Đói
"Cậu lớn vẫn chẳng ăn được chút gì…"
"Giờ lành sắp điểm, nếu cứ thế này thì làm sao cậu chống cho qua được hết đêm nay…?"
"Chỉ mong khi người kia qua cửa, tà ma yểm hại cậu lớn sẽ buông tha cho cậu…"
"Ôi xanh cao nếu có lòng làm ơn hãy xót thương cho cậu chủ của chúng con, đời cậu ấy đã quá bất hạnh rồi."
Bên ngoài lễ lộc linh đình, những người ăn kẻ ở trong nhà vẫn không ngừng bàn tán. Họ đi ra đi vào, tay bưng quà biếu, tay xách lễ dâng mà tầm mắt thi thoảng cứ nhòm vào buồng trong. Nơi góc phải, ngay gần vườn lớn là căn phòng của cậu lớn ở khu nhà chính này. Và hôm nay là đám cưới của cậu. Bên cạnh cửa buồng có treo chữ Hỷ đỏ thắm là một cái chậu sứ. Ai ở lâu trong nhà này cũng biết cái chậu đó dùng để làm gì.
Cậu lớn của nhà họ Chính, Chính Mô là người tài ba lỗi lạc, và giá như trời phú cho gã một thân thể khỏe mạnh hơn thì ông lớn đã sớm kí giấy giao quyền quản lý đất đai của cải lại cho gã rồi. Mà cũng có phải Chính Mô tật nguyền gì, gã vẫn đường hoàng lành lặn như người ta ấy chứ. Thế nhưng ngay cái ngày sinh nhật lần thứ Mười đáng nguyền rủa năm nào, ông trời đã cướp đi quyền được ăn, được uống bình thường của gã. Bằng một trò đùa quái ác của bọn trẻ con, và bằng một cơn bạo bệnh khi cậu lớn bị chúng đẩy xuống hồ sâu lạnh giá. Cũng may là người ở trong nhà nhảy xuống cứu kịp, chứ không thì cậu ấy cũng đã chẳng còn ngồi đây.
Mà trong cái may cũng phải có cái rủi, cậu lớn đã chẳng còn ăn uống được nữa. Nghe cậu bảo thứ gì cậu ăn vào cũng có mùi ôi thiu, ngay cả nước lọc cũng vậy. Bác sĩ ông chủ mời từ tận nước nào bên Tây phương về bảo rằng cậu bị "parosmia", người làm trong nhà này chả tin mấy. Nhìn qua là biết cậu bị ma sông ma hồ ám vào người rồi, họ còn nói với ông lớn thế mà. Chạy chữa khắp nơi không khỏi, đến bước đường cùng, ông đành rước thầy cúng cao tay ấn nhất trong vùng về. Thầy cúng bấm một quẻ duy nhất, phán chắc nịch với ông rằng: Chính Mô phải lấy người chết vì đói thì cơ may mới khỏi.
Bởi thế nên mới có cái tiệc cưới người âm này đây.
Mà nói về "nàng dâu" sắp vào cửa của nhà họ Chính, "nàng ta" thậm chí còn chẳng phải đàn bà cơ. Đất điền trong tay ông lớn bao năm qua bội thu liên tiếp, nhà nhà ăn no mặc ấm, lúa thóc đầy kho, tìm đâu cho được một người chỉ vừa chết vì đói? May phước có ai mách cho nhà nào đấy tận cuối ngõ có đứa con trai vừa qua đời, người ta đồn rằng do bà mẹ kế lòng sinh ghen ghét mà bỏ cho chết đói. Ngày lành cũng cận, ông lớn nhà họ Chính đành nhắm mắt gửi vàng, làm một cái tiệc cho thằng con lấy người cõi âm.
Đợi bao giờ hết bệnh thì đốt tờ ly hôn, dán tấm bùa trừ ma trên cửa rồi tìm đứa con gái nhà nào môn đăng hộ đối về làm mai cho cậu lớn, chứ cái giống hủ tục này làm gì phải kí giấy với nhà nước đâu mà sợ. Nhưng nói gì thì nói, Chính Mô vẫn là đứa con trai độc đinh trong nhà, nên ông Chính quan niệm rằng dù có là một cái đám cưới tạm bợ thì cũng phải làm cho ra trò. Và cũng bởi thế mà trong nhà ngoài cửa nhà họ Chính lúc bấy giờ mới được dịp rợp bóng vàng son, từ cổng lớn tới sân sau trải đầy trường nhung đỏ ối.
Trong lúc đám người làm đương bàn tán xôn xao bên ngoài, bên trong căn buồng mới được trang hoàng cho tinh tươm lại là một màu tĩnh mịch. Đám cưới với người âm không được làm bằng kiểu truyền thống, cũng chẳng thể ăn theo phương Tây mà phải nghiêm ngặt tuân theo chỉ dẫn của thầy cúng. Chính Mô mệnh Kim, thành ra phòng ngủ phải đặt phía Nam, có gương hướng Đông Bắc soi tỏ. Giường nằm giữa phòng, đằng sau là bàn thờ và cũng là nơi ngọc thể của phu nhân an tọa.
Chính Mô ngồi một mình trong gian phòng. Gã cứ ngồi đó, lẳng lặng lắng nghe tiếng nhạc mừng vui tươi vọng đến từ bên ngoài, chẳng biết đã qua bao lâu. Mãi cho đến khi chạng vạng đổ xuống bên thềm, có cơn gió nào thổi cho nhành liễu bên bậu cửa la đà. Chiếc đồng hồ cổ trên tường kêu tích tắc, gã đứng dậy, bước từng bước một thật chậm về phía đầu giường, nơi có đặt một chiếc bàn thờ đang nghi ngút khói hương.
Chính Mô tựa người vào thành giường, buông mi ngắm nhìn "người" đang ngồi trên ghế, bên cạnh bàn thờ. Đây là phu nhân mới vào cửa của gã, gã ngẫm. Rồi dòng suy nghĩ đó nhanh chóng bị cắt ngang bởi một cơn đau quặn bất thần sấn vào trong ổ bụng, Chính Mô nhíu mày.
"Tống Hưởng Tuấn, nhỉ? Cậu sẽ gọi em là Tuấn vậy, chắc hẳn em cũng không phiền lòng đâu. Dù sao từ đây em với cậu cũng là một nhà." Tiếng nói lạnh nhạt đột ngột vang lên trong phòng khi gã bắt đầu tự mình độc thoại.
"Chẳng hay phu nhân của cậu có điều chi không ưng với cái tiệc cưới này chăng? Cậu hy vọng là không, vì thầy chúng mình bỏ lòng vào mấy chuyện lễ nghi cũng nhiều lắm đấy. Lão thầy cúng kia cũng ăn được ối tiền."
"Lợi dụng cái thể trạng đáng nguyền rủa này của cậu. Ai cũng làm thế cả, Tuấn ạ. Liệu Tuấn có biết điều đó không?"
Gã cứ thế lẩm bẩm một mình trong gian phòng vắng tanh độc có mình gã với một cái xác chết. Nhưng Chính Mô nào có điên, gã hãy còn tỉnh táo lắm. Gã chỉ cần một thứ gì đó, một ai đó đánh lạc hướng gã khỏi cơn đau nơi bao tử, dù đã nín nhịn hàng trăm ngàn lần trong ngần ấy năm mà vẫn làm gã ngạt thở như cũ.
"Đáng cười làm sao, những kẻ thủ ác vẫn hay nhìn cậu với cặp mắt thương xót giả tạo của mình, như thể chúng nó đã từng một lần nào thành tâm sám hối cho những việc mình đã làm vậy."
"Tuấn có thế không? Về làm phu nhân của cậu để phù hộ cho cậu cũng ăn ngon uống được như người ta, Tuấn có khinh, có ghét cậu phiền hà chăng?"
Như có ma xui quỷ khiến, gã đưa bàn tay lên chạm vào khuôn mặt của Tống Hưởng Tuấn. Xám tái, lạnh buốt mà lại mượt như xa tanh, thật kì lạ. Người đang im lìm ngồi đó dẫu đã chết rồi mà vẫn đẹp tựa tranh vẽ. Da trắng như tuyết, tóc đen như mun, và người ta đã họa cho em màu son đỏ tươi để mừng ngày hỉ. Gấm vóc lụa là tôn lên sự kiều diễm lạ lùng nơi đuôi mắt em, đến mức gã thoáng ước chi mi mắt ấy khoan đừng buông lơi, để gã được dịp ngắm cho thỏa lòng sắc màu bên trong ấy.
"Lam nhan bạc phận, giá như số trời đừng run rủi cho em phải chịu cực chịu khổ đến thế." Gã buông một tiếng thở dài tiếc rẻ.
"Mà thôi, vào cửa nhà họ Chính rồi thì vĩnh viễn là phu nhân của cậu. Sau này nếu cậu có lỡ làm điều gì không phải với em, hay làm em buồn lòng, mong em cứ nói cho cậu hay, để cậu thay…" Gã khựng lại, nhận ra mình vừa trò chuyện với một xác chết như với người bình thường.
Chính Mô ngẩng đầu trông lên. Bầu trời bên ngoài đã sập tối, bụng gã cũng đã hết đau tự khi nào. Ngọn đèn dầu trên bàn thờ cháy lên thứ ánh sáng lay lắt, hắt lên khuôn mặt người con trai đang ngồi một cái bóng liêu trai, mờ mờ chẳng rõ. Khói nhang hun cho cặp mắt gã cay xè, làm cho gã vừa ảo giác thấy khóe môi em thoáng nâng lên.
Bất chợt, ngoài cửa phòng có tiếng ai gõ cửa. Người làm đứng bên ngoài cung kính hỏi vọng vào trong:
"Thưa, đêm cũng đã về, cậu lớn có muốn ăn chút gì lót dạ không ạ?"
Chính Mô dời tầm mắt khỏi vị phu nhân mới vào cửa. Gã thoáng liếc nhìn đĩa bánh mì có phết ít bơ đậu phộng và mấy quả bơ trên bàn, nhàn nhạt đáp một tiếng không cần với gia nhân. Lót dạ gì chứ, dù sao thì quanh đi quẩn lại cũng chỉ có mấy món bày sẵn đằng kia. Gã cười một tiếng nhạt thếch. Tầm mắt lướt qua gã bắt gặp thấy mấy trái táo để trên bàn thờ vừa tan nhang khói. Sẵn tay, gã cầm lấy một trái. Quả táo đỏ ối một màu gì quyến rũ khác thường, chắc vừa mới hái từ trên cây xuống không lâu.
Mà, dù có tươi có mới cỡ nào thì vào miệng gã cũng chỉ còn độc một mùi ôi thiu thôi, Chính Mô há miệng, cắn một miếng.
Và chưa bao giờ trên mặt cậu lớn nhà họ Chính lại bày ra vẻ bất ngờ đến thế. Vị chua ngọt nổ bùng trên đầu lưỡi gã tựa giấc mơ hoang đường nhất trong tất cả những giấc mơ hoang đường. Tươi ngon, mát rười rượi như một địa đàng vừa tìm về với gã sau khi gã đã lạc mất nó suốt ngần ấy năm. Khóe mắt cay xè, ướt mèm nước, chẳng biết là do khói nhang còn dư lại hay là vì thứ gì khác, gã ngấu nghiến lấy quả táo trên tay để rồi tất cả những gì còn lại chỉ là mấy hạt táo nhỏ xíu.
Gã vốn sẽ ăn cả mấy cái hạt đó, nếu bao tử gã tiêu hóa được.
Chính Mô vội vàng đưa bàn tay lên chộp lấy hai quả táo còn lại trên bàn thờ, trái nào trái nấy cũng đỏ ối và to bằng bàn tay. Y như đúc. Khi đầu răng cắm ngập vào lớp thịt thà đến bật nước, lần đầu tiên từ hồi nào chẳng nhớ, gã muốn òa khóc. Nhưng gã sẽ không. Nước mắt chẳng có vị gì ngoài cái mùi kinh tởm hay phát ra từ cống rãnh, gã hãy còn nhớ kĩ lắm. Vả lại, gã phải tỉnh táo, tỉnh táo để ăn thật chậm, nhai thật kĩ mấy quả táo, sở dĩ gã vẫn sợ vị ngọt trên đầu lưỡi này thực chất chỉ là do đầu óc gã tự nó huyễn hoặc nên.
Nhưng mọi thứ hoàn toàn không phải do bản thân gã hoang tưởng. Từ ngày chàng dâu ma bước vào cửa nhà họ Chính, bệnh tình của cậu lớn nhà ấy thuyên giảm hẳn. Dù rằng điều kì lạ mà đám người làm vẫn hay truyền tai nhau đó chính là cậu chỉ có thể ăn đồ ăn vừa cúng cho phu nhân; hoặc chính cậu phải ngồi đối diện và ăn cùng người đó như ăn với người sống thì mới có thể cảm nhận được trọn vẹn mùi vị thức ăn. Đây cũng là lý do vì sao mà ông Chính mãi vẫn không dám xóa sổ cái trò hủ tục vẫn đang diễn ra ngay trong nhà mình.
Và rồi Chính Mô bắt đầu mơ, những giấc mơ rất đỗi lạ thường, nhưng lại bình dị. Những đêm an giấc trên chiếc giường đặt ngay giữa gian phòng, có tấm gương to rọi thẳng vào từ phía góc nhà, gã mơ thấy mình được gặp Tống Hưởng Tuấn. Mái tóc vẫn đen như mun, làn da vẫn trắng như tuyết, nhưng em rực rỡ và nên thơ hơn hình người đang ngồi yên nơi đầu giường gã rất nhiều. Em mặc bộ quần áo áng màu mây trời, với gò môi dịu ngoan và đôi mắt trong suốt một màu đất mẹ.
Và hình như trong thế giới ấy gã và em đã yêu nhau rất nhiều. Những lần đi dạo trên con phố có ngựa xe ngược xuôi, những chiếc hôn, những cái chạm tay nhau giữa những bãi biền lộng gió đã gợi nhắc cho gã về điều đó. Ngày qua ngày, những giấc mơ ngày càng thật hơn, đến mức lắm khi gã cứ tựa người vào đầu giường ngắm nhìn em đang ngồi lặng yên nơi đó mà tủm tỉm cười.
Nhưng cuộc đời nào đâu giản dị được đến vậy. Hằng ngày khi gã phải đi xã giao với mấy ông lớn trong giới làm ăn, vẫn có đôi ánh mắt nhìn gã và lâu lâu vẫn nghe được mấy lời nói ra nói vào. Nói rằng gã mắc chứng ái thi, bệnh hoạn. Chính Mô chẳng mấy để tâm, cũng không muốn đôi co gì nhiều với mấy ánh nhìn hèn mọn ấy.
"Cậu ba Khang gần đây hơi xuống sắc nhỉ? Chẳng hay cái cây tài lộc nhà cậu đã làm cậu thành ra thế này ư? Tôi nghe đâu để cây cỏ trong nhà ban đêm dễ thiếu sinh khí, cậu cân nhắc cẩn thận chút nhé." Gã mỉm cười, nhẹ nhàng đáp lời tên công tử bột vừa nói bóng nói gió về phu nhân của gã, đặc biệt nhấn mạnh vào mấy chữ "cây phát tài" mà tên ấy vẫn hay khoe mình thỉnh về được từ đất Thái.
Kẻ trước mặt nhanh chóng tái mặt, vội vã rời đi. Chính Mô chỉ nhếch môi một cái vô thưởng vô phạt trở về tập trung vào công việc đang dang dở. Như đã nói, gã không ham thích gì việc đấu võ mồm với người khác, thà gã dành chút thời gian ấy để hoàn thành công việc rồi về với Tuấn của gã còn hơn. Thông qua những giấc mơ vẫn ôm lấy cõi hồn gã hằng đêm, Chính Mô cho rằng mình đang yêu, một tình yêu mãi cho đến bây giờ mới tìm thấy, là mối son đầu đời dịu êm, lại ngọt thanh đến mát lòng mát dạ. Và sự nhận thức đó làm gã phát nghiện.
Tiếc rằng, mọi thứ vẫn không được như kế hoạch gã vẫn đặt ra. Đêm đó, gã phải đi đến một bữa tiệc rượu để xã giao với mấy người tai to mặt lớn. Dù gã vẫn không ăn uống gì được nhiều, nhưng tình hình đúng là có cải thiện hơn ngày xưa và ông Chính thì mong được lui về sau đài hưởng phước con cháu lắm rồi.
Chính Mô trở về căn phòng ngủ lạnh lùng lúc bầu trời bên ngoài đã đen kịt. Gã thay lớp quần áo nồng mùi rượu thịt rồi uống cốc trà giải rượu được gia nhân trong nhà chuẩn bị cho. Thứ trà nóng hổi, vừa chua vừa chát bám vào trên đầu lưỡi vẫn chẳng làm cơn say mèm của gã đỡ hơn chút nào. Chính Mô theo lệ thường lại đi về phía đầu giường, cúi người ngắm nhìn người con trai đương ngồi bên cạnh bàn thờ.
Tống Hưởng Tuấn vẫn thinh lặng như vậy, cũng phải thôi, dù sao thì em cũng chỉ là một xác chết. Thế nhưng em không phân hủy, chẳng nồng lên mùi thây rữa hay nát tan đi như bao thứ trần tục trên cõi đời này, Chính Mô cứ hay tự hỏi tại sao. Rồi gã lại nhớ loáng thoáng về tin đồn người mẹ kế của em vừa hóa điên hóa dại cách đây không lâu, người ta vẫn hay nói rằng bà ta cứ mãi gào thét về chuyện thấy được em đội mồ về báo oán.
Dưới ánh đèn dầu đỏ mờ le lói từ trên bàn thờ, gã ngồi đó, những ngón tay thon dài mân mê tách trà mà cứ tưởng như đang chạm vào ai đó. Sự lịch thiệp có trộn chút suồng sã bông đùa của gã hình như đang nhắm vào một ai, riết lấy đến độ nghẹt thở. Gã bật cười khe khẽ, đặt tách trà lên bàn thờ. Rồi Chính Mô dùng chính bàn tay ấy, vuốt lên gò môi đỏ như rướm máu của em, khiến vết son trên đó tan ra trên đầu ngón tay gã thành một vệt loang kiều diễm.
"Giá như em còn sống nhỉ, phu nhân của cậu." Gã thì thầm với bóng đêm như thế.
Rồi gã đi ngủ. Chẳng biết có phải do uống say hay chăng mà đêm ấy, gã mơ thấy ác mộng. Gió khuya thổi cho nhành liễu la đà, sa vào cửa sổ phòng ngủ. Lá liễu xanh ngắt một màu gì kì dị, vươn về phía Chính Mô như bàn tay ai đang gọi gã đến gần.
"Cậu ơi…"
Gã nghe có người đang gọi tên gã, và cả tiếng khóc tỉ tê như đang hờn, đang trách điều gì. Rồi gã thấy mình đứng dậy khỏi chiếc giường, đi về phía cánh cửa sổ có những nhành liễu đương vươn dài ra như mái tóc. Tay chống vào bậu cửa ướt mèm nước mắt ai, cơn gió khuya thổi lại cho tầm nhìn mơ màng của gã tỉnh táo. Và rồi gã đã trông thấy, dưới tàng liễu rũ, có người con trai đang đứng đó, lệ buồn hoen mi.
"Cậu ơi…"
"Cậu ơi, sao cậu không cứu em…?"
"Dưới mười tầng đất sâu, em đói lắm, lạnh lắm, sợ lắm. Giòi bọ sẽ ăn thịt em, giá sương sẽ giết em mất thôi."
"Cậu ơi, cậu có biết hay chăng?"
"Cậu ơi…"
Những tiếng gọi nỉ non khiến lòng gã day dứt lạ. Dưới tàng liễu xanh rì, em ôm mặt òa khóc, phấn son loang đi chừa lại cho em khuôn mặt đẹp như một thiên thần. Nhưng thiên thần ấy lại đang trên đà vụn vỡ. Rồi gã giật mình tỉnh giấc.
Chính Mô ngồi bật dậy đi về phía bàn thờ em. Tống Hưởng Tuấn vẫn ngoan ngoãn ngồi nơi đó, trên môi là vệt son loang ra bởi hành động vồ vập khác lẽ thường của gã đêm qua. Rồi, gã chẳng làm gì nữa. Chính Mô cứ đứng đó, từ lúc tảng sáng đến tận khi mặt trời đã treo trên đầu con sào. Đoạn, gã buông một tiếng thở dài rồi rời khỏi phòng.
"Dạo gần đây cậu chủ trông có vẻ hơi xanh xao, có phải là do chúng ta chăm sóc không được chu toàn hay chăng?"
"Chuyện ăn uống của cậu tốt hẳn so với khi trước, nhưng một thời gian dài như vậy… Có khi là do không hợp tiêu hóa mấy thứ thức ăn mới?"
"Hầy, trời cũng trở lạnh, chắc cũng bởi vậy mà trông cậu gầy hơn?"
"Ôi nhắc mới nhớ, tôi đi tưới cho cây liễu trước cửa phòng cậu lớn đây. Chẳng hiểu sao, trời thì rét căm căm thế này mà cây ấy vẫn xanh rì tươi tốt…"
Những tiếng xì xầm của người ăn kẻ ở trong nhà họ Chính vẫn rộn ràng như cái lẽ thường thấy. Chính Mô đi xuống bếp, gật đầu với mấy gia nhân đang hoảng hồn đứng dậy chào khi thấy gã. Rồi gã bảo họ làm một mâm thức ăn đầy, đủ cả thịt, cá, trứng, sữa và bánh ngọt ăn kèm để mang lên cho phu nhân. Những người làm ba mặt nhìn nhau một chốc rồi cũng vâng mệnh, tưởng rằng cậu lớn nhà này chỉ là hiếm khi lại có hứng muốn ăn một bữa cho thỏa mà thôi.
Thức ăn dâng lên bàn thờ, gia nhân nhanh nhẹn lui ra, khép cửa phòng lại cho gã.
Chính Mô ngồi tựa vào thành giường, ngẩng đầu nhìn lên bàn thờ đang đầy ắp thức ăn mà thì thầm:
"Tiếc rằng cậu vẫn không biết được lúc sinh thời em thích ăn gì, ghét ăn gì nên mới chọn bừa vài món người ta ưa chuộng. Em chọn lấy món nào mình thích rồi ăn nhé, phần thừa để cậu cũng được."
"Chắc là em đói lắm, cậu xin lỗi." Xin lỗi em vì đã không sớm nhận ra.
Tuy mắc bệnh hiếm, nhưng dù sao thì Chính Mô cũng sinh ra trong giàu sang phú quý. Bởi vậy nên ngoại trừ lần bị hãm hại đó, gã chưa phải chịu đói, chịu khổ bao giờ. Dù gã chỉ có thể ăn được bánh mì, bơ và đậu phộng, ông Chính vẫn tìm đủ mọi đường để làm phong phú cho bữa ăn hằng ngày của gã. Từ bánh mì lúa mạch đen đến bánh sừng bò mua về từ Ý, từ bơ đậu phộng đến bánh mứt, tất cả đều đủ đầy. Thế nên gã sẽ không bao giờ có thể hiểu được nỗi khốn cùng của người chết vì đói là em.
Dẫu vậy nhưng sao lòng gã vẫn có chút gì đớn đau?
Đêm đó, Chính Mô không mơ thấy những giọt lệ hoen mi em nữa, em lại cười với gã, cười rất tươi. Gã nhận ra rằng em đang hạnh phúc, và sự thật ấy như một liều thuốc phiện, vừa ủi an tâm hồn gã lại vừa kéo gã vào vực sâu. Gã cứ thế tự tay bưng lên cho em thật nhiều món ngon vật lạ, sự bình lặng em mang đến trong những giấc mơ khiến gã đoan chắc rằng mọi thứ đã ổn. Thế nhưng, có lẽ gã đã nhầm. Một đêm nào đấy khá lâu về sau, gã đã mơ thấy mình bị chôn sống.
Đói… đói quá. Chưa bao giờ Chính Mô thấy mình đói như vậy. Đói đến quặn thắt trong dạ, cấu xé và làm cho méo mó cả linh hồn và những mảnh vụn gì còn dám xưng là nhân cách. Đất cát hất từ trên cao xuống mười tầng đất sâu, chui vào mũi miệng gã. Gã không thở được. Không nói được, không nghe được, không cử động được. Số phận đã định sẵn, còn gã chỉ là kẻ tội đồ bất lực, đáng cười và đáng thương hại đến tột cùng.
Nhưng điều đó có quan trọng không? Ồ không, không đâu. Lúc này đây, thứ duy nhất còn đủ sức để giày vò thân xác gã là cơn đói. Gã đói quá, gã muốn chết, gã muốn chết quách đi cho xong. Và người ta cũng đang chôn gã đấy thôi.
Trong hình hài của em, đầu óc như bị ai dùng con dao cùn bổ đôi, gã muốn chết, gã muốn chết quá. Nhưng đồng thời, chưa bao giờ gã lại thèm được sống đến vậy. Giá như có con bọ hay con trùng, con rết nào bò ngang, gã sẽ cào, sẽ cấu, sẽ cắn xé cho đến khi nhai nuốt được cho bằng hết mới thôi. Gã sẽ làm mọi thứ để sống, gã sẽ ăn trùng, ăn đất, ăn rễ cây và uống cả sình lầy.
Gã sẽ bán cả lương tri của mình, chỉ cần gã được sống. Đất lạnh quá, cứng quá, khốn nạn quá, gã đói quá…
Nhưng gã muốn sống, em ơi. Trong hình hài của em, gã thèm sống, em ơi. Trong hình hài của em, gã muốn sống, gã muốn sống hơn bao giờ hết. Trong hình hài của em, gã phải sống, em ơi!
Em phải sống, em ơi.
Chính Mô giật mình tỉnh giấc. Tóc mai trên trán gã ướt đẫm, thấm lên cả gối đầu thành một mảng đậm màu. Gã thở dốc, cơn đói tàn nghiệt vẫn in hằn trong tâm trí gã như dấu kim loại đóng trên trán những tên tử tù. Chính Mô đứng dậy khỏi giường, cơn choáng váng kéo cho đầu gối gã toan khuỵu xuống sàn nhà. Gã chạy trối chết, không một lần dám nhìn về phía người con trai đang lẳng lặng ngồi nơi đầu giường.
Gã đi vội xuống bếp. Cơn gió lúc nửa đêm đuổi theo bước chân lạnh toát của gã, loáng thoáng bên bậu cửa lại thấy mấy nhành liễu biếc xanh. Phòng bếp tối om, lặng ngắt. Gã mở kệ tủ, lấy ra một cái khay rồi cứ thế chất đống mọi thứ đồ ăn mà tầm mắt gã có thể rọi đến vào trong. Rồi gã bưng khay, lao mình về phòng ngủ.
"Đói quá… em đừng khóc, cậu mang thức ăn đến cho em đây…"
"Đừng khóc, không đói nữa, cậu cho em ăn… Em ăn nhiều vào, sẽ không đói nữa…" Vừa đi, gã vừa lẩm bẩm như người mất trí.
Mà có khi gã mất trí rồi thật. Hai con ngươi thì co rụt lại thành một chấm nhỏ xíu, mắt và tóc gã thì bắt đầu ngả sang một màu gì kì dị, nhìn cứ như màu của những vết hoen thường thấy trên tử thi.
Chính Mô xông vào trong phòng, gã đặt cái khay lên bàn, rồi kéo nó đến trước mặt em. Rồi gã bắt đầu ăn, ăn ngấu nghiến. Ban đầu gã còn dùng đũa, nhưng chưa được bao lâu đã quờ tay vứt hẳn nó đi. Cậu lớn cao quý nhà họ Chính, cậu lớn cả đời ăn sung mặc sướng, cậu lớn cả đời chưa một lần biết thế nào là đói nếu chính cậu không chủ động bỏ đói mình, đang cắm mắt cắm mũi vào cái khay chứa đủ thứ thức ăn hổ lốn. Thức ăn dây cả vào lớp áo lụa đắt tiền, dính đầy hai bàn tay mà cậu chẳng thèm để ý. Vì phu nhân cậu đói quá rồi, cậu phải ăn để cho thoả lòng phu nhân cậu.
Cậu sẽ không để cho phu nhân của cậu đói. Nhưng sao tới giờ này rồi mà em vẫn chẳng thấy no? Chính Mô ngã vật ra sàn. Gã há miệng thở dốc, chỗ thức ăn nhồi nhét trong bao tử như sắp trào ngược ra khỏi miệng và mũi bất cứ lúc nào.
Tại sao em vẫn đói? Em cần gì? Em cần gì hả, Tống Hưởng Tuấn? Gã gào lên trong câm lặng. Bàn tay gã vô tình chạm phải thứ gì bén ngót dưới gầm giường, đau điếng. Gã rút tay về, tầm mắt mơ hồ bắt được một giọt máu đỏ tươi đương rỉ ra. Máu. Gã nhớ thầy bói có dặn, người chết không thể ăn được trọn vẹn đồ ăn của người sống. Vậy em có ăn được máu không? Hẳn là phải được, nhỉ? Ăn máu gã thì em có hết đói không?
Chính Mô ngồi bật dậy. Gã lấy cái chén đựng chút nước từ trên bàn thờ xuống, hất đi. Rồi gã lôi từ trong ngăn tủ ra một con dao găm, hít vài hơi thật sâu, gã cứa mạnh vào cổ tay mình. Một tiếng thét gào vang lên trong căn phòng, nhưng chẳng bao giờ truyền được vào lỗ tai của bất cứ ai.
Máu tươi rỏ tí tách, được lưng nửa chén thì ngừng. Gã vội vàng bưng cái chén ấy đặt lên bàn ăn. Hít sâu vài hơi, Chính Mô nhìn người đang ngồi một chốc rồi quay đầu dọn dẹp mớ hỗn độn gã đã bày ra trên nửa phần bàn còn lại.
Mặt trời lên cao, khi Chính Mô đã rời đi vì chuyện công việc, gia nhân được phân công như lệ thường lại mở cửa vào phòng để dọn dẹp. Vẻ bất ngờ hiện ra trên mặt chị khi ngửi thấy mùi dầu mỡ nồng nặc phát ra từ trên bàn và trên giường ngủ. Chị quyết định lau dọn một vòng như thường lệ, sau đó thay ga trải giường, dùng xà phòng chà cho sạch mùi thức ăn ám trên bàn rồi đổ đi chén nước trong vắt trên bàn thờ của phu nhân. Cô người làm liếc vội cái xác đang ngồi ngay ngắn ở đầu giường một cái mà tự dưng thấy rợn tóc gáy, đành vội vã đổ chén nước duy nhất ấy đi, rót đầy một chén mới, chắp tay vái ba vái rồi vội vã lui ra.
Bao giờ cậu lớn nhà này mới khỏi bệnh để đem chôn vị phu nhân đó đây…
Chính Mô đi làm mà trong lòng cứ vướng bận về chuyện đã xảy ra trong căn phòng ngủ ấy. Bằng cách nào đó, gã có thể cảm nhận được rằng cơn đói của em đã vơi đi nhiều sau chén máu gã đặt trên bàn thờ. Nhưng bao nhiêu đó liệu có đủ cho em không? Gã tự hỏi, rồi tự trách mình đáng ra phải cho em nhiều máu hơn thế. Rồi mọi chuyện cứ vậy tiếp diễn, cứ cách vài ba hôm, gã sẽ tự tay cắt máu mình đưa cho em. Những ngày còn lại thì thay bằng máu gà, máu vịt.
Dần dà, Chính Mô gầy sọp hẳn đi. Gã từ lạnh lùng ít nói thành lầm lì âm u và dưới ánh mặt trời, người ta lại loáng thoáng thấy tóc gã ánh lên màu gì như màu của xác chết. Trái lại, phu nhân của gã lại ngày càng đẹp hơn, gò má có vẻ sắc cạnh vì thiếu ăn dần trở nên bầu bĩnh. Khuôn mặt phớt hồng dù chưa hề điểm tô và khoé môi cong lên nét cười kì lạ làm người ta bắt đầu đồn đại với nhau về chuyện phu nhân nhà này đã hoá quỷ. Và từng cái chết nối tiếp nhau của những kẻ đã làm hại Chính Mô khi xưa, cũng như sự mất tích hàng loạt của kẻ ăn người ở trong nhà lại càng chứng thực cho lời đồn ấy.
Những gia nhân bắt đầu hoảng sợ, rồi từng người, từng người một vội vã cuốn gói rời đi, sợ rằng người tiếp theo bị phu nhân nhắm đến sẽ là mình. Ông Chính cũng kinh hồn táng đảm khi đám bạn làm ăn lâu năm đổ tội cho ông về cái chết của con họ, nhưng chẳng hiểu sao chỉ cần Chính Mô ra mặt là mọi chuyện lại êm thấm như chưa có gì xảy ra.
Chính Mô cứ nhốt mình trong phòng. Rồi ăn rất nhiều, gã cứ ăn như thể phải ăn cho no hết mười mấy năm trời bị bệnh. Rồi gã cắt cổ tay để đổ máu vào chén cho Tống Hưởng Tuấn, thứ mà chỉ sau một đêm lại hoá thành nước trắng. Chính Mô điên rồi, trong căn phòng ấy, gã lảm nhảm rất nhiều điều với các xác gã gọi là phu nhân của gã. Và gã thấy em, đang đứng, đang ngồi, đang tựa mình vào bậu cửa hay đang tản bộ dưới gốc cây liễu trước sân. Gã mơ, gã mơ thấy em lại khóc, lại cười, lại yêu gã thêm nhiều lần nữa.
Nhưng gã không chạm được vào em. Phải rồi, em đã chết rồi kia mà. Một u hồn làm gì có mối liên can gì một người đang sống, gã đã nghĩ vậy khi tay gã lại bắt hụt lấy tay em. Tuyệt vọng, gã khuỵu người dưới tàng liễu, níu lấy vạt áo em dù biết rằng sẽ chẳng chạm được gì ngoài khói sương. Gã hỏi:
"Tuấn, em còn đói không? Sao em còn giận cậu? Tuấn ơi, em đừng thờ ơ với cậu như thế. Lòng cậu nát vụn vì em mất rồi, Tuấn ơi…"
Tống Hưởng Tuấn đột ngột quay đầu nhìn lại. Tầm mắt bí hiểm mà u trầm của em rọi vào người gã. Rồi chợt, em mỉm cười.
Chính Mô lại lần nữa giật mình tỉnh giấc. Nén nhang gã thắp cho em vừa nãy hẵng còn nghi ngút. Và cũng như cái đêm tân hôn khi ấy, nhang khói làm mắt gã cay xè, để rồi qua một lớp đèn liêu trai, gã thấy đôi mắt của em bừng mở. Đỏ tươi một màu. Em đứng ngay sát bên giường, mỉm cười nhìn gã.
Gã nghĩ Chính Mô điên rồi, nhưng thân gã thì vẫn còn rất tỉnh táo.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com