó được bọc một lớp vảy đen, ửng vàng, bóng ngời trông rất đẹp và không kém phần “sang chọng”…he he. Bắt nó chỉ có nước lấy cây đập hay câu nó mà thôi. Rắn mối thường trốn trong lùm cây, bụi rậm, dưới đống lá cây… chúng chạy khá nhanh cho nên đập được chúng cũng phải là những tay thiện xạ như tụi tui ngày ấy mới có thể được… hồi nhỏ tụi tui hay nghe mấy ông già mà cứ chiều chiều ra hàng ba ngồi nhậu đế Ấp Sanh với hột vịt ung dạy rằng khi thấy rắn mối, mình đứng trước mặt nó, múc ca nước mưa uống vô mấy ngụm là nó nằm im cho mình đập nó hà…vậy mà tụi nhóc tui lúc đó cũng nghe theo, báo hại uống cả bụng nước mưa trong khi con rắn mối thì chạy mất tiêu chứ nó có chịu nằm yên cho tụi tui tới đập đâu…nghĩ mà mắc cười ghê...!

Có rắn mối trong tay rồi tụi tui không cần mần gì hết, cứ quăng vô đống rơm, đốt lữa lên như nướng cá lóc thôi, nhưng rắn mối thì nhanh chín hơn cá lóc cho nên canh chừng rắn mối vừa chín là banh đống lữa, khều con rắn mối ra, bẻ tạm cành cây nào đó để cạo sạch lớp vảy rắn bị cháy rồi xé da rắn mối ra để lộ bên trong phần thịt rắn mối trắng ngời, mùi thơm dìu dịu thôi nhưng nghe cũng tê tới óc o luôn chứ hổng vừa gì đâu à. Rồi thì cứ “tay không mà giết địch” nghe bà con… Xé một miếng thịt rắn mối nè, (miếng nhỏ thôi, chứ con rắn mối có chút xíu mà quất một miếng bự hết cha con rắn của người ta, cho mấy thằng kia nó oánh cho nhừ xương ra à…!) chấm vô miếng muối ớt nữa, rồi cho vô miệng nè…Mèn ơi nó “phê” cứ như là thấy mấy ông trời đang xay bột vậy chứ hổng vừa đâu…quên cả lối dìa luôn ...



Món tiếp theo mà tui kể ra cho bà con nghe đây cũng khá quen thuộc nhưng cũng không mấy ai trên Xì-gòn dám ăn, đó món chuột nướng. Khà khà…ở Xì Gòn mà nghe nói chuột ai cũng gớm heng? Bởi con chuột Xì Gòn sống ở đâu? Ăn cái gì thì không nói ra bà con mình cũng biết rõ hơn tui rồi đúng hôn? Nhưng còn chuột quê tui thì chỉ toàn ăn lúa, ăn dừa, ăn mía mà sống cho nên thịt nó chẳng những sạch sẽ mà còn thơm ngon lừng lẫy một miền. Ôi những con chuột đồng sau mùa lúa cứ mập ú ù ra, mấy chú chuột mía, chuột dừa thì nhìn dể thương và không kém phần béo ngọt như là mía hầm nước dừa vậy đó…khà khà…


Tháng này thì lúa còn non cho nên chuột đồng còn chưa nhiều, chúng “tản cư” vào rẫy mía hay lên đọt dừa mà “đóng đô” trên đó, và chúng có tên chuột Mía, chuột dừa một cách vô tình, tụi tui phân biệt như vậy cũng có lý do riêng nghen. Chuột đồng thì thịt nó bùi, thơm. Chuột dừa, chuột mía thì thịt béo, ngọt đại khái là vậy…



Cũng có một loại chuột khác không sống trên ruộng hay trên cây mà chúng đào hang và cả gia đình 2-3 thế hệ chúng trú ngụ trong đó hết, tụi tui tạm gọi chúng là chuột đất cho nó rạch ròi với đám chuột kia.


Với chuột dừa thì tụi tui cử một đứa leo dừa thiệt giỏi để leo lên đọt dừa “sổ” dừa (sổ dừa là vệ sinh cây dừa cho sạch sẽ, gỡ bỏ yếm dừa, đạp bẹ, dọn dừa điếc…cho lứa sau cây dừa sẽ cho trái nhiều và đọt dừa không bị úng và không bị chuột đóng ổ trên đó nữa). khi sổ dừa nếu có chuột trên đó chúng sẽ bị động ổ và chạy ra ngoài, rồi chúng miết theo sống của tàu lá dừa mà thoát thân xuống đất. Cho nên tụi tui ở dưới đất cầm cấy và mũi chỉa chực sẳn, con nào nhảy xuống là xử liền, con nào chạy nhanh thoát được, chui vô hang vô hốc thì có con Phèn dí theo xử rồi…

Chuột đồng cũng thường đào hang rồi kéo cả dòng cả họ vào sống chung trong cái hang đó, cửa hang nhỏ xíu nhưng lòng hang bên trong thì rộng mênh mông, khi con Phèn phát hiện ra hang chuột, nó sủa um siêng lên và lao tới cào đất tưng bừng chổ đó, tụi tui cứ thế mà nhào tới lấy xẻng đào ngay chổ con chó phát hiện là trúng lớn, có khi gặp hang sâu, đào không xuể, nếu không mai bà Bảy Hổ ra thăm ruộng mà thấy tụi tui đào nát bờ đê của bả thì mấy thằng tui cũng no đòn luôn. Cho nên tụi tui phải lấy rơm đốt hun khói hoặc là xách nước đổ vô hang cho dòng họ nhà chuột ngộp khói, ngộp nước mà chun ra hết…



Còn cái thú khi bắt chuột trong hang là sẽ thu hoạch được “trọn gói” dòng họ chuột từ ông bà, cha mẹ đến cháu chắt…như thế này đây



Chuột “ông bà” thì làm món Xào lá cách: Chuột được thui bằng rơm, lột da và làm sạch. Chặt chuột từng miếng cỡ 2 ngón tay, đem ướp muối, đường và một ít nước màu. Đợi cho thịt chuột thấm gia vị, rồi phi tỏi bằm cho thơm, cho thịt chuột vô xào đến khi ráo nước, thịt chuột săn lại thì đổ lá cách đã xắt nhuyễn vào. Đảo đều cho lá cách xanh bóng mỡ rồi nhắc xuống. Lá cách là loại lá cây dại, vị đắng nhẫn nhẫn, mùi hăng, nhưng khi xào với thịt chuột lại không bị hăng đắng mà còn làm cho thịt chuột mềm, ngọt và thơm nức mũi. Là cách có tinh dầu nên dù món ăn có nguội vẫn không tanh, đó là món cơ bản của thịt chuột, nhưng ngày xưa tụi tui còn nhỏ làm gì biết chế biến bài bản như vậy, cũng chỉ biết nướng tại chổ mà thôi.

iêng mấy em chuột con còn đỏ hỏn thì chỉ có nước đem về nhà hấp cơm thôi…ở quê tui ngày xưa làm gì có nồi cơm điện, mẹ tui nấu cơm bằng củi. Sau khi cơm sôi, mẹ chắt bớt nước cơm ra, bắt đầu giai đoạn làm cho cơm chín bằng hơi thì lúc đó tui quăng mấy con chuột con vô, đậy vun lại, cơm chín thì chuột cũng chín… ăn cứ như là ăn hột vịt lộn nha… bá chấy luôn…



Lên Xì-gòn cả chục năm rồi, ăn nhiều món ngon vật lạ chốn đô thành, nhưng hương vị của những món ăn thời “ở truồng tắm mưa” ấy đã ăn sâu vào tiềm thức từng đứa tụi tui. Bây giờ những đứa nhóc chúng tui ngày đó dù có đi đâu, có trở thành bác sĩ kia, kỹ sư này, tiến sĩ nọ, thì hể cứ gặp mặt nhau là không thể nào không nhắc tới…và nếu có thấy tên những món ấy xuất hiện trên thực đơn của nhà hàng thì không ai bảo ai, chúng tôi đều không gọi món ấy ra ăn… bởi chúng tôi biết chắc một điều rằng, ăn ở nhà hàng sẽ không bao giờ ngon như thuở chúng tôi ăn ở bờ đê ruộng nhà bà Bảy Hổ ngày xưa được…


Bốc mả - món ăn đêm Hà Nội

Phở là món quà ngon đặc biệt của Hà Nội. Nhiều hàng phở ngon có khi chỉ bán nửa ngày, từ tinh mơ đến giữa trưa. Hoặc tình cờ mà người ta đổi ca thay kíp cho nhau, có nhà bán từ trưa đến xẩm tối, còn nhà khác lại bán từ chập choạng đến khuya, thật khuya phục vụ những chiếc dạ dày thích lang thang trong đêm Hà Nội, đi xem hát, xem phim suất chiếu cuối cùng hoặc vì một lý do nào đó người ta thích đi chơi khuya...

Những hàng phở bán đêm như thế không nhiều lắm nhưng bất cứ thời nào cũng có và góc này góc kia của đô thành, luôn tồn tại họ, tuy vậy, phần lớn không phải là những cửa hiệu nổi tiếng mà chỉ là những hàng phở loại trung bình nhỏ, vừa vừa, to hơn phở chõng, phở gánh chút ít.



Vào khuya, khi những chiếc xe tải xe ca đã chạy chuyến cuối cùng, khi con tàu vét đã nổi còi vào ga Hàng Cỏ, khi bến xe Kim Liên, Kim Mã đóng cửa, anh trật tự đeo băng đỏ đã về, tháo chiếc băng móc lên cái đinh trên tường… khi đèn đường đã lơ mơ ngái ngủ, nếu là mùa hè thì những bác cởi trần ngồi trên chiếu rải bờ hồ Gươm đã trở về mặc dù mồ hôi chưa ráo hẳn, còn mùa đông thì lá vàng rơi trong im lặng, cả anh hàng chí mà phù đã hết hàng, cô bán ngô nướng, khoai nướng nơi chân cột đèn cũng đã ngồi đếm tiền- chút tiền còm- bên chậu than hoa đã vạc màu tro xám trắng… và nhà ai ánh đèn xanh đèn hồng bật lên, tia sáng lọt qua khe cửa thành sợi chỉ nằm chéo mặt đường…mặc cho lữ khách, dạ khách hờ hững bước qua, còn trong ấy, nơi có ánh đèn, thiên đường hay địa ngục ra sao thì chỉ có trời đất biết...



Vào những giờ khắc huyền hoặc như có lại như không như thế, có nhiều người quan tâm đến một món quà lạ lùng, chỉ xuất hiện vào giờ khuya khoắt thế này, đó là món thứ phẩm của phở, món thật ngon của phở tạo ra và bỏ đi: Món “bốc mả”.



Hãy nói về chuyện bốc mả thông thường đã. Nước ta không có tục hoả táng, cũng không đào sâu chôn chặt mà thường người mất được đem chôn, sau ba năm cải táng, gọi là bốc mả. Chôn là hung táng, bốc mả là cát táng. Và ba năm mới là lúc người sống, lớp người sau làm tròn nghĩa vụ, nhiệm vụ với người đã chết, người lớp trước. Tục lệ này ngày nay đáng đem ra bàn thảo về văn minh, vệ sinh, kinh tế... Còn trước đến nay, ngay cả truyện Kiều cũng có câu:

“Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”

, nghĩa là ngôi mộ có cỏ xanh làm mái. Còn với người đàn bà goá bụa thì như Hồ Xuân Hương than thở:



Hăm bảy tháng trời đà mấy chốc


Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi...



Là sau khi bốc mộ, mới hết tang và được quyền đi bước nữa. Bốc mộ thường không là điều lành, nên theo phong tục, người ta thường tiến hành vào cuối năm, nhất là tháng chạp, để lỡ ra có gì không may mắn thì chỉ còn ít ngày là hết năm, nó sẽ qua mau, sang năm mới là bình an vô sự. Bốc mộ là đào mộ lên lấy hài cốt rửa sạch cho sang tiểu bằng sành và chôn vào huyệt mộ khác, nên nhân gian gọi là “Bới xương ăn thịt”, vì bốc mộ thế nào cũng có ít cỗ bàn cho con cháu họp mặt và những người giúp vào công việc ấy.



Món “bốc mả” có tên là thế vì sao? Vì khi ăn món này, ăn xương, nhai xương, mút xương là chủ yếu, chứ không phải ăn cỗ cho no, ăn thịt cho ngọt…Hàng phở đã bán đến bát cuối cùng, người phục vụ, cậu rửa bát thuê, cô dọn vệ sinh đã có phần mình, những bát phở tú hụ thay cho bữa cơm đêm để chuẩn bị ra về, nước dùng đã cạn, phải nghiêng đi mới múc mà chan được... Đây là lúc món “bốc mả” xuất hiện.



Từ một góc phố nào vài ba ông khách khật khưỡng đi đến, kéo cái ghế băng dài cũ kỹ, nhiều người có kiểu ngồi xổm, kiểu ở đây chấp nhận chứ ở trong phòng khách không chấp nhận. Khách quen chăng, quen lạ không quan trọng nhưng hình như chủ khách biết nhau. Ông chủ cửa hiệu phở, nắm lấy chiếc quai thùng, đổ thùng nước ra một cái rổ xảo to dùng, khách à lên một tiếng nhìn vào cái rổ đang bốc khói, một thứ khói sặc sụa, không cay mắt, cũng không thanh cảnh như khói cô hàng bún chả, mà là làn khói còn “âm vang” một mùi mằn mặn của xương thịt, của nước dùng, nước mắm, đã ninh nhừ suốt mấy chục tiếng đồng hồ trên lửa đỏ.



Trong cái rổ kia là ngon ngọt, là béo bùi, là mỡ ngậy, là bở tơi, là giòn rau ráu… Những khúc xương ống của con trâu con bò, những giẻ xương sườn to bằng chiếc lược nhựa, những chiếc xương bả vai hình chiếc quạt có khi lẫn lộn những khúc xương nho nhỏ, ngăn ngắn, đó là từng khúc đuôi bò đuôi trâu và có nó thì cái rổ kia càng quý, càng được nâng giá trị lên như cô gái nhà giàu lại quá đẹp và ngoan ngoãn. Hàng phở nổi tiếng mới có chiếc đuôi bò như thế, chiếc đuôi bò ấy hình như về cuối đời mình, vẫn cứ ve vẩy không phải để xua đàn ruồi muỗi quấy rầy mà do thói quen nó ve vẩy để nhớ cuộc đời, để toả chất ngọt ngon vào nồi nước dùng chăng, cho đến phút này nó mới im lặng để đi vào thanh thản cõi mênh mang của loài trâu bò chúng nó... Bên cạnh những thứ xương quen thuộc ấy, người ta cũng gặp cái xương cánh, xương chân gà, chiếc lồng ngực của con gà như đồ hàng mã, đan xong rồi chưa kịp phết hồ, bồi giấy, nên nó vẫn là cái lồng, đã mất cả tim gan mề phổi và tan hết chất ngon chất ngọt vào những bát phở suốt một ngày trong lò bát quái...



Cạnh đó còn có những củ hành tái đã nhuyễn, không thể ăn được, những tảng gừng không còn cay cũng hết thơm, nó nát theo vết dập của ông hàng phở và đang có mùi ngai ngái nồng nồng, chỉ còn một việc vứt nó sang bên.



Khách ngồi xổm, không cần bát đũa hay thìa, dù là đũa ngọc đũa ngà hay là đũa tre so le vênh váo. Đã có năm quân. Có nhiều khi nhiều món không thể ăn bằng bát đũa mà ngon, phải ăn bằng những dây thần kinh trên những ngón tay thẩm thấu qua da thịt mới là ngon, đó là ăn bốc. Sợi rau thơm, chiếc ngô nướng, củ khoai lùi, mảnh bánh đa... Đố ai ăn bằng đũa mà ngon. Món “bốc mả” cũng phải dùng tay, phải bốc một cách bỗ bã, hơi xuồng xã cũng không sao. Rồi đôi môi, hàm răng, con mắt cứ hau háu mà nhìn, vơ vơ mà gặm, mút chùn chụt, nhai chóp chép, nuốt ừng ực... Bốc thêm củ hành sống, cắn quả ớt mà xuýt xoa, rồi tợp chén rượu để khà lên những âm thanh khoái trá cho nó tăng vẻ đêm huyền đang lan toả trên thành phố…



Bánh phở đã hết, nước dùng cũng đã cạn, chỉ còn moi xương mà ăn mà gặm, bới cái rổ ra tìm cái gì đã nhừ tơi, đã biến thành món ăn khoái khẩu mà lúc khác hàm răng đành chịu thua xa.



Một rổ xương không hiểu đã vợi đi rồi hết lúc nào không biết, chỉ còn lại bên cạnh, nơi gầm ghế, chỗ hòn gạch xi măng một đống gì vùn vụn, có miếng dài miếng ngắn, lát nữa nếu chiếc chổi nhà hàng chưa đụng đến thì con mèo hoang con chó lạc ắt sẽ tìm đến…



Chai rượu cũng đã vợi đi, có khi nằm nghiêng vì hết sạch. Túm hành hoa biến mất, những quả ớt sừng châu đỏ thắm cũng đã vào vô định (vào bụng thì đúng hơn).


Ai là khách, là tri âm tri kỷ của món “bốc mả”?



Trước hết, ít khi người ta gặp các phu nhân mệnh phụ, những nữ trinh đài các hay tiểu thư trí thức. Hình như mảnh đất và hàng quà này không phải là nơi họ lui tới. Nơi hấp dẫn họ là hàng mỹ phẩm, hiệu thời trang, hàng làm đầu, nơi xăm mắt, xăm môi. Còn nơi này là dành riêng cho các đấng mày râu, loại người làm ra làm mà ăn cũng ra ăn. ít thấy các ngài mặc đồ lớn com lê, cà vạt chỉnh tề hay đi ôtô bóng loáng, đóng cửa đến xầm một cái... Ta hay gặp là mấy anh chàng lao động chân tay có, trí óc có, hơi ngà ngà một chút, thích làm bạn với ma men, ưa cảm giác lạ, được bà vợ dễ tính không cho vào khuôn phép nên giữa đêm vẫn còn có mặt trên đường phố, có khi còn đếm bước giày của mình mà vẫn lẩm bẩm hay ngâm nga một bài thơ, hát ỉ eo một bài ca đã xa xôi…



Họ cũng không phải là người đói, người khát. Họ tìm đến món “bốc mả” để vui thú cùng bạn bè, vui với chính mình, vui thú cùng đêm Hà Nội…



Cũng có khi là bác xích lô già, đạp xong chuyến khách cuối cùng, vừa gặp ông tầm quất mù nơi góc phố, trước khi về ngủ nhà với bà vợ già tao khang thì ghé vào đây cho quên sầu đời chốc lát, không hại gì cho ai mà cũng không mấy vơi đi thứ mồ hôi đổi thành giấy nằm trong túi áo.



Có lẽ chỉ có Hà Nội mới có những nhà bán món “bốc mả” về khuya như vậy, một thị tứ, thị trấn thì giờ này, giờ đầu tiên của ngày hôm sau, các căn phòng đã đi qua mấy giấc, hơn nữa nồi nước dùng phở nơi ấy cũng phải dẹp từ mấy giờ đồng hồ trước đó rồi. Hà Nội là đất của loài cò vạc, của làm đêm, chơi đêm, ăn đêm, mà món “bốc mả” chính là vừa ngon vừa lạ như thế.



Đích thị nó không là món sang trọng cũng không cầu kỳ không kén khách, không là diễn đàn đạo mạo và mô phạm. Nó có phần tất tưởi, lam lũ nhưng… nó có phẩm chất riêng, phải gặp nó đôi ba lần mới hiểu thế nào là món ăn đêm Hà Nội, món nhiều người không biết nếu cứ chỉnh chu nghiêm chỉnh về giờ giấc và về “cơm nhà”...

Sinh viên lùng sục khắp trường tìm sâu bọ để . . . ăn

Theo

tintuconline.vietnamnet.vn

- 1 năm trước

 Tay cầm con bọ nướng giòn nhai ngon lành, Đinh Ngọc xuýt xoa: “Ngon như thịt dê nướng vậy !”. Chàng tân sinh viên 18 tuổi của trường đại học Kỹ thuật Hoa Trung (Vũ Hán – Trung Quốc ) này ngày ngày đều lùng sục khắp sân trường để tìm sâu bọ, cào cào, dế, kiến… cho vào bụng.

Thấy các sinh viên khác nhìn mình kinh dị, Đinh Ngọc giải thích: “Quê tôi ở nông thôn tỉnh Hà Bắc. Nhiều người cũng bắt sâu bọ nhai ngấu nghiến. Bản thân tôi ăn sâu bọ từ lúc 12 tuổi, cảm thấy rất ngon như thịt bò, thịt dê, thịt gà, lại nhiều chất đạm. Khổ nỗi, ở trường đại học này ít sâu bọ quá!”.

Chính vì vậy, khi nhà trường cho tân sinh viên đi học quân sự, Đinh Ngọc vui khôn tả. Bãi đất trống tập quân sự đầy rẫy côn trùng, tha hồ cho anh “thưởng thức”.

Lúc đó, mỗi đêm Đinh Ngọc “tiêu thụ” ít nhất 20 con kiến và vài chú cào cào. Tính ra từ năm 12 tuổi đến nay, anh bỏ vào bụng khoảng 2.000 côn trùng các loại.

Theo lời Đinh Ngọc, ăn côn trùng phải có bí quyết, có nhiều loại nhai sống được, nhiều loại thì phải làm chín. Ví dụ, ăn kiến phải ngắt bỏ phần bụng vì phần này chua, ăn không ngon, còn sâu róm phải nướng lên mới béo và thơm ngon…

Jason Picard " Sống trên đời không ăn miếng dồi chó "

Khi một bạn Việt Nam đề nghị tôi viết bài về ẩm thực Việt Nam, thì tôi vẫn hồ nghi phần nào về khả năng của mình. Vâng, tôi đã ăn nhiều món ăn Việt và tôi cũng có những món khoái khẩu, nhưng tôi là một người đàn ông sống một mình ở Hà Nội và tôi chưa bao giờ nấu được món ăn Việt Nam nào đáng kể cả. Thế nhưng, tôi đã bắt đầu suy nghĩ về những năm tháng sống ở Việt Nam, từ cái món đầu tiên là canh chua cá lóc ăn ở Tây Ninh gần 7 năm trước cho đến bát bún riêu, ốc, cua vừa ăn sáng nay và cái vị mắm tôm vẫn vương vất nơi sống mũi.Có thể tôi là người biết nhiều hơn về ẩm thực Việt Nam so với đa số người nước ngoài sống ở đây. Và thậm chí so với một số người Việt thì hiểu biết của tôi về ẩm thực cũng khá đa dạng, do tôi đã sống ở cả hai miền Việt Nam (hơn nữa ở hai vùng rất khác nhau) là Hà Nội và Tây Ninh. 



Tôi đã có cơ hội ăn thử cơm nấu của mấy trăm, thậm chí có thể của mấy nghìn đôi tay (cách diễn đạt của người Mỹ mà) theo một số kiểu chính. Và hơn thế nữa, người Việt Nam thường muốn tìm hiểu cách nhìn của người nước ngoài đối với văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ và ẩm thực của xứ sở mình.Ðầu tiên, có lẽ tốt nhất là bạn biết một chút thông tin về tôi: tôi thích ăn lắm. Và vì tôi là người Mỹ, sinh ra ở một đất nước thường được người ta mô tả như một nơi hỗn cư lớn của những người thuộc các dân tộc và các quốc tịch khác nhau (bằng tiếng Anh gọi là nồi hầm nhừ “melting pot” hoặc “bát rau ghém “salat bowl”) nên tôi rất may mắn có điều kiện được tiếp xúc với ẩm thực của nhiều dân tộc trên toàn cầu từ hồi nhỏ. Nga, Pháp, Mêhicô, Brazil, Êtiôpia, Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Ðộ v.v. Tôi còn nhớ lần đầu tiên bố mẹ đưa tôi đi ăn cơm Nhật Bản. Lúc ấy tôi mới lên 4 và cố gắng ăn cơm với đôi đũa…



Khỏi cần phải nói về cái lần đầu tiên ấy lạ lẫm đến thế nào khi tôi làm rơi tất cả xuống đất: từ đũa, từ bát đến cơm và cái sự vụng về đó khiến khách ăn trong nhà hàng nhìn thấy lấy làm thích thú, nhưng lại làm cho tôi bực mình lắm. Tuy nhiên, từ bữa cơm đó cách đây hơn một phần tư thế kỷ, cơm Phương Ðông đã thành lối ẩm thực mà tôi không thể thiếu. Biết bao nhiêu bạn bè Việt Nam thực sự ngạc nhiên khi thấy một người Mỹ như tôi lúc ăn cơm Việt Nam không những không hề khó khăn chút nào, mà còn là điều mang lại niềm vui cho tôi nữa!Nhưng “sống trên đời ăn miếng dồi chó”, người Việt bảo nhau thế. Và tôi xin kể bạn nghe tôi đã ăn món “mộc tồn” này thế nào. Năm 1997 tôi đến sống ở Việt Nam lần đầu tiên. Lúc ấy tôi chưa hề nói được một từ một chữ tiếng Việt nào. Một buổi chiều, sau khi tôi mới chỉ ở Hà Nội được 10 ngày, tôi quyết định đi xe đạp ra ngoại thành để tập thể dục và ngắm phong cảnh. Sau 90 phút đạp xe lang thang, tôi thấy đói bụng và muốn nghỉ mát một chút. Tôi rẽ vào một quán bình dân trông như một cái lều. Trong quán đã có kê những bộ bàn ghế nhỏ. Tôi thấy có 7 người đàn ông đang ngồi uống rượu, họ vừa ăn, vừa trò chuyện, cười rôm rả. Ngay khi tôi bước vào, tất cả mọi sự dường như đều dừng lại. Bảy đôi mắt nhìn chằm chằm vào tôi như một kẻ vừa từ hành tinh khác đến đây. Có lẽ do thấy cả quán bất ngờ trở nên im lặng nên bà chủ quán chạy ra khỏi bếp. Bà há hốc miệng khiến hàm răng dường như sắp rơi xuống đất.Lúc này tôi có thể làm cái gì đây? Hay là tôi quay lưng và bỏ đi chăng? Như vậy thì mọi thứ cùng những con người này được trở lại bình thường? Nếu tôi không bước vào thì mọi thứ hoặc cuộc trò chuyện của họ sẽ vẫn diễn ra như đang diễn ra. Nhưng mà không, tôi vốn là người kiêu hãnh và kiên quyết trong những tình huống tương tự. 



Tôi đã ngồi xuống chiếc bàn ngay cạnh bức tường. Khi nhận ra rằng tôi không định đi, bà chủ quán miễn cưỡng đến bên bàn tôi. Cả hai người, tôi và bà ấy đều không có khả năng nói một lời nào để giao tiếp với nhau được. Bởi vậy tôi buộc lòng chỉ tay tới mấy cái bàn với những người đàn ông kia đang ngồi như muốn nói: “tôi cũng sẽ ăn cũng những thứ như họ”. Bà chủ quán nhìn tôi vẻ lưỡng lự, rồi bà quay sang nói điều gì mà tôi không hiểu với mấy ông thực khách, họ bật cười đồng thanh, sau đó bà ấy vào bếp. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh, nở một nụ cười trên mặt, nhưng mà chắc chắn cả quán biết tôi đang bối rối, vì 7 người đàn ông đều quan sát tôi như đang theo dõi một sinh vật lạ lùng, phi thường gì đó.Năm phút sau bà ấy khệ nệ bước ra với một chiếc mâm. Trên mâm này có rau, bún, thịt và một thứ bột loãng màu tím, và chai rượu. Tôi không hề biết thứ thịt này cùng loại bột tím loãng ấy. Dĩ nhiên, về sau tôi mới biết rằng thứ nước bột màu tím kia là mắm tôm, và như thành ngữ nói “nhăn như khỉ gặp mắm tôm”, thì tôi ngay lúc đó cũng có cử chỉ tương tự khi cái mùi ấy qua mũi tôi, thứ mùi khiến cho tâm trí tôi đảo lộn. Nhưng mà lúc đấy có 8 người, 7 đàn ông và một đàn bà đang xem xét theo dõi tất cả mọi hành động, cử chỉ của tôi, một cảnh trí chưa từng thấy ở đây, cho nên tôi nghĩ tôi phải ăn, không thể tránh né được.



Lúc đầu, tôi ăn thử một miếng thịt luộc mà không chấm gì cả. Ngay khi lưỡi tôi chạm tới miếng thịt thì tôi biết bữa ăn này sẽ rất khó khăn với tôi, cái vị này thật là “vô tiền khoáng hậu” và thực ra, tôi không thích lắm. Khi đang nhai, tôi cảm thấy nóng mặt và có lẽ đôi má tôi đỏ lựng như hai quả bồ quân. Ô trời ơi, tôi đã làm gì thế này?Nhìn thấy tôi vụng về với bữa ăn này nên hai người đàn ông rời bàn ăn của họ đến bàn tôi và ngồi xuống với tôi. Họ chỉ dẫn cách ăn đúng là như thế nào. Làm theo những chỉ dẫn của hai người bạn mới, tôi liền nói “cảm ơn”, hai từ tiếng Việt duy nhất. Tôi gắp bún, rau, thịt và mắm tôm vào bát của tôi. Bất ngờ, tôi không những thấy mắm tôm chẳng khó ăn mà còn làm cho miếng thịt bí ẩn này đưa được vào miệng tôi.Hai người bạn mới rót rượu vào chén của tôi. Họ bắt đầu dạy cho tôi những từ tiếng Việt mà tôi ghi ngay vào sổ tay. Có thể nói rằng buổi chiều đó là buổi học tiếng Việt đầu tiên của tôi. Hai người bạn này tên là Long và Tuấn. Tôi học những từ như “rượu”, “mắm tôm”, “bàn”, “ghế”, “đũa” v.v. Trong vốn từ vựng mới ấy, tôi cũng ghi từ “thịt chó”. Tôi đã hiểu đây là một loại thịt nhưng mà là của con gì?Sau gần hai tiếng đồng hồ, đã đến lúc tôi đã phải xin phép ra về. Tôi thanh toán tiền nhưng hai “thầy giáo” của tôi không hề muốn nghe. Tôi nói “cảm ơn” biết bao nhiêu lần vì không biết làm thế nào khác. Tôi ra khỏi quán, cảm thấy hài lòng vì sự trải nghiệm “khác thường” vừa qua tôi, và đạp xe về Hà Nội.



Khi về tới ký túc xá ở Ðại học Bách Khoa, tôi lập tức lên phòng cô bạn thân, cô ấy là Việt kiều, và kể chuyện về những gì tôi vừa nếm trải. Rốt cuộc, tôi nói “nhưng tôi không biết thứ thịt này là thứ thịt gì?”. Tôi cho cô ấy xem quyển sổ tay. Cô ấy thốt lên tiếng cười thật to: “Trời ơi, anh đã ăn thịt chó (dog meat) rồi!”.Tôi đứng lặng người, không nói được gì. Tôi như người ngơ ngẩn khi nghe thấy hai từ “thịt chó” cô bạn vừa nói. Trời ơi, gia đình tôi có một con chó, gần gũi như thành viên trong nhà. Mẹ của tôi sẽ nghĩ thế nào đây khi biết chuyện này. Tôi bỗng thấy nôn nao, bụng cồn cào như sắp nôn ọe. Tôi lao vào phòng vệ sinh nhưng không kịp…“Con đã ăn cái gì?!” mẹ tôi hét lên. Ðó là lúc tôi mới về nhà sau hơn một năm ở Việt Nam và kể cho bố mẹ tôi hay chuyện lần đầu tiên tôi gặp và ăn thịt chó. Mẹ tôi đang ngồi trên sàn nhà ngay cạnh con chó nhà tôi, nó tên là KC. Mẹ và con KC đã nhìn tôi với vẻ mặt như dành cho một kẻ sát nhân… vẻ mặt khiếp sợ và ghê gớm. Sau một giây phút bối rối, mẹ tôi bảo tôi với giọng kiên quyết: “Jason, con lại đây và xin lỗi con KC ngay đi…”.Từ cái ngày cách đây gần 7 năm ấy cho tới nay, tôi đã ăn thịt chó nhiều lần. Dĩ nhiên, tôi không nhắc tới việc này với bà mẹ tôi), và tôi vẫn không thích món đó lắm. Tôi chỉ ăn thịt chó để bạn bè tôi vui mà thôi. Có thể, lần ăn thịt chó đầu tiên ấy đã trở thành một ký ức lâu dài. Những lần ăn về sau đó đã tiếp tục, nhưng không còn dư vị đặc biệt như lần ấy: Không phải vì tôi thích ăn thịt chó (tôi nghi ngờ liệu có lúc nào đó trong tương lai tôi sẽ thích được thịt chó hay không); mà đơn giản chỉ là sự cả nể vì tình cảm bạn hữu tình, hữu nghị. Ðấy là những khi ngồi chia sẻ với bạn bè, vừa nhấm nháp cái vị lạ lùng của thứ thực phẩm phương đông, vừa tâm sự, cởi mở tấm lòng…



Jason Picard 





“Sống trên đời không ăn miếng dồi chó"

“Sống trên đời không ăn miếng dồi chó


Chết xuống âm phủ biết có hay không”

Có lẽ tự cổ chí kim trong kho tàng ẩm thực Việt chưa có món ăn nào được giới thiệu "bạt mạng" như vậy. 



Trong khi đó một nhà báo Mỹ nổi tiếng là Patrica Schultz trong tác phẩm 1.000 place to see before you die (1.000 nơi bạn cần đến trước khi chết), thì mãi đến thế kỷ 21 mới có kiểu nói ca ngợi cái thú vui đi “ăn, chơi" trước khi bạn nhắm mắt, mà phải tới 1.000 địa chỉ với biết bao nhiêu điều thú vị cần tìm hiểu. Trong khi đó ông cha ta cô đúc lại chỉ còn một món dồi chó duy nhất mà thôi cũng đã đủ để khuyên bạn thử qua trước khi chỉ còn hưởng khói hương.Nhưng miếng dồi chó có đúng là ngon đến độ chưa ăn được quả là uổng phí cả đời hay không? Thật tình mà nói bây giờ, đến các nơi bán thịt chó phổ biến, kể cả lừng danh ở Sài Gòn, sau những hăm hở để ăn miếng dồi chó đã được "phong tước" trong nền văn hoá ẩm thực Việt, thì hỡi ôi, miếng dồi chó tuyệt chiêu trong ca dao tục ngữ của ông bà nhắn nhủ đã chỉ còn là một "hình tượng" văn học. Dồi chó ở Sài Gòn phải nói là một trong những món đệ nhứt dở trong các món chó.Và đám hậu sinh đâm ra ngờ vực “cái sự bác Ba Phi” trong câu ca dao kia. Tuy nhiên, sau khi chúng tôi gặp một cây đa, cây đề trong làng bếp là bác Bảy Hồng thì quả là món dồi chó danh bất hư truyền.Một món dồi chó đúng nghĩa phải do một đại cao thủ "DJ" (Disc jockey, người phối trộn âm nhạc) phối vài chục món trong nó. Hạt thì phải có đậu xanh, đậu nành, hạt điều, nếp. Lá thơm thì phải có lá mơ, lá chanh, lá gừng, lá sung, búp ổi, húng lủi. Gia vị thì phải đủ sả, tỏi, củ riềng, mắm tôm, mẻ. Nguyên liệu chính là thịt thì phải có thịt chó, thịt heo, gan chó, óc heo, mỡ gáy heo…Với bao nhiêu thứ nguyên liệu như vậy để chế biến món dồi chó thì rõ là quá công phu cho một món ăn. Đầu tiên đồ xôi nếp lên cho chín rồi dùng chày giã nhuyễn với đậu nành và hạt điều để sang một bên. Sau đó băm thịt chó, thịt heo vừa nhuyễn vì quá mịn sẽ mất vị thịt. Gan là thứ quý nhất trong chó cũng được băm vừa phải trộn chung với óc heo, độ béo của hai thứ này sẽ “bọc lót” cho nhau tạo nên vị béo đầy đặn, tròn trịa nhất. Cũng như thịt chó phải có chút thịt heo mới đủ tầng độ ngọt của chất thịt. Và sau cùng là mỡ gáy heo cũng được băm và cho vào; mỡ gáy heo có công dụng rất tuyệt vời là khi chiên hoặc nướng sẽ nở phồng làm tăng độ giòn, vị béo, sự mượt mà của món ăn.Tất cả các món trên được nêm các loại gia vị, cho tiết vào và bóp đều với xôi nếp đã giã nhuyễn. Nhờ chất nhựa của nếp mà các thức trên càng nhồi càng liền lạc với nhau. Tiếp theo đó cho các loại lá thơm cắt nhỏ và đậu xanh hạt vào trộn đều. Xem ra với những nguyên liệu trên phối với nhau làm món dồi chó có vẻ hơi bị ngán vì hơi nhiều chất béo của động vật lẫn thực vật. Nhưng nếu để ý ngoài những gia vị, thì các loại rau thơm cho vào dồi có công dụng làm cho dồi chó có mùi thơm đặc trưng và hãm béo. Các loại búp ổi, lá sung với chất chát của nó đã được ông bà ta tính toán cho vào trong dồi để khử bớt vị ngậy của các chất béo. Còn lá mơ thì đương nhiên phải có vì đây là thứ lá thơm “chuyên trị” của thịt chó. Nhưng lá mơ trong dồi chó lại được hỗ trợ bởi lá riềng, lá gừng và lá chanh vừa tăng hương vị, vừa khử mùi tanh và bảo đảm ấm bụng. Sau khi các nguyên liệu đã trộn đều mới đem nhồi vào ruột và hấp vừa chín, sau đó đem nướng.Nhìn miếng dồi ngả màu cánh gián, bóng mượt thì có thể biết tay nghề của người nấu đã đạt đến thập thành thượng thừa hay chưa. Vì dồi nướng thiếu lửa không dậy mùi, còn quá lửa thì khô rốc, ăn xảm. Quan trọng trong lúc nướng là phải xối nước mỡ chó phi tỏi vàng ánh, dằn chút riềng, mẻ và mắm tôm. Dồi vừa nướng tới đâu vừa phết hỗn hợp nước mỡ tới đó. Thịt chó ngon đặc biệt ở chỗ mỡ chó hiếm khi nào bị khét nên vừa nướng vừa phết mỡ thì bảo đảm miếng dồi không khét và càng thơm. Nói như bác Hồng là mùi thơm của dồi chó khi nướng bay xa cả cây số còn ngửi thấy.Đến đây kể như đã xong. Chỉ còn chấm dồi vào mắm tôm là có món ăn để vội vã ăn kẻo nếu một mai có qua đời... Nhưng đã tạo ra "rồng" mà nước chấm không vào hàng "phượng" mà chỉ là "gà" coi như hỏng bét! Nước chấm cho món ăn trong ẩm thực Việt thường là một trong những yếu tố quyết định độ thăng hoa của một món ăn. Trong chén nước chấm món dồi chó cũng phải đủ vị của mắm tôm, riềng, mẻ, gan chó, óc heo và rau húng lủi băm nhỏ thì mới là thứ nước chấm độc đáo dẫn cho món dồi chó trở thành đệ nhất mỹ thực để vào ca dao Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: