Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

6. Chuyện kể về Pô-lô-dơ vĩ đại

Trong xóm thợ có một bác mu-gíc. Mọi người gọi bác ta là Lê-vôn-ti. Đó là một con người chuyên cần ít nói. Bác ta làm ở trong mỏ, ở Gumescơ ấy mà, từ khi còn trẻ. Thời trai tráng đã trôi qua dưới lòng đất, cực nhọc chẳng khác một con giun. Thiếu ánh sáng mặt trời, trông bác nhợt nhạt. Ai mà chẳng biết mỏ là như vậy, ẩm ướt, tối tăm, hôi hám. Chàng thanh niên xưa kia, giờ đây chỉ còn da bọc xương. Tên quản lý thấy bác ta chẳng còn có ích gì, bèn làm ra vẻ nhân hậu và chuyển Lê-vôn-ti sang công việc khác, sang Pô-ska-cu-kha, mỏ vàng của Chúa đất. Thế là Lê-vôn-ti trở thành thợ đãi vàng. Nhưng cũng chẳng khá hơn, bác ta đã quá ốm yếu. Ít lâu sau, viên quản lý gọi bác lên và bảo:

- Này, Lê-vôn-ti. Anh là con người cần mẫn, tôi đã nói về anh với ông chủ. Ông ấy đã nghĩ ra cách thưởng công anh. Ông ấy nói: Hãy để cho Lê-vôn-ti được làm viêc tự do, không phải nộp tô, được bao nhiêu cho hết.

Thời ấy, thường là như vậy. Khi anh đã kiệt sức, không còn thiết gì nữa thì người ta để anh được làm công việc tự do.

Vậy là Lê-vôn-ti được tự do làm việc. Riêng phần bác thì chẳng đáng lo mấy, nhưng còn gia đình, phải làm sao kiếm được miếng bánh cho lũ trẻ. Thế nhưng kiếm ở đâu ra khi anh chỉ có hai bàn tay trắng. Lê-vôn-ti nghĩ đi nghĩ lại rồi quyết định đi đãi vàng. Dù sao, đào đất cũng là công việc quen thuộc, dụng cụ cũng chẳng cần bao nhiêu. Chạy vạy ngược xuôi, Lê-vôn-ti cũng kiếm đủ và gọi mấy đứa bé:

- Nào, các con! Đi đãi vàng với cha thôi. Có thể nhờ hạnh phúc của các con mà ta sẽ gặp may và khỏi phải sống bằng của bố thí.

Hai đứa con của Lê-vôn-ti hãy còn nhỏ, chúng mới hơn mười tuổi. Vậy là đoàn người đi tìm vàng lên đường. Người cha chậm chạp lê bước, hai đứa bé líu ríu theo sau.

Hồi đó có tin đồn rằng ở vùng Ri-a-bi-nốp-ca có khá nhiều vàng, và Lê-vôn-ti cũng xin đến đó. Ở văn phòng hồi ấy vấn đề này giải quyết khá đơn giản. Chỉ cần thông báo và nộp vàng là được. Tất nhiên là cũng có chuyện gian lận. Làm sao mà tránh được. Mấy người ở văn phòng để ý xem đám thợ đó đi đâu và theo dõi số vàng nộp về. Hễ thấy ngon ăn là lập tức giành ngay lấy. Họ tuyên bố sẽ khai thác ở đó, và buộc mọi người phải đi chỗ khác rồi giao khu đất ấy cho người quen. Những người thợ tìm vàng cũng chẳng chịu lép, họ chỉ nộp về văn phòng vừa đủ để giữ chỗ, còn phần lớn bán lại cho đám buôn lậu. Lũ người ấy đến đây biết bao nhiêu mà kể. Chúng khôn khéo đến mức không ai phát hiện nổi. Vậy là tất cả đều lao vào vòng lừa đảo. Đám văn phòng muốn lừa thợ, còn thợ thì lừa lại văn phòng. Thế đấy. Còn muốn biết ở đâu có vàng thì phải tự mình dò la lấy.

Tuy nhiên không ai nỡ dấu Lê-vôn-ti cả, ông ấy thì tìm kiếm gì cơ chứ. Thôi thì cứ để ông ta thoả chí trước khi chết.

Lê-vôn-ti đến Ri-a-bi-nốp-ka, chọn một chỗ và bắt tay vào việc. Bụng thì muốn mà sức thì không đủ. Vừa mới đào được mấy nhát đã thở không ra hơi, phải ngồi nghỉ. Hai đứa trẻ cũng hăng hái giúp cha nhưng chúng thì làm được bao nhiêu. Ba cha con ở trong rừng đã hơn một tuần, Lê-vôn-ti thấy rõ là chẳng được mấy, mua bánh mì cũng không đủ. Làm sao bây giờ? Sức khoẻ của bác mỗi ngày mỗi kém, chân tay cất nhắc không nổi nữa, nhưng bác vẫn không muốn bỏ việc để rồi phải đeo bị lên cổ lũ trẻ. Vào thứ bảy, khi quay về văn phòng để nộp chỗ vàng đã đãi được, bác dặn lại hai đứa trẻ:

- Các con ở lại đây giữ đồ nhé, không có lại phải vác đi vác về.

Vậy là hai đứa trẻ ở lại trong chiếc lều cỏ giữa rừng. Một đứa ở lại canh, còn đứa kia chạy ra sông Chu-xô-va cách đó không xa kiếm cá. Nó câu được mấy con cá măng, cá quả đem về. Hai anh em bắt đầu nấu xúp. Trời chập choạng tối, bên đống lửa bập bùng trong khu rừng vắng vẻ, nỗi sợ hãi len dần vào lòng lũ trẻ.

Đột nhiên, chúng thấy một ông già tiến lại. Ông ta cũng là người trong làng và mọi người gọi ông ta là Xê-mi-ô-nứt, còn họ thì không ai nhớ cả. Xê-mi-ô-nứt đã từng đi lính. Người ta kể rằng trước kia ông là người thợ rèn giỏi nhất và nổi tiếng là khoẻ, nhưng do có lần dám cãi lại viên quản lý nên bị hắn sai tay chân đè ra đánh. Xê-mi-ô-nứt đâu có chịu, ông ta đánh ngã được mấy đứa nhưng rồi không địch nổi cả bọn, toàn những đứa chỉ có ăn với đánh người. Chúng quần cho Xê-mi-ô-nứt một trận, rồi đem xung vào lính vì tội làm loạn. Hai mươi lăm năm sau, Xê-mi-ô-nứt quay lại xóm thợ khi đã thành một ông già. Trong thời gian ấy, người thân của ông đã qua đời cả, ngôi nhà bỏ hoang đã mấy năm và làng xóm vừa tính dỡ làm củi thì ông xuất hện. Xê-mi-ô-nứt sửa sang qua loa ngôi nhà và sống ở đó một mình, hầu như không giao thiệp với ai, tối tối mang sách ra đọc. Hàng xóm bắt đầu để ý đến nếp sống lạ lùng của ông. Đầu tiên tưởng ông biết chữa bệnh, họ chạy tới. Xê-mi-ô-nứt từ chối: “Tôi không biết chữa bệnh, mà chữa sao được cơ chứ, nếu như nghề nghiệp của các anh như vậy”. Rồi họ nghĩ rằng ông nghiên cứu đạo, nhưng cũng không phải. Xê-mi-ô-nứt chỉ đến nhà thờ vào ngày Lễ Phục sinh và Giáng sinh như những người khác, còn ngoài ra không có gì sùng kính hơn người.

Hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác – ông ta không làm việc mà cũng sống được. Tất nhiên, ông ta có một mảnh vườn nhỏ, một khẩu súng thô sơ và một tấm lưới đánh cá. Nhưng chỉ với chừng ấy thứ thì làm sao sống nổi? Mà tiền thì rõ ràng là ông ta có, đôi khi đưa cho người nọ người kia. Đến kiểu cho vay cũng lạ đời, có người van xin hứa trả lãi cao, nhưng một khi ông ta đã nói không cho là không cho. Còn với người khác thì ông ta tự tìm đến và bảo:

- Này, cầm lấy, I-van (hoặc Mi-kha-lô) mà mua con bò nữa, lũ trẻ nhà anh còn nhỏ, mà anh thì rõ là kham không nổi.

Tóm lại, ông là một con người kỳ dị. Mọi người cho là ông ta có đi lại với ma quỷ. Sở dĩ như vậy chủ yếu là vì mấy cuốn sách.

Vậy là Xê-mi-ô-nứt tiến đến, bắt chuyện với hai đứa bé. Chúng mừng rỡ gọi:

- Ông ơi ngồi xuống đây, ăn xúp cá với chúng cháu đi.

Chẳng đợi phải mời lâu, Xê-mi-ô-nứt ngồi xuống, nếm thử món xúp và khen hết lời. Lấy từ trong túi ra một khúc bánh mì còn mềm, ông bẻ thành miếng và để trước mặt lũ trẻ. Hai đứa bé thấy ông già thích món xúp nên cầm bánh ăn chẳng chút ngại ngần, còm Xê-mi-ô-nứt luôn miệng khen rằng lâu lắm chưa được ăn món xúp cá ngon. Chuyện qua chuyện lại, hai đứa bé ăn gần hết chỗ bánh mì của ông già. Còn Xê-mi-ô-nứt vẫn cứ tiếp tục:

- Lâu lắm ta chưa được ăn món xúp ngon như thế này.

Thấy hai đứa trẻ đã no nê, ông già bắt đầu hỏi về công việc của chúng. Hai đứa thi nhau kể chuyện cha chúng bị mất việc ở mỏ như thế nào, làm thợ tự do ra sao và về công việc của ba cha con ở đây. Nghe chuyện, Xê-mi-ô-nứt chỉ lắc đầu và thở dài. Cuối cùng ông hỏi:

- Tất cả đãi được bao nhiêu?

Hai đứa trẻ trả lời:

- Mỗi một muỗng, mà cũng có thể là hơn một chút – cha chúng cháu nói vậy.

Ông già đứng dậy và nói:

- Thôi được rồi, rõ ràng là phải giúp đỡ các cháu. Có điều phải kín miệng đấy. Không một ai được biết cả, nếu không… - Xê-mi-ô-nứt vừa nói vừa nhìn một cách khác thường làm lũ trẻ phát sợ, dường như trước mặt chúng là một người khác hoàn toàn. Sau đó, ông già cười nhạt và nói thêm:

- Hai đứa đợi ông ở bên đống lửa này nhé, ông đi gọi một người, có thể ông ta sẽ giúp đỡ các cháu. Có điều là đừng sợ, nếu không sẽ hỏng hết đấy. Đừng quên nhé.

Nói rồi, ông già bỏ đi vào rừng để hai đứa bé ở lại một mình. Chúng nhìn nhau, không nói được câu nào. Lát sau, thu hết can đảm, thằng anh khẽ nói:

- Này em, để ý nhé, đừng quên là không được sợ đấy. – Nói vậy, nhưng chính nó thì môi xám ngắt và răng va vào nhau lộp cộp.

Mặt trắng bệch, đứa em trả lời:

- Em không sợ đâu.

Hai đứa trẻ ngồi yên chờ đợi. Trời đã tối hẳn và rừng trở nên im ắng, nghe được cả tiếng nước chảy róc rách trên sông Ri-a-bi-nốp-ca. Chúng chờ đã khá lâu mà vẫn không thấy ai và nỗi sợ hãi dần dần tan đi. Hai anh em ném thêm cành khô vào đống lửa. Nhìn những lưỡi lửa vàng reo vui, chúng thấy hết sợ hẳn. Đột nhiên có tiếng người nói chuyện. “Không hiểu ai đi đâu vào giờ này trong rừng”? Mấy đứa trẻ nghĩ bụng và lại co dúm người lại.

Dưới ánh lửa hiện lên hai người. Đi cùng với Xê-mi-ô-nứt là một người lạ mặt ăn mặc rất lạ lùng. Áo khoác ngoài và quần của ông ta đều cùng một màu vàng, giống như màu áo gấm của cha cố, ngang lưng là chiếc đai bằng gấm thêu khá rộng có tua rủ màu xanh. Chiếc mũ trên đầu màu vàng có sọc đỏ ở hai bên, đôi ủng cũng màu đỏ. Mặt ông ta vàng khè, bộ râu quai nón rậm rì xoắn thành những khuyên tròn chặt đến mức có cảm tưởng là không thể tách rời các sợi râu ra khỏi nhau. Mắt ông ta xanh lè như mắt mèo, tuy nhiên, ánh mắt lại rất đôn hậu và dịu dàng. Dù chỉ cao như Xê-mi-ô-nứt và không mập lắm, nhưng ông ta hẳn rất nặng, bởi bàn chân dẫm ở đâu là đất lún thành vết ở đó. Hai đứa bé lấy làm ngạc nhiên, chúng há hốc miệng ra nhìn, quên cả sợ hãi, còn người đàn ông tiếp tục nói với Xê-mi-ô-nứt như người nói đùa:

- Mấy ông thợ đãi vàng tự do đây hả? Tìm được bao nhiêu là lấy bấy nhiêu, khỏi phải nộp cho ai phải không?

Sau đó, ông ta cau mày, quay về phía Xê-mi-ô-nứt như thể muốn bàn bạc:

- Liệu ta có làm hỏng hai đứa trẻ này không?

Xê-mi-ô-nứt phản đối, rằng đây là những đứa trẻ tốt, không phải loại con nhà được nuông chiều, nhưng người kia vẫn khăng khăng:

- Loài người ai mà chẳng như nhau. Khi đang nghèo đói và thiếu thốn thì còn khá, vậy mà hễ cứ nắm được chót đuôi của ta là không hiểu mọi tính tồi tệ ở đâu lập tức hiện ra.

Đứng yên lặng hồi lâu, cuối cùng, ông ta chặt lưỡi:

- Thôi được, ta cứ thử xem. Có thể hai đứa nhỏ sẽ khá hơn. Trông chúng cũng được đấy. Thật đáng tiếc, nếu ta làm hỏng chúng. Phải cái là thằng em môi hơi dày, không khéo lại thành đứa tham lam. Anh phải để ý đến nó mới được, Xê-mi-ô-nứt ạ. Cha chúng thì tôi biết rồi, ông ta không còn sống được bao lâu nữa đâu. Một chân dưới mồ rồi mà vẫn cố gắng tự mình kiếm lấy miếng bánh ăn. Thật là một con người cương trực. Thế nhưng cứ thử làm cho ông ta trở thành giàu có đi – nhất định là hỏng cho mà xem.

Người lạ mặt nói chuyện thản nhiên với Xê-mi-ô-nứt như thể không có hai đứa bé ở bên cạnh. Sau đó, ông ta quay về phía chúng và nói:

- Này các cháu, giờ hãy nhìn cho kỹ nhé. Phải để ý xem dấu chân ta dẫn đi đâu. Cứ đi theo dấu đó mà đào, ở phía trên thôi, chứ đừng đào sâu vô ích.

Nói xong, người lạ mặt thay đổi hình dạng ngay trước mắt hai đứa trẻ. Phần từ đai lưng trở lên biến thành đầu, còn từ đai lưng trở xuống thành cổ. Cái đầu vẫn giống y như trước, nhưng đã trở nên rất to, hai mắt như hai quả trứng ngỗng, còn cái cổ thì trông như cổ rắn. Thế rồi từ dưới đất nhô lên thân hình của một con rắn khổng lồ. Đầu con rắn từ từ vươn lên cao quá ngọn cây rừng, sau đó, thân rắn uốn vồng lên, lướt trên mặt đất thẳng vào đống lửa. Con vật kỳ dị ấy bò về phía sông Ri-a-bi-nốp-ca, và từ dưới đất bắt đầu hiện lên hết khuyên tròn này đến khuyên tròn khác, tưởng như không bao giờ hết. Điều lạ lùng là tuy đống lửa đã tắt, nhưng khoảng rừng trở nên còn sáng hơn. Có cái là ánh sáng ấy không ấm như ánh mặt trời mà dường như nó mang theo hơi lạnh. Con rắn bò đến sông Ri-a-bi-nốp-ca, trườn xuống dưới nước và nước ở cả hai bên bờ lập tức đóng thành bằng. Con rắn bò qua bên kia sông, dừng lại ở cây bạch dương cổ thụ mọc sát bờ và kêu lớn:

- Thấy rõ chưa? Cứ đây mà đào. Đủ cho cả cuộc đời côi cút của hai đứa. Mà đừng có tham đấy.

Tiếng nói còn vang trong không gian mà người thì đã biến mất tự bao giờ. Nước sông Ri-a-bi-nốp-ca lại chảy rì rào, đống lửa lụi lúc nãy lại cháy sáng trở lại, chỉ có đám cỏ vẫn còn nằm ẹp xuống như thể gặp cái lạnh đầu đông. Xê-mi-ô-nứt giải thích cho hai đứa trẻ:

- Đó là Pô-lô-dơ vĩ đại đấy. Tất cả vàng trong lòng đất đều thuộc về ông ta. Ông ta đi đến đâu là vàng chạy đến đó. Ông ta có thể đi trên mặt đất cũng như dưới lòng đất, cần thế nào thì đi như thế, và muốn vây vùng đất rộng bao nhiêu cũng được. Vì vậy, nên có trường hợp, khi người ta tìm thấy một mạch vàng mà lại xảy ra vụ lừa đảo, đánh nhau hay thậm chí giết nhau để tranh giành thì mạch vàng ấy sẽ biến mất. Như thế là Pô-lô-dơ đã đến đó và đưa vàng đi chỗ khác. Hay còn có trường hợp như thế này: Những người đi đãi vàng tìm được một khu đất tốt, thả sức mà đãi vàng cát. Nhưng khi văn phòng tuyên bố đuổi mọi người đi để tự khai thác, đưa máy và thợ tới thì lại chẳng thấy vàng đâu cả. Đào rộng mấy, sâu mấy cũng không có, như thể xưa nay ở đó chưa từng có vàng. Sở dĩ như thế là vì Pô-lô-dơ đã vây cả vùng đất lại, một đêm bào đó ông ta tới nằm ở đấy và thu hết vàng vào những khuyên tròn trong bộ râu của mình. Cứ việc đi mà tìm xem ông ta đã nằm ở đâu.

Ông ấy không thích để vì vàng mà xảy ra chuyện lừa đảo, gian dối, nhất là khi người này tranh với người khác. Còn nếu để kiếm sống thì không sao, có khi ông ta còn giúp cho nữa, như các cháu đây chẳng hạn, nhưng nhớ không được nói với ai về chuyện này đấy, không có là hỏng hết… Mà cũng đừng có lấy nhiều vàng quá. Pô-lô-dơ chỉ chỗ có vàng không phải để cho những kẻ tham lam đâu. Có nhớ ông ấy nói gì không? Đây là điều dứt khoát không được quên. Còn bây giờ thì đi ngủ đi, ông ngồi canh lửa cho.

Hai anh em vâng lời đi vào trong lều và lập tức ngủ say như chết. Sáng hôm sau chúng thức dậy khá muộn, nhữngngười đãi vàng khác đã đi làm từ bao giờ rồi. Hai đứa nhìn nhau, rồi một đứa hỏi:

- Hôm qua em có thấy gì không?

Đứa kia hỏi lại:

- Thế còn anh?

Cuối cùng, chúng cũng thoả thuận được với nhau. Hai đứa thề nguyền đủ điều, rằng sẽ không nói và kể với ai, rằng sẽ không tham lam và bắt đầu lựa chỗ đào đất. Ở đây, ý kiến của hai đứa lại bất đồng. Thằng anh nói:

- Phải bắt đầu ở cây bạch dương ở bên kia sông Ri-a-bi-nốp-ca kia, chỗ mà Pô-lô-dơ nói câu cuối cùng ấy chứ.

Đứa em thuyết phục:

- Thế không được anh ạ. Sẽ lộ bí mật ngay mất, bởi vì những người khác sẽ chạy lại xem cát ở bên kia sông Ri-a-bi-nốp-ca ra sao. Mà như thế thì vở lở hết.

Hai đứa tranh cãi hồi lâu và cùng tiếc không có ông già Xê-mi-ô-nứt để hỏi ý kiến. Đột nhiên chúng thấy một cành bạch dương cắm ngay giữa đống lửa hôm trước. “Chắc đây là ông Xê-mi-ô-nứt để dấu cho mình”, - hai đứa nghĩ bụng và bắt tay vào đào ngay ở đó.

Xẻng đất đầu tiên vừa lật lên đã thấy ngay hai cục vàng lóng lánh, cát cũng khác hẳn mấy hôm trước. Công việc của hai đứa mở đầu thuận lợi như vậy đấy. Tất nhiên, sau đó còn có nhiều việc nữa xảy ra, nhưng đấy lại sẽ là một câu chuyện khác rồi./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: