Chuong 8 Cơ cấu xã hội - giai cấp và Liên minh giai cap cn,nd,tt
Quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình từng bước xoá bỏ
cơ bản các quan hệ đối kháng giai cấp, hình thành một cơ cấu xã hội - giai
cấp mới, trong đó liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí
thức là nền tảng của xã hội mới, chế độ mới. Trước khi xem xét vấn đề liên
minh giai cấp, chúng ta cần phải nghiên cứu vấn đề rộng hơn, có tính chất
hệ thống bao trùm hơn, đó là cơ cấu xã hội - giai cấp.
I. Cơ cấu xã hội - giai cấp trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội
1. Quan niệm về cơ cấu xã hội - giai cấp
a) Cơ cấu xã hội và cơ cấu xã hội - giai cấp
- Mỗi con người đều tồn tại trong mối quan hệ lệ thuộc, tác động lẫn
nhau và sự tác động này không chỉ mang tính cá nhân mà còn mang tính
cộng đồng. Cộng đồng xã hội là một bộ phận người có chung một số dấu
hiệu, nguyên tắc. Tuỳ theo cách xác định các dấu hiệu, nguyên tắc mà
người ta có thể xác định những cộng đồng với các tên gọi khác nhau (dân
tộc, giai cấp, tập thể, đơn vị, nhóm hoạt động,...). Có hai loại cộng đồng:
cộng đồng khách quan được hình thành một cách tự nhiên, không phụ
thuộc vào ý muốn con người và cộng đồng chủ quan được hình thành từ ý
đồ, mục đích của con người.
- Cơ cấu xã hội là tất cả những cộng đồng người và toàn bộ các quan
hệ xã hội do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên. Cơ cấu xã
hội đề cập chủ yếu đến các cộng đồng được hình thành một cách khách
quan, dựa trên các dấu hiệu tự nhiên như giai cấp, dân số, dân cư, nghề
nghiệp, dân tộc, tôn giáo,... Từ đó, người ta có thể xem xét các loại hình cơ
cấu xã hội tương ứng: cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - dân số (với
dấu hiệu nhân khẩu), cơ cấu xã hội - dân cư (với dấu hiệu cùng cư trú theo
107
địa lý), cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân tộc, cơ cấu xã hội -
tôn giáo,... Dưới góc độ chính trị - xã hội, môn học chủ nghĩa xã hội khoa
học ở đây chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề cơ cấu xã hội - giai cấp.
Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội và
các mối quan hệ giữa chúng. Đó là các mối quan hệ về sở hữu, quản lý, địa
vị chính trị - xã hội,... Cơ cấu xã hội - giai cấp vừa phản ánh sự tồn tại xã
hội và vừa tác động lại sự phát triển của xã hội. C. Mác đã từng nói rằng:
"lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai
cấp" và V.I. Lênin cũng nói: kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến
đổi, nếu không tìm hiểu những biến đổi này thì không thể tiến được một
bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào.
b) Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp trong cơ cấu xã hội
- Cùng một con người sẽ thuộc về nhiều cộng đồng người khác nhau
theo các hình thức phân chia khác nhau (thuộc về một giai cấp, tầng lớp,
một nhóm nghề nghiệp, một địa bàn cư trú, một tôn giáo hoặc không theo
tôn giáo nào,...). Các loại hình của cơ cấu xã hội có mối quan hệ với nhau
và tác động qua lại lẫn nhau.
- Trong xã hội có giai cấp, thì cơ cấu xã hội - giai cấp là loại hình cơ
bản và có vị trí quyết định nhất, chi phối các loại hình cơ cấu xã hội khác,
vì trong quan hệ về mặt giai cấp của một xã hội quy định sự khác nhau về
địa vị kinh tế, về quyền sở hữu tư liệu sản xuất, mối quan hệ xã hội giữa
người với người trong hệ thống sản xuất, tổ chức lao động và phân phối thu
nhập. ở các loại hình cơ cấu xã hội khác không có được các mối quan hệ
quan trọng và quyết định trên đây. Từ đó cho thấy cơ cấu xã hội - giai cấp
có liên quan trực tiếp đến quyền lực chính trị và nó quyết định đến bản chất
và xu hướng vận động của các loại hình cơ cấu xã hội khác. Mỗi xã hội có
phân chia giai cấp đều có cơ cấu xã hội - giai cấp đặc trưng của mình, nó thể
hiện cho sự khác nhau về chất giữa cơ cấu xã hội này với cơ cấu xã hội
khác.
- Xuất phát từ cơ cấu xã hội - giai cấp mà người ta xây dựng các chính
sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá của mỗi xã hội trong từng giai đoạn
cụ thể. Vị trí của cơ cấu xã hội - giai cấp là có ý nghĩa quan trọng, song
không được tuyệt đối hoá, tức là chỉ thấy và dựa vào cơ cấu xã
hội - giai cấp, coi nhẹ các loại cơ cấu xã hội khác; cũng không thể tuỳ tiện
xoá bỏ nhanh chóng các giai cấp, tầng lớp xã hội bằng biện pháp giản đơn
theo ý muốn chủ quan.
108
2. Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
a) Xu hướng chủ yếu
- Sự xích lại gần nhau từng bước giữa các giai cấp, tầng lớp về mối
quan hệ với tư liệu sản xuất. Xu hướng này thể hiện thông qua việc dần dần
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao. Với chủ
trương phát triển nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hoá chế độ sở hữu, tồn
tại nhiều thành phần kinh tế, liên kết, liên doanh trong sản xuất kinh doanh,
tạo điều kiện cho các thành phần xã hội tồn tại bên nhau, xích lại gần nhau,
đan xen lẫn nhau để cùng phát triển.
- Sự xích lại gần nhau về tính chất lao động giữa các giai cấp, tầng
lớp. Xu hướng này thể hiện thông qua việc phát triển cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, áp dụng những thành tựu mới vào quá trình phát triển
lực lượng sản xuất, rút ngắn khoảng cách của sự khác biệt giữa các lực
lượng xã hội trong quá trình lao động. Từ đó, tạo điều kiện cho xu hướng
hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh vực kinh tế.
- Sự xích lại gần nhau về mối quan hệ phân phối tư liệu tiêu dùng
giữa các giai cấp và tầng lớp. Xu hướng này diễn ra chủ yếu liên quan đến
việc thực hiện ngày càng hoàn thiện nguyên tắc phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế.
- Sự xích lại gần nhau về tiến bộ về đời sống tinh thần giữa các giai
cấp, tầng lớp. Xu hướng này thể hiện trực tiếp thông qua cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá. Từ đó tác động đến sự
xích lại gần nhau và xoá bỏ dần mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn,
giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
Những xu hướng trên đây không tách rời nhau và được thể hiện trên các
lĩnh vực chính trị, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của xã hội.
b) Những vấn đề có tính quy luật của sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai
cấp
- Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp được quy định bởi biến động
cơ cấu kinh tế, cụ thể là cơ cấu ngành nghề kinh tế, thành phần kinh tế, cơ
chế hành chính, kinh tế - xã hội. Yếu tố kinh tế luôn giữ vai trò quyết định
đối với các vấn đề xã hội trong thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh
tế tất yếu đưa tới cơ cấu xã hội - giai cấp đa dạng và phức tạp. Trong thời
kỳ này có những giai cấp, tầng lớp của cơ cấu xã hội - giai cấp mới và cũ,
có đông đảo nhân dân lao động và tồn tại một bộ phận của giai cấp, tầng
lớp bóc lột. Cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ tuy vận động theo cơ chế
109
thị trường, song có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Về mặt chủ quan, cơ cấu xã hội - giai cấp mới hình thành lại tác
động trực tiếp tới sự củng cố và phát triển cơ cấu kinh tế mới.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà những nhân tố của xã hội mới và tàn tích
của xã hội cũ tồn tại đan xen, đấu tranh với nhau. Cơ cấu xã hội - giai cấp
luôn biến đổi trong mọi xã hội. Do đặc điểm của thời kỳ quá độ, quá trình
biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp cũ sang cơ cấu xã hội giai cấp mới là quá
trình liên tục, đa dạng, phức tạp và mạnh mẽ. Quá trình này sẽ dần dần ổn
định vào giai đoạn sau khi nền kinh tế đã ổn định, lực lượng sản xuất đã
phát triển và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đạt được những kết
quả cơ bản.
Cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội biến
động và phát triển trong mối quan hệ vừa có mâu thuẫn, vừa có mối quan
hệ liên minh với nhau, tiến tới xoá bỏ hiện tượng bất bình đẳng trong xã
hội, đưa đến sự xích lại gần nhau giữa các giai cấp, tầng lớp cơ bản trong
xã hội, đặc biệt là giữa công nhân, nông dân, trí thức. Mức độ và quá trình
biến đổi này phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ở mỗi
giai đoạn cụ thể. Mâu thuẫn và liên minh thể hiện tính độc lập tương đối và
tính phát triển đa dạng của các giai tầng xã hội tạo nên sự hợp tác, xích lại
gần nhau giữa các giai tầng cơ bản trong xã hội, xoá dần những quan hệ
bóc lột giữa người với người.
- Xu hướng phát triển cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam trong thời
kỳ quá độ mang tính đa dạng và thống nhất. Tính đa dạng thể hiện ở sự tồn
tại các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội trong nền kinh tế nhiều thành
phần và ngay cả trong cơ cấu của mỗi giai tầng đó cũng mang tính đa dạng
và có sự thay đổi, vận động nhanh chóng để tiến tới sự ổn định tương đối ở
các giai đoạn cuối của thời kỳ quá độ. Tính thống nhất thể hiện ở chỗ trong
cơ cấu xã hội - giai cấp ấy, giai cấp công nhân, lực lượng tiêu biểu cho
phương thức sản xuất giữ vai trò chủ đạo trong quá trình cải biến xã hội.
Điều này thể hiện ở chỗ giai cấp công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ
cả về số lượng, chất lượng với cơ cấu hợp lý. Đồng thời vai trò chỉ đạo đó
còn thể hiện ở sự phát triển của mối quan hệ liên minh giữa giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và trí thức ngày càng giữ vị trí nền tảng chính trị -
xã hội của nước ta. Từ đó tạo nên sự thống nhất của cơ cấu xã hội - giai cấp
trong suốt thời kỳ quá độ.
110
II. Liên minh công - nông - trí thức trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
1. Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân
và trí thức
- Khi tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở châu Âu, nhất là ở Anh,
Pháp cuối thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khái quát thành lý luận về
liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra
nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu tranh là do giai cấp
công nhân không tổ chức được mối liên minh với "người bạn đồng minh tự
nhiên" của mình là giai cấp nông dân. Do vậy, trong các cuộc đấu tranh
này, giai cấp công nhân luôn đơn độc và cuộc cách mạng vô sản này đã trở
thành "bài ca ai điếu".
Trong điều kiện đã phát triển cao của chủ nghĩa tư bản (chủ nghĩa đế
quốc), V.I. Lênin đã vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen
về tổ chức liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác trong Cách
mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917). Trong thời kỳ đầu của
thời kỳ quá độ, không chỉ có liên minh công, nông mà còn liên minh với
các tầng lớp lao động khác. Ngay cả trong chuyên chính vô sản, V.I. Lênin
khẳng định: "Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của liên minh
giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người lao động, với
đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ,
nông dân, trí thức, v.v.)"1. Chủ nghĩa Mác - Lênin xác định trong thời kỳ
quá độ không chỉ liên minh giữa các giai cấp mà bỏ qua các tầng lớp lao
động khác mà ngược lại, rất cần phải liên minh với họ để thực hiện mục
tiêu chung do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Trong một nước nông nghiệp đại đa số dân cư là nông dân thì vấn đề
giai cấp công nhân liên minh với họ là điều tất yếu. V.I. Lênin đặc biệt lưu
ý mối liên minh công, nông trong các giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội:
"Nguyên tắc cao nhất của chuyên chính là duy trì khối liên minh giữa giai
cấp vô sản và nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo
và chính quyền nhà nước"2. Qua mối liên minh này, lực lượng đông đảo
nhất trong xã hội là nông dân, công nhân được tập hợp về mục tiêu chung
là xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn thể dân tộc. Đây là điều
kiện để giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Đó chính là tính tất yếu về
mặt chính trị - xã hội, là yếu tố tiên quyết.
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t. 38, tr. 452.
2. V.L. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.44, tr. 57.
111
- Liên minh công - nông - trí thức là nhu cầu giữ vững vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân, nhu cầu tự giải phóng của nông dân và nhu cầu
phát triển của trí thức.
2. Nội dung của liên minh công - nông - trí thức
Liên minh công - nông - trí thức là sự hợp tác toàn diện giữa công
nhân, nông dân và trí thức trong tất cả các mặt khác nhau của đời sống xã
hội.
- Nội dung kinh tế: Nhằm thoả mãn các nhu cầu, lợi ích kinh tế của
công nhân, nông dân và trí thức.
- Nội dung chính trị: Khối liên minh công - nông - trí thức là cơ sở
vững chắc cho khối đại đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh vượt qua
những khó khăn trở ngại, đập tan âm mưu chống phá chủ nghĩa xã hội, xây
dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Liên minh công - nông - trí thức được xây
dựng và củng cố vững chắc chính là để đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân đối với toàn xã hội.
- Nội dung văn hoá xã hội: Liên minh công - nông - trí thức nhằm
đảm bảo xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, có
khả năng tiếp thu các giá trị, tinh hoa văn hoá của loài người. Trong nội
dung văn hoá - xã hội, trí thức giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công, nông, trí
thức dưới góc độ kinh tế giữ vai trò quyết định. Điều này do sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội quy định, do phải gắn chặt nông nghiệp với công
nghiệp, với dịch vụ, khoa học và công nghệ để thực hiện việc thoả mãn lợi
ích kinh tế cả trước mắt và cả lâu dài, cơ bản của xã hội. Trong thời đại
ngày nay, vai trò của tri thức ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp thì sự liên minh giữa công nhân với nông dân, trí thức trở thành vô
cùng quan trọng để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Như vậy, sự liên
minh về mặt kinh tế là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội quy định.
III. Cơ cấu xã hội - giai cấp và liên minh công - nông -
trí thức trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
1. Cơ cấu xã hội - giai cấp trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta
- Đặc điểm cơ bản có liên quan đến cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời
112
kỳ quá độ ở nước ta là sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần. Đằng
sau các thành phần kinh tế là các giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định. Tương
ứng với nền kinh tế nhiều thành phần là một cơ cấu giai cấp đa dạng, phức
tạp bao gồm các giai cấp, tầng lớp vừa liên minh, vừa đấu tranh với nhau,
trong đó giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo. Sự hình thành cơ chế thị
trường đã dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu xã hội - giai cấp cùng với
sự vận động phức tạp của các giai tầng xã hội. Tính đa dạng, phức tạp còn
thể hiện ở sự biến đổi về chất ngay trong cơ cấu của từng giai cấp, tầng lớp
xã hội.
- Cơ cấu giai cấp ở Việt Nam hiện nay bao gồm: giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, người sản xuất nhỏ, tầng lớp doanh
nhân. Liên minh công - nông - trí thức là cơ sở của toàn xã hội, làm cơ sở
chính trị - xã hội vững chắc cho chế độ mới. Giai cấp công nhân giữ vai trò
lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển của xã hội. Nông dân và các tầng
lớp nhân dân lao động trở thành người làm chủ xã hội. Trí thức ngày càng
có vai trò quyết định trong việc ứng dụng những thành tựu của cách mạng
khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước. Tầng lớp
doanh nhân phát huy tiềm năng và vai trò tích cực của mình, hoạt động
theo luật pháp và định hướng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Cơ cấu xã hội - giai cấp nước ta biến đổi theo xu hướng tiến bộ,
được phản ánh ở sự thay đổi tích cực của các giai cấp tầng lớp xã hội (công
nhân, nông dân, trí thức...). Do tính chất chưa ổn định về mặt xã hội, mới
chỉ là định hướng xã hội chủ nghĩa nên trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá
độ, các giai cấp, tầng lớp phát triển đa dạng. Sự ổn định dần của kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa sẽ tạo điều kiện hình thành từng bước một cơ cấu
xã hội - giai cấp định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến giai đoạn cuối của thời
kỳ quá độ, các giai cấp, tầng lớp xích lại gần nhau hơn, liên minh, hợp tác
chặt chẽ, ổn định hơn. Trong suốt thời kỳ quá độ, liên minh công - nông -
trí thức là lực lượng chính trị - xã hội cơ bản, là nền tảng của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. Liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và trí thức trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
a) Đặc điểm của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức Việt Nam
- Giai cấp công nhân Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của giai cấp
công nhân hiện đại và còn có những đặc điểm riêng của mình. Đó là do ra
đời trước giai cấp tư sản Việt Nam nên giai cấp công nhân Việt Nam có
điều kiện sớm giữ vai trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay từ khi có Đảng của
113
mình. Hơn nữa, sự gắn bó giữa công nhân và nông dân đã hình thành một
cách tự nhiên, phần lớn xuất thân từ nông dân nên giai cấp công nhân Việt
Nam đã mang sẵn trong mình mối liên minh với nông dân và luôn giữ được
vai trò lãnh đạo trong quá trình cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, sẽ có nhiều người nông dân
vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp và trở thành công nhân ở chính ngay
quê hương mình. Điều này càng tạo cho sự gắn bó của giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân, nông thôn một cách tự nhiên trên nhiều mặt của đời
sống xã hội.
- Giai cấp nông dân là giai cấp của những người lao động sản xuất vật
chất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... trực tiếp sử dụng một tư
liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản
xuất ra nông sản. Nông dân có phương thức sản xuất phân tán, năng suất
thấp. Theo V.I. Lênin, nông dân có "bản chất hai mặt" một mặt họ là những
người lao động (đây là mặt cơ bản nhất); mặt khác, họ là những người tư
hữu nhỏ (đây là mặt hạn chế sẽ được khắc phục trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá). Tuy nhiên, nông dân không dựa trên tư hữu nhỏ
này để bóc lột các giai cấp, tầng lớp khác.
Giai cấp nông dân không có hệ tư tưởng riêng mà tư tưởng của họ phụ
thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Họ vốn có cơ cấu
không thuần nhất, không có sự liên kết chặt chẽ cả về kinh tế và cả về tư
tưởng, tổ chức. Trong một nước nông nghiệp thì họ là lực lượng chính trị -
xã hội đông đảo nhất và khi được giác ngộ họ trở thành lực lượng cách
mạng to lớn nhất trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thực sự
giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột và trở thành người làm chủ xã hội và
đóng góp to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
- Trí thức bao gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo,
có trình độ học vấn đủ để am hiểu và hoạt động trong lĩnh vực lao động của
mình. Họ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng
dụng khoa học, văn học, nghệ thuật, lãnh đạo và quản lý... Sản phẩm lao
động của trí thức tác động quyết định đến năng suất lao động, đến sự phát
triển xã hội về cả mặt đời sống vật chất và cả về đời sống tinh thần.
Trí thức không có hệ tư tưởng riêng vì không có phương thức sản xuất
riêng và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ phụ
thuộc vào giai cấp thống trị xã hội. Mặc dù vậy, trí thức luôn giúp giai cấp
thống trị khái quát về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống
114
trị xã hội.
Trong các chế độ tư hữu đa số trí thức là những người lao động bị áp
bức, bóc lột. Khi được sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trí thức trở
thành người làm chủ xã hội và đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. ở Việt Nam, trí thức đã có nhiều đóng góp trong quá trình
đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đại
bộ phận được đào tạo trong chế độ mới. Họ xuất thân chủ yếu từ nông dân,
công nhân và các tầng lớp lao động khác. Do vậy họ có mối liên hệ gần gũi
với công nhân, nông dân và luôn là lực lượng cơ bản của cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ ngày càng trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp và trí thức ngày càng có vai trò, vị trí
quan trọng, nhất là trong quá trình xây dựng kinh tế tri thức và quá trình
hội nhập khu vực và quốc tế.
b) Nội dung cơ bản của liên minh giữa công nhân với nông dân và trí
thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nguyên tắc cơ bản nhất của liên minh là kết hợp đúng đắn các lợi ích
về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Lợi ích của giai cấp công nhân phù
hợp với lợi ích dân tộc và đồng thời thoả mãn lợi ích của đại đa số nhân
dân lao động nên quan hệ giữa các giai tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là quan hệ hợp tác, đấu tranh trong nội bộ nhân dân vì mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
• Nội dung chính trị của liên minh
- Nhu cầu, lợi ích chính trị cơ bản của công nhân, nông dân, trí thức
và của cả dân tộc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mỗi giai cấp,
tầng lớp ở mỗi giai đoạn đều có lập trường chính trị - tư tưởng của mình.
Khi liên minh không phải là thực hiện sự dung hoà lập trường tư tưởng -
chính trị của cả ba giai cấp, tầng lớp này. Khi chưa giác ngộ cách mạng vô
sản thì tư tưởng chính trị của nông dân, trí thức cơ bản còn phụ thuộc vào
hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội phong kiến hoặc tư bản. Mặc dù có
nguyện vọng nhưng nông dân và trí thức không thể tự giải phóng khỏi chế
độ tư bản, áp bức bóc lột. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa liên minh
giữa ba giai tầng này phải trên lập trường chính trị - tư tưởng của giai cấp
công nhân. Bởi vì chỉ có dựa trên và phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng
của giai cấp công nhân thì mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu, lợi ích
của giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức.
- Nguyên tắc về chính trị của liên minh là do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo. Để thực hiện từng bước mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản
115
của liên minh trên lập trường tư tưởng - chính trị của giai cấp công nhân thì
liên minh này phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Trong thời kỳ quá độ, liên minh công, nông, trí thức là nền tảng chính
trị - xã hội và kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, là nòng cốt của Mặt
trận Tổ quốc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Dựa trên lập trường tư tưởng - chính trị của giai cấp công nhân, để
thực hiện liên minh cần phải xây dựng từng bước nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa chính do yêu cầu của nền dân chủ này mà nội dung chính trị của liên
minh công, nông, trí thức không tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ
thống chính trị trên phạm vi cả nước. Trong điều kiện hội nhập khu vực và
quốc tế, với nền kinh tế nhiều thành phần và đa dạng thì việc cụ thể hoá của
đổi mới nội dung và tổ chức hoạt động của các tổ chức chính trị của công
nhân trong các loại hình xí nghiệp công nghiệp, nông dân ở các cơ sở lao
động sản xuất nông thôn và trí thức ở các cơ sở khoa học, công nghệ là rất
cần thiết. Nội dung hoạt động chính trị phải gắn và thông qua các hoạt
động sản xuất, kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá, xã hội,... Các hoạt
động này luôn vận động và đổi mới với tốc độ ngày càng nhanh chóng do
đó các hình thức cụ thể của hệ thống chính trị phải được đổi mới cho phù
hợp và tạo điều kiện cho các hoạt động phát triển tốt. Đương nhiên tất cả
các hoạt động này phải hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
• Nội dung kinh tế của liên minh
Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật
chất-kỹ thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ
này, nhiệm vụ cách mạng chuyển trọng tâm sang lĩnh vực kinh tế cho nên
nội dung kinh tế mà thực chất là kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế của
các giai tầng xã hội được lấy làm trọng tâm (mà trong các giai đoạn trước
đó chưa đặt ra một cách trực tiếp). Việc thực hiện kết hợp các lợi ích kinh
tế được xác định bởi các nhu cầu kinh tế của các chủ thể lợi ích và các điều
kiện thực hiện nó. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta trong thời kỳ
quá độ được cụ thể hoá ở các điểm sau đây:
- Xuất phát từ thực trạng, tiềm năng kinh tế của nước ta để xác định cơ
cấu kinh tế hợp lý trong đó phải tính đến những nhu cầu về kinh tế của
công nhân, nông dân, trí thức và của toàn xã hội trong các điều kiện, thời
gian cụ thể. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của cả nước là "công -
nông nghiệp - dịch vụ". Điều này thể hiện rõ nội dung kinh tế của liên minh
công, nông, trí thức, là điều kiện, môi trường để các giai tầng hoạt động và
phát triển sự liên minh. Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta xác định "từng
116
bước phát triển kinh tế tri thức"1 trong quá trình hội nhập khu vực và quốc
tế đã tạo điều kiện cho trí thức ngày càng gắn bó với sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế khác. Từ đó mối liên minh công, nông,
trí thức ngày càng có khả năng tăng cường hơn.
- Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình
thức hợp tác, liên kết, giao lưu,... trong cả sản xuất, lưu thông phân phối
giữa công nhân, nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông
nghiệp, khoa học công nghệ và các dịch vụ khác; giữa các địa bàn, vùng
miền dân cư trong cả nước.
Trong điều kiện từ một nước nông nghiệp tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, Đảng ta xác định: "Đặc biệt coi trọng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm,
ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; phát triển
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo,
mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế"1. Nông
dân chiếm đại bộ phận về số lượng và khu vực nông thôn còn nhiều tiềm
năng chưa được khơi dậy và cũng có nơi còn nhiều khó khăn, thiệt thòi. Do
đó, một mặt phải khuyến khích, tạo điều kiện cho người nông dân ngày
càng chủ động trong việc hợp tác, liên kết với công nhân, trí thức và các
thành phần kinh tế để họ phát huy được tiềm năng của mình. Mặt khác,
Nhà nước, giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức phải thực sự đến với nông
dân, nông thôn không chỉ hợp tác mà còn có nhiệm vụ hướng dẫn, giúp đỡ
cải thiện đời sống kinh tế cho nông thôn và giai cấp nông dân. Đó cũng
chính là nhu cầu kinh tế của chính Nhà nước, của các giai cấp công, nông,
trí thức.
- Từng bước hình thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong quá
trình thực hiện liên minh. Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần phải được thể hiện qua việc đa dạng và đổi mới các hình thức hợp tác
kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn.
Theo V.I. Lênin, chế độ hợp tác xã là con đường dễ tiếp thu nhất đối với
nông dân, khi thấy có lợi cho họ, họ sẽ mau chóng tham gia hợp tác xã
nhưng phải do chế độ hợp tác xã hưởng một số đặc quyền kinh tế, tài chính,
ngân hàng2. Trong quá trình hình thành quan hệ sản xuất phải trên cơ sở
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr. 263.
1.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tr. 86.
2. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t. 45, tr. 425.
117
công hữu hoá những tư liệu sản xuất chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên
giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò của
Nhà nước. ở nước nông nghiệp, vai trò của Nhà nước có vị trí đặc biệt quan
trọng trong việc thực hiện liên minh. Đặc biệt, vai trò của Nhà nước đối với
nông dân được thể hiện qua chính sách khuyến nông, qua bộ máy nhà
nước, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế nhà nước. Nông nghiệp,
nông thôn không chỉ là một ngành kinh tế, một khu vực kinh tế mà còn là
lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái - xã hội.
Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: "Đối với giai cấp nông dân... tập
trung sự chỉ đạo và các nguồn lực cần thiết cho công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, phát triển nông thôn; thực hiện tốt các chính sách về
ruộng đất, phát triển nông nghiệp toàn diện, tiêu thụ nông sản hàng hoá,
bảo hiểm sản xuất và bảo hiểm xã hội; phát huy lợi thế từng vùng, giúp đỡ
vùng khó khăn; phân bố dân cư theo quy hoạch, phát triển ngành nghề, giải
quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí,
xây dựng nông thôn mới"1. Nhà nước có những chính sách hợp lý thể hiện
quan hệ của mình với nông dân, tạo điều kiện cho liên minh phát triển.
Đối với trí thức, Nhà nước cần phải đổi mới và hoàn chỉnh các luật,
chính sách có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách về phát
triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, về bản quyền tác giả, về
báo chí, xuất bản, về văn học nghệ thuật,... Hướng các hoạt động của trí
thức vào việc phục vụ công, nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống của
toàn xã hội. Xây dựng hệ thống các cơ quan hoạt động khoa học - công
nghệ, phát huy tiềm năng đội ngũ cán bộ khoa học, tăng cường hợp tác
khoa học trong nước và quốc tế.
• Nội dung văn hoá, xã hội của liên minh
Nội dung chính trị mang tính nguyên tắc, nội dung kinh tế là cơ bản
quyết định nhất và suy cho cùng là để phục vụ mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thoả mãn nhu cầu vật chất,
tinh thần của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của
toàn xã hội. Liên minh về văn hoá, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể
sau đây:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001, tr. 125.
118
- "Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái"2. Đó
chính là ưu việt của chủ nghĩa xã hội, tất cả cho con người, vì con người và
do con người, trong đó lực lượng đông đảo nhất, nòng cốt là công nhân,
nông dân, trí thức. Từ đó tạo cho công nhân, nông dân, trí thức trực tiếp thể
hiện vai trò chủ thể của mình trong các hoạt động và là chủ thể trong hưởng
thụ thành quả của xã hội.
- Vấn đề xoá đói giảm nghèo cho công, nông, trí thức chủ yếu bằng
tạo việc làm đồng thời kết hợp các giải pháp hỗ trợ, cứu trợ. Giải quyết
được vấn đề này sẽ khắc phục được hạn chế của các chế độ tư hữu trước
đây: con người là vốn quý của xã hội, nhưng người lao động nếu thất
nghiệp thì họ lại trở thành gánh nặng cho xã hội, trở thành một trong các
nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, đổ vỡ của chế độ xã hội.
- Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội trong điều kiện đại đa
số các gia đình thương binh, liệt sĩ, có công với nước, chịu hậu quả chiến
tranh là một trong những nội dung cơ bản của liên minh. Các chính sách
này để hỗ trợ nông dân, công nhân, trí thức và tạo điều kiện cho họ khắc
phục khó khăn sau chiến tranh, đồng thời nội dung này còn mang ý nghĩa
giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống,... cho toàn xã hội và các thế hệ sau.
- Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản lâu dài tạo cho liên minh phát
triển vững chắc. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xoá mù
chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở và phổ
cập trung học, nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu, các biểu
hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu, nhất là ở nông thôn. Dân tộc Việt
Nam vốn có truyền thống tôn sư, trọng đạo, hiếu học và chăm chỉ cần cù
nên việc đầu tư cho giáo dục cả về vật chất lẫn tinh thần là được đặc biệt
chú trọng. Đây vừa là thuận lợi, là yếu tố thúc đẩy tiến bộ xã hội, đồng thời
vừa là yêu cầu nâng cao chất lượng đối với sự nghiệp giáo dục. Vấn đề gắn
bó với trí thức cách mạng, với tầm cao của tri thức của công nhân, nông
dân và các tầng lớp nhân dân lao động là cơ sở vững chắc, có tính truyền
thống được kế thừa trong nhiều đời nay của dân tộc ta.
- Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học, công nghệ với quy
hoạch phát triển nông thôn, đô thị hoá, công nghiệp hoá những trọng điểm
ở nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại. Xây dựng
2.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tr. 72.
119
các cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, các công trình phúc lợi công
cộng một cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là ở vùng
núi, vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá nông thôn, khai thác
những tiềm năng của nông lâm ngư nghiệp. Đẩy mạnh việc nghiên cứu,
chuyển giao công nghệ ở khu vực nông, lâm, ngư nghiệp.
Đối với những nước nông nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta
thì liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức vừa là vấn đề có tính
quy luật tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và vừa là lực
lượng sản xuất, lực lượng chính trị cơ bản và đông đảo nhất của quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com