Chiếc thuyền số 1: Bộ lịch thiếu hoàn hảo
Trưởng phòng của Phùng là người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến đến cái mức có khi Phùng và đồng nghiệp trong cơ quan phát mệt vì anh.
Trước đây chừng dăm tháng, để chuẩn bị cho tấm lịch năm sau, anh tỏ ý không bằng lòng với cách làm ăn từ trước tới giờ.
– Sang năm, chúng ta sẽ đem đến cho mỗi gia đình một bộ sưu tập chuyên đề về thuyền và biển. – Anh nói quả quyết – Thôi, bỏ cái lối mỗi thứ một tí đi. Phải có một bộ sưu tập chuyên đề. Mười hai tháng là mười hai bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển. Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật.
Họ xách máy lên đường, suy nghĩ, chọn cảnh, bấm máy suốt năm tháng.
Và tất cả những gì thu được bằng ánh sáng đen trắng trên giấy ảnh đang được bày ra la liệt trên hai chiếc bàn ghép lại, và quả tình lúc đó Phùng đã lấy làm bằng lòng lắm, đoán chắc không còn phải xách máy đi chụp bổ sung như mọi năm nữa.
Làn khói thuốc lá cuộn phun ra mù mịt trước cặp mắt đầy tinh khôn của trưởng phòng đang nheo lại sau mắt kính lão.
Đột nhiên trưởng phòng quay sang phía Phùng hỏi:
– Bây giờ đã là tháng mấy nhỉ?
– Tháng bảy. – Phùng đáp với một vẻ dè chừng.
– Tháng này ở biển vẫn còn sương chứ?
– Chỉ có bão táp với biển động. Muốn lấy sương thì phải nghĩ đến từ tháng ba cơ.
- Này anh Phùng – trưởng phòng dường như đã nhìn thấy rõ mọi ý nghĩ ngần ngại của Phùng, cho nên trưởng phòng vừa nói vừa nhăn nhó cái mặt lộ vẻ đau khổ – tôi cho anh một tháng, một tháng là đủ chứ gì?... Anh giúp tôi thêm một cảnh buổi sáng có sương đi.
– Trời ơi, – Phùng nhặt một bức ảnh ngay trong tầm tay – với hàng trăm bức ảnh đẹp, chụp công phu thế này mà an-...
– Đẹp thì đẹp thực – trưởng phòng cướp lời – và nhất là lại có hồn nữa. Đúng là những bức ảnh nghệ thuật. Nói thực tình năm nay các anh đi về, khác với những năm khác, tấm nào ít nhiều tôi cũng thích. Nhưng không thể chọn đủ cho mười hai tháng, vẫn đang còn thiếu một tờ.
Ở đời cái gì cũng thế, con người bản tính vốn lười biếng, đôi khi mình hãy cứ để cho mình rơi vào hoàn cảnh bị ép buộc phải làm, không khéo lại làm được một cái gì.
Năm ngày sau.
Phùng đã có mặt ở một vùng biển cách Hà Nội ngoài sáu trăm cây số.
Anh vác máy tới một dải bờ cát nằm "phục kích" thiên nhiên ở cái khoảng giao điểm ngày vừa rạng, đêm chưa tắt hẳn, bấy giờ cũng là lúc những chiếc thuyền đánh cá bằng vó bè hiện ra trong khoảng mờ tỏ của bình minh.
Thực ra đi chuyến này Phùng có ý muốn trở về thăm một vùng chiến trường cũ, nơi có một người bạn vừa là đồng hương, vừa là đồng đội đã từng mười năm ở với anh trên rừng A So, trước đây là một trung đội phó bộ binh nổi tiếng hay đùa tếu.
Bây giờ, ở ngay cái vùng biển ấy, người đồng đội đang làm một thứ công tác mà Phùng cho là... nghiêm túc đến mức chẳng ai có thể tưởng tượng, chính người đó lại có thể làm nổi, mà trong thực tế người đó đã làm hai ba năm nay chứ không ít.
Cuộc đời họ, cái đám lính của một thời chống Mỹ, từ sau bảy nhăm thật chẳng ít chuyện trớ trêu và bất ngờ.
Thật ra ở đấy chưa phải là biển mà mới chỉ là một vùng phá ăn sâu vào đất liền, chạy quanh quất như chơi trò trốn tìm giữa các thôn, ổ, chợ búa trong một phạm vi hàng mấy chục cây số.
Chẳng phải nói, cái vùng nước mà Phùng vừa mới vác máy ảnh đến để chụp bổ sung cho bộ sưu tập thật là thơ mộng, và nhất là dường như trong suốt dải bờ biển của khắp cả nước, chỉ ở đây vào giữa tháng bảy là còn sương mù.
Nơi đây, nếu bỏ ra ngoài tầm mắt những bãi xe tăng vứt lại hồi "tháng ba bẩy nhăm" (bây giờ sau gần mười năm, đã bị hơi nước mặn gặm mòn và làm cho sét gỉ), vùng phá nước có một cái gì đấy thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu đang ấp vào tâm hồn anh.
Anh trở nên ngây ngất vào mỗi buổi sáng, bầu trời không xanh biếc, cao thăm thẳm mà đượm một sắc giữa xanh và xám, bầu trời như hạ thấp xuống và như ngưng đọng lại; giữa trời và nước ấy chỉ có một chiếc thuyền của một gia đình làm nghề vó bè đang tỏa khói bếp giữa phá – chiếc thuyền đứng im như làm bằng các-tông dán vào cảnh vật êm ả.
Hai ngày đầu, suýt nữa Phùng đã quyết định đưa vào tờ lịch tháng bảy khung cảnh người ta đẩy một chiếc thuyền xuống nước.
Đó là một chiếc thuyền mới đóng xong vẫn còn thơm mùi gỗ lẫn mùi dầu rái.
Anh đã chọn được một thằng bé khoảng lên năm có đầy đủ ngoại hình con trai một nhà hàng chài, lại có cặp mắt thật đen gợi cho anh nghĩ đến con mắt người ta vẽ trên đầu mũi thuyền, thằng bé đánh trần, lội ra đứng giữa những lượn sóng bạc đầu giang tay vứt một nắm phoi bào ra thật xa.
Trong khi đó, ở trên bờ, bố mẹ nó và những người lớn đứng xếp hàng dọc ghé vai vào hai bên mạn chiếc thuyền mới.
Anh chỉ cần chụp đặc tả những chiếc vai trần của ngư phủ cùng với một hàng bàn chân to bè của họ dậm lún vào cát.
Nhưng Phùng vội thôi ngay cảnh đẩy thuyền đầy không khí vui nhộn hơi thô lỗ và thật hùng tráng.
Thất bại thấy trước là anh đã không làm sao thu được vào ống kính khoảnh khắc chiếc thuyền đập mình xuống nước làm vỡ tung toé từng đám bọt sóng trắng xoá.
Anh cũng quyết định thôi không lấy cảnh sương và cát như trưởng phòng ở nhà đã gợi ý, mặc dầu có những đêm thật lý thú, anh ra ngủ ngay giữa bãi cát ven bờ phá, theo lời rủ rê của một thằng bé mặt mũi xấu xí nhưng có một trí nhớ khác thường, quần áo dính đầy nhựa cây, nó là đứa cháu ngoại của một ông lão làm nghề sơn tràng ở tận trên miền rừng A So, hai ông cháu lái một chiếc xe Reo của gia đình chở gỗ về bán cho xưởng đóng thuyền.
Trong những đêm như thế, thằng nhóc tận trên rừng xuống và anh như hai nhà hiền triết nằm kê đầu trên mười ngón tay đan vào nhau, nằm ngửa sóng đôi bên nhau, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng mờ trắng của sương đêm, cùng hồi hộp chờ một tiếng vạc rất nhỏ kêu thảng thốt trong bầu sương tít trên cao, nghe như vọng về từ một thời hồng hoang nào đó, cái thời chung quanh vùng biển này chỉ có lau lách và tiếng sóng vỗ, chưa có người.
Thế rồi cuối cùng, tìm đi kiếm lại, vác máy ảnh tha thẩn suốt một tuần lễ, Phùng quyết định thu vào tờ lịch tháng bảy của năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc nhập nhoạng sáng.
Ai đã cầm máy ảnh có kinh nghiệm đều biết đó là một cảnh chết cháy – một đề tài đã có quá nhiều người khai thác, đã từng để lại những bức ảnh thật đẹp, đầy chất thơ của những người cầm máy ảnh có tên tuổi.
Cái gì đã xui khiến Phùng tự thách thức bằng cái việc mạo hiểm ấy?
Có lẽ trước hết, không phải do sự hấp dẫn của hình ảnh mà chính là những tiếng động đầy vẻ náo nhiệt ở cách xa hàng cây số cũng nghe tiếng của một nhóm thuyền đánh cá đêm bằng vó bè.
Anh chỉ được nghe cái âm thanh của sự làm ăn có cái gì như ma quái ấy vào những đêm thật tối trời và chỉ được nghe thấy vào quãng gần sáng, vào lúc mà Phác – thằng bé từ trên rừng "hạ sơn" xuống đã nép vào sườn anh ngủ say như chết sau khi nó cặn kẽ giải thích cho anh nghe cuộc sống của những giống chim trên rừng, trước mùa thu, trước mùa giá rét rất lâu, chúng đã nháo nhác rời tổ xây trên các lùm cây dẻ um tùm để làm những cuộc di cư.
Không phải ngay trong mấy ngày đầu mới đến mà về sau, khi đã chụp trọn gần một cuốn phim, Phùng mới có dịp hiểu đôi chút về cách làm ăn lâu đời của những "tổ hợp tác" gồm những chiếc thuyền đánh cá không có bến này.
Bao giờ họ cũng chỉ liên kết với nhau chỉ trong một đêm hoặc một ngày chứ không lâu.
Thường thường mỗi thuyền là một gia đình, ngoài thuyền lớn còn vài chiếc mủng để đi lại.
Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông.
Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền.
Xóm giềng không có.
Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com