Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

phần 2

Phượng ca

Côn Luân

Dịch giả: Đào Bạch Liên

Thiên cơ hữu nguyệt


Sự việc thay đổi đột ngột, nhà họ Hoa đều kinh hãi đến cứng cả người. Hoả chân nhân bốc mình lên, vung kiếm xả thẳng xuống mặt Hoa Thanh Uyên. Hoa Mộ Dung vội băng tới giơ kiếm đỡ hộ, nhưng lúc ấy A Than và Cáp Lý Tư phục xong linh đan của Hoa Thanh Uyên thì đã khôi phục được khí lực, cùng nhào lại đối phó Hoa Mộ Dung, tách lìa hai anh em nàng.

Hoả chân nhân xáp vào Hoa Thanh Uyên, kiếm xé gió vù vù, ép y phải giật lùi liên tục. Hai tên gia nhân liền cắm cổ chạy đến. Hoả chân nhân chém ra sột sột, đâm trúng vào hông họ khiến cả đôi ngã nhào. Thấy thuộc hạ gặp nguy, Hoa Thanh Uyên nhịn đau đánh liền hai nhát, xuất kiếm không theo chương pháp nào nhưng vẫn cản được tên đạo sĩ. Hai người hầu biết đã đến lúc nguy nan, cố gắng bò dậy, tập tễnh đến cạnh Hoa Thanh Uyên, liều chết bảo vệ chủ.

Hoa Thanh Uyên đánh thêm được mấy chiêu nữa thì ngực đau dội lên như bị hàng chục con dao băm xé, toàn thân rã rời song không dám khuỵu xuống, y biết rõ nếu mình gục ngã thì mọi việc hỏng bét, nên gắng gượng chống trả. Chợt Lương Tiêu cười hì hì bảo:

- Hoa Thanh Uyên, đầu hàng mau đi!

Hoa Thanh Uyên thắc mắc nhìn sang, thấy Lương Tiêu đang cắp Hiểu Sương đi về phía công tử sang trọng nọ. Người Hiểu Sương cứng đơ, dường như đã bị điểm huyệt. Hoa Thanh Uyên cả kinh la:

- Cậu... định làm gì vậy, Lương Tiêu?

Đúng lúc xao lãng ấy, suýt nữa y bị Hoả chân nhân đâm một kiếm xuyên tâm.

Lương Tiêu bảo:

- La với chả ó! Đồ lừa ngu xuẩn, ta đã bắt được con gái ngươi đây rồi, ngươi còn chưa chịu đầu hàng ư?

Thằng bé dứt lời, nhà họ Hoa thảy đều hãi hùng tức giận, ba tên hung ác cũng phân tâm lơi đấu, ngoái lại nhìn. Tứ vương tử còn ngỡ ngàng, Lương Tiêu đã cười hi hi, nói bằng tiếng Mông Cổ:

- Ta cũng là người Mông Cổ đây!

Tứ vương tử nghe giọng Lương Tiêu rất lưu loát thì ngẩn người, gã cau mày:

- Mày nói sõi lắm! Nhưng đã là người Mông Cổ, sao còn kéo bè kéo cánh với đám người Hán?

Lương Tiêu bĩu môi:

- Ta đâu phải đồng bọn của chúng. Ta bị tên họ Tần tóm được, ngày nào hắn cũng đánh đập ta khổ sở!

Tứ vương tử lộ vẻ nghi hoặc:

- Vậy ư? Nghe ta hỏi đây, mày là người bộ tộc nào ở Mông Cổ?

Lương Tiêu đáp phứa:

- Ta ở bộ tộc Bột Nhi Chỉ Cân.

Ai nấy choáng người lên. Nên biết Bột Nhi Chỉ Cân là dòng họ hoàng gia, chỉ dành riêng cho gia tộc của Thành Cát Tư Hãn.

Lương Tiêu thấy thái độ Tứ vương tử có phần khác lạ, trống ngực đập thình thình. Tứ vương tử chằm chằm nhìn thằng bé hồi lâu, bỗng bật cười nói:

- Oắt con, mày thuộc bộ tộc Bột Nhi Chỉ Cân thật đấy à?

Lương Tiêu gật đầu:

- Mẹ ta nói mẹ là người nhà Bột Nhi Chỉ Cân, vậy nên ta cũng thuộc bộ tộc ấy.

Lương Tiêu nói vậy chẳng phải nói dối. Họ của người Mông Cổ đều đặt theo hiệu bộ tộc. Tính theo phổ hệ, Bất Lý vương tử - cha Tiêu Ngọc Linh - là cháu dòng đích của Thành Cát Tư Hãn. Khi Oa Khoát Đài làm hãn, người Mông Cổ phát động phong trào "trưởng tử xuất chinh", buộc con trai cả của tất cả các gia tộc phải tòng quân. Bất Lý theo Bạt Đô hãn vượt qua Hung Gia Lợi làm cỏ châu Âu, nhưng y không phục Bạt Đô. Từ đó Bạt Đô nuôi hận trong lòng. Về sau, Bất Lý hùa theo con cháu Oa Khoát Đài làm phản, bị Bạt Đô và Mông Ca bắt rồi xử tội chết, thê tử đều bị biếm làm nô tỳ.

Tiêu Ngọc Linh là con vợ lẽ của Bất Lý, mẹ nàng là người Hồ do Bất Lý cướp được từ Tây Vực về. Một lần Bất Lý uống rượu say xong đánh đập bà ta cho đến chết. Khi chính y mất mạng, Ngọc Linh còn rất nhỏ, bị vùi dập hành hạ khổ sở. Sau này nàng theo họ Tiêu của thầy, đổi tên thành Tiêu Ngọc Linh. Ngọc Linh căm ghét cha cùng cực nên chưa bao giờ nhắc nhỏm chuyện xưa, vì vậy ngoài mấy người rất thân, hầu như không ai biết lai lịch gốc gác nàng.

Tứ vương tử bán tín bán nghi, móc xích với chuyện trước đây, nghĩ bụng, "Đứa trẻ này tuổi còn nhỏ, chưa chắc biết nói dối. Cho dù nó không phải người cùng bộ tộc mình thì giữa chúng ta vẫn có quan hệ rất gần. Hiện nay Nguyên - Tống giao chiến, Hồ - Hán không đội trời chung, Tần Bá Phù chắc hận dòng tộc ta lắm mới đến phủ vương công nào đó cướp đứa bé này rồi ngược đãi hành hạ nó. Hừ, nhà Bột Nhi Chỉ Cân nắm cả thiên hạ trong tay, tôn quý vô cùng, đâu chịu để người Tống sỉ nhục như thế?" Bằng ấy ý nghĩ lướt qua óc, nét mặt công tử tức thì hoà hoãn lại, gã mỉm cười.

Lương Tiêu trỏ Hoa Thanh Uyên, rồi trỏ Hoa Hiểu Sương:

- Con bé này là con gái hắn ta, cũng là cháu gái ả kia. Chỉ cần ngươi dùng nó uy hiếp họ, họ dám không nghe lời ngươi ư?

Tứ vương tử thấy Hiểu Sương đầy vẻ kinh ngạc sợ hãi khóc lóc liên hồi thì càng thêm chắc mẩm. Cứ cho là thằng oắt định giở trò đi, nhưng nước mắt con bé không thể nào là giả được.

Hoa Mộ Dung tức đến ứa lệ, múa trường kiếm chạy ào tới, chửi Lương Tiêu là "khốn nạn", là" súc sinh", nghĩ bụng dẫu không cứu được cháu gái thì cũng phải giết chết Lương Tiêu để xả mối căm hờn. Nàng nổi giận mà dáng điệu vẫn yêu kiều khả ái, tứ vương tử càng thêm mê mẩn, bụng bảo dạ, "Cô gái áo trắng này tính tình cứng cỏi, ta mà ép buộc nàng, tất nàng thà chết không theo, thế thì mất hứng lắm. Chi bằng dùng con bé con làm điều kiện để nàng quy thuận ta, cho ta mặc sức xoay vần." Quyết định thế rồi, gã bèn đón lấy Hiểu Sương từ tay Lương Tiêu. Nhận ra thân thể cô bé cứng đơ, gã cười bảo thằng nhóc:

- Ngươi còn nhỏ mà rất biết trông trước ngó sau. Thế này đi, ngoan ngoãn theo hầu bản vương, ta sẽ cho ngươi tha hồ hưởng phúc.

Lương Tiêu hỏi:

- Có trà sữa cừu để uống không? Có ngựa con để cưỡi không?

Tứ vương tử hơi ngẩn người, đoạn cười ha hả:

- Có hết có hết, còn có dê non và ngựa Ba Tư nữa đó!

Lương Tiêu hớn hở vỗ tay cười mãi, bộ dạng ngây thơ ra mặt. Tứ vương tử cũng phì cười, xong đảo mắt, cao giọng nói:

- Bắt tất cả lại cho ta!

Ba tên thủ hạ nghe lệnh cùng nhảy phốc ra. Tứ vương tử toét miệng hỏi Hoa Mộ Dung:

- Cháu nàng ở trong tay ta rồi, còn không ngoan ngoãn quy thuận?

Hoa Mộ Dung tức không để đâu cho hết, nàng chực chửi mắng thật ác, nhưng liếc nhìn Hiểu Sương, trái tim nàng đau nhói, cơ hồ sa lệ. Tứ vương tử quan sát, biết lòng nàng đã dao động thì rất lấy làm đắc ý, lại niềm nở bảo Hoa Thanh Uyên:

- Võ công ngươi được đấy! Nếu đồng ý quy phục bản vương thì ta cũng nể mặt mỹ nhân mà bỏ qua chuyện vừa rồi, lại để Hoả chân nhân giải độc trị thương cho ngươi nữa.

Hoa Thanh Uyên chống kiếm, hừ một tiếng, trừng mắt im lặng. Tứ vương tử cười:

- Ta là Thoát Hoan, con trai thứ tư của hoàng đế nhà Nguyên. Lần này ta xuống nam dọ xét tình hình, có lấy được một tấm địa đồ, nhưng bị tên họ Tần ngang đường cướp mất. Nếu ngươi cầm thì mau trả lại đây. Còn nữa, ta muốn tuyển em ngươi làm thê thiếp, ta đường đường là một vương tôn công tử, cũng không đến nỗi dày vò sỉ vả nàng đâu!

Hoa Thanh Uyên sửng sốt, nhướng mày quát:

- Hoa mỗ chỉ là dân đen nhưng cũng biết liêm sỉ lễ nghĩa, quyết không làm những việc bán nước cầu vinh.

Thoát Hoan cười:

- Đúng là thân lừa ưa nặng! Ngươi thì trúng U minh độc hoả của Hoả chân nhân, con gái ngươi sống chết ra sao thì do ta quyết định, nếu ngươi ương bướng...

Không đợi gã tuôn hết, Hoa Thanh Uyên trầm giọng bảo:

- Chết thì chết, khỏi múa mép. Đoạn nhìn Hiểu Sương, trán hằn lên nỗi đau đớn, y nghẹn ngào nói. Sương nhi! Kiếp này cha có lỗi với con. Con chưa ra đời thì đã vì cha mà mang trọng bệnh, nay lại để con rơi vào tay ác tặc, cha... cha... Tới đây thì y tắc họng, nước mắt dâng ngập bờ mi.

Hiểu Sương ngằn ngặt khóc không thành tiếng, bỗng lại giật người lên như sắp ngất đi. Hoa Mộ Dung nghiến răng, ném bảo kiếm xuống thét lớn:

- Thoát Hoan! Ta theo ngươi, ngươi... thả cha con họ ra.

Hoa Thanh Uyên kinh hoàng quát:

- Dung! Em nói nhăng gì thế?

Hoa Mộ Dung không đáp, chỉ cười méo xẹo. Thoát Hoan nhìn xoáy vào lúm đồng tiền của nàng, hí hửng bảo:

- Người Hán có câu hay thật: Kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt. Mỹ nhân không thẹn là bậc anh hùng trong đám quần thoa, khiến bản vương càng thêm kính ngưỡng. Bản vương sẽ yêu thương chiều chuộng nàng, không bao giờ lạnh nhạt với nàng. Ha ha, A Than, mau thay ta mời mỹ nhân dời gót lại đây.

A Than vâng dạ, nhưng sợ có điều bất trắc, cứ trân trân nhìn Hoa Mộ Dung, mặt lộ vẻ nghi ngại. Cô gái nhắm nghiền mắt, hai hàng lệ lăn xuống gò má. A Than vẫn trù trừ. Thoát Hoan đâm bực:

- Ơ hay? Ngày thường huênh hoang khoác lác lắm cơ mà, nay có chút việc cỏn con cũng không dám làm...

Gã đang thao thao, chợt cảm thấy bên hông tê dại, toàn thân cứng đơ, liền đó là hơi kim loại lạnh ngắt trên cổ, rồi hai tay nhẹ bỗng. Hiểu Sương đã bị kéo đi mất. Tiếng Lương Tiêu cười khanh khách vang lên phía sau:

- Đằng ấy diễn kịch khéo lắm, lừa được tất cả bọn họ rồi.

Hiểu Sương đáp hụt hơi:

- Tiêu ca ca... Em... em không diễn đâu, em... thấy cha bị thương nặng, bị đau, cầm lòng không đậu nên muốn khóc.

Lương Tiêu sốt ruột:

- Được rồi, được rồi, lôi thôi quá.

Thoát Hoan nào ngờ tình thế xoay chuyển đột ngột như vậy, cả đời tài trí nhanh nhẹn mà bị hai đứa ranh con che mắt bằng một thủ đoạn tầm thường. Gã tức uất, không kìm được chửi toáng lên:

- Quân chó chết, đồ dòi bọ...

Thoát Hoan xuất thân quý tộc Mông Cổ, học tiếng Hán lõm bõm, loanh quanh chỉ nói được bằng ấy câu thôi. Ba thủ hạ thấy chủ bị khống chế cứ đứng nghệt mặt ra. Người nhà họ Hoa mừng rỡ quá sức, Hoa Mộ Dung cười qua hàng lệ:

- Lương Tiêu... ta... ta...

Nàng vốn định nói ta trách lầm ngươi, nhưng xúc động quá đâm nghẹn họng, nước mắt tuôn ròng ròng, song không phải vì buồn khổ như lúc trước mà đã đổi ra vui mừng. Hoa Thanh Uyên phá lên cười:

- Giỏi, giỏi lắm... Vừa nói được đến thế, y đã rủn người ngã vật xuống đất. Cất được gánh nặng trong lòng, thần trí cũng thả lỏng, y không còn sức để gắng gượng nữa.

Hoa Mộ Dung vội đỡ lấy y. Hiểu Sương đâm bổ tới, cuống quýt gọi:

- Cha ơi! Cha!

Lương Tiêu hốt hoảng níu cô bé lại rồi chìa tay bảo Hỏa chân nhân:

- Đưa đây!

Hỏa chân nhân ngơ ngác hỏi:

- Đưa cái gì?

Lương Tiêu chẳng buồn nói thêm, xô Thoát Hoan ngã dúi, rồi bắt chước bộ dạng ban nãy của Hoa Thanh Uyên, vận đủ khí lực tát gã một cái nảy đom đóm mắt. Thoát Hoan gãy văng mất hai cái răng, mồm miệng đầy máu, vẫn lầm bầm chửi:

- Đồ chó chết, đồ thối tha...

Lương Tiêu cười khẩy:

- Đưa đây!

Hỏa chân nhân ngớ người ra. Tay Lương Tiêu lại giơ lên hạ xuống. Thoát Hoan hứng tiếp một cái bạt tai nảy lửa, vừa giận vừa sợ, liền kêu rống lên như lợn bị chọc tiết:

- Hỏa chân nhân, ngươi điếc à?

Lương Tiêu còn vung tay chuẩn bị đánh nữa, Hỏa chân nhân vội ngăn:

- Mày đòi thuốc giải phải không? Đây đây! Đoạn móc ra một túi cẩm đưa cho thằng bé, dặn, loại trắng thì xoa ngoài, loại đen để uống.

Lương Tiêu sờ nắn, nhận ra là hai cái lọ ngọc, bèn lấy ra một cái, chĩa miệng lọ về phía Thoát Hoan bảo:

- Không tin được cái giống mũi trâu nhà ngươi. Cứ cho hắn uống thử hai viên xem thế nào.

Hỏa chân nhân tái mặt la:

- Không, không được! Đấy là phương thuốc dĩ độc trị độc.

Lương Tiêu cười mát:

- Đâu ngươi đưa cái của khỉ U minh độc hỏa kia đây, ta đốt hắn xong rồi chữa cho hắn.

Hỏa chân nhân nổi giận:

- Bậy.. bậy bạ!

Lương Tiêu mưu mẹo ghê gớm, hành động tàn độc, lập tức vung kiếm chém một nhát. Thoát Hoan rú lên đau đớn, ngón út đã bị đứt lìa, máu tươm ra. Lương Tiêu cười hì hì:

- Chặt thêm một bàn tay nữa nào.

Hỏa chân nhân sợ nó cương quyết dứt khoát nói sao làm vậy, vội bảo:

- Thôi thôi, ta đưa! Đoạn miễn cưỡng quẳng sang một cái túi da.

Lương Tiêu bắt lấy, thấy cái túi bên ngoài may bằng da bò chưa thuộc, bên trong là da dê có gắn mười mấy viên tròn óng ánh bạc, nó hỏi:

- Cách dùng sao đây?

Hỏa chân nhân thoáng ngập ngừng, thấy Lương Tiêu lại hùng hổ muốn xuất thủ, đành mau chóng nói ra. Lương Tiêu cười cười, nhét cả vào ngực áo,

- Những món hay hay như vậy, dùng cho con lợn ngu xuẩn này nó phí đi.

Thoát Hoan buột chửi, liền ăn ngay một cái tát, đành câm họng, nhưng trong lòng vẫn mừng rỡ là chưa bị lửa thiêu.

Lương Tiêu ném túi cẩm cho Hoa Mộ Dung:

- Tên mũi trâu đã đưa đạn bạc cho tôi, chứng tỏ thuốc của nó là đúng.

Hoa Mộ Dung thầm khen thằng bé suy nghĩ chu đáo, nhưng ngoài mặt thì trừng trợn bảo:

- Ngươi đa nghi quá!

Xong nàng cởi áo cho Hoa Thanh Uyên, thấy trên ngực y có một khoảng đen bầm sưng rất to. Nàng cẩn thận xoa thuốc rồi cho y uống, một lúc sau, vết thương dần dần mềm xuống, Hoa Thanh Uyên lơ mơ tỉnh lại, nhưng thần sắc vẫn nhọc mệt vô cùng. Cáp Lý Tư quát Lương Tiêu:

- Thằng giặc con! Thuốc giải đã đưa rồi, còn không thả Tứ vương tử ư?

Lương Tiêu cười đáp:

- Ngươi tưởng ta ngu lắm sao? Mẹ ta dạy, cơ hội đến chớ tha đối thủ. Ta chưa giết con lợn này đã là tử tế với các ngươi lắm rồi. Đoạn nó quay sang nhà họ Hoa giục, mọi người bị thương, hãy đi trước đi!

Hoa Mộ Dung vội bảo:

- Ta ở lại giúp ngươi!

Lương Tiêu lườm nàng:

- Khỏi cần cô lo! Vừa rồi ai mắng tôi là súc vật, hừm... tôi nghe rõ lắm đấy nhớ!

Hoa Mộ Dung đỏ mặt, hừ mũi bảo:

- Mắng thì mắng chứ, ta sợ gì ngươi.

Hoa Thanh Uyên lẩy bẩy gượng dậy nói, giọng khàn khàn:

- Lương Tiêu! Cậu còn nhỏ, việc gì khác tôi không can thiệp, nhưng việc giết người thì cậu nhất thiết đừng nhúng tay vào! Dẫu một kẻ đáng chết đến đâu, cũng cứ để người khác xử tội hắn! Nếu cậu không hứa, tôi sẽ ở lì đây!

Giọng y tuy yếu ớt, nhưng ánh mắt hết sức kiên quyết. Lương Tiêu làu bàu:

- Tôi không giết là được chứ gì, ông đa sự thế!

Hoa Thanh Uyên gật đầu:

- Vậy thì tốt, hôm nay cậu vất vả quá rồi! Mong rằng sau này có dịp gặp lại!

Lương Tiêu chợt rớm lệ, cúi đầu đáp:

- Hẹn... hẹn gặp lại. Nó lén ngước mắt lên, dõi theo Hoa Mộ Dung đang dắt Hiểu Sương đi. Cô bé con vừa bước vừa ngoái đầu nhìn, mãi cho đến khi lên xe vẫn vén rèm ngó ra.

Cỗ xe chạy xa rồi, A Than không nhịn được giục:

- Thả người đi chứ?

Lương Tiêu đảo mắt, thấy mấy con ngựa của bốn tên kia dừng bên lề đường, bèn nắm tóc Thoát Hoan lôi ra đằng ấy. Không ai hiểu nó định làm gì, thình lình thằng bé huơ kiếm lên, chém đứt sạch gân chân của ba trong bốn con. Ba tên kia bàng hoàng sực hiểu, thì ra Lương Tiêu sợ bọn chúng phi ngựa đuổi theo cỗ xe, nên cố ý nán lại hủy hoại mấy con ngựa, trì hoãn thời gian, tên nào tên nấy thầm chửi nó là quân gian trá. Hỏa chân nhân liếc nhìn thanh trường kiếm của Lương Tiêu, bỗng tái mặt kêu:

- Thằng lỏi, mày lấy đâu ra thanh kiếm đó?

Lương Tiêu cười:

- Nhặt được!

Hỏa chân nhân trợn trắng mắt quát:

- Nhặt được ở đâu?

Lương Tiêu bĩu môi:

- Can hệ gì đến ngươi!

Hỏa chân nhân gằn giọng:

- Thanh Huyễn Nguyên kia vốn dĩ là của bần đạo! Bần đạo sai bốn đại đệ tử xuống nam làm chút việc và cho chúng mượn thanh kiếm ấy. Ai ngờ bốn đứa đi mà không đứa nào trở về... Hắn trừng mắt nhìn Lương Tiêu như muốn ăn tươi nuốt sống thằng bé.

Lương Tiêu liếc chuôi kiếm, quả nhiên thấy khảm vàng hai chữ uốn éo quái dị, chữ đó thì nó trông thấy lâu rồi, nhưng không đọc được thể cổ triện, nay nghe Hỏa chân nhân nói mới gắng gượng nhận ra được chữ "nguyên", bụng bảo dạ, "Thì ra hắn là đồng bọn với đám mũi trâu xấu xa kia, hừ! Ta không đời nào kể thật sự tình."

Thằng bé giằng co với bốn tên xấu xa một lúc lâu lâu, ước tính thời gian thì nhà họ Hoa chắc đã đi được khá xa rồi, nó bèn dắt ngựa, lôi Thoát Hoan đi thêm hơn hai mươi trượng, định bụng trước lúc bỏ đi sẽ chém chết tên khốn kiếp này, nhưng nhớ tới lời Hoa Thanh Uyên thì không sao xuống tay được. Nó thầm giận mình vô dụng, bèn phũ phàng dận Thoát Hoan một cái, rảy hắn xuống đất, xong ôm con chó phóng lên yên, vung kiếm quật vào mông ngựa. Tuấn mã bị đau, tung vó phóng đi như bay.

Lương Tiêu phi được hơn một dặm, chợt nghe có tiếng động bèn ngoái lại nhìn, tức thì kinh hoàng táng đởm. A Than và Hỏa chân nhân đang đuổi tới gần, mỗi bước chân vươn dài đến tám thước. Hỏa chân nhân nóng lòng đoạt lại kiếm báu nên chạy hết tốc lực. Chỉ thoáng chốc, hai người đã cách Lương Tiêu chưa đầy mười trượng, A Than chợt rống lên, vung tay ném kim cô vào yên cương, nghĩ bụng muốn đánh ngã người thì phải đánh ngã ngựa trước.

Lương Tiêu rủa thầm. Chân vẫn kẹp bụng ngựa, nó rạp mình xuống rút kiếm ra chọc vòng kim cô, tức thì cảm thấy hổ khẩu như muốn rách toạc, cả cánh tay tê dại. Kim cô bị cản đổi hướng, cà qua cẳng ngựa. Tuấn mã đau đớn chồm thẳng dậy, Lương Tiêu không kịp trở tay, suýt nữa bị hất ngã nhào. Chỉ một tích tắc chậm trễ đó, Hỏa chân nhân đã băng đến như sao xẹt, kiếm trước người sau, đâm vào chân ngựa. Lương Tiêu vẩy tay trái, mấy đốm sáng bạc tãi thẳng vào mặt tên đạo sĩ. Hỏa chân nhân chực phất tay áo, sực nhớ ra một chuyện liền vội vàng thu thế bay giật ngược, đoạn giơ kiếm lên gạt, mấy đốm bạc lập tức biến thành một đám lửa xanh rớt lả tả xuống đất, chính là U minh độc hỏa. Lúc này A Than cũng đuổi tới nơi. Còn cách Lương Tiêu chừng một trượng, hắn gầm vang, đằng không lao lên, dang tay tấn công thằng bé. Lương Tiêu cảm thấy thân thể như bị đè nặng, ngực nôn nao muốn ói, bèn xoay mình tung nốt nắm U minh độc hỏa còn lại ra.

A Than tôn giả một là không nghĩ ra lai lịch của những viên đạn bạc, hai là tự phụ thần công hộ thể của Mật tông, ngoài đôi mắt là chỗ yếu hại ra, toàn thân đều như thịt đồng da sắt, đao thương không xâm hại được, thấy nắm đạn bạc bay tới bèn cố ý vờn giỡn, không mảy may né tránh, kệ cho nó đánh trúng vào người. Gần như ngay lập tức, tiếng thét thê thảm của hắn vút lên, khắp mình lún phún lửa xanh. A Than ngã vật xuống đất, lăn lộn gào rú không ngừng.

Hỏa chân nhân nghe sau lưng có tiếng la hét như thế cũng hơi kinh hoảng, nhưng chỉ chằm chặp nghĩ đến bảo kiếm của mình nên mặc kệ đồng đội, cứ guồng chân chạy đuổi, thấy đuôi ngựa đã phấp phới trước mắt bèn nắm ngay lấy, dụng lực giật một cái. Lương Tiêu liền trở gươm chặt đứt đuôi ngựa. Phải cái Hỏa chân nhân nhanh như chớp, đã xuất kiếm đâm trúng chân ngựa rồi. Tuấn mã hí vang, mất thăng bằng đổ nhào. Lương Tiêu lộn mình xuống, thấy lão đạo sĩ đang ào ào chạy tới, nó vội vung kiếm đón, Hỏa chân nhân cũng giơ kiếm đấu lại. Binh khí đôi bên giao nhau. Kiếm Tùng văn không sắc bén bằng kiếm Huyễn Nguyên, tức thì gãy đôi. Hỏa chân nhân vứt luôn kiếm gãy đi, đợi Lương Tiêu cúi đầu tránh, hắn tay không xông luôn vào vùng lưỡi kiếm sáng choang, chụp lấy cổ tay thằng bé. Sắp tóm được cả người cả kiếm, hắn chợt chột dạ, lật tay chụp một cái, bỗng đâu vớ ngay được một cây trâm vàng hình con phượng. Hắn vội buông Lương Tiêu ra, ngoái đầu nhìn. Hoa Mộ Dung đang chĩa kiếm lao tới, đâm liền mấy nhát, Hoả chân nhân vội vàng giật lui. Lương Tiêu thoát nạn trong gang tấc, vui mừng reo lên, vung vẩy kiếm chạy tới tiếp ứng.

Bản lĩnh Hoả chân nhân xấp xỉ Hoa Mộ Dung, đấu tay không đã thiệt rồi, lại thêm bên kia có Lương Tiêu mưu mô trí trá xông vào quấy nhiễu, thực là phiền phức! Hắn chiết vội chiết vàng mấy chiêu, biết rõ hôm nay khó mà giành được kết quả tốt đẹp, lại nhác thấy A Than nằm thở thoi thóp đằng xa, nếu không được cứu chữa thì chắc chắn là chết, con lừa trọc đó có mất mạng thì hắn cũng chẳng thiệt thòi gì, khổ nỗi nếu con lừa trọc đó chết bởi U minh độc hoả, chẳng may Thoát Hoan truy cứu thì hắn tránh sao khỏi bị hiềm nghi. Vô vàn ý nghĩ lướt qua óc, tên đạo sĩ vụt nhảy vút ra, xốc lấy A Than, trợn mắt nhìn Hoa Mộ Dung và Lương Tiêu một cách hằn học rồi nhảy lên hụp xuống, lao như bay theo hướng ngược lại con đường ban nãy.

Hoa Mộ Dung nhìn theo hút Hoả chân nhân, thu kiếm về, cười nhạt:

- Đánh không xong thì trốn chạy, thật chẳng ra làm sao!

Lương Tiêu định thần hỏi:

- Cô quay lại làm gì thế?

Hoa Mộ Dung đưa mắt nhìn nó:

- Quay lại xem ngươi đóng vai anh hùng!

Lương Tiêu đỏ mặt ngậm câm, hồi tưởng tình cảnh lúng túng như gà mắc tóc vừa rồi của mình, tính là cẩu hùng cũng còn chưa xứng, nói gì đến hai chữ anh hùng. Hoa Mộ Dung cười thầm, kéo nó lên ngựa:

- Ca ca và Hiểu Sương đang lo lắng cho ngươi đấy. Mau đi với ta lại đằng đó, để họ trông thấy bộ dạng đầu bù tóc rối mặt mày lấm lem này cho họ yên tâm.

Lương Tiêu cay mắt, cúi đầu không đáp. Hoa Mộ Dung thấy nó ngoan ngoãn bất thường thì rất lấy làm lạ, "Phải chăng vừa rồi suýt lâm nguy nên sợ quá..." Nàng đâm mủi lòng, không cười nói gì nữa.

Hai người phóng ngựa đi một lúc, gặp cỗ xe đang dừng xa xa bên đường cái quan. Họ chưa lại gần, từ trong rừng Hiểu Sương đã trông thấy và lao bổ ra, ôm choàng lấy cổ cô mình, nhưng mắt thì nhìn Lương Tiêu, mặt mày tươi rói, cười chúm chím chào:

- Tiêu ca ca!

Lương Tiêu nghe cô bé xưng hô thân thiết thế thì đỏ mặt, cúi đầu ừ khẽ. Hiểu Sương lại nói:

- Em cứ tưởng không bao giờ được gặp anh nữa!

Lương Tiêu càu nhàu:

- Không bao giờ gặp nữa? Rủa tớ chết đi à?

Cô bé chưng hửng. Hoa Mộ Dung trừng mắt với Lương Tiêu, đoạn bảo cháu gái:

- Hiểu Sương, thằng ranh này là đồ vong ân bội nghĩa, có biết tốt xấu gì đâu. Con cứ mặc kệ nó.

Ba người đi vào rừng. Hoa Thanh Uyên đang ngồi xếp bằng. Thấy Lương Tiêu vẫn lành lặn, y mỉm cười rạng rỡ. Lương Tiêu ngần ngừ một thoáng rồi hỏi:

- Vết... vết thương của ông còn đau không?

Hoa Thanh Uyên cười:

- Nhờ cậu lấy được thuốc giải, chỉ một dạo nữa là không hề hấn gì nữa đâu.

Lương Tiêu nghĩ bụng, "Nếu không phải vì tiễn tôi, chắc ông cũng không ra khỏi thành chuyến ấy, càng không phải đụng đầu với bọn người xấu! Tôi có mất mạng thì cũng phải lấy được thuốc giải cho ông."

Lương Tiêu nghĩ vậy nhưng không thổ lộ, lại nói sang chuyện khác:

- Hoa đại thúc, kiếm pháp của chú lợi hại lắm, khiến bọn ác độc đó không có cả cơ hội đánh trả nữa!

Thằng bé cùng Hoa Thanh Uyên trải qua hoạn nạn, bỗng chốc thấy gần gũi, ba chữ "Hoa đại thúc" bật ra rất tự nhiên.

Hoa Mộ Dung cằn nhằn:

- Cái đó cố nhiên. Lộ kiếm pháp ấy là Thái Ất phân quang, dùng để đối phó với lũ khốn kiếp ấy chẳng khác nào giết gà mà dùng đến dao mổ trâu.

Lương Tiêu sáng mắt, vội hỏi:

- Vậy nhất định là thắng được Tiêu Thiên Tuyệt chứ?

Hai anh em họ Hoa đưa mắt nhìn nhau, cau mày trầm ngâm chốc lát, xong Hoa Thanh Uyên nói:

- Ta chưa có may mắn chứng kiến võ công của Tiêu Thiên Tuyệt. Nhưng mà, năm xưa quả thực có người đã dùng lộ kiếm pháp này đấu với ông ta một lần...

Vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, Lương Tiêu nôn nóng hỏi:

- Thắng chứ ạ?

Hoa Thanh Uyên lắc đầu:

- Thái Ất phân quang kiếm tuy áp chế được công phu Hắc Thuỷ của Tiêu Thiên Tuyệt, nhưng không thể giết chết ông ta, y thở dài. Thêm vào đó, sở học của cùng một môn phái mà do những người khác nhau sử ra thì cảnh giới đã khách nhau rồi. Hai đại cao thủ đấu với Tiêu Thiên Tuyệt năm xưa, võ công cao gấp mười lần ta, song cũng chỉ thắng họ Tiêu tầm một chiêu nửa thức thôi.

Lương Tiêu nghĩ ngợi một hồi, chợt hỏi:

- Hoa đại thúc, chú có thể dạy tôi kiếm pháp này không?

Hoa Thanh Uyên chưa đáp, Hoa Mộ Dung đã chen vào:

- Không được.

Lương Tiêu tái mặt, nghiến răng nghiến lợi, quay mình bỏ đi. Hoa Thanh Uyên vội níu lấy nó, song y bị thương chưa khỏi, người còn yếu mệt, bị lôi theo thằng bé suýt ngã nhào. Lương Tiêu đành đứng lại. Hoa Thanh Uyên trừng mắt với em gái, rồi ôn tồn bảo:

- Lương Tiêu, con đừng vội. Chỉ vì ta không có quyền quyết định là liệu có được phép dạy con hay không...

Lương Tiêu ngẩn người. Hoa Thanh Uyên lại nói:

- Nếu con thực lòng muốn học, ta sẽ xin giúp...

Hoa Mộ Dung xen vào:

- Thế vẫn không ổn. Lộ công phu này cần hai người hợp sức thi triển, dẫu mẹ ưng thuận để anh truyền cho nó thì một mình nó học cũng có tác dụng gì đâu?

Hoa Thanh Uyên cau mày:

- Nói cũng phải!

Lương Tiêu ngẫm nghĩ rồi đề xuất:

- Không ngại, chỉ cần chú đồng ý dạy, sau này tôi có vợ, sẽ cùng luyện với...

Hoa Mộ Dung mắng:

- Nói không biết ngượng mồm!

Lương Tiêu gân cổ cãi:

- Có gì mà ngượng? Cha... cha mẹ tôi cũng cùng luyện võ đấy.

Hoa Thanh Uyên hỏi:

- Cha mẹ con hiện ở đâu?

Lương Tiêu nín thinh.

Đoán chừng thằng bé có nỗi khổ khó nói, Hoa Thanh Uyên cũng không ép uổng, chỉ bảo:

- Không kể thì thôi vậy. Ta hỏi câu này: con có đồng ý về ở với chúng ta không?

Lương Tiêu ngẩng đầu lên:

- Chú bằng lòng dạy tôi kiếm pháp thì đi đâu cũng được.

Hoa Mộ Dung dọa:

- Học công phu là gặp nhiều vất vả lắm đấy.

Lương Tiêu ưỡn ngực:

- Khổ tới mức nào cũng chịu được.

Thấy Lương Tiêu đồng ý ở lại, Hiểu Sương vui mừng khôn xiết.

Mọi người chuyện trò một lúc. Lương Tiêu lại hỏi:

- Hoa đại thúc, nếu đơn đả độc đấu thì chưa có ai thắng được Tiêu Thiên Tuyệt à?

Hoa Mộ Dung bĩu môi:

- Không hẳn đâu.

Lương Tiêu thắc mắc:

- Là sao?

Hoa Mộ Dung xòe bốn ngón tay ra bảo:

- Thiên hạ tàng long ngọa hổ, theo ta được biết, có ít nhất bốn người không thua lão ấy.

Lương Tiêu chăm chú nghe. Hoa Mộ Dung cười tiếp:

- Có điều, họ không mát tính như Tần đại ca và ca ca ta đâu. Nếu ngươi đến gặp, họ không đời nào thèm thu đồ khỉ nghịch ngợm như ngươi làm đồ đệ cả.

Lương Tiêu rối rít:

- Đừng có dềnh dàng, nói mau nói mau.

Hoa Mộ Dung cười cười rồi nghiêm chỉnh nói:

- Người thứ nhất là một đại cao thủ ở hải ngoại, tinh thông võ công thiên hạ...

Lương Tiêu kinh ngạc, buột miệng cắt ngang:

- Tinh thông võ công thiên hạ, thế hóa ra là biết cả Thái Ất phân quang kiếm à?

Hoa Mộ Dung cau mày:

- Đời nào.

Lương Tiêu vặn:

- Đã không biết thì sao có thể nói là tinh thông võ công thiên hạ?

Hoa Mộ Dung tự biết mình nói sai, ngượng nghịu bảo:

- Thằng ranh này chỉ giỏi vặn vẹo người khác. Ta nói ông ấy tinh thông hết võ công thiên hạ chẳng qua chỉ để nhấn mạnh rằng ông ấy biết rất nhiều thứ võ công. Kiểu như bảo ngươi ương ngạnh hư đốn nhất trần đời, đâu có nghĩa là trên đời này không còn ai hư đốn ương ngạnh hơn ngươi?

Lương Tiêu làm gì không biết Hoa Mộ Dung châm chích mình, nhưng chưa nghĩ ra nên phản bác thế nào, vì dù đáp hay không đáp thì cũng thành tự nhận mình là kẻ hư đốn ương ngạnh. Nó bĩu môi ấm ức.

Hoa Mộ Dung chiếm được ưu thế, ngấm ngầm đắc ý, lại tiếp:

- Người thứ hai, là một nhà sư...

Lương Tiêu sực nhớ lại một chuyện. Hoa Mộ Dung nhận ra sự biến đổi trên khuôn mặt nó, gật đầu cười:

- Đúng, chính là hòa thượng lang bạt đấu cờ với Tần đại ca đấy. Nhưng ta không rõ pháp hiệu của lão ấy.

Lương Tiêu hỏi:

- Sao lại gọi là hòa thượng lang bạt? Lão ta có bản lĩnh cao cường gì?

Hoa Mộ Dung đáp:

- Lang bạt là vì chùa lớn hay chùa nhỏ lão cũng không ở, hành động thì quái đản, không tuân theo quy củ nhà tu. Còn bản lĩnh ấy hả, cũng khỏe lắm đấy.

- Khỏe mà cũng tính là bản lĩnh ư?

Hoa Mộ Dung nói:

- Ngươi đừng xem thường sức mạnh. Đã nghe câu "lấy một địch mười" chưa? Nếu quyền cước của ngươi mà có sức nặng ngàn cân thì thiên hạ ai chống cự nổi?

Lương Tiêu ngẩn người, không trả lời được, lại hỏi:

- Thế người thứ ba là ai?

Hoa Mộ Dung cau mày, khuôn mặt lộ vẻ khinh bỉ, nàng hừ mũi:

- Kẻ thứ ba rất giỏi kiếm pháp, nhưng không đứng đắn, chuyên quyến rũ mồi chài con gái nhà lành, không nên nhắc đến thì hơn.

Lương Tiêu bối rối:

- Quyến rũ mồi chài con gái nhà lành là thế nào?

Hoa Mộ Dung lườm nó:

- Đó là hành động cực kỳ hạ lưu vô liêm sỉ, sau này ngươi không nên nghĩ đến, càng không được làm. Nếu ngược lại thì không chỉ ta mà cả thiên hạ đều xem thường ngươi.

Lương Tiêu gãi đầu vắt óc suy nghĩ một lúc vẫn không hiểu, lúc trông lại thì thấy Hoa Mộ Dung chống tay vào má, mắt ngước lên trời, bèn hỏi:

- Có bốn người kia mà, một người nữa là ai?

Hoa Mộ Dung buồn bã thở dài, đôi mắt thoáng nét xa vắng, nàng rầu rĩ trả lời:

- Người thứ tư thì ta biết, nhưng không thể nói tên của ông ra được.

Lương Tiêu bĩu môi:

- Không nói thì thôi, ai thèm quan tâm? Tôi học được Thái Ất phân quang kiếm rồi sẽ đánh bại tất cả bọn họ.

Hoa Mộ Dung nín lặng, ngẩn ngơ nhìn ra xa. Lương Tiêu không còn biết đấu khẩu với ai, đâm cụt hứng.

Nghỉ một hồi lâu, vết thương của Hoa Thanh Uyên đã đỡ hơn, mọi người lại lên đường. Hôm sau họ đến Tấn Vân, tìm một khách sạn để trọ. Hoa Thanh Uyên phục mấy tễ thuốc bổ để phục hồi nguyên khí. Lương Tiêu ở không buồn tình, ngồi nghịch chó nghịch khỉ với Hiểu Sương. Cô bé đặt tên con khỉ là Kim Linh nhi. Lương Tiêu nghe vậy, tức thì nổi cáu:

- Chó của tớ tên Bạch Si nhi, đằng ấy lại đặt tên con khỉ là Kim Linh nhi, chẳng phải là cố ý chọc phá người ta ư?

Hiểu Sương nói:

- Có sao đâu ạ. Bạch Si nhi - Kim Linh nhi, đối nhau chan chát còn gì.

Kim Linh nhi vẫn nhớ thù cũ, không thèm ngó ngàng tới Lương Tiêu. Bị thằng bé trêu ghẹo, nó chỉ nghiến răng nghiến lợi. Khi Lương Tiêu dậm chân đùng đùng, chực đánh mắng nó, Hiểu Sương bèn ôm con vật lại thật chặt. Lương Tiêu vốn bừa bãi ngang tàng, nhưng không dám nổi giận với cô bé này, sợ nó phát bệnh thì khốn, đành chỉ chống nạnh trợn mắt nhìn Kim Linh nhi một cách hết sức tức tối mà thôi.

Họ nghỉ ngơi vài ngày rồi lại rục rịch lên đường. Vừa đi vừa nghỉ thêm mười mấy hôm nữa thì vào tới vùng núi Quát Thương. Ngọn cao ngọn thấp nối dãy, vắt ngang từ đông sang tây, thế núi mềm mại uyển chuyển như giọng nói êm ái của người Ngô.

Đoàn người dắt ngựa đi bộ theo những bậc đá ở sườn núi. Đi được chừng nửa canh giờ, giữa mây khói bảng lảng thấy hiện ra mái xanh vách đất, gần đó có vài khoảnh ruộng bậc thang ngay ngắn và mấy nông dân đang lom khom cày cấy. Chợt có người ngẩng đầu nhìn, trông thấy bọn họ thì kêu lên. Đám nông phu lần lượt đứng thẳng dậy, bỏ cày bừa đấy tươi cười chạy tới đón. Đi đầu là một người đàn ông da đen tái, hai mắt sáng quắc, vái chào Hoa Thanh Uyên thật thấp:

- Dương Lộ cúi lạy thiếu chủ!

Hoa Thanh Uyên giơ tay đỡ ông ta, cười hỏi:

- Dương quản sự chớ đa lễ, mọi việc trong cung thế nào?

Dương Lộ thưa:

- Tất cả vẫn ổn, đoạn ngắm kỹ Hoa Thanh Uyên, ông ta nhận xét, thiếu chủ dường như khí sắc kém tươi?

Hoa Thanh Uyên đáp:

- Mấy hôm trước bị cảm xoàng, bây giờ không hề hấn gì nữa rồi.

Y chuyển dây cương cho đám nông phu:

- Chúng ta vào núi thôi.

Dương Lộ gật đầu cất tiếng gọi ai đó. Một nông dân liền tung một con bồ câu ra, nó xoải cánh bay xạp xạp vào trong núi.

Lương Tiêu giật áo Hiểu Sương hỏi nhỏ:

- Họ làm gì vậy?

- Báo tin cho bà nội đấy, Hiểu Sương trả lời.

Lương Tiêu ồ lên, chợt trông thấy có hai nông phu đi ra từ khu nhà tranh vách đất, dắt theo mấy con thú lạ màu vàng nghênh ngang, từa tựa trâu, lại nhang nhác ngựa, bước lộp cà lộp cộp. Lương Tiêu biến sắc, xoẹt một cái núp ra sau lưng Hiểu Sương, run run hỏi:

- Quái vật gì đấy?

Mọi người cười ồ, Hoa Mộ Dung chống nạnh phì một cái:

- Thằng nhóc này, ngươi mà cũng có lúc biết sợ hả?

Hoa Thanh Uyên nén cười hỏi:

- Tiêu nhi, con đã nghe chuyện Gia Cát Khổng Minh chưa?

Lương Tiêu ló đầu ra nhìn trộm con thú, gật đầu đáp:

- Tôi có nghe cha kể rồi.

Hoa Thanh Uyên nói:

- Đây chính là Mộc ngưu và Lưu mã1 mà Gia Cát Khổng Minh chế tạo để tải lương qua Thục đạo đó, dùng đi đường núi tiện lắm.

Lương Tiêu kinh ngạc hỏi:

- Có Mộc ngưu Lưu mã thật hay sao?

Hoa Thanh Uyên gật đầu:

- Núi non phía trước rất hiểm trở, chúng ta dùng nó để cưỡi và chở hàng thì thuận tiện vô cùng.

Lương Tiêu mạnh dạn thò tay ra sờ, thấy cứng trơ trơ, quả đúng là con thú bằng gỗ phết sơn vàng, nó đỏ mặt ngượng nghịu. Nhưng tính còn trẻ con, chỉ lát sau thằng bé đã tự nhiên như không có chuyện gì xảy ra, nó tỏ vẻ rất hứng thú với con thú gỗ, ôm lấy chúng hỏi han đủ điều, Hoa Thanh Uyên đều giải đáp cặn kẽ. Lương Tiêu mau chóng học được cách điều khiển, nó cưỡi con thú gỗ ngó nghiêng khắp nơi, hết sức đắc ý.

Bốn người cưỡi Mộc ngưu Lưu mã theo đường núi mấp mô đi sâu vào bên trong. Được một thôi đường, lối đi trở nên gập ghềnh hiểm trở, trồi sụt theo thế núi, lúc thì mém vách cao chất ngất, lúc thì chớm vực sâu thăm thẳm, lúc len qua rừng rậm, lúc xuyên trong lòng thung, nhưng con thú gỗ đi vừa nhanh vừa vững, Lương Tiêu tấm tắc khen lạ.

Xuyên qua một sơn cốc, trước mặt họ thấp thoáng vươn lên hai ngọn núi hùng vĩ, kẹp hai bên dòng sông uốn lượn nhịp nhàng, đối mặt nhau qua đôi bờ nam bắc. Hiểu Sương hỏi Lương Tiêu:

- Tiêu ca ca, anh thấy hai ngọn núi đó giống cái gì nào?

- Giống cái ngón tay, Lương Tiêu đáp.

Hoa Mộ Dung giễu:

- Hừ, người đời đều có mười ngón tay, mỗi ngươi có hai ngón tay hả?

Lương Tiêu ấm ức cãi:

- Thì tám ngón kia người ta gập lại, không được ư? Ờ, theo cô là không giống ngón tay, vậy chứ giống cái gì?

Hoa Mộ Dung cười khẩy:

- Đồ đầu đất, toàn ăn bốc nên đương nhiên chỉ nghĩ được đến ngón tay!

Lương Tiêu ngoẹo đầu nhìn kỹ, ngập ngừng nói:

- Phải chăng... giống đôi đũa?

Hoa Mộ Dung cười:

- Vậy mới đúng đó. Hai ngọn núi này gọi là Thạch Trứ phong.

Lương Tiêu ngạc nhiên hỏi:

- Đã giống đôi đũa thì phải gọi là Thạch Khoái, sao lại gọi là Thạch "Trư" 2?

Hoa Mộ Dung liếc sang Lương Tiêu, mắt đầy nét khinh bỉ. Lương Tiêu hiểu là nhất định mình lại nói sai gì nữa đây, nhưng không biết sai ở chỗ nào, lòng buồn bực vô cùng. Hoa Hiểu Sương cười chen vào:

- Tiêu ca ca, chữ "Trứ" không phải là "Trư" trong trâu bò lợn gà đâu, mà là cách gọi khác của "Khoái" đó.

Nói đoạn cô bé dừng Mộc ngưu Lưu mã, bảo Lương Tiêu xòe bàn ra rồi viết lên đó từng nét của chữ "Trứ". Lương Tiêu sinh lòng ghen tị, "Tại sao cái gì nó cũng biết, còn ta thì mù tịt cả?"

Hiểu Sương viết xong ngoảnh đầu đi, dõi mắt nhìn hai ngọn núi, dịu dàng nói:

- Có điều, cái tên Thạch Trứ phong tầm thường quá, nghe thật vô vị.

Lương Tiêu thầm reo vừa hợp ý ta, rồi liếc mắt nhìn Hoa Mộ Dung, cao giọng bảo:

- Đúng đó, nên gọi là Nhị Chỉ phong mới phải.

Hiểu Sương lắc đầu:

- Nhị Chỉ phong cũng không hay. Em nghĩ, gọi là Phu Phụ phong mới sát. Ngọn to cao ở mé nam là cha, ngọn thấp nhỏ hơn ở mé bắc là mẹ, kề vai đứng bên nhau, vĩnh viễn không chia cách.

Hoa Thanh Uyên giật mình, đăm đăm nhìn Hiểu Sương, mắt in rõ nét bàng hoàng.

Hoa Mộ Dung cười:

- Con bé ngốc nghếch, con lại nổi tính ngây dại rồi đấy ư? Gọi là Phu Phụ phong không ổn tí nào, con biết tại sao không?

Hiểu Sương ngơ ngác lắc đầu. Hoa Mộ Dung giải thích:

- Con xem, giữa hai ngọn núi có dòng suối chảy qua, vì dòng suối đó mà hai ngọn núi lúc nào cũng buồn rầu nhìn nhau, mãi mãi không nhích lại gần nhau được. Lẽ nào con muốn cha mẹ phải nhìn nhau như thế, cả đời không qua lại được với nhau ư?

Hiểu Sương đỏ bừng mặt, lén nhìn sang cha. Lúc ấy Hoa Thanh Uyên đang trân trân ngắm hai ngọn núi xanh, mặt mày trắng nhợt.

Hoa Mộ Dung lại nói:

- Nếu muốn ví với người thì đặt tên là Oán Lữ phong, nghe thích hợp hơn. Từ xưa tới nay đã bao nhiêu cặp tình nhân hữu duyên vô phận, yêu nhau mà không lấy được nhau. Có bài thơ cổ viết thế này:

Xa xa chòm ngưu tinh, xinh xinh chòm chức nữ.

Thon thon múa đôi tay, dặt dìu trên khung cửi.

Cả ngày không hé môi, lệ như mưa giàn giụa.

Ngân hà trong và cạn, được mấy lượt lại qua?

Ăm ắp một dòng sông, đăm đắm nhìn không nói.

Hai ngọn núi đó chính là Ngưu Lang và Chức Nữ, chỉ vì sông sâu cách trở nên dù trông thấy nhau mà vĩnh viễn không gặp bao giờ.

Truyền thuyết về Ngưu Lang và Chức Nữ đã lưu truyền ngàn năm, hai chòm sao đơn côi mỗi đêm lấp lánh đôi bờ Ngân hà đã gây nên nhiều thổn thức, đã làm ngậm ngùi bao trái tim nữ nhi. Hiểu Sương ngâm câu cuối cùng mấy lần, đột nhiên sa lệ. Hoa Mộ Dung hoảng hốt ôm cháu gái vào lòng, dịu dàng vỗ về:

- Sương nhi, cô chỉ nói đùa thôi mà, cớ gì con lại coi là thật chứ?

Lương Tiêu không hiểu hàm nghĩa của bài thơ, nhưng truyện chàng chăn trâu và nàng dệt vải đó thì nó đã nghe cha kể mãi rồi. Nhìn Hiểu Sương sụt sùi, thằng bé lấy làm bực lắm, hừ mũi bảo:

- Ngưu Lang và Chức Nữ thật vô dụng, anh chỉ biết nhìn ả, ả cũng chỉ biết nhìn anh, hệt như đôi chim khờ khạo. Phải tay ta, ta sẽ đổ đất lấp chặt Thiên hà rồi đi qua là xong.

- Ngươi mới là con chim khờ khạo đó, Hoa Mộ Dung nói. Ngân hà là vô tận, ngươi có biết nó sâu ngần nào, rộng cỡ nào không? Chỉ giỏi ba hoa khoác lác, không biết ngượng mồm.

Lương Tiêu cười khẩy:

- Ờ, thì cho là vô tận đi. Vậy cái cầu Ô Thước cho Ngưu Lang Chức Nữ bước qua để gặp nhau vào ngày mùng bảy tháng bảy, theo cô thì cần phải có bao nhiêu con chim hỉ thước mới kết thành đây? Chim còn biết nối cầu, người lại không biết lấp sông ư? Lẽ nào làm người mà không bằng con chim?

Giọng thằng bé đầy ý châm biếm, Hoa Mộ Dung tức đến bợt cả mặt, nhưng Lương Tiêu lập luận rất chặt chẽ, nàng không tìm ra điểm nào để bắt bẻ, đành dẩu môi tức giận mà thôi. Ba người cứ vừa đi vừa cãi cọ như vậy. Hoa Thanh Uyên trước sau không nói một lời, chỉ sắc mặt là liên tục biến đổi.

Trong lúc họ trò chuyện, hai ngọn núi đã áp lại gần. Lương Tiêu không phải dạng tinh mắt, tới lúc ấy mới nhận ra trên núi có người. Trên đỉnh núi ở mé bắc có một cây thông già, tán cành sum sê rậm rạp, dưới gốc cây có hai ông lão râu bạc ung dung ngồi đánh cờ. Kế bên họ là một tiểu đồng tóc để trái đào, đang loay hoay trông lò đun trà, từ cái ấm đồng khói trắng tỏa lên nghi ngút rồi loãng dần vào không trung. Ngọn núi ở mé nam tứ phía đều là vách đá dựng đứng, trơn nhẵn không có chỗ đặt chân, nhưng trên đỉnh núi cheo leo đó lại có một lão già áo xám đang ngồi buông câu, dây câu dài hơn trăm thước thả xuống cái đầm sâu dưới chân núi. Lương Tiêu kinh ngạc tự nhủ, "Cao thế kia thì câu thế nào được cá?" Nó đang băn khoăn thì nước trong đầm bỗng oạp oạp, một con cá chép xanh nhảy cẫng lên khỏi mặt nước, vạch một vòng cung trong không trung rồi vừa giãy tanh tách vừa bay vút lên mấy chục trượng, rơi vào tay lão già.

Một trong hai ông đánh cờ cười bảo:

- Chúc mừng nhé, Đồng lão tam chầu chực cả ngày, cuối cùng cũng mở hàng rồi!

Gió hun hút giữa hai ngọn núi, cuốn tiếng nói đi tới trăm thước, khiến người ta nghe rõ mồn một từng chữ từng lời. Lão già câu cá phì mũi đáp:

- Tu lão tứ! Đúng là nói không biết ngượng mồm, đệ năm lần bảy lượt reo hò khua khoắng làm cá của lão phu giật mình chạy đi hết còn gì.

Lão già đánh cờ thứ hai lên tiếng:

- Mình không sát cá thì thôi, sao lại trách người khác?

Đồng lão tam hừ mũi, giọng tự phụ:

- Tả lão nhị, nói đến câu cá, ngoài Minh lão đại ra thì chẳng ai sánh kịp đệ đâu!

Tả lão nhị cười bảo:

- Bốc phét, hôm nao rỗi thi thử một cái là biết.

Đồng lão tam nói to:

- Thử thì thử, đứa nào thua làm con.

Đến bờ suối, ngay dưới chân núi, mọi người cùng xuống Mộc ngưu Lưu mã. Lương Tiêu ngồi chưa đã, cứ quyến luyến ôm ấp con trâu ngựa gỗ không rời.

Hoa Hiểu Sương tiến lên, cất tiếng chào Đồng lão tam:

- Chú công công! Đoạn quay sang hai lão đánh cờ gọi, Nguyên công công, Cốc công công.

Ba ông lão vẫn dửng dừng dưng. Lương Tiêu tức khí:

- Mấy lão kia hợm hĩnh quá, làm như thần tiên không bằng! Hứ, có cái quái gì là ghê gớm đâu.

Hoa Thanh Uyên cười bảo:

- Lương Tiêu, con hiểu lầm rồi. Ở đây gió to, Sương nhi trung khí bất túc, tiếng nói không đưa được tới nơi đâu. Đoạn y chống tay vào sườn, cười gọi. Ba vị Hạc lão, lâu nay vẫn khỏe chứ?

Giọng y sang sảng, nghe như rồng gầm hổ rống, vang vọng mãi trong núi không tan. Lương Tiêu ngấm ngầm thán phục, "Hoa đại thúc giỏi thật, cha mình chưa chắc đã bằng."

Ba lão già nghe tiếng nhóng mắt nhìn xuống, thái độ hờ hững, không thèm nhổm dậy. Duy có Đồng lão tam là lạnh lùng đáp lời:

- Bây giờ ngươi mới tới đấy ư? Có đi đứng thôi mà cũng chậm!

Hoa Thanh Uyên vòng tay cười xòa:

- Đồng lão dạy phải lắm, nhất định lần sau Thanh Uyên sẽ nhanh hơn.

Lương Tiêu nổi giận nghĩ, "Mấy lão già thô lỗ thật. Cớ gì Hoa đại thúc phải lễ phép với bọn họ?"

Đồng lão tam ngoảnh mặt sang nhìn Hiểu Sương, nhướng mày ném vù con cá chép xuống:

- Cho con này Sương nhi!

Con cá vẫn chưa chết, nó lắc đầu quẫy đuôi, xé gió lao thẳng xuống chỗ Hiểu Sương. Cô bé giật mình, không tưởng được lão già đùa giỡn đột ngột thế, chưa biết nên đón hay nên né tránh, Lương Tiêu đã kịp trông thấy, bước ào lên trước, thi triển Quyển Tự quyết trong Như Ý Ảo Ma thủ, dang hay tay ra rồi ôm lại, ẵm gọn con cá dài hơn một thước, xoay sang đưa cho Hiểu Sương.

Hiểu Sương đỡ lấy, chạy nhanh tới bờ đầm thả cá xuống. Con chép đã sắp tắc thở, lúc này quẫy mấy cái, lấy lại sức sống, lặn vào làn nước. Lương Tiêu ngạc nhiên hỏi:

- Hiểu Sương, sao em lại thả nó?

Cô bé nhìn con cá tung tăng bơi lội, vui vẻ đáp:

- Cá mà xa nước thì cá sống sao nổi.

Lương Tiêu cười nhạt:

- Nói hay nhỉ, dễ thường em không ăn cá đấy?

Hiểu Sương ngẩn người, mặt đỏ như gấc chín:

- Em ăn chứ, nhưng mà... nhưng mà... Thấy thương thương...

Lương Tiêu lườm một cái sắc lẻm, càu nhàu trong bụng, "Ông bố thì quá tốt, cô con cũng tốt quá."

Đồng lão tam hỏi:

- Thanh Uyên! Đứa trẻ kia là ai thế?

Nghe ra giọng lão không có gì tốt lành, Hoa Thanh Uyên ngần ngại đáp:

- Nó tên là Lương Tiêu. Tần đại ca đem nó tới Lâm An.

Đồng lão tam hỏi:

- Võ công của nó là do ngươi dạy hả?

- Không đâu. Hoa Thanh Uyên lắc đầu.

Đồng lão tam hừ mũi:

- Đấy là Như Ý Ảo Ma thủ của Tiêu Thiên Tuyệt, cỡ ngươi không dạy nổi thật.

Lương Tiêu bụng bảo dạ, "Lão già mắt cú, ta chỉ để lộ nửa chiêu mà lão cũng nhận ra ư?"

Hoa Thanh Uyên ngớ người, toan quay lại hỏi Lương Tiêu, chợt thấy Đồng lão tam giật móc câu lên mắc vào vách đá rồi tung mình ra như một cánh hạc lớn màu xám, áp sát vách núi băng băng trượt xuống, dây câu mau chóng duỗi hết ra. Gần tới nơi, thình lình lão già ném cần câu đi, lộn nhào một cái đáp xuống bờ đầm, lắc mình đến trước mặt Lương Tiêu, khoằm các ngón tay chộp cứng lấy ngực thằng bé, trảo pháp rất tinh vi ảo diệu. Lương Tiêu nổi giận:

- Thằng khọm già, ngươi tóm ta làm gì?

Nghe chửi, Đồng lão tam choáng người tái mặt một lúc mới hỏi được:

- Tiểu tử, mày là học trò Tiêu Thiên Tuyệt phải không?

Lương Tiêu hầm hầm hỏi lại:

- Ai là học trò của cái quân khốn kiếp ấy?

Xong nó phùng má nhổ nước bọt đánh toẹt. Đồng lão tam vội hất đầu tránh.

Hoa Thanh Uyên hốt hoảng chực chạy lên khuyên giải, nghĩ thế nào lại dừng bước, đưa mắt cho em gái, ra hiệu bảo nàng can ngăn. Hoa Mộ Dung thì vẫn ấm ức vụ Lương Tiêu làm mình đuối lý lúc cãi cọ ban nãy nên chỉ giương mắt nhìn, mong thằng bé bị hành hạ cho hả cơn giận nên không nói năng gì, rắp tâm xem nó chịu nhục một phen.

Một già một trẻ đấu mắt hồi lâu, cuối cùng Đồng lão tam dịu nét mặt, thả Lương Tiêu ra, cau mày hỏi:

- Thằng nhỏ, vì sao mày gọi Tiêu Thiên Tuyệt là quân khốn kiếp?

Lương Tiêu đáp:

- Thì đúng lão ta là quân khốn kiếp mà!

Đồng lão tam càng thêm ngạc nhiên, tự nhủ nếu Lương Tiêu là hàng con cháu Tiêu Thiên Tuyệt thì không đời nào thóa mạ như thế. Lão thần người suy nghĩ. Nhè lúc đối thủ phân tâm, Lương Tiêu cắn luôn một phát vào mu bàn tay lão già. Họ Đồng giật nảy, vội vã vận kình. Nội công lão thâm hậu, răng Lương Tiêu bị chấn ngược đau điếng, nhưng nó gàn bướng, khư khư không buông. Đồng lão tam khó khăn lắm mới rảy được thằng bé ra, lưng bàn tay đã in một dấu răng rớm máu. Vừa cáu kỉnh vừa kinh ngạc, lão mắng mỏ:

- Thằng ngớ ngẩn, mày điên à?

Lương Tiêu hằm hè nói:

- Ngươi mà còn bảo ta là học trò Tiêu Thiên Tuyệt, ta cắn rụng tay ngươi cho mà xem!

Đồng lão tam cau đôi mày rậm, tức giận hỏi:

- Ngươi không phải là môn nhân hắn ta, vì sao lại học công phu của hắn?

Lương Tiêu trợn mắt:

- Thì dính dáng gì đến ngươi!

Đồng lão tam sầm mặt hăm dọa:

- Ngươi mà không nói rõ, đừng hòng đi qua Thạch Trứ phong này.

Lương Tiêu lấy sức húc đầu vào lão ta, nhưng da thịt Đồng lão tam cứng như thép đúc, không mảy may sây xước, Lương Tiêu húc mấy lượt thì đầu váng mắt hoa, lảo đảo suýt ngã.

Đằng xa bỗng có tiếng cười khà khà:

- Đồng Chú, già đầu rồi mà mặt dày thế, ai lại dùng vũ lực để đối phó với trẻ con, không xấu hổ ư?

Mọi người đưa mắt trông ra, thấy Tu lão tứ đã hạ sơn tự lúc nào, đang thong thả tiến lại gần. Tả lão nhị vẫn ngồi trên đỉnh núi, chăm chú vào thế cờ trước mặt, tựa hồ những gì đang xảy ra ở đây chẳng mảy may dính dáng tới lão.

Đồng lão tam bị châm chọc, thẹn quá bảo:

- Tu Cốc, đệ khỏi ba hoa đi, có giỏi thì lại mà hỏi nó này!

Tu Cốc cười hì hì đi đến trước mặt Lương Tiêu, ngọt ngào hỏi:

- Cháu bé, cháu nói cho ông biết, Tiêu Thiên Tuyệt có quan hệ thế nào với cháu?

Khuôn mặt lão vốn phúc hậu, nở nụ cười trông càng thêm hiền từ. Lương Tiêu thấy lão ra mặt châm chích Đồng Chú để bênh vực mình thì sinh bụng quý mến, nghe giọng lão lại càng thêm ấm lòng, nó đáp liền:

- Lão ấy là kẻ thù của ta!

Tu Cốc nhíu mày, song lại cười ngay:

- Trẻ con là không nên nói dối nhé! Lão lấy mấy viên kẹo gừng ra khỏi tay áo, ôn tồn dỗ dành, cháu ngoan kể thật nào, ông sẽ cho kẹo ăn.

Đã nói rất thật mà vẫn bị người ta cho là dối trá, Lương Tiêu vô cùng tủi bực. Nó thình lình hất mạnh tay, Tu Cốc tuy là cao thủ võ học nhưng không tránh khỏi bất ngờ, kẹo gừng bị đánh văng hết đi. Đồng Chú cười hô hố:

- Tu lão tứ, đệ giả làm người tốt có được kết quả gì không? Sói đội lốt cừu rồi cuối cùng vẫn lộ cái đuôi sói ra thôi mà.

Mặt Tu Cốc đỏ bừng bối rối.

Trên đỉnh núi, Tả lão nhị im lặng nãy giờ, lúc này mới lên tiếng:

- Hai lão già sống quá nửa đời người rồi mà vẫn không khá khẩm hơn tí nào. Hừ, thằng nhóc không chịu nói thì mình đuổi nó đi là gọn nhất.

Hoa Thanh Uyên giật thót, vội vã xen vào:

- Khoan đã Tả lão. Tôi có hứa với cháu bé đây là sẽ dẫn nó vào trong cốc.

Đồng Chú, Tu Cốc cùng cau mày, đưa mắt nhìn nhau. Tả lão nhị cười nhạt:

- Cậu là thiếu chủ cơ cung, tất nhiên không coi mấy lão già lẩm cẩm này ra gì. Cậu quyết thế nào thì làm theo thế nấy vậy, đừng bận tâm đến lời Tả Nguyên ta nữa.

Hoa Thanh Uyên toát mồ hôi trán, vội vã phân trần:

- Tả lão quá lời rồi, Thanh Uyên thật không có ý ấy.

Thấy y bối rối khó xử quá, Lương Tiêu tự ái, vênh mặt nói:

- Hoa đại thúc, chú cần gì phải nhún nhường với mấy lão già đó. Không cho tôi vào thì tôi ra. Nói rồi nó quay mình bỏ đi, nhưng tay Đồng Chú như gọng kìm sắt, Lương Tiêu giãy thế nào cũng không vùng thoát được.

Đồng Chú đe:

- Mày mà không khai thật thì đừng hòng rời khỏi đây.

Hoa Thanh Uyên còn chưa biết xử trí thế nào thì Hiểu Sương bước lên, nắm tay áo Đồng Chú van vỉ:

- Chú công công, ông... ông thả Tiêu ca ca ra được không?

Đồng Chú chưng hửng:

- Tiêu ca ca ư, rồi liếc mắt sang Lương Tiêu, hiểu ra cô bé nhắc đến ai, lão lắc đầu quầy quậy. Không được không được... Đang nói, nhác thấy đôi mắt to của Hiểu Sương ràn lệ, lão ngẩn người. Tuy không nể mặt Hoa Thanh Uyên nhưng rất yêu chiều cô bé con này, lão vội rảy Lương Tiêu ra, vuốt má cô bé dỗ dành. Sương nhi ngoan... Sương nhi giỏi! Đừng khóc, đừng khóc con! Chà, con xem này... Ông chả đã thả nó ra rồi đấy ư?

Mắt Hiểu Sương vẫn rơm rớm, nhưng miệng đã nhoẻn cười. Lương Tiêu dợm chân bỏ đi, cô bé vội níu lại:

- Tiêu ca ca, anh không muốn học kiếm pháp nữa à?

Lương Tiêu ngẩn người chựng lại, bụng bảo dạ, "Ờ đúng, ta đến để học công phu kia mà. Nếu luyện thành kiếm pháp, đánh bại được Tiêu Thiên Tuyệt thì một chút uất ức tủi nhục có đáng gì đâu?" Nghĩ được thế, nó không bước tiếp nữa.

Hiểu Sương cười cười, kéo Lương Tiêu đi qua trước mặt Đồng Chú. Lão già kinh ngạc tự nhủ, "Lạ quá, một đứa bé ngoan ngoãn như Sương nhi sao lại khăng khăng bảo vệ một thằng nhóc thế này nhỉ?" Liếc thấy Lương Tiêu nghênh ngang vênh váo cố ý đánh mắt về phía mình, lão đâm cáu. Hoa Thanh Uyên thở phào, vòng tay nói:

- Chắc Đồng lão đã nhìn nhầm, làm sao nó là đệ tử của Tiêu Thiên Tuyệt được?

Đồng Chú trợn mắt cười khẩy:

- Nhầm sao được mà nhầm? Cái thời lão phu giao thủ với Tiêu lão quái, ngươi còn ở truồng chạy rông kìa!

Hoa Thanh Uyên bị mắng ngượng quá, lắp bắp:

- Vầng... vâng!

Đồng Chú cười nhạt:

- Thôi, ngươi đã khăng khăng bảo bọc nó như vậy, lão phu cũng chán chẳng muốn can thiệp nữa. Hừ, cỡ thằng ranh mới tí tuổi đầu, chắc chưa thể gây nên sóng gió gì ngay đâu. Đoạn lão phất tay áo đi thẳng đến chân núi, nắm lấy cần câu cá bằng một tay, tay kia trở đầu cần câu, chân trái đạp trên vách đá, thoáng cái đã đằng không lên cao hơn một trượng, lại trở đầu cần câu thì lên tiếp được mấy trượng nữa. Cứ như thế thoắt bật lên thoắt hụp xuống, trong chớp mắt đã phi thân tới đỉnh. Ở đó, lão quay về hướng đông, hai tay chống nạnh, ngửa mặt hú dài.

Lương Tiêu thích thú nghĩ, "Lão già tuy đáng ghét nhưng trèo núi ngộ thật." Nó đang lẩn mẩn nghĩ, chợt thấy giữa hai ngọn núi có một cỗ thuyền rồng nương theo dòng lắc lư trôi xuống, hình dạng có phần khác với thuyền thường, thuyền thường phân biệt rõ ràng đầu và đuôi, còn con thuyền này cả đầu và đuôi đều là đầu rồng, cùng ngoác miệng trừng mắt trông thập phần uy mãnh.

Phía đầu thuyền có một người chừng bốn mươi tuổi, khuôn mặt thanh tú bất phàm, đang ấn hai tay lên hai sừng rồng3. Y không hề chạm đến mái chèo, nhưng thuyền cử động hệt như vật sống, sáu bơi chèo sắt ở hai cánh thuyền khoát nước đều đặn, đưa thuyền tiến lên. Khi thuyền rồng gần cập bờ, Hoa Thanh Uyên vòng tay cười chào:

- Diệp Chiêu huynh! Phải phiền đến đại giá của huynh thật choáng váng quá!

Người đó cũng cười đáp:

- Uyên thiếu chủ nói đùa rồi.

Hoa Mộ Dung bế Hiểu Sương lên thuyền. Lương Tiêu nhảy lên theo, cố ý đẩy kình xuống chân làm con thuyền chao đi một cái. Diệu Chiêu phì cười:

- Bé con, cậu muốn lật thuyền ư?

Hoa Mộ Dung trừng mắt nhìn Lương Tiêu:

- Nó chỉ thích bới chuyện ấy mà. Đoạn vui vẻ hỏi Diệp Chiêu, Diệp đại ca, tẩu tẩu có khỏe không?

Diệp Chiêu đáp:

- Khỏe, khỏe lắm! Cám ơn Dung thiếu chủ hỏi thăm.

Đợi mọi người lên thuyền cả rồi, Diệp Chiêu quay mình đi xuống cuối thuyền lay chiếc sừng rồng mấy lượt rồi buông nhanh tay ra, sáu mái chèo sắt cùng khua nước, đưa chiếc thuyền rồng trở ngược dòng chạy lên, chỉ có điều đuôi thuyền giờ đã trở thành đầu thuyền.

Lương Tiêu rất ngạc nhiên, nhoài mình qua mạn thuyền nhìn xuống. Hoa Mộ Dung gọi:

- Ngươi làm gì thế? Khéo không ngã lộn cổ xuống nước bây giờ.

Lương Tiêu thắc mắc:

- Lạ thật, bên dưới không hề có người chèo thuyền.

Hoa Mộ Dung bật cười:

- Loại thuyền này tên là Thiên Lý, do một bậc thầy toán học thời cổ là Tổ Xung Chi chế tạo ra. Chỉ khi khởi động hoặc đổi hướng mới cần đến sức người, còn những lúc khác đều di động nhờ sức nước.

Lương Tiêu hỏi:

- Tổ Xung Chi là ai? Có giỏi võ không? À... toán học là gì? Có phải là một môn công phu rất lợi hại không?

Hoa Mộ Dung cười ngặt nghẽo, lúc trước nàng đã phải thua mồm mép thằng bé, vốn vẫn ấm ức trong lòng, đến giờ coi như cũng có dịp trả đũa, nàng chực buông lời khích bác, Hoa Thanh Uyên đã cười xen vào:

- Toán học không phải võ công, nhưng chứa đựng những nét ảo diệu riêng. Tổ Xung Chi là bậc tông sư toán học thời Ngũ Hồ loạn Hoa4. Ông là người đầu tiên nghĩ ra cách chia vòng tròn, tính được tỷ lệ giữa chu vi đường tròn và đường kính5, lại căn cứ vào sự di chuyển của mặt trăng mặt trời mà soạn ra lịch Đại Minh vẫn dùng tới ngày nay. Cỗ Thiên Lý thuyền di chuyển không cần sức người này cũng là phát minh của ông ấy đấy.

Lương Tiêu ngỡ ngàng vỗ tay khen:

- Tôi hiểu rồi, ông ấy cũng như Gia Cát Lượng, đều thông minh tuyệt đỉnh!

Hoa Thanh Uyên cười:

- Đúng vậy!

Trong lúc họ nói chuyện, Thiên Lý thuyền đã đi luồn qua giữa hai ngọn Oán Lữ, từ từ tiến vào sâu trong dãy núi. Lòng sông dốc dần lên phía trên, luồng chảy cũng xiết hơn. Được một lúc, chợt có tiếng nước đổ ầm ầm, thuyền ngoặt qua một khúc quanh, đằng trước hiện ra sáu ngọn thác lóng lánh trắng xóa, hệt như sáu tấm rèm pha lê buông trên vách đá. Bọt cuồn cuộn dưới chân thác gầm gừ như sấm nổ, đến những phiến đá cũng không cự nổi, bị nước đẩy văng đi xa. Nhưng luồng chảy càng xiết thì sáu bơi chèo sắt càng khua nhanh hơn, đưa Thiên Lý thuyền tiến ngược lên trong dòng sông cuồn cuộn.

Qua khỏi thác nước, Thiên Lý thuyền tiến vào một khe núi. Hai bên là vách đá sừng sững, hơi ăn lõm vào phía trong, hình dáng như lòng vỏ sò. Càng đi vào sâu khe núi càng hẹp. Vách đá này có màu rất lạ, trơn nhẵn và loáng ánh ngọc trai, vừa khéo một tia nắng chiều xiên chéo vào đây, hắt lên vách đá rồi phản chiếu trở lại, khiến trong khe bỗng bừng lên một thứ bụi sáng vàng óng, khiến người ta hoa cả mắt.

Mọi người đi trong khe vỏ sò màu chừng nửa canh giờ, Lương Tiêu bắt đầu sốt ruột, bèn hỏi:

- Hoa đại thúc, còn bao xa nữa ạ?

Hoa Thanh Uyên chưa kịp trả lời, hốt thấy Thiên Lý thuyền đã bơi ra khỏi miệng khe. Phía trước mở ra bao la thoáng đãng, nước sông chảy dồn về một cái hồ, bên hồ là núi non xanh ngắt sừng sững, mây mù vờn quanh, mấy chục con hạc trắng kêu lên lảnh lót, thong thả bay vòng vòng trong nắng chiều. Diệp Chiêu ghìm sừng rồng, cất giọng sang sảng ngâm:

Nước nối trời tây hoa trong sương

Mây bay hạc lượn tựa tiên phương

Núi chiều như rượu say lòng khách

Khà,

Hát tràn lồng lộng buổi chiều buông.

Tiếng ca phóng khoáng rành rọt vang vọng hồi lâu trong núi.

Hoa Thanh Uyên đứng dậy trỏ tay ra xa:

- Tiêu nhi, con xem kìa! Đó chính là Thiên Cơ cung, nằm trong Thê Nguyệt cốc6.

Lương Tiêu dõi mắt nhìn, thấy ở nơi gần với bờ nước có ba ngọn thác ồ ạt như trút từ trời cao xuống, trước mỗi thác nước có một bánh xe là lạ hình rồng cuộn đang quay chầm chậm, dẫn động mấy ngàn trục đồng nhỏ mảnh, thoắt ẩn thoắt hiện trong làn nước, trông như một bầy giao long đang quấn quýt nhau. Lương Tiêu trố mắt xem rồi la lên lạc cả giọng:

- Đấy là cái gì thế ạ?

Hoa Thanh Uyên đáp:

- Đó là Thiên Xu, Thiên Tuyền và Thiên Ki. Mấy bánh xe khổng lồ đó đã quay như thế trước Thê Nguyệt cốc cũng được ba trăm năm rồi.

Lương Tiêu ngạc nhiên:

- Để làm gì ạ?

- Kể ra thì dài lắm, Hoa Thanh Uyên mỉm cười, lát nữa con khắc hiểu.

Nước hồ phẳng lặng dần, Thiên Lý thuyền chầm chậm trôi xuống, thong thả đi qua giữa ba bánh xe.

Phía trước xuất hiện hai vách núi chọc trời, sừng sững thâm u, trên vách đá có hai hàng chữ đục theo lối hành thảo rất kỳ công, tuy thấp thoáng nhưng vẫn có thể nhìn rõ. Hàng bên phải viết "Hoành tận hư không, thiên tượng địa lý vô nhất khả thị nhi khả thị giả duy ngã." Hàng bên trái viết, "Thụ tận lai kiếp, Hà đồ Lạc thư vô nhất khả cứ nhi khả cứ giả giai không. "7

Hai hàng chữ vận bút mạnh mẽ, chữ nào chữ nấy vuông vức, mỗi cạnh phải tới mấy trượng, nét cuối cùng chạy thẳng xuống làn nước, khí thế hùng vĩ.

Hết chương 15

Chú thích:

25042505 Để biết rõ về con này nên đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa, hình của nó tham khảo ở đây.

25102511 Trong tiếng Trung thì chiếc đũa có thể gọi là Khoái hoặc Trứ (khẩu ngữ hay dùng Khoái hơn). Lương Tiêu ít chữ, không biết từ Trứ, thành ra nghe chệch sang từ nó biết là Trư (con lợn)

25142515 Chính là cái bánh lái. Thuyền này chắc giống tàu thuỷ thời cận và hiện đại.

25182519 Ngũ Hồ loạn Hoa có nghĩa là Năm tộc Hồ làm loạn Trung Hoa, tên chỉ một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, còn gọi là thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc. Giai đoạn này kéo dài từ năm 304-439 CN.

25222523 Tức số Pi.

25262527 Khe đọng ánh trăng.

25302531 "Vận trời đa đoan, chỉ nên trông vào bản thân, đừng dựa vào thiên văn địa lý. Triết giả đã mất, chẳng ai nói rõ được chuyện tương lai, đừng nên tin bói toán chiêm bốc." Cặp câu này ý nói đừng cầu viện những chuyện huyễn hoặc bên ngoài như tượng trời, phong thủy, đừng khư khư tin vào sách vở bói toán. Quan trọng là phải tự tu, tự rèn mình. Lúc ấy Phật hay Đạo, mệnh hay số cũng ở trong lòng mình, trong tay mình hết.

Phượng ca

Côn Luân

Dịch giả: Đào Bạch Liên

Mê trận vô hình


Thiên Lý thuyền cập vào một cồn đá, mọi người lên bờ. Một sơn cốc rộng rãi trải ra phía trước, vây bọc tứ phía là những ngọn núi cao chạm chân mây, sơn cốc này cũng là lối duy nhất đi lại được, ngoài ra không còn chỗ nào khả dĩ đặt chân. Nền cốc bằng đá phiến sét, đây đó ngổn ngang đá tảng và lỉa chỉa thông xanh, những tảng đá kích cỡ không đều, lớn thì to ngang một quả đồi, nhỏ cũng nặng tới vài vạn cân. Nằm đan xen với chúng là vô số thạch tượng, pho nào pho nấy cao gấp mấy lần người bình thường, điêu khắc hết sức tinh xảo, chỉ khác là hình thể to lớn lạ thường, còn thì từng nụ cười, từng cái nhíu mày, từng biểu hiện vui buồn mừng giận... đều hệt như người thật. Có tượng đứng, có tượng ngồi, tượng thì nhấp nhổm, tượng nhảy tưng, lại có tượng cau mày tư lự, tượng ngửa mặt cười dài, có tượng gõ chuôi kiếm mà hát, tượng múa bút gảy đàn tỳ bà, thực muôn hình vạn trạng, mỗi pho mỗi dáng, càng trông theo càng thấy ngút ngàn.

Lương Tiêu đã gặp đủ sự lạ ngoài kia, tưởng chừng không còn biết bỡ ngỡ trước những chuyện mới mẻ nữa, vậy mà đến đây cũng phải hít một hơi thật sâu đặng lấy lại bình tĩnh:

- Lại cái gì thế này?

Hoa Thanh Uyên nghiêm trang đáp:

- Đây là Bát bách thánh hiền tượng, diễn tả tám trăm bậc thánh nhân, hiền triết, đại tướng và dị sĩ được lưu danh trong sử sách từ xưa tới nay.

Y trỏ một bức tượng phục sức mũ cao áo dài, diện mạo cổ kính khác thường, đang trong tư thế cúi nhìn xuống thiên hạ:

- Đây là Hoàng đế Hiên Viên.

Lại trỏ một bức tượng già lão mặt to trán cao, hai mắt sâu hoắm, tay cầm cái cuốc đào thuốc, y nói:

- Kia là Viêm đế Thần Nông.

Rồi tới một ông cụ tai to mày rủ, râu dài quá rốn, cưỡi con trâu xanh:

- Đó là Lão Tử Lý Nhĩ, người đã viết cuốn Đạo Đức Kinh dài hơn năm nghìn chữ.

Xong y chuyển hướng sang một người già vận áo nhà nho đang chắp tay giơ cao như khấn:

- Còn kia chính là Văn thánh Khổng Khâu1.

Lương Tiêu vừa nghe vừa nhìn theo, bỗng dưng cảm thấy các pho tượng không hề đứng yên mà cứ từ từ xê dịch, như tinh tú trên trời chẳng lúc nào ngừng vần chuyển, hiềm nỗi không dễ nhận ra mà thôi. Trong lúc Hoa Thanh Uyên chỉ trỏ giới thiệu thì pho tượng Hoàng đế đã lần lần khuất lấp sau một tảng đá to như quả đồi. Lương Tiêu buột miệng thốt lên kinh ngạc. Hoa Mộ Dung cười bảo:

- Nhìn ra rồi phải không? Ngươi mà đoán được tại sao thì ta chịu là tài.

Lương Tiêu bặm môi, ngẫm nghĩ chốc lát, thình lình vỗ tay kêu toáng:

- Tôi biết rồi.

Hoa Mộ Dung hỏi:

- Đâu nói thử nghe!

Lương Tiêu trỏ ngược về phía ba bánh xe khổng lồ mà họ vừa bỏ lại đằng sau:

- Nguyên lý chuyển động của những pho tượng này tương tự Thiên Lý thuyền. Sức nước đẩy bánh xe, bánh xe dẫn động trục đồng, sau đó, tôi chưa rõ là bằng cách gì, nhưng các trục đồng đã khiến tượng đá di chuyển.

Nét kinh ngạc hiện rõ trên vầng trán thanh tú của Hoa Mộ Dung, nàng tủm tỉm nói:

- Khá nhỉ, nhìn ngươi thì không thấy thông minh mấy, chắc lại mèo mù vớ cá rán đây thôi.

Hiểu Sương chen vào:

- Tiêu ca ca thông minh quá ấy chứ! Cô bé nói xong, đôi má ưng ửng hồng.

Lương Tiêu được khen hởi lòng hởi dạ, toét miệng cười với Hiểu Sương, rồi hỏi:

- Thế trục đồng đẩy tượng đá dịch chuyển bằng cách nào?

Hoa Thanh Uyên ngẩng nhìn sắc trời, nói:

- Điều ấy phức tạp lắm, sau này hãy hay, chúng ta vào cung trước đã! Quay sang Lương Tiêu, y dặn, nhất thiết phải đi theo đúng bước chân ta nhé.

Lương Tiêu ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao ạ?

Hoa Mộ Dung cằn nhằn:

- Đừng gặng hỏi làm gì, nói ngươi cũng không hiểu đâu. Đoạn, một tay dắt Lương Tiêu, một tay dắt Hiểu Sương, nàng bước theo anh trai. Hoa Thanh Uyên lúc đi thẳng, lúc bước chéo, xuyên qua luồn lại giữa những thạch tượng và đá tảng.

Đi được chừng một trăm bộ, Lương Tiêu thốt nghĩ, "Cớ sao ta phải đi theo ông ấy? Không nói cho ta biết duyên do ư? Hừ, ta sẽ tự xem xem có gì quái lạ." Nhằm lúc Hoa Mộ Dung sơ ý, nó vùng khỏi tay nàng chạy sang mé trái. Hoa Mộ Dung túm vội theo, nhưng trượt, nàng kêu lên thất thanh, mặt mày tái mét. Lương Tiêu sợ bị đuổi theo, liền cắm đầu cắm cổ chạy. Chạy tới hơn một trăm bộ, nó chực ngoảnh lại xem động tĩnh, chợt nghe hai chân hẫng một cái, bèn cúi đầu nhìn. Vực sâu muôn trượng nằm ngay bên dưới. Thằng bé hoảng hồn ghìm chân, bỗng đâu người lại bật lên cao, bên tai gió rít vù vù, trước mặt bồng bềnh mây trắng, nó nhìn xuống mặt đất, chỉ thấy núi non điệp trùng, sông hồ dày đặc, còn bản thân mình thì đang rơi tòm xuống như một vệt sao băng, gió trướng quần quanh, lạnh cắt da cắt thịt. Vừa nghe hơi giá thấm vào người, nó đã thấy mình đứng trong bão tuyết, bốn bề mênh mang, bông tuyết quay cuồng, gió cùng gào rú.

Máu trong người như đông cứng, Lương Tiêu guồng chân chạy để đẩy lùi cái lạnh. Chạy mãi không biết bao xa, mặt đất bỗng rung chuyển, truyền đi âm thanh ì ầm như sấm động, rồi ngay tắp lự, một khe nứt hiện ra, từ đó phụt lên một lưỡi lửa ngùn ngụt bỏng rãy dài đến mấy trăm trượng. Mồ hôi Lương Tiêu rỏ tong tong, tim gan như muốn vỡ, nó chực cất tiếng nhưng miệng lưỡi khô rang, không thốt được nên lời. Thằng bé sắp phát điên vì bầu không khí hàn thử tương xung đó, chợt thấy xa xa có bóng người lay động, liền vội vàng phi theo. Một đôi nam nữ đang sóng vai bước, nói cười vui vẻ trong luồng lửa. Lương Tiêu căng mắt nhìn, ngạc nhiên xen mừng rỡ, nó gào tướng lên, lạc cả giọng:

- Cha ơi, mẹ ơiiiii!

Văn Tĩnh và Ngọc Linh chẳng mảy may đoái hoài, cứ mải mê cười nói với nhau. Lương Tiêu vừa khóc vừa gọi, đuổi theo ráo riết, nhưng không tài nào bắt kịp hai người.

Chạy được một đỗi, bỗng thấy họ thình lình đứng lại, Lương Tiêu mừng quýnh, chụp luôn áo Văn Tĩnh khóc rưng rức. Sụt sịt đôi hồi, thằng bé ngẩng đầu nhìn, qua làn nước mắt mông lung, nó nhận ra mình đang nắm phải một người mặc áo đen kịt, mặt mày trắng bợt. Chẳng Tiêu Thiên Tuyệt thì còn là ai nữa? Nỗi vui mừng thoắt chuyển thành hoảng loạn, Lương Tiêu thét to một tiếng, thân thể rã rời bải hoải, hai mắt tối sầm chực ngã ngất đi. Chợt có người túm lấy lưng nó ghì lại phía sau, ảo ảnh trước mắt vụt tan biến, thay vào đó là những pho tượng và đá tảng đứng im lìm.

Lương Tiêu ngã phệt xuống đất, thở hồng hộc, như thể vừa kịch chiến đến hàng ngàn chiêu. Nó ngoái đầu trông, bắt gặp Hiểu Sương đang nhìn mình với vẻ mặt lo âu, xung quanh tịnh không bóng người. Nó lấy làm lạ hỏi:

- Chỉ có đằng ấy thôi à?

Hiểu Sương toan trả lời, nhác trông pho tượng Tư Mã Thiên ở mé trái đang từ từ dịch sang phía tây, còn tượng Ban Cố thì đang di chuyển sang phía nam, cô bé giật mình kéo Lương Tiêu giục:

- Đi mau, đi mau!

Lương Tiêu ngạc nhiên, chợt nghe bên tai vang tiếng binh khí giao nhau, giáp khua loảng xoảng, cảnh vật trước mắt nhoà đi, bỗng đâu chất ngất máu chảy thây phơi, cung điện nguy nga lũ lượt sụp đổ, thoắt đó biến thành bình địa cháy đen... Bất đồ, tay trái nó lại bị giật một cái, ảo ảnh tan biến. Hiểu Sương còn chưa kịp hoàn hồn:

- Khiếp quá, suýt nữa đến em cũng rơi vào rồi.

Cô bé kéo Lương Tiêu đi, lúc rẽ đông lúc rẽ tây; được chừng mười mấy bộ, cô dừng lại bên chân một quả đồi, ngồi xuống bảo:

- Chỗ này là trận nhãn2 của Thái Sử cảnh, mình có thể nghỉ tạm ở đây khoảng nửa canh giờ.

Lương Tiêu nôn nóng hỏi:

- Rốt cục là đang xảy ra chuyện gì thế?

Hiểu Sương nhìn nó, nói vẻ buồn buồn:

- Chúng mình bị hãm trong Lưỡng Nghi Ảo Trần trận rồi.

Lương Tiêu nhìn trận thế xung quanh, bỗng nhớ tới một câu chuyện cha đã kể, bàng hoàng hỏi:

- Những pho tượng này lập nên trận pháp tương tự Bát Trận đồ phải không?

Hoa Hiểu Sương gật đầu:

- Không chỉ tượng mà mỗi gốc cây ngọn cỏ ở đây đều chứa đựng ý nghĩa và vai trò riêng. Vừa rồi anh cảm thấy lúc nóng lúc lạnh là vì anh đã rơi vào Âm Dương cảnh. Mấu chốt của Âm Dương cảnh là tượng Trâu Diễn3.

Lương Tiêu băn khoăn:

- Vì sao đằng ấy cũng vào đây thế?

Hiểu Sương đáp:

- Em thấy anh rơi vào, muốn kéo anh trở ra, ai ngờ bất cẩn nên sa chân theo. Cũng may trước đây em có đọc sách, biết được đôi chút biến hoá của trận pháp.

Cô nhặt một viên đá nhọn, vạch ra vô số ký hiệu kỳ quặc trên đất, viết rồi lại xoá. Lương Tiêu tò mò hỏi:

- Hiểu Sương, đằng ấy làm gì vậy?

Hoa Hiểu Sương đáp:

- Em đang thử suy luận đường hướng của trận pháp.

Lương Tiêu kinh ngạc rõ rệt:

- Đằng ấy lại còn biết cả cái đó cơ à?

- Ngày thường ở nhà, em chẳng có việc gì làm ngoài đọc sách cả. Hiểu Sương cười, trận pháp này gắn liền với những điều ghi chép trong sách đấy.

Lương Tiêu ngẫm nghĩ một thoáng rồi lại hỏi:

- Hiểu Sương này, vì sao tớ lại trông thấy những cảnh tượng cổ quái kỳ dị ấy nhỉ?

Hiểu Sương nhíu mày:

- Không biết thật hay giả, nhưng theo lời bà nội kể thì Lưỡng Nghi Ảo Trần trận là một loại thế gian phi thực, biết biến đổi theo tâm trạng con người, biết ảo ảnh hóa muôn hình muôn vẻ của hồng trần. Nếu bị sa lầy quá sâu trong trận thì những gì mình nghĩ đều hiện hình trước mắt hết. Người càng nóng nảy xốc nổi thì càng dễ sinh ảo tượng, lần lượt nếm trải những cảm giác hi vọng rồi bế tắc, ngỡ ngàng rồi cụt hứng, vui vẻ rồi tư lự, hoan lạc rồi sầu bi, mừng rỡ rồi đau khổ, cứ thế cho đến lúc phát điên. Tại sao lại như vậy, em chịu không giải thích cho minh bạch được, nhưng nghe bà nói, cái lẽ huyền cơ của trận pháp này là khởi phát từ lòng người. Người nào mà tĩnh tâm, dẫu không hề hay biết đến nguyên lý của trận thì vẫn đi qua được. Song le, người như thế lòng thường tịnh như nước, có thể sánh với thần tiên, họ vượt trận cũng không đáng ngại cho mình.

Lương Tiêu tỏ vẻ trầm tư:

- Vì sao Thiên Cơ cung phải ẩn kín ở đây? Và vì sao phải lập nên trận pháp này nữa?

Hiểu Sương đáp:

- Em cũng không rõ. Nghe cha kể thì từ cuối đời Đường, gia tộc em đã dọn tới đây rồi.

Cô bé vừa nói vừa viết, không hề ngơi tay, Lương Tiêu ngấm ngầm thán phục. Hiểu Sương tiếp:

- Hồi ấy, trong thiên hạ, có rất nhiều kẻ xấu nổi lên chém giết, cơn tao loạn này kéo dài hơn một trăm năm trời. Bọn chúng đi tới đâu thì sát nhân, phóng hỏa, thiêu đốt thư tịch tới đó, thành thử không chỉ mạng người mà học vấn của tiền nhân đều bị chúng hủy hoại mất hết.

Cô bé mường tượng lại thảm cảnh thời xưa, không khỏi ghê rợn, hai mắt đỏ hoe lên, hỏi Lương Tiêu:

- Tiêu ca ca, em không thể hiểu nổi, tại sao những kẻ xấu ấy hành động như vậy?

Lương Tiêu vốn định hỏi cô bé đúng câu đó, ai dè bị hỏi ngược lại, nó chưng hửng một thoáng rồi đáp:

- Tớ nghĩ thế này. Lúc đầu có rất nhiều người tốt, kiểu như đằng ấy, mọi người đều an vui, không tranh cãi không sinh sự, nhưng đột nhiên có một kẻ xấu như tớ xuất hiện, tớ bắt nạt đằng ấy, cướp đồ ăn thức uống của đằng ấy. Đằng ấy muốn sống, đành phải đi cướp của người khác, người khác lại đi cướp người khác nữa, cứ thế, trên đời thành thử toàn kẻ xấu. Về sau, kẻ xấu phát hiện ra là hai kẻ xấu thì mạnh hơn một kẻ xấu, vì thế đứa này lập băng, tên kia họp nhóm, bè phái dần dần nhiều lên, kế đó kéo nhau đi đánh chém, giết chóc, phóng hỏa, cướp bóc... Nói tới đây, Lương Tiêu không nghĩ ra thêm được tội ác nào nữa, đành ngừng lại.

Hiểu Sương ngẫm nghĩ, đoạn lắc đầu:

- Anh nói sai rồi.

- Sao lại sai? Lương Tiêu hỏi.

Hiểu Sương vừa cúi sát xuống đếm nét bút vừa đáp:

- Em không đời nào cướp giật giết chóc.

Lương Tiêu cười nhạt:

- Đằng ấy mà không cướp thì chỉ còn nước chết đói chết rét hoặc bị người khác giết hại mà thôi.

Hoa Hiểu Sương đáp nhanh:

- Có chết cũng không bao giờ làm thế. Rồi kéo tay Lương Tiêu, cô khẩn khoản nói, Tiêu ca ca cũng không phải là kẻ xấu mà.

Lương Tiêu bĩu môi:

- Tớ là kẻ xấu đấy. Làm người tốt chỉ tổ bị kẻ khác bắt nạt, mà tớ xưa nay chỉ có bắt nạt kẻ khác thôi.

Đôi mày nhỏ mảnh của Hiểu Sương nhíu lại. Cô bé thình lình lắc tay Lương Tiêu, dịu dàng van vỉ:

- Tiêu ca ca, em không muốn anh làm người xấu! Anh đừng làm người xấu anh nhé!

Lương Tiêu nghe phiền phức quá mà không biết đối đáp thế nào, đành nói:

- Tớ chẳng muốn phải chết đói chết rét.

Hiểu Sương thủ thỉ:

- Thì chúng mình cùng chết, chứ em không nỡ lòng nào làm việc xấu đâu.

Lương Tiêu sững người im bặt. Hiểu Sương bèn bảo:

- Thôi, tạm thời đừng nhắc đến chuyện này nữa. Nhưng bất kể ra sao anh cũng không được làm người xấu đâu đấy!

Lương Tiêu nóng mặt toan phản bác, Hiểu Sương đã nói:

- Tiếp tục về gốc gác nhà em nhé. Khi thiên hạ đại loạn, ông tổ của Thiên Cơ cung, vốn là một người nhìn xa trông rộng, nhận thấy thời thế quá nhiễu nhương, bèn quyết định thu gom hết mọi sách vở cất vào một chỗ.

Lương Tiêu ngắt lời:

- Xong rồi cất vào Thiên Cơ cung hả?

- Hồi ấy làm gì đã có Thiên Cơ cung. Chỉ có Thê Nguyệt cốc, trong cốc toàn đá tảng nhẵn lì. Ông tổ nhà em không những học rộng hiểu nhiều mà võ công cũng rất cao siêu. Trong lúc bọn xấu đang làm mưa làm gió thì người dẫn gia tướng đi thu gom đủ mọi thứ sách vở, đồ cổ, thư họa và đưa cả đến Thê Nguyệt cốc. Nhưng mãi tới khi tạ thế, người vẫn chưa hoàn thành được công trình này, đành giao phó lại cho con trai. Thuở ấy, thiên hạ chia cắt thành mười mấy quốc gia, kẻ xấu đánh giết càng lúc càng ghê gớm, rất nhiều người trong gia tộc em đã ngã xuống để giữ gìn sách vở giữa màn khói lửa đó.

Hiểu Sương rớm lệ:

- Cuối cùng, đến con trai của ông tổ cũng... cũng bị kẻ xấu giết chết.

Nói tới đây, nước mắt cô bé lăn dài. Lương Tiêu vỗ vỗ vai cô, Hiểu Sương không kìm nén nổi nữa, gục mặt vào đầu gối Lương Tiêu khóc thút thít. Lương Tiêu vụng về đỡ lấy vai cô bé, nhưng không biết nên khuyên giải cách nào.

Sụt sịt một lúc, Hiểu Sương ngẩng đầu lên gạt lệ, ngượng nghịu phân trần:

- Em từ nhỏ đã có cái tính mau nước mắt, nghe kể những chuyện như thế này em chỉ muốn khóc thôi. Tiêu ca ca, anh đừng cười em nhé.

Lương Tiêu nghĩ bụng, "Con bé buồn cười thật." Nó bật cười khan, được mấy tiếng, không hiểu tại sao, nó bỗng nín bặt.

Hiểu Sương kể tiếp:

- Đến đời thứ ba. Ông tổ đời ấy là một người rất thông minh, ông vừa tiếp tục thu thập thư tịch, vừa nghiền ngẫm nội dung trong đó, chắt lọc được rất nhiều điều bổ ích. Để bảo vệ sách vở an toàn hơn, ông thiết kế trận pháp này, vẽ thành sơ đồ, cùng con cháu các gia tướng đời trước chỉnh sửa và xây dựng. Nhằm tiết kiệm nhân lực, ông còn chế ra Mộc ngưu Lưu mã và Thiên Lý thuyền đặng vận chuyển đá gỗ. Nhưng thạch trận quá lớn, lớn đến nỗi cả đời con trai ông làm cũng không xong. Mãi tới ba thế kỷ trước đây, gia tộc em mới hoàn thành ba bánh xe Thiên Cơ, lại thêm một trăm năm nữa thì mới dựng xong Thiên Cơ cung.

Hiểu Sương càng kể càng hứng khởi, hai lúm đồng tiền thoắt ẩn thoắt hiện trên đôi má. Cô bé cúi đầu tính toán thêm một chốc nữa, đoạn nhoẻn cười:

- Ổn rồi, Tiêu ca ca, em tính ra rồi!

Cô nhảy lên, kéo Lương Tiêu theo, sang trái bảy bước, sang phải tám bước, đi vòng qua mười pho tượng thì dừng lại, tiếp tục cúi nhìn và tính toán một lúc rồi nói:

- Chỗ này là Huyền Dịch cảnh, là trận trong trận, lấy Phục Hi làm mấu chốt, một nơi rất quan trọng đây. Tiêu ca ca, anh phải nắm chặt lấy em nhé!

Lương Tiêu đã biết hơn thiệt, nghe vậy bèn bám cứng lấy bàn tay bé nhỏ của Hiểu Sương. Hai đứa sóng vai đi vòng qua một cây thông già ba người ôm mới xuể, vừa bước được mấy bước thì bỗng nhiên một trận gió nhẹ hiu hiu lùa tới, Hiểu Sương thảng thốt kêu:

- Không ổn rồi, đây là mắt Tốn4, em tính sai rồi.

Cô bé kéo Lương Tiêu nhảy sang trái ba bước, chợt thấy tượng Chu Văn Vương và tượng Khổng Tử đang xáp lại gần nhau, cô giậm chân, nói giọng như khóc:

- Hỏng rồi, hoàn toàn biến đổi rồi.

Thì ra trong lúc các tượng đá di chuyển liên tục thì hai đứa đã bước nhầm một bước, trận hình thay đổi, phải căn cứ vào vị trí hiện tại mà suy luận lại trận pháp, bằng không ắt càng lúc lún càng sâu.

Vầng thái dương sắp lặn, trời bắt đầu nhá nhem, Hiểu Sương bưng mặt khóc òa lên:

- Tại em, tại em cả. Nếu em không kém cỏi thì làm gì đến nỗi bị hãm ở đây.

Lương Tiêu vội an ủi:

- Đừng lo. Hoa đại thúc nhất định sẽ đến tìm chúng ta.

Nó vừa nói vừa buồn phiền nghĩ bụng, phải trách ta mới đúng. Nếu ta không chạy lung tung thì việc gì em phải theo vào đây.

Được Lương Tiêu hết lời khuyên nhủ, một lúc sau Hiểu Sương gạt nước mắt, lắc đầu phàn nàn:

- Thạch trận này chu vi đến mấy chục dặm, biến hóa quái dị, thật chẳng biết bây giờ bọn mình đang bị hãm ở chỗ nào. Kể cả bà nội, nếu không rõ nơi em đứng bà cũng không dám chạy bừa vào trận đâu.

Hai đứa vô kế khả thi, ngồi thừ ra một lúc, trong trận đột nhiên có gió nổi lên, rú rít thê thiết. Hiểu Sương bỗng rùng mình, bật ho sù sụ. Lương Tiêu hỏi:

- Đằng ấy rét à?

Hiểu Sương đáp ừ, răng đánh cầm cập. Lương Tiêu nghĩ bụng, "Gió to thì to thực, nhưng làm gì đến nỗi lạnh thế đâu." Nó choàng tay ôm cô bé vào lòng, nhận ra thân thể cô cứ lạnh dần đi thì kinh ngạc quá đỗi, lại giơ tay thăm mũi, chỉ thấy hít vào mà không thở ra, bất giác kinh sợ hỏi:

- Đằng ấy sao thế này?

Hiểu Sương ngắc ngứ qua hai hàm răng:

- Trong ngực áo.. có... thuốc.

Lương Tiêu nghe nói, vụt nhớ lại chuyện hôm nào ở Thiên Cơ biệt phủ, vội vã thò tay vào bọc cô bé, móc lấy cái bình ngọc, nghiêng bình dốc ra một viên thuốc, thuốc màu vàng nhạt, y hệt như viên thuốc ngày nọ, bèn cho cô bé uống. Hiểu Sương thở hộc, đón lấy cái bình, uống thêm một viên nữa.

- Thuốc này là thuốc gì? Lương Tiêu hỏi.

Hiểu Sương yếu ớt đáp:

- Đây là Kim Phong Ngọc Lộ hoàn, do Ngô gia gia cho em.

Lương Tiêu cau mày:

- Hiểu Sương, đằng ấy... đằng ấy bị bệnh à? Ban nãy, ban nãy... làm người ta sợ hết hồn đấy.

Hiểu Sương gượng cười:

- Không sao đâu anh, em lớn lên một cái là đã phải uống thứ thuốc này rồi, uống liên tục đến nay, hễ phát bệnh thì cứ uống vào là khỏi.

Lương Tiêu vẫn lo ngại, toan hỏi cho kỹ hơn, chợt phía xa có tiếng sáo vẳng tới, tuy chập chờn mơ hồ nhưng vẫn có thể nhận rõ được, nó sực nghĩ ra một chuyện, liền vui mừng bảo:

- Đằng ấy cứ mải tính toán đâu đâu làm tớ cũng lẩn thẩn theo. Không suy luận được thì sao không kêu toáng lên?

Hiểu Sương ngỡ ngàng đáp:

- Ừ nhỉ, sao em tối dạ thế không biết, chỉ cần hét to, cha và cô trước sau gì cũng nghe thấy.

Lương Tiêu đứng dậy cất tiếng hú. Nó còn nhỏ, sức còn yếu, nhưng hú hồi lâu, người thổi hình như cũng mang máng nghe thấy, nhịp sáo lảnh lót vút cao lên hoan hỉ. Một lát sau có tiếng xé gió, rồi một người tiêu sái lướt tới, miệng ngậm ngang cây sáo ngọc, khuôn mặt rất đẹp, vóc người dong dỏng, râu dài phất phơ, chính là Tả Nguyên, ông lão áo trắng trên đỉnh Oán Lữ hồi chiều. Hiểu Sương mừng rỡ reo:

- Nguyên công công!

Nhận ra giọng cô yếu ớt, Tả Nguyên cau mày hỏi:

- Lại phát bệnh nữa à?

Hiểu Sương gật đầu. Tả Nguyên ngần ngừ chốc lát rồi ôm lấy cô bé, không thèm liếc Lương Tiêu lấy một cái, quay ngoắt đầu đi thẳng. Lương Tiêu vội vàng bám theo, nhưng Tả Nguyên thân pháp cực cao, chỉ chớp mắt đã không thấy tăm hơi đâu nữa. Lương Tiêu sững sờ nghĩ bụng, "Lão già cố ý bỏ rơi ta ư?" Nó ấm ức vô cùng, nhưng cũng biết trận pháp hết sức cổ quái nên không dám chạy linh tinh, bèn đứng trơ ra ở đó. Một lúc sau vẫn không có ai đến, Lương Tiêu bụng bảo dạ, "Chả lẽ Hoa đại thúc và mấy người đó đã quên mình rồi? Chắc cái lão áo trắng đó căm ghét ta, cố ý vứt ta lại đây, khiến ta chết đói, mà không chết đói thì cũng buồn chán chết mất!" Bất giác không kìm được, nó ngồi xổm xuống khóc hu hu.

Rền rĩ đôi hồi thấy lòng nhẹ nhõm, Lương Tiêu gạt nước mắt, chực nhỏm dậy, bỗng thấy thấp thoáng bóng người, tức thì nó giật mình la:

- Ai?

Người kia im lìm bất động, Lương Tiêu ngước mắt trông, bất giác phì cười, thì ra trăng treo chênh chếch giữa hai ngọn núi, phớt ánh sáng qua các tượng đá, in xuống mặt đất những hình sẫm dài ngắn to nhỏ khác nhau. Lương Tiêu nhìn tượng đá một lúc, lại ngắm các bóng đổ, "Chẳng biết ai tạc lố tượng này mà giống thật thế."

Các tượng đá liên tục xê dịch, bóng đổ cũng đều đặn di chuyển như đèn kéo quân. Lương Tiêu rảnh rang đâm buồn tình, bèn ngồi chồm hỗm quan sát, thoạt tiên là một cái bóng cầm quyển sách, nghiêng mình đưa cánh tay lên tựa hồ đang ngâm ngợi thi cú, không bao lâu sau thì dịch ra xa; cái bóng thứ nhì tiến đến trước mặt nó, hai tay đánh đàng xa như đi bộ; một lát sau, cái bóng thứ ba lướt tới chỗ Lương Tiêu, vung tay nhấc chân, vẩy năm ngón tay. Lương Tiêu xem đến đây, một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc, ba cái bóng cùng nháng hiện trong đầu, rồi ngay tắp lự xâu chuỗi với nhau.

Lương Tiêu nhảy cẫng lên xuýt xoa:

- Đây chẳng phải là một chiêu võ công thì là gì?

Nó ngó sang những pho tượng khác, bỗng bàng hoàng sực hiểu, thì ra mỗi pho tượng khi giơ tay, giơ chân hoặc ngửa mặt nhìn đều chứa đựng một đường quyền rất tinh tế, phối hợp cùng nhau thì tạo thành võ công. Lương Tiêu cố hình dung mấy chiêu, cảm thấy tinh vi ảo diệu, cực kỳ lợi hại, trong lòng vô cùng ngạc nhiên.

Nguyên tám trăm pho tượng đá này là một câu đố phức tạp do tiền nhân để lại, trải qua bao tuế nguyệt vẫn đứng ở đây, mãi cho đến nay mới có người lần ra sự bí ẩn bên trong.

Hai trăm năm trước, sau khi trải qua đủ mọi truân chuyên, Thiên Cơ cung truyền được đến đời thứ bảy, cũng là thời điểm xuất hiện một kỳ tài võ học là Hoa Lưu Thủy. Người này mười bảy tuổi trở thành đệ nhất cao thủ của Thiên Cơ cung, ba mươi tuổi thì nhìn khắp giang hồ đã khó tìm ra địch thủ. Cũng tới đời ông ta, võ công Thiên Cơ cung lập riêng được thành một phái. Trong vòng năm trăm năm cho đến lúc đó, chỉ luận về võ công thì Hoa Lưu Thủy là đại cao thủ độc nhất vô nhị của Thiên Cơ cung.

Giữa thời loạn, nhà họ Hoa coi bảo tồn sách vở là nhiệm vụ của mình. Cũng vì thế, luyện võ tuy cần nhưng chỉ là thứ yếu, mọi người trong cung dồn hết sức lực vào thu lượm điển tích và xây dựng Lưỡng Nghi Ảo Trần trận. Đến năm Hoa Lưu Thủy ba mươi tuổi thì đã hoàn tất việc khơi sông mở núi, chế tạo bánh xe, trồng cây gây cỏ, chiếu theo sơ đồ thì đã đến lúc kết nối các cơ cấu bí mật, lắp đặt các cột đá di động.

Hoa Lưu Thủy võ công xuất quỷ nhập thần, song đệ tử trong cung không một ai kế thừa được y bát của ông. Ngoài mặt vẫn bình thường nhưng lòng ông thì vô cùng tiếc hận. Nhìn những cột đá vươn thẳng, bỗng nhiên ông nảy ra một ý tưởng kỳ lạ là khắc những cột đá thành tám trăm bậc thánh hiền, đồng thời đem những công phu lợi hại nhất của đời mình phổ vào tượng đá, chỉ cốt xem xem thế hệ sau có ai nhận ra chỗ ảo diệu ẩn chứa bên trong không. Nếu có người khám phá được thì tức là khả năng lĩnh ngộ của họ không kém gì ông, xứng đáng tiếp truyền y bát.

Việc điêu khắc tám trăm pho tượng đã lấy đi hầu hết sức lực của vị đại cao thủ. Lúc hoàn thành công trình, Hoa Lưu Thủy đã già lụ khụ. Nhìn đám con cháu kẻ thì nghiền ngẫm số học, kẻ thì miệt mài lao động, mấy chục năm trời không một ai nhận ra bí mật trong tượng, ông cụ như chết cả cõi lòng, nhưng bẩm tính vô cùng kiêu ngạo, đã không ai khám phá được, ông cũng không chịu gợi ý, cương quyết ôm theo bí mật đó vào quan tài, lúc hấp hối chỉ trăng trối một câu:

- Ra đố dễ, giải đố khó. Người đời sau muốn nhìn ra thâm ý của lão phu thì phải có thiên tư trác tuyệt, hoặc ít nhất phải có cơ may hơn người.

Đám con cháu nghe vậy đều không hiểu đầu cua tai nheo ra sao, cứ tưởng ông già sắp gần đất xa trời nên nói năng lẩn thẩn, vì vậy không để ý đến. Thật vậy, tám trăm pho tượng nếu chỉ nhìn thôi thì đúng là không có gì khác lạ, phải chắp nối tất cả hình dáng, tư thế của chúng mới có thể tạo thành võ công; lại cũng bởi những pho tượng này vần chuyển liên tục theo Lưỡng Nghi Ảo Trần trận nên mọi người thường chú ý đến việc nghiên cứu trận pháp, tính toán vị trí của các pho tượng chứ hoàn toàn không liên tưởng đến võ công. Mấy trăm năm rồi, chưa một ai phát hiện ra bí mật.

Lương Tiêu vốn không hiểu trận pháp, lại thêm mấy hôm nay nôn nóng báo thù nên chỉ miên man với võ công, hai là nhờ may mắn tình cờ có bóng trăng rọi xuống, hiểu ra được chỗ khéo léo hàm chứa trong đó rồi chịu khó suy luận, cứ theo cùng một phương pháp mà nhìn mãi ra, bạt ngàn tượng đá, pho nào cũng chắp thành võ công tuyệt diệu. Thằng bé rạng rỡ mặt mày, quẳng hết mọi lo phiền đi. Lưỡng Nghi Ảo Trần trận liên tục chuyển động, tám trăm pho tượng cứ đều đặn trôi qua bên cạnh nó như nước chảy, chẳng khác nào một kho báu sống về võ học, cầu gì được nấy, giúp nó lĩnh hội từng chút, từng chút một.

Lương Tiêu mê mải luyện công, thời gian trôi rất nhanh, chẳng mấy chốc đã đến chính ngọ ngày hôm sau. Thằng bé tập trung cao độ, lòng hoàn toàn không vướng bận. Chưa ra được khỏi trận, cũng chưa bị lạc lối, nhưng bụng thấy đói meo, nó sử luôn một chiêu Hàm quan hóa Hồ5, bắt chước tư thế Lão Tử khi cưỡi trâu xanh, tay này ôm ngực, tay kia chống đất, ngồi một lúc; kế đó dùng tư thế Quảng Thành Tử đảo thích đan lô6, ưỡn hông ra đá hất chân lên, rồi duỗi hai tay, lần lượt diễn tả Mặc Địch giá thê7, Lỗ Ban thác lương8; lại ngồi xổm đẩy mạnh về phía trước, mô phỏng động tác Liệt Tử9 di san, miệng ngậm, lưỡi uốn cong lên, theo đúng kiểu Hàn Phi kết thiệt10; cuối cùng bắt chước Mạnh Kha chi dũng11, ưỡn ngực thót bụng, đứng ngửa mặt lên, rất có khí khái kiểu "khó khăn nào cũng vượt qua12".

Bài Đại hiền tâm kinh này tương tự Bát đoạn cẩm13 của Đạo gia, nhưng cao minh hơn, ưu việt hơn.

Lương Tiêu đánh xong mấy lượt, hai má ướt đẫm mồ hôi, thân thể sung mãn, chân khí như hạt ngọc lăn khắp các kinh mạch, cảm giác đói ngấu dần dần tan biến. Đương khi tập luyện, chợt có tiếng bước chân vang lên, nó bèn ngoái đầu trông, nhận ra Tả Nguyên đang hí hửng tiến đến gần. Thấy Lương Tiêu ngoảnh nhìn, ông lão ngẩn người, "Vì sao nó nghe được tiếng bước chân ta?" rồi lại nghĩ, "Lão phu đa nghi đấy thôi, rõ ràng chỉ là tình cờ." Tả Nguyên đâu biết Lương Tiêu đang tu luyện tâm pháp tới ngưỡng thông hiểu hết những lẽ huyền bí ảo diệu của trận pháp, tiếng gió bay cỏ động trong vòng một trượng nó còn nắm bắt được nữa là.

Lương Tiêu nhận ra lão già, liền thu thế, lạnh lùng theo dõi. Tả Nguyên cứ tưởng nó sẽ mừng quýnh lên, van nài cầu khẩn mình một phen. Nào ngờ Lương Tiêu lãnh đạm khác hẳn suy đoán của lão, lão ngạc nhiên, nhăn mặt hỏi:

- Nhóc con, có muốn lão phu dẫn ra không?

Lương Tiêu còn căm lão hồi đêm đã vứt mình lại trong trận đá, nên bĩu môi đáp:

- Ta không ra!

Tả Nguyên đâm bực, nghĩ bụng, "Nhân lúc ở đây không có ai, ta ép thằng bé này khai thật quan hệ của nó với Tiêu Thiên Tuyệt nào." Nghĩ là làm, lão vụt thò tay chụp lấy vai Lương Tiêu.

Lương Tiêu nghe tiếng gió, lập tức sử chiêu Thủy Hoàng dương tiên14, lật tay quét ngang, thoắt một cái, đầu ngón tay chỉ còn cách hông lão già chừng nửa tấc. Chiêu xuất vừa nhanh vừa mạnh. Tả Nguyên hết sức thắc mắc, nhưng không đợi nguôi kinh ngạc, lão khua luôn cây sáo ngọc, đâm xéo vào cánh tay Lương Tiêu, trảo phải vẫn vươn ra chộp tới vai nó. Lương Tiêu chợt đổi tư thế như say rượu, loạng choạng mấy bước đã thoát khỏi trảo thủ của đối phương, cánh tay hất lên rồi chặt xuống, chiêu này tên gọi Xích tinh trảm xà, lấy từ tích truyện Hán Cao tổ Lưu Bang say rượu chém rắn trắng, nhìn qua thì chân bước nhẹ như không song thực tế sát cơ ẩn tàng.

Tả Nguyên thầm biết lợi hại, bèn lay cây sáo ngọc, điểm vào mạch môn Lương Tiêu. Lương Tiêu trừng mắt thét lớn, vừa thét vừa làm điệu bộ phi ngựa chiến, nhảy phóc lên, song trưởng múa tới trước, mũi chân đá chếch, theo đúng tư thế Võ Vương huy qua15. Thằng bé nghênh mặt ra vẻ phẫn nộ trông hết sức tức cười, nhưng tay khua chân đá thì vô cùng tinh diệu, Tả Nguyên thầm kinh ngạc, "Võ công của Tiêu Thiên Tuyệt nghiêng về lối tà dị, đâu có những chiêu số chí đại chí cương, áp đảo thiên quân thế này?" Lão càng đấu càng thấy khó hiểu. Lương Tiêu thì cứ hô hoán hò hét, liên tục sử xuất Thần Nông huy sừ16, Hiên Viên đăng nhạc17, Nghiêu trí thiên hạ18, Vũ Vương khai sơn19, Thuấn vũ can thích20, Thương Thang cầu vũ21, Thoái tị tam xá22, Vấn đỉnh trung nguyên. Tám chiêu liên tiếp đều là công phu phổ trong các pho tượng thuộc Đế Vương cảnh, gồm cương lẫn nhu, tiến thoái khó lường, ôm cái thế bao trùm vũ trụ, chứa cái hướng nuốt chửng bốn phương.

Tả Nguyên tự trọng thân phận, vốn không muốn ăn thua với một đứa trẻ nên chưa dùng đến nội lực, nào ngờ chiết liền tám chiêu mà vẫn không bắt được nó, ngược lại, thằng nhóc càng đánh càng thêm dũng mãnh, kỳ chiêu diệu chước đổ ra liên miên, lão già thấp thỏm trong lòng, một tay hóa giải chiêu Thái Tông định Đường23, tay kia giắt sáo ngọc vào thắt lưng, đánh ra một lộ Bàn Vũ chưởng, song chưởng cất lên nhẹ như lông hồng, hạ xuống vững nặng tựa Thái sơn. Lương Tiêu tiếp được hai chiêu thì đã phải thoái lui liền mười bước, bị dồn đến chân một tảng đá lớn. Nó lập cập giở ngón Tôn Quyền sát hổ hết sức cương mãnh hòng lật lại tương quan, nhưng kình lực không đủ, chiêu thức chưa trọn đã bị một chưởng của đối phương đẩy lui. Tả Nguyên cười nhạt, vung hữu chưởng nhẹ nhàng đập xuống đầu Lương Tiêu. Đúng lúc đó, chợt có người kêu lên:

- Tả lão, xin nương tay!

Tả Nguyên nhíu mày, đoạn thu chưởng lùi ra sau. Lương Tiêu giương mắt nhìn, thấy Hoa Thanh Uyên đang đứng đằng xa, nó mừng rỡ reo lên:

- Hoa đại thúc, sao bây giờ chú mới tới, làm tôi bị người ta hành hạ đến khổ!

Hoa Thanh Uyên liếc Tả Nguyên, rồi lắc đầu đáp:

- Trận pháp bao la, con lại vô cớ chạy loạn lên, tìm con đâu có dễ!

Lương Tiêu trề môi, trỏ Tả Nguyên bảo:

- Lão này hồi đêm đã tìm thấy tôi rõ ràng, nhưng cố ý không dẫn tôi ra.

Tả Nguyên chột dạ, cười nhạt bảo:

- Nói bậy nói bạ, đêm qua con bé Sương phát bệnh, ta lo mang nó ra khỏi trận nên quên bẵng ngươi. Ngoài mặt nói vậy, nhưng trong bụng lão nghĩ, "Tội vạ đều tại cái thằng ranh nhà mày, lão phu phải để mày nếm chút mùi cay đắng chứ."

Lương Tiêu cật vấn:

- Tại sao về sau lão không trở lại cứu ta? Đúng là cố ý hại ta mà.

Tả Nguyên lạnh lùng đáp:

- Thạch trận lúc nào cũng chuyển động, ta ra khỏi trận rồi muốn quay vào tìm ngươi thì phải bắt đầu lại từ đầu. Ngừng một lát, lão tiếp. Vả chăng, ban nãy ta có thổi sáo mấy lần để đánh tiếng, ngươi đâu có trả lời.

Hoa Thanh Uyên gật đầu xác nhận:

- Đúng đấy!

Lương Tiêu nghĩ bụng, "Xem chừng bọn họ có tìm ta thật. Chắc tại ta mải miết quan sát các pho tượng nên không nghe thấy." Nghĩ vậy nó hết ngờ vực, ngượng nghịu nhìn xuống, nhưng lòng bất mãn với lão già thì vẫn còn, nó bèn kéo chéo áo Hoa Thanh Uyên bảo:

- Hoa đại thúc, tôi chỉ đi theo chú thôi, không đi với lão già này nữa, đề phòng lão lại hại tôi đi lạc đường.

Hoa Thanh Uyên thấy nó để bụng như vậy, bất giác phì cười.

Ba người đi cùng nhau một quãng, Tả Nguyên chợt hỏi:

- Ranh con, ban nãy mày dùng thứ công phu gì thế?

Nghe vậy, Lương Tiêu sực hiểu Tả Nguyên chưa nắm được bí mật ảo diệu của tượng đá, nó bĩu môi tảng lời, bụng bảo dạ, "Ngươi không phải là người tốt, ta không nói cho ngươi biết đâu."

Tả Nguyên cụt hứng, mặt mày sa sầm. Ngẫm cho kỹ, lão cảm thấy võ công của Lương Tiêu dường như có cùng một gốc với nhà mình, tuy nội lực còn non yếu nhưng uy lực thì không thể xem thường, bất giác lão thấy bực bội vô cùng.

Ba người đi trong thạch trận chừng bảy tám dặm mà vẫn chưa đến tận cùng, Lương Tiêu ngấm ngầm kinh sợ, "Trận pháp này lớn phát khiếp, nếu đi lạc thì quả thực khó lòng tìm ra." Nghĩ tới những khổ sở lúc trước, trong lòng vẫn còn hãi hùng, nó nắm cứng chéo áo của Hoa Thanh Uyên, không dám bước chệch mảy may.

Đi được nửa đường, Tả Nguyên im lìm rẽ về hướng đông bắc. Vắng mặt lão, Lương Tiêu thoải mái hẳn lên, bèn tíu tít hỏi Hoa Thanh Uyên về những bí ẩn của trận pháp. Phải cái Lưỡng Nghi Ảo Trần trận đúc kết tâm huyết bảy đời nhà họ Hoa, nguyên lý hết sức xảo diệu, Hoa Thanh Uyên không thể nói cho minh bạch trong một chốc một lát, đồng thời sợ bị phân tâm mà bước sai, y đành nhắc đi nhắc lại rằng chuyện đó để sau hãy hay. Lương Tiêu ỉu xìu, đang định kể cho Hoa Thanh Uyên biết những bí mật trong thạch tượng, thấy vậy lại đổi ý, tự nhủ, "Không nói vội, để sau này ta luyện thành sẽ đem ra dùng, khiến ông ta kinh ngạc một phen." Nghĩ vậy mặt nó tươi hơn hớn, Hoa Thanh Uyên thấy thằng bé tự nhiên cười toét thì rất lấy làm lạ, nhưng y vốn rộng rãi khoan hòa, chỉ cười đáp lại mà không vặn hỏi gì cả.

Đi hơn ba dặm nữa thì ra được bên ngoài. Lương Tiêu chú mắt nhìn kỹ, đằng trước là những vách đá chất ngất vây quanh một lũng núi dài rộng cỡ vài chục dặm, có mấy ngòi nước chảy dồn về một con suối trong vắt, suối này lại nối thông hai cái hồ nhỏ, bên hồ um tùm cỏ cây hoa lá, thấp thoáng phía sau là mái cong của những lầu các đình đài. So với cảnh tượng hùng vĩ ở bên ngoài thì trong cốc này giản dị hơn nhiều, có một đài cao dựng bên hồ nước, từ trên xuống dưới và khắp bên phải bên trái đài này còn rất nhiều đồ vật quái lạ.

Lương Tiêu ngạc nhiên cùng cực, Hoa Thanh Uyên bèn dắt nó lên đài, cười bảo:

- Đây là Linh Đài, đoạn chỉ một quả cầu tròn cổ quái được đẩy xoay bằng sức nước, y giới thiệu. Đó là Hồn Thiên nghi, dùng để đo sự vận hành của tinh tú trên trời.

Lại trỏ một vật bằng đồng trông như cái vò, bên trên có tám con rồng ngậm châu, bên dưới có tám con cóc bằng đồng, y nói:

- Kia là Địa Động nghi, dùng để dự báo núi lở, sóng thần, động đất và núi lửa. Chiếc giá đồng hình tam giác bên trái nó là Lượng Thiên xích, dùng đo độ cao của núi. Cái ống tròn ở bên phải Địa Động nghi tên là Định Hải châm, đo độ sâu của sông biển, nếu dùng chung với Ba Động nghi thì bằng cách xem dòng chảy, người ta sẽ suy đoán được liệu sắp có hạn hán hay lũ lụt.

Hoa Thanh Uyên trỏ rất nhiều khí cụ và kết cấu muôn hình vạn trạng, giải thích cho Lương Tiêu nghe từng thứ một, trong đó có rất nhiều đồ vật ngộ nghĩnh, tỉ dụ như cái đồng hồ nước xứ Ba Tư nửa canh giờ lại kêu một tiếng, với hình nhân thủy ngân ca múa theo nhịp, lại có quả cầu pha lê đổ đầy thủy ngân, trên mặt cầu khắc chi chít con số, Hoa Thanh Uyên gọi nó là Âm Dương nghi, cho biết khí hậu nóng hay ấm, mát hay lạnh.

Linh Đài chứa đựng biết bao trí tuệ của các bậc trí giả và thợ khéo từ xưa đến nay. Những điều tai nghe mắt thấy ở đây vượt quá mọi sự tưởng tượng của Lương Tiêu. Lòng chứa chan khâm phục, nó không nhịn được nhảy phắt lên ngồi trên một cỗ xe đồng chỉ nam mà Hoàng Đế dùng để đánh Xuy Vưu. Xe đồng chỉ nam cứ mỗi lần điều khiển cơ quan thì có thể tự động chạy lên mấy trượng, người đồng bên phải có cánh tay luôn trỏ về hướng nam, người đồng bên trái thì vung hai tay gõ trống boong boong.

Lương Tiêu chơi một lúc xong tụt xuống xe, chợt nổi tính nghịch ngợm, nó lại nhảy tót lên Hồn Thiên nghi. Quả cầu này cao quá đầu người, bên trong có một quả cầu khác mô phỏng thiên hà, bề mặt khắc hình các sao, vị trí của mỗi sao đều ứng với vị trí thật của nó trên trời. Lương Tiêu dẫm một chân lên trục cầu, một chân đạp vào mặt cầu thiên hà, nó quay lục cục lục cục, tức thì vị trí của các sao rối tinh cả lên.

Hoa Thanh Uyên không ngăn cản kịp, còn đang bàng hoàng sửng sốt thì nghe có tiếng quát đanh gọn, một bóng người từ tầng trên lướt xuống như bay, vung tay nắm lấy Lương Tiêu ném bịch xuống đất. Thằng bé ngã nhào, mắt nổ đom đóm, nó dụi mắt, nhận ra một ông lão áo vàng, tóc bạc má hóp đang nhìn mình vẻ giận dữ. Lương Tiêu tức giận bò dậy, vung quyền thoi vào ngực lão ta. Hoa Thanh Uyên giơ tay giữ nắm đấm của nó, lễ phép nói với người kia:

- Minh lão, đều tại Thanh Uyên cả. Xin ông chớ trách nó.

Ông già áo vàng hừ mũi, không thèm liếc y lấy một cái, vẫn nhìn Lương Tiêu:

- Ngươi là ai? Sao dám khuấy tung Hồn Thiên nghi của lão phu lên? Nếu không chỉnh lại được thì đừng hòng đi xuống!

Lưng Lương Tiêu vẫn còn ê ẩm, nó cáu kỉnh bảo:

- Ta cứ không chỉnh lại đấy!

Ông già thò tay chộp Lương Tiêu lại gần, hai mắt lóe sáng. Lương Tiêu chưa kịp giãy giụa thì đã bị xách bổng lên. Ông già nói:

- Nếu ngươi không nghe, lão phu sẽ ném ngươi xuống.

Linh Đài cao chừng chục trượng, cộng thêm kình lực của ông già, dẫu Lương Tiêu có mười cái mạng thì cũng chết ngay tại chỗ. Nhưng thằng bé bẩm tính bướng bỉnh, khăng khăng thà chết không thua, nó thét:

- Ta cứ không chỉnh, ngươi không ném được ta xuống thì là đồ hèn!

Biết ông già đã nói là làm, Hoa Thanh Uyên vội nằn nì:

- Minh lão, đứa bé này nghịch ngợm, ông đừng chấp nó. Hồn Thiên nghi cứ để Thanh Uyên lo cho.

Lương Tiêu gào lên:

- Hoa đại thúc, chú việc gì phải hạ mình với lão già này?

Hoa Thanh Uyên dở khóc dở cười, nhưng vẫn nín thở tập trung tinh thần, giữ nguyên tư thế nghiêm trang cung kính, nhủ thầm, "Con à, cũng vì con cả thôi."

Ông già liếc xéo Hoa Thanh Uyên, cười nhạt bảo:

- Ngươi càng ngày càng tồi tệ, dám dẫn người ngoài vào quấy phá Linh Đài. Hừ, nếu ngươi mà làm cung chủ thì e rằng Thiên Cơ cung sẽ bị hủy hoại trong tay ngươi thôi.

Hoa Thanh Uyên đỏ bừng mặt, ấp úng đáp:

- Minh lão... Minh lão dạy phải lắm.

Ông lão lạnh lùng nhìn Hoa Thanh Uyên, ra ý khinh bỉ, rồi quẳng Lương Tiêu sang một bên, phất tay áo oai vệ bỏ đi.

Lương Tiêu lồm cồm bò dậy, chực đuổi theo, nhưng ông già đi nhanh như chớp, bóng áo vàng thoắt biến mất sau rừng hoa đỏ cây xanh. Thằng bé dậm chân càu nhàu:

- Hoa đại thúc, thế mà chú không cản đường, tôi sẽ tính sổ với lão ta.

Hoa Thanh Uyên nhăn mặt:

- Thôi, tiên sinh đó võ công cao cường lắm, đến ta đây cũng không địch nổi, huống hồ con.

Lương Tiêu hừ mũi:

- Cái chiêu lão ấy dùng để chụp tôi, tuy hơi nhanh, nhưng tôi có cách để phá. Nói đoạn nó đảo chân xuất quyền, người hơi ngửa về sau, song thủ múa lên như hái hoa, chính là chiêu Trang Chu mộng điệp, sau đó uốn mình nhảy lên, Trang Chu mộng điệp biến thành Kê khuyển thăng thiên, chiêu này bắt nguồn từ điển tích Hoài Nam vương Lưu An đời Hán24. Vẫn ở trên không, Lương Tiêu hất chân đá móc, song chưởng chém xéo xuống, chính là chiêu Hứa Thận đồ long. Hoa Thanh Uyên xem xong hai chiêu, cảm thấy biến hóa rất kỳ diệu, quả nhiên có thể khắc chế được thủ pháp của ông già vừa rồi, đến chiêu thứ ba thì phản kích càng thêm sắc bén, y lấy làm quái lạ, đợi Lương Tiêu đáp xuống rồi hỏi:

- Con biết cách phá chiêu, sao lúc đó không chống đỡ?

Lương Tiêu ngẩn người, gãi đầu lúng búng đáp:

- Tại... lão ta xuất thủ quá nhanh, tôi chưa nghĩ ra, cũng không kịp trở tay.

Hoa Thanh Uyên cười:

- Thế thì còn nói chuyện gì? Người ta thường bảo, nhanh chân thì được, chậm chân thì trượt, chiêu thức của con dẫu lợi hại cách mấy mà công lực không sánh bằng thì chỉ cần đối phương lẹ hơn, con sẽ mất cơ hội xuất thủ.

Lương Tiêu băn khoăn:

- Làm thế nào để trở nên nhanh hơn?

- Chỉ có cách cần cù khổ luyện, luyện đến một mức độ nhất định tự khắc sẽ thuần thục, muốn nhanh được nhanh, muốn chậm được chậm.

Lương Tiêu im lặng suy nghĩ, lòng thầm hạ quyết tâm, nhất định phải luyện thành công phu, sau này sẽ tóm lấy lão già đó ném văng xuống cho nát đít.

Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng sau một vụ ầm ĩ như thế, thằng bé cũng tiu nghỉu, chẳng còn lòng dạ nào mà chơi nghịch được nữa, bèn lẳng lặng theo Hoa Thanh Uyên xuống đài. Hai người đi xuyên qua một vạt rừng, đằng trước dương liễu xanh xanh ôm quanh nhà cửa, tường trắng uốn lượn chạy dài đến mấy dặm liền. Họ bước qua một khuôn cửa vuông, có mùi thơm rất lạ tràn tới, khắp nơi ngan ngát những hoa nghìn tía muôn hồng, đó đây dập dìu nào ong nào bướm.

Hai người đi xuyên qua mấy căn thủy tạ, thảng gặp tùy tùng hoặc thị nữ, họ đều mỉm cười chào hỏi Hoa Thanh Uyên, không hề có sự phân biệt chủ tớ, Lương Tiêu hâm mộ lắm, "Ai cũng quý Hoa đại thúc, nếu ta được một nửa cái tính hiền lành dễ mến của ông ấy thì tốt biết bao."

Hai người đi gần đến một ô cửa tròn, trước cửa chạm đôi câu đối, Lương Tiêu nổi hứng đọc:

- Chân...tục, à, ở giữa là những chữ gì đây? Rồi nhìn sang cột đá bên trái, nó cau mày. Điều... tâm, ơ, người này không biết viết hay sao ấy nhỉ?

Hoa Thanh Uyên nín cười bảo:

- Tiêu nhi, chữ dạng cuồng thảo thế này, không phải ai cũng viết được đâu. Ghép lại, đọc là, "Chân thủy tẩy trần tục, Thanh âm địch phàm tâm." Ừ, hàng chữ nằm ngang trên kia con có đọc được không?

Lương Tiêu đưa mắt nhìn, đoạn xướng lên:

- Tâm thủy mộc... Rồi tự biết đọc sai, nó đỏ mặt xấu hổ.

Hoa Thanh Uyên thở dài bảo:

- Đó là Cầm Tâm Thủy Tạ.

Lương Tiêu nhìn thật kỹ, nhận thấy những con chữ tự nhiên phóng khoáng, có vẻ rất hợp với tính cách mình, lại trỏ vào phần lạc khoản dưới câu đối, đọc từng chữ một:

- Lạc hồn Cuồng Sinh tửu thư.

Hoa Thanh Uyên chữa:

- Đại khái là đúng rồi đó. Nhưng không phải lạc hồn, mà là lạc phách, cũng không phải tửu thư, mà là túy thư25.

Lương Tiêu đắc ý cười đáp:

- Lạc hồn lạc phách, tửu thư túy thư gì cũng như nhau cả thôi.

Hoa Thanh Uyên mỉm cười, chợt nghe trong cửa có tiếng đàn vẳng ra, y không nói năng gì nữa, dắt Lương Tiêu bước vào ô cửa tròn.

Đi một lúc thì đến cuối nhà thủy tạ, nơi đó đặt một lò hương tử kim khói trắng nghi ngút, mùi long diên hương tràn ngập không gian. Một người đàn bà vận áo thâm đang ngồi xếp bằng, đôi tay thon trắng muốt dặt dìu trên cây dao cầm26. Hoa Mộ Dung đứng bên trái bà ta, Hoa Hiểu Sương thì đang tựa vào lòng một thiếu phụ tuyệt đẹp vận áo lam. Mọi người trông thấy Lương Tiêu, đều mỉm cười, nhưng không nói gì.

Người đàn bà chơi đàn trông chưa quá ba mươi tuổi, khuôn mặt băng giá, mắt như nước hồ thu, cao nhã diễm lệ, nói là thiên hương quốc sắc cũng không quá, tuy rằng phục sức giản dị, nhưng hình dung nghi biểu vẫn toát ra một vẻ tôn quý đài các khiến người ta ngưỡng mộ.

Tiếng đàn dạo đầu dịu dàng phiêu hốt, như phù dung dầm sương, như ngọc lan chúm chím khiến trái tim rung động. Thấy Hiểu Sương mỉm cười với mình, Lương Tiêu chực gọi chào, chợt tiếng đàn vút lên như vách đá cao vạn trượng, hiểm trở cheo leo không thể trèo tới nơi, thằng bé bỗng giật bắn mình. Người thiếu phụ nhíu mày, bịt hai tai Hiểu Sương lại. Tiếng đàn càng lúc càng lảnh lót, chạy tuốt tới cung Vũ27, chấp chới đến tận chân mây. Tơ lòng Lương Tiêu cũng bị kéo căng lên. Đột ngột, tiếng đàn chùng lại, từ đỉnh cao chót vót lăn tòm xuống vực sâu thăm thẳm, trái tim Lương Tiêu cũng rơi theo, tâm trạng tán hoán tê mê bởi hai thái cực đó.

Tiếng đàn bồi hồi một lúc ở âm vực thấp, đoạn từ từ bốc cao, thoạt tiên tí tách như mưa đổ rừng hoa, dần dần khúc đâu Hán Sở chiến trường, nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau; qua một lúc lâu, đàn trỗi lên như bình ngọc nứt vỡ, rền rĩ như sét chạy ngang trời, loáng thoáng phong lôi nổi trận bời bời, Lương Tiêu nghe mà trào sôi khí huyết, tim đập tựa trống dồn. Đúng lúc đó, tiếng đàn lại trĩu xuống, xong đổi ra trầm lắng khoan thai, gợi lòng vợ nhớ chồng, gợi lời uyên ương giã biệt, khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu, nghe ra như oán như sầu phải chăng? Cứ khoan nhặt thế một hồi, cuối cùng âm thanh lặng tắt. Mọi người bàng hoàng nhận ra, sáu dây đàn đã đứt hết tự bao giờ.

Người đàn bà áo thâm ngơ ngẩn nhìn dây đàn đứt hồi lâu, thầm nhủ, "Ly Sầu dẫn ơi Ly Sầu dẫn, đàn mãi cũng chỉ gánh lấy đau thương đứt ruột mà thôi." Bà nhói tim, đẩy dao cầm sang một bên, ngước nhìn lên, bắt gặp Lương Tiêu đầm đìa nước mắt, bà bỗng ồ một tiếng, bụng bảo dạ, "Nó còn nhỏ vậy mà cũng hiểu được tiếng đàn ư?"

Mọi người thấy Lương Tiêu giọt vắn giọt dài, thảy đều kinh ngạc. Hoa Mộ Dung hỏi:

- Vì sao ngươi khóc?

Lương Tiêu nghe hỏi bừng tỉnh, vội vàng chùi nước mắt, cao giọng đáp:

- Có ma nào khóc đâu, mắt... mắt lão tử vướng hạt bụi.

Hoa Mộ Dung cười thầm, đoạn bắt bẻ:

- Nói dối mà không biết cách, ai ở đây cũng trông thấy ngươi khóc mà.

Lương Tiêu thẹn quá hoá giận, chửi vung lên:

- Ừ ta khóc đấy! Khóc cho chết cụ cô đi!

Hoa Mộ Dung nổi giận vung quyền. Người đàn bà áo thâm mỉm cười khoát tay, cô gái đành hạ nắm đấm xuống, trừng mắt hậm hực nhìn Lương Tiêu.

Bà nọ chăm chú ngắm thằng bé, cười hỏi:

- Hiểu Sương cứ nhắc Tiêu ca ca mãi, ra là ngươi đó phải không?

Lương Tiêu liếc nhìn Hiểu Sương, gật đầu. Người đàn bà bèn vẫy tay bảo:

- Lại đây nào!

Thấy thái độ bà ta thân thiện, vả chăng mọi người không ai ngăn cản gì, Lương Tiêu bèn bước tới. Thình lình, người đàn bà vụt thò hữu thủ ra, bàn tay mềm như một cánh bướm lớn màu trắng phất vào huyệt Khúc trì nơi khuỷu tay thằng bé. Lương Tiêu không nghĩ ngợi nhiều, lập tức thi triển Đàn tự quyết trong Như Ý Ảo Ma thủ, ngửa tay co ngón lại rồi búng vào mạch môn người đàn bà. Trước đây Tiêu Thiên Tuyệt đã dùng chiêu này đâm mù mắt Vân Vạn Trình. Công lực Lương Tiêu còn non, nhưng chiêu thức rất tinh diệu, rất đáng chú ý.

Người đàn bà mỉm cười, bàn tay chấp chới như bướm lượn nhành hoa, lướt qua ngón tay Lương Tiêu, rồi xòe hai ngón trắng muốt xoáy nhẹ vào huyệt "Thiếu uyên" của thằng bé. Lương Tiêu vội thò cả tay phải ra hỗ trợ tay trái, hữu thủ sử Phong tự quyết đẩy lui hai ngón tay đó, tả thủ sử Câu tự quyết, năm ngón tay tựa bừa cào móc vào huyệt Thái dịch của người đàn bà, song cánh tay bà ta như vô hình, thoắt một cái đã thoát ra khỏi hai bàn tay thằng bé. Lương Tiêu định nhảy theo, năm ngón tay của bà nọ đã như gió phất tới ngực nó, không biết làm thế nào, Lương Tiêu đành liên tục giở Phá tự quyết, Niệp tự quyết ra chiết giải.

Hai người đứng cách nhau qua cái kệ đàn, ba bàn tay múa may chờn vờn. Người đàn bà ngồi ngay ngắn, tuy chỉ dùng một cánh tay nhưng rất bay bổng thư thái, thiên biến vạn hoá, trong khi Lương Tiêu thở hồng hộc. Chỉ trong một thời gian ngắn, hai mươi tư quyết của Như Ý Ảo Ma thủ, gồm Câu, Khuyên, Khiêu, Hoàn, Đàn, Phá, Nữu, Niết, Thôi, Nã, Huy, Phất, Tiệt, Phách, Điểm, Sáp, Niêm, Chiết, Phong, Án, Ti, Trảo, Triền, Niệp28 đều đã được Lương Tiêu lần lượt đem ra dùng hết, nhưng nó vẫn không sao thoát thân nổi. Trong thoáng chốc đã chiết giải đến trăm chiêu, cuối cùng Lương Tiêu sử Triền tự quyết, thò song thủ vặn cổ tay người đàn bà. Bà ta nhướng đôi mày thanh tú, giơ tay giật cánh khuỷu Lương Tiêu. Một luồng đại lực ồ ạt đổ sang đẩy thằng bé ngồi phệt xuống, khiến nó trượt đi hơn một trượng trên sàn đá xanh, cuối cùng lưng xô đánh bình vào lò hương tử kim. Lương Tiêu hoa mắt váng đầu, chực buột chửi, chợt nghe Hoa Thanh Uyên kêu lên với người đàn bà nọ, giọng gấp gáp:

- Mẹ!

Hết chương 16

Chú thích:

17381739 Người Trung Quốc ưa sự so sánh nhịp nhàng, có đôi có cặp. Bên cạnh Khổng Khâu (tức Khổng Tử) được tôn xưng là Văn thánh nhân, có bộ Luận Ngữ để đời thì còn Tôn Vũ (tức Tôn Tử) được xưng tụng là Võ thánh nhân, có bộ Binh pháp lưu danh thiên cổ.

17421743 Trận nhãn là hạt nhân của một trận pháp, ví dụ như mắt bão trong cơn bão, chỉ cần phá được trận nhãn thì sẽ hóa giải được cả trận pháp.

17461747 Còn gọi là Trâu Tử, người nước Tề, năm sinh năm mất chưa rõ, có thể là từ 324-250 tr. CN, sống cùng thời với Công Tôn Long, Lỗ Trọng Liên. Trâu Tử là nhân vật nổi tiếng nhất trong những người nghiên cứu kết hợp hai thuyết âm dương và ngũ hành, là người đầu tiên vận dụng thuyết âm dương ngũ hành vào giải thích các hiện tượng xã hội nói chung.

17501751 Ý là điểm nằm trúng quẻ Tốn trong trận bát quái.

17541755 Qua cửa Hàm Quan hóa người Hồ: Lão Tử "quá Hàm quan, hoá Hồ thành Phật" là một trong nhiều câu truyện liên quan đến nguồn gốc nhà Phật được lưu truyền rộng rãi ở Trung Quốc. Truyện kể Lão Tử thấy nhà Chu suy vi nên bỏ đi, lúc qua cửa Hàm Quan, quan coi cửa là Doãn Hỷ có gợi ý ông viết một thứ gì đó truyền lại, Lão Tử bèn làm cuốn Đạo Đức Kinh nổi tiếng. Truyền thuyết kể ông sống đến một trăm sáu mươi hoặc hai trăm tuổi, song le còn một thuyết khác nói ông không qua đời mà đã đến Ấn Độ, thành Phật và lập ra Phật giáo, giáo hoá dân Ấn Độ, tức là "Lão Tử hoá (thành người) Hồ". Trong Tây Du Ký, chương 52, Thái Thượng Lão Quân có nhắc về việc ông "quá quan hoá Hồ" để kể lai lịch Kim Cương trát và con yêu ở động Kim Đâu cho Tôn Ngộ Không biết. Sau đó ở một chương cũng trong Tây Du (mình quên mất chương nào rồi), để chứng tỏ địa vị của Phật giáo cao hơn Nhiên Đăng Cổ Phật, ông cũng nhắc lại với Quan Âm câu chuyện mình qua cửa Hàm Quan.

17581759 Quảng Thành Tử đá tung lò luyện đan.

17621763 Mặc Địch dựng thang mây.

17661767 Lỗ Ban ráp kèo mái.

17701771 Liệt Tử, họ Liệt, tên Khấu hoặc Ngự Khấu, người nước Trịnh (có lẽ là dưới thời Trịnh Mục Công), nhà tư tưởng đầu thời Chiến Quốc. Ông tôn sùng sự vô vi thanh tịnh trong tư tưởng, tiêu dao phiêu hốt trong hành động. Sách xưa chép ông đi mây về gió, nhằm nhấn mạnh sự tiêu sái của ông. Trên thực tế thì Liệt Tử sống vô cùng khốn quẫn. Đời sau, Trang Tử có chép rằng: Tử nhà nghèo, mặt mũi hiện vẻ đói ăn. Tuy thế ông rất có cốt cách, quan to nhà Trịnh đưa lương thực tới biếu, ông đều kiếu từ. Sở học của Liệt Tử lấy gốc từ Hoàng Đế và Lão Tử. Tác phẩm tiêu biểu của ông là Xung Hư Kinh. Truyện Ngu Công dời núi chính được thuật trong sách này.

17741775 Hàn Phi nói ngọn. Hàn Phi (tức Hàn Phi Tử), nhà tư tưởng cuối đời Chiến Quốc đầu Tần, chủ trương pháp trị. Theo Sử ký Tư Mã Thiên thì ông có tật nói ngọng, không thạo biện thuyết nhưng giỏi viết sách.

17781779 Cái dũng của Mạnh Kha. Mạnh Kha tức Mạnh Tử, là người phát dương quang đại đạo học của Khổng Tử.

17821783 Câu này nguyên là [font="ms mincho, ms 明朝, monospace"][font="pmingliu, 新細明體, serif"]雖千[font="pmingliu, 新細明體, serif"]萬人[font="pmingliu, 新細明體, serif"]吾往矣 tuy thiên vạn nhân ngô vãng hĩ (dù có khó khăn đến đâu ta cũng bền gan tiến lên phía trước), một câu của Mạnh Tử trong thiên Công Tôn Sửu (thượng), sách Mạnh Tử, phần nói về chữ dũng. Alex chưa tìm được câu dịch sát nghĩa và đượm màu cổ kính, nên tạm để như vậy. Ai có góp ý mong chỉ bảo.

17981799 Bát đoạn cẩm là sách dạy khí công dưỡng sinh trong tư thế đứng và tư thế ngồi, mỗi tư thế gồm tám nội dung vận động nên gọi là bát đoạn. Sách này chưa rõ ai là tác giả.

18021803 Thủy Hoàng phất roi.

18061807 Võ Vương khua mác.

18101811 Thần Nông vung cuốc.

18141815 Hiên Viên trèo non.

18181819 Vua Nghiêu trị nước.

18221823 Vũ Vương mở núi.

18261827 Vua Thuấn cầm khiên múa búa.

18301831 Vua Thang cầu mưa.

18341835 Lui quân chín mươi dặm. Đây nhắc chuyện con trai Tấn Hiến Công là Trùng Nhĩ, gặp nạn được Sở Thành Vương cưu mang. Sau này Trùng Nhĩ lấy lại được nước Tấn, trở thành Tấn Văn Công, khi hai nước dấy lửa binh đao, Tấn Văn Công nhớ ơn năm xưa của Sở Thành Vương, ra lệnh cho lui quân lại ba xá (một xá tương đương ba mươi dặm).

18381839 Đường Thái Tông bình định đất nước.

18421843 Theo Liệt tiên truyện, Hoài Nam vương Lưu An luyện tiên đơn xong uống, bay được lên trời. Gà chó ngó qua khe cửa, trông thấy cũng bắt chước uống và bay lên trời như chủ.

18461847 Tên cuồng sinh ngơ ngẩn viết trong khi say.

18501851 Dao cầm tức Cổ cầm của Trung Quốc, ban đầu có 5 dây: Cung - Thương - Dốc - Chủy - Vũ, sau này thêm dây Văn dây Võ nên gọi là Thất huyền cầm.

Trong tích truyện về Bá Nha gặp Tử Kỳ có nhắc đến sự ra đời của Cây đàn này như sau: Xưa vua Phục Hy thấy năm sắc sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng tới đậu ở cây, thấy ngô đồng là loại gỗ quý, hấp thụ tinh hoa của trời đất có thể chế nhạc cụ được, liền hạ cây xuống chặt làm ba khúc. Đoạn ngọn tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc tiếng quá đục mà nặng, chỉ có đoạn giữa tiếng trong, tiếng đục phân minh liền lấy để dùng. Vua đem ngâm nơi dòng nước 72 ngày xong đem phơi ra gió cho thật khô. Sau đó vua sai người thợ khéo là Lưu Tử Kỳ đẽo thành Dao cầm.

Dao Cầm dài 3 thước 6 tấc 1 phân ứng theo 361 độ chu thiên trong năm. Mặt trước rộng 8 tấc ứng với 8 tiết, mặt sau rộng 4 tấc ứng theo bốn mùa, bề dày 2 tấc ứng theo lưỡng nghi. Đàn gồm 12 phím ứng với 12 tháng trong năm, sau thêm một phím nữa ứng với tháng nhuận. Trên mắc 5 dây ngoài ứng theo ngũ hành, trong ứng với ngũ âm: Cung - Thương - Dốc - Chủy - Vũ. Đàn có sáu điều "kỵ" và bảy điều "không". Sáu điều "kỵ" là kỵ rét lớn, nắng lớn, gió lớn, tuyết rơi lớn; gặp lúc ấy người ta không dùng. Bảy điều "không" là không đàn đám tang, không đàn trong lúc lòng nhiễu loạn, không đàn trong lúc bận rộn, không đàn trong lúc thân thể không sạch, không đàn trong lúc y quan không tề chỉnh, không đàn trong lúc không đốt lò hương, không gặp được tri âm. Lại còn có thêm tám "tuyệt" là: thanh, kỳ, u, nhã, li, tráng, lu, trường. Trong tám tuyệt ấy gợi đủ cả các tình cảm, vì vậy tiếng đàn có thể đi đến tuyệt vời.

18581859 Vũ là một trong năm cung của âm nhạc cổ Trung Quốc gồm Cung - Thương - Dốc - Chủy - Vũ. Vũ là âm giai cao nhất tương đương với nốt La ngày nay.

18621863 Hai mươi tư quyết trong Như Ý Ảo Ma thủ là hai mươi tư động tác của cánh tay, bàn tay và ngón tay, gồm: móc (Câu), quây (Khuyên), khều (Khiêu), vây (Hoàn), búng (Đàn), bổ (Phá), vặn (Nữu), véo (Niết), đẩy (Thôi), nắm (Nã), khua (Huy), phẩy (Phất), chặt (Tiệt), chém (Phách), nhấn (Điểm), chọc (Sáp), tuốt (Niêm), bẻ (Chiết), khóa (Phong), ấn (Án), xé (Ti), chộp (Trảo), xoắn (Triền), vê (Niệp).

Phượng ca

Côn Luân

Dịch thuật: distantreader

Khả thị duy ngã

Chỉ có thể dựa vào chính mình

Nữ tử áo đen cười nhẹ, tay như hồ điệp xuyên hoa, nhanh nhẹn tránh khỏi chỉ lực của Lương Tiêu, hai ngón tay trắng như tuyết nhẹ nhàng điểm tới "Thiếu Uyên" huyệt của Lương Tiêu. Nó cấp tốc dùng hữu thủ sử "Phong Tự Quyết" ngăn hai ngón tay của nàng, tả thủ sử "Câu Tự Quyết", năm ngón như lưỡi bừa, móc lại nhằm huyệt "Thái Dịch" của nữ tử, nhưng cánh tay nữ tử tựa như không phải làm bằng xương thịt, chớp nhoáng đã từ giữa song thủ của nó thoát ra. Lương Tiêu toan lùi lại thì năm ngón tay của nữ tử đã nhẹ nhàng như gió nhắm vào ngực nó phẩy tới, nhưng nó không chịu kém liên tiếp sử hai chiêu "Phá Tự Quyết" và "Niệp Tự Quyết" để hóa giải.

Hai người cách xa giá đàn, ba cánh tay xoắn vào nhau. Nữ tử vẫn thản nhiên ngồi một chỗ, tuy chỉ dùng một tay nhưng phiêu hốt không chừng, thiên biến vạn hóa làm Lương Tiêu không có thì giờ để thở, nó đã dùng nhị thập tứ quyết của "Như Ý Huyễn Ma Thủ" gồm có 'câu quyển, thiêu hoàn, đạn phá, nữu niết, thôi nã, huy phất, tiệt phách, điểm sáp, niêm chiết, phong án, tê trảo, triền niệp,' sau một lúc liên tục sử ra vẫn vô phương thoát thân. Chỉ trong khoảnh khắc nó đã đánh hơn trăm chiêu, Lương Tiêu lại sử Triền Tự Quyết, song thủ nó nhắm vào cổ tay của nữ tử để vặn. Đôi mày xinh đẹp của hắc y nữ tử khẽ động, co tay lại đẩy vào khuỷu tay Lương Tiêu, nó chỉ thấy một đạo đại lực tràn tới như nước lũ, tức thì bị đẩy ra xa hơn một trượng, ngã ngồi trên nền đá xanh, lưng lại đụng vào lư hương vàng binh một cái. Lương Tiêu đầu váng mắt hoa, ngoát miệng toan mắng chửi thì chợt nghe Hoa Thanh Uyên hướng về nữ tử áo đen hấp tấp gọi: "Mẹ!"

Lương Tiêu nghe vậy thì trông nó giống như vừa nuốt vào mấy chục con nhái, miệng há ra không ngậm lại được, chỉ ngẩn ra nhìn trân trối nữ tử y phục đen. Nữ tử này đoán được nó đang nghĩ gì mỉm cười nói: "Không sai, lão thân là Hoa Vô Xuy, cung chủ Thiên Cơ cung." Lương Tiêu lấy làm lạ: "Bà... bà là bà nội của Hiểu Sương?" Hoa Vô Xuy gật đầu: "Ừ."

Lương Tiêu định thần trở lại: "Bà... bà so ra trẻ hơn nữ nhi của bà? Bà không thể già sao?" Hoa Mộ Dung nghe lời nó giống như có kim châm, muốn nhân cơ hội này để trêu chọc cô thì tức giận lắm nhưng đang có mẫu thân ở đó nên không tiện phát tác. Hoa Vô Xuy hơi rung lên vì bật cười: "Thế gian thực có tuổi thanh xuân vĩnh viễn sao? Ta bất quá tu luyện huyền công cũng có chút ít thành tựu, đại khái là so với người thường thì có trẻ hơn một ít nhưng sinh lão bệnh tử vẫn theo lẽ tự nhiên. Lẽ tự nhiên bao trùm tất cả, không có lối thoát!" Trong giọng nói tiếng cười có âm hưởng của sự cô độc triền miên bất tận, Lương Tiêu nhìn kỹ quả thấy ở đuôi mắt bà có nếp nhăn rất nhỏ khó mà nhìn thấy.

Hoa Vô Xuy nhìn Lương Tiêu một lúc bỗng nhiên nói: "Tiêu Thiên Tuyệt có ba đại đệ tử, hai nam một nữ." Câu nói này hết sức đột ngột, Lương Tiêu nghe được thì ngạc nhiên vô kể, không biết tại sao bà ta lại đề cập tới việc này, bỗng lại nghe Hoa Vô Xuy nói: "Đại đệ tử Tiêu Lãnh người Khất Đan, đồng tộc với Tiêu Thiên Tuyệt, lúc trước ở Khố Nhĩ Lí Đài, với một ngọn Hải Nhược Đao áp phục quần hùng Tây Vực, chính là đệ nhất dũng sĩ dưới trướng của Mông Ca Hãn. Nhị đệ tử Bá Nhan, là người Mông Cổ Bát Lạt Bộ, tinh thông binh pháp, kiêu dũng tuyệt luân, trợ giúp Hốt Tất Liệt bình định chư vương, là trọng thần của triều Nguyên, thống suất thiên quân vạn mã; Còn tam đệ tử là Tiêu Ngọc Linh, theo lời đồn là hậu duệ của hoàng tộc Mông Cổ."

Lương Tiêu không hiểu tại sao bà ta lại đột nhiên giải thích chuyện này, lòng cảm thấy kì quái. Lại nghe Hoa Vô Xuy mỉm cười nói: "Lúc trước ta đã dùng 'Xuyên Hoa Điệp Ảnh Thủ' đấu hơn một trăm chiêu với Tiêu Thiên Tuyệt, đối với 'Như Ý Ảo Ma Thủ' của y tuy không hiểu tâm pháp nhưng chiêu thức thì vẫn nhớ rõ. Công phu "Như Ý Ảo Ma Thủ" của ngươi tuy hỏa hầu còn thấp nhưng chiêu thức biến hóa so với Tiêu Thiên Tuyệt là một. Nếu không phải do đích truyền quyết khó đạt đến mức này. Có người nói Tiêu Thiên Tuyệt vũ công chuyên về quỉ dị, thực ra đã coi thường y. Nghe nói tam đại đệ tử của y, Tiêu Lãnh thiện về quỉ dị ngoan độc, Bá Nhan thiện về cương mãnh sắc nhọn, chỉ có Tiêu Ngọc Linh thiện về linh động phiêu dật, như ta thấy vừa rồi thủ pháp của ngươi chuyên về phiêu dật linh động, đúng là ngươi đã được Tiêu Ngọc Linh chân truyền!"

Khuôn mặt nhỏ của Lương Tiêu trắng bệt, cắn môi: "Hay lắm, bà biết nhiều điều nhỉ?" Hoa Vô Xuy cười: "Không sai, ta biết nhiều điều." Lương Tiêu lớn tiếng: "Bà cũng giống như mấy lão đầu tử không cho ta đi, đúng vậy không?" Hoa Vô Xuy cười: "Nói vậy cuối cùng là ngươi đã thừa nhận?" Lương Tiêu tuy trăm lần không muốn thừa nhận Tiêu Thiên Tuyệt là sư công nhưng đã bị mọi người nhìn thấy cả, vả lại cũng chẳng còn cách nào khác đành chu mỏ nói: "Thừa nhận thì thừa nhận." Hoa Vô Xuy cười nhẹ: "Kì thật ta không hoàn toàn biết chắc." Lương Tiêu ngẩn ra, lại nghe Hoa Vô Xuy nói: "Tam đại đệ tử của Tiêu Thiên Tuyệt tên tuổi vang dội thiên hạ không ai không biết, ta thật đã cùng Tiêu Thiên Tuyệt giao thủ, nhưng sở trường của ba đại đệ tử của y là ta tự nghĩ ra, nói Tiêu Ngọc Linh chuyên về linh động phiêu dật chẳng qua là do ta đã thấy công phu của ngươi nên mới nói như vậy!" Bà ta vừa nói đuôi mắt vừa lộ vẻ cười cười, Lương Tiêu không nhịn nỗi phải thất thanh la lên: "Bà... bà là kẻ lường gạt."

Hoa Vô Xuy cười: "Đúng vậy, chỉ nên trách ngươi quá ngu ngốc nên bị ta lừa. " Rồi bà tiếp lời: "Ngươi muốn học Thái Ất Phân Quang Kiếm sao?" Lương Tiêu buột miệng nói: "Đúng vậy. " Hoa Vô Xuy cười: "Ta có thể dạy ngươi" Lương Tiêu cả mừng: "Hay quá, đa tạ. " Hoa Vô Xuy khẽ lắc đầu, thở dài: "Bất quá... " Lương Tiêu trong lòng trầm xuống, hấp tấp hỏi: "Bất quá thế nào?" Hoa Vô Xuy thản nhiên nói: "Bất quá ngươi quá ngu dốt, dù có cố gắng cả đời cũng luyện không thành!" Lương Tiêu như bị sét đánh, kêu lên: Bà... bà nói gì... ai quá ngu dốt, ta... ta... " Nó từ nhỏ đã hay gây chuyện thị phi nên kiểu thóa mạ nào cũng đã bị chửi qua, nhưng chưa từng có ai nói nó "quá ngu dốt", mà người nói nó thông minh thì lại nhiều. Câu này của Hoa Vô Xuy, quả thực nó nằm mơ cũng không nghĩ tới. Hoa Thanh Uyên thấy vậy toan nói nhưng Hoa Vô Xuy đã xua tay, ông hơi biến sắc nhưng đành ngồi im.

Lương Tiêu trầm mặc hồi lâu rồi bất ngờ nói lớn: "Ta không ngu, chỉ cần bà dạy ta nhất định sẽ học được, chỉ cần bà hỏi một câu, ta nhất định sẽ trả lời được." Hoa Vô Xuy cười: "Tốt lắm, vậy để ta hỏi ngươi. Ừm, trước Tê Nguyệt cốc có một bức tường đá, trên mặt có khắc mười bài toán kể ra cũng không phải cực khó, ngươi mà giải được thì đúng là thông minh, ngươi muốn học món công phu gì ta sẽ dạy hết cho ngươi." Hoa Thanh Uyên và Hoa Mộ Dung nghe câu này thì há miệng cứng lưỡi, mỹ phụ áo lam cũng tròn mắt, chỉ có mình Hiểu Sương không hiểu rõ ý bà nội nên chỉ nhìn tổ mẫu với thần sắc ngớ ngẩn.

Lương Tiêu gãi đầu suy nghĩ cả hồi lâu mới hỏi: "Bài toán là cái gì?" Chúng nhân không nhìn được bật cười, Hoa Vô Xuy cũng phải mỉm cười nói với nó: "Điều đó mà cũng không biết, lại còn nói ngươi không ngu dốt ư?" Lương Tiêu trong lòng biết là mình không ngu dốt, nhưng câu đó sai lầm thế nào nó cũng không thể giải thích rõ ra được. Tâm khí nó vốn cao ngạo, không dễ dàng chịu nhận thua, liền lên tiếng đáp ứng: "Bài toán thì bài toán, ta nhất định không thua." Hoa Mộ Dung không nhịn được lên tiếng: "Cái này không phải là hơn thua, mà là..." bỗng thấy ánh mắt Hoa Vô Xuy nhìn sang, đột nhiên im bặt. Ánh mắt Hoa Vô Xuy lại xoay chuyển, vừa cười vừa nói: "Ngươi là đứa hài tử có rất nhiều đảm khí, tốt lắm, chúng ta kích chưởng làm tin, không được nuốt lời." Vừa nói lại đưa cánh tay thon trắng như ngọc ra. Lương Tiêu hăng hái, cùng bà ta kích chưởng nói: "Ai mà nuốt lời thì đúng là con chó con." Ẩn ước lại nghe Hoa Mộ Dung lầm bầm trong miệng, hình như mắng nó: "Tiểu tử không biết sống chết." Bất giác trừng mắt nhìn lại cô, trong lòng nghĩ: "Ngươi mới là không biết sống chết." Đang nghĩ tới đây thì bỗng nghe có tiếng bụng sôi ục ục. Hoa Vô Xuy nghe âm thanh này thì cười nói: "Ta quên mất ngươi đói bụng đã một đêm rồi." Bà liền gọi một thị nữ đưa Lương Tiêu đi ăn cơm.

Lương Tiêu nghênh ngang ra khỏi cửa, Hoa Mộ Dung liền kêu lên: "Mẹ..." Hoa Vô Xuy trừng mắt nhìn cô, mục quang quét sang mỹ phụ áo lam, mỹ phụ này đứng lên kéo Hoa Hiểu Sương nói: "Hiểu Sương, chúng ta về thôi." Hoa Hiểu Sương cười: "Mẹ, chúng ta cùng đi ăn cơm với Tiêu ca ca đi." Mỹ phụ áo lam thấy Lương Tiêu thô dã vô lễ thì lòng hết sức không vui, toan từ chối nhưng lại thấy Hoa Hiểu Sương đang cười tít mắt vô cùng hứng chí thì lòng bất nhẫn không muốn trái ý cô, chỉ nói: "Hay lắm."

Hoa Mộ Dung chờ cho hai người đi xa mới cau mày nói: "Mẹ, mẹ cố ý làm khó nó à? Cho dù tiểu tử đó có một trăm năm cũng không thể nghĩ đến chuyện giải cho ra 'Thiên Cơ Thập Toán'!" Hoa Thanh Uyên cũng nói: "Không sai, mười bài toán không thua gì thiên lý, đừng nói đến trong Thiên Cơ cung không ai giải được hết mà phóng mắt tìm cả thiên hạ cũng không có ai giải được." Sắc diện y đầy vẻ sầu khổ hồi lâu, cực kỳ bối rối.

Hoa Vô Xuy ngồi xếp bằng nhắm mắt, cười nhạt: "Chẳng lẽ các con muốn dạy cho nó "Thái Ất Phân Quang Kiếm" ư?" Huynh muội hai người nhìn nhau, Hoa Thanh Uyên nói: "Tính nó vốn không xấu, vả lại đã cứu mạng hài nhi." Hoa Mộ Dung cũng nói: "Đúng vậy, tuy nó cứng đầu, nhưng khi có chuyện khẩn yếu quan đầu xảy ra thì nó lại xử sự rất hợp với nhân tâm..." Nói chưa dứt lời thì Hoa Vô Xuy bỗng mở mắt ra cười nhạt: "Nếu không phải là duyên cớ đó, chỉ bằng vào chuyện nó biết công phu của Tiêu Thiên Tuyệt cũng đủ cho ta giết nó rồi, làm gì phải vòng vo với nó? Con phải biết, ngày trước Tiêu Thiên Tuyệt xông vào Quát Thương sơn, trấn thủ tại chân Thạch Trứ phong, liên tiếp đả thương lục đại cao thủ của cung ta, thúc phụ của con là Hoa Vô Tưởng đã chết yểu trong tay hắn. Hừ, nếu không nhờ có Thái Ất Phân Quang kiếm thì ai có khả năng bức hắn phải bỏ đi chứ? Ta làm sao có thể đem môn trấn cung tuyệt học để dạy lại cho truyền nhân của hắn?" Mắt bà rớm lệ, so với dáng vẻ ôn hòa nhã nhặn trước đó thì thật là một người khác biệt hoàn toàn.

Hoa Mộ Dung nói: "Cho dù là vậy, nhưng có câu: giết gà cần gì đến dao mổ trâu, mẹ hà tất phải phí công lớn lao như thế, tiểu tử đó đối với số thuật nhất khiếu bất thông, tùy tiện đưa ra một đề mục là đủ, cần gì phải dùng tới Thiên Cơ Thập Toán làm khó nó?" Hoa Vô Xuy liếc nhìn cô rồi lạnh lùng nói: "Cái này gọi là vạn vô nhất thất, nếu không đưa ra đề mục đặc biệt, con vốn không biết xấu tốt, nói không chừng lại bí mật dạy nó lừa ta thì sao?" Hoa Mộ Dung bị bà ta nói ra tâm cơ thì mặt đỏ tới mang tai. Hoa Vô Xuy nói: "Nói đến đây thôi, bây giờ ta cần phải nhập định ngay. Các con truyền lệnh xuống rằng trong cung bất kể là ai cũng không được chỉ dẫn cho tiểu tử đó một chút học vấn hoặc vũ công nào, nếu kháng lệnh thì cứ y theo cung quy mà xử trí." Bà lại nhìn sang con gái, cười nhạt nói: "Cả hai con cũng không ngoại lệ!" Nói xong nhắm mắt lại, Hoa thị huynh muội không kìm được nhìn nhau rồi song song rời khỏi Cầm Tâm thủy tạ.

Hoa Mộ Dung ra khỏi cổng tròn, nói với giọng sầu não: "Ca ca, hiện giờ mình làm sao cho phải?" Hoa Thanh Uyên than: "Mẫu thân tâm ý đã định, tuyệt không thể canh cải. Nhưng chúng ta có thể khuyên Lương Tiêu dẹp bỏ ý muốn học kiếm pháp." Hoa Mộ Dung lắc đầu: "Tiểu tử này tuy còn nhỏ nhưng tính tình cực kỳ cố chấp, chỉ sợ huynh khuyên nó không được đâu." Hoa Thanh Uyên cười khổ: "Huynh cần phải hết sức mình rồi sau đó mới an phận theo số trời." Khi quay sang hỏi một nha hoàn thì biết Lương Tiêu đã đi về Họa Mi Hiên phía tây bắc để ăn cơm, họ liền cất bước đi về phía trước.

Gần đến cổng thì họ nghe Lương Tiêu la: "Muội nhìn huynh gì vậy? Hừm, cho là cách ăn cơm của huynh không thoải mái à?" Tiếp đó họ lại nghe tiếng của Hoa Hiểu Sương: "Tiêu ca ca, anh ăn cơm kiểu gì thật kì quái!" Lương Tiêu nói: "Kì quái thế nào?" Hiểu Sương cười: "Anh dùng tay bốc, chẳng có ai khác ăn kiểu này cả mà?" Lương Tiêu cười nhạt: "Ăn kiểu này thật là thống khoái, ta không học các kiểu cách làm bộ, kiểu cách thì ta lại không ăn được." rồi lại hừm một tiếng, bỗng thích thú hỏi: "Thẩm thẩm mặc áo lam này, có phải bà là mẹ của Hiểu Sương không?"

Lại nghe giọng của mỹ phụ áo lam: "Đúng vậy! Ta họ Lăng tên là Sương Quân." Khẩu khí lãnh đạm tựa hồ có ý không vui, có lẽ vì không thích kiểu hỏi thô dã của Lương Tiêu. Lại nghe Lương Tiêu cười: "Hai người thật là giống nhau." Lăng Sương Quân đáp: "Chuyện này cũng tự nhiên thôi, ngươi không giống mẹ ngươi sao?" Lương Tiêu đáp lời: "Mẹ tôi nói tôi rất giống cha, cha tôi lại nói tôi giống mẹ, cuối cùng thì giống ai tôi cũng không biết nữa." Rồi không nghe gì nữa.

Hoa Thanh Uyên chần chừ ngoài hiên một lúc lâu, cuối cùng mới bước vào trong thì thấy Lương Tiêu đang ngồi ngẩn ra, hai mắt hơi đỏ, nó thấy y bước tới thì nhảy lên: "Hoa đại thúc, ông tới rồi tốt quá, mau đưa cháu đi xem mấy cái đề toán mệt mỏi đó đi!" Hoa Thanh Uyên bị nó hỏi như vậy, bao nhiêu ngôn từ nghĩ ra trước đó đều không nói ra được nữa, đành trì hoãn: "Cần gì phải gấp vậy? Hay là ngươi hãy nghỉ ngơi một hôm thì tốt hơn!" Lương Tiêu níu lấy áo y, kêu ầm ỹ: "Không được, không được, cháu muốn đi xem, cháu muốn đi xem." Hoa Thanh Uyên cản nó không được đành phải đưa nó đi, đi được khoảng một dặm lộ trình thì tới "Lưỡng Nghi Ảo Trần" trận, đến trước một vách đá xanh cạnh đó nói: "Ở đây rồi." Lương Tiêu thấy vách đá có khắc đủ lại dấu hiệu kì quái, cái chấm cái tròn, cái ngang cái dọc, và nhiều chữ viết nhưng nét chữ khó đọc, hàm nghĩa lại cao thâm, Lương Tiêu nhìn hết một lượt nhưng không hiểu gì cả, trên chỗ khắc văn chương lại có một khối loang lổ, lan cả vào văn tự làm nét chữ trở nên mơ hồ không rõ ràng.

Lương Tiêu nhìn một lúc lâu, khi hết còn kiên nhẫn được nữa mới hỏi: "Hoa đại thúc, mấy cái này cuối cùng là cái gì?" Hoa Thanh Uyên than: "Cái này được gọi là Thiên Cơ Thập Toán, chính là mười đề toán do các cao nhân nhiều đời trước của Thiên Cơ cung ghi lai." Lương Tiêu hỏi: "Tại sao cháu lại chẳng hiểu chút gì?" Thần sắc Hoa Thanh Uyên ảm đạm: "Tiêu nhi, ngươi nhất định phải học kiếm pháp hay sao?" Lương Tiêu gật đầu. Hoa Thanh Uyên thở dài và trầm mặc một lúc rồi nói: "Nếu ngươi hoàn toàn giải được thập đạo toán đề, ta không cản ngươi, nhưng ta chỉ sợ..." Y muốn nói lại thôi, nhìn quanh không thấy ai, liền hạ giọng nói, "Nếu ngươi có chỗ không minh bạch hãy tới Thiên Nguyên Các để tìm đọc bút kí của các toán học đại gia cổ đại, nếu vẫn không giải được thì vạn lần không nên miễn cưỡng." Lương Tiêu gật đầu nói: "Cháu nhất định giải được." Hoa Thanh Uyên chỉ biết cười khổ, vỗ vỗ lên đầu nó rồi lặng lẽ bỏ đi.

Lương Tiêu xem xét cho đến chiều, trời đã tối đen, trong đầu nó hỗn độn một mớ vẫn không ra đầu mối. Nó trở về phòng ngủ thẳng một giấc, hôm sau sáng sớm đã trở dậy, hỏi một thị nữ vị trí của Thiên Nguyên Các. Thị nữ này liền đưa nó tới trước một tòa lầu các nguy nga và nói: "Chỗ này đây. " Lương Tiêu thấy tòa Thiên Nguyên Các này chu vi hơn năm mươi trượng, cao chín tầng thì lòng kinh dị. Cô thị nữ này nói: "Trong này chứa dịch học, toán kinh, thiên văn lịch pháp. Lấy Thiên Nguyên Các làm trục chính, hướng đông thì có 'Trùng Hư Lâu', chứa cả chục vạn sách của đạo gia; Hướng tây thì có 'Ban Nhược Viện' chứa bản gốc Phật Đà kinh của Thiên Trúc, bản dịch của Trung Thổ, học thuyết và kinh điển bí mật của Thiền tông; Phương nam thì chính là 'Đại Trí Phủ' để chứa văn chương của các tác giả và kinh truyện của các triết nhân; Hướng bắc là 'Phong Tao Tiểu Trúc', trong đó là thi văn cổ kim; Tây nam là 'Xuân Thu Lư', nơi thu tàng sử tịch, đông nam là 'Dược Vương Đình', đúng như tên gọi, là nơi cất giữ sách y học từ rất xưa đến nay, bất quá thời đó Thần Nông nếm bách thảo, cả hai ngành y và nông đều tinh thông nên trong đó có cả điển tịch của nông, lâm, ngư, mục; Tây bắc là "Cửu Châu Viên', chứa bản đồ của sơn hà địa lí, tư liệu về điểu thú mọi nơi, đông bắc chính là 'Linh Đài', thu tập sơ đồ của các máy móc cơ quan trong thiên hạ và các loại mô hình, nhưng ngươi không nên đến đó vì Minh tiên sinh chăm coi chỗ đó, rất dữ và khó chịu"

Lương Tiêu đồng tình với điều này, tức tối: "Tỉ tỉ nói phải đó, Minh lão đầu này không phải là hảo nhân, trước đây đã ném ta lộn mèo, hừ, ta sớm muộn gì cũng phải báo thù" . Người thị nữ cười nói: "Nguyên lai là ngươi đã chịu khổ đầu rồi, ôi, nhưng chuyện chê bai như thế này ngươi không nên để cho người khác nghe đấy!" Lương Tiêu hừ một tiếng: "Nghe thì nghe, ta không sợ." Người thị nữ bĩu môi: "Ta chẳng hơi đâu màng đến chuyện của ngươi, ngươi có khổ thì đừng than." Lương Tiêu cười: "Ta không hề than khổ, à, tỉ tỉ tên gì, sau này ta sẽ tìm tỉ tỉ cùng chơi." Người thị nữ nói: "Được chứ, ta ở về phía tây tại phường Chúng Hương, ngươi cứ hỏi Mai Ảnh thì ai cũng biết." Cô cười khúc khích rồi bỏ đi không nói gì thêm.

Lương Tiêu vào trong các thì thấy mùi sách vở xộc lên mũi, hòa lẫn trong đó là mùi long não, sách cũ sách mới trùng trùng điệp điệp mọi nơi, sắp cao như gò đống, trong các có hai người đàn bà đang phủi bụi, họ không hề mảy may để ý đến người qua lại. Lương Tiêu nhìn đông ngó tây, tới giá sách thuận tay kéo ra một quyển. Quyển này cũ kỹ, vàng nhẻm, bìa trước đã bị hư rách, có bốn chữ "Dịch Tượng Biệt Giải." Xem qua một lúc Lương Tiêu cũng không nhận ra được văn tự trong đó, nó bèn rút ra một quyển khác mới hơn, Lương Tiêu không nhận ra trên đó có hai chữ "Tiềm Hư" nhưng lại nhận ra tại lạc khoản ba chữ "Tư Mã Quang" , nghĩ thầm: "Tư Mã Quang này là ai?" Nó nhíu mày, đầu nó to ra như cái đấu vội vàng bỏ xuống, lại kéo ra một quyển nữa, thì ra là "Thể Tích Thập Di" không rõ do ai viết, Lương Tiêu cảm thấy sách này có những biểu tượng giống như trên thạch bích, cả những kiểu chữ cũng tương tự nhưng xem xét cả nửa thời thần vẫn không tìm ra đầu mối. Nó lại kéo thêm ra quyển "Động Thủy Cửu Toán" và mặc dù các biểu tượng tuy quen mắt nhưng xem qua xem lại vẫn không có kết quả gì.

Lương Tiêu hết dạo sang hướng đông lại vòng về hướng tây thì vầng dương đã lặn về tây, tuy đã mở xem hơn hai chục quyển sách nhưng thật ra nó không hiểu được một quyển nào. Lòng nó hết sức tức tối, hận chỉ muốn phóng hỏa đốt rụi cái phòng toàn quái thư này. Nó tức giận trở về phòng, cả đêm trằn trọc buồn bực. Sáng hôm sau nó lại đi xem sách nhưng lần này vận khí nó càng tệ, toàn tìm thấy những quyển khó hiểu hơn, khoan nói tới nội dung mà ngay cả loại văn tự gì nó cũng không nhận ra.

Cứ như thế cả chục hôm, Lương Tiêu hai mắt đỏ ngầu, người gầy đét, nhiều lần đã muốn bỏ dở nhưng lại nghĩ tới cừu hận nên nó lại cố hết sức mình. Nó làm sao biết được những điển tịch này đều là tâm huyết cả đời của các vị tông sư về dịch học, các đại gia về toán học cổ chí kim, thành quả, học vấn của những đại gia này truyền lại cho đời sau đều vô cùng sâu rộng, độc bộ một thời, mọi người đều nghe tới duy chỉ là không hiểu được tận tường, tựa như một ngọn núi lớn nằm giữa không trung, Lương Tiêu đứng dưới đất nhìn lên thấy đỉnh núi mà không biết làm sao leo lên.

Chớp mắt lại thêm mấy ngày nữa trôi qua, Lương Tiêu cuối cùng cũng nghĩ ra một ít đường lối, nó lựa ra những cuốn sách cũ kỹ rách nát nhất ra, trực giác nhận ra rằng những quyển sách cũ này giải thích cho những quyển mới hơn. Tuy thực tế không hoàn toàn đúng như vậy nhưng nó từ các cuốn cổ thư đúng là đã tìm ra được không ít căn bản về toán học, chỉ có điều những cuốn này thật là cổ xưa nên văn tự cũng khó hiểu bí hiểm hơn, phần nhiều đều là cổ triện kim văn. Lương Tiêu từ nhỏ đã không thích đọc sách, tuy có thể miễn cưỡng nhận ra được vài mặt chữ nhưng làm sao có thể đọc hiểu minh bạch được những áng cổ văn này? Nhưng nó vốn tự phụ nên khi không có ai chịu dạy thì nó cũng không chịu nhún mình đi cầu xin ai. Thấm thoát thì đã mấy tháng nữa trôi qua, trong đầu nó lúc nào cũng hiện lên bảy tám cái quái đồ quái tự nhưng nếu hỏi hàm nghĩa của chúng thì nó lại không nói được.

Hôm đó Lương Tiêu xem xong nửa quyển Thiên Thư, chán nãn nhìn lên trần nhà, thần sắc ngơ ngẩn thì thoáng nghe có tiếng người hô hoán. Nó quay đầu lại nhìn thấy Hoa Hiểu Sương. Hoa Hiểu Sương thấy nó hai má gầy rộc, hai mắt vô thần, đầu tóc rối bù thì lòng cô đau xót, chụp lấy tay nó, giọng cô run rẩy: "Tiêu ca ca, huynh bệnh rồi hả?" Cô đưa tay sờ trán nó nhưng không thấy nóng tay thì mới cảm thấy an tâm: "Thật lâu không thấy huynh đâu cả, hôm qua muội nghe Mai Ảnh tỉ tỉ nói huynh ở Thiên Nguyên Các, muội vội đến tìm, gọi huynh mà huynh không để ý đến!" Lương Tiêu ồ lên một tiếng nhưng vẫn cúi đầu đọc sách, Hoa Hiểu Sương thấy nó thần tình lãnh đạm và có vẻ chán chường nên mới ngồi cạnh nó rồi nhìn đồ văn trong sách, chợt nói: "Tiêu ca ca, hóa ra là huynh đang đọc Cửu Cung Chú Sơ?"

Lương Tiêu giật mình, nhìn cô hỏi "Hiểu Sương, em đọc sách này có hiểu gì không?" Hoa Hiểu Sương gật đầu: "Trước đây em có học một ít nhưng đầu óc em thật là ngu ngốc không hiểu nhiều về toán cho nên lúc mình ở trong Lưỡng Nghi Ảo Trần trận em đã tính sai đường ra" Cô cười với vẻ xấu hổ và nói: "Nói về toán thuật thì trong Thiên Cơ cung nãi nãi là người lợi hại nhất."

Lương Tiêu suy nghĩ một lúc rồi chỉ vào trang nhất của đồ hình hỏi: "Con rùa đen này là cái gì?" Hoa Hiểu Sương đáp: "Cái này là Cửu Cung đồ, cũng gọi là Lạc Thư, trong truyền thuyết thì nơi rồng cõng đồ hình là sông Hoàng Hà, linh qui cõng đồ hình là sông Lạc Thủy, vì vậy mà cái trước gọi là hà đồ, còn cái sau gọi là lạc thư. Chính vì vậy mà Cửu Cung đồ dựa trên hình mu rùa, tám hướng đều có số, cộng lại đều ra mười lăm. " Cô dừng lại rồi tiếp: "Có người cho là Lạc Thư vốn là tổ của toán thuật, nhưng nãi nãi nói toán thuật chia ra làm hai phần xưa và nay riêng biệt. Toán thuật thời xưa có tam tổ, Hà Đồ, Lạc Thư và Ngũ Hành. Hà Đồ hóa thành bát quái, bát quái phát triễn thành sáu mươi tư quái, nhưng trong mỗi quái đều có chứa tiểu cửu cung.

Cô lại thuận tay vạch tới vạch lui rồi giải thích: "Nhưng trong cửu cung cũng chia ra âm dương và chẵn lẻ, chính ra là lấy từ nguyên tắc âm dương của hà đồ, cửu cung đồ có bốn mươi lăm phương vị, mỗi phương vị lại bao hàm cả bát quái. " Cô vừa giải thích vừa tính toán, thôi diễn đạo tương sanh của hà đồ và lạc thư, sau đó lại vạch ra hai đồ hình và giải thích, "Ngũ hành cũng có thể biến thành cửu cung, đồ hình bên tả gọi là lạc thư ngũ hành thành số, bên hữu đó gọi là lạc thư ngũ hành sanh số, từ hai số này mà cửu cung biến ra bát quái. Cứ như vậy mà tương hỗ nhau tiếp tục thôi diễn đến vô cùng... " Cô cứ từ cái dễ đưa dần tới cái khó, miệng nói tay vẽ. Lương Tiêu vốn là người cực thông minh, nghe giải thích khoảng hai thời thần dĩ nhiên hiểu không phải là ít, nó cầm quyển sách lên đọc, chỉ thấy không còn hoàn toàn không hiểu chút gì nữa, mừng đến mức xoa má rờ tai cô rồi lại đưa ra một quyển sách khác hỏi: "Còn cái này nói gì?" Hoa Hiểu Sương nhìn qua cười đáp: "Cái này cùng với cổ toán thuật rất khác, đây chính là kim toán thuật đó. Cửu Chương Toán Thuật có thể nói là gom mọi thành tựu của cổ toán thuật lại, kim toán thuật bắt nguồn từ Lưu Hướng đời Hán, Trương Hành đời Hán cùng Lưu Trung của Tào Ngụy viết ra, nhưng chân chính tự thành một phái thì phải chờ đến Tổ Xung Chi, đại gia toán học thời Bắc Triều, ông ta từ hình vuông mở rộng ra vòng tròn, tính được tỉ số vòng tròn. Sau đó trong Động Thủy Cửu Toán, có người lại từ phương pháp đó suy diễn biến hóa, vẽ hình tương hợp để tìm được những số chưa biết. Người ta nói dòng họ muội nhiều đời trước có người dùng phương pháp này để tính ra tới tầng trên thứ chín, tầng "Thiên" (tác giả: chính là toán thuật Âu châu tính lũy thừa chín của số X, có người cũng dùng cách này để giải bài toán chín ẩn số), và tầng dưới thứ chín, tầng "ám quỷ" (tương đương với căn bậc chín của X), rồi từ đó về sau tằng tổ của muội là Nguyên Mậu Công lập ra và phát triển đoạn pháp (tác giả: tương tự dùng phương trình tuyến tính của toán học đời sau để giải ra ẩn số) theo số hình chia ra, dần phát triển thành "Thiên Nguyên Chi Thuật', rồi tằng tổ mới dùng "Thiên Nguyên Thuật" biến hóa thành tứ nguyên, mới có thái âm, thái dương, thiếu dương, thiếu âm là tứ đại số. " Nói tới đây cô nhè nhẹ thở dài, yếu ớt nói "Thật là không may làm sao, phần này quá khó em không hiểu nhiều lắm. " Cô giải thích tới chỗ này thì cảm thấy chóng mặt, hơi thở khó khăn, liền tự đưa tay vào ngực áo lấy Kim Phong Ngọc Lộ hoàn ra uống một viên.

Lương Tiêu nhịn không được hỏi: "Hiểu Sương, ta vốn đã muốn hỏi muội điều này... em rốt cuộc là bị bệnh gì vậy?" Hoa Hiểu Sương lắc đầu đáp: "Muội không biết, cha mẹ cũng không nói. Thời gian đầu bệnh hết sức trầm trọng, cha và cô cô đã đem em tới Lao Sơn gặp Ngô gia gia, Ngô gia gia đúng là bậc thần y, nhưng cũng hết sức lợi hại!" Cô vừa nói vừa cười rồi tiếp: "Khi về lại thì bệnh đã đỡ hơn nhiều, nhưng thỉnh thoảng thì hay bị chóng mặt, Ngô gia gia không muốn muội phải sợ hãi nên nói là sẽ chữa lành." Nói tới đây cô hiện lên vẻ suy nghĩ rồi hỏi: "Tiêu ca ca đã từng thấy biển chưa?" Lương Tiêu lắc đầu, vẻ không hiểu, Hoa Hiểu Sương mỉm cười: "Biển thật là lớn, nhìn không thấy bờ. Có câu 'ở trên ngọn Lao Sơn nhìn mặt trời mọc trên biển mới gọi là đẹp', nhưng cô cô nói sáng sớm gió lạnh không cho em đến đó." Nói đến chỗ này cô hơi cau mày có vẻ tiếc nuối, Lương Tiêu thương hại nói: "Không sao đâu, tương lai ta sẽ đưa muội đến đó xem."

Hoa Hiểu Sương sáng mắt lên cười: "Thật chứ?" Lương Tiêu đáp: "Thật, ta sẽ không quên lời hứa mà." Vừa nói vừa dùng ngón út móc ngón út của Hiểu Sương nói: "Ngựa vàng ngựa bạc, đứa nào nói mà không làm là con chó con." Hai đứa nhỏ nhìn nhau một lúc rồi buông tay ra cùng cười, Hiểu Sương tiếp tục giảng giải, nghiễm nhiên là một cô giáo nhỏ, Lương Tiêu thì ngoan ngoãn lắng nghe, nghiễm nhiên từ một đứa nhỏ ngang bướng phá phách đã biến thành một học sinh hết sức chăm chỉ.

Từ đó trở đi Hiểu Sương mỗi ngày đều đến "Thiên Nguyên Các", Lương Tiêu có gì không hiểu đều hỏi cô. Nhưng căn bản cũng là may mắn cho nó vì những điều này không phải thật khó, Hiểu Sương vốn gia học uyên nguyên, lại biết hết phần lớn các loại cổ triện minh văn nên đều giải được cả. Hai đứa nhỏ ngôn hòa ý thuận không hề gây gỗ, cứ như thế với nhau trải qua nhiều tháng, Lương Tiêu chung qui đã minh bạch sự tình, nguyên là trong Thiên Cơ thập toán, bốn đề đầu là cổ toán thuật, sáu đề sau là kim toán thuật, cả mười đề toán đều là tuyệt đại nan đề, không đề nào lại không gây khốn đốn cho các vị trí giả cổ kim.

Lương Tiêu vốn thuộc loại người cực thông minh, bất luận kể về vũ công hay học vấn, đã không học thì thôi nhưng một khi đã nhập môn thì lại học rất nhanh, đến mức như tự trói buộc lại với vấn đề thành một khối không thể thoát ra. Thời gian trôi nhanh, thấm thoát đã hơn nửa năm. Hoa Vô Xuy vốn dĩ cho là Lương Tiêu chỉ trong vòng mười ngày nửa tháng là biết khó mà lui, nào ngờ một năm đã trôi qua nhưng tiểu tử này lại vẫn chưa bỏ đi, lòng lấy làm ngạc nhiên thêm nên âm thầm phái người theo dõi, biết được Hiểu Sương thường đến Thiên Nguyên Các để giúp nó thì không khỏi nổi cơn đại nộ. Chỉ vì Hoa Hiểu Sương tuổi nhỏ đa bệnh không thể trừng phạt chỉ cấm cô gái nhỏ này không được phép tiếp cận Lương Tiêu nửa bước. Hiểu Sương tuy buồn bã vì bị ngăn cấm nhưng biết tổ mẫu ngôn xuất như sơn nên cô cũng không biết làm gì khác hơn.

Nhưng lúc này Lương Tiêu đã thoát li khỏi cảnh giới hoàn toàn không biết gì, bước ra khỏi vùng mây mù sâu thẳm và thấy trước mắt nó là một thế giới mới mẻ, nhưng không có Hiểu Sương làm nó thấy khó khăn bất lực. Nó vốn có khiếu về toán học, chỉ cảm thấy toán thuật kỳ diệu hơn vũ công nhiều, càng khó khăn thì lại càng cần phải vượt qua, nên trong một thời gian dài nó quên hết mọi ưu phiền và giải trí chỉ chuyên tâm vào đó. Vật đổi sao dời, lại bốn năm trôi qua, Lương Tiêu y theo lời của Hiểu Sương cứ tuần tự tiệm tiến, bắt đầu từ hà đồ lạc thư mà đọc, đọc tới Quỷ Cốc Toán Kinh của Quỷ Cốc Tử đời Chiến quốc, Tôn Tử Toán Kinh của Tôn Vũ, Dịch Kinh của Trịnh Huyền, đại hiền của bao nhiêu triều đại vương bật xưa, Thái Huyền của Dương Hùng, Tiềm Hư của Tư Mã Quang, Cửu Chương Toán Thuật của đời Hán, Ngũ Tào Toán Kinh, Trương Khâu Kiến Toán Kinh, Chuế Thuật của phụ tử Tổ Xung Chi, nó tuần tự từ cổ toán thuật tiến nhập kim toán thuật, trước sau đọc hết Tập Cổ Toán Kinh, Đỗng Uyên Cửu Toán, Số Thuật Cửu Chương, Trác Viên Hải Kính, lại có cả mấy chục quyển Thiên Cơ Bút Kí của tổ tiên Thiên Cơ cung lưu lại. Nhưng Thiên Cơ Thập Toán quả nhiên vẫn nan giải, nó phải tham duyệt qua cách làm lịch, cơ quan toán học, cách thôi diễn biến hóa của trời đất, vận hành của nhật nguyệt, nguyên lí của kiến trúc cấu tạo. Chỉ vì muốn giải một điều mà nó phải đọc vô số thứ khác.

Năm thứ năm, khi tiết trời đang vừa chớm đông, mai vẫn chưa tàn lụi thì Lương Tiêu giải được đề toán thứ nhất "Thiên Địa Sanh Thành Giải", từ "Thiên Địa Dĩ Hợp Chi Vị", phản lại là "Thiên Địa Vị Hợp Chi Số", rồi tính ra tới "Thiên Địa Sanh Thành Chi Số". Tam đại số này vốn đã có đồ hình truyền lại, nhưng làm sao để phản hồi để trở về dạng nguyên thủy, biến ngược lại thành "Thiên Địa Sanh Thành Chi Sổ" thì chưa ai biết tới, nói tóm lại cũng là từ trong chánh phản biến hóa của cửu cung bát quái mà ra.

Sau khi giải xong đề số một thì Lương Tiêu giống như mũi tên bắn ra không thu lại được, liên tiếp giải luôn hai đề "Thái Huyền Lưỡng Nan", hai nan đề này xuất xứ từ Thái Huyền Kinh của Dương Hùng Đích, Trương Hành đời Hán theo căn cơ số thuật của Thái Huyền Kinh chế tạo ra "Hậu Phong Địa Động Nghi", nên phức tạp tinh thâm và hết sức khó khăn. Tháng sau nữa, Lương Tiêu giải ra luôn đề toán thứ tư "Song Thủ Thập Chỉ Đề" (Tác giả: Chính là cách chuyển đổi giữa hai hệ nhị phân và hệ thập phân của số học sau này do đại toán học gia người Đức Lai Bố Ni Tư [Leibniz] ba trăm năm sau đề xuất) ; Đề toán thứ năm là "Nhị Thập Bát Túc Chu Thiên Giải" (Tác giả: Nan đề về việc tính âm lịch). Sau đó là "Trì Hà Đồ", đây chính là toán đề về hình học, dùng Diễn Đoạn Pháp để tính thể tích của đất đá dùng để dùng trong việc trị thủy sông Hoàng Hà, sự tính toán vĩ đại không thể tưởng, Lương Tiêu phải tính toán ròng rả hơn bốn mươi ngày mới xong. Đề số bảy "Quỷ Cốc Tử Vấn" được giải nhanh chóng bằng Đóa Tích Thuật (Tác giả: Toán Học thời Tống Nguyên là phương pháp số học tinh diệu giải được số học cao cấp).

Đề số tám và chín đều thuộc về toán thiên văn, thập phần phức tạp và khó khăn, lúc này đã phải dùng đến toán học đương thời mà Thiên Nguyên Tứ Nguyên thuật đang ở ngôi vị tối cao, đề số tám là "Tử Ngọ Tuyến Chi Hoặc" phải tính ra chính xác chiều dài của tử ngọ tuyến, không những phải tính toán mà còn phải ra hiện trường để đo đạc thật là hết sức cực khổ; Đề số chín là "Nhật Biến Kì Toán", dùng Tứ Nguyên thuật để đơn giản hóa tốc độ xoay của mặt trời, nhưng sau đó khi tính lại phải vượt ra khỏi giới hạn của Tứ Nguyên biến thành Ngũ Nguyên, tính sao cũng không xong, Lương Tiêu đành phải tự mình tham ngộ, chuyên chú với đề toán này ròng rả ba tháng mới sáng tỏ, cuối cùng nó cũng đã giải tới đề số mười, "Nguyên Ngoại Chi Nguyên". Đại ý chính là muốn tìm một phương pháp giải dùng một chiều bất kỳ.

Lương Tiêu giải suốt ba tháng mà hoàn toàn không được gì, nhưng nó đã gần mức đến thì làm sao có thể cam tâm chịu thua nên liền vùi đầu ngày đêm vào việc đọc điển tịch, vừa nghiên cứu vừa tính toán. Thoáng chốc lại thêm nửa năm trôi qua, Lương Tiêu chỉ còn da bọc xương, chỉ cần dùng tí sức là tim đã đập thình thịch, hô hấp khó khăn, cuối cùng một ngày nọ nó ngã bệnh. Lúc này trong Thiên Cơ cung ai ai cũng đều biết về câu chuyện Thiên Cơ Thập Toán này, việc nó tận tâm tận lực để giải đề thì trừ Mai Ảnh là người đến để chăm sóc cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của nó ngoài ra không một ai quan tâm tới cả ngược lại chỉ chờ cho tiểu tử này biết khó mà rút lui; Lương Tiêu tâm khí cực cao ngạo, cho rằng sẽ liên tiếp giải được hết cả mười đề Thiên cơ thập toán, lại vừa biết rõ lòng người, còn một đề chưa giải xong thì nó nhất quyết không hề tiết lộ ra một tí gì, vì thế nên không một ai biết nó đã liên tiếp giải xong chín đề. Huynh muội Hoa Thanh Uyên đến thăm viếng cũng cho là nó vì tận tâm tận lực trong thời gian dài lại không được gì nên uất ức quá sinh bệnh, hai người than vắn than dài, cứ khuyên dỗ nó hoài: "Ngươi chỉ mới vừa nhập môn thì có không giải được cũng là điều phải thôi mà." Hai người không tiện nói thẳng ra là Hoa Vô Xuy đã lập kế để gạt nó, nên phải cố nói thật khéo léo. Lương Tiêu thì không hiểu ý họ chỉ nói những bài thập toán này đều có thể giải được, lòng lại canh cánh, ngay cả khi đang nằm trên giường bệnh mà trong tâm nó thì đã ngấm ngầm tiếp tục tìm cách giải.

Kì thật Thiên Cơ cung tên gọi là Thiên Cơ, lấy toán học làm căn bản của việc lập cung. Chỉ cần nhìn lầu đài của tàng thư các được xây theo hình thái cực bát quái và Thiên Nguyên Các độc chiếm vị trí thái cực cũng đủ biết cung chủ đối với toán học xem trọng như thế nào rồi.

Thiên Cơ thập toán vốn là do các đại toán học tông sư các đời của Thiên Cơ cung để lại, mặc dù trong các danh đề có cả cổ lẫn kim, nhưng phần nhiều là những đề mà các vị tông sư này khi sinh tiền không tìm ra giải pháp, khắc lại trên thạch tượng để chờ cho người đời sau giải đáp. Nhưng khi bài thứ tám được khắc lên thì cả trăm năm sau vẫn không ai giải được cho mãi đến khi "Thương Minh Thần Toán" Hoa Nguyên Mậu ra đời. Hoa Nguyên Mậu là bậc thiên sinh kì tài sau khi giải bài số tám thì lần lượt cho ra hai đề toán, đề thứ chín do chính ông ra đề và sau đó tự giải lấy. Cho tới lúc ấy, tinh hoa toán học của Hoa Nguyên Mậu phải nói là tự cổ chí kim chưa từng có ai có thể sánh bằng nhưng ông vẫn không hài lòng, nghĩ ra "Nguyên Ngoại Chi Nguyên" muốn tìm ra phương pháp giải bằng một chiều bất kỳ, vốn không phải là toán, mà là một sự tự thách đố.

Hoa Nguyên Mậu khổ tâm suy nghĩ trước thạch bích hết năm năm, hao tổn tâm huyết cuối cùng vẫn không tìm ra giải đáp cho đề toán này, sau rồi tinh khí suy kiệt hộc máu mà chết lúc mới ba mươi tám tuổi, để lại hai người con, một trai một gái, lúc này trưởng nữ Hoa Vô Xuy mới tới tuổi cập kê. Lương Tiêu lúc mới đầu thấy trên thạch bích này một khối loang lỗ màu nâu chính là do khi Hoa Nguyên Mậu khi lâm tử ói máu ra phun lên mà thành. Do các tông sư đời trước sợ rằng người đời sau đầu cơ thủ xảo nên mới che lấp đi đường lối đã qua, rồi để lại lời tổ huấn: Giải đáp được toán đề trên thạch bích, chỉ được nói ra nghĩa lý của kết quả, nhưng không được nói ra phương pháp giải. Sau khi Hoa Nguyên Mậu chết, Hoa Vô Xuy lại bắt đầu, giải được tới đề thứ tám thì gặp phải Tứ Nguyên Chi Thuật thì cảm thấy vô cùng khó khăn sâu rộng không nghĩ là tiếp tục nổi. Giả như có ai biết được Lương Tiêu liên tiếp giải luôn chín đề thì chỉ sợ là Thiên Cơ cung sẽ xảy ra một cơn trời long đất lở.

Lương Tiêu không biết điều này, lòng nặng nề, suy nghĩ đến kiệt sức, bệnh tình mỗi ngày một nặng, châm cứu uống thuốc gì cũng không hiệu quả. Chúng nhân thấy vậy chỉ cho là số nó rồi sẽ phải chịu điều bất hạnh. Hoa Hiểu Sương nghe qua lời thị nữ kể lại thì tuy không hiểu rõ ngọn ngành nhưng lại đến khóc lóc với Hoa Vô Xuy, Hoa Vô Xuy tuy thiên tính lương bạc nhưng cũng bị lương tâm cắn rứt phần nào, cuối cùng cũng bằng lòng cho Lăng Sương Quân đưa Hiểu Sương sang thăm nó. Hoa Hiểu Sương vào phòng, thấy Lương Tiêu bệnh nặng đến độ chẳng còn hình dạng, thì không nhịn được, chụp lấy tay nó mà lệ tuôn như suối, Lăng Sương Quân lòng đau xót, quay lưng đi không nỡ nhìn.

Lương Tiêu nghe tiếng khóc mở mắt nhìn thì thấy một thiếu nữ đứng trước mặt mình đang khóc lóc, nhìn một hồi lâu mới nhận ra đó là Hoa Hiểu Sương. Hai bím tóc cô đã không còn, thân thể đã cao hơn nhưng ốm yếu, mặc chiếc váy bách điệp, sắc mặt vẫn trắng xanh như xưa, ngũ quan đã thay đổi và phát triễn trở thành phân minh hơn, không còn bé nhỏ nữa. Lương Tiêu thấy cô như vậy thì gắng gượng mỉm cười, môi hơi động đậy, Hoa Hiểu Sương trố mắt nhìn, Lương Tiêu lại động môi, Hoa Hiểu Sương cố gắng nhưng cũng chỉ nghe loáng thoáng: "Hiểu Sương, đỡ ta tới cạnh thạch bích." Hoa Hiểu Sương sa nước mắt than: "Tiêu ca ca, anh vẫn phải làm toán sao?"

Lương Tiêu than: "Không có đề toán... đã không làm toán, không... toán... ta... thật không vui." Hoa Hiểu Sương không nhịn được thất thanh khóc rống lên, cô khóc hồi lâu rồi mới gạt lệ, kể lại cho Lăng Sương Quân nghe điều Lương Tiêu nói. Lăng Sương Quân tuy thấy không ổn nhưng lại không muốn trái ý con gái, phải cho người mang Lương Tiêu tới trước thạch bích. Lương Tiêu tựa vào ngực Hoa Hiểu Sương, ngơ ngẩn nhìn lên phiến thạch bích, trong lòng trống rỗng, bỗng nhiên lại sinh ra một tư tưởng: "Nếu ta được chết dưới đề toán thứ mười này thì cũng không còn gì tiếc nuối nữa." Lúc này bao nhiêu cừu hận quá khứ đều bỏ sang một bên, nó run rẩy nhặt một nhánh cây khô rồi vạch lên mặt đất. Hoa Hiểu Sương không nhịn được hỏi: "Tiêu ca ca, đề này thứ mấy?" Lương Tiêu "A" lên một tiếng: "Đề mười." Hoa Hiểu Sương ngay khi còn bé đã yếu đuối nhiều bệnh nên Hoa Vô Xuy và mọi người sợ cô quá lao tâm nên không cho cô biết toán đề này có thể làm khô kiệt tâm huyết con người, chính vì vậy cô vẫn không biết Lương Tiêu đang rơi vào hoàn cảnh lợi hại này, nghe nói vậy thì chỉ thuận miệng đáp một tiếng, nghĩ một thoáng rồi cô lại nói: "Tiêu ca ca, trên đời này có chuyện gì mà thập toàn thập mĩ đâu?"

Lương Tiêu trố mắt lắng nghe Hoa Hiểu Sương nói: "Cứ theo như chuyện thời cổ xưa, thủy thần Cộng Công bị bại trong tay hỏa thần Chúc Dung, đã giận dữ phá núi, làm trời đất từ đó trở thành méo lệch đi. Chính vì vậy mà vầng thái dương lúc nào cũng trồi ra từ hướng đông rồi trượt về hướng tây. Huynh nhìn lại xem, vầng nguyệt thường chẳng tròn, thái dương lại cũng có lúc bị chuyện thiên cẩu nuốt mặt trời xảy ra. Đó tại vì do trời đất nghiêng lệch, nhật nguyệt còn có lúc khuyết, Tiêu ca ca, trên đời này có chuyện gì mà thập toàn thập mĩ đâu?" Điều cô nói này Lương Tiêu chưa hề được nghe qua bao giờ, bất giác nó run lên.

Hoa Hiểu Sương thấy thần sắc Lương Tiêu như bị mê hoặc thì nói thêm: "Muội từ nhỏ đã có bệnh, thường vẫn hay so sánh với mọi người, thấy mình khiếm khuyết điều gì thì cảm thấy không thống khoái chút nào. Mẹ nói với em, con người... ai cũng có ít nhiều điều đáng tiếc, không thể có được tất cả những điều gì mình muốn, ngay cả hoàng đế cũng vậy thôi. Một vị lão tiên sinh thời xưa đã nói rất hay 'Đại thành nhược khuyết, kì dụng bất tế, đại doanh nhược xung, kì dụng vô cùng'. 'Tri túc thường nhạc, cầu toàn tất hủy ni!' (1) Cô lại nói tiếp 'Phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật' (2), nếu anh muốn giải đề gấp rút thì cũng giống như gió mưa của trời đất, không thể nào kéo dài mãi mãi được, Tiêu ca ca, anh không nên cố chấp như thế, hiện tại anh không giải được thì mai này anh sẽ từ từ giải ra thôi mà."

Lương Tiêu chưa bao giờ nghĩ tới đạo lí này, nghe xong mẫu thuyết thoại này của cô thì chợt đại ngộ, nhất thời ngẩn ra như si ngốc. Lúc này bỗng thấy Hoa Thanh Uyên vội vã chạy tới, sắc diện nhợt nhạt, thấy Lương Tiêu thì liền quay sang Lăng Sương Quân quát lên: "Nàng trở thành hồ đồ rồi sao? Sao lại mang nó ra đây chứ? Nàng định hại nó chết à?" Lăng Sương Quân bị chồng quát mắng thì cúi đầu nói: "Tại thiếp cả, thiếp sẽ đưa nó về lại." Hiểu Sương toan nói chen vào thì Lăng Sương Quân đã đặt tay lên miệng cô ngăn lại, rồi ngồi xuống đỡ Lương Tiêu lên, đứa tiểu đồng đứng cạnh muốn giúp nhưng bị nàng đẩy ra.

Hoa Thanh Uyên sợ hãi, ngăn nàng lại vội vã nói: "Sương Quân, thế không được, ta nhất thời đã nổi nóng." Lăng Sương Quân hai mắt đỏ lên, cười nhạt: "Bao nhiêu năm là vợ chồng, thiếp chưa từng thấy thấy chàng nóng nảy một lần..." Hoa Thanh Uyên biết nàng muốn nói gì nên vội vã: "Cũng tại ta không phải, phải đánh phải mắng gì đều tùy ở nàng, bằng không thì ta sẽ quì xuống tạ lỗi với nàng được không?" Lăng Sương Quân cắn môi, bất ngờ cao giọng: "Hoa Thanh Uyên, chàng tưởng chỉ cần mang ra bộ mặt giả nhân giả nghĩa đó là có thể bịt miệng được mọi người ư?" Hoa Thanh Uyên mặt đỏ rần, ấp úng nói không ra lời, Hoa Hiểu Sương vốn đã thương tâm vì Lương Tiêu lại thấy cha mẹ lại gây gỗ như thế thì trong lòng nôn nóng, bất giác cô thấy váng đầu chóng mặt, cơ hồ không thể đứng vững nữa, bỗng đúng lúc này thì lại nghe Lương Tiêu than dài: "Thôi, đi về thôi, ta không giải nữa." Hoa Hiểu Sương mừng rỡ, thất thanh kêu lên: "Tiêu ca ca, anh đã suy nghĩ thông suốt thật chứ?" Lương Tiêu nhắm mắt lại, một lát sau mở ra nói: "Ta đã nghĩ thông rồi, không giải nữa." Hoa Thanh Uyên nhìn nó chăm chú rồi ôm nó vào lòng, cười: "Chỉ cần cháu đã thấu hiểu thì ta có bị đánh đập la mắng gì cũng không sao." Vừa nói vừa nhìn sang Lăng Sương Quân, thấy nàng đang cau mày, ngực phập phồng thở gấp và vẫn chưa hết giận, thì chỉ biết ngoan ngoãn bồng Lương Tiêu đi trước quay về.

Một khi tâm bệnh Lương Tiêu đã không còn thì nó thuyên giảm hết sức mau lẹ, chẳng lâu sau thì nó đã có thể tự mình đi được rồi. Kì thật nó đã may mắn thoát nạn trong đường tơ kẻ tóc khi không còn phải đương đầu với đề toán "Nguyên Ngoại Chi Nguyên" này, nếu nó theo đường lối của Thiên Nguyên Tứ Nguyên để thôi diễn thì căn bản là không thể giải được đề toán độc đáo này, vì tới hơn bốn trăm năm sau, nước Pháp Lan Tây ở tây phương mới xuất hiện một bậc toán học kì tài, dùng toán thuật tây phương làm nền tảng, thử qua các phương pháp khác rồi cuối cùng mới giải được, nhưng cũng chỉ là giải ra trên nguyên lý chứ không phải đã tính ra bằng số, nếu dùng sức một người thì không thể được vì phải tốn cả mấy trăm năm cũng không tính xong, phải mượn tới cơ giới để trợ lực mới làm được điều này. Hoa Nguyên Mậu là kì tài một đời đành phải chịu chết một cách oan uổng.

Lại thêm ba bốn tháng nữa trôi qua, Lương Tiêu đã bình phục phần lớn, thầm nghĩ: "Mấy năm qua ta chỉ nghiên cứu toán học còn vũ công thì hoàn toàn để cho hoang phế, chỉ sợ cho đến hết đời cũng không bằng Tiêu Thiên Tuyệt." Nó không giải xong Thiên Cơ Thập Toán dĩ nhiên không thể nghĩ đến chuyện học Thái Ất Phân Quang Kiếm, hà huống đã kích chưởng làm tin nên dù Hoa Vô Xuy có nguyện ý truyền thụ nó cũng không mặt mũi nào để học, nghĩ như vậy thì lòng nó sinh ra thê lương: "Ta đã làm hết sức mình nhưng thiên tư ta chỉ tới mức này, mong cha ta ở chốn hoàng tuyền đừng quở trách. Ôi, ta tự nghĩ mình không phải ngu ngốc, vô luận đề toán nào viết trên đó, từ đầu cho tới đề mục áp chót, chín toán đề đó đều khó khăn phi thường, nhưng ta cũng đã nhất nhất giải xong hết. Theo chuyện này mà nói thì đệ thập đạo toán đề căn bản không có cách giải. Hiểu Sương đã nói đúng, trên đời này không có việc gì là thập toàn."

Gần đây Hoa Thanh Uyên lúc đầu thường đến thăm nó, nhưng đến rồi đi rất vội vã, thần sắc lo âu, dường như có nhiều tâm sự. Sau khi Lương Tiêu đã khá hơn thì ông ta ít đến. Còn Hoa Hiểu Sương sau ngày đó thì không thấy tới lần nào. Lương Tiêu ngơ ngẩn hai ngày, cảm thấy tịch mịch và phiền muộn nên nảy ra ý nghĩ muốn đi dạo. Những năm tháng của nó ở đây chỉ biết tới lui có Thiên Nguyên Các và tấm thạch bích, còn các địa phương khác không hề biết tới.

Khi bước ra khỏi phòng, Lương Tiêu vì tâm thần lơ đễnh nên thần xui quỷ khiến thế nào không biết lại đến trước thạch bích, nó bật cười đưa tay vỗ vào thạch bích: "Chung qui ta vẫn không thể quên được. Bất quá Hiểu Sương đã nói đúng, hiện tại ta không giải được thì ngày sau chả lẽ ta lại không giải được sao? Giả như ta đã chết đi, thì ngay cả ngày sau cũng chẳng có." Nó nghĩ ra điều này thì trong lòng khoát nhiên được khai sáng, chợt đưa mắt nhìn thấy từ xa là Lưỡng Nghi Ảo Trần trận đang vận chuyển không ngừng thì động tâm: "Năm ấy ta bị vây khốn trong trận, phải chịu mặc người đặt để. Bây giờ ta đã thông hiểu chu thiên vạn tượng, âm dương dịch lí, có còn sẽ bị vây khốn nữa chăng?" Nghĩ tới đây thì nó lại muốn thử, bèn xem xét kỹ lưỡng trận pháp cho đến khi đã thấy rõ hết mới bước vào trận, giống như đi dạo chơi nơi khoáng dã, tới lui tùy ý, lòng thích thú vui sướng khôn xiết.

Nó nhìn thạch tượng xung quanh, nhớ lại đêm ấy đã sở ngộ được vũ công. Những năm sau này trừ những lúc hiếm hoi ngồi tĩnh tọa luyện khí ngoài ra nó không hề rèn luyện, hơn nữa nó học chỉ một đêm, hiểu công phu của chừng trăm thạch tượng, số còn lại thì không đủ thì giờ tìm hiểu. Nó liền đưa tay duỗi chân, luyện môn "Đại Hiền Tâm Kinh" ngày trước, nào ngờ chỉ luyện được khoảnh khắc thì bất ngờ như có điện chớp lửa xẹt, nó nhận thức ra được những điều kì diệu trước đây chưa hề biết tới, cảm xúc này làm nó sửng sờ hồi lâu, nhìn lại thạch tượng, thì thấy rằng những gì nó lãnh hội được bây giờ so với trước đây cao minh hơn gấp mười lần.

Kì thực đạo lý thập phần đơn giản, vũ công của Thiên Cơ cung dùng số thuật làm nền tảng, mặc dù Hoa Lưu Thủy vũ công lợi hại, nhưng vẫn không thể thoát li khỏi căn cơ này. Nếu như Hoa Nguyên Mậu đã phát hiện ra bí mật của các thạch tượng tất nhiên đã trở thành một nhất đại cao thủ, chỉ vì ông say mê với toán học và đối với vũ công thiếu phần hứng thú, nhưng chính vì vậy mới lưu lại được cho đời sau nhiều môn toán pháp tinh diệu. Lương Tiêu giả như không hiểu thấu được pháp ý này của Hoa Lưu Thủy thì làm sao có đủ tài năng để giải ra được cửu đạo toán đề trong vòng năm năm ngắn ngủi như thế được.

Lương Tiêu càng suy tưởng càng phát giác ra các thạch tượng này ảo diệu vô cùng, tức thì chìm đắm đam mê, ngày ngày ở trong trận pháp để tham thấu vũ công của các thạch tượng.

Thấp thoáng đã mấy mùa trăng trôi qua, Lương Tiêu cứ theo tám trăm pho tượng thánh hiền luyện cho đến khi hết sạch, hốt nhiên phát giác ra nguyên lai thạch trận có điều ảo diệu khác, chỉ nhìn thạch tượng thì giữa tượng này và tượng kia luôn luôn có một chút không quán thông, nhưng đợi cho đến khi các thạch tượng vào đúng phương vị trong trận pháp thì lại biến hóa dung nhập vũ công vào trong, tiền chiêu hậu thức liền lạc như áo trời không thấy đường kim, phát huy cực đại uy lực. Nó phát hiện ra được chỗ này thì đối với sự trí xảo của vị tiền bối lập tượng nó thực sự bội phục hết chỗ nói.

Lưỡng Nghi Ảo Trần trận do Thiên Cơ Tam Luân thôi chuyển, cũng từ đó mà sinh ra Cửu Bàn Chuyển Pháp, thay nhau biến hóa, Lương Tiêu từ sự vận chuyển này của trận pháp, biến hóa thành một kiểu thân pháp mới. Nó tập luyện bộ thân pháp này được khoảng chục hôm thì một ngày nọ khi nó bước tới một bước, hốt nhiên lại nghĩ: "Một bước này giống như biến hóa của cửu cung, so ra còn xảo diệu hơn." Nghĩ rồi nó lại bước thêm, có bao giờ nó dám nghĩ đoạn đường bốn bước này lại do chính nó bước ra, thật là một sự đại chấn kinh. Hốt nhiên nó đã nghĩ ra một môn công phu mới.

Thuở thơ ấu Lương Tiêu tuy hư đốn ngang bướng nhưng trí nhớ cực tốt, chuyện gì qua tai nó là không bao giờ quên, một ngày nọ, Lương Văn Tĩnh giảng thuật tinh nghĩa của "Tam Tài Quy Nguyên Chưởng" , Lương Tiêu không muốn nghe nhưng cũng nhớ được gần hết, bây giờ nó ráng nhớ lại cũng được hai ba thành. Ngày ấy nó nghe phụ thân giảng giải hoàn toàn không hiểu gì, lúc này chỉ cần nghĩ sơ qua thì đã thấy tình huống có nhiều tư vị vô cùng, nó liền vạch lên mặt đất cửu cung đồ, y theo lời dạy Văn Tĩnh thôi diễn cả nửa thời thần thì nghĩ ra được sự ảo diệu của "Tam Tam Bộ" ; Nhiên hậu nó dùng "Tam Tam Bộ" làm nền tảng, theo đó thôi diễn ra "Tứ Tứ Bộ" , "Mai Hoa Bộ" , "Thiên Cương Bộ" , "Đại Diễn Bộ" , "Phục Hi Bộ" , rồi tiến thẳng cho tới "Cửu Cửu Quy Nguyên Bộ" , lúc này đã tới cùng, Lương Tiêu kinh hãi nghĩ thầm: "Thiên hạ không ngờ lại có bộ pháp này, so với thạch trận thì thân pháp này tựa hồ như lợi hại hơn một ít, đáng tiếc ta tuy hiểu rõ nghĩa lí nhưng công lực lại thiển bạc không thể thi triễn" Cửu Cửu Quy Nguyên Bộ "cho đến nơi đến chốn."

Nó giải được tới đây chỉ thấy trong lòng thư giãn vui sướng, hứng khởi chạy ra khỏi thạch trận, thấy khói nước mênh mông, vài chiếc thiên lí thuyền lượn lờ trên mặt hồ, đang tung lưới bắt cá, những thuyền nhân vô tư và nhàn nhã đang cùng nhau xướng họa ca lên những thi từ, tiếng ca bay bỗng thanh thoát như xuyên thủng tầng mây, phá nát không gian, âm hưởng vang vọng khắp mặt hồ.

Lương Tiêu lắng nghe hồi lâu rồi ngẫng đầu nhìn hai vách đá. Chỉ thấy trên vách núi hai hàng chữ lớn vẫn y nhiên như cũ: "Hoành tận hư không, thiên tượng địa lí vô nhất khả thị nhi khả thị giả duy ngã. Thụ tận lai kiếp, hà đồ lạc thư vô nhất khả cứ nhi khả cứ giả giai không." Lương Tiêu trong lòng ngâm đi ngâm lại vài lần, hốt nhiên hiểu ra: "Cái gọi là 'thụ tận lai kiếp', nghĩa là chết là hết, tương lai là điều không ai hiểu được. 'Hà đồ Lạc thư' nghĩa là bói toán tiên tri đều là mộng tưởng; Cái gọi là 'hoành tận hư không' tức là nói đến trên trời dưới đất biến hóa thay đổi rất nhiều, chẳng có sự vật nào có thể dựa vào một cách chân chính, thủy chung có thể dựa vào chính là chỉ có bản thân mình. Cái 'thụ tận lai kiếp, hoành tận hư không', bất quá muốn nói: 'Tiêu Thiên Tuyệt tuy nhìn giống như ta không thể đánh thắng, nhưng tương lai vị tất không có khả năng ta sẽ hơn hắn, nhưng chìa khóa để thắng hắn không phải ở người khác mà ở chính ta. Thật đáng tiếc năm năm qua của ta, chỉ muốn học kiếm pháp của người khác, hăng hái dán cái mặt nóng vào cái mông đít lạnh. Hà, chả lẽ ta không thể dựa vào khả năng của chính mình, luyện tập đến mức có thể đả bại vũ công của Tiêu Thiên Tuyệt sao?'" Nghĩ thông suốt đạo lí này, nó bỗng nhiên thấy được một cảnh giới mới mẻ, liền phát sinh hào khí và không nhịn được cười lên ha hả. Nghe tràng cười này mới biết giọng nó đã khàn đi không ít, rờ mép thì thấy đầy lông tơ đâm vào tay, nguyên lai năm năm trôi qua lúc nào nó không hay, thằng bé trong lứa tuổi thơ ngày nào nay đã trưởng thành nên một thiếu niên anh tuấn.

---------------------------

"trong truyền thuyết thì nơi hoàng long cầm theo bản đồ bay lên gọi là sông Hoàng Hà, nơi rùa thần lấy lại bản đồ lặn xuống gọi là sông Lạc Thủy": theo truyền thuyết thì vua Phục Hy nhìn thấy tượng đã của con Long Mã ở bên bờ sông Hoàng Hà, trên lưng nó có vằn như đồ hình, ông ta căn cứ vào đó để tạo ra Bát quái, nền tảng của Dịch học lưu truyền đến bây giờ, gọi là Hà đồ. Đời vua Vũ nhìn thấy tượng đã con Linh Qui bên bờ sông Lạc Thủy, trên lưng có đồ hình, liền từ đó sắp đặt thứ tự thành 9 loại, là số của trời đất, gọi là Lạc Thư. Bát quái chắc mọi người biết rồi, còn Lạc Thư hay còn gọi là Cửu Cung đồ thì như sau:

4 9 2

3 5 7

8 1 6

khi ở trên lưng Linh Qui thì đầu đội 9; chân đạp 1; sườn trái 3; hông phải 7; vai mang 2/ 4; chân đi 6/8

"ông ta từ hình vuông mở rộng ra vòng tròn, tính được tỉ số vòng tròn. Sau đó trong Động Thủy Cửu Toán, có người lại từ phương pháp đó suy diễn biến hóa, vẽ hình tương hợp để tìm được những số chưa biết": đoạn này nói về cách tính số Pi. Từ xưa (và có lẽ cả hiện nay) người ta tính số Pi bằng cách lấy một n-giác đều, tính chu vi (n x độ dài một cạnh) rồi chia cho độ dài đường chéo để lấy tỉ lệ. Khi n tăng đến vô cùng thì n-giác đều biến thành đường tròn, và tỉ số trên biến thành số Pi thực. Tổ Xung Chi bắt đầu việc này bằng hình vuông, tức là n = 4. Sau đó có người phát triển với n lớn hơn, qua đó tính được số Pi chính xác hơn.

"tính ra tới tầng trên thứ chín, tầng "Thiên" (tác giả: chính là toán thuật Âu châu tính lũy thừa chín của số X, có người cũng dùng nhầm cách này để giải bài toán chín ẩn số), và tầng dưới thứ chín, tầng "ám quỷ" (tương đương với căn bậc chín của X) ": cái này tớ cũng không rõ lắm. Mũ 9 của X thì cứ nhân lên là được, còn căn bậc 9 của X thì hiện nay hình như dùng logarit để tính, có lẽ thời cổ tính bằng cách dò dần giống như cách tính số Pi nói trên.

"dần phát triển thành "Thiên Nguyên Chi Thuật', rồi tằng tổ mới dùng "Thiên Nguyên Thuật" biến hóa thành tứ nguyên, mới có thái âm, thái dương, thiếu dương, thiếu âm là tứ đại số": có lẽ ở đây nói đến phương trình tuyến tính (phương trình một biến) bậc 4 đối xứng qua trục tung, phương trình loại này có 4 nghiệm đối xứng, hai âm hai dương (-x2 < -x1 < 0 < x1 < x2) nên gọi là thái âm, thiếu âm, thiếu dương, thái dương chăng?

Theo bạn trongnghiabk: hiện nay có nhiều cách tính số pi độ chính xác cao, giả sử như công thức Leibnitz về chuỗi pi/4 = 1 - 1/3 + 1/5 - 1/7 +... hay công thức tính tích phân trong đọan (0,1) của f (x) = 1/ (1+x^2) bằng giá trị pi/4...

Cách tính số pi thời cũ huynh giải thích bị sai (có thể ko rõ), thật ra là vẽ hình tròn bán kinh 1, sau đó vẽ 2 hình đa giác đều nội tiếp và ngọai tiếp hình tròn. Chu vi đường tròn bằng trung bình của 2 chu vi đa giác, mở rộng ra đa giác có số cạnh càng lớn thì độ chính xác của chu vi hình tròn càng cao. Từ chu vi hình tròn chia cho đường kính hình tròn ta được số pi.

Theo như đệ nghĩ đề tóan thứ 10 "Nguyên Ngoại Chi Nguyên". Đại ý chính là muốn tìm một phương pháp giải dùng một chiều bất kỳ, biến hóa từ "Thiên Nguyên Chi Thuật" và tứ nguyên, đây đều là cách giải phương trình, pt tuyến tính đến pp bậc 4 và Nguyên Ngọai chi nguyên có thể là cách giải bất kỳ phương trình nào.

theo như giới thiệu thì ông này sử dụng đọan pháp để giải phương trình rất giống với cách giải hiện nay của máy tính, giới hạn dần phạm vi của nghiệm phương trình, thu hẹp khỏang cách nghiệm càng ngày càng nhỏ (cách này có trong bộ môn Phương pháp tính mà đệ quên mất rồi), số phép tính càng cao thì nghiệm càng chính xác.

Bằng cách này thì máy tính có thể giải được mọi pt cấp thấp, trừ những bài vô nghiệm.)

(1) Tạm dịch:

'Đại thành giống như thiếu, dùng hoài không hoại, đầy tràn giống như rỗng, dùng hoài không hết.'

'Biết đủ thì vui hoài, cầu toàn sẽ hư mất!'

(2) Tạm dịch:

'gió (lốc) không khi nào thổi suốt cả buổi sáng, mưa (rào) không khi nào trút suốt cả ngày'

Phượng ca

Côn Luân

Dịch thuật: distantreader

BIẾN KHỞI TIÊU TƯỜNG

Biến cố phát sinh, nội bộ lục đục

Lương Tiêu tâm tình chấn động, thầm nghĩ: "Ta không giải được Thiên Cơ thập toán, lưu lại nơi này cũng chỉ để người ta chê cười." Y vừa nảy lòng muốn bỏ đi, lại thầm nghĩ: "Hiểu Sương tấm lòng rất tốt, năm đó sợ quấy rầy ta nghiên cứu toán học nên không đến gặp ta nữa, không biết quái bệnh của cô ấy bây giờ thế nào? Ta nếu bỏ đi, không biết đến khi nào mới được gặp lại cô, người khác không gặp cũng được, nhưng nhất định phải tới chào Hiểu Sương và Hoa đại thúc mới được." Nghĩ vậy, liền đến gặp Mai Ảnh hỏi cho rõ, biết được Hoa Hiểu Sương ngụ tại "U thiện uyển" ở phía nam, y nghiên cứu toán học đã lâu, bản tính đã trở nên trầm tĩnh hơn rất nhiều chứ không còn khinh phù vội vã như lúc còn nhỏ nữa, nhớ Hoa Hiểu Sương thích sạch sẽ, liền tắm rửa, tìm một bộ quần áo sạch sẽ thay vào, sau eo lưng đeo lệch một thanh bảo kiếm, kiểm tra lại một lượt rồi mới đi tìm cô.

Không lâu sau đã đến ngoài "U thiện uyển", liền thấy trước cửa dựng một cái bia bằng hán ngọc trắng, phía trên khắc hai dòng chữ thảo phóng túng: "Khúc kính thông u xử, thiện phong hoa mộc thâm" (Lối nhỏ vào chốn vắng, thiền phòng hoa cỏ dầy). Từng chữ đều như rồng bay phượng múa, phiêu dật bất phàm, nhìn đến phần lạc khoản thì lại là Lạc phách cuồng sinh. Lương Tiêu nhìn đến khoan khoái, bất giác thầm nghĩ: "Chữ viết của người này thật siêu thoát, tên lại gọi là Cuồng sinh, tưởng tất phải là một nhân vật cực kì tiêu sái hào phóng, không hiểu có còn sống trên đời hay không? Nếu có cơ hội, quả thực muốn được cùng quen biết với ông ta."

Thiên Cơ cung lấy núi xây nhà nên cây cối, khối đá đẹp đẽ có ở khắp nơi, U thiện uyển này lại càng đẹp đẽ, cây cỏ núi non cao vút, trong rừng có một lối nhỏ đi lát đá, uốn lượn không ngừng. Lương Tiêu đi được một lúc thì thấy một tòa tiểu lâu, tiến đến gần có thể thấy tấm biển đề bốn chữ khải "Thính vũ linh phong" (Lắng gió nghe mưa), bất giác nghĩ thầm: "Hiểu Sương ở đây sao?" Đúng lúc đang suy nghĩ, bỗng nghe trên lầu truyền lại một tiếng rên, Lương Tiêu nghe đã quen, đúng là thanh âm của Hoa Hiểu Sương, bất giác trong lòng kinh hãi: "Dường như trên lầu có kẻ xấu." Y định phá cửa tiến vào, nhưng lại sợ kinh động đối phương, để mất tiên cơ, liền tung mình nhảy lên mái ngói, tiến đến cửa sổ, chưa kịp đứng vững lại thì tiếp tục nghe trong lầu truyền ra tiếng rên nho nhỏ. Lương Tiêu đổi ý, nhẹ nhàng chọc thủng giấy dán cửa sổ, liền ngửi thấy mùi thảo dược nồng nặc bay ra. Định thần nhìn lại, chỉ thấy Hoa Hiểu Sương đang ngồi xếp bằng, ngồi phía sau cô là một lão đầu vừa lùn vừa béo, cả người toàn thịt, cổ tròn như một quả bóng. Chỉ thấy ông ta hai mắt trợn tròn, đôi râu chữ bát màu xám dựng lên, thần sắc có vẻ mười phần khẩn trương. Bên phải đặt vài chục cái bồn bạc nhỏ, trong đó đổ đầy một chất thuốc lỏng màu lục, bên trái đặt một cái hỏa lò hình vuông, trên lò đặt một cái lưới bằng tơ đồng tím, trên võng có đủ loại kim châm lớn nhỏ, bị lửa bên dưới nung nóng, phát ra ánh sáng hồng hồng.

Lão đầu béo ú xuất thủ như điện, đột nhiên cầm lên một cái kim châm hồng rực, tẩm vào một cái bồn thuốc rồi châm vào huyệt "Phong Phủ" của Hoa Hiểu Sương, năm ngón tay nhè nhẹ vê kim châm. Hoa Hiểu Sương vừa được châm vào liền rên lên một tiếng, lông mày run lên, hiển nhiên mười phần thống khổ.

Lương Tiêu nhìn thấy vậy trong lòng run lên, nộ khí xông lên tới đỉnh đầu, không kịp nghĩ kĩ, bình một tiếng phá cửa sổ lao vào, tới trước mặt lão đầu béo phì đá ra một cước, lão đầu đó đang toàn thần vê kim châm, không ngờ lại có một cước phóng đến, lập tức biến thành một quả cầu da, bị đá lăn long lóc ra xa trên mặt đất.

Lương Tiêu không cần biết ông ta sống hay chết, quay người định nhổ hết kim châm trên lưng Hoa Hiểu Sương, không ngờ tay y chưa kịp tới gần thì quyền phong đã nổi lên rồi trên mặt bị giáng cho một quyền. Lương Tiêu lảo đảo ngã xuống đất, đảo mắt nhìn lại thì thấy chính là lão đầu béo ú đó, tức thì giận dữ gầm lên một tiếng xông tới, đúng lúc định xuất quyền thì đột nhiên Hiểu Sương ngoảnh mặt qua, giọng hư nhược nói:

- Tiêu ca ca, không được động thủ ...

Lương Tiêu giật mình, lại thấy lão đầu mập đó hai mắt trương lên giận dữ, thần sắc quả thật vô cùng tức giận, nhưng không ngờ lại hầm hừ ngồi xuống, không nhanh không chậm, tay lại vê kim châm. Sau khi vê đủ cả năm ngón tay, lão đầu mập liền rút kim châm ra, lại lấy một cái kim châm đỏ rực khác, tẩm vào một cái bồn thuốc màu vàng nhạt rồi châm vào "Đại chuy huyệt" của Hiểu Sương, lần châm này cực nhanh, chỉ vê một cái rồi rút ra ngay, cứ như vậy lúc nhanh lúc chậm, không lâu sau đã châm hết các yếu huyệt toàn thân Hiểu Sương.

Lương Tiêu thấy lão đầu mập này nhận huyệt hạ châm cực kì chuẩn xác, bình sinh chưa từng thấy, lại nhớ lời Hiểu Sương lúc nãy nên không dám động thủ tiếp, nhất thời ngẩn người ra đứng ở đó. Lúc này, Lăng Sương Quân nghe tiếng động trên lầu liền vén rèm đi vào, thấy Lương Tiêu nắm quyền trừng mắt đứng bên cạnh, bất giác sắc mặt đột biến, trầm giọng nói:

- Qua đây.

Lương Tiêu hơi do dự rồi đi qua, Lăng Sương Quân kéo y ra khỏi phòng, mục quang chớp động, gằn giọng hỏi:

- Ngươi đến đây làm gì?

Lương Tiêu thật thà nói:

- Tôi đến gặp Hiểu Sương.

Lăng Sương Quân nhíu chặt mày, trong lòng cực kì tức giận:

- Ngươi là một đứa tiểu tử thô dã, nếu đến tìn người, tại sao không quang minh chính đại mà đến, lại phá cửa sổ nhảy vào, chút nữa làm hỏng đại sự.

Lại nghe Lương Tiêu hỏi:

- Lão đầu mập đó ở đây làm gì?

Lăng Sương Quân phất tay áo vẻ không nhẫn nại được, nói:

- Ngô tiên sinh chính là đang dùng "Viêm dương bách thảo tỏa hồn châm" chữa bệnh cho Hiểu Sương.

Rồi lại kéo Lương Tiêu nói:

- Xuống lầu rồi nói.

Xuống đến dưới lầu, Lương Tiêu lại hỏi:

- Thẩm thẩm, cuối cùng là Hiểu Sương bị bệnh gì?

Lăng Sương Quân nhìn y, trong lòng cười lạnh nhưng không trả lời. Lương Tiêu đang định truy vấn, bỗng nghe có tiếng người bước xuống lầu lộp cộp, rồi lão đầu béo đó lao vọt xuống, hai mắt trợn trừng nhìn Lương Tiêu. Lăng Sương Quân quay sang Lương Tiêu nói:

- Ngươi mau đến ra mắt, đây là "Ác Hoa Đà" Ngô Thường Thanh, Ngô tiên sinh.

Lương Tiêu đã biết ông ta là đại phu trị bệnh cho Hiểu Sương, oán hận với ông ta hoàn toàn tiêu tan, lại sinh hảo cảm, liền dạ một tiếng rồi cung cung kính kính gọi một tiếng:

- Ngô tiên sinh.

Ngô Thường Thanh hai mắt trợn lên, quát:

- Về gặp mẹ ngươi đi.

Tay vung quyền đánh vào ngực Lương Tiêu, Lương Tiêu vội đưa hai tay ra trước ngực đỡ quyền. Ngô Thường Thanh một quyền không trúng, tức thì nổi giận, vừa chửi mắng vừa huy quyền, chiêu thức tuy không tinh diệu nhưng khí lực thì mười phần trầm trọng, Lương Tiêu quấy nhiễu ông ta trị bệnh, trong lòng hổ thẹn nên không dám hoàn thủ, chỉ biết chống đỡ, chưa hết mười chiêu đã trúng ba quyền, quyền kình xâm nhập vào người đau đớn tới tận tim gan. Lùi lại một lúc, lưng đã chạm vào tường, không nhẫn nại được nữa kêu lên:

- Lão béo chết tiệt, úi a, ông còn đánh... còn đánh nữa thì ta phải hoàn thủ đấy.

- Tốt lắm - Ngô Thường Thanh lùi lại một bước, trợn tròn mắt cao giọng nói - lão tử xem ngươi hoàn thủ thế nào?

Nói xong, cánh mũi đột nhiên máy động, mắt lộ vẻ vui mừng kêu lớn:

- Thế nào? Thế nào?

Bỗng nghe Lăng Sương Quân ở trên lầu cười nói:

- Ngô tiên sinh, ông thử đoán xem.

Ngô Thường Thanh nhắm mắt, lắc đầu suy nghĩ một lúc, đột nhiên vỗ tay cười nói:

- Đúng rồi, đúng rồi, tiểu đoàn long. Ha ha, tiểu đoàn long.

Hiển nhiên không thèm nhìn tới Lương Tiêu nữa, thân người tròn trùng trục như quả cầu da nháy mắt đã lăn lên lầu. Lương Tiêu trong lòng lo lắng cho Hiểu Sương, đành nhẫn nhịn theo lên lầu, đã thấy ba người đang ngồi quanh một cái bếp lửa hình tròn, trước mặt mỗi người đều có một cái chén bằng gốm đỏ. Trên bếp lò có một cái ấm bằng đồng đang sôi, Hiểu Sương dựa vào người mẫu thân, tay mân mê một cái chén trà vuông chừng hai thốn, nước trà rướm thành từng sợi nhỏ chảy ra tay cô, nhỏ tong tong vào cái chén bằng gốm đỏ. Lăng Sương Quân cầm cái ấm bằng đồng lên, rót nước sôi ra, nước sôi vào chén gốm tỏa thành từng vòng nhỏ, hương trà tỏa khắp trên lầu, hòa lẫn với mùi thảo dược.

Hiểu Sương thấy Lương Tiêu liền vui mừng gọi một tiếng, Ngô Thường Thanh hơi ngạc nhiên, nhìn Lương Tiêu nhíu mày nói:

- Ngươi là Lương Tiêu mà Hiểu Sương thường thường nói đến ư ...

Đúng lúc đó hương trà thoảng qua mũi, hấp dẫn vô cùng, không nhịn được quên mất những lời định nói, quay lại thấy trước mặt chén gốm bốc lên khí trắng, liền xoa tay liên tục, bộ dạng thèm thuồng đến nhỏ dãi. Lương Tiêu trong lòng vô cùng kinh hãi ngạc nhiên: "Không phải là uống trà sao? Sao lại kì quái như vậy?" Lại trừng mắt nhìn lão đầu nghĩ "Chẳng lẽ lão béo này vô cùng nghèo khổ, không có tiền mua trà?" Bỗng nghe Hiểu Sương cười nói:

- Tiêu ca ca, anh thấy khí trắng đó giống cái gì không?

Lương Tiêu định thần nhìn lại, quả thật thấy khí trắng từ chén trà bốc lên tụ lại trong không trung không tan đi, hình dáng giống như một con bạch hạc đang vươn cổ giương cánh, cứ bay lên hết lại tụ tập lại thành hình, bất giác ngạc nhiên nói:

- Quái thật.

Hiểu Sương cười nói:

- Quái là phải, đó là "Cô hạc ngọc tuyền" chỉ có ở Tê Nguyệt cốc, chất nước vô cùng hoàn mĩ, có thể xưng là thiên hạ vô đối, lại dùng để pha với "Tiểu đoàn long", quả thực là ...

Ngô Thường Thanh giơ ngón tay cái, ngoác miệng cười nói:

- Là cử thế vô song, ha ha, cử thế vô song.

Nói xong tít mắt cười, vui mừng không thể tưởng được. Hiểu Sương đưa chén trà trong tay cho Lương Tiêu, Lăng Sương Quân liền đưa một cái chén gốm đỏ đến trước mặt Lương Tiêu. Lương Tiêu ngạc nhiên hỏi:

- Cái này để làm gì.

Hoa Hiểu Sương yên nhiên nói:

- Cái này gọi là "Phân trà", anh cứ bỏ một ít trà vào trong chén, rồi mẹ sẽ rót nước sôi vào.

Lương Tiêu ồ lên một tiếng, tiện tay lấy một nửa số trà bỏ vào chén, Ngô Thường Thanh tức giận nói:

- Ngươi tưởng là ăn cơm sao? Bỏ nhiều như vậy, không sợ bị trời phạt ư?

Nói xong lộ vẻ đau khổ, lấy lại một ít trà dư. Lương Tiêu không kìm được kêu lớn:

- Đây không phải là trà sao? Lấy nhiều lấy ít thì có gì quan trọng?

Ngô Thường Thanh hai mắt trắng dã, tức giận nói:

- Ngươi là đứa trẻ con thì biết gì?

Rồi vô cùng cẩn thận bỏ số trà vừa lấy lại đang cầm trong tay xuống, nói:

- "Tiểu đoàn long" này lấy từ Phúc Kiến, chính là cực phẩm về trà, dù một nhúm nhỏ cũng đáng giá trăm lượng vàng, vốn chỉ cung cấp cho hoàng cung đại nội. Hiện giờ muốn có được trà này cũng không dễ dàng, dù có là hoàng đế lão tử có được cũng phải cực kì quý trọng. Nghe nói đại quan của trong Xu mật viện, Trung thư tỉnh và hoàng đế của Nam Giao cũng chỉ có được bốn chén, bốn người ngồi uống còn phải tranh nhau. Vì vậy trong phép "Phân trà" này thì "Tiểu đoàn long" là chỗ mấu chốt, có người còn viết thơ để ca ngợi chỗ tinh diệu của Phân trà đó.

Ông ta nói đến chỗ đắc ý, hai mắt vốn nhỏ liền híp lại thành hai đường nhỏ, lắc đầu quầy quậy nói:

- Phân như phách như hành thái không, ảnh lạc hàn giang năng vạn biến. Ngân bình thủ hạ nhưng khào cao, chú thang tác tự thế phiếu đào.

(Tạm dịch: Cuốn quýt như hoa giữa từng không, rơi xuống sông lạnh hóa vạn biến. Tay hạ bình bạc luôn vui sướng, rót nước ngâm thơ tựa giấy đào)

Lương Tiêu nghe ông ta nói vui tai, liền uống một hớp. Ngô Thường Thanh lườm y cười nói:

- Tư vị thế nào?

Lương Tiêu tuy thấy tư vị cũng không tệ nhưng bĩu môi cố ý nói:

- Uống chẳng ngon chút nào, chẳng khác gì nước đái ngựa.

Ngô Thường Thanh mắt nhỏ trợn trừng, gầm lên như sấm:

- Thối lắm, thối lắm, miệng ngươi chỉ phù hợp với phân trâu, nước đái ngựa thôi.

Nói xong liền vung tay đoạt lại chén trà của Lương Tiêu, đổ lại vào trong bình. Lương Tiêu nổi giận, định đứng dậy, nhưng nhìn Hiểu Sương lại đành nhẫn nại ngồi đó, cười lớn nói:

- Ngô tiên sinh, tôi không thường uống trà, hiện tại muốn biết lại tư vị của nó, có thể cho tôi uống một hớp nữa không?

Ngô Thường Thanh liếc y một cái, cười nhạt nói:

- Muốn uống ư? Hừ, bằng vào câu ngươi nói lúc nãy, lão phu một hớp cũng không cho ngươi uống.

Một tay liền bưng miệng bình trà, đề phòng Lương Tiêu trộm uống.

Lương Tiêu đầy ngực tức giận, nhưng chỉ biết tức giận chứ không dám nói gì, Hoa Hiểu Sương che miệng cười một trận, lấy một chén đưa cho y, mỉm cười nói:

- Tiêu ca ca, uống của muội cũng được.

Lương Tiêu tiếp lấy, chầm chậm uống hai hớp, cảm thấy thanh khiết ngon miệng, sự tức giận trong lòng bỗng tan biến mất như làn khói.

Bốn người cứ thế ngồi thưởng trà, không ai nói gì, Ngô Thường Thanh cách uống thật sự cổ quái, mỗi hớp trà nhất định phải nhắm mắt lắc đầu, mê đắm một lúc, thở phào một hơi, lại hớp thêm ngụm khác. Lương Tiêu cảm thấy buồn chán, liền hỏi:

- Hoa đại thúc đi đâu rồi?

Lăng Sương Quân không muốn nói chuyện với hắn lắm, nghe vậy thì nhạt nhẽo trả lời:

- Giờ ngọ hôm nay là "Khai Thiên Đại Điển" nên ông ấy đang rất bận rộn.

Lương Tiêu ngạc nhiên nói:

- Khai Thiên Đại Điển?

Lăng Sương Quân khẽ nhíu mày nói:

- Ngươi không biết sao?

Lương Tiêu cảm thấy mờ mịt, những ngày này hắn chỉ lo luyện công, đối với việc trong cung thì chẳng biết gì cả, hơn nữa mọi người cũng chẳng ai đoái hoài tới hắn, việc lớn nhỏ nào cũng chẳng nói với hắn. Bỗng nghe Hoa Hiểu Sương nói:

- Tiêu ca ca, như chính cái tên đã nói lên, Khai Thiên Đại Điển là đại lễ để khai mở trời xanh, tái sinh vạn vật, cũng là đại lễ bỏ cái cũ để lập nên cái mới.

Lương Tiêu nửa hiểu nửa không, đúng lúc định hỏi thêm thì chợt đằng xa vang lên tiếng đồng hồ nước của Ba Tư, liên tiếp kêu liền ba tiếng. Một thị nữ bước vào bẩm:

- Phu nhân, tiểu thư, Ngô tiên sinh, Cung chủ mời các vị qua bên đó.

Lăng Sương Quân khẽ gật đầu, kéo tay Hiểu Sương nói:

- Ngô tiên sinh, đã đến giờ, chúng ta đi thôi.

Ngô Thường Thanh cười hắc hắc đáp:

- Thong thả, thong thả, các người cứ đi trước một bước, lão phu phải uống xong trà, hắc hắc, trà ngon như thế này, làm sao bỏ phí được?

Lăng Sương Quân biết lão già này tuy y thuật thần thông nhưng lại coi trà như tính mạng, lúc này vạn lần không thể bỏ "Tiểu đoàn long" xuống được, đành cười nói:

- Vậy cũng được.

Bà lại nhìn qua Lương Tiêu, thầm nghĩ:

- Tên tiểu tử này chẳng hiểu lễ số, cực kì đáng ghét, đại lễ trịnh trọng như vậy mà để hắn đến, nói không chừng sẽ phá quấy, như vậy chẳng những có gì hay mà còn sẽ rất bất lợi.

Nghĩ vậy liền tỏ ra quên mất, không gọi hắn mà tự mình kéo Hoa Hiểu Sương đi luôn. Bà đi rất nhanh, Hoa Hiểu Sương chỉ kịp quay đầu nhìn lại một cái thì đã đi khuất đằng sau cánh cửa.

Trong phòng chỉ còn lại Lương Tiêu và Ngô Thường Thanh, không có Hoa Hiểu Sương, Lương Tiêu trong lòng buồn bã như mất đi cái gì, cúi đầu xuống uống hết trà trong chén, không gây tiếng động nào. Ngô Thường Thanh uống trà một lúc nữa, bỗng liếc mắt qua hắn hỏi:

- Tiểu tử, ngươi không muốn đến Khai Thiên Đại Điển sao?

Lương Tiêu lắc đầu đáp:

- Chẳng ai gọi tôi cả, tôi đến làm gì?

Ngô Thường Thanh cười nhạt nói:

- Tiểu tử nhà ngươi đúng là một cục đá nhơ bẩn, vừa thối vừa cứng.

Lương Tiêu mỉa mai lại:

- Lão béo nhà ngươi, đích thị là con giòi trắng nhơ bẩn, vừa thối vừa béo.

Ngô Trường Thanh đang thưởng thức trà vị, nghe hắn nói thì khẩu vị đảo lộn, nhổ cả trà ra chén, giận dữ nói:

- Tên tiểu tử hỗn láo, ngươi không biết nói gì khác sao?

Lương Tiêu đáp:

- Là do ông chửi người trước.

Ngô Thường Thanh nhìn hắn, không động thủ mà chỉ cười lạnh nói:

- Tiểu tử nhà ngươi cũng có khí phách, không giống như lũ phàm phu tục tử, chỉ biết nghe mắng mà không dám nói lại.

Lương Tiêu đáp:

- Phàm phu tục tử thì có gì không tốt chứ? Đồ ăn uống của ông không phải tất cả đều là từ những phàm phu tục tử mà ra sao?

Ngô Thường Thanh ngơ ngác, không biết cách nào để phản bác hắn, đành phải đánh trống lảng, cười lạnh nói:

- Hừ, Hiểu Sương thường nói với ta về tên tiểu tử vô lại nhà ngươi, mỗi lần nói tới ngươi đều thập phần cao hứng.

Lương Tiêu trong lòng ấm lên, vui vẻ nói:

- Cái đó là tất nhiên, ta và cô ấy là bằng hữu cực tốt mà.

Ngô Thường Thanh lần đầu tiên mỉm cười nhẹ nhàng, gật đầu nói:

- Như thế thì tốt, sau này ngươi thường đến ngồi đây, chọc cho con bé vui, đối với bệnh của nó sẽ cực kì có lợi.

Lương Tiêu ngơ ngác, trầm giọng hỏi:

- Ngô tiên sinh, Hiểu Sương rốt cuộc bị bệnh gì?

Ngô Trường Thanh hớp một ngụm trà, nhìn lên mái ngói một lúc lâu rồi lạnh lẽo nói:

- Căn bệnh này gọi là "Cửu Âm Tuyệt Mạch", thiên sinh âm khí quá nhiều, dương khí yếu nhược. Âm hàn độc khí tích tụ trong cửu đại âm mạch, lúc nào cũng có thể lấy đi tính mạng của nó.

Lương Tiêu nghe đến câu cuối cùng, kinh hãi đến mức nhảy dựng lên, thất thanh hỏi?

- Ông nói sao? Cô ấy tại sao lại sinh ra chứng bệnh kì quái đó à?

Ngô Trường Thanh tuy dễ nóng giận nhưng vốn là một người thẳng thắn, không thích dối lừa, nghe Lương Tiêu hỏi vậy thì tùy tiện nói:

- Điều này phải nói từ lúc mang thai, năm đó mẹ nó bị trúng một chưởng chí âm chí hàn của người ta, khi đưa đến chỗ ta thì chỉ còn thoi thóp thở. Lão phu kiểm tra mạch môn, phát giác bà ấy không những có hàn độc mà còn có dấu hiệu mang thai vài tháng.

Nói đến đây, ông ta nhíu chặt đôi mày, thở dài nói:

- Nếu biết sẽ như hiện giờ, lão phu đã chỉ cứu người mẹ, không cứu thai nhi, để khỏi tạo ra tội nghiệt. Lúc đó ta hỏi tên tiểu tử Hoa Thanh Uyên có nên cứu thai nhi hay không, hắn bụng dạ mềm yếu, ngay lập tức nhờ ta cứu cả hai. Lão phu là nhân vật nào chứ, đương nhiên sẽ không nói ra là không cứu được, nhưng cũng tự biết là muốn việc này lưỡng toàn kì mĩ thì cực kì khó khăn miễn cưỡng, đành đem hết bản lĩnh toàn thân ra, ôi, cuối cùng cũng bảo vệ được tính mạng hai mẹ con họ, giải quyết được một vấn đề tưởng chừng không thể giải quyết của y đạo, nhưng không ngờ tàn dư âm độc lại tụ vào trong người thai nhi, hình thành "Cửu Âm Tuyệt Mạch".

Ông nói đến đây đột nhiên cau mày giận dữ, vỗ đùi chửi lớn:

- Xui xẻo, con mẹ nó thật là xui xẻo.

Lương Tiêu lòng như lửa đốt, nóng nảy hỏi:

- Tiên sinh y thuật cao minh, thế nào cũng có thể chữa khỏi cho cô ấy đúng không?

Ngô Thường Thanh mặt tối sầm lại, trừng trừng nhìn hắn, chầm chậm hớp một ngụm trà rồi từ từ nói:

- Âm độc đó có từ lúc hoài thai, ngoan cố không chịu tiêu tan. Hơn mười năm nay, lão phu dùng đủ mọi cách, sử dụng vô số dược vật nhằm giúp con bé dịch kinh tẩy tủy, khu trừ hàn độc, nhưng cũng chỉ đủ để duy trì tính mệnh cho nó. Ôi! Lão phu trị bệnh xưa nay có đầu có đuôi, nó đã sinh ra trên đời này thì lão phu một ngày chưa chết còn phải cứu nó một ngày, ngoại trừ cách đó thì chẳng còn cách nào khác.

Lương Tiêu nghe vậy ngẩn người ra, bỗng nhướng mày cao giọng nói:

- Lão béo chết tiệt, ông lừa dối người ta!

Ngô Thường Thanh vỗ đùi giận dữ nói:

- Ta mà lừa tên thối tha nhà ngươi, lừa ngươi thì sẽ không thể uống trà nữa!

Lương Tiêu thấy bộ dạng ông ta như vậy, biết rằng lời vừa rồi là không giả dối, trong lòng như đổ vỡ, thầm than thở:

- Tại sao trên thế gian này, người tốt đều bạc mệnh, gia gia vốn là người lương thiện lại phải chết không minh bạch, Hiểu Sương đối tốt xử tốt với người, trên người lại mắc phải tuyệt chứng, chẳng lẽ ông trời muốn người tốt chết hết cả sao?

Hắn càng nghĩ càng tức giận, đột nhiên xuất một chưởng, chưởng này tích đầy uất phẫn, cơ hồ dùng hết toàn lực, chỉ nghe một tiếng lách cách rất to vang lên, vách tường bên của tiểu lâu đã bị đánh thủng, vụn gỗ văng ra, bụi bay tứ phía, rơi cả vào chén trà bằng gốm tím. Ngô Thường Thanh bất chấp trà nóng bỏng tay, vội lấy tay che lên miệng chén gốm, giận dữ nói:

- Tiểu tử thối, ngươi điên à? Bị điên à?

Lương Tiêu trố mắt nhìn bàn tay mình, hơi giật mình. Nguyên lai hắn ta ngày nào cũng tập võ học của thạch trận cùng với võ công Hắc Thủy, thời gian tuy ngắn ngủi nhưng nội công vẫn đại tiến, có điều hắn vốn đang trong lúc trầm mê nên không biết điều đó.

Đang ngây người ra, Ngô Thường Thanh bỗng đứng lên, tát hắn một cái vào mặt, la lớn:

- Thằng điên, ngươi uống nhầm thuốc à?

Lương Tiêu đau đến đầu váng mắt hoa, liền từ từ tỉnh ra, nhưng lại không trả đòn được, trong lòng nhất thời bực bội vô cùng. Ngô Thường Thanh đã chế xong một lần nước trà, kể từ nước thứ hai trở đi tư vị giảm sút nhiều, lại nghĩ đến lúc nãy có bụi rơi vào trà, ông ta quí trà như mạng, nhất thì tức giận vô bì, trừng trừng nhìn Lương Tiêu râu dựng cả lên.

Hai người bốn mắt đối nhau như hai con gà chọi một lúc, Lương Tiêu cố lắm mới giữ được bình tĩnh, đột nhiên nhớ lại một chuyện, hỏi:

- Ngô tiên sinh, ông có nghe qua thuần dương thiết hạp (cái hộp sắt thuần dương) chưa?

Ngô Trường Thanh chưa hết tức giận nói:

- Có nghe qua, thì sao?

Lương Tiêu nói:

- Tôi nghe người ta nói, trong thiết hạp có kim đơn bùa lửa của Lã Đồng Tân, có thể cứu người chết sống lại, khiến xương trắng tái sinh, không bệnh nào không chữa được, thoát thai hoán cốt. Tần Bá Phù để lấy được cái hộp sắt này đã phải đánh một trận quyết liệt với đại hòa thượng. Ngô tiên sinh, không biết sách thuốc bùa lửa gì gì đó có thể chữa được bệnh của Hiểu Sương hay không?

Ngô Thường Thanh vuốt râu cười nhạt, đợi Lương Tiêu nói xong mới lè nhè nói:

- Lão đạo sĩ Lã Đồng Tân rắm chó đó được bao nhiêu cân lượng chứ? Cứu sống người chết, xương trắng tái sinh, phì, con mẹ nó. Thường nghe người ta nói: "Bệnh đến như núi đổ, bệnh đi như rút tơ", bệnh đến bệnh đi đâu phải là công phu một ngày một đêm. Đáng giận thế nhân chỉ muốn tránh khó lấy dễ, bệnh nặng phải mất nhiều năm mà lại muốn thuyên giảm trong một ngày, không nghe y lời của lang y, không uống thuốc thang mà lại đi cầu thần phật cúng đồng cốt, vẽ bùa đạo sĩ. Hừ, kết quả bệnh lại hoàn bệnh, chết vẫn cứ chết, vận may thì chẳng đến mà chỉ tự mua dây trói mình.

Ông ta mắng chửi đến mức hứng khởi, càng mắng càng lên giọng, hận không nói được cho cả thiên hạ cùng nghe.

Lương Tiêu ngập ngừng nói:

- Nhưng tôi nghe Tần Bá Phù nói, hắn muốn chiếc hộp đó, tất cả vì Ngô tiên sinh đã đề cập đến Thuần Dương Thiết Hạp.

Ngô Thường Thanh liếc xéo hắn, cười hắc hắc nói:

- Lão tử bảo ngươi cởi truồng, ngươi cởi hay không?

Lương Tiêu nhíu mày đáp:

- Đương nhiên là không.

Ngô Thường Thanh nói:

- Chính là như vậy. Ngày đó Tần Bá Phù luyện công tẩu hỏa nhập ma, tới cầu ta chữa trị. Ta vừa bắt mạch liền nhận ra vì "Cự Linh Huyền Công" của hắn quá bá đạo, cách chữa trị tốt nhất là phế bỏ võ công đó, nếu không có dùng đan dược cũng chẳng kết quả gì. "Cự Linh Huyền Công" nguyên là võ công của đạo môn, sư phụ của Tần Bá Phù là Huyền Thiên Tôn chính là một đạo sĩ. Vì vậy hắn không tin lời lão phu, lại còn đem phép chu thiên bàn vận (quy luật vận hành của trời đất) của đạo môn ra tranh luận với lão phu. Lão phu nghe đến bực mình, liền nói: "Cự Linh Huyền Công cái rắm? Ngươi biết Lã Đồng Tân không? Ông ta được gọi là thần tiên sống, nghe nói ông ta có truyền lại "Thuần Dương Thiết Hạp", trong đó có sách thuốc bùa lửa, có thể trị bách bệnh, ngươi thử tìm xem, biết đâu có thể chữa được chứng tật này. Hừ, tên họ Tần này nhìn tưởng thông minh, thật ra ngu như trâu ngựa, nghe được như vậy lập tức hoan hỉ, bất quá tính ra hắn cũng còn có lương tâm, hỏi lão phu: "Nếu có thể trị được bách bệnh, liệu có thể trị được bệnh của Sương cô nương không?" Lão phu bị hắn hỏi đi hỏi lại, mất cả kiên nhẫn, nói bừa: 'Đương nhiên là được, đến làm mẹ ngươi còn được ấy chứ, tìm được Thiết Hạp rồi hãy nói." Nghe ta nói vậy, hắn mừng đến vãi đái ra quần, nhảy nhót bỏ đi. Hứ, cho dù Thiết Hạp có thể chữa bệnh như thần, lại thật sự có thể tìm ra nó, trước nay chưa từng có ai mở được Thiết Hạp, e rằng nó thật ra chỉ cục sắt mà yêu đạo dùng để bày trò lừa người mà thôi.

Ngô Thường Thanh nửa đời hành nghề y, hận nhất là bọn đồng cốt đạo sĩ, thóa mạ không ngừng, Lương Tiêu tưởng có thể từ ông ta hỏi rõ về Thuần Dương Thiết Hạp, không ngờ lại chọc cho ông ta nói sướng miệng. Đột nhiên có một thị nữ gạt tấm màn ra tiến lại, rụt rè bẩm:

- Ngô tiên sinh, cung chủ thỉnh ngài qua bên đó!

Ngô Thường Thanh nghe thấy giật mình:

- Hỏng rồi, mải nói chuyện với thằng nhóc chết tiệt này, chút nữa thì nguy đến đại sự.

Đột nhiên ngừng nói, đứng dậy hậm hực nhìn Lương Tiêu, nói:

- Xú tiểu tử, ngươi đi với ta qua bên đó.

Lương Tiêu nhíu mạnh đôi mày nói:

- Bắt buộc phải đi sao?

Ngô Trường Thanh hắng giọng đáp:

- Ngươi vốn là bằng hữu của Sương Nhi, thịnh hội thế này không đi không được.

Liền không cho tranh cãi gì nữa, kéo Lương Tiêu thuận chân bước ra ngoài, nhưng đi được hai bước thì quay lại, cầm chén trà gốm tím một hơi uống cạn, ngay cả lá trà cũng dùng tay vét sạch vào miệng, vừa nhai tóp tép vừa nói:

- Không được lãng phí, không được lãng phí.

Uống trà xong, Ngô Trường Thanh kéo theo Lương Tiêu, đi thẳng đến dưới Linh Đài, từ xa đã thấy hàng trăm người hoặc đứng hoặc ngồi, tụ tập trên đài. Hai người theo bậc thang tiến lên, được nửa chừng thì Hoa Thanh Uyên tiến đến nghênh đón, chắp tay cười chào:

- Ngô tiên sinh an hảo!

Đoạn quay sang Lương Tiêu cười nói:

- Ngươi cũng đến ư?

Lại nắm tay hắn nói:

- Hoa đại thúc gần đây bận rộn luyện võ công, không đến thăm ngươi được. Thấy ngươi khí sắc rất tốt, dường như bệnh tật đã thuyên giảm?

Lương Tiêu ấm lòng, cười đáp:

- Cám ơn đại thúc quan tâm, cháu hoàn toàn khỏe mạnh.

Hoa Thanh Uyên nghe vậy cười lớn, cực kì hoan hỉ.

Ba người sóng vai lên đài, Lương Tiêu đưa mắt nhìn quanh, nhận ra Hoa Vô Xuy ngồi ở chính nam, bà thấy Ngô Thường Thanh liền nở nụ cười rồi nói:

- Ngô tiên sinh an hảo!

Nhưng Lương Tiêu thì dù đứng ngay trước mặt cũng không thèm nhìn đến. Hoa Mộ Dung đứng sau lưng bà ta, tay cầm một thanh cổ kiếm bao đen, bên trái vài xích là hai mẹ con Hoa Hiếu Sương đang ngồi ngay ngắn. Hoa Hiểu Sương thấy Lương Tiêu, mặt cười rạng rỡ. Năm người ngồi phía dưới, bảy người khác ngồi phân biệt thành bên trái ba người, bên phải bốn người, ngồi đầu tiên bên tay phải là thủ vệ của Linh Đài chính là lão già họ Minh, ngồi dưới lão là Tả Nguyên, hai người ngồi sau lần lượt là Đồng Chú và Tần Bá Phù. Sắc mặt Tần Bá Phù rất tốt, nhìn thấy Lương Tiêu, hơi nhíu mày, khẽ gật đầu nhưng không tiến lại chào hỏi. Phía bên trái người ngồi đầu chính là Tu Cốc, hai người ngồi sau lần lượt là Diệp Chiêu cùng Dương Lộ. Nhìn khí độ của bảy người này khác hẳn những người khác, chắc là có thân phận tôn quí, lại nhìn quanh nam nữ đông đảo, ai cũng tỏ vẻ trang nghiêm.

Hoa Thanh Uyên dẫn hai người đến bàn đầu tiên, lệnh cho gia nhân lấy ghế cho hai người ngồi xuống. Lương Tiêu thấy phần lớn người trẻ tuổi đều phải đứng, người ngồi toàn là những lão nhân lớn tuổi đáng kính, thâm tâm cảm thấy nếu ngồi thì quả thật không hợp lẽ, liền nói:

- Hoa đại thúc, cháu còn nhỏ, đứng một chút không sao đâu.

Hoa Thanh Uyên không ngờ hắn thay đổi thành một kẻ hiểu sự như vậy, trong lòng ngạc nhiên, bất giác cười nói:

- Được lắm, nghe cháu nói như vậy, Hoa đại thúc thật hoan hỉ!

Vỗ vỗ lên vai hắn, quay người đi về phía bên phải Hoa Vô Xuy.

Lương Tiêu nhập vào đám đông, chen đến đứng cạnh một thiếu niên trông có vẻ vui tính. Không lâu sau, chiếc đồng hồ nước Ba Tư kêu một tiếng, tiếng nói chuyện liền nhỏ dần rồi trở nên yên tĩnh. Hoa Vô Xuy gật đầu, liền thấy lão già họ Minh từ từ đứng dậy, một tay vuốt râu, cất giọng ngân vang ngâm:

- Cao cầm danh chi hữu tiền văn,

Cô dẫn viên hàng dạ chánh phân;

Nhất lệ tiện kinh liêu quyết phá,

Diệc vô nhàn ý đáo thanh vân.

(Tạm dịch:

Chim cao tên đã từng nghe tới

Nửa đêm cô độc vươn dài cổ

Một tiếng kêu vang phá hư không

Ý chí bay lên tới mây xanh)

Giọng ngâm thư thái chậm rãi nhưng trong sáng khoáng đạt, Tê Nguyệt Cốc lớn như thế mà cũng có tiếng vọng lại. Vừa ngâm xong, Tả Nguyên cũng đứng dậy, trường thanh cùng hòa:

- Thụy khinh toản giác tùng hoa đọa,

Vũ bãi nhàn thính giản thủy lưu.

Vũ dực quang minh khi tích tuyết,

Phong thần sái lạc chiêm cao thu.

(Tạm dịch:

Lúc ngủ vẫn biết hoa tùng rơi,

Trong mưa vẫn nghe tiếng suối chảy.

Lông cánh trắng đẹp như tuyết tụ,

Dạo theo thần gió ngắm mùa thu.)

Tiếng ngâm nhỏ dần, lại nghe Đồng Chú tiếp lời:

- Từ hương viễn cách hoa đình thủy,

Trục ngã lai tê câu lĩnh cân.

Tàm quý đạo lương trường bất bão,

Vị tằng hồi nhãn hướng kê quần.

(Tạm dịch:

Rời quê Hoa Đình Thủy xa xôi

Đuổi ta đến đậu (ở) Câu Lĩnh Vân

Tự thẹn (lúa) gié (lúa) mạch thường không đủ (no)

Chưa từng (phải) quay đầu nhìn đàn gà)

Tần Bá Phù cười nhẹ, đứng dậy hòa theo:

- Hữu sí đê thùy tả hĩnh thương,

Khả liên phong mạo thậm ngang tàng.

Diệc tri bạch nhật thanh thiên hảo,

Vị yếu cao phi thả dưỡng sang.

(Tạm dịch:

Cánh phải rũ xuống, chân trái đau

Yếu ớt (nhưng) ngang tàng thật đáng thương

Đã biết hôm nay trời xanh thẳm

Dẫu muốn bay cao (lại) phải dưỡng thương)

Tu Cốc cười ha ha nói:

- Bài thơ đó của Tần lão đệ tuy nói về con hạc bị bệnh nhưng đã biến đổi được không khí tang thương.

Trầm tư một chút rồi vuốt râu đọc:

- Ô diên tranh thực tước tranh khoa,

Độc lập trì biên phong tuyết đa.

Tận nhật đạp băng kiều nhất túc,

Bất minh bất động ý như hà.

(Tạm dịch:

Quạ diều tranh ăn, sẻ tranh tổ

Độc lập ven thành nhiều gió tuyết

Cuối ngày đạp băng, co một chân

Không hót không động (chẳng hiểu) ý thế nào)

Tần Bá Phù vỗ tay cười nói:

- Độc lập gắng sức hay lắm, quả nhiên không hề mất phong thái."

Lương Tiêu nghe thấy kì quái, thúc khuỷu tay sang thiếu niên bên cạnh hỏi:

- Này, mấy lão đầu tử đó làm quái cái gì thế?

Thiếu niên đó nghe hắn ngôn ngữ thô suất, trong lòng không vui, nhưng thấy hắn đã nói chuyện với Hoa Thanh Uyên, dĩ nhiên phải có thân phận, đành nén cơn giận mà nói:

- Các hạ chắc là khách quí từ bên ngoài tới chăng? Ngâm thơ tỏ rõ chí hướng của Thiên Cơ bát hạc chính là thường lệ trước khi tiến hành Khai Thiên Đại Điển. Chỉ tiếc là sáu năm trước "Linh hạc" Thu Sơn Thu bá bá bị bệnh mất, Thu gia mỗi đời chỉ có một người nối dõi, Thu bá bá lại cả đời không lấy vợ, nên Thu gia sau này không có người kế thừa, bây giờ chỉ còn lại thất hạc thôi!

Nói xong vô cùng buồn bã. Lương Tiêu đột nhiên tỉnh ngộ, nghĩ thầm thì ra là như vậy, thảo nào mà năm lão nhân vừa rồi ngâm thi cú, chẳng ai không liên quan đến hạc cả.

Thiếu niên đó chỉ lão già họ Minh, nói:

- Vị đó là "Hoàng Hạc" Minh bá bá, đơn danh chỉ một chữ Quy...

Hắn đem thân phận của thất hạc nhất nhất kể qua một lượt, Lương Tiêu giờ biết được Tả Nguyên là "Bạch Hạc", Đồng Chú là "Thanh Hạc", Tần Bá Phù là "Bệnh Hạc", Tu Cốc là "Đan Đỉnh Hạc", Diệp Chiêu là "Trì Hạc", còn Dương Lộ là "Hắc Cảnh Hạc". Thiếu niên nói xong, lại nghe tiếng ngâm của Dương Lộ vang lên:

- Ác đính tiên mao phẩm cách tuần,

Toa đình nhàn hạ trọng nan quần.

Vô đoan nhật mộ đông phong khởi,

Phiêu tán xuân không nhất phiến vân.

(Tạm dịch:

Lông đầu bóng mượt phẩm chất thuần,

Nhàn rỗi ăn no thích tụ bầy.

Không lo chiều tối gió đông nổi,

Bay lượn (trong) trời xuân tựa đám mây.)

Lão là người cuối cũng trong bát hạc, ngâm thơ đến đây là kết thúc.

Hoa Vô Xuy thấy thất hạc đã ngâm xong, thần sắc uy nghiêm, mở miệng nói:

- Hôm nay ...

Lời nói chưa dứt, bỗng nghe Minh Quy cao giọng nói:

- Khoan đã.

Hoa Vô Xuy ngạc nhiên hỏi:

- Minh huynh còn có gì muốn nói?

Minh Quy điềm nhiên đáp:

- Ngày trước Linh Hạc chết, khiến cho bát hạc điêu linh. Tuy nhiên chúng ta và lão huynh đệ đó tình thâm ý trọng, vẫn không thể quên được. Minh Quy bất tài, nguyện thay Thu Sơn lão đệ ngâm một bài, ngoài để hoài niệm, còn để giữ đủ số cho Tiên thiên bát hạc.

Đôi mày ngài của Hoa Vô Xuy hơi nhíu lại, gật đầu nói:

- Xin theo ý Minh huynh.

Minh Quy suy nghĩ một chút rồi cao giọng ngâm:

- Thanh vân hữu ý lực do vị,

Khởi liêu đê hồi đắc sở y.

Hạnh niếm sí nhân phong vũ khốn,

Khởi giáo thân hãm đạo lương phì.

(Tạm dịch:

Mây xanh có ý, lực không đủ,

Há tính toán luồn cúi (để) tuân theo.

Cho dù bị khốn trong mưa gió,

Há chịu hãm mình trong lúa thơm.)

Ngâm xong lại nói:

- Thu lão đệ một đời tắm mưa gội gió, cô độc khổ muộn nhưng cốt cách mười phần thanh cao, tuy giờ đã mất nhưng tinh thần như sao sáng vẫn như còn mãi trên trời, soi sáng tục nhân chúng ta.

Nói xong quì xuống hướng lên trời, bái một bái. BọnĐồng Chú sắc mặt đều lộ vẻ bi thương, lần lượt quì lạy, chốc lát mọi người đều quì xuống một lượt.

Hoa Vô Xuy không nghĩ rằng Minh Quy lại khơi lại cố sự quan trọng này, cảm thấy ngoài ý muốn của mình, bất giác nhíu mày. Minh Quy đứng dậy lại nói:

- Cung chủ, Thu lão đệ lúc chết rất không minh bạch, không biết bao nhiêu năm rồi, đã có kết quả gì chưa?

Hoa Vô Xuy lắc đầu đáp:

- Ngày đó chẳng phải đã nói rõ rồi sao, Thu Sơn uống thuốc độc tự tận, còn có kết quả gì nữa?

Minh Quy nói:

- Nhưng vì sao đệ ấy lại tự tận? Cung chủ liệu có biết không?

Hoa Vô Xuy bất giác sầm mặt, hừ một tiếng cao giọng đáp:

- Làm sao ta biết được?

Lời nói vừa dứt, Tả Nguyên, Đồng Chú, Tu Cốc ba người nhìn Hoa Vô Xuy đều có vẻ bi phẫn.

Hoa Vô Xuy trong lòng biết không ổn, nhưng không ổn chỗ nào thì không thể nói ra, chỉ có thể đè nén nộ khí, từ từ nói:

- Hôm nay là Khai Thiên Đại Điển, việc này sẽ nói sau, mời Minh lão ca tạm lui xuống.

Minh Quy cười một tiếng, nói:

- Nói hay lắm, nói hay lắm.

Rồi chuyển thân ngồi xuống, lục hạc thấy ông ta ngồi thì cũng bắt đầu tuần tự ngồi xuống.

Hoa Vô Xuy chống xuống tay vịn, đứng dậy nói:

- Hôm nay các vị từ trời nam đất bắc đến đây, quả đã gắng sức, hiếm có hơn là Bá Phù lại quay về, sáu năm qua rồi, "Thiên Cơ Thất Hạc" mới tập trung cả về một chỗ, bình thường khó được ...

Nói tới đây, Minh Quy bất thần chặn lời nói:

- Cung chủ nói sai rồi, phải là Thiên Cơ Bát Hạc.

Hoa Vô Xuy nhướng mày, định phản bác thì lại nghe Tả Nguyên nói lớn:

- Không sai, Thu huynh tuy người đã mất nhưng anh linh vẫn còn.

Đồng Chú, Tu Cốc đều gật đầu nói:

- Tả lão nhị nói có lý

Hoa Vô Xuy sắc mặt nặng nề như nước, trầm mặc một lúc lâu, đột nhiên bình tĩnh nói:

- Chư vị nói đúng lắm, là lão thân lỡ lời, đúng là lần tụ hội của Thiên Cơ bát hạc.

Nói xong thở dài một hơi, rồi nói tiếp:

- Gia phụ mất sớm, bỏ lại chúng ta bơ vơ, gia đệ lại còn nhỏ tuổi, lão thân vạn bất đắc dĩ, lúc ấy đang tuổi cập kê cũng phải chấp chưởng sự tình của Thiên Cơ cung. Vốn tưởng sau vài năm sẽ nhường lại cho đệ ấy, ai ngờ đệ ấy phúc mỏng phận bạc, chưa kịp làm cung chủ, vì đấu với cường địch mà bị trọng thương không cách nào chữa trị.

Bà nhớ đến vong đệ mắt chợt đỏ lên cơ hồ rơi lệ, chậm rãi nói:

- Ngày đó trong cung quần long vô chủ, lão thân bất đắc dĩ phải nhận lĩnh chức vụ cung chủ, đến nay đã hơn ba mươi năm. Trời cao còn thương Thiên Cơ cung huyết mạch chưa tuyệt, con trai ta Thanh Uyên đã trưởng thành, toán học võ công đều có thành tựu. Vậy nên lão thân định nhường chức vụ cung chủ lại cho Thanh Uyên. Không biết các vị có gì dị nghị không?

Nói rồi mục quang thong thả nhìn lướt qua trên đài.

Lương Tiêu bỗng đại ngộ:

- Hóa ra bỏ cũ lập mới, thay đổi vũ trụ, ý tứ chính là thay đổi cung chủ.

Nghĩ đến Hoa Thanh Uyên sẽ là cung chủ, lòng hắn không khỏi cao hứng. Hoa Vô Xuy thấy trong trường tịch không có âm thanh, liền nói:

- Thanh Uyên.

Hoa Thanh Uyên ứng tiếng tiến lên, cúi đầu quì lạy. Hoa Mộ Dung dâng lên trường kiếm vỏ đen vào tay Hoa Vô Xuy, Hoa Vô Xuy xoay chuôi kiếm, trầm giọng nói:

- Thanh Uyên, chuôi kiếm này chính là tín vật của cung chủ. Chuyển giao quyền lực, quyền bính nằm ở đây, khi nắm lấy chuôi kiếm, ngươi sẽ là Thiên Cơ Cung cung chủ đời thứ mười hai, từ này về sau, hiệu lệnh mọi người.

Hoa Thanh Uyên im lặng một lúc, cuối cùng dạ một tiếng, đang định đưa tay đón chuôi kiếm, bỗng có người cao giọng kêu lên:

- Khoan đã!

Mọi người đều cả kinh, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một người khoảng ba mươi tuổi, mình mặc gấm tím, vẻ mặt anh hùng, chân không chạm đất từ đám đông tiến ra, cười nói:

- Tại hạ là Minh Tam Thu, chủ sự tiền trang ở Tô Nam, thiết nghĩ để Uyên thiếu chủ làm cung chủ thì rất không thỏa đáng."

Hoa Vô Xuy nhíu mày, mặt hơi tái xanh lại, thu hồi cổ kiếm, ý lên một tiếng rồi nói:

- Minh chủ sự nghĩ có việc gì không thỏa đáng?

Tinh quang trong mắt sáng rực chiếu thẳng vào Minh Tam Thu. Minh Tam Thu không chút rung động, khẽ cười rồi nói:

- Trước hết, Uyên thiếu chủ đại nghịch bất hiếu!

Lời đó nói ra, hàng trăm người liền xì xầm bàn tán. Hoa Vô Xuy trừng mắt, cười lạnh hỏi:

- Điều đó có thể nói nhăng nói bừa được sao? Minh Tam Thu, nếu ngươi không thể giải thích minh bạch thì sẽ theo cung quy mà xử trí!"

Minh Tam Thu cười đáp:

- Không dám, vốn trong ba điều bất hiếu thì không có người nối dõi là tội nặng nhất. Hoa Thanh Uyên giờ chỉ có một con gái, lại bị "Cửu Âm Độc Mạch", tính mạng như chỉ mành treo chuông, sau khi y chết đi thì ai sẽ kế thừa huyết thống của Thiên Cơ cung?

Hoa Hiểu Sương như bị người ta đánh một quyền vào ngực, sắc mặt trở nên thê thảm, cúi đầu xuống, Lăng Sương Quân mặt trắng bệch như tờ giấy. Lương Tiêu bất giác trong lòng sinh lửa giận, đối với Minh Tam Thu vô cùng bất mãn.

Hoa Vô Xuy chẳng mảy may đổi sắc, thản nhiên nói:

- Đó là việc trong nhà của con trai ta, hắn có thê tử, ngày sau sinh thêm con trai con gái, chuyện đó có gì là khó!

Hoa Thanh Uyên cả người run lên, đang định đứng dậy nói nhưng thấy Hoa Vô Xuy khẽ xua tay, đành thở dài đứng sang một bên.

Minh Tam Thu cười nói:

- Không đúng, nếu đúng như cung chủ nói, vậy tại sao Hoa Hiểu Sương đã gần mười lăm mà phu thê thiếu chủ vẫn chưa có thêm đứa con nào?

Hoa Mộ Dung không thể nhẫn nhịn được nữa, cao giọng hét lên:

- Minh Tam Thu, ngươi chẳng qua chỉ là một tên chủ sự nhỏ nhoi, dám nói những lời như thế không sợ vô lễ sao?

Minh Tam Thu cười đáp:

- Dung thiếu chủ đã hiểu lầm, tại hạ chỉ nghĩ cho tiền đồ của Thiên Cơ Cung mà thôi, phải biết Thiên Cơ Cung bên trong có điển tịch thiên hạ, ngoài có tiền trang lương điền, người trong cung không tới hai ngàn thì cũng một ngàn bảy tám trăm, nếu đột nhiên quần long vô chủ thì tiền tài tính mạng chỉ là chuyện nhỏ nhưng điển tịch trong cung nếu tổn thất nhỏ gì thì còn mặt mũi nào đi diện kiến Thiên Cơ Cung liệt tổ liệt tông?

Hoa Vô Xuy nhìn Hoa Thanh Uyên rồi nói:

- Việc này Uyên nhi tự có cách an bài, không cần Minh chủ sự nhọc công quan tâm, nếu ngươi không có chuyện gì khác thì xin mời lui xuống.

Minh Tam Thu cười khẽ, vẫn không di động, miệng lại nói:

- Tại hạ còn có điều muốn nói!

Hoa Mộ Dung nhíu mày, cao giọng nói:

- Ngươi, ngươi còn muốn nói cái quái gì nữa đây?

Minh Tam Thu chỉ cười không nói, Hoa Vô Xuy sắc mặt âm trầm khó hiểu, trong lòng nghĩ: "Bình thường người này tại Tô Nam lo liệu tiền lương, chí khí rất nhỏ, không đáng để trong mắt. Tại sao hôm nay đột nhiên lại trở nên ngông cuồng như vậy? Phải chăng hắn có chỗ dựa?" Càng nghĩ càng thấy nghi ngờ, nhìn qua Minh Quy, Minh Quy chính là tộc trưởng của họ Minh, Hoa Vô Xuy vốn muốn bảo ông ta đứng ra ngăn cản, không ngờ Minh Quy tay vẫn vuốt râu, thần sắc lạnh nhạt, đối diện tình hình trước mắt như không thấy gì. Bà ta bất giác trong lòng nổi giận, có điều không muốn để mất phong độ, liền lạnh lùng nhìn Minh Tam Thu, thản nhiên nói:

- Được lắm, Minh chủ sự cứ nói!

Minh Tam Thu vòng tay cười đáp:

- Đã làm phiền cung chủ. Như Tam Thu được biết, người được lựa chọn làm cung chủ phải có võ công cùng toán học hơn người mới có thể kế vị, không biết có đúng như vậy hay không?

Hoa Vô Xuy còn chưa đáp lại, Tả Nguyên đã chen vào nói:

- Không sai! Đúng là có qui củ này, chính là vì năm đó nhiều người kế thừa nên đã được đặt ra. Kể từ đời ông tổ Linh Thông, trong vòng mười đời, người nhà Hoa gia dần dần ít đi, năm đời gần đây mỗi đời chỉ có một người nối dõi, vì vậy qui củ này lâu nay không được nhắc đến.

Hoa Vô Xuy nghe lão nói quả đúng là sự thật, không cách nào phản bác, đành nói:

- Tả nhị ca nói đúng lắm.

Minh Tam Thu cười nói:

- Tốt lắm, quả thực có qui củ đó, vậy thì Uyên thiếu chủ lại càng không thể làm cung chủ.

Hoa Vô Xuy sắc diện càng âm trầm, trừng mắt nhìn hắn hỏi:

- Lại vì sao nữa?

Ngữ khí ẩn chứa sự tức giận.

Minh Tam Thu nhìn Hoa Thanh Uyên, cười nói:

- Chính là vì vô luận toán thuật hay võ công, Hoa thiếu chủ đều không thể coi là Thiên Cơ Cung đệ nhất.

Hoa Vô Xuy ngắt lời nói:

- Không sai, Thanh Uyên công lực đúng là không bằng lão thân, nhưng tiến bộ thần tốc, nửa năm một năm nữa trong Thiên Cơ Cung sẽ không có địch thủ.

Minh Tam Thu một tay chống nạnh, đột nhiên cười dài, tiếng cười hùng hồn không dứt, chấn động khiến tai của mọi người cứ ong ong, Hoa Vô Xuy trong lòng hơi giật mình, cất cao giọng hỏi:

- Có gì đáng cười?

Minh Tam Thu nghiêm sắc mặt, nói to:

- Thật là đạo lý không ra đạo lý, phép tắc không ra phép tắc! Cung chủ tính tới tính lui cũng chỉ tính người họ Hoa, nhưng không hiểu trong hai nghìn người của Thiên Cơ cung thì họ Hoa chiếm bao nhiêu phần?

Chúng nhân nghe vậy đều nhìn nhau lộ vẻ sửng sốt.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com