Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Phần Tay Chân

Phần Tay Chân: Chuyện Linh Tinh

1. PHIÊN DỊCH VIỆT ANH THEO NGUYÊN TÁC: MỘT VÀI KINH NGHIỆM CÁ NHÂN

(QUA MỘT SỐ VĂN BẢN TÀI LIỆU CỘNG SẢN)

(bài của Henrette Tran)

           Quí độc giả chắc ai cũng nghĩ rằng người phiên dịch phải nắm vững cả hai ngôn ngữ mà người ấy làm việc chuyển ngữqua lại. Như vậy, đối với một người Việt làm việc dịch thuật từ Anh sang Việt hay ngược lại, những vấn đề như ngữ pháp, từ vựng,..., của hai sinh ngữ này hẳn là những thứ người ấy phải thuộc làm lòng, và do đó, việc dịch xuôi hay ngược đối với đương sự chắc phải dễ dàng như trở bàn tay.

           Tuy nhiên, thông thường khi được phân công dịch từ Anh sang Việt, người ấy có lẽ thấy thoải mái dễ chịu hơn (người ta thường gọi làm như thế là dịch xuôi—cái gì xuôi thường dễ hơn), bởi vì ý nghĩ “Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của mình mà!” là chỗ dựa đầy chủ quan giúp đương sự an toàn không sợ sai, ít nhất là về ngữ pháp. Đương sự có thể sẽ không còn cảm nghĩ đó nữa khi dịch từ Việt sang Anh (người ta gọi như thế là dịch ngược—cái gì ngược hẳn là phải khó hơn), bởi vì Anh ngữ là tiếng nước ngoài mà chỉ trừ những ai được huấn luyện tới nơi tới chốn mới dám tự hào rằng mình thông suốt sinh ngữ Hồng Mao này về mọi mặt, để có thể đưa ra những bài dịch đúng, hay và không bị chê là văn dịch, còn ít ai có đủ gan để nhận mình là “một cây dịch thuật.”

           Trong số ít ai đó có tôi là kẻ dám mạnh bạo viết bài tiểu luận này, bởi vì tôi chưa hề được huấn luyện tường tận và nghiêm chỉnh về dịch thuật Anh-Việt hay Việt-Anh. Dù vậy, do nhu cầu khách quan và nhờ vốn hiểu biết chút ít của mình về Anh ngữ, tôi được giao công tác dịch thuật qua lại giữa hai sinh ngữ này ở những môi trường khác nhau, trong một thời gian đủ dài để có một vài kinh nghiệm nghề nghiệp nho nhỏ, nhất là kinh nghiệm về dịch từ Việt sang Anh, bởi vì trong phần lớn thời gian làm việc, tôi được giao cho chuyển ngữ chiều ngược này.

           Nhưng có một điều nghe như nghịch lý đối với tôi khi làm việc này là chính những bản nguyên tác tiếng Việt lại gây khó khăn cho tôi nhiều hơn. Khó khăn thứ nhất là do tôi đọc không hiểu nguyên tác có đầy những từ ngữ, nhóm từ ngữ chuyên môn và mới lạ, nằm ngoài số vốn ngữ vựng tiếng Việt thông thường của tôi. Nhận biết đây là cái yếu kém của mình, một mặt tôi tự tìm kiếm sách vở tài liệu tham khảo, mặt khác tôi đi “tầm sư học đạo” để giúp mình cố hiểu cho được. Nhờ vậy vấn đề này rồi cũng được giải quyết tương đối ổn thoả. Dĩ nhiên cũng có khi không tìm ra sách ra thầy, hoặc trong lúc túng thế, tôi phải đem vốn hiểu biết tiếng Việt rất hạn chế của mình ra để “tự cứu mình,” nhưng kết quả hẳn nhiên là không bảo đảm bằng khi có sự viện trợ từ bên ngoài!

           Khó khăn thứ hai—tôi cho là quan trọng hơn cần phải vượt qua trước khi phiên dịch—phát xuất từ cú pháp hay cách đặt câu của tác giả nguyên tác mà tôi nghĩ chưa được chỉnh hoặc thiếu mạch lạc. Cũng theo thiển ý, khi viết những câu văn như thế, tác giả rất có thể đã chủ quan ỷ lại mình là giáo sư, “phó tiến sĩ,” nhà văn, nhà báo, nhà biên tập,..., muốn viết sao cũng được, không cần phải đọc lại hay sửa chữa bản thảo gì cả, và cuối cùng độc giả buộc phải hiểu thông suốt những gì họ muốn truyền đạt.

           Thế nhưng tại sao câu văn nguyên tác không chỉnh lại gây trở ngại cho người phiên dịch? Câu hỏi này cũng dễ trả lời, bởi vì nếu người phiên dịch không cẩn thận hoặc không hiểu biết mà sửa câu lại cho chỉnh trước khi dịch thì bản dịch của đương sự cũng thành không đúng, và do đó, người đọc hoặc sẽ không hiểu nó hoặc sẽ phê “Dịch giả này phải học thêm tiếng nước ngoài chừng mười năm nữa thì mới nên dịch.” (Nhái lời nhận xét mà ông Phạm Công Thiện đã ban cho người dịch một truyện ngắn Pháp sang tiếng Việt, cách đây mấy chục năm.) Nói khác đi, người phiên dịch như thế đã không đạt được mục đích tối hậu của mình: đó là làm cho người đọc bản dịch hiểu nó cũng như chính mình hiểu nguyên tác.

           Đối với đại đa số người Việt chúng ta, việc muốn biết một câu văn tiếng Việt nào đó có cấu trúc hoàn chỉnh hay không, không phải là chuyện ghê gớm gì. Tuy nhiên, đối với người phiên dịch, tôi thiết nghĩ, một kiến thức thâm sâu hơn về cấu trúc câu tiếng Việt là điều không thể thiếu để có thể làm công việc của mình một cách hiệu quả.

           Tuy chưa bao giờ được huấn luyện một cách chuyên biệt về tiếng Việt, tôi có những nhận xét sau đây về tiếng mẹ đẻ của mình sau những năm tháng làm thông phiên dịch vừa non tay nghề vừa bất đắc dĩ. Những nhận xét qua kinh nghiệm này đã giúp tôi phác hoạ cho mình một trình tự phải theo mỗi khi làm việc. Trình tự này tất nhiên không thể là một thứ “khuôn vàng thước ngọc” để mọi người noi theo, bởi vì nó do suy nghĩ chủ quan của cá nhân mà thành, không phải do huấn luyện nghiêm chỉnh nơi nhà trường mà có. Tuy nhiên, khi áp dụng nó vào thực tế dịch thuật, tôi nhận thấy nó có vẻ có hiệu quả tốt, bởi vì bài dịch của tôi ít khi bị trả lại hoặc bị hiệu đính nhiều.

           Nhận xét đó là, cũng giống như văn viết của nhiều ngôn ngữ khác, văn xuôi tiếng Việt của chúng ta chính yếu gồm những câu đơn nòng cốt được nối với nhau bằng những liên từ hay cụmtừ ngữ chuyển ý. Mỗi câu đơn này, nếu đem phân tích xa hơn nữa về mặt ngữ pháp, có thể có các yếu tố tạo thành mà trật tự trước sau thông thường như sau: đứng đầu là chủ từ (Subject), tiếp đó là động từ (Verb), sau cùng là túc từ (Complement).

           Nhưng không phải câu đơn nào cũng có đủ ba yếu tố vừa kể. Có câu thiếu yếu tố đầu; có câu thiếu yếu tố cuối; và thậm chí có câu thiếu cả yếu tố đầu và cuối mà vẫn đầy đủ ý nghĩa. Chỉ khi nào thiếu yếu tố giữa, tức là động từ, câu đó mới không chỉnh—nhưng điều này cũng chỉ đúng khi nó được xét độc lập với văn cảnh. Điều này chứng tỏ sự cần thiết của động từtrong cấu trúc câu tiếng Việt. Như vậy, người phiên dịch buộc phải tìm ra cho được từ ngữ hay nhóm từ ngữ làm nhiệm vụ của động từ mỗi khi làm việc chuyển ngữ.

           Hay nói một cách khác, bất cứ một câu đơn tiếng Việt nào đó cũng diễn đạt ý sau đây: “Ai đó hay cái gì đó (chủ từ) làm một động tác gì đó (động từ) có tác dụng đến một đối tượng nào khác (túc từ)” Một điều rất may mắn cho việc dịch thuật của tôi là sự kiện câu đơn tiếng Anh cũng có trật tự từ ngữ tương tự như trong câu đơn tiếng Việt.

           Sau khi biết được cấu trúc câu đơn gồm các yếu tố cấu thành như thế và trước khi dịch, tôi đọc từng câu nguyên tác và cố nhận diện từng yếu tố một bằng cách tự đặt ra và trả lời những câu hỏi như ai? cái gì? làm việc gì? có tác dụng đến ai, đến cái gì? Khi tôi có thể trả lời được mấy câu hỏi ấy và nhận thấy những lời giải của mình là hợp lý, công việc dịch thuật kế tiếp cũng tương đối đơn giản.

           Tuy nhiên, không phải lúc nào tôi cũng có thể trả lời mấy câu hỏi căn bản đó một cách dễ dàng, hợp lý, nhất là khi gặp phải bản nguyên tác mà tác giả vì lý do này hay lý do khác không viết rõ ràng, mạch lạc. Trong những trường hợp như thế, đặc biệt ở những câu dài hơn bình thường, tôi phải vận dụng trí thông minh có giới hạn của mình để khi đọc lại nguyên tác, cố tìm ra cấu trúc của nó, sắp xếp lại các yếu tố theo trật tự mà tôi cho là hữu lý nhất, và nếu cần, tôi chia câu lại thành nhiều phần ngắn hơn, hoặc viết nó hẳn lại theo cách suy nghĩ của mình. Dĩ nhiên, tất cả công việc này tôi phải thực hiện thế nào để nội dung của bản văn mới sửa không thay đổi so với bản gốc, hoặc có thay đổi chút ít nhưng không được phản lại nguyên tác, trước khi chuyển nó sang Anh ngữ.

           Sau đây để minh hoạ cho những điều vừa trình bày trên, tôi trích một số câu văn, đoạn văn tiêu biểu từ sách, báo, tạp chí, tham luậncộng sản mà tôi đã phải phiên dịch hoặc có đọc qua. Lý do tôi nêu những câu văn đoạn văn này làm thí dụ hoàn toàn có tính cách hình thức về cấu trúc câu tiếng Việt, không có ý phê bình nội dung của chúng, mặc dù đôi khi tôi có chạm sơ về mặt này. Tất cả đều có xuất xứ cụ thể và đều được trích nguyên văn với dấu chấm câu của bản gốc. Trong mỗi loại tôi chỉ trích dẫn một hoặc hai câu điển hình, dù tôi đã gặp rất nhiều câu khác đáng nêu ra làm thí dụ để phân tích.

           Sau khi phân tích những câu này, tôi có “qua mặt” tác giả của chúng để sửa chúng lại thành những câu có cấu trúc mà tôi chủ quan cho là rõ ràng, mạch lạc hơn, đúng mẹo luật hơn, giúp tôi phiên dịch dễ dàng hơn, và khi dịch tôi căn cứ vào những câu đã được viết lại đó. Để giúp quí độc giả theo dõi dễ dàng, tôi đánh số thứ tự tất cả những câu trích dẫn; những số có kèm mẫu tự R chỉ những câu đã được viết lại và in nghiêng.

  NHỮNG CÂU DÀI HƠI BẤT THƯỜNG

           Trước hết, xin đề nghị quí độc giả xem câu sau đây trích trong bài xã luận tựa đề “Sắp Xếp Bộ Máy Quản Lý Hợp Tác Xã, Tập Đoàn Sản Xuất Nông Nghiệp,” đăng trên báo Nhân Dân(cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam), số 12451, ra ngày 15-8-1988. Phần in nghiêng chỉ những nhóm từ ngữ được nhắc tới khi phân tích.

           (1) “Với yêu cầu đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, đội ngũ cán bộ quản lý ở nhiều hợp tác xã và tập đoàn sản xuất đã có sáng tạo trong việc áp dụng các hình thức quản lý thích hợp với điều kiện cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện có, khuyến khích ‘ai giỏi nghề gì, làm nghề ấy,’ trên cơ sở mở rộng và hoàn thiện khoán sản phẩm theo đơn giá đến gia đình và nhóm gia đình xã viên, khoán đấu thầu, hạch toán và phân phối theo ngành nhằm tạo điều kiện cho mọi người có việc làm, đủ ăn; phát triển sản xuất hàng hoá, bảo đảm tính dân chủ và công khai trong sản xuất và phân phối sản phẩm.”

           Một câu văn duy nhất mà chiếm toàn chiều ngang bài xã luận hai cột báo và chiều cao đo được tới 4 cm thì quả là dài hơi bất thường—tổng cộng 129 chữ! Theo thiển ý, một câu văn dài thường thường có khuyết điểm là làm cho độc giả mệt trí vì phải vận dụng trí nhớ nhiều hơn bình thường và không cần thiết; nếu không, họ có thể đã quên mất phần đầu của câu khi đọc đến phần cuối. Tôi là một độc giả bình thường và tự cho là có trí nhớ cũng bình thường, cho nên đọc câu văn trên đến phần cuối, tôi thắc mắc AI hoặc CÁI GÌ phát triển sản xuất hàng hoá, AI hay CÁI GÌ bảo đảm tính dân chủ,...?

          Căn cứ theo câu trúc tiếng Việt, câu này tuy dài như vậy nhưng lại là câu đơn, và căn cứ theo cách chấm câu nguyên tác (có dấu chấm phẩy sau đủ ăn chia câu thành hai phần), tôi thấy nó có 3 cụm động từ là đã có sáng tạo, phát triểnbảo đảm. Nhưng đọc kỹ và cân nhắc lại, tôi thấy có lẽ nên để khuyến khích làm một cụm động từ nữa cho câu thành hợp lý hơn, vì để chủ ngữ là đội ngũ cán bộ quản lý làm việc khuyến khích, mở rộnghoàn thiện nghe có lý hơn là để các hình thức quản lý làm việc khuyến khích. Tất cả những từ ngữ đơn lẻ hay nhóm từ ngữ còn lại thì tuỳ vị trí và ý nghĩa của chúng so với chủ từ, động từ, hay túc từ tôi xếp chúng vào làm thành nhóm chủ từ, nhóm động từ và nhóm túc từ.

           Dựa vào những lập luận trên, tôi chia câu nguyên tác thành 3 câu ngắn hơn, sau khi đã sửa chữa, thêm thắt một số từ ngữ, đổi lại cách chấm câu cho rõ ràng; do đó, câu nguyên tác trở thành dễ dàng cho việc dịch thuật của tôi hơn. Câu (1) bây giờ là:

           (1R) “Đáp ứng yêu cầu hiện tại về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, đội ngũ cán bộ quản lý ở nhiều hợp tác xã và tập đoàn sản xuất đã áp dụng một cách sáng tạo nhiều biện pháp quản lý thích hợp với điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có. Cụ thể là họ đã khuyến khích một cách có hiệu quả ý niệm ‘ai giỏi nghề gì, làm nghề ấy’ bằng cách mở rộng và hoàn thiện việc khoán sản phẩm theo đơn giá đến gia đình và nhóm gia đình xã viên, và bằng cách khoán đấu thầu, hạch toán và phân phối theo ngành nhằm tạo điều kiện cho mọi người có việc làm đủ ăn. Hay nói khác đi, họ đã giúp phát triển sản xuất, bảo đảm dân chủ và công khai trong sản xuất và phân phối sản phẩm.”

           Tôi hy vọng rằng khi đọc đoạn (1R) trên quí độc giả không cần phải dùng trí nhớ nhiều vì nó có những câu ngắn, với ý và lời rõ ràng gẫy gọn. Đối với người phiên dịch, những câu như thế hẳn là dễ dàng hơn bởi vì chúng có đầy đủ những yếu tố cấu thành mà trật tự phù hợp với trật tự từ ngữ trong câu tiếng Việt. Ở đây nếu có khó khăn thì đó chỉ là vấn đề từ vựng, nhưng việc này có thể giải quyết bằng cách thỉnh ý các anh trên, tra cứu từ điển hay sách tham khảo cộng sản.

           Sau đây là một câu khác trong bài xã luận tựa đề “Chính Nghĩa Toả Sáng” cũng của báo Nhân Dân (số 12405, ngày 30-6-1988):

           (2) “Những gian khổ hy sinh của anh lính tình nguyện Việt Nam trên những chốt heo hút vùng núi cao, chắt lọc từng giọt nước đọng trên lá cây, bữa cơm không đủ no, muối rau đạm bạc, giữa những cơn sốt rét triền miên, vẫn sẵn sàng lao ra chiến đấu ở những mũi nhọn ác liệt nhất, sẽ còn đọng mãi trong lòng những người mẹ, người cha, những người chị, người bạn trên đất nước Chùa Tháp, trở thành gia tài quí vững bền của tình thủy chung Việt Nam—Cam-pu-chia.”

           Câu (2) cũng thuộc loại câu dài—96 chữ. Câu này cũng mắc khuyết điểm như câu trên—CÁI GÌ sẽ còn đọng mãitrở thành gia tài quí? Hiển nhiên là tác giả muốn nói Những gian khổ hy sinh làm động tác đó, song vì nhóm chủ từ này nằm quá xa hai nhóm động từ của nó cho nên độc giả có thể nghĩ rằng anh lính tình nguyện Việt Nam hoặc vài nhóm từ ngữ khác gần đó làm chủ từ. Nhưng hiểu như vậy vẫn không đúng, bởi vì anh lính tình nguyện làm sao có thể sẽ còn đọng mãi trong lòngtrở thành gia tài quí được, hoạ chăng là hình ảnh và hài cốt của anh ta!

           Ngoài ra, theo thiển ý, cách dùng từ ngữ trong câu này cũng chưa được hợp lý lắm, bởi vì những nhóm từ ngữ theo ngay sau anh lính tình nguyện Việt Nam không cùng một loại từ với nhau, khiến độc giả có thể hiểu sai, hoặc khiến câu văn không cân đối; ví dụ chắt lọc (động từ), bữa cơm (danh từ), sẵn sàng lao ra(nhóm động từ). Lẽ ra trong một câu có cấu trúc như thế, tác giả nên dùng một loạt động tác cho người lính thi hành thì câu văn cân đối và hay ho hơn, chẳng hạn như anh lính chắt lọc..., ăn (không đủ no), mặc (không đủ ấm), (lại) bị sốt rét..., (vẫn sẵn sàng) lao ra... Với những lập luận như trên, tôi viết câu (2) lại như sau:

           (2R) “Người lính tình nguyện Việt Nam đã từng chốt ở những tiền đồn heo hút hiểm trở, chịu đựng hoàn cảnh rét không đủ áo mặc, đói không đủ cơm ăn, khát không đủ nước uống và bệnh không đủ thuốc chữa mà vẫn sẵn sàng lao ra chiến đấu ở những mũi nhọn ác liệt nhất. Những gian khổ hy sinh mà họ đã trải qua đó cũng như những tình cảm thân ái đối với dân địa phương mà họ đã biểu lộ, được cảm nhận như hình ảnh đọng mãi trong lòng người mẹ, người cha, người chị, người bạn nơi đất nước Chùa Tháp và sẽ trở thành bảo vật tinh thần quí giá, gợi nhớ tình nghĩa thủy chung giữa Việt Nam và Cam-pu-chia.”

 NHỮNG CÂU KHÔNG CÓ CHỦ TỪ CỤ THỂ

           Câu dưới đây được trích trong bài xã luận của báo Nhân Dân, số 12458, ngày 22-8-1988.

           (3) “Với các chính sách cho mượn đất, ưu tiên cung ứng giống, vật tư, không tính sản phẩm vụ đông vào phương án ăn chia, giao nộp nghĩa vụ, xác định tỷ giá trao đổi hợp lý theo hướng khuyến khích phát triển sản xuất vụ đông xuân cùng với những tiến bộ kỹ thuật mới về giống và biện pháp canh tác, đã tạo nên bước tiến lớn trong sản xuất vụ đông xuân những năm gần đây.”

           Căn cứ theo cách chấm câu, tôi thấy câu (3) không có chủ từ. AI đã tạo nên bước tiến lớn? Với các chính sáchlàm điều ấy? Như thế không ổn, bởi vì nhóm từ ngữ này bắt đầu bằng giới từ Với có nhiệm vụ bổ nghĩa, không thể làm chủ ngữ được. Vậy thì ta có nên thêm chủ ngữ chúng ta và để nó đứng trước đã tạo nên? Về mặt ngữ pháp, một câu với chủ từ như thế không có gì sai sót, song nhân xưng đại danh từ chúng tatheo ý tôi ở đây rất chung chung không cụ thể. Để tránh dùng đại danh từ không rõ ràng này, tôi đề nghị bỏ Với, và lấy các chính sáchlàm chủ từ cho câu. Và vì câu này hơi dài, tôi viết nó lại thành 2 câu ngắn như sau:

           (3R) “Trong những năm gần đây, các chính sách mới về nông nghiệp đã tạo nên bước tiến lớn trong sản xuất vụ đông xuân. Các chính sách này dựa trên cơ sở cho mượn đất; ưu tiên cung ứng giống, vật tư; không tính sản phẩm vụ đông vào phương án ăn chia, giao nộp nghia vụ; xác định tỷ giá trao đổi hợp lý theo hướng khuyến khích phát triển sản xuất vụ đông bằng những tiến bộ kỹ thuật mới về giống và biện pháp canh tác.”

           Trong tiếng Việt những câu không chủ từ như trên rất phổ biến và được chấp nhận. Tuy nhiên, đối với người phiên dịch, chúng là những vấn đề cần giải quyết đúng cách để tránh sai lầm. Chính vì sợ lỡ có gì sai sót mình phải “đếm thêm nhiều lịch” nữa nên khi còn trong nước, gặp những tài liệu quan trọng, tôi không dám liều mạng mà phải đi “ăn cắp kiểu” của tờ tạp chí Viêtnam Courierdo nhà nước xuất bản hàng tháng tại Hà Nội. Nhờ đó tôi học được cách dịch những câu không chủ ngữ tương tự như ví dụ trên.

           Tôi thấy tạp chí này giải quyết vấn đề bằng cách (a) dùng đại danh từ we làm chủ ngữ; (b) dùng đại danh từ trung tính one hay tập hợp it+bethere+be; và (c) dịch nguyên tác sang thể thụ động (passive voice) ở Anh ngữ và phớt lờ chủ từ hành động.

           Đọc các bài trong tạp chí này, tôi thấy khuynh hướng dùng cách (c) khá phổ biến. Dùng cách này nhiều làm cho bản dịch nặng nề và mất tự nhiên, bởi vì vốn Anh ngữ của tôi cho biết sinh ngữ này không dùng thể thụ động nhiều, chỉ dùng cấu trúc này khi tác giả muốn câu văn của mình có tác dụng đặc biệt nào đó hoặc khi cấu trúc của toàn câu văn đòi hỏi phải dùng tới thể đó. Hai trường hợp này cũng không thường xuyên xuất hiện trong một bản văn Anh ngữ thông thường.

           Cách (a) và (b) tuy có khá hơn về mặt ngữ pháp, song Anh ngữ cũng không dùng thường xuyên vì chúng không được cụ thể chính xác.

NHỮNG CÂU CÓ ĐỘNG TỪ

           Một lối đặt câu khác mà tôi thấy người phiên dịch cần phải lưu ý khi làm công việc của mình. Đó là những câu có động từ . Động từ này có thể ví như dấu bằng (=) trong toán học, tức là hai vế hai bên nó phải bằng nhau. Mặc dù ngôn ngữ không phải là toán học, song tôi vẫn có thể nói rằng trong ngôn ngữ, hai nhóm từ ngữ trước và sau phải tương đương với nhau, bởi vì chính ý nghĩa của nói lên sự cân bằng giữa hai vế. Nói khác đi, hai nhóm đó phải là những gì có thể đem so sánh với nhau được để tìm ra sự giống nhau hay khác biệt của chúng. Ví dụ, chúng ta không thể nói Con trâu LÀ cái chuồng, bởi vì con trâucái chuồngkhông có điểm chung nào có thể đem so sánh với nhau được. Nhưng chúng ta có thể nói Con trâu LÀ một động vật, bởi vì con trâuđộng vật có nhiều điểm chung so sánh với nhau được. Tóm lại, khi trong một câu văn hai nhóm từ ngữ trước và sau có thể đem so sánh với nhau được thì câu ấy chỉnh và có ý nghĩa; ngược lại câu đó không có ý nghĩa, dù nó có thể chỉnh về ngữ pháp.

           Muốn giữ cả hai nhóm từ ngữ trong ví dụ kể trên và để câu đó có ý nghĩa, chúng ta phải thay đổi động từ bằng một động từ khác thích hợp hơn, chẳng hạn nếu chúng ta thay bằng nằm (trong) thì câu sẽ bình thường ngay—Con trâu nằm trong cái chuồng. Còn muốn giữ lại , chúng ta phải thay một trong hai nhóm từ ngữ hai bên nó bằng một nhóm từ ngữ khác thích hợp, chẳng hạn như Con trâu là một động vật.

           Sở dĩ tôi quan tâm đến lối đặt câu có là là bởi vì khi dịch thuật tôi thường gặp loại câu đại khái như Con trâu là cái chuồngtrong nguyên tác. Gặp những câu như thế nếu người phiên dịch không tinh ý mà dùng ngay một dạng của BE (hay một động từ khác có ý nghĩa hoặc nhiệm vụ ngữ pháp tương tự) trong Anh ngữ để dịch trong Việt ngữ thì dễ sa vào lỗi lầm mà chính người Anh Mỹ cũng hay mắc phải khi viết. Ví dụ:

           - Ranching is an idea that has always attracted me. (Ranching is NOT an idea.)

           - The only knowledge I have had about horses is living on a farm and raising them

          (Knowledge is NOT living.)

           Hai ví dụ trên nếu được viết lại bằng cách thay động từ khác không phải là is, chẳng hạn như trong hai câu sửa lại dưới đây, thì chúng sẽ trở thành hoàn chỉnh ngay.

           - Ranching has always attracted me.

           - The only knowledge I have had of horses comes from living on a farm and raising them.

           Sau đây là một ví dụ trích từ một tuần báo phổ thông tại Saigon.

           (3) “ (IMEXCO) muốn bao cấp cho tất cả những nhu cầu về ngoại tệ của thành phố, việc không thể làm được. (Hoàng Ngọc Nguyên, “Những Mong Đợi Từ IMEXCO,” Tuổi Trẻ, số 1504, ngày 28-11-1989, trang 3)

           (công ty IMEXCO, một đơn vị kinh tế cung cấp dịch vụ xuất nhập cảng và đầu tư ngoại quốc, trụ sở đặt tại cao ốc, số 6 Nguyễn Huệ, Saigon, bị bà hỏa viếng trước ngày bài báo xuất hiện độ một tháng) sao lại là việc được? Rõ ràng ở đây tác giả muốn nói ý nghĩa của toàn bộ số từ ngữ đứng trước là việc không thể làm được, cho nên ông ta mới dùng dấu phẩy ngay trước để ám chỉ ý đó. Điều này chứng tỏ ông ta cũng cảm thấy cần phải làm cái gì đó để nêu hai ý mình muốn diễn đạt. Nhưng tiếc rằng cấu trúc câu này với ý nghĩa như ông mong muốn không cần dấu phẩy; câu này phải viết lại mới chỉnh.

           Muốn sửa câu này chúng ta chỉ cần mang việc ra đầu câu và bỏ dấu phẩy trước , hoặc thêm Sự kiệnvào đầu câu. Như vậy chúng ta vẫn giữ nguyên cấu trúc có của tác giả:

           (3R) “Việc/Sự kiện nó muốn bao cấp cho tất cả những nhu cầu về ngoại tệ của thành phố (là) không thể làm được.” (Có thể bỏ .)

           Chúng ta cũng có thể sửa (3) mà không dùng như trong nguyên tác, song ý nghĩa câu đã sửa có thay đổi đôi chút. Ví dụ:

           (a) “Mặc dù muốn (nhưng) nó cũng không thể nào bao cấp cho tất cả những nhu cầu về ngoại tệ của thành phố.”

           (b) “Nó muốn bao cấp cho tất cả những nhu cầu về ngoại tệ của thành phố, nhưng nó không thể làm được (việc đó).”

           (c) “Nó không thể nào bao cấp cho tất cả những nhu cầu về ngoại tệ của thành phố.”

           Câu (a) có ý nghĩa mạnh nhất, làm nổi bật quan hệ đối lập giữa hai ý của câu (muốn mà không làm được); (b) cũng làm được việc đó dù không mạnh bằng, nhưng nêu rõ sự đối lập về ý hơn nguyên tác; (c) thì trực tiếp, ngắn gọn, nhưng không đúng ý nguyên tác—thiếu ý muốn.

           Sỡ dĩ tôi phải dài dòng văn tự ở chỗ này là vì cấu trúc câu có trong văn viết cẩn thận, nghiêm chỉnh, phải như thế mới gọi là chính xác, tức là hai vế hai bên là phải cân bằng không những về ngữ pháp mà còn cả về ngữ nghĩa nữa. Tuy nhiên, trong văn nói thường ngày, những câu như sau đây nghe rất bình thường, không ai thắc mắc cả.

           - Chúng nó đánh nhau là phải.

           - Bạn nói thế là đúng.

           Ngoài ra, ở đây chúng ta cũng cần để ý đến những câu có dùng trong phép ẩn dụ (metaphor), chẳng hạn như những ví dụ sau:

           - Con trâu này cả gia tài của chúng tôi đó.

           - Em ánh sáng của đời anh!

           - Họ (những cán bộ đảng già nua có đầu óc thủ cựu) tấm thảm kịch cho chính họ, tấm thảm kịch cho thế hệ chúng ta. (Dương Thu Hương, Những Thiên Đường Mù)

           Văn cảnh sẽ cho phép chúng ta nhận diện những câu so sánh bóng bẩy này. Trong những trường hợp này, người phiên dịch có thể dùng một dạng của BE hoặc tương đương trong Anh ngữ để chuyển ngữ. Nhưng tiếc rằng câu trích dẫn để phân tích bên trên không thuộc dạng ẩn dụ như những ví dụ sau cùng này.

NHỮNG ĐOẠN VĂN CHƯA HOÀN CHỈNH

           Bây giờ tôi xin mời độc giả xem mấy đoạn văn dưới đây. Khi đưa những đoạn văn này làm ví dụ tôi muốn đề nghị độc giả xem xem sự móc nối giữa các câu văn với nhau, giữa các đoạn văn với nhau như thế nào trong toàn bài văn viết. Sự liên hệ này thường chỉ thấy được trong một đoạn văn nhiều câu.

           Trước hết mời độc giả xem hai đoạn văn dưới đây trích trong bài Saigon—Thành phố Hồ Chí Minh của “nhà văn nhớn” Trần Bạch Đằng, đăng trong tập sách song ngữ Anh-Việt tựa Việt Nam Quê Hương Tôi—Vietnam My Homeland, do nhà Xuất bản Sự Thật hợp tác với Cục Du Lịch Việt Nam xuất bản tháng 8-1989 tại Hànội (trang 107-108). Để tiện việc phân tích, tôi đánh dấu từng câu trong đoạn văn bằng các mẫu tự có gạch dưới a, b, c,...

           (4) “a  Cuối Trường Sơn, địa hình phía nam đất nước bỗng xòe rộng thành một bình nguyên chi chít sông rạch, thoai thoải tận chót mũi Cà Mau. b. Biển mặn lùi hàng vạn năm trước nhường dần khoảng không gian màu mỡ cho sinh vật, trên đó nối tiếp bao vương quốc hưng rồi vong mà ngành khảo cổ đang cố gắng ngược dòng thời gian tìm niên đại mấy nền văn minh xa xưa—ngang tuổi với nhiều nền văn minh lẫy lững Nam Á và thế giới.

           (5) “a. Mưa thuận, gió hoà—cách đánh giá này tất nhiên không tuyệt đối, nhưng vẫn gần với sự thật—không có cái rét căm căm mùa đông, không có cái nóng thiêu đốt mùa hè, chưa biết sương muối, thật lâu mới gặp bão ở một góc nào đó, còn lụt lội hàng năm, thậm chí nước tràn hàng tháng lại cần thiết cho đất tiếp nhận phù sa, trẻ mãi. b. Khí hậu đại dương, lượng quang hợp dồi dào, một năm gần như chia đều nhau cho mùa nắng mùa mùa, nắng “đổ lửa” mà mau dịu, mùa như ‘trút’ mà mau tạnh. c. Bởi vậy, màu xanh trải khắp Nam Bộ—thành phố Hồ Chí Minh như lọt giữa chiếc thảm thực vật êm đềm đó.”

           Là một “nhà văn nhớn,” ông Trần Bạch Đằng muốn viết sao thì viết, nhưng là một độc giả bình thường và là một phiên dịch viên khi đọc hai đoạn văn trên của ông, tôi thấy có một số vấn đề cần phải làm cho rõ, cả về nội dung lẫn về hình thức.

           Về nội dung, hai đoạn (4) và (5) mô tả vị trí và khí hậu của một địa điểm mà vì tựa của bài văn chứa chúng là Saigon—Thành phố Hồ Chí Minh, nên tôi tưởng là của thành phố mang tên “Bác Hồ vĩ đại.” Song thực tế, chúng không có chỉ dẫn nào cho thấy điều đó. Nếu tác giả có hàm ý cho rằng Saigon nằm cuối Trường Sơn trong bình nguyên chi chít sông rạch, tôi e rằng quá chung chung. Saigon có lụt hàng năm như đoạn (5) ám chỉ?♫

           Mặc dù ở cuối đoạn (5) có câu c nêu tên thành phố Hồ Chí Minh, nhưng theo tôi một câu ngắn ngủi như thế không đủ để cho thấy hai đoạn (4) và (5) này mô tả thành phố. Nói một cách khác, hai đoạn văn này có vẻ như độc lập và hầu như không đóng góp gì nhiều vào việc miêu tả thành phố như tựa bài văn gợi ý cho thấy. Nếu chúng xuất hiện trong một bài nói về miền Nam thì có lẽ thích hợp hơn.

           Nhưng nội dung không phải là điều tôi muốn bàn sâu. Điều mà tôi đặc biệt chú ý, nhất là với con mắt một phiên dịch viên, là hình thức và cấu trúc của từng câu trong bài văn. Như ở phần nội dung phân tích sơ lược bên trên, ở phân hình thức cũng có đôi điều cần bàn lại và làm cho rõ.

           Đoạn (4) dài 87 chữ, chia làm hai câu. Câu a dài 27 chữ, không có gì đáng nói về mặt ngữ pháp, tuy địa hình trong câu có lẽ không được chính xác cho lắm, bởi vì người ta thường nói địa hình lổm chổm hay đầy sông rạch; ít ai nói địa hình xòe rộng. Địa bàn xòe rộng có lẽ bình thường hơn? Hay là danh từ địa hình của cộng sản có ý nghĩa khác?

           Nhưng câu b dưới đó vì hơi dài nên có vẻ lủng củng, không rõ ràng lắm, mặc dù đọc lên nghe rất...kêu! Theo cách đặt câu, phần trên đó nối tiếp bao vương quốc hưng rồi vong mà ngành khảo cổ đang cố gắng ngược dòng thời gian tìm niên đại mấy nền văn minh xa xưa khiến tôi hiểu là ngành khảo cổ đang tìm niên đại cho vương quốc bởi vì liên đại danh từ (relative pronoun) của nó, trong khi cách viết lại cho thấy tìm niên đại cho mấy nền văn minh xa xưa. Nếu cách hiểu của tôi là đúng thì mấy nền văn minh xa xưalàm gì trong câu? Hay nền văn minh có tiền ngữ (antecedent) là vương quốc? Hiểu như vậy cũng không ổn bởi vì vương quốc không phải LÀ nền văn minh mà CÓ nền văn minh, cho nên hai ý niệm này không thể đồng hoá với nhau được.

           Cuối đoạn (4) không cho thấy ý hay lời chuyển tiếp để nó “quá độ” sang đoạn (5) ngay dưới, trong khi chính đoạn (5) này cũng chẳng có cầu ngôn ngữ nào giúp người đọc đi ngược lên đoạn trên nó. Tóm lại, ở đây không có bộ phận ý hoặc lời chuyển tiếp giữa các đoạn văn mà tôi thiết nghĩ rất cần thiết phải có trong một bài luận nhằm đưa người đọc từ ý này sang ý khác một cách trơn tru thoải mái, tức là tránh cho độc giả cảm giác đột ngột khi bỗng nhiên phải qua một chủ đề khác mà không có báo trước.

           Dài hơn đoạn (4) cả về số câu lẫn số từ ngữ, đoạn (5) cũng làm tôi thắc mắc đôi ba chỗ. Vì không có yếu tố chuyển ý, câu đầu a của nó bắt đầu hơi đột ngột bằng Mưa thuận, gió hoà—mà tác giả rõ ràng muốn ám chỉ là khí hậu của miền đất tả ở đoạn (4) trên nó. Và vì dài tới 70 chữ mà lại được viết không mấy cẩn thận nên câu này hơi lộn xộn, không cân đối, và thậm chí có thể nói là không đúng ngữ pháp tiếng Việt!

           Thật vậy, khi đọc câu này người phiên dịch hẳn phải hỏi CÁI GÌ có mưa thuận gió hoà? CÁI GÌ không có rét..., không có cái nóng...? AI chưa biết sương muối,...gặp bão? Theo cấu trúc, cụm từ ngữ còn lụt hàng năm làm độc giả mong đợi theo sau ngay nó phải là (thì) hoạ hoằn mới có, chẳng hạn; nhưng tiếc thay, sau nó lại là thậm chí nước tràn hàng tháng lại cần thiết cho đất nhận phù sa, trẻ mãi, mà nhiệm vụ ngữ pháp của nó trong câu này không dễ gì ai xác định được!

           Câu hỏi CÁI GÌ trẻ mãi nhằm vào câu này cũng hơi khó trả lời ngay, bởi vì cách đặt câu và cách chấm câu của nó dễ khiến người đọc có thể hiểu là còn lụt hàng năm trẻ mãi. Tất nhiên hiểu như vậy là sai, bởi vì nếu độc giả đọc chậm và kỹ lại sẽ thấy cho đất trẻ mãilà hợp lý hơn. Nhưng do có dấu phẩy ngay sau phù savà do cách viết không cân đối, tác giả làm độc giả hiểu không đúng ý mình. Giá không có dấu phẩy này thì câu có lẽ được hiểu đúng ngay và dễ hơn. Phần này của câu còn không cân đối vì tiếp nhận là động từ trong khi trẻ là tính từ. Muốn cho cân đối chúng ta có thể viết lại phần này thành cho đất TIẾP NHẬN phù saTRỞ THÀNH trẻ mãi, với tiếp nhận làm đối trọng cho trở thành hai bên liên từ . Chúng ta cũng có thể viết ngắn gọn hơn nữa thành: cho đất tiếp nhận phù sa Để/THàNH/Mà trẻ mãi.

           Mặc dù bắt đầu bằng một từ ngữ có chữ cái đầu viết hoa Khí và chấm dứt bằng một dấu chấm hết, nhưng câu b dài 34 chữ khó có thể coi là một câu trọn vẹn, bởi vì đây chỉ là một số tập hợp danh từ cùng những nhóm từ ngữ bổ nghĩa của chúng được “cách ly” bằng những dấu phẩy, không có yếu tố cấu thành cần thiết của một câu hoàn chỉnh tiếng Việt. Nhóm từ ngữ này do đó có thể xem như được treo lơ lửng trong đoạn văn (5) này.

           Cuối cùng là câu c. Nhờ Bởi vậy đứng đầu nên câu này được “móc ngoặc” với phần trên nó, tức là câu b vừa được phân tích ở trên. Về cấu trúc ngữ pháp của nó thì không có gì đáng bàn, nhưng theo ý tôi, dấu gạch dài (—) giữa Nam Bộthành phố(ngụ ý giải thích hay minh hoạ thêm) ở đây không cần thiết, bởi vì loại dấu chấm câu này khi dùng không đúng chỗ hay quá thường xuyên dễ tạo cảm giác “hẫng” nơi độc giả: đoạn (5) này có 3 câu mà có tới 2 dấu này!

           Sau khi đọc và phân tích hai đoạn (4) và (5) như trên, tôi viết lại chúng như sau:

          (4R) “Về vị trí, thành phố Hồ Chí Minh nằm trên bình nguyên Nam Bộ cuối dãy Trường Sơn là nơi địa hình chi chít sông rạch và thoai thoải tận chót mũi Cà Mau. Hàng vạn năm trước đây, biển mặn lùi dần để lại cho cây cỏ, muông thú và con người vùng đất màu mỡ này, trên dó trong quá khứ đã có biết bao vương quốc và nền văn minh kế tiếp nhau hưng thịnh rồi suy vong mà ngành khảo cổ đang cố gắng ngược dòng thời gian để xác định niên đại—chúng có thể xuất hiện cùng thời với nhiều nền văn minh lẫy lừng Nam Á và thế giới.

           (5R) “Còn về khí hậu, thành phố tất nhiên phải chịu ảnh hưởng của khí hậu Nam Bộ là miền đất chứa nó. Khí hậu ở đây thuộc loại mưa thuận gió hoà. Cách đánh giá này rõ ràng là không tuyệt đối, nhưng vẫn gần sự thật bởi vì miền đất này không có cái rét căm căm suốt mùa đông, chẳng có cái nóng thiêu đốt cả mùa hè, và hoạ hoằn lắm mới nếm mùi bão tố, lụt lội. Ở một vài nơi nước lên xuống hàng ngày có thể tràn bờ, song chuyển động thủy triều đó lại là cần thiết vì nước đồng thời đem theo phù sa làm cho vùng đất màu mỡ thêm và trẻ trung mãi. Thời gian một năm ở đây gần như chia đều cho hai mùa nắng mưa: khi nắng thì hừng hực mà mau dịu, khi mưa thì xối xả nhưng chóng tạnh. Nhờ thời tiết ôn hoà cùng lượng quang hợp dồi dào như vậy, miền đất này hầu như quanh năm được bao phủ bằng một tấm thảm thực vật màu xanh tươi đẹp mà lọt vào giữa là thành phố Hồ Chí Minh.”

           Tôi không có ý cho rằng hai đoạn tôi vừa viết lại như trên là hay hơn của “nhà văn nớn” Trần Bạch Đằng, nhưng tôi có thể đoan chắc rằng chúng gồm những câu đúng ngữ pháp, cân đối và đầy đủ yếu tố chuyển ý, giúp người đọc dễ dàng cảm nhận bài văn hơn. Và đặc biệt là nếu ai đó phải dịch hai đoạn này sang Anh ngữ, người ấy chẳng cần phải tốn thì giờ ngồi ngẩm nghĩ đi tìm cấu trúc của nguyên tác mà dịch cho trúng cách, bởi vì nguyên tác đã được viết đúng ngữ pháp sẵn rồi. (Bản dịch Anh ngữ của hai đoạn này được dịch thoát và né những vấn đề tôi phân tích ở đây. Có lẽ người phiên dịch cũng không hiểu hết ý của nguyên tác. Bản thân tôi đã phải tốn khá nhiều thì giờ khi được giao dịch sang Anh ngữ một số bài tham luậncủa nhà văn này. Nói chung những bài văn đó cũng có cách đặt câu tương tự như ở hai đoạn trích dẫn bên trên: chúng đọc lên nghe rất kêu và uyên bác, và vì vậy độc giả cũng cần phải chật vật nếu muốn hiểu hết ý của tác giả!)

           Dưới đây là hai đoạn văn khác trích trong phần kết luận “Dự Án Vay Vốn” của Công ty X (xin miễn nêu tên), trực thuộc Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố quản lý, gởi cho Công ty Y của Thái Lan. Tôi được biết dự án này do ông Trưởng phòng Kế hoạch của Công ty X soạn thảo (nghe nói ông này là một “phó tiến sĩ”) và đã được ông giám đốc công ty duyệt ký.

           (6) “Theo chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta là từ năm 1990 trở đi không được xuất khẩu gỗ tròn, chỉ được xuất gỗ xẻ do đó dự án này phù hợp với đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước.

           (7) “Qua đó, tạo niềm tin bước đầu với công ty nước ngoài (công ty Y) trong việc liên kết kinh tế, tiến tới thu hút nguồn ngoại tệ đầu tư lâu dài trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.

           (8) “Qua công đoạn chế biến gỗ xẻ làm tăng thêm giá trị hàng xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho nhân dân lao động thành phố, tạo thêm cơ sở vật chất kỹ thuật cho Công ty, đẩy mạnh và ổn định khâu tiêu thụ gỗ sau quá trình khai thác, tạo ra nguồn ngoại tệ nhập những vật tư, thiết bị cần thiết phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, thắt chặt mối liên kết kinh tế giữa hai tỉnh và thành phố.”

           Cảm tưởng của tôi sau khi đọc 3 đoạn này (tuy gọi là đoạn vì cách chấm câu trong nguyên tác, nhưng mỗi đoạn chỉ có một câu duy nhất) là ngơ ngác! Chúng nghe có vẻ là văn nói hơn là văn viết nghiêm chỉnh. Và vì phần kết luận của dự án tương đối quan trọng mà được viết cẩu thả như vậy, tôi sẽ không cho công ty này vay tiền, nếu tôi là giám đốc ngân hàng Việt Nam!

           Tôi có cảm tưởng như trên bởi vì về hình thức mấy đoạn văn này có những câu văn sai ngữ pháp, chấm câu tuỳ tiện và phân đoạn vô lý, mặc dù chúng đọc lên nghe rất kêu “vang cả hội trường,” và có nội dung “y chang” như những diễn văn về hợp tác đầu tư kinh doanh của các giới chức nhà nước đăng hàng ngày trên báo chí thành phố thời đó. (Thực ra, khi đọc toàn dự án tôi cũng có cảm tưởng tương tự.)

           Trước hết xét đoạn (6), tôi thấy Theo là thừa, bởi vì nó làm cho câu duy nhất của nó thành ra không có chủ từ, và vì nếu không có giới từ này thì chủ trương chung có thể làm việc xuất khẩu gỗ tròn được. Ngoài ra, tôi đề nghị bỏ dấu phẩy sau tròn và thay vào vị trí đó; thêm dấu phẩy vào sau gỗ xẻcho câu rõ ràng mạch lạc. Nhưng tại sao tác giả lại chấm xuống hàng để sang đoạn (7) dưới, trong khi ý của đoạn dưới này còn dính với ý đoạn (6) trên bằng Qua đó? Còn ở (7), AI tạo niềm tin, tiến tới thu hút...? Do đó, tôi thêm Công ty X chúng tôilàm chủ ngữ cho cụ thể. Cuối cùng tôi thấy đoạn (8) cũng phạm khuyết điểm như đoạn (7), tức là thiếu chủ ngữ. Nếu chúng ta hiểu công đoạn chế biến gỗ xẻ là chủ ngữ làm việc làm tăng, tạo công ăn việc làm..., tạo thêm cơ sở vật chất..., đẩy mạnh và ổn định..., tạo ra nguồn vốn ngoại tệ..., và thắt chặt mối liên kết..., thì câu duy nhất của đoạn (8) này “đi phải chống nạng,” bởi vì nó là câu què—không có mệnh đề chính!

           Tóm lại, phần kết luận của một dự án tương đối quan trọng như thế mà được soạn thảo kém cẩn thận như vậy, tôi sợ rằng nó khó có thể gây ấn tượng thuận lợi nơi người đọc, nhất là khi người đọc đó lại là người cho mình vay tiền “mần ăn!”

           Tuy phân tích và đề nghị sữa chữa như trên, tôi “được yêu cầu” viết lại toàn bộ dự án sau khi tôi chỉ ra cho Công ty X thấy những khuyết điểm trong cách hành văn. Do đó, tôi không theo cách mình đã đề nghị sửa chữa mà viết lại ba đoạn trích trên cho phù hợp với cách đặt câu trong cả dự án.

           Tôi đã viết lại 3 đoạn đó thành còn 2 sau khi đã bỏ bớt nhiều ý thừa và...sáo. Đúng ra hai đoạn mới viết lại này có thể nhập chung thành một cũng được, song tôi e ngại phần kết luận của môt dự án “ghê gớm” cỡ này mà ngắn quá người đọc có thể chê, “Sao trông phần kết luận ngắn thế?” Chức sắc cộng sản thường thích dài dòng và...mập mờ! Cho nên tôi đề nghị viết phần kết luận của dự án như sau:

           (6R) “Việc Công ty X chúng tôi chuyển từ xuất khẩu gỗ tròn sang xuất khẩu gỗ xẻ bán thành phẩm là đúng lúc, cần thiết và phù hợp với đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước, theo đó, bắt đầu từ năm 1990 các công ty Việt Nam không được phép xuất khẩu gỗ tròn nữa, chỉ được phép xuất khẩu gỗ xẻ.

           (7R) “Tuy Công ty X chúng tôi đã có sẵn một số cơ sở khai thác và cưa xẻ gỗ, nhưng sự chuyển hướng sản xuất như vừa nêu trên khiến yêu cầu về vốn đầu tư để phát triển công ty càng trở nên bức thiết. Do đó, chúng tôi đề ra dự án này với hy vọng rằng khi nó được chấp thuận và thực hiện, Công ty X chúng tôi sẽ có thêm nguồn ngoại tệ cần thiết để nhập trang thiết bị mới, giúp tăng gia sản xuất một cách hiệu quả hơn, đồng thời tạo thêm công ăn việc làm cho nhân dân thành phố và các tỉnh mà Công ty chúng tôi liên kết kinh doanh sản xuất.”

           Quí độc giả nào có can đảm và còn kiên nhẫn đọc đến đây hẳn phải chau mày chặc lưỡi mà thốt lên, “Gớm, mụ này sao khó tính thế? Bả chỉ bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu!” Phê phán này có thể rất đúng. Tuy nhiên, vì tôi nghĩ rằng văn viết có qui luật nhất định của nó mà bất cứ ai viết văn cũng phải tuân theo, nếu muốn bài văn của mình truyền đạt thông tinchính xác và có tác dụng mong muốn tới độc giả, nên việc bới lông vạch lá là cần thiết. Cũng vì vậy, tôi thấy rằng người viết cần phải xem lại, sửa chữa bài văn của mình cẩn thận trước khi trình làng để nó đạt mục đích là mang thông tincũng như tình cảm đến độc giả theo như mình trông đợi.

           Một lý do khác khiến tôi phân tích những ví dụ trích dẫn trên một cách tỉ mỉ, và có thể nói là một cách khắt khe nữa, là vì tôi muốn chứng minh rằng không phải bất cứ người Việt nào hễ làm nhà báo, nhà văn, nhà giáo, nhà phê bình, v. v., khi viết cũng đặt được những câu rõ ràng mạch lạc và dễ hiểu đối với đa số độc giả là người dân bình thường. Tôi cho rằng khi viết như thế, những nhà của Đảng ta này không phải không biết ngữ pháp tiếng Việt, mà thiếu sự cẩn thận và có bệnh chủ quan mà các nhà thường hay có, nhất là những nhà đã có tiếng tăm trong nghề hay trong chức vụ và quyền lực của mình.

           Độc giả cũng có thể phê phán thêm rằng tôi có thành kiến đối với báo chí của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, vì những trích dẫn trên đều lấy từ nguồn ấn phẩm của đất nước “ra ngõ gặp anh hùng” này. Điều này rất đúng, bởi vì khi còn ở quê nhà, tôi chỉ được phép đọc những gì do ĐảngNhà Nước ta ấn hành và phổ biến.

           Xét những bài văn có tính cách chính trị, tuyên truyền mà tôi có dịp đọc qua, tôi có thể nói rằng con cháu Bác có khuynh hướng đặt câu dài, dùng từ ngữ “đao to, búa lớn, mác sắc, lê nhọn, hồ sâu,” chỉ nhằm nêu bật tính ưu việtmà theo họ, chỉ riêng chủ nghĩa xã hội mới có! Cách chấm câu cũng như mẹo luật tiếng Việt không được họ cho là quan trọng, dù trong ấn phẩm của họ hầu như không có lỗi chính tả.

           Nhận xét trên có thể sai bởi vì biết đâu chữ nghĩa cũng như văn phạm tiếng Việt của cộng sản được hiểu cách khác với của chúng ta? Song, dù họ hiểu thế nào đi nữa, đây vẫn là tiếng Việt chung của tất cả chúng ta. Vì thế cho nên tôi thiết nghĩ việc mổ xẻ văn tự vi-xi, nếu xác đáng, cũng giúp chúng ta rút kinh nghiệm, hầu làm cho tiếng Việt được rõ ràng, ngắn gọn và dễ hiểu hơn, nhất là ở hải ngoại này.

           Nhận xét trên cũng có thể sai vì bản thân tôi chỉ là một phiên dịch viên kém trình độ, non tay nghề, thiếu tập huấn, nói theo kiểu dân đi-dép-lốpmiền Bắc, hoặc ngắn gọn hơn, thất học, nói theo lối bình dân miền Nam! Vì vậy, để thay phần kết luận, tôi xin trân trọng kêu gọi quí độc giả nào đã bỏ thì giờ đọc bài khô khan này đến dòng chữ cuối cùng, hãy vui lòng đóng góp ý kiến cũng như chấn chỉnh lỗi lầm. Đa tạ.Ω

Bây giờ (2009), nhờ ơn Bác và Đảng, Saigon bị lụt hàng ngày, mỗi khi trời mưa! (Cả Ngố ghi thêm)

Tài liệu tham khảo:

-To Learn a Foreign Language in Twelve Hours, Inna Martyamova, Sputnik, 5-1988, Moscow;

-Modern English Handbook, Robert M. Gorrel & Charlon Laird, New Jersey, USA, 1967; and later editions;

-Động Từ Trong Tiếng Việt, Nguyễn Kim Thản, Hà Nội, 1977;

-Sơ Thảo Ngữ Pháp Việt Nam, Lê Văn Lý, Saigon, 1968;

-Tôi Tập Viết Văn, Nguyễn Hiến Lê, tái xuất bản tại hải ngoại.

                                                      Either write something worth reading or do something worth writing

.                                                                                                                                               Benjamin Franklin

2. GIÒ THỦ BẮC KỲ

(theo cách hiểu và kiểu làm của Cả Ngố)

 Đại cương.-Người Bắc kỳ...cục thường hay ăn hay làm hai loại giò: giò thủgiò lụa (Nam kỳ quốc gọi là chả lụa). Gọi là giò thủ vì vật liệu làm chủ yếu là thịt lấy từ đầu con...nợn. Thông thường khi làm loại giò này người Bắc chỉ lấy phần tai, với số lượng vừa phải (nhiều tai quá, lúc ăn sẽ thấy cứng vì nhiều sụn và da), còn lại là đùi hay ba chỉ (ba rọi). Có nơi người ta lấy thêm phần khác trên đầu con heo như mũi, má.

           Nếu vật liệu làm giò lấy từ phần khác của con lợn thì gọi là giò mỡ hay giò xào(không có tai). Gọi là giò mỡ vì chất liệu làm nên gồm luôn cả nạc lẫn mỡ và da con vật—thường là thịt ba rọi, thịt đùi hay chân giò; còn gọi là giò xào vì khi làm phải xào thịt trước khi gói. Giò lụa chỉ dùng thịt nạc giã hay xay nhuyễn, gói, rồi mới luộc chín.

           Ở ngoài Bắc, nhất là ở vùng quê, người ta thường dùng lá dong (loại lá gói bánh chưng) khi gói loại giò này. Tại thành phố người ta cũng hay dùng loại lá này để đóng gói vì lá này có sẵn và phổ biến hơn. Theo những người có kinh nghiệm, thực phẩm gói lá dong sau khi qua công đoạn nấu hấp thường toát ra mùi đặc trưng khiến món ăn ngon miệng hơn. Khi gói người ta thường dùng lạt tre hay nứa để buộc.

          Trong Nam lúc chưa hay không có lá dong, lá chuối được sử dụng thay thế. Dù sử dụng loại lá nào thì cũng phải rửa hoặc lau chùi sạch sẽ trước khi dùng. Nếu là lá chuối tươi (mới cắt trên cây xuống) thì trước khi làm sạch sẽ nên hơ trên lửa cho bay bớt nước, làm lá mềm và dai, gói dễ hơn. Lạt dừa cũng là thứ dây thường dùng để buộc giò.

           Ở hải ngoại không có lá chuối, người ta có thể sử dụng bao ny-lông trong dày cũng được. Tại Montreal này, một hãng chuyên sản xuất các loại giò chả có chế ra một loại lá chuối giả— ny-lông in vân xanh giống lá chuối. Sau này khi có người Á-đông định cư khá đông nên người ta bắt đầu bán lá chuối...đông lạnh của Thái Lan. (Cả Ngố không xài loại lá đông lạnh này nên không biết tốt xấu thế nào! Hắn chuyên dùng loại bao ny-lông trong dày.) Bây giờ người ta văn minh nên dùng dây ny-lông hoặc các loại dây tương tự để buộc giò khi gói; cây giò trông gọn gàng và sạch sẽ hơn.

           Hình thù cây giò (quả giò) giống như đòn bánh tét lớn trong Nam. Nếu người làm có kinh nghiệm như thể làm bánh tét, tức là gói thật chặt, cứng, thì không cần cây ép. Thông thường thì người Bắc làm loại giò này ai cũng phải nhờ tới cây ép, để khoanh giò cắt ra trông cứng và liền lạc, tức là không có khe hở giữa các miếng thịt. Cây ép có thể làm bằng tre (nhà quê ngoài Bắc hay dùng, bởi vì không có loại cây nào khác) hoặc bằng gỗ. Thanh ép, dùng từng cặp một, dày khoảng ½”, rộng độ 3”, dài 12 hay 14” (inches), tuỳ theo người làm muốn có cây giò dài hay ngắn. Cây ép phải đủ cứng để khi ép cây giò ở giữa, buộc chặt hai đầu, cây không cong ở giữa, khiến cây giò không còn hình thù đều đặn, trông không đẹp mắt.

           Sau khi gói thành cây giò giống như đòn bánh tét rồi, đặt cây giò vào giữa hai thanh ép (một trên một dưới), rồi buộc tạm một đầu hai thanh cây này lại để giữ. Tiếp theo đè (ép) đầu kia của hai thanh cho đến khi cảm thấy vừa chặt, không xiết chặt thêm được nữa, thì buộc chắc lại. Kế đó, sửa lại đầu buộc tạm khi nãy, bằng cách đè hai thanh cây xuống sao cho chúng trở thành song song hai bên cây giò, rồi buộc chặt lại. Nếu chỉ dùng hai cây ép như vừa mô tả thì khoanh giò khi cắt ra bày có hình chữ nhật với hai cạnh ngắn hình vòng cung. Muốn giò có hình vuông trông đẹp mắt và gọn trong đĩa bày hơn, thì dùng thêm hai thanh nữa, ép hai phía chưa ép của cây giò. Người làm nên chỉnh các cây ép sao cho chúng đều đặn cả bốn phía, để khoanh giò trông vuông vắn gọn gàng.

           Nhận thấy buộc hai cây ép mất thì giờ điều chỉnh (tháo dây tạm, buộc chặt lại hay nới ra), Cả Ngố cải thiện cách làm, bằng cách khoan gần đầu các thanh những lỗ, đường kính độ 3/8”, xỏ bù-loong dài 6”, đường kính ¼” qua hai cây, và xiết lại bằng ốc tai vặn (butterfly nut). Nhờ vậy việc điều chỉnh cho những thanh ép song song, đều đặn, ép cây giò ở giữa, rất nhanh và nhẹ nhàng.

           Nên lưu ý là khi ép như vậy, bao bì sẽ căng lên vì thịt bị ép bên trong ra mỡ, và mỡ muốn thoát ra ngoài; vì thế người làm có thể dùng đũa nhọn châm vào chỗ căng phồng cho mỡ chảy ra. Giò ép xong, để dựng đứng cho mỡ chảy bớt ra ngoài. Sau đó để nguội hẳn, rồi gỡ thanh ép và bỏ giò vào tủ lạnh để bảo quản được lâu.

           Một điểm nên lưu ý nữa là phải gói trong lúc thịt còn rất nóng—mới trong chảo đổ ra, nên người làm phải nhanh tay, buộc dây thật lẹ (dù rất nóng tay), thịt giò mới chắc và dính nhau. Có như thế, khi cắt ra ăn, giò không rời từng miếng (như thịt nguội trong Assiette Anglais, trông không đẹp và ăn không ngon bằng!)

           Buộc dây giống như buộc bánh tét, có thể để các dây gần nhau hơn cho chắc hơn, và thêm hai dây thẳng góc theo chiều dọc—để tránh bị vỡ hay nứt khi giò bị đặt dưới sức ép lớn. Khi ăn giò thủ, khách nhai thấy sần sật một phần vì thịt mõm, một phần vì sụn của tai. Nếu có tai, giò khi cắt ra để trên đĩa, người ta sẽ thấy những đường chỉ trắng (sụn tai heo) chạy ngoằn ngoèo trong khoanh giò, giữa những đường chỉ đen đen (nấm mèo), trông cũng ngồ ngộ. Loại giò này thường thường được làm vào dịp Tết, hoặc đôi khi vào ngày giỗ lớn của những gia đình khá giả, và khi ăn, chấm nước mắm ớt hay tiêu, kèm với dưa hành (hành củ ta muối chua), và củ kiệu chua, ăn với cơm hay làm món nhắm. Trong Nam có chỗ ăn theo dạng gỏi cuốn—giò thái thành những thỏi dài nhỏ, kèm dưa hành củ kiệu chua, rau sống rau thơm các loại, thêm tí bún, cuốn bánh tráng, chấm nước mắm tỏi chanh ớt, hay tương ớt.

         Nguyên liệu.-(Ghi chú: Ở đây không để phân lượng chính xác từng thứ; người làm tự ý gia giảm theo sở thích và nhu cầu.)

1. Thịt đầu, tai, ba rọi, đùi. Lưu ý: 1 kg thịt sống khi thành giò còn khoảng từ 500 g đến 600 g.

 Muốn nạc nhiều thì dùng đùi nhiều; muốn mỡ nhiều thì dùng ba rọi nhiều.

2. Hành ta (hành củ nhỏ, vỏ lụa bên ngoài màu nâu đo đỏ); hành tây, tỏi, tiêu xay, tiêu hột.

3. Mộc nhĩ (nấm mèo).

4. Gừng.

           Cách làm.-1. Các loại thịt mua về cần làm sạch, đặc biệt là nên cạo hay nhổ lông còn sót (nhất là trong tai heo), rồi luộc cho chín tới (có thể còn chút lòng đào cũng được.) Để bớt mùi heo, khi luộc có thể bỏ thêm vào nước một ít gừng đập giập và vài củ hành tây cắt làm tư hay nhỏ hơn. Những thứ này chỉ để khử mùi, không cho vào giò. (Miền quê miền Bắc thường lấy nước luộc giò này nấu cháo, ăn cũng đạtlắm!) Sau đó, thái hay xắt thịt thành miếng khối vuông chữ nhật to cỡ ngón tay.

           2. Băm (thái nhỏ) hành ta và tỏi (nhiều ít tuỳ khẩu vị và lượng giò muốn làm), để riêng từng thứ. Nấm mèo ngâm nước cho mềm, rửa sạch, thái chỉ (thành sợi dài dài), để sẵn.

           3. Bắc chảo (chảo gang thì tốt hơn) lên bếp, lửa lớn, chờ cho nóng già, rồi mới đổ thịt thái (mục 1) vào (không đổ mỡ sẵn trong chảo, hoặc chỉ cần cho một ít tráng chảo) Cần phải đảo đều tay để tránh thịt dính chảo. Khi thấy chảo có mỡ, bớt dính chảo, thịt bắt đầu săn lại, có miếng đã cháy cạnh, bỏ hành băm, đảo đều một lúc, rồi cho tiêu xay, nấm mèo, nêm muối vừa ăn; vẫn tiếp tục đảo đều. Có thể nêm thêm bột ngọt, nếu thích. (Không nêm nước mắm vì có người cho rằng mùi nước mắm làm mất hương vị đặc biệt của loại giò này.) Khi nghe mùi thơm thịt xào, bỏ tỏi băm, đảo đều, tắt bếp và bắc chảo xuống, bắt đầu công đoạn gói ngay. (Không bỏ tỏi lúc đầu, vì như thế tỏi quá chín, hết mùi.) Nên lưu ý là nếu xào thịt kỹ quá (thịt ra gần hết mỡ, hay quá cháy cạnh) thì giò cắt ra trông không đẹp vì có màu nâu đen, và ăn dai, nhất là phần da.

           4.Súc thịt trong chảo bằng muỗng hay thìa lớn có lỗ (để mỡ chảy ra bớt), đổ vào bao gói. Mỗi lần súc vào bao lại rải tiêu hột cho lẫn lộn đều trong cây giò. Dù gói bằng gì thì bên ngoài cũng nóng bỏng tay. Mặc dù vậy người làm cũng nên cố gắng cuốn, gói, buộc dây cho mau thành cây giò trong khi thịt còn nóng, bởi vì để nguội, thịt bên trong khó dính nhau. Sau khi điều chỉnh các dây buộc chắc chắn, cách đều nhau, cắt bỏ dây thừa lòng thòng, cây giò có hình ống trụ tròn đều đặn, kẹp nó vào giữa hai thanh cây ép, điều chỉnh những thanh ép cho chặt vừa, thẳng, và đều (như ghi trong phần Đại cương bên trên). Nếu muốn ép hai cặp cây (để khoanh giò thành hình vuông) nên ép luôn cùng một lúc, để điều chỉnh cho đều cả hai. Không nên ép chặt quá, vì như thế giò sẽ cứng, khó nhai!

           5. Dựng đứng cây giò trong mát cho nguội. Khi cây giò nguội hẳn (có thể để qua đêm), tháo các thanh ép và cất giò vào tủ lạnh. Nếu làm cẩn thận vệ sinh và bảo quản đúng mức, giò có thể để lâu cả mấy tháng không thiu. Một vài chi tiết kỹ thuật và kinh nghiệm bản thân.-

           1. Thường thường đại gia đình Cả Ngố mỗi năm làm loại giò nay một tuần trước Tết ta. Số lượng thịt sống (gia đình Cả Ngố không làm giò thủ) là khoảng 10 kg, làm thành độ 4 cây giò lớn nhỏ, trọng lượng mỗi cái dưới 1 kg. Giò có cái ép 4; có cái ép 2 cây.

           2. Để làm với số lượng lớn như vậy, vợ chồng Cả Ngố có thêm một cô em phụ giúp. Cả Ngố là thợ...vịn chảo (cho chảo khỏi lắc); cô em xào đảo; sau đó Cả Ngố đóng gói, buộc ép (công việc này có hiền thê tiếp tay, như sửa soạn sẵn bao bì, dây nhợ, thanh ép, ốc vít vặn...)

           3. Thời gian từ lúc bắt đầu xào cho đến khi hoàn tất, dọn dẹp sạch sẽ bếp núc, là khoảng 2 giờ. Ở đây không tính thời gian luộc và thái thịt.

           4. Cả Ngố sử dụng loại bao nhựa dày hiệu Ziploc (loại miệng có dây kéo nhựa để đóng kín), khổ lớn (105/8x11”), tròng hai cái vào nhau cho chắc thêm, cắt một chút hai góc đáy để chỗ thoát cho mỡ chảy ra, và trước khi cuốn miệng bao lại, cắt bỏ đường dây kéo, để cho đỡ cộm khi ép (làm lõm cây giò theo chiều dọc), khiến hình khoanh giò sau này thành méo mó, không đẹp.

           5. Nếu sử dụng lá chuối thì cũng phải xếp thành 2 hay 3 lớp chồng lên nhau: xếp lớp đầu đường gân lá nằm ngang; lớp sau đường gân nằm dọc, v.v., để tránh lá bị rách khi ép mạnh.

           6. Khi đóng gói giò thì nên làm trong một khay hay mâm kim loại, để mỡ chảy ra trong đó, đỡ cho người dọn dẹp lau chùi khi làm xong; dưới sàn nhà nên lót giấy báo để khỏi lau sàn!

           7. Loại giò này thế hệ Cả Ngố còn muốn thưởng thức vào dịp Tết. Thế hệ con em có đứa thích, song vì công việc thực hiện nhiêu khê như kể trên, chắc chúng không đủ kiên nhẫn làm. Trong những năm gần đây, số lượng có chiều hướng giảm bớt vì thế hệ Cả Ngố bắt đầu cảm thấy “chân yếu tay mềm, mắt mờ, răng rụng” không kham nổi việc làm hay ăn loại giò này. Vì vậy, trong tương lai có lẽ đám con cháu của hắn chỉ “cửa hàng bán gì ăn nấy!” Ngoài ra, vì càng ngày thiên hạ càng sợ mỡ, nên món này có thể cũng sẽ bị...diệt chủng như khủng long! (sáu-05)

3. ĐIỀU ONG TIẾNG VE Ý KIẾN LỜI RUỒI VĂN MUỖI☺

           Cả Ngố này vừa mới được đọc bài “Ba Mươi Năm Nhìn Lại Một Cuộc Chiến” của Ông Việt Cường, một người tự nhận là con của một cán bộ cộng sản kỳ cựu. Theo hắn, đại ý hay chủ đề của bài viết này là, sau khi cho rằng cuộc tranh chấp võ trang tại Việt Nam vừa rồi là chiến tranh ủy nhiệm, tác giả muốn kêu gọi hai phe trực tiếp tham chiến hãy quên quá khứ đau thương mà hướng tới tương lai tốt đẹp. Tuy giọng điệu có vẻ chân thành khi trách cứ hai bên Nam Bắc về cách hành xử xấu xa trong thời chiến, gây ra những hậu quả tang thương đau đớn cho đất nước ngày nay, tác giả hình như vẫn cố ý nhẹ tay hay không mạnh miệng đối với phía Bắc cộng sản, mặc dù bây giờ cả thế giới đều biết cái dã man, sự tàn bạo, tính dối trá, ách độc tài, mà chế độ miền Bắc đã áp dụng khi cai trị miền Bắc từ năm 1954 và toàn Việt Nam từ 1975 đến nay.

           Không biết ai khác thì sao, chớ riêng Cả Ngố này khi đọc hay xem những gì của con cháu Bác Hồ kính yêu viết ra và phổ biến, dù có vẻ chân thành xây dựng đến đâu, hắn vẫn thấy lấn cấn sao sao ấy, bởi vì hầu như tất cả đều lý luận một chiều hay chưa rốt ráo khách quan. Trong tinh thần đó, hắn xin có một số ý kiến ruồi muỗi ong vetrình quí độc giả như dưới đây.

           Ông Việt Cường đồng quan điểm với Giáo sư Lê Xuân Khoa, tác giả “Ba Mươi Năm Gọi Tên Gì Cho Cuộc Chiến?” (trích từ websitecủa đài BBC). Theo đó, cuộc chiến vừa rồi chẳng qua chỉ là chiến tranh ủy nhiệm, trong đó hai phe VN là những con chốt cho những quan thầy của mình chơi trên bàn cờ quốc tế. Nói cách khác, chúng ta bị thiên hạ xúi bẩy, đánh nhau chí chóe tơi bời hoa lá, cả mấy chục năm trời, chỉ vì quyền lợi của mấy xếp mắt xanh mũi lõ ở tận đâu đâu, quên hẳn những tác hại ghê gớm về nhiều mặt của bom đạn ngay trên mảnh đất chữ ét-sờ này, làm đám anh em da vàng mũi tẹt chúng ta đứa thì đui, kẻ thì què, thằng thì mẻ, con thì sứt, khiến quê hương gấm vóc của chúng ta rách bươm như tàu lá chuối sau cơn bão.

Và bây giờ, chiến tranh đã chấm dứt mấy chục năm rồi, VN vẫn còn là một nước nghèo mạt rệp nhất nhì thế giới, với biết bao bệnh hoạn xã hội, văn hoá, giáo dục, kinh tế, chính trị…, không thể chữa cho khỏi—nếu còn Vi-xi!

           Và, vì bây giờ nhận ra rằng chúng ta đã lỡ úynh nhau dùm thiên hạ, lỡ choảngnhau thay cho người ta, đến nỗi u đầu sưng trán, gẫy tay mất chân, nên tác giả mới xúi người Việt chúng ta, nhất là những ai ở hải ngoại này còn cay cú Việt Cộng ra mặt, hãy quên đi quá khứ u tối mà hướng tới tương lai tươi sáng. Đây chẳng phải lời khuyên mới mẻ gì, vì trước đây cũng đã có nhiều người, đặc biệt là bày con cháu Bác Đi-Dép-Lốp, hay đám cảm tình viên của Bác, kêu gọi như vậy.

           Thôi thì chúng ta cứ chấp nhận tiền đề: hai bên Nam Bắc đều là đầy tớcho những ông chủ ngoại bang sai khiến. Nhưng có lẽ chúng ta nên cứu xét thêm xem cung cách hai tên người làm này vâng lời chủ nhân thế nào trong thời gian chiến tranh. Cả Ngố này cho rằng có như thế mới gọi là nghiên cứu đánh giá vấn đề một cách khách quan, công bằng và triệt để.

           Điều hiển nhiên đầu tiên là tay đầy tớ Nam chỉ có một chủ chính yếu là Mỹ, trong khi tên nô bộcBắc có tới hai thầy quan trọng là Nga và Hoa! Có lẽ sự dị biệt này khiến cho cung cách hai cá nhân cùng làm nghề rô-be bưng này khác nhau chăng?

           Quả thật như vậy! Tên Bắc không những nghe lời hai thầy triệt để mà còn làm quá cả lệnh thầy để lấy điểm. Điều này biểu hiện rõ nét nhất qua việc hắn cắt cả đất hương hỏa dâng thầy, không phải chỉ mới đây khi hội đồng gia tộc bù nhìn nhà hắn âm thầm nhất trícắt đất, xén biển đem dâng thầy, mà ngay cả từ năm 54 lúc hắn đang tâm ký sớ nhượng đất, để tỏ lòng cúc cung khuyển mã. Hoặc hắn đã nhẫn tâm giết hại chính bà con anh em hắn khi nhận lệnh cải cách ruộng đất năm nao của Bác Mao. Việc họ phải sang làm lao động khổ sai tại quê hương thầy, không những trong thời chiến tranh mà ngay trong hiện tại, cũng là một biểu hiện đáng nêu khác.

           Tình hình gia đạo của hắn cũng bê bối không kém. Những tệ nạn xã hội mà trước kia hắn đổ riệt cho tay Nam gây ra như tham nhũng, đĩ điếm, cần sa, ma túy,…, bây giờ tăng mức độ trầm trọng cả trăm lần, mặc dù tay Nam đã bị đánh đuổi ra khỏi mảnh đất quê hương cả mấy chục năm rồi. Ví dụ như hắn đem vợ con hắn làm món hàng bày bán ở nước ngoài; đàn bà con gái trẻ em bị lừa gạt đem ra ngoại quốc làm món đồ chơi xếch cho khách làng chơi; tôn ti trật tự trong gia đình bị đảo lộn; mọi giá trị đạo đức dân tộc đều được đánh giá bằng đồng đô-na Mỹ vạn năng.

           Nội bộ gia đình hắn bây giờ xuất hiện nhiều hiện tượng văn hoá mới—lừa gạt được ai là khoái chí; ăn cắp được cái gì là khôn ngoan; bắt chẹt được người khác là mừng rơn,…, tức là những chuyện trước kia coi là bất thường và xấu xa, nay được cho là bình thường và tốt đẹp, được xã hội chấp nhận, bởi vì ai ai trong gia đình hắn đều như thế; ai không như thế được xem là ngu ngốc!

           Ví dụ như mới đây Cả Ngố này có đọc trong báo chợ tại đây (tin tức trích dẫn từ báo chí trong nước) là tại địa phận thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, trên quốc lộ 1, có “quán cơm chém.” Từ ngữ chém này phải được hiểu theo cả nghĩa bóng lộn lẫn ý đen thui, bởi vì giá cả tại đây thuộc loại chặt đẹpkhi du khách ghé quán, và nếu khách tỏ vẻ bất bình với giá cắt cổ, không chịu trả, thì sẽ được “xin tí huyết” làm “kỷ vật cho em”! Khách buộc phải chấp nhận chịu lép mà móc ví, bởi vì một là thời gian xe ghé lại không lâu, khách không thể tìm chỗ khác ưng ý hơn, hai là khách không có mác trong tay để đối đầu với bọn đầu trộm đuôi cướp, đầu trâu mặt ngựa!

           Tình hình cũng tương tự tại khu biên giới Việt Trung. Thị trấn Hà Khẩu nổi tiếng là nơi dịch vụ “người cho thuê” được khai thác không che đạy giấu giếm gì cả. Khách hàng muốn thuê chị em ta, loại nào cũng có—già hay trẻ, mập hay ốm, còn hay mất, xum xuê hay trụi lủi; nhưng đã vào “cửa hàng” rồi thì phải “đi,” nếu không thì có chuyện! Không có kiểu năn nỉ ỉ ôi “Đi ai cũng dậy, đi em, em cám ơn!” như khách mua hoa trong Nam thường nghe khi ghé thành Cổ Loanăm nao!

           Hoặc tình trạng vô trật tự trong giao thông tại các thành phố, với đủ các loại xe máy chen lấn, giành giật lối đi, bất kể xe khác, thì không cần nói ai cũng biết, nhất là quí độc giả nào thường về thăm quê thì hẳn là phải rành sáu câu. Việc này nhiều phóng viên ngoại quốc đã viết tới nhiều lần, thiết tưởng chúng ta chẳng cần bàn thêm, để khỏi mang tiếng “nói xấu chế độ”!

           Nhân nói chuyện về các thành phố, Cả Ngố này trộm nghĩ chúng ta cũng nên biết qua về Hà Nội cũng như con người Hà thành bây giờ thế nào, vì đây là mặt tiền của căn nhà mà tên Bắc trưng bày trước thế giới, cái nhà mà hắn đi đâu cũng khoe là “cái nôi của thế giới”! Cả Ngố xin tâu trình ngay rằng những nhận xét sau đây về thủ đô “bốn ngàn năm văn vật” không phải của mình bịa đặt ra, mà là của một ông tên Vương Văn Quang viết trong bài “Chẳng Thơm Cũng Thể Hoa Nhài—Một Lần Về Thủ Đô,” nhân chuyến ra Hà Nội hồi đầu năm 2004. Nghe đồn bài này được đài BBC phát đi cách đây không lâu.

           Theo tác giả, ông “ra Hà Nội để tham gia hội diễn toàn quân.” A, thì ra ông là một anh bộ đội cụ Hồbiết đàn địch múa hát, tức là đám mà các cụ ta hồi xưa thường xếp vào loại xướng ca vô loài! (Những nhóm từ ngữ in nghiêng trong ngoặc kép là của chính tác giả VVQ.)

           Qua nội dung bài, người ta có thể đoán già đoán non thêm rằng tác giả là dân bắc kỳ rau muống hay bắc kỳ 54, về thăm cố hương lần đầu, sau bao năm xa cách, ôm ấp nỗi nhớ nhung cùng cái háo hức muốn về thăm! (Ấy, phải nói rõ như vậy, bởi vì người miền Nam phân biệt tới 4 loại Bắc kỳ—rau muống, năm bốn, bẩy lămnón cối!) Như vậy, độc giả có thể yên tâm rằng ông này không thể bịa thêm để bêu xấu “thủ đô anh hùng của đất nước anh hùng” được.

           Theo ông, quang cảnh Hồ Gươm vẫn như xưa, và có “một vẻ đẹp cùng lãng mạn.” Thế mà tiếc thay, trên bờ chung quanh, con cháu Bác cho xây những tòa nhà “mang kiến trúc vô cùng dị hợm.” Một trong những bin-đinh đó là cái nhà xí công cộng, có lối “kiến trúc của một lô-cốt thời Tây,” khiến ông phải hạ bút, xót xa, “Giời ạ! Khác nào một mụn cơm, một nốt vá chó giữa má nàng hoa hậu.”

           Nhà cửa trong thành phố, ngoại trừ khu phố cổ không thay đổi, được xây cất rất tuỳ tiện cái ra cái vào, cái lớn cái nhỏ, “lộn xộn đứng gầm ghè bên nhau.” Về mặt này, “Hà Nội cũng ăn đứt Saigon.” Cái lộn xộn loạn xạ đó cũng thể hiện rõ ở cung cách dân Hà Nội sử dụng phương tiện di chuyển trên đường phố. Về điểm này, nếu so với dân Saigon, ông cho rằng, “…dân Hà Nội là bậc thầy.”

           Còn con người Hà Nội, cả lớn lẫn bé, hay ít ra những cá nhân mà ông gặp (nam nữ bán hàng; thanh niên đứng đường; trẻ nhỏ chời đùa) ăn nói dữ dằn, hỗn láo, thô tục và phát âm lẫn lộn giữa hai phụ âm /l/ và /n/ tràn lan. Chẳng hạn, khi ông và mấy người bạn lại gần mấy thanh niên đang ngồi trên yên xe gắn máy, vì lầm tưởng họ là lái xe ôm, thì một tên quát lên, “Cụp mẹ mày pha xuống!” (pha là mắt), và một tên khác tiếp luôn, “Bố mút mẹ mày pha ra bây giờ!

           Hoặc tác giả và người bạn đi mua quần áo được trả lời như sau, khi hỏi chị bán hàng món đồ mà chị không buôn, “Đây chỉ có hàng Anh, Mỹ; anh dùng tạm, không thì phắn mẹ đi cho em nhờ. Cháo ám!” Rất có thể sau khi khách đi rồi, bà ta đem đốt một tờ giấy sớ hàng mã để đuổi vía xúi quẩy của mấy ông khách mua hàng hỏi ấm ớ! Hoặc câu này của một khách hàng không hài lòng, nghe được trong quán bia hơi, nơi tác giả và bạn vào giải khát, “Bia với bọt nhạt như nước nồn, chua noennoét như cứt mèo…

           Hoặc khi lên cái núi đất nhỏ trong Vườn Bách Thảo, và thấy một đám trẻ con đốt cái gì toả ra mùi rất khó chịu, ông lại gần xem thử, thì được “một thằng nhóc” hỏi rất xấc xược, “Nhìn cái đéo gì? Thích gì?” Ông sợ quá, lủi mất.

           Nhưng cái khó chịu chưa buông tha ông khi ông “xuống núi.” Số là trên đường xuống, trong lúc nhá nhem, và cảm thấy mỏi chân, ông ngồi xuống và dựa lưng ngay vào cái ghế đá trống bến đường. Thế là nguyên một mảng lưng áo ông dính đầy phân người—không thể là cứt của con vật nào khác vì cái “mùi thối hung hãn khủng khiếp” của nó!

           Trước tình hình rất khẩn trương này, ông đành bóp bụng trả một tay xe ôm gấp đôi để hắn cho ông ôm về nhà khách quân đội trên đường Tàu Bay là nơi đoàn của ông đóng chốt, dù hắn dùng dằng mãi mới chịu cho ôm, vì cái mùi quái ác ấy. Hai người đàn ông ôm nhau đi đến đâu thiên hạ “giạt ra tới đó”!

           Theo Cả Ngố này, có hai điều đáng lưu ý trong bài viết của tác giả VVQuang. Một là, khi tác giả trao đổi điều tai nghe mắt thấy đó của mình với mấy “cô diễn viên múa người Hà Nội,” thì được trả lời, “Hà Nội là như thế đấy. Các anh không quen nên thấy sốcđó thôi. Bọn em thấy bình thường!” Ở một xã hội mà những điều xấu xa kém văn hoá như thế được mọi người thấy bình thường, thì xã hội ấy nhất định sẽ “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa” cái một thôi, quí độc giả nhỉ?

           Hai là, theo tác giả, “luật bất thành văn của bất kỳ cuộc thi hội diễn nào” luôn luôn cho đoàn của nơi đăng caiđứng nhất. Tức là đoàn chủ nhà bao giờ cũng phải đứng trên bục ghi số 1 để được trao vòng hoa chiến thắng! Đoàn của tác giả lẽ ra phải đứng chỗ ấy, nhưng vì đã biết trước luật này nên “lãnh đạo đoàn chỉ đề ra chỉ tiêu đứng thứ ba” cho chắc ăn.

           Nhưng trớ trêu thay, khi kết quả sau cùng được loan báo chính thức, đoàn của ông lại được xếp lên, chứ không phải cho xuống hạng ba quèn đó—hạng nhì, mà từ dưới đếm lên! Lý do rất đơn giản và minh bạch: đoàn của thành phố mang tên Người không biết thủ tục “đầu tiên” khi một ông trùm cai thầu “trong làng ca múa nhạc quân đội, trưởng ban giám khảo” đích thân đến gặp lãnh đạo của tác giả và đặt vấn đề tiền đâu này!

           Thôi, xin để quí độc giả suy gẫm những nhận xét trên và tự rút ra kết luận! Riêng Cả Ngố này thì ngâm nga cho đỡ buồn rằng, “Tiếc thay cây quế giữa rừng,…”

           Bây giờ chúng ta trở lại xem tình trạng nhà cửa của tay Nam thế nào. Thành thật mà nói, gia đạo của tay Nam cũng chẳng phải trong ấm ngoài êm gì cho lắm. Trong hội đồng gia tộc của hắn cũng có nhiều quan chức tham nhũng, buôn lậu, điển hình như vụ còi hụ Long An; hoặc biển thủ công quỹ hay ăn cắp viện trợ ngoại quốc; hoặc dung túng nạn lính ma lính kiểng; hoặc chính bản thân cấp chỉ huy đào ngũ, dù đã tuyên bố huênh hoang, v.v. Ngoài xã hội, nạn đĩ điếm, xì ke, ma túy,…,gây nhiều thiệt hại cho đời sống gia đình, đặc biệt tại những thành phố lớn. Tất cả những thứ tiêu cực vừa kể cộng lại, đã đưa tới việc toàn bộ gia đình hắn cùng của cải bị mất vào tay tên Bắc vừa hiếu chiến vừa có hai thầy giúp đỡ hết mình, hồi tháng 4 năm 1975.

           Xét cho cùng, ở một nơi mà chủ nhà một mặt phải quản lý một gia đình trăm con ngàn tính, đứa nên đứa hư, mặt khác phải bận tâm chống đỡ, ngăn chặn sự phá hoại của tên Bắc từ bên ngoài, mức độ tệ nạn xã hội như vậy thậm chí có thể cho là…ô-kê.

           Nhưng tay Nam rõ ràng không làm những chuyện lớn xa vời, gây thiệt hại đến gia sản ông cha để lại, ví dụ như cắt đất hương hỏa dâng thầy như tên Bắc. Trái lại, hắn còn cố gắng duy trì những chuyện nhỏ gần gũi hơn, khiến nếp sống gia đình có lễ nghi, tôn ti trật tự, thân thiện đầy tình người hơn, ví dụ như đề cao những giá trị tinh thần luân lý đạo đức cổ truyền của gia đình Việt Nam—cách xưng hô lễ phép, xử sự kính trọng giữa già trẻ, vai vế trên dưới, v. v.

           Những giá trị này chính tên Bắc cũng phải thừa nhận là phù hợp với xã hội Việt Nam, dù hắn không bao giờ đủ can đảm chính thức công nhận như thế. Chẳng thế mà sau khi cưỡng chiếm nhà cửa của tay Nam, tên Bắc bắt buộc phải lập lại một số nét văn hoá dân tộc mà hắn đã phá bỏ trong gia đình hắn, ví dụ như vào cuối thập niên 80, người ta thấy trường học tại Saigon cho căng những biểu ngữ “Tiên học lễ hậu học văn” trong lớp học. Ngoài ra, còn có nhiều điều khác trong nếp sống gia đình xã hội, quản lý hành chánh của tay Nam mà tên Bắc phải đem áp dụng lại, như sử dụng lại một số địa danh khu vực, phường khóm đã có từ bao nhiêu đời nay tại thành phố một thời có tên là Hòn Ngọc Viễn Đông, ví dụ như Dakao, Bến Nghé, Bến Thành, v. v., mà hắn định tâm xoá bỏ khi mới vào xâm chiếm tài sản đất đai của gia đình tay Nam. Điều này chứng tỏ hắn không có đủ khả năng quản lý tài sản đất đai mà hắn đã chiếm cứ và cai trị bằng vũ lực bấy lâu nay.

           Nhưng tiếc rằng sự cưỡng chiếm gia cư này đã gây ra biết bao đỗ vỡ, mất mát, tang tóc, chia ly, khổ cực, cho gia đình tay Nam. Những người may mắn chạy ra nước ngoài trước thì bị cho là “ôm chân đế quốc”; những người còn kẹt lại thì là “ngụy quân ngụy quyền,” bị quản lý khắt khe, học tập cải tạo, lấy nhà cửa, đuổi đi kinh tế mới, và đối xử phân biệt tàn tệ.

           Trước tình hình này mà bảo thân nhân tay Nam hãy quên đi quá khứ, đừng hận thù, thì hơi bất công. Ai chứ một huynh trưởng của Cả Ngố, nhà ở đường Gia Long Saigon, chắc khó có thể nào quên mấy quả pháo vi-xibắn rơi vào nhà năm nao. Nhiều huynh trưởng khác, và Cả Ngố này, hẳn cũng không thể không nhớ những năm tháng dài nằm ấp vi-xitừ Nam chí Bắc. Riêng Cả Ngố này không thể nào quên cái cảm giác của mình khi bà xã vào thăm nuôi cho hay thằng con đang học mẫu giáo bị đuổi vì có bố là “ngụy quân”; ấy là chưa kể đến việc cửa hàng của bố mẹ hắn bị kiểm kê, cán bộ ta dọn đem đi sạch bách, sau khi để lại mảnh giấy biên nhận chữ viết tay nguệch ngoạc như gà bới!

           Bất công là vì chính tên Bắc có quên đâu? Bằng cớ hiển nhiên nhất là cách hắn đối xử anh em thương phế binh bà con tay Nam. Việc này một ký giả Nhật bản, Ông Yashigata Yushi, có nói tới trong bài báo “30 Năm Kể Từ Ngày 30-4-1975” mà hẳn một số quí độc giả có xem qua hoặc nghe nói dạo tháng 4 năm 2005. Và còn biết bao chuyện khác chứng tỏ hắn đối xử phân biệt ta địch nữa mà ai cũng biết hoặc thấy, có lẽ không cần nhắc đến cho mất thì giờ.

           Nói tóm lại, khi tên Bắc một mặt cứ quy trách tay Nam về mọi cái xấu xa từ trong nhà ra ngoài ngõ, mặt khác tiếp tục coi đồng nghiệp của hắn như kẻ thù bại trận, với thái độ kẻ cả ban ơn, và bây giờ lại kêu gọi kẻ cùng làm nghề hầu hạ như mình hãy quên đi quá khứ, bắt tay làm hoà, thì có khác gì xúi trẻ ăn cứt gà, phải không quí độc giả?

           Sau cùng là một điều hơi lạc đề, nhưng có liên hệ. Đó là việc Cả Ngố này vẫn thắc mắc rằng Võ Văn Kiệt hồi làm thủ tướng biết rõ bao nhiêu chuyện sai trái của Đảng và Nhà Nước, sao không đòi sửa sai cho dân chúng nhờ, mà đợi đến bây giờ về hưu và gần đất xa trời rồi mới lên tiếng chỉ trích chính phủ, qua thơ ngỏ thơ kín? Và Ngài đại tướng Võ Nguyên Giáp lừng danh thế giới nữa, sao ngài bị chèn ép vu khống những chuyện tày đình như vậy mà ngài vẫn âm thầm chịu đựng để đến hôm nay, lúc ngài sắp vào hòm, ngài mới lên tiếng phản đối? Rồi Cụ Hoàng Minh Chính nữa, trước đây cụ ở đâu mà không biết những cái láo toét của Đảng và Nhà Nước khi lường gạt cả nước, mà bây giờ lúc bệnh hoạn đầy mình và gần thở hắt, cụ mới lên tiếng đòi cái này hỏi cái nọ, để được tiếng là Người Bất Đồng Chính Kiến số dách trong nước? Và mợ Dương Thu Hương nữa? Và biết bao nhiêu đảng viên, chức sắc có máu mặt khác, chuyên lý luận một chiều, kêu gọi dân miền Nam quên đi quá khứ, bỏ qua hận thù, hoà giải hoà hợp, ngồi lại mí nhau, bàn chuyện tương lai đất nước?

           Niêu cơm độn sắn lẫn ngôkhẩu tiểu liên AK-47 quả là có sức mạnh vô địch, có thể làm cho ngay cả những “chiến sĩ cách mạng kiên cường nhất” của chế độ phải khổ sở và khiếp sợ mà “ngậm bồ hòn làm ngọt” để bảo toàn mạng sống của mình. Phải vậy không, quí độc giả? Chấm hỏi hết. (sáu-06)

☺Xin xem thêm mấy bài của các hai ông Việt Cường, Vương Văn Quang, và của ký giả Nhật ở Phần Ruột Dư sau đây.

                                      Try not to become a man of success, but rather try to become a man of value.

                                                                                                                                                     Albert Einstein

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com