Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

5. Nhành quả mỏng mảnh

Đa-ni-lô và Kachia – cái cô gái đã giành lại được chồng chưa cưới của mình từ tay Bà Chủ Núi Đồng ấy mà – có khá đông con cái. Tám đứa cả thảy mà lại toàn là con trai. Biết bao lần bà mẹ than thở, giá mình có một đứa con gái để nâng niu cho thỏa lòng. Còn người cha chỉ cười ha hả:

- Chắc số mình như vậy.

Các chú bé lớn khẻo mạnh, chỉ có một đứa không may. Chẳng hiểu vì ngã trên thềm nhà hay từ đâu xuống mà thành ra mang tật, ở lưng mọc ra một cái bướu. Các thầy lang đã chạy chữa nhưng không khỏi, thành thử chú bé phải chịu gù cả đời.

Gặp cảnh như vậy, các đứa trẻ khác thường trở nên độc ác, nhưng chú bé này thì không. Chẳng những tính tình vui vẻ mà lại còn luôn luôn là đầu trò trong mọi chuyện, chú là con thứ ba trong nhà vậy mà các anh em rất chịu hỏi và nghe chú:

- Mi-chi-a! Em nghĩ sao? Anh Mi-chi-a, thế này là thế nào?

Cả cha mẹ cũng thường gọi:

- Mi-chi-un-ca! Xem này! Con thấy được chưa?

- Mi-chi-ai-cô, có thấy mẹ xếp cái guồng đánh sợi vào đâu không?

Mi-chi-un-ca còn có tài thổi tù và y như cha hồi còn trẻ. Chú làm lấy một chiếc kèn và dường như nó tự ca hát khi nằm trong tay chú.

Đa-ni-lô kiếm được kha nhiều tiền bằng nghề đánh đá, Kachia cũng chẳng chịu ngồi không, cho nên gia đình ngày càng khấm khá, không đến nỗi phải vay mượn hàng xóm. Quần áo của các con cũng được Kachia lo lắng chu đáo, đứa nào cũng tươn tất, đủ cả giầy, mũ lông, áo ấm. Mùa hè thì tất nhiên là đi tất cũng xong, da chân của mình mà, đâu có mất tiền mua. Riêng Mi-chi-un-ca là đứa bị thiệt thòi nhiều nhất nên được thêm đôi ủng da. Các anh trai của chú không lấy thế làm ghen tức, còn mấy đứa em thì nhắc mẹ:

- Mẹ ơi, có lẽ phải sắm cho anh Mi-chi-a đôi ủng mới thôi. Xem kìa, anh ấy xỏ không được nữa rồi, còn chân con thì vừa như in.

Mấy đứa trẻ láu lỉnh chỉ mong làm sao được thừa hưởng đôi ủng của anh. Cứ như vậy, cuộc sống trong gia đình trôi đi êm ả, hoà thuận. Hàng xóm cũng phải ngạc nhiên.

- Mấy đứa trẻ nhà Ca-tê-ri-na lạ thật! Chẳng thấy chúng nó cãi lộn nhau bao giờ.

Sở dĩ như vậy là nhờ ở Mi-chi-un-ca. Trong gia đình, chú bé giống như đốm lửa nhỏ trong rừng. Đùa rỡn với người này, an ủi người kia, khuyên giải người nọ.

Đa-ni-lô không chịu cho các con sớm theo nghề của mình. Bác nói:

- Cứ để chúng nó lớn hẳn lên đã. Gì chứ hít bụi đá thì còn kịp chán.

Kachia hoàn toàn đồng ý với chồng – theo học nghề làm đá còn quá sớm đối với lũ trẻ. Hơn thế nữa, bác còn lo đưa chúng đi học cho biết số biết chữ. Khi đó, trường học còn chưa có và mấy đứa lớn được sẫn tới nhà bà giáo làng. Mi-chi-un-ca cũng đi theo. Mấy đứa trẻ nhà Đa-ni-lô đều sáng dạ và được bà giáo khen. Riêng Mi-chi-un-ca thì thật là xuất chúng. Thời ấy, cách dạy dỗ đâu có dễ hiểu như bây giờ, vậy mà chú bé vẫn học rất nhanh. Bà giáo mới vừa nói xong thì chú đã nghĩ ra. Các anh còn đang ghép vần thì chú đã bắt đầu đọc. Bà giáo nhiều lần nói với mọi người:

- Tôi chưa bao giờ có đứa học trò thông minh như vậy.

Nghe thấy thế, cha mẹ Mi-chi-un-ca rất lấy làm hãnh diện và sắm cho chú đôi ủng da mới đẹp hơn. Nhưng chính vì đôi ủng da đó mà cuộc sống gia đình hoàn toàn bị đảo lộn.

Trong năm ấy, tên Chúa đất quay về sống ở làng. Hẳn là hắn đã tiêu xài hết sạch tiền ở Xanh Pê téc bua nên tìm về làng xem có vơ vét thêm được chút nào không. Với nghề nghiệp của dân làng có khó gì đâu mà chẳng tìm ra tiền, chỉ cần khôn khéo một chút là được. Riêng phần bọn quản lý và cai ăn cắp đã bao nhiêu rồi. Nhưng Chúa đất nào có biết chuyện đó.

Một lần, đang đi xe qua đường làng, hắn nhình thấy ba đứa trẻ chơi đùa cạnh một ngôi nhà và cả ba đứa đều đi ủng. Chúa đất vẫy tay gọi chúng lại.

Trước đó, Mi-chi-un-ca chưa bao giờ gặp Chúa đất nhưng chú đoán ra ngay được khi thấy chiếc xe láng bóng với cặp ngựa nòi, người đánh xe mặc đồng phục, còn ngồi trên xe là một người to lớn, mập đến mức không muốn cựa quậy, tay cầm chiếc ba-toong cán bịt vàng gác ngang trên cái bụng đầy mỡ.

Mi-chi-un-ca thấy sờ sợ nhưng vẫn nắm tay hai em trai và dẫn lại gần xe. Tên Chúa đất rít lên bằng giọng khàn khàn:

- Chúng mày con cái nhà ai?

Mi-chi-un-ca bình tĩnh trả lời:

- Chúng cháu là con của bác Đa-ni-lô thợ đá. Cháu là Mi-tơ-ri, còn đây là hai em cháu.

Nghe thấy vậy, mặc Chúa đất sạm hẳn lại, hắn tức giận đến nõi suýt nữa thì nghẹt thở, miệng rên rỉ:

- Ối chao ơi! Thê này thì còn trời đất nào nữa! Ối chao ơi!

Sau đó, lấy lại hơi thở, hắn gầm lên như một con gấu:

- Cái gì đây, hả?

Cây gậy trong tay hắn chỉ thẳng vào chân ba đứa trẻ. Hai đứa bé sợ quá chạy thẳng vào nhà, còn Mi-chi-un-ca đứng ngây ra, không sao hiểu nổi Chúa đất muốn hỏi chú điều gì.

Tên Chúa đất vẫn tiếp tục gào thét như một thằng khùng:

- Cái gì đây?

Mi-chi-un-ca sợ hãi, không biết nghĩ sao, đành nói:

- Đất.

Chúa đất rên lên như bị bóp cổ:

- Ôi … ôi… ôi… Thật đến thế này là cùng! Thật đến thế này là cùng! Ôi…ôi… ôi…

Lúc đó, bác Đa-ni-lô từ trong nhà chạy ra, nhưng Chúa đất không thèm nói nửa lời với bác. Hắn gõ cán ba-toong vào cổ người đánh xe ra lệnh đi về.

Tên Chúa đất vốn là kẻ không bình thường. Từ khi còn trẻ, hắn đã vậy và đến lúc về già lại càng ngớ ngẩn thêm. Hắn có thể làm tình làm tội người ta mà sau đó không giải thích được là hắn muốn gì. Đa-ni-lô và Kachia cũng nghĩ rằng mọi chuyện rồi sẽ qua, có thể hắn sẽ quên ngay mấy đứa trẻ trước khi về tới nhà. Nhưng sự việc đâu có diễn ra như họ mong ước, tên Chúa đất đã không quên mấy đôi ủng của lũ trẻ. Vừa về đến nhà, hắn lập tức cho gọi viên quản lý.

- Mắt mày để đâu, hả? Ông chủ không biết lấy gì để mua guốc đi, còn bọn nông nô thì sắm ủng da cho con cái. Mày để như vậy thì làm quản lý gì?

Viên quản lý phân trần:

- Đội ơn ngài, Đa-ni-lô được làm thợ tự do và mức tô của hắn cũng được ngài cho phép. Hắn nộp rất đầy đủ nên tôi nghĩ là…

- Vậy thì mày đừng nghĩ nữa mà phải giương mắt lên xem bây giờ nó thế nào! Có đời thuở nhà ai lại như vậy không? Tăng tô của nó lên bốn lần.

Sau đó, tên Chúa đất gọi Đa-ni-lô lên và đích thân hắn tuyên bố với bác về mức tô mới. Thấy chuyện vô lý, Đa-ni-lô nói:

- Tôi không thể làm trái lời ông chủ, nhưng cũng không đóng nổi số tô như thế. Thôi thì tôi đành trở lại làm việc theo lệnh ông chủ như mọi người vậy.

Đây là điều tên Chúa đất hoàn toàn không muốn. Làm thêm đồ bằng đá làm gì khi hắn đang thiếu tiền đến mức sẵn sàng bán cả những thứ còn lại trong nhà từ những năm trước. Bắt người thợ đá làm việc khác thì cũng không lợi. Hắn bèn ra sức quát tháo. Đa-ni-lô đã xin hết lời nhưng tên Chúa đất vẫn bắt bác nộp tô gấp đôi, nếu không chịu thì phải xuống mỏ đào đá. Ác đến thế là cùng.

Từ ngày đó, cuộc sống của gia đình bác Đa-ni-lô và Kachia cực nhọc hẳn lên. Ai cũng vất vả, nhưng thương nhất là mấy đứa trẻ còn bé mà đã phải lao động, việc học hành đành bỏ dở dang. Tự cho là mình có lỗi nặng nhất, Mi-chi-un-ca lăn ra làm việc giúp đỡ cha mẹ. Vợ chồng bác Đa-ni-lô và Kachia rất đỗi băn khoăn:

“Thằng bé vốn đã yếu ớt, giờ mà để cho làm đá thì chắc nó không sống nổi mất. Việc nào cũng hại cả. Nếu keo dán thì phải hít bụi nhựa thông, đập đá dăm thì coi chừng mù mắt, hoà thiếc bằng axít để đánh bóng thì chết sặc vì hơi độc”.

Nghĩ đi nghĩ lại mãi, cuối cùng hai bác quyết định cho Mi-chi-un-ca đi học nghề làm đồ trang sức. Vốn có bàn tay khéo léo và đôi mắt tinh nhanh, lại không cần dùng nhiều sức khoẻ, đó sẽ là nghề thích hợp nhất đối với chú bé.

Bác thợ làm đồ trang sức là người trong họ và rất mừng khi có cậu học trò như Mi-chi-un-ca, bởi bác biết chú bé rất sáng dạ và chăm chỉ. Tuy bác ta là người thợ loại trung bình và chỉ làm được những món đồ loại hai hay loại ba, nhưng Mi-chi-un-ca cũng học được hết tất cả những gì mà bác ta biết làm. Một hôm, bác thợ nói với Đa-ni-lô:

- Phải đưa thằng bé nhà anh ra thành phố cho nó học nghề đến nơi đến chốn đi. Nó có đôi tay khéo léo quá chừng.

Bác Đa-ni-lô đồng ý ngay. Người quen trong nghề đá của bác ở thành phố thì biết bao nhiêu mà kể. Và thế là Mi-chi-un-ca được gởi đến học nghề với một ông thợ già, chuyên làm nhành quả bằng đá. Thôi thì đủ loại: nho, phúc bồn tử, mâm xôi v.v… Mỗi loại quả lại có cách thức riêng. Chẳng hạn như phúc bồn tử đỏ làm từ mã não, phúc bồn tử trắnglàm bạch ngọc, dâu đất làm bằng đá hổ phách, đũm hương thì lấy những loại đá đen nhỏ đính thành chùm…. Tóm lại là quả nào đá ấy. Cành và lá cũng vậy, có cái làm từ ngọc xanh, cái thì từ đá khổng tước, đá vân hoặc những loại đá khác.

Mi-chi-un-ca chẳng những nhanh chóng học hết mọi cách thức mà còn hay sáng chế ra các kiểu mới. Thoạt đầu, ông thầy càu nhàu nhưng sau đó mới bắt đầu khen:

- Ờ, đúng là thế thì cành quả trông tươi hơn.

Một hôm, ông nói thẳng với Mi-chi-un-ca:

- Này, cháu đúng là có khiếu với nghề này, ông già này sắp sửa phải học cháu mất thôi. Cháu thành thợ rồi đấy mà lại còn có cái đầu biết sáng chế nữa.

Ngừng một chút, ông căn dặn:

- Chỉ có cái là đừng để nó đi xa quá! Cái đầu biết sáng chế ấy! Không có lại bị đánh què tay cho mà xem. Có những trường hợp như vậy rồiđấy.

Mi-chi-un-ca còn quá trẻ nên đâu có để tâm tới chuyện đó. Thậm chí còn cười cợt.

- Miễn cái mình sáng chế ra đẹp là được. Ai lại đánh què tay người khác vì cái đẹp bao giờ.

Thế là Mi-chi-un-ca thành thợ, một ông thợ trẻ măng với bộ ria chỉ mọc lún phún. Cậu khỏi phải lo ngồi rỗi vì hàng đặt rất nhiều. Chủ các hiệu bán đồ đá nhanh chóng hiểu rằng cậu là miếng mồi béo bở. Họ thi nhau đặt cậu làm hàng. Thấy vậy Mi-chi-un-ca nghĩ bụng:

“Mình về nhà làm có lẽ hay hơn. Ai cần đến mình thì dù ở nhà họ cũng tìm thấy, đường sá nào có xa xôi gì, mà cũng chẳng phải mang nặng bao nhiêu, đưa nguyên liệu đến rồi đem hàng về là xong”.

Nghĩ sao, làm vậy. Cậu về làng. Mọi người trong nhà tất nhiên đều mừng rỡ. Mi-chi-un-ca ngoài mặt cười đùa cho cả nhà vui nhưng trong lòng buồn rầu khôn tả. Nhà cậu gần như đã biến thành xưởng làm đá. Cha cậu cùng hai anh ngồi bàn máy trong căn buồng nhỏ, mấy đứa em cũng làm việc ngay ở đó, đứa cưa đá, đứa đánh bóng. Trên tay mẹ là đứa em gái vừa đầy năm mà mọi người mong đợi đã lâu, vậy mà không khí trong nhà thật ảm đạm. Trông cha giống như một ông già, hai anh trai bắt đầu húng hắng ho, mấy đứa em cũng chẳng khá hơn. Mọi người làm việc không ngơi tay nhưng chỉ đủ để nộp tô cho Chúa đất.

Nhìn cảnh ấy, Mi-chi-un-ca lại tự trách mình rằng chỉ vì cậu không khéo với mấy đôi ủng khi trước mà giờ đây nên nông nỗi này. Nhưng tự dằn vặt mãi cũng chẳng được gì, cậu quay sang sắp xếp công việc. Ở ngoài, nhìn vào tưởng chừng đơn giản, vậy mà cũng cần không ít dụng cụ. Toàn là những thứ lặt vặt nhưng cũng phải thu xếp chỗ cho chúng.

Cậu lựa cho mình chỗ ngồi sau cửa sổ và lao vào làm việc nhưng đầu không ngừng nghĩ ngợi:

“Làm sao dùng được đá ở ngay đây để làm các cành quả nhỉ? Khi đó hẳn có thể đưa mấy đứa nhỏ sang làm nghề này được".

Cậu suy nghĩ rất lâu nhưng không tìm ra cách nào cả. Ở Pô-lê-ja-va thường chí có đá khổng tước và đá ô liu. Đá ô liu cũng không phải dễ kiếm, hơn nữa lại không hợp. Dùng đá khổng tước thì chỉ làm được lá, mà đâu phải xong ngay, còn cần phải bọc thêm vành hoặc dán.

Một hôm, cậu ngồi làm việc bên bàn máy. Lúc ấy là mùa hè nên cửa sổ trước mặt mở toang. Ngoài cậu, trong phòng chẳng có một ai. Mẹ có việc phải đi đâu đó, mấy đứa nhỏ chạy chơi hết, còn cha và hai anh ngồi trong buồng lặng lẽ làm việc. Ai mà chẳng biết, là khi ngồi mài đá khổng tước thì chẳng những nói chuyện cũng không muốn chứ đừng nói đến ca hát.

Ngồi mài các trái quả của mình bằng nguyên liệu do lái buôn đem tới, Mi-chi-un-ca lại trở về với ý nghĩ hôm trước.

“Dùng thứ gì trong số các loại đá dễ kiếm ở đây để làm được những vật như thế này bây giờ?”.

Đột nhiên một bàn tay, không hiểu tay đàn bà hay con gái – có đeo nhẫn và đi găng – thò qua cửa sổ và đặt thẳng lên bàn máy của Mi-chi-un-ca một tấm đá da rắn khá lớn và nằm trên nó, hệt như trên chiếc khay, là một miếng xỉ từ các lò luyện đồng trong vùng mà mọi người thường dùng đề trải đường.

Thò đầu qua cửa sổ Mi-chi-un-ca không thấy một ai. Đường làng vắng tanh, chẳng có gì chứng tỏ có người vừa đi qua. Thế này là thế nào? Ai đó muốn đùa cợt hay là cậu mê ngủ. Ngoảnh nhìn tấm đá da rắn với miếng xỉ đồng, Mi-chi-un-ca suýt nữa nhảy dựng lên vì vui sướng. Thứ nguyên liệu này có đem xe mà chở cũng không hết, nhưng nếu khéo chọn và chịu tốn công thì có thể làm các cành quả được. Có điều là làm loại nào?

Cậu bắt đầu nghĩ xem thứ quả nào thích hợp hơn cả và bất giác đưa mắt về chỗ bàn tay khi nãy. Bàn tay ấy lại đột ngột xuất hiện, đặt lên bàn một chiếc lá ngưu bàng lớn, bên trên là ba nhành quả: Dã anh, anh đào và nhành lý gai chín mọng.

Không nén được nữa, Mi-chi-un-ca chạy vọt ra đường làng xem ai đùa giỡn cậu như vậy. Cậu nhìn quanh nhưng chẳng hề nhìn thấy một ai, không gian vắng lặng tưởng chừng như mọi vật đều ngừng thở. Trời đang trưa, giữa lúc nóng nhất, ai dại gì mà ra đường vào bây giờ.

Đứng một hồi, cậu tiến lại cửa sổ, cầm chiếc lá với mấy nhành quả lên ngắm nghía. Quả thật hẳn hoi, vẫn còn tươi, nhưng đáng ngạc nhiên nhất là nhành anh đào. Dã anh thì hiểu rồi, lý gai mọc khá nhiều trong vườn nhà Chúa đất, nhưng còn anh đào thì ở đâu ra? Trong vùng đâu có thứ anh đào này, vậy mà nhành quả trông như vừa mới hái trên cây xuống.

Mi-chi-un-ca ngắm nhành anh đào hồi lâu, nhưng cậu vẫn thích chùm lý gai, hơn nữa, nó lại rất thích hợp với nguyên liệu. Cậu vừa mới nghĩ tới đây thì bàn tay nọ lại vuốt nhẹ lên vai cậu và bên tai có tiếng thì thầm:

“Giỏi lắm! Cậu hiểu nghề đấy!”

Giờ thì người mù cũng rõ dó là tay ai. Lớn lên ở làng Pô-lê-va-ja, biết bao lần Mi-chi-un-ca nghe kể về Bà Chủ Núi. Cậu thầm mong bà hiện lên, nhưng chẳng thấy ai cả. Có lẽ vì thương hại chàng gù, không muốn làm cậu mất hồn vì sắc đẹp cùa mình nên Bà Chủ Núi đã không hiện lên.

Mi-chi-un-ca lật đi lật lại tấm đá da rắn và miếng xỉ đồng. Cậu chọn rất kỹ và bắt tay vào làm. Mồ hôi ướt đẫm trán. Đầu tiên cậu mài riêng từng nửa quả một, rồi mới khoét ruột ở giữa. Chỗ thì cậu mài xước thành rãnh, chỗ thì để lại một đường gờ nho nhỏ, cậu dán hai mảnh lại với nhau và mài nhẵn. Trái lý gai chín mọng bóng loáng trông như thật. Cậu dùng đá da rắn mài thật mỏng làm lá. Trên cuống lá lại còn đính thêm mấy cái gai nhỏ xíu. Nhành quả mới đẹp làm sao. Bên trong mỗi trái như có cả hột, cành lá trông cũng rất sống động, thậm chí có cả những khuyết tật nho nhỏ: một lá có lỗ thủng hệt như bị sâu ăn, lá kia có những vết màu vàng úa ngay sát cuống. Thật không khác nhành quả tươi một chút nào.

Cha cậu và các anh tuy làm đồ bằng loại đá khác nhưng cũng hiểu được cái khó của nghề mỹ nghệ. Mẹ cậu cũng đã từng làm đá. Cả nhà nhìn ngắm không chán mắt tác phẩm cảu Mi-chi-un-ca và không ngớt ngạc nhiên, rằng từ thứ đá da rắn tầm thường và xỉ đồng lại có thể làm ra một vật như vậy. Bản thân Mi-chi-un-ca cũng vui sướng khôn tả. Đúng là nghệ thuật. Tất nhiên, phải người sành nghề mới đánh giá hết được.

Từ đó, Mi-chi-un-ca bắt đầu làm đồ từ xỉ đồng và đá da rắn. Cả nhà cũng giúp được cậu khá nhiều. Cánh lái buôn cũng không chê loại hàng mới, họ trả tiền cậu ngang với đồ làm bằng đá quý, còn người mua bao giờ cũng chọn hàng của Mi-chi-un-ca trước vì biết đó là thứ tinh xảo nhất. Mi-chi-un-ca làm không ngơi tay. Cậu làm cả các nhành dã anh, anh đào, cả những chùm lý gai chín mọng. Riêng nhành quả đầu tiên cậu giữ lại không bán. Đã mấy lần cậu tính tặng cho một cô gái nhưng còn do dự.

Các cô gái cũng không quay lưng lại giá cửa sổ nhà Mi-chi-un-ca. Cậu tuy bị gù nhưng lại là một chàng trai vui tính, nghề nghiệp tinh thông, tính tình lại không keo kiệt, cậu sẵn lòng cho các cô từng nắm hột đá để xâu chuỗi hạt. Các cô rất thích đến chỗ cậu. Còn cô gái nọ thường hay kiếm cớ đi ngang qua cửa sổ nơi cậu ngồi làm việc hơn cả, lúc khẽ cười phô hàm răng trắng muốt, lúc vung vẩy bím tóc nặng trĩu. Mi-chi-un-ca muốn tặng nhành quả của mình cho cô nhưng vẫn còn sợ.

“Ngộ nhỡ các cô khác cười cô ấy thì sao, không khéo cô ấy lại giận mình nữa”.

Còn tên Chúa đất, kẻ đã làm cho cả nhà Mi-chi-un-ca điêu đứng, vẫn còn sống trên trái đất để hành hạ mọi người bằng tính điên khùng của hắn. Năm ấy, hắn tính gả con gái cho một vị quận công hay nhà buôn nào đó và ra lệnh chuẩn bị của hồi môn. Nhân dịp đó, tên quản lý ở Pô-lê-va-ja quyết chí tâng công với chủ. Hắn đã được thấy nhành quả của Mi-chi-un-ca và chắc cũng hiểu rằng đó là một vật quý. Hắn sai bọn tay chân đến lấy và dặn:

- Nếu mà nó kh6ong chịu đưa thì cứ việc cướp về đây.

Với bọ đầu trâu mặt ngựa ấy thì việc cướp bóc đâu có gì mới lạ. Chúng mang nhành quả của Mi-chi-un-ca về và tên quản lý đem bỏ vào trong một chiếc hộp lót nhung. Chúa đất vừa về tới Pô-lê-va-ja, tên quản lý liền có mặt lập tức:

- Xin ngài làm ơn nhận cho cô dâu món quà nhỏ này. Đây là vật rất hợp với tiểu thư.

Tên Chúa đất ngắm nghía cành quả. Đầu tiên hắn cũng khen đẹp, sau đó hỏi:

- Nhành quả làm bằng đá gì đây, giá bao nhiêu?

Tên quản lý trả lời:

- Thật đáng ngạc nhiên, nhưng đúng là nó làm bằng thứ vật liệu đơn giản nhất: đá da rắn và xỉ đồng.

Chúa đất suýt nữa thì nghẹt thở:

- Sao? Cái gì? Bằng xỉ à? Để cho con gái ta đeo ư?

Xem chừng không ổn, tên quản lý đổ hết cho người thợ:

- Thật đúng là một thằng đểu, nó dúi của ấy cho tôi và lại còn đòi trừ một phần tiền tô hằng tuần nữa, chứ tự mình thì tôi đâu dám.

Tên Chúa đất rít lên:

- Đem nó lại đây! Đem nó lại đây!

Mi-chi-un-ca bị lôi tới và tên Chúa đất càng điên hơn khi nhận ra cậu.

“À… cái thằng đi ủng đây mà…”.

- Sao mày dám? – Tên Chúa đất hét lên và vác ba-toong xấn lại đánh Mi-chi-un-ca

Thoạt tiên, Mi-chi-un-ca ngỡ ngàng, nhưng rồi cậu hiểu ra ngay và nói thẳng vào mặt tên Chúa đất.

- Đây là tên quản lý cướp giật của tôi. Hắn làm thì cứ để hắn trả lời.

Nhưng Chúa đất đâu có thèm nghe, hắn khăng khăng lặp đi lặp lại:

- Tao sẽ cho mày biết tay… tao sẽ cho mày biết tay…

Thế rồi hắn chụp lấy nhành quả trên bàn, ném mạnh xuống sàn và ra sức dẫm đạp. Nhành quả vụn nát ra thành từng mảnh.

Thấy thế, Mi-chi-un-ca không còn nhớ gì nữa, người cậu thậm chí phát run. Mà cũng phải thôi, ai mà chịu nổi khi thấy vật kỷ niệm quý giá của mình bị dẫm nát một cách điên dại như vậy.

Giật lấy chiếc batoong trong tay Chúa đất, Mi-chi-un-ca phang thẳng cánh cái cán bọc vàng vào trán hắn. Tên Chúa đất từ từ ngã ngồi xuống sàn, mắt trợn ngược chỉ còn thấy lòng trắng.

Quá bất ngờ, tên quản lý và bọn người hầu đứng đầy trong phòng như thể bị hoá đá. Mi-chi-un-ca bước ra khỏi dinh Chúa đất và bỏ đi mất tích. Không ai biết cậu đâu cả, nhưng đồ của cậu thì sau đó vẫn xuất hiện. Ai hiểu nghề mới nhận ra được.

Còn một chi tiết, là cô gái vẫn thường cười với Mi-chi-un-ca trước cửa sổ cũng mất tích luôn. Bọn người của Chúa đất tìm kiếm cô khá lâu. Chắc chúng nghĩ rằng tìm cô sẽ dễ hơn, vì phụ nữ thường không muốn xa quê hương thân thuộc. Chúng ép cha mẹ cô gái chỉ chỗ cô trốn, nhưng chẳng biết thêm gì được mới cả.

Đa-ni-lô và các con tất nhiên cũng bị vạ lây, nhưng chắc chắn Chúa đất không muốn mất khoản tô lớn nên rồi cũng phải để cho bác yên. Chúa đất còn hoành hành được một thời gian nhưng chẳng bao lâu sau cũng chết ngộp vì béo./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: