CUỐN THEO CHIỀU GIÓ-chương X-IXX
CHƯƠNG X
Sáng hôm sau, vào giờ ăn bánh quế điểm tâm, bà cô Pittypat nước mắt đầm đìa, Melanie lặng thinh còn Scarlett thì đầy vẻ thách thức.
- Mặc kệ cho họ xì xào. Cháu dám cuộc là cháu đã kiếm cho bệnh viện nhiều tiền hơn bất cứ cô gái nào có mặt ở đó - thậm chí còn nhiều hơn cả số tiền bán các thứ đồ tầm tầm cũ rích ở quầy chúng cháu nữa kia.
- Ôi, lạy Chúa, tiền thì có quan trọng gì? – Bà Pittypat rên lên, hai tay chắp vào nhau vặn vẹo. – Cô thật không dám tin vào mắt mình nữa, tội nghiệp Charlie mới mất có một năm…và cái tay thuyền trưởng Butler kinh khủng ấy, hắn làm cho mắt mọi người đều đổ dồn vào cháu, thật là một con người kinh khủng, kinh khủng Scarlett ạ. Em họ bà Whiting là bà Coleman lấy chồng ở Charleston đã kể về hắn ta với cô. Hắn là con chiên ghẻ của một gia đình cao quý…ôi, làm sao dòng họ Butler lại có thể nảy nòi ra một kẻ như vậy. Ở Charleston, không ai tiếp hắn, hắn khét tiếng là kẻ ăn chơi phóng đãng số một. Có một chuyện gì đó xung quanh một cô gái…chuyện xấu xa đến nỗi bà Coleman không còn hiểu ra sao nữa…
- Ồ, cháu không tin anh ta lại xấu xa đến thế, - Melanie dịu dàng nói. – Anh ta có vẻ là người rất mực phong lưu mã thượng và thử nghĩ xem, anh ta thật gan dạ biết bao mới dám vượt rào phong toả …
- Chả phải là anh ta gan dạ gì đâu, - Scarlett ngang ngạnh ngắt lời, rưới nửa cốc siro lên phần bánh quế của mình. – Anh ta làm thế chỉ vì tiền thôi. Chính anh ta bảo tôi thế mà. Anh ta chả thiết gì đến Liên bang và còn bảo chúng ta sắp bị đánh bại. Nhưng anh ta nhảy tuyệt vời.
Hai thính giả của nàng kinh hãi không nói nên lời.
- Tôi chán ngồi ru rú xó nhà lắm rồi, tôi không chịu như thế nữa đâu. Nếu tất cả đều nói ra nói vào về tôi đêm qua, có nghĩa là thanh danh của tôi đã mất và họ có nói thêm gì khác nữa cũng chẳng quan trọng.
Nàng không hề nhận ra rằng cái ý đó chính là của Rhett Butler. Nó đến rất đúng lúc và hoàn toàn phù hợp với điều nàng đang nghĩ.
- Ôi! Mẹ cháu sẽ nói sao khi biết chuyện này? Mẹ cháu sẽ nghĩ thế nào về cô?
Scarlett chợt thấy áy náy đến lạnh người khi nghĩ đến nỗi bàng hoàng của bà Ellen nếu bà được biết hành vi ô nhục của con gái. Song nàng lại vững dạ với ý nghĩ rằng Atlanta cách ấp Tara những hai mươi lăm dặm. Chắc chắn cô Pitty sẽ không kể với mẹ, vì như thế chẳng hoá ra cô là một người giám hộ tồi lắm sao. Và nếu cô Pitty không mách thì chẳng sao cả.
- Cô nghĩ…- bà Pitty nói, - phải, cô nghĩ rằng tốt nhất là cô nên viết thư cho bác Henry về chuyện này…mặc dầu cô rất không muốn làm chuyện này…nhưng bác là người đàn ông duy nhất trong gia đình ta…để bác đến cự cho tay thuyền trưởng Butler một trận…Ôi, lạy Chúa, giá mà Charlie còn sống…Scarlett, cháu không bao giờ, không bao giờ được nói chuyện với con người đó nữa.
Melanie từ nãy vẫn ngồi yên, hai tay đặt trên lòng, đĩa bánh quế đã nguội còn nguyên. Nàng đứng dậy, đi vòng ra sau ôm lấy cổ Scarlett.
- Chị thân yêu, - nàng nói, - chị đừng quá xúc động. Em hiểu, đêm qua chị đã làm một điều dũng cảm, giúp cho bệnh viện rất nhiều và nếu kẻ nào dám nói động đến chị một câu nhỏ, em sẽ liệu với họ…Cô Pitty, cô đừng khóc. Thật cực cho Scarlett, chả được đi đến đâu. Chị ấy còn trẻ măng. (Nàng lùa ngón tay vào mớ tóc đen của Scarlett). Và có lẽ thỉnh thoảng tất cả chúng ta cũng nên đến các cuộc vui giao tế thì tốt hơn. Có lẽ chúng ta đã quá vị kỷ, cứ ngồi nhà mà ôm khư khư lấy nỗi đau buồn của mình. Thời chiến không giống như những thời kỳ khác. Cứ nghĩ đến tất cả những chiến binh hiện ở thành phố ta, đang sống xa nhà, không có lấy một người bạn để tối tối đến chơi…những thương binh trong bệnh viện tuy đã đỡ và đi lại được, nhưng chưa hồi phục đến mức có thể trở lại quân đội…phải, cứ nghĩ thế thì thấy chúng quả đã ích kỷ. Ngay bây giờ, chúng ta – cũng như mọi người khác – đúng ra phải đón ba người dưỡng bệnh về nhà mình, và mỗi chủ nhật mời mấy chiến sĩ đến ăn tối. Thôi, Scarlett, chị đừng lo phiền. Mọi người sẽ thôi không xì xào khi họ hiểu ra. Cô và em đều biết chị yêu thương anh Charlie.
Scarlett tuyệt nhiên không lo phiền, mà chỉ thấy khó chịu với đôi bàn tay mềm mại của Melanie đang vuốt tóc mình. Nàng những muốn nguẩy đầu một cái mà nói: “Tào lao!” vì nàng vẫn thấy ấm lòng khi nhớ lại đêm qua đám vệ binh, dân binh cùng thương binh ở bệnh viên đã giành nhau như thế nào để được nhảy với nàng. Thiên hạ thiếu gì người mà lại phải cần đến Melly bênh vực nàng! Cảm ơn, tôi có thể tự bảo vệ được và nếu những mụ già thối miệng muốn la lối thì…dào, tôi đâu có cần mấy cái lưỡi già nanh nọc ấy. Thế giới còn vô khối sĩ quan đẹp trai, việc gì phải bận tâm đến những chuyện ngồi lê đôi mách của các mụ già.
Bà Pittypat đang chấm nước mắt theo lời dỗ dành của Melanie thì Prissy mang vào một bì thư dầy cộp.
- Thơ gửi cô, thưa tiểu thư Melly. Một thằng bé da đen mang đến.
- Gửi ta ư? – Melly ngạc nhiên hỏi, đồng thời xé phong bì.
Scarlett mải ăn bánh quế, không để ý gì, cho đến khi chợt nghe thấy Melly oà khóc. Ngẩng lên, nàng trông thấy bà cô Pittypat đưa tay lên ôm ngực.
- Ashley chết rồi! – Bà thét lên, ngật đầu ra đằng sau, hai cánh tay thõng xuống.
Ôi, lạy Chúa! – Scarlett kêu lên, máu như đông lại thành băng.
- Không! Không! – Melanie kêu. – Mau lên! Đưa muối hít cho cô, chị Scarlett. Đây, đây, cô thân yêu, cô thấy đỡ không? Cô thở sâu vào. Không, không phải Ashley. Cháu xin lỗi đã làm cô hoảng hốt. Cháu khóc vì quá sung sướng đó thôi.
Và đột nhiên, nàgn xoè bàn tay nắm chặt ra và áp một vật gì trong đó lên môi: “Cháu sung sướng quá!” và lại oà lên khóc.
Scarlett thoáng thấy đó là một chiếc nhẫn lớn bằng vàng.
- Chị đọc đi, - Melly nói, - tay chỉ lá thư rơi trên sàn. Ôi, anh ấy mới dễ thương và tốt làm sao!
Scarlett, bối rối, nhặt tờ giấy lên và đọc thấy những chữ đen rắn rỏi sau đây:
“Liên bang có thể cần đến máu cuộc đời của nang giới nhưng chưa đòi hỏi đến máu con tim của các nữ công dân. Bà thân mến, xin bà nhận cho biểu hiện này của lòng kính phục đối với sự can đảm của bà và đừng nghĩ rằng bà đã hy sinh vô ích, vì chiếc nhẫn này đã được chuộc lại với số tiền gấp mười giá trị của nó.
Thuyền trưởng Rhett Butler
Melanie luồn chiếc nhẫn vào ngón tay rồi ngắm nhìn, lòng dào dạt yêu thương.
- Cháu đã bảo cô anh ta là người phong lưu mã thượng mà, phải không nào? – Nàng quay sang bà Pittypat, mỉm cười rạng rỡ qua hàng nước mắt. - Chỉ có một người quý phái tế nhị và ân cần mới hiểu thấu nỗi đau xót của cháu khi cháu phải…Cháu sẽ gửi sợi dây chuyền vàng để thay vào. Cô Pittypat, cô gửi thư mời ông ấy đến dùng cơm tôi để cháu có thể nói lời cơm ơn.
Trong cơn khích động, cả Pittypat và Melanie đều không nhận thấy là thuyền trưởng Butler đã không gửi trả lại chiếc nhẫn cho Scarlett. Scarlett đã suy n ghĩ nhiều và buồn bực. Nàng biết rõ không phải vì tế nhị mà Butler đã có cử chỉ ân cần đó. Chẳng qua hắn đã cố ý tạo cơ hội để được mời đến nhà Pittypat và biết rõ mười mươi phải làm thế nào để được mời.
“Mẹ vô cùng lo lắng khi nói đến hành vi của con gần đây…” Đó là lời lẽ trong lá thư của bà Ellen. Scarlett rất cáu khi đọc lá thư đó. Tin dữ bao giờ cũng lan rất nhanh. Nàng thường được nghe nói ở Charleston và Savannah là người Atlanta rất hay ngồi lê đôi mách và chõ mũi vào công việc người khác hơn bất kỳ người nào ở miền Nam , và bây giờ nàng tin điều đó là đúng. Hội chợ được tổ chức vào tối thứ hai và bây giờ mới thứ năm, mụ già nào đã viết cho bà Ellen về nàng? Trong một thoáng nàng nghi cho cô Pittypat, nhưng vội thay đổi ý kiến ngay. Cô Pittypat tội nghiệp đang lo sốt vó về chuyện sẽ bị trách móc vì những hành động liều lĩnh của Scarlett. Chẳng bao giờ cô lại đi báo tin ấy cho mẹ mình.Chẳc hẳn là bà Merriwether.
“Mẹ không tài nảo hiểu nổi sao con lại chóng quên bản thân và sự giáo dục của con đến thế. Mẹ bỏ qua việc con xuất hiện giữa đám đông trong thời kỳ chưa đoạn tang, vì mẹ thông cảm con nóng lòng muốn giúp đỡ cho bệnh viện. Nhưng về chuyện con khiêu vũ với một người như thuyền trưởng Butler! Mẹ đã nghe đồn nhiều về hắn (Ai mà không nghe đồn về hắn?) và mới tuần trước Pôlin còn viết cho mẹ rằng hắn là một kẻ danh tích bất hảo, ở Charleston đến cả những người trong gia đình cũng không tiếp hắn, tất nhiên trừ bà mẹ đau khổ của hắn. Hắn là hạng người xấu xa từ cốt lõi chỉ muốn lợi dụng tuổi trẻ và sự ngây thơ của con để bêu riếu, làm nhục con cùng gia đình trước mắt thiên hạ. Làm sao cô Pittypat lại có thể lơ là bổn phận đối với con đến thế?”
Scarlett nhìn sang bà cô phía bên kia bàn. Bà già đã nhận ra nét chữ của bà Ellen, cái miệng nhỏ bụ bẫm của bà dẩu ra với vẻ khiếp hãi, như một đứa con nít sợ bị ăn mắng đang chực khóc, hòng lấy nước mắt làm lá chắn.
“Mẹ rất đau lòng khi nghĩ rằng con lại có thể sớm quên những điều được dạy dỗ đến thế. Mẹ đã nghĩ đến chuyện gọi con về nhà ngay lập tức, nhưng thôi, việc này để ba con giải quyết. Thứ sáu này, ba sẽ đến Atlanta nói chuyện với Butler và đưa con về nhà. Mẹ sợ rằng ba sẽ nghiêm khắc với con, mặc dầu mẹ đã xin ba. Mẹ hy vọng và cầu Chúa rằng con hành động ngạo ngược như thế, chỉ là do còn trẻ và thiếu suy nghĩ mà thôi. Không ai mong muốn phụng sự Sự Nghiệp của chúng ta mãnh liệt hơn mẹ và mẹ cầu mong các con gái của mẹ cũng cùng chung một tình cảm như vậy, nhưng để ô danh thì…”
Bức thư còn nói nhiều điều theo cùng một mạch như vậy, nhưng Scarlett không đọc nổi. Lần đầu tiên, nàng thấy sợ hãi thực sự. Giờ đây, thay vì liều lĩnh và bất cần như trước, nàng cảm thấy mình trẻ dại và tội lỗi như hồi lên mười, giữa bữa ăn đã ném một chiếc bánh quy bơ vào Suellen. Thử nghĩ coi, hiền dịu như mẹ mà phải dùng những lời trách mắng nặng nề đến thế và ba phải ra tận tỉnh để nói chuyện với Butler! Tính chất nghiêm trọng thực sự của vấn đề mỗi lúc một rõ thêm trước mắt nàng. Ông Gerald tất sẽ tỏ ra nghiêm khắc. Lần này thì đừng hòng thoát khỏi hình phạt bằng cách ngồi lên lòng ông mà mơn trớn, nũng nịu, nàng biết thế.
- Không…không phải là tin dữ chứ? – Bà Pittypat run rẩy hỏi.
- Ngày mai ba cháu đến và sẽ bổ nhào vào cháu như diều hâu bổ nhào bắt gà con, - Scarlett đáp, vẻ đau khổ.
- Prissy tìm lọ muối hít cho ta, - bà Pittypat lắp bắp, kéo lùi ghế khỏi đĩa thức ăn bỏ dở. – Ta …ta cảm thấy muốn xỉu.
- Nó ở chong túi áo của bà í ạ, - Prissy nói, nó đang lăng xăng đằng sau Scarlett, thích thú với tấn kịch giật gân. Ông Gerald nổi cơn thịnh nộ bao giờ cũng là một màn hồi hộp, miễn là cơn lôi đình ấy không nhằm vào cái đầu tóc xoăn của nó. Bà Pitty lục túi váy và đưa chiếc lọ lên mũi.
- Tất cả phải ở bên cháu và đừng để một mình ba cháu với cháu một phúc nào đấy, - Scarlett kêu lên. – Ba cháu rất yêu mến cô và Melanie, nếo có cả hai người bên cháu, chắc ba cháu sẽ nể, không làm dữ với cháu.
- Cô không thể, - bà Pittypat yếu ớt noi và đứng dậy. – Cô…cô cảm thấy khó ở. Cô phải đi nằm đây. Ngày mai cô sẽ nằm cả ngày.Cháu xin lỗi ba hộ cô.
“Hèn nhát!” Scarlett nghĩ thầm, mắt long lên nhìn bà.
Melanie đứng về phe bảo vệ Scarlett, mặc dầu mói nghĩ đến lúc phải đối mặt với ông O’Hara hùng hùng hổ hổ khạc ra lửa, nàng đã sợ tái mặt.
- Em sẽ…em sẽ giúp chị trình bày là chị đã làm việc đó vì bệnh viện. Chắc chắn bác sẽ thông cảm.
- Không, ba tôi không thông cảm đâu, - Scarlett nói. – Ôi, nếu phải nhục nhã trở về ấp Tara, như mẹ tôi doạ, thì tôi chết mất.
- Ồ, cháu không về được đâu! Bà Pittypat kêu lên và oà khóc. - Nếu cháu về thì cô sẽ buộc phải …ừ, cô sẽ buộc phải yêu cầu bác Henry đến ở đây, mà cháu biết đấy, cô không thể nào sống với bác ấy được. Với biết bao người lạ hiện ở trong tỉnh, mà chỉ có mình cô với Melly ở trong nhà, ban đêm cô sợ lắm. Ở cùng với cháu, thì không có đàn ông, cô cũng chả cần, vì cháu rất dũng cảm!
- Ồ, bác ấy không bắt chị về ấp Tara được đâu! – Melly nói, xem vẻ như cũng sắp khóc đến nơi. – Bây giờ đây là nhà của chị. Không có chị, cô cháu tôi biết xoay sở ra sao!
“Đáng lẽ các người phải vui mừng vì rứt bỏ được tôi, nếu các người biết thực bụng tôi nghĩ như thế nào về các người”, Scarlett chua chát nghĩ thầm, đồng thời lại ước giá có ai khác Melanie để che đỡ cho mình trước cơn thịnh nộ của ông Gerald. Phải trông cậy vào sự bênh vực của một kẻ mà mình ghét cay ghét đắng, thật kinh tởm.
- Có lẽ ta phải phế việc mời thuyền trưởng Butler…- bà Pittypat ngập ngừng nói.
- Ồ, không được! Thế thì thô lỗ đến tột đỉnh! – Melly kêu lên, vẻ khổ sở.
- Đỡ cô vào giường nào. Cô sắp ốm đến nơi rồi, - bà Pittypat rên rẩm. – Ôi, Scarlett, làm sao cháu lại gây nên cơ sự này cho cô?
Chiều hôm sau, khi ông Gerald tới thì bà Pittypat ốm, nằm lì trên giường. Từ trong phòng đóng kín cửa, bà nhiều lần nhắn lời cáo lỗi, lấy làm tiếc không tiếp được ông, để hai cô gái thất đảm chủ trì bữa ăn tối. Ông Gerald lầm lầm dễ sợ, mặc dầu ông vẫn hôn Scarlett và âu yếm bẹo má Melanie, gọi nàng là “cô cháu họ Melly”, Scarlett những muốn giá ông gầm thét rủa xả, kết tội, còn nghìn lần dễ chịu hơn. Trung thành với lời hứa của mình, Melanie bám sát Scarlett như một cái bóng nhỏ sột soạt và ông Gerald có thừa lịch sự để tránh quở mắng con gái trước mặt nàng. Scarlett phải thừa nhận rằng Melanie xử sự rất khéo, làm như không biết có gì trục trặc. Thực tế, nàng đã bắt chuyện được với ông Gerald khi bữa ăn được dọn ra.
- Cháu muốn biết mọi chuyện về Hạt ta, - nàng nói, miệng cười tươi rói. – India và
Honey
lười viết thư quá, mà cháu biết bác nắm được mọi điều diễn ra ở đấy. Bác kể cho chúng cháu nghe về đám cưới Joe
Fontaine
đi.
Được phỉnh, ông Gerald sôi nổi lên, kể rằng đám cưới ấy diễn ra lặng lẽ, “không linh đình như đám cưới của các cô đâu”, vì Joe chỉ có mấy ngày phép. Sally, cô bé nhà
Munroe
, nom rất xinh.
Không, ông không nhớ hôm cưới cô ta ăn vận như thế nào, nhưng ông nghe nói là cô ta không có áo dài nhị hỉ.
- Không có ư! – Hai nàng kêu lên, bất bình.
- Hẳn thế, bởi vì cô ta không có ngày nhị hỉ, ông Gerald giải thích và cười hô hố trước khi nhớ ra rằng có lẽ những lời lẽ như vậy không thích hợp với tai phụ nữ. Thấy ông cười, Scarlett phấn chấn hẳn lên và thầm cảm ơn sự khéo léo của Melanie.
- Ngay hôm sau, Jô phải trở về Virginia, - ông Gerald vội vã nói thêm. Sau khi cưới, chẳng có thăm thú, nhảy nhót gì hết. Cặp anh em sinh đôi Tarleton đang ở nhà.
- Chúng cháu cũng nghe nói thế. Họ đã bình phục chưa?
- Vết thương của họ không nặng lắm, Stuart bị ở đầu gối, còn Brent thì bị một viên đạn chóp nón xuyên qua vai. Các cô cũng có nghe tin họ được biểu dương vì lòng dũng cảm trong các bản thông báo đấy chứ?
- Không ạ! Bác kể cho bọn cháu nghe đi!
- Cả hai ông tướng đều liều lĩnh. Tôi cho rằng họ cũng có máu Irelnad trong người, - ông Gerald nói, vẻ tự mãn. – Tôi quên mất họ đã làm những chuyện gì, nhưng Brent bây giờ đã là trung uý rồi.
Scarlett cảm thấy hài lòng khi nghe nói đến thành tích của họ, hài lòng theo cái cách của người sở hữu. Hễ một người đàn ông nào đã từng theo đuổi nàng là bao giờ nàng cũng đinh ninh rằng người đó thuộc về nàng và mọi việc làm tốt đẹp của anh ta đều mang vinh dự lại cho nàng.
- Tôi còn có tin này hấp dẫn đối với cả hai cô, - ông Gerald nói. - Họ đồn rằng Stu lại đang định giương cung băn sẻ ở Trại Mười Hai Cây Sồi.
-
Honey
hay India? – Melly hồi hộp hỏi, trong khi Scarlett trừng trừng nhìn, gần như công phẫn.
- Ồ, dĩ nhiên là India. Chẳng phải cô ấy đã bám sát Stu trước khi con bé vô tích sự nhà tôi nhấm nháy với cậu ta đó sao?
- Ồ, - Melly nói, - có phần ngượng vì cách ăn nói sống sượng của ông Gerald.
- Hơn thế nữa, chàng trai trẻ Brent cũng đã bắt đầu lảng vảng quanh ấp Tara. Thế đấy!
Scarlett ngớ ra không biết nói sao. Sự chạy làng của các chàng đã từng theo đuổi nàng gần giống như một lời lăng nhục. Nhất là khi nàng nhớ lại phản ứng điên cuồng của cả hai anh em sinh đôi hôm nàng báo tin mình sắp lấy Charles. Thậm chí Stuart đã doạ sẽ bắn Charles, hoặc Scarlett, hoặc tự bắn mình, hoặc bắn cả ba. Tình tiết ấy thật mê ly rùng rợn.
- Suellen chăng? – Melly hỏi với một nụ cười thích thú. – Nhưng cháu ngỡ cậu
Kennedy
…
- Chà, cậu ta ấy à? – Ông Gerald nói, - Frank Kennedy vẫn cứ dè dặt thậm thà thậm thụt hoài, sợ cả đến cái bóng của mình. Nếu cậu ta không nói rõ ý định của mình ra thì một ngày gần đây tôi sẽ hỏi thẳng xem cậu muốn nói gì. Không, đó là con bé út nhà tôi.
-
Carreen
?
- Nó còn là con nít mà? – Scarlett gay gắt nói, lúc này mới mở được miệng.
- Cô chỉ hơn nó già một năm hồi cô lấy chồng, tiểu thự ạ, - ông Gerald vặc lại. Phải chăng cô hậm hực về chuyện người tình cũ của cô chuyển sang tán em gái cô?
Melly đỏ mặt, nàng không quen với lối nói chẻ hoe như vậy và ra hiệu cho Peter mang món bánh khoai lang vào. Đầu óc nàng quay cuồng cố tìm ra một đầu đề nói chuyện khác ít có tính chất riêng tư hơn, mà lại có thể làm ông O’Hara nhãng khỏi mục đích chuyến đi này. Nàng không nghĩ ra được điều gì, nhưng ông Gerald, một khi đã mở máy, thì không cần một thứ kích thích nào khác ngoài một số thính giả. Ông tiếp tục huyên thuyên về tệ ăn cắp của bọn quân nhu mỗi tháng một tăng cường đòi hỏi yêu sách, về sự ngu xuẩn xỏ lá ba que của
Jefferson Davis
và sự đê tiện của những tên Irelnad hám tiền thưởng mà xung vào quân đội Yankee.
Khi rượu đã bày trên bàn và hai nàng đứng dậy định rút lui để ông uống cho thoải mái, ông Gerald nhíu cặp lông mày, lừ mắt nghiêm nghị nhìn con gái và ra lệnh cho nàng nán lại mấy phút gặp riêng ông. Scarlett ném một cái nhìn tuyệt vọng về phía Melly lúc này đành chỉ vo tròn chiếc khăn tay, rồi đi ra, nhẹ nhàng đóng cánh cửa trượt lại
- Thế nào, tiểu thư? – Ông Gerald oang oang, tự rót cho mình một cốc rượu porto. – Cư xử đẹp đẽ nhỉ! Vừa mới goá đã toan kiếm một tấm chồng khác, phỏng?
- Ba đừng nói to thế, bọn gia nhân…
- Chúng biết cả rồi, chắc chắn thế, và ai nấy đều biết mối đê nhục này của gia đình ta. Tội nghiệp mẹ cô thì ốm liệt giường vì thế, còn tôi thì không dám cất cao đầu nữa. Thật nhục nhã! Không, Mèo con ạ, lần này cô đừng có hòng lấy nước mắt mà làm mềm lòng tôi, - ông nói vội, giọng có phần hốt hoảng khi thấy Scarlett bắt đầu chớp chớp mắt và rệch miệng xuống. Tôi còn lại gì cô, cô có thể giăng gió ngay sau khi chồng cô chết. Đừng có khóc. Thôi, tối nay tôi không nói gì thêm nữa, bởi vì tôi sắp đi gặp cái tên thuyền trưởng Butler đẹp mã kia nó chẳng coi danh giá con gái tôi ra cái gì. Nhưng sáng mai…Thôi nào, đừng có khóc. Không ăn thua gì đâu. Ý tôi đã quyết, như đinh đóng cột, sáng mai cô sẽ trở về ấp Tara, trước khi cô bôi gio trát chấu vào mặt tất cả chúng tôi một lần nữa. Đừng khóc, cưng. Hãy nhìn xem ba mang cho con cái gì này! Một món quà đẹp không? Nhìn này! Làm sao con nỡ làm khổ ba đến thế, bắt ba phải lên tít tận đây trong khi ba bận bịu bao nhiêu công việc? Đừng khóc nữa, con!
Melanie và bà Pittypat đã ngủ từ mấy giờ trước mà Scarlett vẫn nằm theo thức trong bóng đêm nóng nực, lòng nặng trĩu lo âu sợ hãi. Phải rời Atlanta đúng lúc cuộc đời vừa mới bừng trở lại và về nhà giáp mặt với bà Ellen! Nàng thà chết còn hơn phải giáp mặt mẹ. Nàng ước gì mình chết ngay bây giờ, để cho mọi người sẽ phải ân hận vì nỗi đã hằn học với nàng đến thế. Nàng trằn trọc trên chiếc gối dài nóng ấm cho đến khi một tiếng động ở tận mé trên con phố lặng lẽ vang đến tai nàng. Đó là một tiếng động quen thuộc lạ lùng, mặc dầu nghe loáng thoáng không rõ. Nàng tụt xuống khỏi giường và ra cửa sổ. Dãy phố, với hàng cây cành lá giao nhau thành vòm, chạy dài yên ắng, thẳm tối dưới bầu trơờ lấm tấm sao. Tiếng động đến gần – bánh xe cót két, vó ngựa lộp cộp và những giọng người. Và đột nhiên, nàng nhoẻn miệng vì chợt hiểu ra khi nghe thấy một giọng trọ trẹ âm sắc Irelnad và lè nhè rượu cất lên bài Peg chễm chệ trên xe có ghế dựa. Dù đây không phải là ngày hội ở Johnesboro, nhưng ông Gerald vẫn cứ trở về trong tình trạng tuý luý như vậy.
Nàng trông thấy cái bóng lù lù một chiếc xe độc mã dừng lại trước cửa nhà và những bóng người mờ mờ bước xuống. Có một người nào đó cùng đi với cha nàng. Hai bóng người dừng lại ở cổng. Nàng nghe thấy tiếng then cửa kêu lách cách và giọng ông Gerald rõ mồn một.
- Bây giờ tôi sẽ hát cho anh nghe bài Thương khóc
Robert Emmet
. Đó là một bài hát anh nên biết, chàng trai của tôi ạ. Tôi sẽ dạy anh.
- Tôi rất thích học bài ấy, - người cùng đi với ông đáp bằng cái giọng bèn bẹt kéo dài, dường như đang cố nén cười, - Nhưng bây giờ thì chưa, ông O’Hara ạ.
“Ôi, lạy Cháu, đó chính là cái gã Butler đáng ghét!” Scarlett nghĩ thầm. Mới đầu nàng thấy lo ngại nhưng rồi lại thấy vững tâm, chí ít thì hai người cũng không bắn nhau. Và ắt hẳn đã trở nên thân thiện thì mới cùng nhau trở về nhà vào cái giờ khuya khuắt này và trong tình trạng này.
- Kệ, tôi cứ hát bài ấy và anh sẽ phải nghe, kẻo tôi bắn bỏ, vì anh là hội viên
Orange
.
- Không phải là hội viên
Orange
, mà là người Charleston.
- Cũng không hơn gì. Mà còn tệ nữa. Tôi có hai bà chị dâu ở Charleston, tôi biết.
“Liệu ông già có ý định nói cho cả hàng xóm láng giềng nghe thấy không?” Scarlett hoảng hốt nghĩ thầm và với tay lấy chiếc áo choàng. Nhưng nàng có thể làm gì? Nàng không thể xuống gác vào cái giờ đêm hôm này để kéo ông bố từ ngoài phố vào nhà.
Không giáo đầu gì thêm, ông Gerald bám vào cánh cổng, ngửa đầu ra sau và bắt đầu cất giọng trầm ồm ồm hát bài Thương khóc. Scarlett tỳ khuỷu tay lên thành cửa sổ, lắng nghe và bất giác mỉm cười. Bài hát lẽ ra có thể hay, nếu cha nàng hát đúng điệu. Đó là một trong những ca khúc ưa thích của nàng và trong một lúc, nàng thả hồn theo nỗi buồn man mác của lời thơ:
Nghìn trùng xa, người anh hùng yên giấc
Và quanh nàng, bao chàng buông tiếng thở dài.
Ông Gerald tiếp tục hát và Scarlett nghe thấy tiếng lục xục trong buồng bà Pitty và buồng Melanie. Tội nghiệp, chắc chắn hai cô cháu lại xáo xác lên. Họ không quen với những người đàn ông khí huyết cường vượng như ông Gerald. Dứt bài hát, hai cái bóng quyện làm một, theo lối đi bước lên bậc thềm. Có tiếng gõ cửa nhẹ nhàng.
“Có lẽ mình phải xuống mở thôi”, Scarlett nghĩ. Dù sao đi nữa, đó cũng là cha mình, mà cô Pitty đáng thương thì chắc chưa kịp xuống đến nơi đã chết khiếp rồi”. Vả lại, nàng cũng không muốn để đầy tớ trong nhà trông thấy ông Gerald trong tình trạng thế này. Và nếu Peter tìm cách đưa ông về giường, ông có thể trở nên ngang ngạnh. Pork là người duy nhất biết cách lựa chiều xử trí với ông.
Nàng lấy trâm cài chặt cổ áo choàng, thắp cây nến đầu giường và hối hả theo cầu thang tối xuống hành lang trước nhà. Đặt nến lên giá, nàng mở khoá cửa và trong ánh sáng chập chờn, nàng thấy Rhett Butler, quần áo phẳng phiu tươm tất, đang đõ ông bố thấp mập, chắc nịch của nàng. Bài Thương khóc hiển nhiên là tiếng hót thiên nga của ông Gerald vì lúc này ông đã xỉu hẳn như mớ giẻ vắt trên cánh tay người bạn đồng hành. Mũ ông đã rơi đâu mất, mớ tóc dài và xoăn tít rũ xuống thành một cái bờm trắng, cà vạt lệch sang dưới một bên tai và ngực áo loang lổ vết rượu.
- Chắc là cụ thân sinh ra bà? - Thuyền trưởng Butler nói, cặp mắt cười cợt trên gương mặt ngăm đen. Chàng đưa mắt thâu gọn cái thân hình vận đồ ngủ trong một cái nhìn tưởng chừng xuyên thấu qua lần áo choàng.
- Đưa ông cụ vào, - nàng nói gọn lỏn, lúng túng vì y phục sơ sài của mình và giận ông Gerald đã đẩy nàng vào một cái thế khiến con người này có thể cười nàng.
Rhett đẩy ông Gerald về phía trước.
- Tôi có cần giúp bà đưa ông cụ lên gác không? Bà không dìu nổi đâu. Cụ nặng lắm.
Nàng há hốc mồm kinh hãi trước lời đề nghị táo tợn của chàng. Thử tưởng tượng mà xem, bà Pittypat và Melanie đang co rúm trên giường, họ sẽ nghĩ sao nếu thuyền trưởng Butler lên gác!
- Lạy Đức Mẹ Đồng Trinh, không được! Vào đây thôi, đặt trên cái xeti
[39]
[39] kia, trong phòng khách nhỏ ấy.- Bà muốn nói xati?
- Xin ông giữ cái ngôn ngữ lịch sự ở trong đầu cho tôi được cảm ơn ông. Đây. Bây giờ hãy đặt ba tôi nằm xuống.
- Có phải cởi ủng không?
- Không. Trước đây, cụ cũng đã từng để nguyên ủng mà ngủ.
Nàng những muốn cắn đứt lưỡi vì đã buột miệng nói thế, khi thấy chàng vừa cười khe khẽ, vừa bắt chéo chân ông Gerald lại.
- Bây giờ thì xin ông đi cho.
Chàng ra hành lang mờ tối và nhặt chiếc mũ lúc nãy đã đánh rơi trên ngưỡng cửa.
- Hẹn gặp lại bà ngày chủ nhật vào bữa ăn tối, - chàng nói và đi ra, nhẹ nhàng đóng cửa lại sau lưng không một tiếng động.
Scarlett dậy vào lúc năm giờ rưỡi, trước khi đám gia nhân từ sâu sau vào nhà để chuẩn bị bữa điểm tâm. Nàng lẳng lặng men cầu thang xuống tầng dưới im ắng. Ông Gerald đã thức giấc, đang ngồi trên sofa, hai tay ôm chặt lấy cái đầu to tròn như muốn bóp nát ra. Thấy Scarlett vào, ông len lén ngước lên nhìn. Chỉ riêng động tác đưa mắt đã khiến ông đau nhói đến phát rên lên: “Úi!”
- Ba ứng xử mới đẹp đẽ làm sao! – Scarlett giận dữ khai hoả, tuy nhiên vẫn hạ thấp giọng. – Về nhà vào cái giờ ấy mà còn hát váng lên làm cho tất cả hàng xóm thức giấc.
- Ba hát à?
- Hát chứ còn gì nữa! Làm dội vang cả lên với cái bài, Thương khóc ấy!
- Ba chẳng còn nhớ gì hết.
- Nhưng hàng xóm thì nhớ cho đến chết, cả cô Pittypat và Melanie cũng thế.
- Lạy Đức Mẹ Thương khó! – Ông Gerald rên rỉ và thè cái lưỡi cồm cộm ra liếm đôi môi khô nẻ. – Sau khi ván bài bắt đầu, ba chả còn nhớ gì mấy tí.
- Ba lại chơi bài?
- Cái thằng cha đào đĩ Butler ấy huênh hoang rằng hắn là tay chơi poker cừ nhất ở…
- Ba thua mất bao nhiêu?
- Ồ, tất nhiên là ba được chứ. Có một vài ly vào là chơi sáng nước hẳn lên.
- Ba kiểm ví xem nào.
Như thể mỗi động tác là một cực hình đau đớn, ông Gerald rút chiếc ví trong túi và mở ra. Ví rỗng không và ông ngỡ ngàng nhìn, không hiểu ra sao.
- Năm trăm đô la cơ mà, - ông nói. – Đó là để mua hàng vượt rào cho bà O’Hara và bây giờ thậm chí tiền mua vé về Tara cũng không còn.
Trong khi giận dữ nhìn chiếc ví rỗng không, Scarlett nảy ra một ý thoạt đầu chỉ mới nhú, rồi lớn lên rất nhanh.
- Con không còn dám cất cao đầu ở cái tỉnh này nữa, - nàng mở đầu. – Ba đã làm nhục tất cả chúng con.
- Giữ mồm giữ miệng đấy, Mèo con. Cô không thấy là đầu tôi đang muốn vỡ tung ra đấy à?
- Say khướt cò bơ, về nhà với một người như thuyền trưởng Butler, rồi hát rống lên để tất cả mọi người đều nghe thấy, lại còn mất sạch tiền nữa chứ.
- Cái gã ấy đánh bài quá ranh ma, chắc không phải là người trong giới thượng lưu. Hắn…
- Mẹ sẽ nói sao khi nghe chuyện này?
Ông ngước nhìn, đột nhiên lo ngại.
- Con chớ có kể gì với mẹ, kẻo bà ấy lại cuống lên. Mèo con nhé!
Scarlett không nói gì, chỉ bĩu môi:
- Con nghĩ mà xem, cái đó sẽ làm cho mẹ khổ tâm biết chừng nào, mà mẹ thì dịu dàng phúc hậu thế!
- Thế mà mới tối qua ba còn nói là con đã làm nhục gia đình! Mà tội nghiệp, con chỉ nhảy có tí tẹo để lấy tiền ủng hộ binh sĩ, chứ có làm gì cho cam. Ôi, con phát khóc lên được.
- Thôi, đừng con. – ông Gerald van vỉ. – Con mà khóc thì cái đầu khốn khổ của ba chắc không chịu được nữa và nhất định sẽ vỡ tung ra mất thôi.
- Và ba còn bảo là con…
- Thôi, Mèo con, thôi thôi, Mèo con, đừng có đau khổ làm gì với những điều người bố già tội nghiệp của cô đã nói, bởi vì ông ta nói vậy mà đâu có nghĩ vậy và thực ra chẳng hiểu tí gì cả! Hẳn nhiên con là một cô gái tốt, đầy thiện ý, ba tin chắc thế.
- Và muốn bắt con về nhà hỏi tội.
- Ồ, con gái yêu, ba đâu có muốn làm thế. Đó là để trêu con thôi. Con sẽ không nhắc đến món tiền ấy với mẹ chứ? Không có chuyện ấy mẹ cũng đã đủ lo phiền vì hàng trăm khoản chi tiêu rồi!
- Không, - Scarlett thẳng thắn nói, - con sẽ không nói nếu ba để con ở lại đây và nếu ba về nói với mẹ rằng cái tin kia chỉ là chuyện tào lao của mấy mụ già ngồi lê đôi mách.
Ông Gerald buồn bã nhìn con gái.
- Đó là thủ đoạn của bọn tống tiền không hơn không kém.
- Còn chuyện đêm qua của ba thì là một vụ bê bối, không hơn không kém.
- Thôi được, - ông nói, giọng dỗ dành, - ba con mình hãy quên tất cả những cái đó đi. Theo con, một bà quý tộc dễ thương như Miss Pittypat thường có rượu mạnh ở trong nhà không nhỉ? Dĩ độc trị…
Scarlett quay đi và rón rén qua dãy hành lang im ắng, vào phòng ăn để lấy chai brandy mà nàng và Melanie gọi riêng với nhau là “chai ngất”, vì bà Pittypat bao giờ cũng với lấy nó uống một hớp mỗi khi bệnh tim hồi hộp làm cho bà xỉu, hoặc tưởng như sắp xỉu. Mặt nàng lộ rõ vẻ đắc thắng và không hề có chút dấu vết nào tỏ ra xấu hổ về thái độ đối xử bất hiếu với ông Gerald. Từ giờ, nếu có kẻ thối miệng nào khác viết thư mách bà Ellen bà sẽ được trấn an bằng những lời nói dối. Từ giờ, nàng sẽ ở lại Atlanta.Từ giờ, nàng hầu như có thể làm mọi điều theo ý mình với bà Pittypat nhu nhược như vậy. Nàng mở cái hầm rượu nhỏ và đứng im một lát với chai rượu cùng chiếc ly ắp vào ngực.
Nàng hình dung thấy hàng loạt cuộc vui, nào picnic bên lạch nước sủi tăm dọc theo đường Cây Đào và tiệc ngoài trời ở chân núi Thạch Sơn, nào chiêu đãi và vũ hội với những bạn nhảy ban chiều, nào những chuyến đi chơi xe ngựa và những bữa ăn đồ nguội tối chủ nhật. Nàng sẽ có mặt chính giữa các cuộc liên hoan đó, chính giữa một đám đông đàn ông. Mà đàn ông thì dễ ngã tình biết mấy, sau khi ta làm cho họ đôi ba việc vặt ở bệnh viện. Từ giờ, nàng sẽ không ngại công việc bệnh viện như trước nữa. Đàn ông rất dễ xúc động khi họ ốm đau bệnh tật. Họ rơi vào tay một cô gái thông minh như những trái đào chín ở ấp Tara khi ta nhẹ rung cây.
Nàng quay trở lại chỗ ông bố với chai rượu hồi sức, lòng thầm cảm tạ Trời đã khiến cho cái đầu trứ danh nòi O’Hara không đủ sức vượt qua cuộc chè chén đêm qua. Và đột nhiên nàng tự hỏi: không biết Rhett Butler có nhúng tay vào vụ này không?
CHƯƠNG XI
Vào một buổi chiều tuần sau, Scarlett từ bệnh viện về nhà vừa mệt vừa tức. Mệt vì phải đứng suốt buổi sáng và bực vì bị bà Merriwether mắng té tát về tội ngồi lên giường của một thương binh khi băng cánh tay cho anh ta. Bà cô Pittypat và Melanie, diện quần áo đẹp đang ở ngoài hiên với Wade và Prissy, sẵn sàng cuộc đi chơi thường lệ hàng tuần, thăm thú họ hàng, bè bạn. Scarlett cáo lỗi không đi cùng và lên gác về buồng riêng.
Khi tiếng lọc cọc cuối cùng của bánh xe đã tắt và biết chắc cả nhà đã đi khuất hẳn, nàng lặng lẽ lẻn vào phòng Melanie và vặn chìa khóa trong ổ đóng cửa lại. Đó là một căn phòng nhỏ ngăn nắp gọn gàng, trinh bạch. Không khí tĩnh lặng và nồng ấm trong những tia chênh chếch của mặt trời bốn giờ chiều. Sàn để trần, bóng lóang, trừ mấy chỗ trải những tấm thảm nhỏ màu tươi thắm. Bốn bức tường trắng trơn cũng không có gì trang trí, nếu không kể một góc nhỏ ở đó Melanie đã bố trí một thứ bàn thờ.
Ở đây, dưới một lá cờ liên bang, có treo thanh kiếm chuôi vàng mà cha Melanie đã mang suốt cuộc chiến tranh Mexico, cũng chính là thanh kiếm Charles đã đeo ra trận. Chiếc đai gươm và thắt lưng của Charles với khẩu súng lục vẫn để nguyên trong bao, cũng treo luôn ở đó. Giữa thanh kiếm và khẩu súng lục là một tấm hình Charles thẳng đuỗn và kiêu hãnh trong bộ quân phục màu xám, cặp mắt nâu long lanh như muốn bật ra ngoài khung ảnh và một nụ cười rụt rè trên môi.
Scarlett thậm chí không buồn liếc nhìn tấm ảnh mà đi thẳng không chút lưỡng lự tới chiếc tráp vuông bằng gỗ hồng mộc trên bàn cạnh chiếc giường nhỏ. Nàng lấy từ từ tráp ra một tệp thư được bó lại bằng một dải băng xanh, những bức thư Ashley gửi cho Melanie. Trên cùng là bức vừa tới sáng nay và nàng mở ra xem.
Lần đầu đọc trộm những lá thư này, Scarlett thấy lương tâm cắn rứt và sợ bị bắt quả tang đến nỗi tay run bắn, khó khăn lắm mới mở được phong bì. Giờ đây, cái ý thức danh dự không bao giờ biết quá áy náy của nàng đã lờn đi qua nhiều lần tái phạm và cả nỗi sợ bị phát giác cũng đã nguôi. Đôi lúc, nàng nghĩ thầm, tim se lại: “Mẹ mà biết thì mẹ sẽ nói sao nhỉ?” Nàng biết bà Ellen thà thấy nàng chết ngay trước mắt còn hơn biết nàng phạm vào điều ô nhục như thế này. Điều đó thoạt đầu, cũng làm Scarlett băn khoăn vì nàng vẫn còn muốn giống mẹ về mọi mặt. Nhưng, sự cám dỗ của những bức thư quá lớn, khiến nàng gạt bỏ ý nghĩ về bà Ellen ra khỏi tâm trí. Dạo này, nàng đã trở nên thiện nghệ trong việc gạt bỏ những ý nghĩ không thú vị ra khỏi đầu. Nàng đã học được cách nói: “Giờ ta khoan nghĩ đến điều khó chịu này nọ vội, để đến mai hẵng hay.” Thường thường, đến mai thì hoặc nàng đã quên hẳn cái ý nghĩ đó, hoặc, do sự trì hoãn, nó đã mờ nhạt đi đến độ không còn phiền nhiễu lắm nữa. Cho nên vấn đề những bức thư của Ashley chẳng đè nặng lắm lên lương tâm của nàng.
Melanie bao giờ cũng tỏ ra rộng rãi, đọc to nhiều đoạn thư cho bà cô Pitty và Scarlett cùng nghe. Nhưng chính cái phần nàng không đọc lại giày vò Scarlett khổ sở, đẩy nàng đến chỗ xem trộm thư của cô em chồng. Nàng cần phải biết, từ khi thành hôn, Ashley đã đi đến chỗ yêu vợ chưa, hoặc thậm chí chàng có giả vờ yêu Melanie hay không. Chàng có gọi cô ta bằng những tên âu yếm không? Chàng bộc lộ những tình cảm gì, với mức độ nồng nhiệt như thế nào?
Nàng thận trọng giở lá thư.
Dòng đầu: “người vợ thân thương của anh” với nét chữ nhỏ, đều đặn của Ashley đập ngay vào mắt nàng, khiến nàng thở dài nhẹ nhõm. Vậy là chàng chưa gọi Melanie là “cưng” hoặc “em yêu”.
“Người vợ thân thương của anh! Em viết rằng sợ anh giấu em những ý nghĩ thật của anh và hỏi thời gian này anh đang bận tâm về những chuyện gì...”
“Lạy Đức Mẹ Đồng Trinh!” Scarlett hoảng hốt nghĩ thầm với một cảm giác phạm tội. “Giấu em những ý nghĩ thật của anh”. Phải chăng Melanie đọc được tâm tư của chàng? Hay tâm tư của ta? Liệu cô ta có ngờ là chàng với ta...
Tay nàng run lên vì sợ hãi, đưa bức thư lại gần mắt hơn. Nhưng đọc sang đoạn sau, nàng yên tâm hơn.
“Vợ hiền của anh, nếu anh có giấu em điều gì, đó là vì anh không muốn chất lên vai em một gánh nặng, không muốn em vốn đã lo cho sự an toàn thân thể của anh lại phải băn khoăn thêm về những gì đang làm tâm trí anh xáo động. Nhưng anh không thể giấu em điều gì, bởi em hiểu anh quá rõ. Đừng hoảng loạn. Anh không bị thương. Anh không ốm. Anh ăn uống đầy đủ và thỉnh thoảng cũng được ngủ trên giường. Một người lính không thể đòi hỏi hơn thế. Nhưng, Melanie ạ, có những ý nghĩ đè nặng trong lòng anh và đây, anh xin cởi mở với em.”
“Những đêm hè này, anh thường nằm thao thức khá lâu sau khi trại binh đã ngủ yên, và anh nhìn lên trời cao, tự hỏi hoài: Tại sao ngươi lại ở đây, Ashley Wilkes? Ngươi chiến đấu vì cái gì?” Chắc chắn không phải vì danh dự và vinh quang. Chiến tranh là một việc bẩn thỉu. Anh không phải là con nhà lính và anh chẳng hề khao khát kiếm chút danh tiếng bèo bọt, dù là ở miệng súng đại bác. Tuy nhiên, anh đang ở đây xông pha trận mạc - mà Thượng đế đã định phần cho anh chỉ là một quý tộc nông thôn chăm chỉ học hành. Bởi vì Melanie ạ, tiếng kèn đồng không làm anh sôi động nhiệt huyết, tiếng trống cũng chẳng nâng được bước chân anh, và anh thấy rõ rằng chúng ta đã bị phản bội, phản bội bởi chính cái bản ngã miền Nam cao ngạo nó làm cho chúng ta tin rằng mỗi người chúng ta có thể đánh bại hàng chục tên Yankee, tin rằng bông có thể làm vua trị vì toàn thế giới. Bị phản bội bởi vả những từ ngữ và khẩu hiệu, những thành kiến và hằn thù, phát ra từ miệng những kẻ ăn trên ngồi chốc, những kẻ mà ta nể trọng, kính yêu: Bông Là Vua, Kiếp Nô Lệ, Quyền các Bang, Bọn Yankee đáng nguyền rủa...”
“Thế cho nên khi anh nằm trên chăn, nhìn lên trời sao mà tự hỏi: Ngươi chiến đấu vì cái gì? Anh bèn nghĩ đến Quyền các bang, đến Bông, đến những người da đen và bọn Yankee mà ta đã được giáo dục là phải căm thù, và anh hiểu rằng không một điều nào trong số này là lý do thật sự khiến anh phải chiến đấu. Ngược lại, anh hình dung thấy Trại Mười Hai Cây Sồi, anh nhớ đến ánh trăng chênh chếch trên dãy cột trắng và đem lại cho bụi cây mộc lan một vẻ huyền ảo như thế nào, anh nhớ những dây hồng leo làm cho hàng hiên bên cạnh râm mát ngay cả vào giờ trưa nóng nực nhất. Anh nhìn thấy mẹ ngồi đó khâu vá như khi anh còn là một chú bé. Anh nghe thấy những người da đen xuyên qua đồng về nhà khi hoàng hôn xuống vừa mệt vừa đói nhưng vẫn hát. Anh nghe thấy tiếng tời cót két khi thả gầu xuống con giếng mát. Và cả cái phong cảnh trải ra, con đường tới bờ sông, xuyên qua các cánh đồng, màn sương dâng lên từ những chân ruộng thấp khi trời chập choạng tối. Và chính vì những cái đó mà anh ở đây, anh, một kẻ không hề thích chết chói khổ ải, cũng chẳng hám vinh quang và chẳng căm thù ai. Lòng yêu nhà, yêu xứ sở có lẽ cũng chính là cái được gọi là lòng ái quốc. Nhưng, Melanie ạ, tình cảm ấy còn sâu hơn thế nữa. Bởi vì, Melanie ạ, những điều anh vừa nêu chỉ là những thứ tượng trưng cho cái mà anh liều mình vì nó, tượng trưng cho kiểu sống mà anh yêu. Vì anh đang chiến đấu cho những ngày xưa cũ, những phong tục xưa cũ mà anh xiết bao yêu mến, những thứ mà anh e rằng giờ đây đã mất đi vĩnh viễn, bất kế sự thể xoay vần ra thế nào. Vì, dù thắng hay bại chúng ta vẫn mất mát, thua thiệt.”
“Nếu chúng ta thắng trong cuộc chiến tranh này và đạt được đến cái Vương quốc Bông hằng mơ ước, thì chúng ta vẫn cứ là mất mát, vì chúng ta sẽ trở thành người khác khi các phong tục êm đềm xưa chẳng còn. Thế giới sẽ đến cửa ngõ chúng ta gào bông và chúng ta có thể áp đặt giá của mình. Anh sợ rằng lúc đó chúng ta sẽ trở thành bọn Yankee mà giờ đây chúng ta vẫn khinh bỉ vì những thủ đoạn làm tiền, đầu óc con buôn hám lợi của chúng. Và nếu chúng ta thất bại, ôi Melanie, nếu chúng ta thất bại!”
“Anh không sợ nguy hiểm, không sợ bị bắt, hoặc bị thương, thậm chí không sợ chết, nếu cần phải chết, nhưng anh sợ rằng chúng ta sẽ không bao giờ trở lại được thời xưa, một khi cuộc chiến này kết thúc. Mà anh thì chỉ hợp với cái thời xưa ấy. Anh không hợp với cái hiện tại chém giết điên cuồng này, và anh e rằng, dù có cố gắng đến đâu, anh cũng sẽ không thích ứng được với bất kỳ một thời tương lai nào. Cả em nữa cũng thế, Melanie thân thương, vì em và anh vốn cùng một khí huyết. Anh cũng không biết tương lai sẽ mang lại gì, nhưng nó không thể đẹp và mãn ý như quá khứ được.”
“Anh nằm đây và nhìn các chàng trai đang ngủ quanh mình, lòng tự hỏi không biết anh em sinh đôi nhà Tarleton, hoặc Alex, hoặc Cade, có như vậy không? Không hiểu họ có biết mình đang chiến đấu cho một sự nghiệp đã bại vong ngay từ lúc nổ súng đầu tiên? Nhưng anh cho rằng họ không nghĩ thế và họ thật may mắn.”
“Khi anh ngỏ lời cầu hôn với em, anh không hề nghĩ thế. Lúc ấy anh nghĩ rằng cuộc đời ở Trại Mười Hai Cây Sồi vẫn tiếp tục như ngày xưa, thanh bình, thoải mái, không thay đổi. Chúng mình giống nhau, Melanie ạ, cùng yêu thích những gì êm đềm, và anh thấy trải ra trước mắt chúng ta một chuỗi những năm tháng bình lặng, tha hồ đọc sách, nghe nhạc và mơ mộng. Nhưng không phải thế này! Làm sao cơ sự này có thể xảy đến với tất cả chúng ta, các phong tục cũ sụp đổ như thế này, cuộc tàn sát đẫm máu này, mối hận thù này! Melanie, chẳng có gì đáng phải trả cái giá ấy, cả Quyền các Bang, cả việc chiếm hữu nô lệ, cả bông, đều không bõ. Chẳng có gì bõ bèn để chúng ta phải chịu những nông nỗi đang xảy đến và những gì còn có thể xảy đến, vì nếu bọn Yankee đánh bại chúng ta, tương lai sẽ khủng khiếp không sao tưởng tượng nổi. Và, Melanie thân yêu, điều đó rất có thể sẽ xảy ra.”
“Lẽ ra anh không nên viết những lời này, thậm chí anh không nên nghĩ thế nữa kia. Nhưng em đã hỏi anh điều gì nằm trong tim anh, thì đấy, nó là nỗi sợ bị thất bại. Em có nhớ tại bữa tiệc ngoài trời hôm công bố việc đính hôn của chúng ta, một anh chàng tên là Butler (nghe giọng thì rõ là dân Charleston) đã suýt gây ra một cuộc ẩu đả khi vạch rõ sự ngu dốt của người miền Nam? Em có nhớ hai anh em sinh đôi Tarleton đã định bắn anh ta vì anh ta bảo chúng ta có quá ít xưởng đúc, nhà máy, cối xay bột, tàu thuyền, binh công xưởng? Em có nhớ anh ta đã nói hạm đội Yankee có thể bít chặt các cửa khẩu của ta đến nỗi ta không có cách nào xuất cảng được không? Anh ta đã nói đúng. Chúng ta đem những khẩu súng kíp từ thời chiến tranh cách mạng ra đỡ với những loại súng trường mới nhất của bọn Yankee và chẳng bao lâu nữa, hàng rào phong tỏa sẽ xiết chặt đến độ thuốc men cũng không tuồn vào được. Lẽ ra chúng ta phải lắng nghe những tay hoài nghi chủ nghĩa như Butler - khác với các nhà chính khách chỉ cảm thấy, những tay này biết rành và nói ra điều mình biết. Thật vậy, Butler nói rằng miền Nam chẳng có gì để tiến hành chiến tranh, ngoài bông và tính ngạo mạn. Nhưng anh thì gọi tính ngạo mạn đó là lòng can đảm vô song. Nếu...”
Nhưng Scarlett cẩn thận gấp lá thư lại, không đọc nốt và nhét trả lại vào phong bì, quá ngán không buồn biết thêm. Hơn nữa, giọng thư làm nàng hơi nản về những lời dớ dẩn về thất bại. Nói cho cùng, nàng đọc thư từ của Melanie đâu phải là để biết những ý tưởng rối rắm và vô bổ của Ashley. Những cái đó dạo xưa nàng đã nghe mãi, hồi chàng hay ngồi chơi ở hàng hiên ấp Tara.
Nàng chỉ cần biết một điều: chàng có viết những bức thư nồng nàn cho vợ hay không. Cho đến nay thì chưa. Nàng đã đọc tất cả thư trong tráp và không một bức thư nào chứa đựng bất cứ điều gì mà một người anh trai không thể viết cho em gái. Trìu mến, hóm hỉnh, thuyết lý, nhưng không phải là những bức thư người yêu viết cho người yêu. Bản thân Scarlett đã nhận được quá nhiều thư tình nồng cháy, nên nàng không thể không nhận ra cái nốt đam mê chính cống khi nàng bắt gặp nó. Mà ở đây thì không phải cái nốt ấy. Như tất cả mọi lần sau khi đọc trộm thư một cảm giác thỏa mãn, dương dương tự đắc bao bọc lấy nàng, vì nàng tin Ashley còn yêu mình. Và bao giờ nàng cũng cười nhạo mà tự hỏi tại sao Melanie không hiểu ra rằng Ashley chỉ yêu cô ta như một người bạn. Hiển nhiên là Melanie không thấy những bức thư của chồng mình thiếu cái gì, nhưng Melanie đâu có thư tình của người đàn ông nào khác”, Scarlett nghĩ “nếu chồng mình mà viết cho mình những chuyện tào lao như thế, nhất định mình sẽ dạy cho mà biết. Chà, đến Charles viết thư cũng còn khá hơn.”
Nàng lật mép những bức thư, xem lại ngày gửi, nhớ lại nội dung từng bức. Không có những đoạn hoành tráng mô tả cảnh hùng tráng mô tả cảnh hạ trại đóng quân hay ào ào xung sát như trong những thư của Darcy Meade viết cho cha mẹ hoặc của anh chàng Dallas McLure tội nghiệp viêt cho hai cô chị gái già, các Miss Faith, Miss Hope
[40]
[40] . hai gia đình Meade và McLure thường hãnh diện đọc những lá thư đó cho tất cả hàng xóm láng giềng nghe, và Scarlett thường hay thầm xấu hổ mỗi khi Melanie không có bức thư nào tương tự của Ashley để đọc to lên trong những hội khâu may.Thật cứ như là trong khi viết cho Melanie, Ashley cố không đếm xỉa gì đến chiến tranh và tìm cách vạch quanh hai vợ chồng một vòng tròn màu nhiệm phi thời gian, gạt ra ngoài tất cả những gì đã diễn ra từ khi bùng nổ sự kiện pháo đài Sumter. Hầu như chàng cố gắng để tin rằng không có chiến tranh gì hết. Chàng nhắc đến những cuốn sách chàng và Melanie đã đọc, đến những bài hát họ đã hát, đến những bạn bè chung, đến những nơi chàng đã đến trong chuyến viễn du của mình. Xuyên suốt các bức thư là một nỗi khao khát được trở về Trại Mười Hai Cây Sồi. Chàng viết hàng trang, hàng trang dài về chuyện săn bắn, về những cuộc đi chơi dài, rong ruổi trên mình ngựa qua những con đường rừng lặng lẽ, dưới bầu trời mùa thu đầy sao và sương giá, về những việc ngoài trời, những buổi đi câu, về những đêm sáng trăng yên ả và ngôi nhà cũ đầy vẻ huyền diệu thanh khiết.
Nàng nghĩ đến những lời trong bức thư vừa đọc: “Không phải thế này! Không bao giờ tôi mong ước thế này!” tựa như tiếng kêu thét của một linh hồn quằn quại đang dối mặt với một cái gì nó không thể mà vẫn phải đối mặt. Nàng bối rối không hiểu ra sao: nếu chàng không sợ bị thương, không sợ chết, thì chàng sợ cái gì? Vốn không có khả năng phân tích, nàng đánh vật với ý nghĩ phức tạp ấy.
“Chiến tranh làm rầy chàng và chàng... chàng không thích những gì làm rầy mình... Chẳng hạn như mình đây... Chàng yêu mình, nhưng chàng e ngại không muốn lấy mình, bởi vì... phải, vì sợ mình làm đảo lộn nếp nghĩ suy và cách sống của chàng. Không, nói cho chính xác, không phải chàng sợ. Ashley đâu phải kẻ hèn nhát, không thể có chuyện đó khi mà chàng được biểu dương trong các thông báo, khi mà đại tá Sloan viết cả một bức thư cho Melanie về hành động dũng cảm của chàng khi dẫn đầu mũi xung kích. Một khi chàng đã định bụng làm việc gì thì không ai có thể dũng cảm hơn hoặc quyết tâm hơn, nhưng... Chàng sống nội tâm chứ không thích xuất hiện lộ diện và... Ồ mình không hiểu ra sao cả! Nếu mình hiểu được điều này từ cách đây mấy năm, hẳn chàng đã lấy mình.”
Nàng đứng một lúc ghì tập thư vào ngực, nghĩ đến Ashley với một nỗi nhớ da diết. Tình cảm của nàng đối với Ashley vẫn không thay đổi kể từ ngày đầu tiên nàng đem lòng yêu chàng. Đó vẫn là nỗi xúc động đã khiến nàng không nói nên lời, cái hôm nàng đứng ở cổng ấp Tara, trông thấy Ashley tươi cười phóng ngựa lên, mái tóc ánh lên như bạc dưới nắng sớm, hồi ấy nàng mới là một cô bé mười bốn tuổi. Tình yêu của nàng thủa ấy còn là sự tôn thờ của một thiếu nữ đối với một người đàn ông mà nàng không hiểu nổi, một người đàn ông với đủ các phẩm chất mà nàng không có nhưng vẫn hằng ngưỡng mộ. Chàng vẫn là hình ảnh người Hiệp sĩ toàn mỹ trong mơ ước của các thiếu nữ và mơ ước của nàng không yêu cầu gì hơn sự chấp nhận tình yêu của chàng, không vượt quá hy vọng ấy được một cái hôn.
Sau khi đọc những bức thư nọ, Scarlett tin chắc rằng Ashley yêu mình, mặc dầu chàng đã lấy Melanie và điều xác tin đó hầu như là tất cả những gì nàng mong muốn vì giờ đây nàng vẫn trẻ như thế, vẫn nguyên vẹn như thế. Giá như Charles, qua những giờ phút chung chăn gối vụng về, lúng túng, đã khơi được phần nào mạch nguồn nhục cảm ẩn sâu trong nàng, thì hẳn nàng không chỉ ao ước một cái hôn của Ashley mà thôi. Nhưng mấy đêm sáng trăng ngắn ngủi má ấp vai kề với Charles đã không gây xúc động thực sự cho nàng hoặc đẩy tình dục trong nàng đến độ chín. Charles đã không đánh thức dậy ở nàng một ý niệm gì về vuốt ve âu yếm, hay nhục cảm nồng cháy, hay sưu gần gũi thật sự về thể xác cũng như tinh thần.
Đối với nàng, nhục dục chỉ có nghĩa là phục tùng sự điên cuồng không cắt nghĩa được của đàn ông mà bản thân mình không hề chia sẻ, một chu trình đau đớn và rầy rà, tất yếu dẫn đến cái chu trình còn đau đớn hơn của việc sinh đẻ. Nàng không ngạc nhiên về việc hôn nhân là như thế. Trước khi cưới, nàng đã nghe những lời dặn dò của bà Ellen, ngụ ý rằng hôn nhân là điều mà người phụ nữ phải ngoan cường chịu đựng với tất cả phẩm cách của mình. Và những lời xì xào bình phẩm của những người đàn bà có chồng khác, từ khi nàng trở thành quả phụ, đã khẳng định điều đó. Scarlett lấy làm sung sướng vì đã dứt điểm được với nhục dục và hôn nhân.
Nàng đã dứt nợ với hôn nhân, song chưa phải với ái tình, vì tình yêu của nàng với Ashley chỉ là một cái gì khác không hề có liên quan với nhục dục hoặc hôn nhân, một cái gì thiêng liêng và đẹp đẽ đến ngây ngất, một nhiềm xúc động cứ ngầm ngầm lớn lên trong sự im lặng bó buộc của nàng suốt bao tháng ngày đằng đẵng được nuôi dưỡng bằng những hy vọng cùng hồi ức thường xuyên được ôn lại.
Thắt dải băng buộc lại cẩn thận bó thư, nàng thở dài, tự hỏi đến lần thư một nghìn là điều gì ở Ashley đã vượt quá tầm hiểu biết của nàng như vậy. Nàng cố gắng suy nghĩ để đi đến một kết luận mỹ mãn, nhưng cũng có khi, nó không chịu đến với đầu óc đơn giản của nàng. Nàng để trả tập thư vào trong tráp và đậy lại. Rồi nàng bỗng cau mày: nàng vừa nghĩ đến phần cuối lá thư nàng vừa đọc, đoạn nhắc tới thuyền trường Butler. Thật kỳ lạ, làm sao Ashley lại giữ ấn tượng sâu sắc đến thế về những điều gã vô lại ấy đã nhắc đến cách đây một năm! Rõ ràng thuyền trưởng Butler là một gã vô lại, mặc dầu hắn ta nhảy rất tuyệt. Chỉ có một tên vô lại mới nói về Liên bang như hắn đã nói trong cuộc bán phúc thiện.
Nàng đi ngang qua phòng tới trước tấm gương và vuốt làn tóc mượt mà vẻ hài lòng. Nàng thấy phấn chấn, như mỗi khi nhìn thấy nước da trắng ngần cùng cặp mắt xanh hơi xếch của mình, và nàng mỉm cười cho lộ rõ hai lúm đồng tiền. Rồi vui sướng ngắm mình trong gương và nhớ lại là Ashley rất thích những lúm đồng tiền ấy, nàng gạt phắt thuyền trưởng Butler ta khỏi tâm trí. Không một chút ân hận nào về chuyện yêu chồng của một người đàn bà khác hay đọc trộm thư của người đàn bà ấy, làm bợn niềm khoái cảm đang rộn lên trong nàng do thấy mình trẻ trung, đầy duyên sắc và lại yên trí rằng Ashley yêu mình.
Nàng mở khóa cửa và đi xuống cầu thang mờ tối, lòng lâng lâng, đến giữa chừng nàng cất tiếng hát bài Bao giờ hết chiến tranh?
CHƯƠNG XII
Chiến tranh tiếp diễn, đa phần là thắng lợi, nhưng người ta đã thôi không nói: "Chỉ một trận thắng nữa là chiến tranh sẽ kết thúc", cũng thôi không chê bọn Yankee là hèn nhát nữa. Mọi người đều thấy rõ rằng bọn Yankee tuyệt nhiên không hèn nhát và phải hơn một trận thắng nữa mới đánh quỵ được chúng. Tuy nhiên, những chiến thắng do các tướng Morgan và Forrest giành được ở Tennessee và thắng lợi trong trận thứ hai Bull Run vẫn nổi bật lên như những túm da đầu Yankee
[41]
[41] để người ta hả hê ngắm nhìn. Nhưng giá của những tấm da đầu này khá nặng nề. Các bệnh viện và nhà riêng ở Atlanta tràn ngập thương binh bệnh binh và ngày càng thấy xuất hiện nhiều phụ nữ vận đồ tang. Những dãy mồ lính đơn điệu ở nghĩa trang Oakland mỗi ngày một dài thêm.Tiền Liên bang sụt giá đến mức kinh hoàng, trong khi giá lương thực và quần áo theo đó mà tăng lên vùn vụt. Cánh quân nhu, hậu cần đòi nộp đồ ăn thức uống với khối lượng lớn đến nỗi những bữa ăn gia đình ở Atlanta bắt đầu đạm bạc đi. Bột mì trắng bắt đầu trở nên khan hiếm và đắt đến nỗi bánh ngô trở thành phổ biến, thay vì bích quy, bánh mì nhỏ và bánh quế. Các cửa hàng thịt hầu như không bán thịt bò và rất ít thịt cừu, mà giá thịt cừu thì cao, chỉ những gia đình giàu mới dám dùng. Tuy nhiên, thịt lợn, cũng như gà và rau thì vẫn nhiều.
Do bọn Yankee tăng cường phong tỏa chặt hơn các cảng của Liên bang, các loại xa xỉ phẩm như trà, cà phê, tơ lụa, corsse bằng sừng cá voi, nước thơm cologne, báo thời trang và sách ngày càng hiếm và đắt. Cả đến những hàng vải bông rẻ tiền nhất cũng tăng giá vọt lên và các bà, các cô đành ngậm ngùi mặc những áo dài cũ thêm một màu nữa. Những khung dệt nằm gom bụi hàng năm trời trên gác xép được mang xuống và giờ đây ở hầu hết các phòng khách nhỏ đều thấy những mảnh vải dệt lấy. Tất cả mọi người - binh lính, dân thường, phụ nữ, trẻ em và người da đen - đều bắt đầu mặc áo quần may bằng vải dệt lấy. Màu xám, như màu quân phục Liên bang, hầu như đã biến mất, thay vào đó là vải nhà dệt màu hạt dẻ.
Các bệnh viện đã bắt đầu lo thiếu kí ninh, calômiên, thuốc phiện, thuốc gây mê và iốt. Các cuộn băng bằng sợi cũng như bằng bông, trở thành của quý, được dùng đi dùng lại, không dám vứt bỏ và các nữ y tá đều phải mang về nhà, hàng giờ dãy những dải gạc máu me đem giặt sạch và là ủi, để băng bó cho những thương binh khác.
Nhưng đối với Scarlett vừa mới thoát khỏi cái vỏ nhộng của tình trạng quả phụ, chiến tranh có nghĩa là một thời vui vẻ và phấn khích. Ngay cả những thiếu thốn nho nhỏ về cái ăn, cái mặc cũng không làm nàng khó chịu, vì nàng đang sung sướng được trở lại chốn giao tế của giới thượng lưu.
Khi nghĩ lại nhịp trôi đơn điệu của năm ngoái, ngày nào cũng giống ngày nào, nàng thấy cuộc sống dường như chuyển sang một tốc độ nhanh không tưởng tượng được. Mỗi ngày mở ra như một chuyện phiêu lưu hào hứng, trong đó nàng có thể gặp những chàng trai mới, họ sẽ xin phép được đến thăm nàng, khen nàng xinh đẹp đến nỗi được chiến đấu và thậm chí được chết vì nàng, là một đặc ân. Nàng có thể và thực tế đã yêu Ashley đến tận những rung động nhỏ nhất của tâm hồn, song điều đó không thể ngăn nàng khích những chàng trai khác đi đến chỗ ngỏ lời xin lấy nàng.
Chiến tranh luôn thường trực ở bối cảnh đem lại cho các quan hệ xã giao một tính chất xuề xòa thú vị, song những người lớn tuổi lại thấy lo sợ. Các bà mẹ thấy những người đàn ông lạ mặt đến thăm con gái mình, không có thư giới thiệu và lai lịch ra sao cũng chẳng ai hay. Họ kinh hãi thấy con gái mình tay nắm tay với những người đó. Bà Merriwether dạo xưa, mãi sau lễ cưới mới dám hôn chồng, giờ gần như không tin ở mắt mình khi bắt gặp Maybelle hôn gã lính zuavơ Rene Picard và càng sửng sốt khi Maybelle thậm chí còn trâng tráo không chịu nhận lỗi. Ngay cả việc Rene Picard sau đó lập tức tới cầu hôn cũng không cải thiện được tình hình. Bà Merriwether cảm thấy miền Nam đang tiến tới chỗ luân thường bại hoại hoàn toàn và luôn luôn phát biểu như vậy. Các bà mẹ khác nhiệt liệt tán thành bà và đều đổ tại chiến tranh.
Nhưng những chàng trai không biết mình sống chết ngày nào không thể chờ một năm mới dám xin gọi một cô gái mình yêu bằng cái tên thân mật, tất nhiên có kèm chữ "tiểu thư" ở đầu. Họ cũng chẳng hơi đâu mà kéo dài thời kỳ tìm hiểu chính thức theo đúng phép tắc như hồi trước chiến tranh. Chỉ trong vòng ba, bốn tháng là họ cầu hôn liền. Và các cô gái, vốn thừa biết là một tiểu thư con nhà được một công tử đến cầu hôn bao giờ cũng phải từ chối ba lần đầu, nay vừa nghe có người hỏi là vội đâm đầu nhận lời ngay.
Sự buông tuồng ấy khiến cho chiến tranh trở nên rất thú vị đối với Scarlett. Nếu không có công việc y tá phiền toái và việc cuộn băng chán ngấy, thì dù chiến tranh có kéo dài vô cùng tận, nàng cũng bất cần. Trên thực tế, giờ đây nàng có thể bình thản chịu đựng cái bệnh viện này, vì đó là một bãi săn tuyệt hảo. Các chàng thương binh bất lực, gục trước sự quyến rũ của nàng, vô phương chống đỡ. Thay băng, rửa mặt, xếp gối và quạt cho họ, chừng ấy là đủ khiến họ mê tít đi. Ôi, quả là thiên đường, sau cái năm ngoái buồn đến chết.
Scarlett lại trở về cái thời điểm trước khi lấy Charles, thật cứ như thể nàng chưa bao giờ lấy Charles, chưa bao giờ cảm thấy cái chấn động khi nghe tin chàng chết, chưa bao giờ sinh ra Wade vậy, chiến tranh, hôn nhân và sinh đẻ chỉ trượt qua nàng mà không hề chạm vào sợi dây sâu kín nào trong lòng nàng và nàng vẫn không thay đổi. Nàng có con, nhưng đứa bé được những người khác trong ngôi nhà gạch đỡ nàng chăm sóc hết sức chu đáo, nên nàng hầu như có thể quên nó đi. Trong ý thức và trong tình cảm, nàng là Scarlett O’Hara, hoa khôi của hạt. Suy nghĩ và hành động của nàng vẫn như xưa, nhưng diện hoạt động đã mở rộng rất nhiều. Bất chấp sự không đồng tình của bạn bè và bà cô Pittypat, nàng ứng xử như hồi trước khi lấy chồng, đi dự các buổi liên hoan, khiêu vũ, cưỡi ngựa dạo chơi với đám binh lính, làm duyên làm dáng, làm mọi điều như thời con gái, chỉ trừ việc thôi không để tang. Nàng biết điều đó sẽ là giọt nước tràn cốc với bà Pittypat và Melanie. Là quả phụ, nàng vẫn quyến rũ như thời con gái. Nàng rất dễ thương khi được thoải mái làm theo ý mình, sốt sắng giúp người khi không phiền hà đến bản thân và tự đắc với sắc đẹp và sự nổi tiếng của mình.
Giờ đây nàng thấy vui sướng trong khi mấy tuần trước nàng còn khổ sở - vui sướng với những chàng trai chạy theo tán tỉnh và cam đoan rằng nàng vẫn đầy sức quyến rũ, vui sướng đến hết mức có thể trong khi biết rằng Ashley đã có vợ và đang ở nơi hòn tên mũi đạn. Nhưng cách nào đó, việc Ashley đang ở nơi xa lại giúp cho nàng chịu đựng cái ý nghĩ rằng chàng thuộc về người khác dễ dàng hơn. Với hàng trăm dặm ngăn cách Atlanta với Virginia, đôi khi nàng có cảm giác chàng cũng thuộc về nàng như thuộc về Melanie.
Như vậy, những tháng mùa thu năm 1862 trôi qua rất nhanh; tất cả thì giờ của Scarlett dành vào việc chăm sóc thương bệnh binh, khiêu vũ, đi chơi bằng xe ngựa và cuộn băng, chỉ trừ mấy lần ngắn ngủi về thăm ấp Tara. Nhưng cuộc về thăm nhà đều làm cho nàng thất vọng vì nàng chẳng có mấy cơ hội được trò chuyện lâu lâu với mẹ, như khi ở Atlanta nàng vẫn hằng mong. Nàng chẳng có mấy thì giờ ngồi cạnh bà Ellen trong khi bà khâu vá, ngửi cái mùi thơm thoang thoảng của túi co chanh bà thường dắt ở váy, cảm thấy bàn tay mềm mại của bà âu yếm vuốt má.
Dạo này bà Ellen gày và lo công việc, bù đầu suốt từ sáng đến khuya, sau khi cả ấp đã ngủ, bà mới đi nằm. Những yêu cầu của quân khu Liên bang mỗi tháng một tăng và nhiệm vụ của bà là làm sao cho ấp Tara sản xuất tối đa. Lần đầu tiên trong nhiều năm, cả ông Gerald cũng bận, vì ông không kiếm được viên quản lý nào để thế cho Jonas Wilkerson và đành đích thân cưỡi ngựa đi trông nom đồng ruộng. Mỗi tối chỉ được bà Ellen hôn một cái trước lúc đi ngủ vì bà quá bận không còn thì giờ nào, và ông Gerald thì suốt ngày ở ngoài đồng, thành thử Scarlett thấy Tara chán phèo. Thậm chí các cô em gái cũng mắc những lo toan riêng. Suellen đã đi đến một "thỏa thuận ngầm" với Frank Kennedy và bài hát bao giờ hết chiến tranh? với một ý tinh quái khiến Scarlett gần như không chịu nổi, còn Careen thì lúc nào cũng đắm đuối mơ mộng về Brent Tarleton nên gần gũi bầu bạn với cô ta chẳng có gì thú vị.
Mặc dầu mỗi lần lên đường về ấp Tara thăm nhà, lòng Scarlett đều rộn ràng vui sướng, nhưng nàng không bao giờ buồn khi nhận được những bức thư tất yếu của bà Pitty và Melanie năn nỉ nàng trở lại Atlanta. Những lần đó, bà Ellen thường thở dài, buồn nẫu ruột vì nỗi con gái lớn và đứa cháu ruột lại bỏ bà mà đi.
- Nhưng mẹ không thể ích kỷ giữ con ở lại đây trong khi mọi người cần con ở Atlanta để chăm sóc thương bệnh binh, - bà nói. - Có điều… cưng ạ, có điều mẹ chẳng có thì giờ nào nói chuyện với con, chưa kịp cảm thấy con lại là con gái bé bỏng của mẹ thì con đã đi rồi."
- Bao giờ con cũng là con gái bé bỏng của mẹ, - Scarlett nói và gục đầu vào ngực bà Ellen, cảm thấy mình có tội. Nàng không nói với mẹ rằng chính các cuộc nhảy và những chàng trai theo đuổi, chứ không phải việc phục vụ Liên bang cuốn hút nàng trở lại Atlanta. Dạo này, có nhiều điều nàng giấu mẹ. Nhưng hơn hết thảy, nàng giữ tuyệt mật việc Rhett Butler thường xuyên đến thăm nhà bà cô Pittypat.
Trong những tháng tiếp theo cuộc bán phúc thiện, bất cứ khi nào có mặt ở Atlanta, Rhett cũng đến thăm, đưa Scarlett đi chơi bằng xe ngựa của mình, đi cùng nàng đến các cuộc nhảy và bán phúc thiện, đợi ngoài bệnh viện để đánh xe đưa nàng về nhà. Nàng đã thôi không sợ bị chàng lật tẩy, nhưng tận trong thâm tâm vẫn luẩn quất cái ký ức bất an rằng chàng đã từng thấy nàng vào lúc kém hấp dẫn nhất và biết sự thật về chuyện nàng với Ashley. Chính điều đó đã khóa miệng nàng những khi chàng làm nàng khó chịu. Mà chàng thì luôn luôn làm nàng khó chịu.
Chàng vào quãng ba mươi lăm tuổi, già hơn bất cứ chàng trai nào đã từng theo đuổi nàng, thành thử nàng đâm bất lực như một đứa trẻ, không sao điều khiển và nắm được chàng như vẫn thường lái khiến những cậu bồi tình gần lứa tuổi nàng. Dường như chẳng có gì làm chàng ngạc nhiên, mọi thứ đối với chàng chỉ là trò đùa, và Scarlett cảm thấy mỗi lúc chàng chọc cho nàng tức không nói được điều khiến cho chàng thích thú không gì bằng. Nhiều lần, mắc phải mồi nhử tài tình của chàng, nàng đã nổi cáu thẳng thừng vì, cùng với vẻ hiền dịu ngoài mặt thừa kế của bà Ellen, nàng còn mang khí chất Ireland của ông Gerald nữa. Xưa nay, trừ những lúc có mặt bà Ellen, nàng chưa bao giờ phải ráng tự kiềm chế, nén giận làm lành. Bây giờ, thật đau khổ cho nàng, tức nghẹn cổ mà vẫn phải ngậm miệng vì sợ thấy nụ cười đắc chí của chàng. Giá mà chàng cũng có lúc khùng lên thì nàng còn cảm thấy đỡ lép vế.
Sau những cuộc đấu mà ít khi nàng giành được phần thắng, Scarlett vạch trời chỉ đất thề không giao du được với Rhett, con người vô giáo dục, bất lịch sự chẳng có gì để quan hệ với nàng nữa. Nhưng, sớm hay muộn, chàng lại trở về Atlanta, viện cớ đến thăm bà cô Pitty và, với một thái độ nịnh đầm quá quắt, tặng Scarlett một hộp kẹo mang từ Nassau về. Hoặc dành chỗ trước bên cạnh nàng trong một cuộc hòa nhạc, hoặc mời nàng nhảy trong một vũ hội và thường thường, thái độ làm lành trơ tráo của chàng khiến nàng bật cười, bỏ qua những tội cũ của chàng cho đến lần tái phạm tiếp theo.
Bất kể những thói khó chịu của Rhett, càng ngày nàng càng hay mong chàng đến chơi. Ở chàng, có một cái gì hấp dẫn mà nàng không phân tích nổi, một cái gì khác hẳn mọi người đàn ông khác nàng từng quen biết. Thân hình cao lớn của chàng có một vẻ duyên dáng riêng, từ đó toát ra một cái gì xao xuyến đến nỗi chàng chỉ cần bước vào một căn phòng là đã gây một chấn động đột ngột như một luồng điện. Nàng đọc thấy trong đôi mắt đen xấc xược và giễu cợt kia một lời thách thức nàng thử ra tay khuất phục chàng.
"Thật gần như là mình phải lòng anh ta vậy", nàng hoang mang nghĩ thầm, "Nhưng mình đâu có yêu anh ta, thực chẳng hiểu ra sao nữa!" Nhưng cái cảm giác khích động vẫn dai dẳng. Mỗi lần Rhett đến chơi, cái nam tính cực kỳ của chàng khiến cho ngôi nhà thanh lịch, khuê các của bà cô Pitty đâm có vẻ nhỏ hẹp, nhợt nhạt và có phần cổ lỗ. Scarlett không phải là người duy nhất trong nhà có những phản ứng kỳ lạ và gượng gạo, mà sự có mặt của chàng còn làm cả bà cô Pittypat cũng xớn xác lên.
Mặc dù bà Pitty biết là bà Ellen ắt sẽ cực lực phản đối việc Butler đến thăm con gái mình và cũng hiểu rằng việc giới thượng lưu ở Charleston cấm cửa chàng là điều không thể xem thường, bà vẫn không cưỡng nổi những lời tán tụng khéo léo và những cái hôn tay của chàng, khác nào con ruồi không cưỡng nổi sự cám dỗ của hũ mật. Hơn nữa chàng thường mang từ Nassau về cho bà những món quà nhỏ mà chàng đã cam đoan là mua riêng cho bà, và đã liều mạng đưa qua hàng rào phong tỏa - khi thì những vỉ kim băng và kim khâu, hoặc khuy quần, khuy áo, lúc thì những cuộn chỉ và hàng loạt kẹp tóc. Giờ đây, những thứ xa xỉ phẩm nho nhỏ ấy hầu như không thể kiếm được - các bà, các cô phải dùng những kẹp tóc gỗ vót bằng tay, và lấy quả đấu bọc vải để làm khuy nên bà Pitty không đủ dũng khí tinh thần để từ chối. Vả chăng, bà vốn có thói trẻ con là thích những gói chứa đựng sự bất ngờ, nên không cưỡng nổi lòng ham muốn mở những tặng phẩm của chàng. Và, một khi đã mở ra, bà cảm thấy không có quyền từ chối nữa. Rồi, sau khi nhận quà, bà không có đủ can đảm để nói với chàng rằng một người đàn ông có tai tiếng như chàng chớ nên đến thăm ba người phụ nữ cô đơn, không có sự che chở của nam giới. Bà cô Pitty bao giờ cũng cảm thấy cần sự che chở của nam giới, những khi Rhett Butler đến chơi nhà.
- Cô chả biết ông ta ra sao, - bà thở dài, hoang mang - nhưng… ờ, cô có thể cho ông ta là người tốt, hấp dẫn, nếu như cô cảm thấy rằng… ờ, rằng trong thâm tâm ông ta thực sự tôn trọng phụ nữ.
Từ khi được đưa trả lại chiếc nhẫn cưới, Melanie cảm thấy Rhett là người hào hoa phong nhã và tế nhị hiếm có, nên nhận xét nọ làm nàng phật ý. Bao giờ chàng cũng rất lịch sự với nàng, nhưng nàng hơi rụt rè, chủ yếu là vì nàng vốn nhút nhát với bất kỳ người đàn ông nào nàng không biết từ thuở nhỏ. Nàng thầm ái ngại cho chàng, một tình cảm mà hẳn là chàng sẽ lấy làm buồn cười nếu chàng biết. Nàng tin chắc rằng một chuyện thất tình nào đó đã làm đời chàng héo hắt, và khiến chàng đâm phũ phàng, cay độc, và nàng cảm thấy rằng cái chàng cần là tình yêu của một người đàn bà đôn hậu. Trong suốt quãng đời yên ổn nơi mà che trướng rủ của mình, nàng chưa bao giờ thấy cái ác và nàng gần như hồ nghi về sự tồn tại của nó, cho nên khi nghe thiên hạ xầm xì về chuyện Rhett và cô gái ở Charleston, nàng thấy công phẫn và không tin. Và chẳng những không khiến nàng chống lại Rhett Butler, điều đó chỉ làm nàng ân cần hơn, mặc dù vẫn rụt rè, đối với chàng, do bất bình với cái mà nàng tưởng là một bất công thô bạo giáng xuống chàng.
Scarlett thầm lặng tán thành bà cô Pitty. Nàng cũng cảm thấy Butler không tôn trọng người phụ nữ nào, có lẽ chỉ trừ Melanie. Cho đến giờ, nàng vẫn cảm thấy như bị lột trần mỗi khi luồng mắt chàng chạy suốt người nàng, từ đầu đến chân. Không phải vì chàng có nói gì sỗ sàng. Nếu thế thì nàng đã cự cho chàng rát mặt rồi. Đằng này, đôi mắt nhìn ra từ bộ mặt ngăm đen ấy có một vẻ xấc xược khó chịu, cứ như thể chàng coi tất cả phụ nữ là vật sở hữu để chàng tùy nghi hưởng thụ. Chỉ có Melanie là không bị nhìn theo cách ấy. Cái vẻ đánh giá lạnh lùng và ánh giễu cợt không bao giờ xuất hiện trong mắt chàng, khi nhìn Melanie và khi nói với nàng, giọng chàng có một âm sắc đặc biệt: lịch sự, kính trọng, háo hức muốn phục vụ.
- Tôi không hiểu tại sao ông lại ưu ái cô ấy hơn tôi đến thế, - một buổi, Scarlett dằn dỗi nói khi Melanie và bà Pitty đã về phòng ngủ trưa, để nàng lại một mình với Rhett.
Trong một giờ liền, nàng đã theo dõi Rhett cầm ống sợi cho Melanie quấn lại để đan, đã nhận thấy cái vẻ đờ dại khó hiểu trên mặt chàng khi nghe Melanie tự hào kể mọi chuyện về Ashley, về cả việc chàng vừa được thăng chức. Scarlett biết Rhett chẳng ngưỡng mộ gì Ashley và không mảy may quan tâm đến việc chàng vừa được phong cấp thiếu tá. Tuy nhiên, chàng vẫn lịch sự trả lời và nhỏ nhẹ nêu những nhận xét đứng đắn về sự dũng cảm của Ashley.
Thế mà mình chỉ cần nhắc đến tên của Ashley một cái là anh ta nhướn lông mày lên và tủm tỉm cười cái nụ cười hiểm ác "biết - rồi - khổ - lắm - nói - mãi" ấy! Nàng tức tối nghĩ thầm.
- Tôi xinh đẹp hơn cô ta nhiều chứ, - nàng tiếp tục, - tôi không hiểu tại sao ông lại ưu ái cô ấy hơn?
- Liệu tôi có dám hy vọng là bà ghen không đấy?
- Ồ, đừng có tưởng bở!
- Lại một hy vọng nữa tan tành. Nếu tôi "ưu ái" bà Wilkes hơn, đó là vì bà ấy đáng được như thế. Bà ấy là một trong số rất ít người đôn hậu, chân thật và không ích kỷ mà tôi từng biết. Nhưng có lẽ bà không nhận thấy những đức tính ấy. Hơn nữa, mặc dầu còn trẻ, bà ấy là một trong số ít bậc mệnh phụ mà tôi hân hạnh được quen biết.
- Ông định nói rằng ông không coi tôi là bậc mệnh phụ?
- Tôi nghĩ, ngay từ buổi đầu tiên gặp nhau, chúng ta đã nhất trí rằng bà chẳng phải là loại tiểu thư con nhà.
- Ôi, ông lại sắp sửa hằn học, thô bạo nhai lại chuyện ấy! Làm sao ông để bụng mãi cái cơn nóng giận trẻ con ấy? Chuyện từ đời nảo đời nào, từ bấy đến nay tôi đã trưởng thành và lẽ ra đã quên tiệt nếu ông không lải nhải ám chỉ đến nó.
- Tôi không cho đó là cơn nóng giận trẻ con và không tin rằng bà đã thay đổi. Bây giờ cũng như dạo ấy, bà vẫn có thể ném bát vào đầu người ta nếu bà không được tùy nghi làm theo ý thích của mình. Nhưng bây giờ thì thường thường bà vẫn được thả cửa hành động theo ý thích của mình, cho nên chả cần đập vỡ đồ làm gì.
- Chà, ông là… là… Giá tôi là nam giới, tôi sẽ thách đấu với ông, và…
- Và sẽ bị giết thảm thương. Tôi có thể bắn trúng một đồng bạc cách năm mươi thước. Tốt hơn là cứ dùng những vũ khí quen thuộc của bà: má lúm đồng tiền, bát và những thứ tương tự.
- Ông chỉ là một gã đểu cáng.
- Bà tưởng nói thế là tôi nổi khùng lên hẳn? Tôi lấy làm tiếc là đã khiến bà thất vọng. Bà không thể làm tôi nổi máu bằng cách réo đúng tên tôi mà chửi. Nhất định tôi là một thằng đểu rồi, và tại sao lại không kia chứ? Đây là một đất nước tự do, người ta có thể là một thằng đểu, nếu muốn thế. Chỉ những kẻ đạo đức giả như bà, thư phu nhân thân mến, những kẻ tim đen ngòm nhưng cố giấu bằng được, mới lồng lộn lên khi bị gọi đúng tên.
Nàng ngớ ra trước nụ cười thản nhiên và những nhận xét nói bằng một giọng kéo dài của chàng, vì trước nay, nàng chưa gặp ai cao thủ đến thế, hoàn toàn không thể đánh trúng được. Những vũ khí nàng đem ra dùng: khinh bỉ, lạnh lùng và xỉ vả đều cùn, vô hiệu, vì nàng muốn nói gì cũng không thể làm chàng xấu hổ. Kinh nghiệm cho nàng biết kẻ nói dối thường bảo vệ tính chân thật của mình hăng nhất cũng như kẻ hèn nhát quyết liệt biện hộ cho sự can đảm của mình, kẻ vô giáo dục quả quyết mình là kẻ hào hoa phong nhã và kẻ vô liêm sỉ khẳng định rằng mình là người có danh dự. Nhưng Rhett thì không. Chàng thừa nhận hết, cười ha hả và thách nàng nói mạnh hơn nữa.
Trong những tháng này, chàng đi đi về về thường xuyên đến không báo trước mà đi cũng chẳng cáo từ. Scarlett không bao giờ phát hiện được là chàng đến Atlanta có việc gì, vì trong đám vượt rào phong tỏa, không mấy người thấy cần thiết đến một nơi xa bờ biển đến thế. Họ đổ hàng xuống Wilmington hoặc Charleston, ở đó nhan nhan những thương gia và bọn đầu cơ từ khắp nơi trên miền Nam đổ về để tụ tập mua hàng vượt rào theo phương thức đấu giá. Hẳn nàng sẽ hài lòng nếu có thể nghĩ được là chàng tiến hành những chuyến đi đó cốt để gặp nàng, nhưng ngay cả thói hợm hĩnh cao độ của nàng cũng không chịu tin là thế. Giá như ít ra cũng có một lần chàng tán tỉnh nàng, tỏ ra ghen với những chàng trai khác xúm quanh nàng, thậm chí nắm tay nàng hoặc xin một tấm ảnh hay một chiếc khăn tay làm vật lưu niệm, thì nàng đã có thể đắc thắng nghĩ rằng chàng đã mê mình, nhưng bực thay, chàng vẫn chẳng có vẻ gì giống một gã si tình và tệ hơn cả, dường như nhìn thấu mọi thủ đoạn của nàng nhằm chinh phục chàng.
Mỗi lần chàng đến thành phố, giới phụ nữ xôn xao lên. Chẳng những chàng tỏa ra ánh hào quang lãng mạn của người vượt rào táo bạo, mà còn mang theo cái yếu tố đầy kích thích của đồi bại và quả cấm. Tiếng tăm của chàng mới bất hảo làm sao! Và mỗi lần các phụ nữ có chồng tụ tập để tán gẫu, tai tiếng chàng lại càng xấu thêm, song điều đó càng khiến chàng hấp dẫn hơn đối với các cô gái trẻ. Vì phần lớn còn ngây thơ, các cô chỉ nghe nói rằng chàng "rất phóng đãng đối với phụ nữ", mà đích xác thế nào là một người đàn ông "phóng đãng", các cô cũng chẳng biết. Các cô cũng nghe người ta xì xào rằng con gái tiếp xúc với chàng hoàn toàn không đảm bảo. Thật kì lạ, với tai tiếng như thế mà từ khi xuất hiện lần đầu ở Atlanta cho tới nay, chàng thậm chí chưa hề hôn tay một cô gái chưa chồng nào. Nhưng điều đó chỉ khiến chàng thêm bí ẩn và hấp dẫn.
Không kể những anh hùng quân đội, Rhett là người được nhắc tới nhiều nhất ở Atlanta. Mọi người đều biết chuyện chàng bị đuổi khỏi trường võ bị West Point vì tội say rượu và "một vụ gái gì đấy". Vụ bê bối gớm ghiếc liên quan đến cô gái ở Charleston bị chàng làm hại danh tiết và người anh trai cô ta bị chàng giết, đã thành phổ biến, ai cũng biết. Thư từ của bạn bè ở Charleston cho biết thêm rằng cha chàng, một ông già dễ thương nhưng rất cương quyết, ý chí sắt đá, đã cương quyết đuổi chàng ra khỏi nhà từ hồi chàng hai mươi tuổi, không cho một xu và thậm chí còn gạch tên chàng khỏi Thánh thư của gia đình. Chàng đã lang bạt đến California trong cuộc đổ xô đi tìm vàng năm 1849, rồi từ đó sang Nam Mỹ và Cu Ba, và tin tức về những hoạt động của chàng ở những nơi đó chẳng có gì hay ho tốt đẹp lắm. Lòng thòng với phụ nữ, mấy lần bắn nhau, bán súng cho những người Cách mạng ở Trung Mỹ và tệ nhất là đánh bạc nhà nghề - đó là những điều dân Atlanta nghe đồn về chàng.
Ở Georgia, chẳng có mấy gia đình không có ít nhất một thành viên nam, hoặc một người bà con máu mê cờ bạc, dẫn đến khuynh gia bại sản. Nhưng đó là chuyện khác. Người ta có thể đánh bạc đến khánh kiệt mà vẫn là hào hoa phong nhã, nhưng một tay cờ bạc chuyên nghiệp thì chỉ có thể là đồ bỏ, không hơn.
Nếu không có những xáo đảo do chiến tranh gây nên và những công trạng của bản thân chàng đóng góp với chính phủ Liên bang, Rhett Butler ắt sẽ chẳng được ai tiếp ở Atlanta. Nhưng giờ đây, ngay cả những vị qua câu nệ về đạo đức cũng cảm thấy tinh thần ái quốc đòi hỏi họ phải có đầu óc rộng rãi hơn. Những người tình cảm hơn thì nghiêng về cái quan điểm cho rằng con chiên ghẻ của gia đình Butler đã ăn năn về những cung cách xấu xa của mình và đang cố gắng chuộc lại tội lỗi. Cho nên các bà các cô cảm thấy có bổn phận mở rộng chút ít tầm tay ra, nhất là trong trường hợp một chiến sĩ vượt rào phong tỏa coi cái chết tựa bông hồng như vậy. Giờ đây ai nấy đều hiểu rằng vận mệnh của Liên bang trông vào những con thuyền vượt rào khéo léo lẩn tránh hạm đội Yankee, chẳng kém gì trông vào các chiến binh ngoài mặt trận.
Nghe đồn thuyền trưởng Butler là một trong những hoa tiêu cừ nhất ở miền Nam, hơn nữa lại liều lĩnh và hoàn toàn không biết sợ là gì. Lớn lên ở Charleston, chàng thuộc mọi luồng lạch, mọi bờ cạn, ghềnh đá dọc bờ biển Carolina gần hải cảng này, đồng thời cũng rất thông thạo vùng biển quanh Wilmington. Chàng chưa từng bị mất một cái thuyền nào, hoặc thậm chí buộc phải vứt một chuyến hàng nào xuống biển. Lúc chiến tranh mới bắt đầu, chàng xuất hiện từ bóng tối, với số tiền chỉ đủ để mua một chiếc xuồng nhanh bé nhỏ, và giờ đây khi mỗi chuyến hàng vượt rào mang lời tới mức hai nghìn phần trăm, chàng đã có bốn tàu. Chàng thuê những hoa tiêu giỏi trả lương họ khá hậu. Những đêm tối trời, họ lặng lẽ tách bến Charleston và Wilmington, mang bông tới Nassau, sang Anh và Canada. Các nhà máy bông ở Anh nằm dài không có việc và công nhân đang đói, nên bất kỳ tay vượt rào nào qua mặt được hạm đội Yankee, đều có thể xướng giá của mình ở Liverpool. Các tàu của Rhett thường may mắn một cách lạ lùng, vừa xuất cảng được bông cho Liên bang, vừa mang về được các phương tiện chiến tranh mà miền Nam đang cần muốn chết. Phải, các bà các cô cảm thấy có thể tha thứ và bỏ qua nhiều điều cho một người dũng cảm như vậy.
Butler thuộc loại nhân vật đi đến đâu mọi người đều phải ngoái nhìn. Chàng tiêu tiền vung vãi, cưỡi một con ngựa ô hung mạnh, quần áo bao giờ cũng mốt nhất và may cắt ở những cửa hàng nổi tiếng nhất. Riêng khoản y phục của chàng cũng đủ khiến mọi người phải chú ý, vì đến nay, quân phục của sĩ quan và binh lính đều đã cũ, bẩn, còn dân thường thì ngay cả những lúc diện nhất, cũng để lộ những chỗ vá, mạng khéo. Scarlett nghĩ mình chưa bao giờ thấy những chiếc quần sang như những chiếc chàng mặc, lúc thì màu nâu vàng, lúc thì kẻ ô cờ đen, trắng hoặc ô vuông. Các áo gi lê của chàng đều đẹp không thể tả được, nhất là chiếc bằng lụa trắng có thêu những nụ hồng nhỏ xíu. Và thanh lịch hơn cả y phục, là cái dáng vẻ của chàng, như thể không thèm biết đến sự hào nhoáng của bộ cánh vậy.
Ít có phụ nữ cưỡng lại được sức thu phục của chàng, một khi chàng đã định tâm làm thế; cuối cùng đến cả bà Merriwether cũng phải nhượng bộ, và mời chàng đến dùng bữa tối vào một ngày chủ nhật.
Hôn lễ của Maybelle Merriwether với anh chàng lính Zuavơ bé nhỏ định vào dịp nghỉ lễ sắp tới của anh ta, và mỗi khi nghĩ đến chuyện ấy, cô đều khóc vì cô đã quyết định phải mặc một chiếc áo cưới bằng xa tanh trắng mà ở Liên bang lại không có lấy một mảnh xa tanh trắng nào. Cô cũng không mượn đâu được, vì tất cả những áo cưới bằng xa tanh trắng của những năm trước đều đã dùng để may cờ chiến. Bà Merriwether giàu lòng ái quốc đã hoài công vô ích giảng giải cho con gái rằng một cô dâu xứng đáng của Liên bang lúc này, phải mặc áo cưới may bằng vải nội. Nhưng Maybelle muốn có xa tanh. Cô sẵn sàng vì Sự nghiệp mà chịu thiếu các thứ như kẹp tóc, khuy, cúc, giày dép, kẹo và trà, thậm chí còn lấy đó làm tự hào nữa, song cô cần có một chiếc áo cưới bằng xa tanh.
Nghe Melanie kể lại như vậy, Rhett bèn mang từ bên Anh về hàng bao nhiêu mét xa tanh trắng óng ánh cùng một mạng che mặt bằng đăng ten và đem tặng Maybelle làm quà cưới. Chàng làm việc đó một cách hào hoa đến nỗi không thể nào nghĩ đến chuyện trả tiền và Maybelle sướng quá, suýt ôm chầm lấy chàng mà hôn. Bà Merriwether biết rằng nhận một tặng phẩm đắt tiền như thế - mà lại là đồ xiêm áo - là hết sức bất tiện, song bà không thể nghĩ ra cách gì để từ chối, khi Rhett nói với bà bằng thứ ngôn từ hoa mĩ nhất rằng chẳng có gì là quá đẹp để trang điểm cho ý trung nhân của một người anh hùng. Cho nên bà Merriwether mời chàng đến ăn tối, cảm thấy sự nhượng bộ này cũng đáp đền thừa thãi món quà nọ.
Không những chàng mang xa tanh đến tặng Maybelle mà còn có những gợi ý rất hay về việc may áo cưới nữa. Theo thời trang ở Pari hiện nay, vành váy rộng hơn và váy ngắn hơn. Váy ngoài không có diềm xếp nếp nữa, mà cuốn lên thành những dây hoa, để lộ những váy ngắn có dải viền bên dưới. Chàng còn nói rằng ngoài phố không thấy ai mặc quần trong nữa, cho nên chàng đoán rằng mốt đó đã "lỗi thời". Sau đó, bà Merriwether bảo bà Elsing rằng nếu bà tỏ ý khuyến khích thì khéo chàng còn tả tỉ mỉ phụ nữ Pari vận những loại đồ lót gì cũng nên. Nếu khí phách nam nhi ở chàng kém hiển lộ rõ ràng thì người ta có thể coi việc chàng nhớ chi tiết về mũ, áo, kiểu tóc của phụ nữ như một nét lại cái rành rành. Các bà các cô, khi vây quanh chàng, tới tấp hỏi về các mốt, bao giờ cũng cảm thấy hơi kỳ kỳ, nhưng vẫn cứ hỏi. Họ bị tách biệt khỏi thế giới thời trang như những thủy thủ đắm tàu, vì rất ít sách thời trang lọt qua được hàng rào phong tỏa. Giá phụ nữ Pháp có cạo trọc đầu và đội mũ cát-két da gấu trúc thì khéo họ cũng chẳng hay, cho nên trí nhớ của Rhett về trang phục là một sự thay thế rất tốt cho bộ sách cẩm nang phụ nữ. Chàng có khả năng ghi nhớ và thực tế đã ghi nhớ những chi tiết mà phụ nữ rất thiết tha muốn biết và sau mỗi chuyến ra nước ngoài, người ta thường thấy chàng ở giữa một nhóm phụ nữ, kể các thứ chuyện, nào là năm nay kiểu mũ nhọn hơn và đội cao hơn, phủ gần kín chỏm đầu, cài lông chim thay vì cài hoa, nào là hoàng hậu nước Pháp đã bỏ kiểu búi tóc đằng sau gáy để đi dự dạ hội, mà vấn cao lên gần đỉnh đầu, để lộ tai ra hết, nào là áo dài dạ hội hiện nay lại để hở ngực đến mức trơ trẽn khó coi.
Trong vài tháng, Butler trở thành nhân vật nổi tiếng nhất và lãng mạn nhất trong thành phố, bất chấp tai tiếng trước đây của chàng, bất chấp những lời đồn loáng thoáng rằng ngoài việc đưa hàng vượt rào, chàng còn đầu cơ thực phẩm nữa. Những người không ưa chàng nói rằng sau mỗi chuyến chàng đến Atlanta, giá cả vọt lên năm đô la. Nhưng ngay cả với những lời gièm pha ngấm ngầm được rỉ tai nhau lan truyền ấy, chàng vẫn có thể giữ được lòng mến mộ của số đông nếu chàng coi việc đó là bõ công. Đằng này, dường như sau khi đã thử giao du gần gũi với những công dân yêu nước, điềm đạm và chiếm được lòng kính nể và cảm tình miễn cưỡng của họ, bản chất tai ngược lại thúc đẩy chàng đâm ngang, bài bác họ, chứng tỏ rằng thái độ ứng xử vừa qua chỉ là ngụy trang mà giờ đây chàng không khoái nữa.
Thật cứ như là chàng coi khinh tất cả mọi người, mọi thứ ở miền Nam, không phân biệt, đặc biệt là những gì dính dáng đến Liên bang, và không cần phải nhọc công che giấu điều đó. Chính những nhận xét của chàng về Liên bang đã khiến dân Atlanta nhìn chàng thoạt đầu bằng con mắt ngỡ ngàng, rồi lạnh lùng và cuối cùng là tức điên lên. Ngay cả trước khi hết năm 1862 chuyển sang năm 1863, cánh nam giới đã ra mặt lạnh lùng mỗi khi gật đầu chào chàng và các bà đã bắt đầu kéo con gái lại bên mình mỗi khi thấy chàng xuất hiện ở một cuộc họp mặt.
Xem ra chàng có vẻ khoái trá chẳng những với việc xúc phạm lòng trung nghĩa chân thành và nồng cháy của dân Atlanta, mà cả với việc tự phơi bày mình dưới dạng vẻ khả ố nhất khi những người đầy thiện ý ca ngợi lòng dũng cảm của chàng trong việc vượt rào, chàng thản nhiên trả lời rằng trong nguy hiểm bao giờ chàng cũng khiếp sợ, khiếp sợ chẳng kém gì các chàng trai dũng cảm đang chiến đấu ngoài mặt trận vậy. Ai nấy đều biết không hề có người lính Liên bang nào hèn nhát, nên họ hết sức lộn ruột về lời tuyên bố ấy. Bao giờ chàng cũng gọi giới binh sĩ là “các chàng trai dũng cảm của chúng ta” hoặc “các vị anh hùng vận đồ xám của chúng ta”, nhưng bằng một giọng khiến những từ đó mang ý lăng mạ độc địa nhất. Khi những tiểu thư táo bạo, với hy vọng chơi trò mồi chài, ngỏ lời cảm ơn chàng như một trong những anh hùng đã chiến đấu vì họ, chàng nghiêng mình thi lễ và tuyên bố không phải như vậy, bởi vì chàng sẵn sàng làm điều đó cho các phụ nữ Yankee, nếu cũng kiếm được chừng ấy tiền.
Từ buổi Scarlett gặp chàng lần đầu tiên ở Atlanta trong đêm hội bán phúc thiện, chàng đã nói năng với nàng theo cách ấy, nhưng giờ đây nói chuyện với ai, chàng cũng có cái giọng giễu cợt hầu như không cần che đậy ấy. Khi người ta khen những công trạng của chàng đối với Liên bang, chàng nhất nhất đáp lại rằng đối với chàng chuyện vượt rào chỉ là một dịp để kiếm tiền. Nếu có thể kiếm được nhiều tiền như vậy bằng những giao kèo với chính phủ - chàng thường nói vậy trong khi đưa mắt tìm những người có hợp đồng cung cấp hàng cho chính phủ - thì chắc chắn chàng đã từ bỏ những hiểm nguy của nghề vượt rào mà chuyển sang bán các thứ vải hạng bét, đường đầy sạn cát, bột mì hỏng và da thối cho Liên bang rồi.
Phần lớn những nhận xét của chàng là không giữ lại được, nên lại càng tệ hại. Đã có những vụ bê bối nhỏ xung quanh những người có hợp đồng với chính phủ. Thư từ của binh lính ngoài mặt trận gửi về luôn luôn phàn nàn về mọi chuyện, nào là giày đi một tuần đã mòn vẹt, thuốc súng không bén lửa, nào là đồ thắng đai ngựa hơi căng một tí là đứt phựt, thịt thà hôi thối và bột mì đầy mọt. Dân Atlanta cố mà tin rằng những kẻ bán các đồ ấy cho chính phủ hẳn là đám chủ hợp đồng ở Alabama, hoặc Virginia, hoặc Tennessee, chứ không phải ở Georgia, có cả những người thuộc những gia đình dòng dõi nhất đó sao? Chẳng phải họ đã là những người đầu tiên góp quỹ cho các bệnh viện và cứu giúp kẻ mồ côi con liệt sĩ đó sao? Chẳng phải họ đã là những người đầu tiên hoan hô “Dixie”
[42]
[42], những người hăng hái nhất, chí ít cũng là trên ngôn từ muốn phanh thây uống máu bọn Yankee, đó sao? Làn sóng phẫn nộ chống bọn lợi dụng các hợp đồng với chính phủ chưa dâng lên thành cao trào, nếu những lời của Rhett chỉ được coi như là bằng chứng tỏ rõ sự vô giáo dục của chàng mà thôi.
Không những chàng bỉ báng thành phố Atlanta bằng cách ám chỉ đến thói hám lợi của các nhân vật cao sang ở đây và nói kháy tinh thần dũng cảm của binh lính trên chiến trường, mà chàng còn khoái lừa nhử các công dân tôn quý vào các tình huống éo le nữa. Chàng cũng không thể không châm chích thói hợm hĩnh, đạo đức giả ra cái điều ta đây yêu nước nồng nàn của những người xung quanh chàng, như một chú bé không cưỡng nổi ý muốn lấy kim chọc thủng một quả bóng vậy. Chàng chọc ghẹo cho những kẻ khoa trương xì hơi, vạch mặt những kẻ ngu dốt và mù quáng tin nhảm; chàng làm những việc đó rất tinh vi, dụ các nạn nhân của mình ra bằng thái độ quan tâm lịch sự, khiến họ chưa biết điều gì xảy ra thì đã bị lật tẩy, phơi bộ mặt khoa trương lố bịch ra trước công chúng.
Trong những tháng thành phố chấp nhận chàng thì Scarlett đã chẳng hề có ảo tưởng gì về chàng. Nàng biết rõ mọi cách tán tỉnh tinh vi cùng những lời lẽ hoa mỹ của chàng đều đầy ý mỉa mai độc địa. Nàng biết chàng sắm vai người vượt rào phong tỏa táo bạo và đầy tinh thần yêu nước chỉ vì chẳng coi đó là trò tiêu khiển thú vị mà thôi. Đôi khi nàng thấy chàng cũng giống như những chàng trai trong hạt đã cùng lớn lên với nàng, cặp anh em sinh đôi cuồng nhiệt nhà Tarleton lúc nào cũng nhăm nhăm định lỡm người khác; mấy anh em nhà Fontaine quỷ sứ, tinh nghịch, hay trêu chọc; mấy anh em Calvert có thể thức suốt đêm bày mưu chơi xỏ nhau. Nhưng chỗ khác nhau là đằng sau cái vẻ tưởng như nhẹ nhàng của Rhett, ẩn náu một cái gì hiểm ác, gần như hắc ám trong sự thô bạo ngọt ngào của nó.
Tuy biết rõ sự thiếu thành thực của Rhett, Scarlett vẫn rất thích chàng trong vai trò người vượt rào phong tỏa đầy lãng mạn. Chí ít nó cũng làm cho hoàn cảnh của nàng, trong quan hệ với chàng, trở nên thoải mái hơn lúc đầu nhiều. Cho nên, nàng rất phiền lòng khi chàng bỏ mặt nạ ra và dụng tâm mở chiến dịch để đẩy bật thiện ý của Atlanta ra. Nàng lấy làm phiền lòng vì ứng xử đó có vẻ rồ dại, đồng thời cũng vì một số lời công kích gay gắt nhằm vào Rhett lại vấy cả sang nàng.
Chính tại cuộc hòa nhạc tổ chức tại nhà bà Elsing để ủng hộ những người dưỡng bệnh, Rhett đã làm cho dân Atlanta dứt khoát khai trừ mình. Chiều hôm ấy, nhà bà Elsing chật ních quân nhân về phép, thương bệnh binh điều trị tại bệnh viện, vệ binh địa phương và dân binh cùng với đông đảo phụ nữ, có chồng, góa chồng và chưa chồng. Tất cả các ghế trong nhà đều có người ngồi, thậm chí cả cầu thang xoáy trôn ốc cũng đầy khách. Chiếc bát thủy tinh lớn do người quản gia của bà Elsing cầm ở cửa ra vào đã hai lần phải trút những đồng bạc do khách bỏ vào đầy miệng. Tự thân điều đó đã đủ là một thành công, vì hiện giờ một đồng đôla bạc trị giá bằng sáu mươi đôla tiền giấy Liên bang.
Tất cả các cô gái tự cho là có tài năng đều tham gia hát hoặc biểu diễn dương cầm và các hoạt cảnh đã được chào đón bằng những tràng vỗ tay phỉnh nịnh. Scarlett rất lấy làm hài lòng về mình, vì không những nàng và Melanie đã song ca một cách đầy xúc động bài Giọt sương trên cành hoa, kèm theo bài Ôi, lạy Chúa, các nàng đừng để ý đến Stephen khi được yêu cầu hát tiếp, mà nàng còn được chọn làm biểu tượng cho Tinh thần Liên bang trong hoạt cảnh cuối nữa.
Nàng vận một chiếc áo dài trắng kiểu Hy Lạp với thắt lưng xanh đỏ, một tay cầm những hình Sao và Vạch
[43]
[43], tay kia vươn ra chìa thanh kiếm chuôi vàng trước kia thuộc về Charles và cha chàng cho đại úy Carey Ashburn, người Alabama, đang quỳ trước mặt nàng. Nom nàng đầy sức quyến rũ.Kết thúc hoạt cảnh, nàng không thể không tìm kiếm luồng mắt của Rhett để xem chàng có tán thưởng hình ảnh đẹp đẽ do nàng tạo nên hay không. Với một cảm giác tức tối, nàng thấy chàng đang mải tranh luận và có lẽ thậm chí không để mắt đến nàng nữa. Bằng vào vẻ mặt của nhóm người đứng quanh chàng, Scarlett có thể thấy là họ đang phẫn nộ với những điều chàng nói.
Nàng rẽ lối tiến đến chỗ họ và, giữa một phút im lặng, cái kiểu im lặng kỳ lạ đôi khi vẫn xảy ra trong một cuộc họp mặt, nàng nghe thấy Willie Guinan thuộc đơn vị dân binh hỏi thẳng:
- Thưa ông, có phải ông muốn nói rằng Sự nghiệp mà vì nó những người anh hùng của chúng ta đã hy sinh, là không thiêng liêng?
- Nếu cậu bị một đoàn xe lửa cán phải, liệu cái chết của cậu có khiến cho công ty hỏa xa được thần thánh hóa không? – Rhett hỏi lại, giọng nghe nhũn nhặn như câu xin được chỉ bảo.
- Thưa ông, - Willie nói, giọng run lên, - nếu chúng ta không cùng ở dưới mái nhà này…
- Cứ nghĩ đến điều có thể xảy đến trong trường hợp đó mà tôi run cả người, - Rhett nói. – Bởi vì, cố nhiên, lòng dũng cảm của cậu thì ai mà chẳng biết.
Willie đỏ dừ mặt và mọi người im lặng. Ai nấy đều bối rối. Willie khỏe mạnh, cường tráng, đang tuổi quân dịch, thế nhưng lại không ra mặt trận. Cố nhiên cậu ta là con một và xét cho cùng, cũng phải có người vào dân binh để bảo vệ bang chứ. Nhưng từ đám sĩ quan đang dưỡng bệnh, bật lên mấy tiếng cười khẩy khi Rhett nói về sự dũng cảm của Willie.
“Chà, tại sao hắn không ngậm miệng có hơn không!” Scarlett bực mình nghĩ. “Hắn làm hỏng cả cuộc vui!”
Bác sĩ Meade cau mày, hằm hằm.
- Ông bạn trẻ ạ, đối với ông chả có gì thiêng liêng cả, - bác sĩ nói bằng cái giọng ông vẫn dùng khi diễn thuyết. – Nhưng đối với những người yêu nước, nam cũng như nữ, ở miền Nam này, thì có nhiều điều thiêng liêng đấy. Giải phóng đất nước chúng ta khỏi tay kẻ chiếm đoạt là một vấn đề. Quyền của các bang lại là một vấn đề khác và…
Nom Rhett có vẻ uể oải và trong cái giọng mượt mà của chàng, có một nốt gần như chán ngán:
- Tất cả các cuộc chiến tranh đều thiêng liêng, - chàng nói. – Đối với những người có nhiệm vụ chiến đấu. Nếu những kẻ gây ra chiến tranh không làm cho nó thành thiêng liêng thì ai dại gì mà đi đánh nhau? Nhưng cho dù các diễn giả có hô hào những gì cao siêu để tập hợp bọn ngu đi đánh nhau, cho dù họ có gán cho chiến tranh những mục đích cao đẹp đến đâu chăng nữa, chiến tranh bao giờ cũng chỉ có một lý do duy nhất. Đó là tiền. Trên thực tế, mọi cuộc chiến tranh đều là những cuộc tranh tiền. Song xưa nay chả mấy ai hiểu ra điều đó. Tại họ đầy ắp tiếng kèn và trống trận và những lời lẽ hoa mỹ của các ông diễn giải ru rú xó nhà. Khi thì khẩu hiệu tập hợp là: “Hãy cứu mộ của Chúa Christ khỏi tay bọn vô đạo!” Khi lại là: “Đả đảo chế độ Giáo hoàng!” Lúc lại: “Tự do!” hoặc: “Bông, chế độ nô lệ và Quyền các bang!”
“Giáo hoàng hoặc mộ Chúa Christ thì có dính dáng gì đến mọi chuyện này?” Scarlett nghĩ thầm.
Nhưng trong khi hối hả tiến lại phía nhóm người đang bốc máu, nàng trông tháy Rhett cúi chào và đi qua đám đông về phía cửa ra vào. Nàng định đuổi theo, nhưng bà Elsing níu váy, giữ nàng lại.
- Để cho hắn đi, - bà nói bằng một giọng rành rọt vang lên trong im lặng căng thẳng của căn phòng. – Để cho hắn đi. Hắn là một tên phản bội, một tên đầu cơ! Hắn là một con rắn độc mà chúng ta đã ủ ấp trong lòng mình!
Đứng ngoài hành lang, mũ cầm tay, Rhett nghe thấy những lời cốt nói cho chàng nghe. Chàng quay lại, nhìn bao quát căn phòng một lúc, chĩa mắt vào bộ ngực lép kẹp của bà Elsing, đột nhiên chàng nhe răng cười, rồi cúi chào đi ra.
Bà Merriwether đi nhờ xe của bà cô Pitty về nhà. Bốn người vừa ngồi vào chỗ, bà đã làm toáng lên.
- Đấy nhé, Pittypat Hamilton! Chị đã thỏa mãn chưa?
- Về cái gì cơ chứ? – Bà Pitty lo lắng hỏi lại.
- Về hành vi của cái gã Butler khốn kiếp mà chị đã chứa chấp.
Bà Pittypat luống cuống, lời kết tội làm bà rối đến nỗi không nhớ ra là chính bà Merriwether cũng đã nhiều lần thù tiếp Rhett Butler. Scarlett và Melanie thì có nghĩ đến điều đó, nhưng vốn được giáo dục là phải lễ phép với những người lớn tuổi hơn, nên đành nén lại không nhận xét gì về vấn đề ấy, mà chỉ chăm chú nhìn xuống đôi bao tay của mình.
- Hắn lăng nhục tất cả chúng ta và cả liên bang nữa, - bà Merriwether nói và bộ ngực phì nộn của bà phập phồng dữ dội dưới lần áo ren kim tuyến lấp lánh. – Dám nói là chúng ta chiến đấu vì tiền! Dám nói là các lãnh tụ của chúng ta đã nói dối chúng ta! Đáng lẽ phải bỏ tù hắn mới phải. Phải, đáng lẽ phải thế. Tôi sẽ bàn với bác sĩ Meade về chuyện này. Giá ông Merriwether còn sống, ông ấy ắt sẽ định liệu với hắn! Này, Pittypat Hamilton, chị nghe tôi đây. Chị không bao giờ được để tên vô lại ấy bước vào nhà nữa đấy!
- Ồ! – Bà Pitty khẽ nói, không biết làm gì, xem chừng muốn chết cho rồi. Bà đưa mắt cầu cứu hai cô cháu gái vẫn đang ngồi một mực nhìn xuống, rồi lại khấp khởi hy vọng hướng tới cái lưng thẳng đuỗn của bác Pitơ. Bà biết bác ta đang chăm chú lắng nghe từng lời và bà hy vọng bác sẽ quay lại góp chuyện như bác vẫn hay làm thế. Bà hy vọng bác sẽ nói: “Thôi, bà Dolly, bà để bà Pitty được yên”, song bác Peter vẫn ngồi yên không nhúc nhích. Bác ta thực lòng chẳng ưa gì Rhett Butler và bà Pitty tội nghiệp thừa biết thế. Bà thờ dài, nói:
- Dolly ạ, nếu chị nghĩ…
- Tôi nghĩ thế đấy, bà Dolly đanh thép đáp. – Tôi không thể tưởng tượng được ma quỷ nào đã xui khiến chị tiếp hắn lần đầu tiên. Sau buổi chiều hôm nay, sẽ không có một gia đình tử tế nào trong thành phố nghênh đón tiếp hắn. Chị nên biết điều một chút và cấm cửa hắn đi.
Bà quay lại nhìn Melanie và Scarlett bằng con mắt sắc như dao:
- Tôi mong hai cô nhớ kỹ những lời tôi nói, vì sự thể như vậy, một phần cũng tại các cô quá ân cần vui vẻ với hắn. Hãy lịch sự nhưng cương quyết nói với hắn rằng sự hiện diện và lời ăn tiếng nói phản phúc của hắn là hoàn toàn không dung được ở nhà chúng ta.
Lúc này thì Scarlett đã sôi máu, sẵn sàng đá hậu như một con ngựa cảm thấy một bàn tay lạ, thô bạo giật cương nó. Nhưng nàng vẫn sợ không dám nói. Nàng không thể liều mạng để bà Merriwether viết một bức thư nữa cho mẹ mình.
“Đồ trâu già!” nàng rủa thầm, mặt đỏ lên vì cố nén giận. “Thật tuyệt diệu nếu ta có thể nói cho mụ biết ta nghĩ gì về bản thân mụ và những cung cách bà lớn của mụ!”
- Tôi không bao giờ nghĩ là đời mình lại có lúc phải nghe những lời phản phúc như vậy về Sự Nghiệp của chúng ta, - bà Merriwether nói tiếp, - lần này thì phẫn nộ một cách chính đáng. – Phải treo cổ bất kỳ kẻ nào không coi Sự Nghiệp của chúng ta là chính nghĩa và thần thánh! Tôi không muốn nghe thấy ai kể rằng hai cô còn hạ lời nói với hắn nữa. Lạy Chúa, Melly, cháu làm sao thế?
Mặt Melanie trắng bệch ra, đôi mắt giương to trân trân.
- Cháu sẽ tiếp tục nói chuyện với anh ta, - nàng khẽ nói. Cháu sẽ không thô bạo với anh ta. Cháu sẽ không cấm cửa anh ta.
Bà Merriwether thở hộc ra như bị đấm mạnh vào ngực. Bà cô Pitty há hốc mồm và bác Peter quay lại nhìn trừng trừng.
“Chà sao mình không nhanh trí nói thế?” Scarlett nghĩ thầm, ghen tức pha lẫn thán phục. “Làm sao mà cái con thỏ con này đủ gan để đương đầu với mụ già Merriwether nhỉ?”
Tay Melanie run run, nhưng nàng vội vàng nói tiếp như sợ rơi rụng mất can đảm nếu chậm lại.
- Cháu sẽ không thô bạo với anh ta vì những điều anh ta nói, bởi lẽ…Anh ta lớn tiếng nói những điều đó lên, kể cũng thô lỗ…hết sức không nên…nhưng đó…đó chính là những điều Ashley nghĩ. Và cháu không thể cấm một người nghĩ những điều như chồng cháu nghĩ. Như vậy là bất công.
Nhịp thở của bà Merriwether trở lại bình thường, và bà tấn công.
- Melly Hamilton, suốt đời tôi chưa từng nghe thấy một lời dối trá nào như vậy. Họ nhà Wilkes không bao giờ có kẻ hèn nhát.
- Cháu không hề bảo Ashley là kẻ hèn nhát. – Melanie nói, đôi mắt bắt đầu tóe lửa. – Cháu nói là anh cũng nghĩ những điều thuyền trưởng Butler nghĩ, có điều anh phát biểu bằng ngôn từ khác. Và cháu hy vọng là anh không đi nói vung những ý nghĩ đó giữa các cuộc hòa nhạc. Nhưng anh đã viết cho cháu như thế đấy.
Scarlett cảm thấy day dứt lương tâm khi cố nhớ lại xem thử Ashley đã viết gì khiến Melanie tuyên bố như vậy, nhưng nàng quên tiệt nội dung hầu hết những bức thư ngay sau khi đọc xong. Cho nên nàng cho rằng Melanie hoàn toàn mất trí.
- Ashley viết cho cháu rằng lẽ ra chúng ta không nên đánh nhau với những người Yankee. Rằng chúng ta đã bị phản bội, đẩy vào vòng chiến bởi các nhà chính khách và các diễn giả to mồm gào những khẩu hiệu đầy thành kiến – Melanie nói nhanh, liền một hơi – Anh nói chẳng có gì trên đời bõ
để chúng ta gánh chịu hậu quả của cuộc chiến tranh này. Anh nói vinh quang là rỗng tuếch, chẳng có gì…ngoài lầm than và nhơ nhớp.
“Ồ, hóa ra là bức thư ấy!” Scarlett nghĩ thầm, - “Có phải ý chàng muốn nói thế không?”
- Tôi không tin thế, - bà Merriwether nói, giọng quả quyết. – Cháu hiểu lầm ý cậu ấy.
- Cháu không bao giờ hiểu lầm Ashley. – Melanie bình tĩnh đáp, mặc dầu môi run run. Cháu hoàn toàn hiểu anh. Anh nghĩ y hệt như thuyền trưởng Butler, có điều anh không nói một cách thô bạo thôi.
- Đáng lẽ cháu phải xấu hổ vì đã so sánh một người tốt như Ashley Wilkes với một tên vô lại như thuyền trưởng Butler. Tôi chắc cháu cũng nghĩ Sự Nghiệp chả là cái gì!
- Cháu…cháu không biết mình nghĩ thế nào nữa, - Melanie ngập ngừng, lúc này cơn bốc đã xẹp, nàng đâm hoảng vì những lời nói thẳng của mình. Cháu…cháu sẵn sàng chết vì Sự Nghiệp, cũng như là Ashley. Nhưng…cháu muốn nói…cháu muốn nói là…cháu dành quyền suy nghĩ cho nam giới, bởi vì họ thông minh hơn chúng ta biết bao.
- Tôi chưa bao giờ nghe thấy ai nói thế, - bà Merriwether cười khẩy. Đứng lại, bác Peter, bác cho xe đi quá nhà tôi rồi!
Mải nghe câu chuyện đằng sau lưng mình, bác Peter đã cho xe đi quá cửa nhà bà Merriwether. Bác cho xe lùi lại. Bà Merriwether xuống xe, nhưng dải băng mũ phần phật như cánh buồm trong cơn phong ba.
- Cháu sẽ phải ân hận, - bà nói.
Bác Peter quất ngựa.
- Các cô không biết xấu hổ đặt Miss Pitty vào tình thế này, - bác cự nự.
- Tôi không cuống đâu, - bà Pitty đáp, một điều kỳ lạ nhiều khi những chuyện ít căng thẳng hơn cũng làm bà ngất xỉu. – Melly thân yêu, cô biết cháu làm thế chỉ để đỡ cho cô và thật tình, cô thích thú được thấy ai đó làm cho Dolly hết vênh váo. Chị ta lên mặt bề trên quá lắm. Làm sao mà cháu đủ can đảm thế nhỉ? Nhưng cháu thử nghĩ xem, cháu nói thế về Ashley, có nên không?
- Nhưng đó là sự thật mà, - Melanie đáp và bắt đầu xụt xịt khóc. Và cháu cũng không xấu hổ khi biết Ashley suy nghĩ thế. Anh nghĩ chiến tranh là do ở hoàn toàn, song anh vẫn sẵn sàng chiến đấu và hy sinh, muốn thế, cần phải can đảm gấp bội so với khi chiến đấu vì một cái gì mà mình cho là chính nghĩa.
- Lạy Chúa, cô Melly, cô đừng khóc ở đây, ngay giữa phố Cây Đào này, - bác Peter làu bàu, thúc ngựa đi nhanh hơn. – Kẻo dồi thiên hạ lại xì xầm, đâm da tai tiếng. Đợi về nhà đã.
Scarlett không nói gì. Thậm chí nàng cũng không siết chặt bàn tay mà Melanie đặt vào lòng tay mình, kiếm tìm sự an ủi. Nàng đã đọc trộm những bức thư của Ashley vì mục đích duy nhất – để yên tâm rằng chàng vẫn còn yêu nàng. Giờ đây, Melanie mang lại một ý nghĩ mới cho những đoạn thư mà mắt Scarlett không đọc ra. Nàng thấy bất bình khi nhận ra rằng một người hoàn hảo như Ashley lại có thể cùng chung ý nghĩ với một kẻ vô lại như Rhett Butler. Nàng nghĩ: “Cả hai cùng nhìn thấy sự thật của cuộc chiến này, nhưng Ashley sẵn sàng hy sinh, còn Rhett thì không. Theo mình, điều đó chứng tỏ Rhett thức thời. Nàng dừng một lát thất kinh thấy mình có thể nghĩ như vậy về Ashley. “Cả hai cùng nhìn thấy một sự thật khó chịu, nhưng Rhett muốn nhìn thẳng vào sự thật đó và thích chọc tức mọi người bằng cách nhắc đến nó – còn Ashley thì hầu như không đủ sức nhìn thẳng vào nó”.
Thật không biết đường nào mà lần.
CHƯƠNG XIII
Theo sự xúi giục của bà Merriwether, bác sĩ Meade hành động dưới hình thức một bức thư gửi đăng báo trong đó ông không nêu đích danh Rhett, mặc dầu ý tứ rất rõ ràng. Ông chủ bút, mang máng cảm thấy một bi kịch trong giới thượng lưu, đưa lá thư vào trang hai, tự thân điều này là một cải tiến giật gân vì xưa nay hai trang đầu của báo bao giờ cũng dành cho mục rao bán nô lệ, la lừa, cày bừa, quan tài, rao bán hoặc cho thuê nhà, quảng cáo chữa bệnh kín, thuốc cho ra thai và thuốc bổ dưỡng cho những người bất lực.
Bức thư của ông bác sĩ là khúc dạo đầu cho một bản hợp xướng công phẫn lên án bọn đầu cơ, trục lợi, bọn buôn bán theo hợp đồng với chính phủ, đang bắt đầu vang lên khắp miền Nam. Giờ đây, khi cảng Charleston coi như đã bị các pháo hạm Yankee bịt kín, tình hình ở Wilmington, cảng chính hoạt động chống phong tỏa đã phát triển tới mức một vụ bê bối công khai. Bọn đầu cơ nhan nhản ở Wilmington và, sẵn có tiền mặt, chúng mua nhẵn hàng thuyền hàng hóa, giữ lại chờ thời giá tăng lên. Cơ hội bao giờ cũng đến, bởi lẽ do những nhu yếu phẩm ngày càng khan hiếm, giá cả tăng vọt lên theo từng tháng. Dân chúng hoặc phải nhìn tiêu dùng, hoặc phải mua theo giá của bọn đầu cơ, người nghèo và tầng lớp trung bình phải chịu đựng những khó khăn ngày càng tăng. Giá cả lên thì tiền Liên bang xuống, và cùng với sự mất giá nhanh chóng của đồng tiền, rộ lên một mê cuồng chạy theo những đồ xa xỉ. Cảnh vượt rào phong tỏa được giao nhiệm vụ mang về những nhu yếu phẩm và chỉ được phép nhân tiện buôn bán thêm đồ xa xỉ coi như mặt hàng phụ thôi, nhưng giờ đây, các tàu thuyền của họ lại chất đầy hàng xa xỉ đắt giá hơn, chiếm hết chỗ của những hàng mà Liên bang coi là nhu cầu sống còn. Dân chúng điên cuồng mua hàng xa xỉ với số tiền sẵn có, sợ để đến hôm sau tiền lại mất giá và hàng hóa lại sẽ tăng cao hơn.
Tệ hơn nữa, từ Wilmington đến Richmond lại chỉ có một tuyến đường xe lửa, và trong khi hàng nghìn thùng bột mì, hàng nghìn hòm thịt lợn muối mọt, thối ở những trạm bên đường vì thiếu phương tiện vận chuyển, thì bọn đầu cơ rượu, cà phê và vải mỏng, lúc nào cũng có thể đưa hàng tới Richmond hai ngày sau khi bốc dỡ xuống Wilmington.
Nếu trước đây người ta chỉ xì xào vụng trộm thì nay tất cả đều công khai bàn tán về tin đồn Rhett Butler không chỉ chạy bốn tàu riêng của mình và bán số hàng chở trên đó với giá cao chưa từng thấy, mà còn mua sạch hàng của các tàu khác, trữ lại chờ tăng giá. Nghe nói chàng đứng đầu một vụ kinh doanh với số vốn hơn một triệu dollar, đặt trụ sở tại Wilmington đề mua các hàng vượt rào ngay tại bến bốc dỡ. Công ty có hàng chục kho chứa ở Wilmington và Richmond – người ta đồn vậy – những kho này đầp ắp lương thực, thực phẩm, quần áo, vải vóc được tích trữ chờ giá cao hơn. Binh lính cũng như dân thường đều đã cảm thấy gay cấn, những tiếng xì xào công kích Butler cùng đám đầu cơ đồng bọn với chàng ngày càng gay gắt.
“Có nhiều người dũng cảm và ái quốc trong bộ phận chống phong tỏa thuộc ngành hàng hải Liên bang – phần cuối bức thư của ông bác sĩ viết những con người vị tha dám liều mạng sống cùng tất cả của cải vì sự tồn tại của Liên bang. Họ được tất cả những người miền Nam trung thực tôn thờ trong trái tim và không ai hiềm tị họ vì chút thu nhập ít ỏi bù lại những nguy nan họ đã trải. Họ là những bậc trượng phu quên mình và chúng ta trân trọng họ. Ở đây, tôi không nói về những người này.
“Song có những kẻ khác, những tên khốn kiếp núp dưới chiêu bài vượt rào phong tỏa để kiếm lời riêng vì quyền lợi ích kỷ của chúng, và tôi kêu gọi sự phẫn nộ chính đáng, sự báo thù chính đáng của một dân tộc đang chiến đấu cho Sự Nghiệp chính nghĩa nhất trong các sự nghiệp giáng xuống những con chim kền kền mặt ngừơi chỉ chăm chăm nhập vào những satins và đăng ten trong khi các chiến sĩ ta chết vì thiếu ký ninh, chất đầy tàu toàn trà và rượu trong khi các anh hùng của chúng ta quằn quại vì thiếu morphia. Tôi căm ghét những con ma cà rồng ấy, chúng đang hút kiệt máu những người đi theo ngọn cờ của Robert Lee – những kẻ đang làm cho tiếng vượt rào phong tỏa trở thành hôi tanh đối với lỗ mũi của tất cả những người ái quốc. Làm sao chúng ta có thể chịu đựng được cái bọn ăn xác thối ấy vênh vang giữa chúng ta với những đôi ủng bóng loáng trong khi các chàng trai của chúng ta lăn lộn chân đất ngoài chiến trường? Làm sao chúng ta có thể bỏ qua cho chúng phè phỡn champagnes với pates Strasbourg, trong khi các chiến binh của ta rét run quanh đống lửa trại mà gặm thịt lợn mốc? Tôi kêu gọi mọi người dân Liên bang trung nghĩa hãy khai trừ bọn chúng?
Dân Atlanta đọc, biết là sấm đã ban truyền và, với tư cách là người dân Liên bang trung nghĩa, họ vội vàng khai trừ Rhett.
Trong số những nhà tiếp Rhett hồi mùa thu năm 1862 hầu như chỉ còn nhà Miss Pittypat là chốn duy nhất chàng có thể bước chân vào, trong năm 1863. Và nếu không có Melanie có lẽ cả nơi này nữa cũng không tiếp chàng. Bất cứ khi nào chàng có mặt trong thành phố, bà cô Pitty đều lo sốt vó. Bà thừa biết bạn bè sẽ nói gì khi bà cho phép chàng đến thăm, song bà vẫn không đủ can đảm để bảo chàng đừng đến nữa. Mỗi lần chàng đến Atlanta, bà lại mắm môi bảo hai cháu gái rằng bà sẽ ra trấn ở cửa, cấm chàng không được vào. Và mỗi lần chàng đến với một gói nhỏ trong tay, một lời ca ngợi duyên sắc bà trên môi, quyết tâm ấy của bà lại xìu xuống như cánh hoa héo.
Quả thật cô không biết làm thế nào, - bà rền rĩ. – Anh ta nhìn cô và cô…vì, cô sợ chết khiếp, không biết anh ta sẽ làm gì nếu cô bảo thẳng anh ta. Tiếng tăm về anh ta gớm thế kia mà. Các cháu có cho rằng anh ta có thể đánh cô…hoặc…hoặc…Ôi, lạy Chúa, giá mà Charlie còn sống! Scarlett, cháu phải bảo anh ta đừng đến chơi nữa…cháu nói kheo khéo ấy. Ôi, lạy Chúa! Cô tin rằng chính cháu khuyến khích anh ta đến, cả tỉnh đều xì xào thế. Nếu mẹ cháu biết chuyện, bà ấy sẽ nói cô chẳng ra sao. Melly, cháu không nên ân cần với anh ta như thế. Hãy lạnh lùng, xa cách và anh ta khắc hiểu ra. Chao, Melly, cháu thấy cô có nên viết thư cho bác Henry nhờ bác nói với thuyền trưởng Butler không?
- Không, cháu không nghĩ thế, - Melanie đáp, - và cháu cũng sẽ không đối xử thô bạo với anh ta. Cháu nghĩ mọi người đang xử sự với thuyền trưởng Butler như một đàn gà nháo nhác vậy. Cháu dám chắc anh ta không đến nỗi hoàn toàn xấu xa như bác sĩ Meade và bà Merriwether nói đâu. Anh ta ắt không đời nào trữ lương thực cho mọi người chết đói. Đấy, anh ta còn đưa cho cháu một trăm dollar để giúp đỡ trẻ mồ côi kia mà. Cháu dám chắc anh ta cũng trung nghĩa và yêu nước như bất kỳ người nào trong chúng ta, có điều anh ta quá kiêu kỳ không thèm tự biện hộ đó thôi. Cô còn lạ gì, đàn ông khi nổi cáu thường ương bướng gai ngạnh như thế nào.
Bà cô Pitty nào có hiểu gì về đàn ông, dù là khi họ nổi cáu hay lúc bình thường, nên bà đành chỉ hoang mang khua khua đôi bàn tay nhỏ béo mẫm. Còn Scarlett, từ lâu nàng đã cam chịu cái thói của Melanie nhìn ai cũng thấy những khía cạnh tốt. Melanie là đồ ngốc dại, nhưng cái đó thì chẳng ai thay đổi được.
Scarlett biết Rhett không phải là nhà ái quốc, song điều đó nàng bất cần, mặc dù nàng thà chết còn hơn thú nhận như vậy. Những món quà nhỏ anh ta mang từ Nassau về cho nàng, những thứ vặt vãnh mà một phụ nữ có thể nhận, không sợ thất thố, đó là cái đáng kể nhất đối với nàng. Với giá cả cao như thế này, nàng kiếm đâu ra được kim khâu, kẹp tóc và kẹo bánh, nếu nàng cấm cửa anh ta? Không, cứ để bà cô Pitty chịu trách nhiệm là dễ hơn, dù sao bà cũng là người đứng đầu trong nhà, là người bảo trợ, giám hộ về phẩm hạnh. Scarlett biết dân thành phố xì xào về những cuộc đến thăm của Rhett và về cả nàng nữa, nhưng nàng cũng biết rằng dưới mắt của dân Atlanta, Melanie Wilkes không thể làm điều gì sai trái, do vậy, nếu Melanie bênh vực Rhett, thì có nghĩa là những cuộc đến thăm của anh ta vẫn còn chút đáng trọng.
Dù sao giá Rhett từ bỏ những trò tà đạo của anh ta đi, thì cuộc đời có phải thú vị hơn không. Nàng sẽ không phải chịu cái nỗi bối rối do thấy mọi người ra mặt lờ Rhett, không thèm chào hỏi, mỗi khi nàng cùng đi với anh ta dọc theo phố Cây Đào.
- Ngay cả nếu anh có nghĩ những điều như vậy, thì việc gì cứ phải nói bô lô lên? – Nàng cự nự - Giá anh chỉ nghĩ trong đầu những gì anh thích, nhưng chịu khó giữ mồm giữ miệng, thì có phải mọi sự tốt đẹp – hơn biết bao.
- Đó là cách xử thế của cô, phải không, con người mắt xanh giả dối? Scarlett, Scarlett! Tôi những hy vọng là cô cư xử can đảm hơn kia. Tôi cứ ngỡ người Irish nghĩ sao nói vậy. Và ôi, kệ thây kẻ nào tụt hậu, cô hãy nói thật với tôi, đôi khi cô có thấy muốn nổ tung vì cứ phải ngậm miệng không?
- À…có. – Scarlett miễn cưỡng thú thật. – Tôi quả có thấy quá ngán khi họ cứ nói đến Sự Nghiệp suốt ngày suốt buổi – sáng, trưa, chiều, tối. Nhưng lạy Chúa, nếu tôi nói ra điều ấy thì sẽ không có ai bắt chuyện với tôi và không chàng trai nào nhảy với tôi nữa!
- À, phải. Vậy là người ta nhất thiết cần có bạn nhảy, bằng mọi giá. Ồ, tôi thán phục sự tự chủ của cô, song tôi tự thấy mình không đủ sức làm thế. Tôi cũng không thể ngụy trang bằng cái vỏ lãng mạn, ái quốc, cho dù cái đó có tiện lợi đến đâu chăng nữa. Đã có khá nhiều nhà ái quốc đần độn đánh liều trút tới đồng xu cuối cùng vào cuộc phong tỏa, để rồi hết chiến tranh, sẽ nghèo rớt mồng tơi. Họ đâu có cần tôi nhập bọn, hoặc để làm chói sáng cái kỷ lục về lòng ái quốc, hoặc để tăng cường đội ngũ những kẻ bần hàn. Hãy dành những vòng hào quang cho họ. Họ xứng đáng được thế - chả gì thì tôi cũng thành thật lấy một lần này – vả chăng, trong vòng một vài năm nữa, hào quang sẽ là toàn bộ những gì họ có được.
- Tôi thấy anh thật độc địa nên mới ám chỉ những điều như vậy trong khi anh thừa biết Anh và Pháp đang sắp đứng về phe chúng ta và…
- Chà, Scarlett! Hẳn cô vẫn còn đọc báo! Tôi lấy làm ngạc nhiên về cô đấy. Đừng có tiếp tục làm thế nữa. Báo chí chỉ làm hỏng đầu óc phụ nữ thôi. Để giúp cho cô thông tỏ tình hình, tôi xin nói cho cô biết điều này, vì tôi mới ở bên Anh cách đây chưa đầy một tháng, nước Anh sẽ chẳng bao giờ giúp Liên bang đâu. Nước Anh không bao giờ cá cược vào con ngựa thua kém đâu. Vì thế nó mới là nước Anh. Với lại, cái mụ đàn bà Hà Lan béo mập hiện đang ngồi trên ngôi báu nước đó
[44]
[44] vốn là người biết sợ Thượng đế, bà ta không tán thành chế độ nô lệ đâu. Những người thợ dệt Anh có chết đói vì không có bông của chúng ta cũng mặc, chứ nước Anh không đời nào, phải, không đời nào bắn một phát súng ủng hộ chế độ nô lệ đâu. Còn nước Pháp thì cái nhân vật nhờ nhạt mô phỏng theo Napoleon[45]
[45]đang quá bận rộn cắm quân vào Mexico, còn bụng dạ nào mà nghĩ đến chúng ta nữa. Trên thực tế, ông ta hoan nghênh cuộc chiến tranh này vì nó khiến chúng ta mắc kẹt không có điều kiện để đánh đuổi quân đội của ông ta ra khỏi Mexico…Không, Scarlett ạ, cái ý về chuyện ngoại viện chỉ là một điều bịa đặt của báo chí để nâng cao tinh thần cho dân miền Nam mà thôi. Số phận của Liên bang đến ngày tận rồi. Bây giờ nó đang như con lạc đà dựa vào dự trữ dinh dưỡng ở cái bướu mà sống, nhưng khốn thay, cả đến kho dự trữ lớn nhất thế giới cũng phải có ngày cạn. Tôi tính làm công việc vượt rào này độ sáu tháng nữa rồi thôi kẻo sau đó có quá nhiều nguy hiểm. Tôi sẽ bán tàu cho một gã người Anh ngu xuẩn nào đó tưởng vẫn có thể luồn lách xuôi lọt được. Nhưng, cách này hay cách khác, tôi cũng chả lo. Tôi đã làm được kha khá tiền và đem chuyển thành vàng gửi ngân hàng bên Anh. Tôi chả giữ cái thứ giấy lộn ấy làm gì.Như mọi khi, chàng nói bao giờ nghe cũng có lý.
Những người khác có thể cho những phát biểu của chàng là gian trá, nhưng Scarlett thì bao giờ cũng thấy chúng có vẻ thức thời và đúng sự thật. Tuy nhiên, nàng biết tất cả những điều đó là hoàn toàn bậy bạ, biết là mình cần phải bất bình và nổi giận mới đúng. Thực ra, nàng không bất bình cũng chẳng nổi giận, nhưng nàng có thể làm ra vẻ như thế. Điều đó khiến nàng tự cảm thấy đáng kính trọng hơn và ra dáng bậc mệnh phụ hơn.
- Tôi thấy những điều bác sĩ Meade viết về anh là đúng, thuyền trưởng Butler ạ. Cách duy nhất để anh chuộc lỗi lầm là nhập ngũ sau khi đã bán tàu. Trước anh đã học trường võ bị West Pointer và…
- Cô nói năng như một nhà truyền giáo dòng Baptist đang đăng đàn diễn thuyết mộ lính ấy. Giả dụ tôi không muốn chuộc lại lỗi lầm. Tại sao tôi lại phải chiến đấu để duy trì cái hệ thống đã khai trừ tôi? Tôi sẽ thích thú được thấy nó bị đập tan.
- Tôi chưa bao giờ nghe nói đến một hệ thống nào cả, - nàng cáu kỉnh nói.
- Thật ư? Vậy mà cô đang là một bộ phận của nó, như tôi trước đây, và tôi đánh cuộc rằng cô cũng chẳng thích gì nó hơn tôi. Ồ, tại sao tôi lại là con chiên ghẻ của gia đình Butler nhỉ? Vì độc một lý do này, không có gì khác: tôi không tuân thủ những lề thói của Charleston, tôi không thể nào làm thế được. Và Charleston là miền Nam đẩy lên một mức nữa. Tôi không biết cô có hiểu cái đó chán ngấy đến mức nào không. Có biết bao điều ta phải làm, bởi lẽ xưa nay vẫn thế. Có biết bao điều hoàn toàn vô hại ta không được làm cũng vì lý do ấy. Có biết bao điều vô nghĩa làm tôi khó chịu. Việc tôi không chịu cưới cô gái, mà có lẽ cô đã nghe nói đến, chỉ là giọt nước làm tràn cốc. Tại sao tôi lại phải lấy một cô ả ngu độn chán ốm chỉ vì một sự cố khiến tôi không đưa được cô ta về đến nhà trước khi trời tối? Và tại sao tôi lại phải cho phép gã anh trai mắt long sòng sọc của cô ta bắn chết trong khi tôi là tay súng cừ hơn? Dĩ nhiên, nếu tôi là người quân tử thì tôi đã để gã giết tôi và điều đó ắt đã rửa sạch vết nhơ trên gia huy của dòng họ Butler. Nhưng…tôi lại thích sống cơ. Và thế là tôi sống và tôi vui chơi. Khi tôi nghĩ đến thằng em trai sống giữa những mợ bò cái thiêng liêng của Charleston và hết sức cung kính đối với họ, nhớ đến con vợ phục phịch của nó, những cuộc vũ hội Saint Cecilia của nó và những cánh đồng lúa muôn thuở của nó, tôi mới hiểu mình được đền bù như thế nào về việc đoạn tuyệt với cái hệ ấy. Scarlett ạ, lối sống miền Nam của chúng ta thật cổ lỗ chả kém gì hệ thống phong kiến thời trung cổ. Điều đáng ngạc nhiên là nó kéo dài đến thế. Nó tất phải đi tong và giờ đây nó đang đi tong đó. Ấy thế mà cô lại muốn tôi nghe nhưng diễn giả như ông bác sĩ Meade dạy dỗ rằng Sự Nghiệp của chúng ta là chính nghĩa và thần thánh ư? Và rồi nức lòng với nhịp trống hào hùng, vớ lấy một khẩu súng hỏa mai, xốc thẳng tới Virginia để đổ máu vì Marse Robert? Cô cho tôi là cái loại ngu dại nào? Tôi không thuộc loại quỳ xuống hôn cái roi đã quật tôi. Miền Nam với tôi bây giờ là hòa. Miền Nam đã có lần tống cổ tôi đi để tôi chết đói. Tôi đã không chết đói và tôi đã lợi dụng cơn giẫy chết của Miền Nam kiếm được khá nhiều tiền để bù lại việc mất quyền con trưởng.
- Tôi cho anh là kẻ đê tiện và lý tài, - Scarlett nói.
Nhận xét ấy của nàng là vô thức. Phần lớn những điều chàng nói trượt qua đầu nàng như bất cứ cuộc trò chuyện chung chung nào. Nhưng một số điều quả là có lý. Trong đám những người thanh lịch, có khối quan niệm ngu xuẩn về cuộc đời. Phải giả vờ như trái tim mình đã bị chôn dưới mồ, trong khi không phải thế! Và mọi người tỏ ra bất bình làm sao khi thấy nàng khiêu vũ tại cuộc bán phúc thiện! Và điên tiết làm sao, cái lối mọi người nhướn mày lên mỗi khi nàng nói một điều gì hơi khác những điều mà mọi thiếu phụ khác thường làm và nói! Tuy nhiên, nàng vẫn thấy chối tai khi nghe chàng công kích chính những cổ lệ làm nàng khó chịu nhất. Nàng đã sống quá lâu giữa những người gian trá một cách lịch sự, nên không thể không cảm thấy bối rối khi nghe những ý nghĩ của chính nàng được phát biểu lên thành lời.
- Lý tài ư? Không, tôi chỉ lo xa đấy thôi. Tuy nhiên, đó có thể là một từ đồng nghĩa với lý tài. Chí ít, những người không lo xa như tôi cũng gọi nó là thế. Bất kỳ người dân Liên bang trung hậu nào có một nghìn dollar tiền mặt vào năm 1861 đều có thể làm như tôi, nhưng thật quá ít người đủ lý tài để lợi dụng thời cơ đến với mình! Xin dẫn chứng: ngay sau khi pháo đài Sumter thất thủ và trước khi hàng rào phong tỏa được thiết lập, tôi đã mua vét mấy nghìn kiện bông với giá rẻ mạt đưa thẳng sang Anh. Hiện chúng vẫn còn nằm trong các nhà kho ở Liverpool. Tôi chưa hề bán lấy một kiện. Tôi cứ giữ đến khi nào các nhà máy dệt của Anh cần bông tới mức phải trả bất kỳ giá nào tôi đòi. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu tôi bán mỗi pound
[46]
[46] được một dollar.- Bao giờ voi đậu trên cây thì anh bán mỗi pound được một dollar.
- Tôi tin rằng tôi sẽ đạt được điều đó. Giá bông bây giờ đã là bảy mươi hai xu một pao. Khi nào cuộc chiến tranh này kết thúc, tôi sẽ giàu có, Scarlett ạ, vì tôi biết lo xa…xin lỗi, vì tôi lý tài. Trước đây, tôi đã có lần nói với cô rằng có hai cơ hội làm tiền lớn, một là trong việc xây dựng đất nước, hai là trong việc hủy diệt đất nước.
Làm giàu trong xây dựng thì chậm, còn khi dậu đổ bìm leo thì tiền đến rất nhanh. Cô hãy nhớ lời tôi nói. Có thể một ngày nào đó, nó sẽ giúp ích cho cô đấy.
- Tôi rất quý những lời khuyên đắc sách, - Scarlett nói với tất cả trữ lượng mỉa mai nàng có thể huy động. – Nhưng tôi không cần đến lời khuyên của anh. Anh cho ba tôi là một kẻ bần cùng ư? Tiền thì tôi cần bao nhiêu ba tôi cũng có và ngoài ra, tôi còn có cả tài sản Charles để lại nữa.
- Tôi hình dung là đám quý tộc Pháp cũng nghĩ gần giống như thế cho đến cái lúc người ta tống họ lên xe bò đi đến chỗ máy chém.
Nhiều lần Rhett vạch ra cho Scarlett thấy sự trái khoáy của việc nàng mặc đồ tang đen trong khi vẫn tham gia tất cả các họat động vui giao tế. Chàng thích những màu tươi sáng, và bộ đồ tang của nàng cùng chiếc khăn nhiễu rủ từ chiếc mũ mềm xuống tận gót chân khiến chàng vừa thấy hay hay vừa bực mình. Nhưng nàng vẫn bám lấy bộ khăn, áo tang đen ảm đạm, biết rằng nếu thay thế ngay bằng những màu sắc rực rỡ mà không chờ thêm vài năm nữa, cả tỉnh sẽ rộn những lời ong tiếng ve, rác tai gấp mấy bây giờ. Với lại, nàng sẽ giải thích với mẹ thế nào?
Rhett nói thẳng rằng chiếc khăn nhiễu khiến nàng nom giống như con quạ và chiếc áo dài đen làm nàng già đi đến mười tuổi. Lời tuyên bố bỗ bã ấy khiến nàng chạy bay đến chiếc gương để xem có thật là mình đã bằng người hai mươi tám tuổi chứ không còn là cô gái mười tám nữa hay không.
- Tôi tưởng cô giàu lòng tự ái, chứ ai dè cô lại phấn đấu để nom giống như bà Merriwether, - chàng trêu chọc. – Tưởng cô là người có đầu óc thẩm mỹ, chứ ai dè lại choàng chiếc khăn ấy để phô trương một nỗi đau đớn mà tôi dám chắc là cô không hề cảm thấy bao giờ. Tôi đánh cuộc với cô là trong vòng hai tháng nữa, tôi sẽ làm cho cô bỏ mũ và chiếc mạng che, và đội một kiểu mũ chế tạo tại Paris.
- Dứt khoát là không, ta đừng có bàn chuyện ấy nữa, - Scarlett nói, khó chịu về việc chàng nói những điều gợi đến Charles.
- Đang bận sửa soạn đến Wilmington để bắt đầu một chuyến đi mới ra nước ngoài, Rhett cáo từ với một nụ cười trên môi.
Mấy tuần sau, vào một buổi sáng mùa hè rực rỡ, chàng lại xuất hiện với một chiếc hộp mũ trang trí tươi tắn trên tay. Sau khi thấy chỉ có mình Scarlett ở nhà, chàng bèn mở nắp hộp. Một chiếc mũ phụ nữ bọc mấy lần vải, một công trình sáng tạo kỳ diệu đến nỗi nàng phải thốt lên: “Ôi, cái mũ mới đáng yêu làm sao!” trong khi với tay ra đỡ lấy. Thèm nhìn thấy những kiểu y phục mới hơn là thèm mặc, Scarlett tưởng chừng đây đây là chiếc mũ đẹp nhất nàng từng thấy trên đời. Nó bằng vải taffeta màu xanh sẫm viền lụa màu ngọc bích nhạt.
Những dải băng để thắt dưới cằm rộng bằng bàn tay nàng và cũng màu xanh nhạt. Và quanh vành mũ, vểnh lên những chiếc lông đà điểu xanh, nom hết sức ngổ ngáo.
- Cô đội thử xem, - Rhett cười nói.
Nàng chạy ngang qua phòng tới trước gương và chụp nó lên đầu, vén tóc ra sau để khỏi che mất hoa tai, rồi buộc dải băng dưới cằm.
- Nom tôi đội thế nào? – Nàng hỏi, xoay người một vòng cho chàng ngắm và bắt đầu làm những chiếc lông đà điểu rung rinh. Nhưng ngay cả trước khi thấy sự xác nhận trong mắt chàng, nàng đã biết là mình xinh đẹp. Nom nàng ngạo ngược một cách quyến rũ và lần lót bằng lụa xanh làm cho mắt nàng long lanh một ánh ngọc bích sẫm.
- Ôi, Rhett mũ của ai vậy? Anh bán cho tôi nhé. Có bao nhiêu tiền, tôi cũng trả anh hết.
- Của cô đấy, - chàng nói – Còn ai khác ngoài cô có thể hợp với cái sắc xanh ấy? Cô tưởng tôi không ghi nhớ màu mắt cô trong tâm trí sao?
- Có thật anh đặt làm nó cho riêng tôi không?
- Phải. Trên hộp đựng có chữ “Rue de la Paix
[47]
[47]” cô có biết thế nghĩa là gì không?
Nàng không cần biết thế nghĩa là gì, mà chỉ mỉm cười với hình ảnh mình trong gương. Lúc này, chẳng có gì quan trọng đối với nàng, ngoài việc nàng thấy mình hết sức kiều diễm với chiếc mũ đẹp đầu tiên nàng có dịp đội trong vòng hai năm nay. Với chiếc mũ này, nàng làm gì mà chẳng được! Nhưng rồi nụ cười của nàng bỗng tắt.
- Cô có thích nó không?
- Ôi, thật là đẹp như mộng, nhưng…Chao, thật dễ ghét nếu tôi phải phủ chiếc khăn nhiễu lên màu xanh đáng yêu này và nhuộm đen những chiếc lông đà điểu này.
Thoắt cái, chàng đã ở bên nàng, những ngón tay khéo léo cởi chiếc quai mũ dưới cằm nàng. Thoáng chốc, chiếc mũ đã trở lại nằm trong hộp.
- Anh làm cái gì thế? Anh vừa bảo nó là của tôi cơ mà.
- Nhưng không phải để biến nó thành một cái mũ tang. Tôi sẽ tìm ra một người đẹp mắt xanh nào khác biết đánh giá ý thức thẩm mỹ của tôi.
- Ôi, anh đừng làm thế! Không có nó thì tôi chết mất. Ôi, Rhett, tôi xin anh đừng có tệ như thế. Để nó cho tôi.
- Để cô biến nó thành ngoáo ộp như những cái mũ khác của cô ư? Không.
Nàng níu chặt lấy cái hộp. Đem cho một cô gái khác cái mũ này, cái vật đáng yêu nó khiến nàng tươi trẻ, quyến rũ đến thế. Ồ, không đời nào! Trong một lúc, nàng hình dung vẻ thất kinh của bà Pitty và Melanie khi thấy nàng đội chiếc mũ này. Nàng nghĩ đến bà Ellen, đến những điều bà sẽ nói, và nàng rùng mình. Song sức cám dỗ của phù hoa vẫn mạnh hơn.
- Tôi sẽ đội nguyên thế, không thay đổi. Tôi xin hứa vậy. Bây giờ thì hãy để cho tôi.
Chàng đưa chiếc hộp cho nàng với một nụ cười hơi giễu cợt và quan sát nàng thử lại mũ, ngắm vuốt.
- Bao nhiêu tiền? - nàng đột ngột hỏi, mặt thỉu ra. – Hiện tôi mới có năm mươi dollar, nhưng tháng sau….
- Khoảng hai nghìn dollar tiền Liên bang – Chàng nói và tủm tỉm cười trước vẻ thiểu não của nàng.
- Trời đất!...Này nhé, giả sử bây giờ tôi đưa anh năm mươi dollar, rồi khi nào tôi được…
- Tôi không cần lấy tiền, - chàng nói. – Đây là một quà tặng.
Scarlett há hốc miệng. Việc nhận tặng phẩm của đàn ông có những giới hạn rất chặt chẽ. Bà Ellen thường dặn đi dặn lại: “Kẹo bánh và hoa thì được, con gái yêu ạ, và có lẽ một tập thơ hoặc một quyền album hoặc một lọ nước thơm Florida nho nhỏ, đó là những thứ duy nhất mà một phụ nữ được phép nhận của một người đàn ông. Không bao giờ, không bao giờ được nhận những tặng phẩm đắt tiền, kể cả của chồng chưa cưới. Và không bao giờ được nhận quà nữ trang hoặc quần áo, thậm chí găng tay hay khăn tay cũng không được. Nếu mình nhận những tặng phẩm như vậy, đàn ông sẽ nghĩ mình không phải loại tiểu thư con nhà và họ sẽ tìm cách làm những điều suồng sã”.
“Trời ơi” – Scarlett nghĩ thầm, thoạt đầu nhìn bóng mình trong gương, rồi lại liếc sang bộ mặt bí hiểm của Rhett. “Mình dứt khoát không đủ sức từ chối. Chiếc mũ thật đáng yêu quá. Mình…mình thà để anh ta suồng sã tí chút, miễn là không quá đáng”. Rồi thất kinh với ý nghĩ ấy, nàng đỏ mặt lên.
- Tôi…tôi sẽ đưa anh năm mươi dollar…
- Nếu cô làm thế, tôi sẽ vứt nó xuống cống. Hoặc giả tốt hơn nữa, tôi sẽ thuê người làm lễ masses cầu hồn cho cô. Tôi dám chắc hồn cô có thể siêu thoát qua vài cuộc lễ masses.
Nàng cất tiếng cười gượng gạo. Thấy hình ảnh mình đang cười dưới chiếc vành mũ màu xanh lục, nàng lập tức quyết định.
- Anh định làm gì tôi nào?
- Tôi đang dùng những tặng phẩm đẹp đẽ cám dỗ cô cho đến khi nào những lý tưởng thiếu nữ ngây thơ của cô tiêu tan và cô chịu ép một bề theo sự định đoạt của tôi, - chàng nói. – Con gái cưng, con chỉ được nhận kẹo bánh và hoa của đàn ông thôi, - chàng nhại và Scarlett phì cười.
- Anh là một gã đê tiện, tim đen ngòm, Rhett Butler ạ, nhưng anh thông minh, anh thừa biết cái mũ này quá đẹp, không ai đủ sức từ chối.
Mắt chàng đầy vẻ ngưỡng mộ trước sắc đẹp của nàng, nhưng vẫn giễu cợt.
- Tất nhiên, cô có thể nói với Miss Pitty rằng cô đã đưa tôi một mẩu vài taffeta và lụa xanh kèm theo bản vẽ kiểu mũ, và tôi đã moi của cô năm mươi dollar tiền công.
- Không, tôi sẽ nói là một trăm dollar, rồi bà ấy sẽ kể với cả tỉnh và mọi người sẽ xanh xám mặt vì ghen tức và tha hồ xì xào về những thói ngông của tôi. Nhưng Rhett ạ, anh không nên mang đến cho tôi cái gì khác đắt tiền thế. Anh thật hảo tâm quá. Nhưng thật tình tôi không thể nhận cái gì khác nữa.
- Thật ư? Được, tôi sẽ tiếp tục mang quà đến cho cô chừng nào tôi còn thích thế và chừng nào tôi còn tháy những thứ có thể tôn thêm duyên sắc cho cô. Tôi sẽ đem lụa xanh sẫm cho cô may một cái áo vào bộ chiếc mũ này. Và tôi xin báo để cô biết là tôi không hảo tâm đâu. Tôi đang dùng mũ, áo, đồ trang sức để cám dỗ cô, tôi đang đưa cô vào bẫy đấy. Hãy luôn luôn nhớ rằng tôi chẳng bao giờ làm gì mà không có lý do và tôi chẳng bao giờ cho gì mà không chờ đợi một cái gì đáp lại. Bao giờ tôi cũng phải được trả giá.
Cặp mắt đen của chàng xục xạo mặt nàng và lướt xuống đôi môi. Scarlett cụp mắt xuống, lòng bồi hồi. Bây giờ chàng sắp giở trò suồng sã đây, đúng như bà Ellen đã tiên đoán. Chàng sắp sửa hôn hoặc tìm cách hôn nàng, trong tâm trạng xao xuyến, nàng không dám chắc là thế nào.Nếu nàng từ chối, chàng có thể giật phắt chiếc mũ khỏi đầu nàng, đem cho một cô gái nào khác. Mặt khác, nếu nàng cho phép một cái hôn trong trắng, chàng có thể mang tới những tặng phẩm đẹp với hy vọng kiếm một cái hôn nữa. Đàn ông hết sức coi trọng những cái hôn, chỉ có Trời mới biết tại sao. Và rất nhiều trường hợp, chỉ sau một cái hôn, họ hoàn toàn phải lòng một cô gái và tự biến thành trò cười cho thiên hạ, miễn sao cô gái tinh ý biết dè sẻn những cái hôn của mình sau cái đầu. Nếu làm được cho Rhett phải lòng, phải thú nhận thế và xin xỏ từng cái hôn, từng nụ cười thì thật kỳ thú biết mấy. Được rồi, nàng sẽ để cho chàng hôn.
Nhưng chàng không hề làm một cử chỉ nào để hôn nàng. Nàng liếc nhìn chàng từ dưới hàng mi dài và thì thầm động viên:
- Vậy là bao giờ anh cũng phải được trả giá phải không? Và anh chờ đợi được ở tôi cái gì?
- Còn xem xem đã.
- Này, nếu anh nghĩ là tôi sẽ lấy anh để trả giá cái mũ thì đừng hòng, - nàng táo tợn nói và ngạo mạn hất đầu làm những chiếc lông đà điểu đảo đảo.
Hàm răng trắng của chàng ánh lên dưới hàng ria nhỏ.
- Thưa phu nhân, bà tự phỉnh phờ mình đó, tôi không muốn lấy bà hoặc bất cứ người nào khác. Tôi không phải là người của hôn nhân.
- Thật ư! – Nàng kêu lên, ngỡ nàng và bây giờ càng quyết tâm để chàng nhả nhợt một tí, - Thậm chí tôi cũng không có ý định hôn anh nữa kia.
- Thế thì tại sao môi cô lại cong lên một cách buồn cười thế kia?
- Ồ! – Nàng thốt lên khi nhìn thấy mình trong gương: quả thật đôi môi đỏ của nàng đang ở đúng tư thế chuẩn bị hôn. – Ôi! – Nàng lại kêu lên, mất bình tĩnh và giậm chân. – Anh là con người gớm ghiếc nhất tôi từng biết và tôi bất cần nếu tôi không bao giờ thấy mặt anh nữa!
- Nếu cô thật tình cảm thấy thế thì đáng lẽ cô phải giậm lên cái mũ chứ. Chà, cô đang giận dữ ghê gớm và nét đó thật là hợp với cô, có lẽ cô cũng biết thế. Nào Scarlett hãy giậm lên cái mũ để chứng tỏ cho tôi thấy cô nghĩ thế nào về tôi và về những tặng phẩm của tôi đi chứ!
- Anh hãy liệu đấy, đừng có đụng đến cái mũ này, - nàng nói, tay giữ chặt lấy quai mũ và lùi lại.
Chàng tiến lên, cười khẽ và cầm lấy hai tay nàng.
- Ôi, Scarlett, cô trẻ thơ đến độ làm thắt cả tim tôi, - chàng nói. – Và tôi sẽ hôn cô vì hình như cô đang chờ đợi điều đó.
Và trễ nải cúi xuống, chàng khẽ chạm bộ ria vào má nàng.
- Nào, cô có cảm thấy phải tát tôi để bảo toàn khuôn phép không?
Đôi môi nổi loạn, nàng ngước nhìn vào mắt chàng và đọc thấy trong mắt đen sâu thẳm ấy có một niềm thích thú đến nỗi nàng bật cười. Tính nết chàng đến là hay trêu chọc, dễ làm người ta điên tiết. Nếu anh ta không muốn lấy mình, thậm chí không muốn hôn nữa, thì anh ta muốn gì nhỉ? Nếu anh ta không phải lòng mình thì tại sao anh ta lại hay đến chơi, hay mang quà cho mình thế?
- Thế là tốt, - chàng nói. – Scarlett ạ, tôi có ảnh hưởng xấu đối với cô và nếu cô biết điều hơn lẽ thiệt thì cô sẽ phải tống cổ tôi ra khỏi cửa…nếu cô có thể. Bởi vì rũ bỏ được tôi đâu phải chuyện dễ. Nhưng tôi lại có hại cho cô đấy.
- Thật ư?
- Cô không thấy ư? Từ khi tôi gặp cô tại cuộc bán phúc thiện, cách cư xử của cô gây bất bình rất mạnh và đó chủ yếu là lỗi tại tôi. Ai đã khuyến khích cô nhảy? Ai đã buộc cô phải thừa nhận rằng cô cho là Sự Nghiệp vinh quang của chúng ta không vinh quang mà cũng chẳng thiêng liêng? Ai đã thúc đẩy cô thừa nhận rằng cô cho những người chết vì nguyên lý khoa trương rỗng tuếch là ngu dại? Ai giúp cô cung cấp cho các mụ già biết bao đầu đề để ngồi lê đôi mách? Ai đang khiến cô bỏ đồ tang sớm hơn thời hạn mấy năm? Và sau hết, ai đã dụ cô nhận một món quà tặng mà không một phụ nữ gia thế nào có thể nhận mà vẫn giữ được nguyên phẩm cách?
- Anh quá tự thị đấy, thuyền trưởng Butler ạ. Tôi chẳng làm điều gì tai tiếng đến thế cả và dù sao đi nữa, nếu không có anh, tôi vẫn có thể làm tất cả những điều anh vừa nêu.
- Tôi không tin, - chàng nói, mặt đột nhiên sa sầm. – Nếu không có tôi, hẳn cô vẫn là người vợ góa đau khổ của Chalers Hamilton và nổi tiếng về những hành động tốt phục vụ thương binh. Tuy nhiên, cuối cùng…
Nhưng Scarlett không nghe nữa vì nàng lại đang mải vui thích ngắm mình trong gương, định bụng ngay chiều nay sẽ đội chiếc mũ đến bệnh viện và mang hoa đến tặng các sĩ quan an dưỡng.
Nàng không hề nhận ra rằng những lời cuối cùng của Rhett có chứa đựng một phần sự thật. Nàng không thấy rằng chính chàng đã hé mở cái nhà-tù-thân-phận-quả-phụ của nàng và giải phóng cho nàng thành nữ chúa giữa đám con gái chưa chồng khi mà lẽ ra thời hoa khôi của nàng đã qua từ lâu rồi. Nàng cũng không thấy rằng ảnh hưởng của chàng đã khiến nàng đi trệch xa khỏi những lời dạy bảo của bà Ellen. Sự thay đổi diễn ra rất từ từ, từng tí một, những vi phạm liên tiếp từng quy ước nhỏ dường như không liên quan gì với nhau và dường như Rhett cũng chẳng liên quan gì đến đó. Nàng không hề nhận ra rằng, với sự khuyến khích của chàng, nàng đã bất chấp nhiều huấn thị nghiêm khắc nhất của mẹ về khuôn phép, lễ nghi và quên hẳn những bài học khó khăn để trở thành một phụ nữ con nhà.
Nàng chỉ thấy rằng đây là chiếc mũ hợp với nàng nhất từ xưa đến nay, rằng nàng được nó mà không tốn một xu nào, rằng Rhett hẳn đã mê nàng, dù chàng có thừa nhận hay không. Và nàng nhất quyết phải tìm ra cách để buộc chàng phải thừa nhận.
Ngày hôm sau, Scarlett đứng trước gương, tay cầm lược, miệng ngậm đầy cặp tóc, cố chải một kiểu đầu mới mà Maybelle, vừa đi thăm chồng ở Richmond về bảo là đang rất thịnh hành ở thủ đô. Kiểu đầu này được đặt tên là “Mèo, chuột và chuột nhắt” rất khó chải. Tóc phải rẽ ngôi ở giữa và mỗi bên cuốn thành ba lọn nhỏ dần, lọn lớn nhất, sát đường ngôi, gọi là “mèo”. “Mèo” và “chuột” thì còn dễ cố định, nhưng “chuột nhắt” thì cứ tuột hoài khỏi các kẹp tóc đến tức điên lên được. Dù sao nàng cũng phải quyết tâm chả bằng được, vì Rhett sắp đến ăn tối, mà chàng bao giờ cũng để ý và bình luận mọi sự cách tân về quần áo hoặc về kiểu tóc.
Nàng đang đánh vật đến vã mồ hôi trán với những lọn tóc rậm, bướng bỉnh, thì bỗng nghe thấy tiếng bước chân nhẹ thoăn thoắt ở tiền sảnh dưới nhà và biết rằng Melanie đã từ bệnh viện về. Nghe thấy Melanie nhảy lên hai bậc một lên cầu thang, nàng sững lại, cặp tóc giơ lên nửa chừng, chắc có chuyện gì không ổn vì mọi khi bao giờ Melanie cũng đi đứng rất từ tốn, đoan trang. Nàng ra mở cửa và Melanie chạy vào mặt đỏ bừng, hốt hoảng như một đứa trẻ phạm lỗi.
Má Melanie đầm nước mắt, chiếc mũ vải trật ra sau, quai chèn ngang cổ, vành váy đảo mạnh. – Cô về chưa? Chưa à? Ôi, đội ơn Chúa! Chị Scarlett, em xấu hổ đến chết mất. Thiếu chút nữa thì ngất xỉu và, chị Scarlett ạ, bác Peter đang dọa sẽ mách bác Pitty.
- Mách gì?
- Mách là em đã nói chuyện với…với cô…với bà…- Melanie lấy mùi soa quạt bộ mặt nóng bừng. Cái người đàn bà tóc đỏ tên là Belle Watling ấy.
- Chà, Melly! – Scarlett thốt lên, quá bàng hoàng, chỉ còn biết trố mắt nhìn.
Belle Watling là cô ả tóc đỏ, nàng đã trông thấy hôm đầu tiên tới Atlanta và đến nay, ả đã trở thành người phụ nữ nổi tiếng nhất thành phố. Theo chân lính, gái mãi dâm đổ xô đến Atlanta khá nhiều, nhưng Belle nổi bật hơn tất cả, do bộ tóc như bốc lửa và những chiếc áo lòe loẹt quá ư thời thượng của ả. Ít khi thấy ả quanh quẩn ở phố Cây Đào hoặc những khu đàng hoàng tử tế, nhưng mỗi khi ả xuất hiện, những phụ nữ đứng đắn đều vội vàng sang qua đường để tránh gần ả. Vậy mà Melanie lại đi trò chuyện với ả! Chả trách bác Peter bất bình.
- Nếu cô Pitty biết thì em chết mất! Chị lạ gì, cô sẽ khóc lóc rồi đi kể lể với cả tỉnh và em sẽ mang nhục, - Melanie nức nở. – Mà đâu phải lỗi tại em. Em…em không thể chạy trốn chị ta được, làm thế thì phũ phàng quá. Chị Scarlett, em…em thấy ái ngại cho chị ta quá. Chị có cho rằng em cảm nghĩ như vậy là sai trái không?
- Nhưng Scarlett không quan tâm đến khía cạnh đạo đức của vấn đề. Như phần lớn những cô gái gia giáo và ngây thơ, nàng rất háo hức muốn biết về đám gái điếm.
- Ả ta muốn gì? Ả ta ăn nói làm sao?
- Ồ, chị ta nói sai văn phạm ghê gớm, song em có thể thấy chị ta đã hết sức cố gắng để tỏ ra thanh lịch, tội nghiệp. Ở bệnh viện ra, em không thấy bác Peter đỗ xe đợi, nên em cứ tính đi bộ về cũng được. Và e đi qua trước sân nhà Emersons thì kìa, chị ta đang nấp sau hàng rào! Ôi, đội ơn Chúa, hôm nay gia đình Emersons lại ở Macon! – Chị ta nói: “Thưa bà Wilkes, xin bà nói mấy tôi một phút”. Không biết làm thế nào mà chị ta lại biết tên em. Em biết đáng ra em phải vắt chân lên cổ chạy thật xa, nhưng…chị Scarlett ạ, nom chị ta buồn rũ và phải, có vẻ như van vỉ. Và chị ta lại mặc áo đen, đội mũ đen, không son phấn, trông thật sự là đúng mực, nếu không có cái bộ tóc đỏ ấy. Em chưa kịp trả lời thì chị ta đã nói: “Tôi biết là tôi không nên ngỏ lời mấy bà, nhưng tôi đã tìm cách nói chuyện cái mụ già Elsing vênh vang như con công mái ấy, và bà ấy đuổi thẳng tôi ra khỏi bệnh viện”.
- Có thực ả gọi bà Elsing là con công mái không? – Scarlett khoái trá cười, hỏi.
- Ôi, đừng cười, chị! Chuyện chả có gì vui cả. Hình như Misa…ờ, hình như người đàn bà ấy muốn làm một cái gì ủng hộ bệnh viện…chị có thể tưởng tượng được không? Chị ta tình nguyện sáng nào cũng đến chăm sóc bệnh nhân và tất nhiên, mới nghe thế, bà Elsing đã chết khiếp, thế là bà ra lệnh đuổi chị ta ra khỏi bệnh viện. Thế rồi chị ta nói “Tôi cũng muốn đóng góp một cái gì. Chẳng phải tôi cũng là một công dân Liên bang như bà sao?” Chị Scarlett, lòng mong muốn được đóng góp của chị ta đi thẳng vào tim, làm em xúc động. Chị thấy không, nếu chị ta muốn phục vụ Sự Nghiệp thì ắt chị ta không hoàn toàn xấu. Chị có cho rằng em cảm nghĩ như vậy là sai trái không?
- Vì lòng kính Chúa, Melly, cô sai hay không, tôi không cần biết! Ả còn nói gì nữa?
- Chị ta bảo chị ta đã quan sát các phụ nữ thường đến bệnh viện và thấy em có… một… một bộ mặt đôn hậu, cho nên chị ta dừng em lại. Chị ta có chút ít tiền và chị ta muốn em cầm lấy để chi dùng cho bệnh viện mà không để ai biết nguồn gốc. Chị ta bảo là bà Elsing ắt không cho nhận nếu bà biết đó là thứ tiền gì. Thứ tiền gì! Chính lúc đó, em tưởng mình ngất xỉu khi hiểu ra! Quá bàng hoàng và bồn chồn muốn bỏ đi ngay, em chỉ nói: “À phải, thật vậy, cô thật hảo tâm”, hay một câu gì đại khái cũng ngu xuẩn như vậy. Chị ta mỉm cười, nói: “Bà quá là có tâm Cơ đốc”, và giúi chiếc mùi soa bẩn này vào tay em. Úi, chị thử ngửi mùi nước hoa mà xem!
Melanie chìa ra một chiếc mùi soa đàn ông nhem nhuốc, sực mùi nước hoa, buộc túm lại, đựng một mớ tiền cạch.
- Chị ta đang cảm ơn em, và hứa hàng tuần sẽ mang đến cho em một số tiền thì vừa lúc ấy bác Peter đánh xe tôi và trông thấy em!
Melanie gục đầu xuống khóc và tựa đầu lên chiếc gối.
- Và khi nhận ra ai đang đứng với em, bác ấy… chị Scarlett ạ, bác ấy đã quát em! Cả đời em chưa bị ai quát bao giờ. Và bác ấy bảo: “Cô lên cái xe này ngay lập tức!” Tất nhiên là em lên xe và suốt dọc đường về nhà, bác ấy rầy la em, không cho em phân trần và bảo sẽ mách cô Pitty. Chị Scarlett, chị xuống xin với bác ấy đừng mách cô. Có lẽ bác ấy sẽ nghe chị đó. Cô mà biết chuyện, thậm chí chỉ nghe nói là em nhìn vào mặt người đàn bà ấy thôi, cũng đủ lên cơn đau tim mà chết. Chị giúp em chứ?
- Được, tôi sẽ nói với bác ấy. Nhưng ta hãy xem trong này có bao nhiêu tiền đã. Có vẻ nặng đấy.
Nàng cởi nút và một nắm tiền vàng lăn ra trên giường.
- Chị Scarlett, chỗ này là năm mươi dollar! Mà toàn bằng vàng cả! – Melanie kêu lên sửng sốt trong khi đếm những đống tiền sáng loáng. Chị nói em nghe xem, theo chị, liệu mình lấy cái thứ… ờ… thứ tiền… ờ… kiếm được bằng… cách ấy chi dùng cho các chiến sĩ của ta, có hợp lẽ đạo không nhỉ? Chị có cho rằng có thể Thượng đế sẽ thấu hiểu lòng chị ta muốn đóng góp mà bỏ qua chuyện đó là đồng tiền uế tạp không? Em cứ nghĩ là bệnh viện đang cần biết bao chứ…
Nhưng Scarlett không nghe. Nàng đang mải nhìn chiếc mùi soa nhớp bẩn, lòng tràn đầy tủi nhục và cuồng nộ ở một góc, có mấy chữ viết tắt “R.K.B”, thêu lồng nhau. Trong ngăn kéo trên cùng của nàng, cũng có một chiếc mùi soa giống hệt như thế, mà Rhett Butler mới cho nàng mượn hôm qua để bọc phần cuống những bông hoa dại mà họ đã hái. Nàng đã định tối nay khi chàng đến dùng bữa, sẽ trả lại.
Vậy là Rhett đánh đu với con Watling đê mạt này và cho nó tiền. Thì ra sự đóng góp ủng hộ bệnh viện từ đấy mà ra. Vàng vượt rào phong tỏa. Thế mà Rhett vẫn trơ tráo để nhìn thẳng vào mặt một phụ nữ tử tế sau khi đã chung chạ với đồ dơ dáy kia! Thế mà nàng lại tưởng là anh ta mê mình! Điều này chứng tỏ không thề có chuyện ấy.
Đối với nàng, hạng đàn bà hư hỏng cùng tất cả những gì dính dáng đến họ là những vấn đề bí hiểm và ghê tởm. Nàng biết bọn đàn ông bao bọn ấy vì những mục đích mà không một phụ nữ tử tế nào nên nhắc tới, hoặc có nhắc tới thì cũng chỉ gián tiếp ám chỉ hoặc thì thầm nho nhỏ thôi. Xưa nay, nàng vẫn chỉ nghĩ có loại đàn ông tầm thường mới đi lại với hạng đàn bà ấy. Trước lúc này, nàng chưa bao giờ nghĩ rằng những người đàn ông tử tế - có nghĩa là những người mà nàng gặp ở những gia đình tử tế và đã khiêu vũ với nàng – lại có thể làm những điều như vậy. Sự việc này mở ra một diện suy nghĩ hoàn toàn mới mẻ và dễ sợ. Có lẽ tất cả đàn ông đều làm thế! Bắt vợ mình phải đoan chính trong khi họ đi kiếm bọn phụ nữ hạ đẳng, cho tiền chúng để mua vui theo cách ấy…Ôi, tất cả đàn ông đều đê tiện, trong đó Rhett Butler là kẻ đốn mạt nhất!
Nàng sẽ lấy chiếc mùi soa này ném vào mặt gã, chỉ ra cửa và không bao giờ, không bao giờ thèm nói với gã nữa. Nhưng không, dĩ nhiên nàng không thể làm thế. Không thể, nhất thiết không thể để gã thấy là mình cũng biết đến sự tồn tại của hạng đàn bà trụy lạc, càng không thể để gã thấy là mình biết gã thường đi lại với chúng. Một phụ nữ quý phái tuyệt đối không được phép làm thế.
“Ôi”, nàng tức tối nghĩ thầm, “giá mình không phải là tiểu thư con nhà, mình sẽ nói vào mặt gã sâu mọt ấy không thiếu điều gì!”.
Và, vò chiếc khăn mùi soa, trong tay, nàng xuống cầu thang, vào bếp tìm bác Peter. Đi ngang qua lò bếp, nàng ném chiếc mùi soa vào lửa và nhìn nó cháy, lòng trào lên một nỗi phẫn uất bất lực.
CHƯƠNG XIV
Bước sang mùa hè năm 1863, hy vọng dấy lên phơi phới trong lòng mỗi người dân miền Nam. Bất chấp khó khăn, gian khổ, bất chấp nạn đầu cơ lương thực và những tai họa tương tự, bất chấp bệnh tật, đau đớn và chết chóc giờ đây đã để lại dấu vết hầu như khắp các gia đình, một lần nữa miền Nam lại nói: "Chỉ một trận thắng nữa là chiến tranh sẽ kết thúc". Thậm chí, người ta có thể nói một cách phấn khởi, tin tưởng hơn cả trong mùa hè năm ngoái. Bọn Yankee tỏ ra là một đối thủ khó đánh gục, song rốt cuộc giờ đây chúng đang bắt đầu gục.
Mùa Giáng sinh năm 1862 đã là một dịp vui mừng đối với Atlanta, đối với toàn miền Nam. Liên bang đã giành một chiến thắng áp đảo tại Fredericksburg, giết chết và làm bị thương hàng nghìn tên Yankee. Trong dịp nghỉ lễ này, khắp nơi đều liên hoan chào mừng bước xoay chuyển tình hình. Quân đội Liên bang nay đã trở nên thiện chiến, các tướng lĩnh đã tỏ rõ khí thế của mình và ai nấy đều biết rằng sang xuân, khi mở lại chiến dịch, bọn Yankee sẽ bị đè bẹp hoàn toàn.
Mùa xuân đến và cuộc chiến lại bắt đầu. Tháng năm, Liên bang thắng một trận lớn nữa ở Chancellorsville. Miền Nam hò reo phấn khởi.
Ở gần hậu phương hơn, một cuộc đột kích của kỵ binh Hợp Chủng Quốc vào Georgia đã chuyển thành một thắng lợi của Liên bang. Bà con vẫn còn cười ha hả, vỗ vào lưng nhau bồm bộp mà rằng: "Phải, thưa ngài! Khi mà lão tướng Nathan Bedford Forrest
[48] [48] đã truy kích thì chúng cứ gọi là đi đứt!". Cuối tháng tư, đại tá Streight và một nghìn tám trăm kỵ binh Yankee bất ngờ thọc sâu vào Georgia, nhằm đánh Rome, cách Atlanta hơn sáu mươi dặm một chút về phía Bắc. Chúng có tham vọng cắt đứt tuyến đường xe lửa có tầm quan trọng sống còn nối liền Atlanta với Tennessee, rồi quật xuống phía Nam tiến vào Atlanta, phá hủy các nhà máy cùng các phương tiện chiến tranh tập trung ở đó, thành phố then chốt của Liên bang. Đó là một đòn táo bạo có thể gây tổn thất lớn cho miền Nam, nếu không có Forest. Với số quân chỉ bằng một phần ba lực lượng dịch - nhưng là những chiến binh và kỵ sĩ tuyệt vời! - ông đã đuổi kịp và giáp chiến với bọn Yankee trước khi chúng tới Rome, ngày đêm tiêu hao chúng và cuối cùng, đã bắt sống toàn bộ! Tin này đến Atlanta gần như cùng một lúc với tin chiến thắng Chancellorsville có thể là quan trọng hơn, song việc bắt sống lũ cướp của Strait đã biến bọn Yankee thành trò cười thật sự. - Không, đừng có đùa với lão tướng Forest! - Dân Atlanta khoái trá kể đi kể lại câu chuyện lý thú và kết luận như vậy. Giờ đây, ngọn trào hồng vận của Liên bang đang dâng lên mãnh liệt, tràn trề, lôi cuốn toàn dân theo dòng lũ hoan lạc tưng bừng. Đành rằng quân Yankee dưới sự chỉ huy của tướng Grant đang bao vây Chancellorsville từ giữa tháng năm. Đành rằng miền Nam phải chịu một tổn thất nặng khi Stonewall Jackson bị tử thương ở Chancellorsville. Đành rằng Georgia đã mất một trong những người con dũng cảm nhất, xuất sắc nhất khi tướng T.R.R. Cobb hy sinh ở Fredericksburg. Nhưng bọn Yankee dứt khoát không đủ sức chịu đựng thêm một thất bại như ở Fredericksburg và Chancellorsville. Chúng ắt phải nhượng bộ và lúc đó, cuộc chiến tranh tàn bạo này sẽ kết thúc. Những ngày đầu tháng bảy tới cùng với tin đồn - sau đó được xác nhận bởi những thông báo - rằng Lee đã tiến vào Pennsylvania. Tướng Lee ở trên đất địch! Tướng Lee ra tay bức chiến! Đây là trận cuối cùng của chiến tranh! Atlanta náo nức, vui sướng điên cuồng và cháy rực niềm khao khát báo thù. Giờ đây, bọn Yankee sẽ biết thế nào là chiến tranh mang đến tận nhà. Giờ đây, chúng ta sẽ biết thế nào là cái cảnh ruộng đồng phì nhiêu bị tàn phá, lúa, ngựa và gia súc bị cướp sạch, nhà cửa bị thiêu cháy, người già và thanh niên bị bỏ tù và đàn bà, con trẻ bị bỏ chết đói. Mọi người đều biết bọn Yankee đã làm những gì ở Missouri, Kentucky, Tennessee và Virginia. Ngay cả con nít cũng có thể kể, với một tình cảm căm thù pha lẫn sợ hãi, những tàn khốc mà bọn Yankee đã gây ra trên lãnh thổ bị chúng xâm chiếm. Atlanta hiện đã đầy những người từ Đông Tennessee đến tị nạn và dân thành phố này đã trực tiếp nghe từ miệng họ những mẩu chuyện về đoạn trường đau đớn cay cực họ đã trải. Ở vùng này, những người theo Liên bang là thiểu số và trọng lượng của chiến tranh giáng xuống họ như đã giáng xuống tất cả những bang ở biên giới, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, anh em ruột giết nhau. Những người tị nạn ấy ao ước thấy Pennsylvania thành một bể lửa và cả đến bà già hiền từ nhất khi hình dung cảnh ấy cũng biểu lộ một niềm thích thú dữ dằn. Nhưng khi tin đưa về rằng Lee đã ra lệnh cấm không được đụng đến tài sản tư nhân ở Pennsylvania, nêu rõ tội cướp bóc sẽ bị xử tử hình và quân đội sẽ trả tiền bồi thường tất cả mọi thứ bị trưng dụng, thì phải huy động tất cả lòng kính yêu đối với vị tướng mới cứu vãn nổi uy tín của ông. Không cho quân ta cướp phá những nhà kho đầy ắp của cái bang trù phú này ư? Tướng Lee nghĩ thế nào vậy? Mà các tráng sĩ của chúng ta thì đang đói và cần giày, dép, quần áo, lừa, ngựa biết bao! Một bức thư ngắn của Darcy Meade viết vội cho ông bác sĩ, thông tin trực tiếp duy nhất mà Atlanta nhận được trong những ngày đầu tháng bảy ấy, được truyền từ tay này qua tay khác trong niềm công phẫn ngày càng tăng. "Ba, ba có thể kiếm cho con một đôi ủng không? Đã hai tuần nay con đi chân đất và con chẳng thấy triển vọng gì kiếm được một đôi khác. Nếu chân con không quá to thì con đã có thể lột ở những tử thi Yankee như các cậu khác, nhưng còn con chưa tìm thấy tên nào chân to xấp xỉ chân con. Nếu ba kiếm được thì chớ gửi bưu điện vì trên dọc đường có thể có kẻ đánh cắp mà con không thể trách họ được. Ba hãy cho Phil đi tàu hỏa mang lên cho con. Con sẽ viết thư sớm, báo cho ba biết địa chỉ sắp tới của bọn con. Ngay bây giờ thì con chưa biết cụ thể, ngoài việc là bọn con đang tiến lên mạn Bắc. Hiện chúng con đang ở Maryland và ai nấy đều nói là quân ta sắp vào Pennsylvania... "Ba ạ, con vẫn nghĩ là ta phải cho bọn Yankee nếm cái vị thuốc đắng của chính chúng, song Đại tướng lại bảo không, và riêng phần con, thì con chả muốn bị xử bắn chỉ để đổi lấy cái thích thú được đốt cháy một ngôi nhà Yankee nào đó. Ba ạ, hôm nay bọn con hành quân qua những ruộng ngô rộng mênh mông chưa từng thấy. Ở vùng ta không có loại ngô như thế này. Vâng, con phải thú thật là bọn con có ăn trộm một ít ngô vì tất cả đều đói meo và cái gì khuất mắt Đại tướng ắt chẳng thể làm người đau lòng. Nhưng cái món ngô còn xanh ấy chẳng bổ béo gì cho bọn con. Tất cả đang bị kiết lị, ăn ngô vào lại càng khốn khổ. Cuốc bộ với một vết thương ở chân cũng còn dễ hơn là mang bệnh kiết lị. Ba ơi, ba cố kiếm cho con đôi ủng. Bây giờ con đã là đại úy và một đại úy thì phải có ủng, cho dù thiếu quân phục mới hoặc lon vải". Nhưng quân ta đã vào Pennsylvania, đó là điều cốt yếu. Một trận thắng nữa là chiến tranh sẽ kết thúc và lúc đó Darcy muốn bao nhiêu ủng cũng có, các chàng trai sẽ hành quân trở về và ai nấy sẽ lại sung sướng. Bà Meade rưng rưng nước mắt khi hình dung cậu con trai chiến sĩ của mình rốt cuộc trở về nhà mãi mãi. Ngày mồng ba tháng bảy, đường dây điện báo từ phương Bắc đột nhiên im lặng. Sự im lặng ấy kéo dài đến trưa ngày mồng bốn khi những mẩu tin cắt xén bắt đầu được truyền giỏ giọt tới sở chỉ huy ở Atlanta. Chiến sự diễn ra ác liệt ở Pennsylvania, gần một thị xã nhỏ tên là Gettysburg, một trận đánh lớn thu hút toàn bộ đạo quân của Lee. Tin tức đến chậm, không rõ ràng cụ thể, vì trận đánh diễn ra trên đất địch và các báo cáo trước hết phải qua Maryland, được chuyển đến Richmond, rồi mới tới Atlanta. Nỗi phấp phỏng mỗi lúc một tăng và lo sợ bắt đầu lan dần khắp thành phố. Chẳng có gì khắc khoải bằng không biết chuyện gì đang diễn ra. Những gia đình có con trai ở ngoài mặt trận khẩn thiết cầu nguyện sao cho con mình không có mặt ở Pennsylvania. Nhưng những người biết bà con mình ở cùng trung đoàn với Darcy Meade, thì cắn răng lại mà tuyên bố, rằng được tham gia trận đánh lớn kết liễu số phận bọn Yankee là một vinh dự lớn. Ở nhà bà cô Pitty, ba người đàn bà nhìn vào mắt nhau, không giấu nổi nỗi lo sợ: Ashley ở cùng trung đoàn với Darcy. Sang ngày mồng năm, có tin dữ, không phải từ phía Bắc mà từ phía Tây. Vicksburg đã thất thủ, thất thủ sau một đợt bao vây dài và gắt gao; trên thực tế, toàn bộ sông Mississippi, từ St. Louis đến New Orleans, đã rơi vào tay quân Yankee. Liên bang đã bị cắt làm đôi. Vào bất kỳ thời điểm nào khác, tin về tai họa này ắt đã khiến Atlanta lo sợ, than vãn rền rĩ. Nhưng giờ đây, người ta không còn bụng dạ nào mà nghĩ đến Vicksburg. Họ đang mải nghĩ đến Lee ở Pennsylvania đang bức chiến. Nếu Lee thắng ở miền Đông thì việc mất Vicksburg sẽ không đến nỗi là thảm họa. Miền Đông là Philadelphia, New York, Washington. Việc chiếm những thành phố lớn này sẽ làm miền Bắc tê liệt và thừa sức bù lại thất bại trên sông Mississippi. Ngày giờ kéo dài lê thê và bóng đen của tai họa phủ lên thành phố, làm tối sầm mặt trời, đến nỗi khi ngước mắt lên, người ta sửng sốt như không tin rằng bầu trời vẫn xanh trong chứ không phải là u ám chất đầy mây khắp nơi. Phụ nữ tụm năm tụm ba ở những cổng nhà, trên hè phố, thậm chí ngay giữa đường, cố an ủi nhau, rằng không có tin gì có nghĩa là tin tốt lành, ráng làm ra vẻ bình tĩnh can trường. Nhưng rồi, như bầy dơi bay loạn xạ, những tin đồn khủng khiếp là Lee bị giết, trận đánh thất bại và thương vong rất lớn, lan nhanh dọc các phố yên tĩnh. Mặc dầu cố không tin, từng khu vực hoảng hốt dao động đổ xô vào trung tâm thành phố, đến các tòa báo, các sở chỉ huy, khẩn thiết yêu cầu cho biết tin tức, bất kỳ tin gì, thậm chí tin xấu cũng được. Những đám đông hình thành ở nhà ga, hy vọng các chuyến tàu mang tin đến, ở sở bưu điện, trước những sở chỉ huy luôn luôn bị chất vấn, bên ngoài những cánh cửa khóa chặt của các tòa báo. Đó là những đám đông im ắng một cách khác thường, những đám đông cứ lặng lẽ lớn dần, lớn dần. Không ai nói chuyện với ai. Thỉnh thoảng, một ông già cất giọng the thé xin cho biết tin tức, và, thay vì khuấy động đám đông lên tiếng, điều đó chỉ làm sâu thêm im lặng khi họ nghe thấy câu trả lời lặp đi lặp lại biết bao lần: "Điện báo từ miền Bắc chưa có gì mới ngoài việc chiến sự đang tiến diễn". Ở vòng ngoài, những phụ nữ đi bộ hoặc đi xe tới mỗi lúc một nhiều thêm, hơi nóng bốc ra từ những thân người chen chúc và bụi bay lên từ những bàn chân không ngừng giậm giựt làm không khí trở nên ngột ngạt. Đám phụ nữ không nói gì, nhưng những bộ mặt tái nhợt, bất động của họ biểu đạt tình cảm câm lặng một cách hùng hồn hơn cả những lời rền rĩ than vãn. Chẳng mấy nhà trong thành phố không có một con trai, một anh trai hay em trai, một người cha hay một người chồng tham gia trận đánh này. Tất cả những phụ nữ kia đang đợi nghe tin thần chết đã đáo lại nhà mình. Họ đón chờ cái chết. Họ không đón chờ thất bại. Ý nghĩ về sự thất bại bị họ xua đuổi. Chính lúc này đây, có thể những người đàn ông của họ đang hấp hối trên lớp cỏ cháy nắng của những ngọn đồi Pennsylvania. Lúc này đây, có thể những toán quân miền Nam đang rụng xuống như những hạt lúa dưới một trận mưa đá, nhưng Sự Nghiệp vì nó mà họ chiến đấu không thể rơi rụng. Họ có thể chết tới hàng nghìn lần, nhưng hàng nghìn người khác trong quân phục xám, lời hô quật khởi trên môi, lại từ đất vọt lên thay thế họ. Không ai biết những người đó từ đâu ra. Họ chỉ biết có một điều, và điều đó họ đinh ninh trong dạ như vẫn luôn luôn đinh ninh rằng có một đấng Thượng đế công minh trên trời: Lee là thần diệu và đạo quân Virginia là vô địch. Scarlett, Melanie và Miss Pittypat ngồi che dù trên chiếc xe ngựa hạ mui đậu trước cửa tòa soạn báo Người xem xét hằng ngày. Tay Scarlett run đến nỗi chiếc dù cứ chao chao trên đầu nàng; bà Pitty thì xúc động đến nỗi hai cánh mũi cứ phập phồng hoài như thỏ, trên khuôn mặt tròn vành vạnh, nhưng Melanie thì ngồi như tượng đá, đôi mắt đen mỗi lúc một giương to đờ dại. Suốt hai tiếng đồng hồ nàng chỉ thốt ra một nhận xét khi lấy từ trong túi xách ra một lọ muối hít đưa cho bà cô. Đây là lần duy nhất trong đời, nàng nói với bà bằng một giọng không chút âu yếu dịu dàng. - Cô cầm lấy cái này mà dùng khi nào cảm thấy muốn ngất xỉu. Cháu xin báo để cô biết, nếu cô ngất thì chỉ có một mình bác Peter đưa cô về nhà thôi đấy, vì cháu sẽ không rời khỏi nơi này trước khi được tin về... trước khi được một tin gì đó. Và cháu cũng sẽ không để chị Scarlett đi khỏi đâu. Scarlett không hề có ý định đi khỏi, không hề có ý định có mặt ở chỗ nào mà nàng không nghe được tin đầu tiên về Ashley. Không, ngay cả nếu bà Pitty chết ngay, nàng cũng không rời khỏi chỗ này. Ở một nơi nào đó, Ashley đang chiến đấu, có thể là đang hấp hối cũng nên, và tòa soạn là chỗ duy nhất có thể cho nàng biết sự thật. Nàng đảo mắt nhìn đám đông, nhận ra bạn bè và hàng xóm, bà Meade với chiếc mũ vải xệch xẹo trên đầu, khoác tay Phil, cậu con trai mười lăm tuổi, các cô tiểu thư nhà Mc Lure cố che hàm răng vẩu bằng lớp môi trên run rảy; bà Elsing rướn thẳng người như một bà mẹ Spartan, chỉ để lộ nỗi xao xuyến bên trong bằng những món tóc bạc xoã xượi tuột khỏi búi tóc, và Fanny nhợt nhạt như người chết trôi (chắc chắn Fanny không lo cho cậu anh trai Hugh đến mức ấy. Phải chăng cô ta có một cậu bồ ở ngoài mặt trận mà không ai ngờ tới?) Bà Merriwether ngồi trong xe nhà, vỗ vỗ nhẹ vào bàn tay Maybelle. Cô này bụng chửa vượt mặt, phải ra nơi công chúng, thật là xấu hổ, mặc dầu đã lấy một chiếc khăn san quấn cẩn thận quanh mình. Tại sao cô ta phải lo lắng đến thế? Chẳng ai nghe nói quân đội Louisianacó mặt ở Pennsylvania. Có lẽ anh lính zuavơ thấp bé, lông lá của cô ta đang an toàn ở Richmond ngay chính lúc này đây. Phía ngoài rìa đám đông có sự chuyển động và những người đứng dưới đất rẽ ra khi Rhett Butler thận trọng lách ngựa tiến đến chỗ xe của bà cô Pitty. Scarlett nghĩ thầm: "Kể anh ta cũng can đảm đấy chứ, dám đến đây vào lúc này, khi mà bất kỳ một chuyện gì cũng có thể khiến đám đông hỗn loạn này xé xác anh ta ra từng mảnh vì anh ta không mặc quân phục". Khi chàng lại gần hơn, nàng nghĩ mình có thể là người đầu tiên xé xác chàng. Làm sao chàng cả gan nghênh ngang ngồi trên con ngựa đẹp kia, diện bộ comlê trắng sang trọng, chân đi ủng bóng loáng, béo tốt trơn lông đỏ da, ăn uống đầy đủ, hút xì gà đắt tiền, trong khi Ashley cùng các chàng trai khác đang chiến đấu với bọn Yankee, chân không giầy dép, đói khát, mệt nhoài vì nóng, phủ tạng rữa mục vì tật bệnh? Những cái nhìn hằn học phóng vào chàng khi chàng chầm chậm qua đám đông. Các ông già gầm gừ trong chòm râu và bà Merriwether vốn chẳng biết sợ cái gì, hơi nhổm dậy trong xe và kêu rành rọt: "Đồ đầu cơ!" bằng một giọng khiến cho từ đó thành lời lăng mạ nặng nề, cay độc nhất. Chàng không để ý đến ai mà chỉ cất mũ chào Melly và bà cô Pitty, rồi thúc ngựa chạy sang mé Scarlett, cúi xuống thì thầm: "Cô có nghĩ đây mới là lúc để bác sĩ Meade cho chúng ta nghe bài diễn văn quen thuộc của ông ta về chiến thắng đậu trên lá cờ của chúng ta như con đại bàng không?" Thần kinh đang căng thẳng vì thấp thỏm chờ đợi, nàng quay ngoắt sang phía chàng như một con mèo giận dữ. Những lời gay gắt đã sắp bật khỏi môi nàng, nhưng chàng khoát tay chặn lại. - Tôi đến để thưa với các bà, - chàng nói to, - rằng tôi vừa ở sở chỉ huy và ở đó đã nhận được những danh sách thương vong đầu tiên. Tiếng xôn xao nổi lên trong nhóm người đứng quanh đó, đủ gần để nghe thấy những lời đó của chàng và đám đông trào lên, sẵn sàng quay lại chạy dọc theo phố Oaitơhôl về phía sở chỉ huy. - Đừng đi khỏi đây, - chàng kêu, nhổm người trên yên và giơ tay lên. - Danh sách đã được chuyển cho cả hai tờ báo và giờ đây đang được in. Xin quý vị cứ ở nguyên chỗ. - Ôi, thuyền trưởng Butler, - Melly thốt lên, quay sang chàng, rưng rưng nước mắt. - Ông đến để cho chúng tôi biết, thật quý hóa quá! Họ có yết danh sách lên không? - Trong phút chốc nữa thôi, thưa bà. Tin chuyển đến các tòa soạn cách nửa tiếng đồng hồ rồi. Viên thiếu tá phụ trách việc này không muốn công bố trước khi in xong, sợ mọi người đổ đến phá các văn phòng đòi cung cấp tin tức. A! Nhìn kìa! Cửa sổ mé bên sườn tòa báo mở và một bàn tay thò ra, cầm một tập báo in thử khổ hẹp, dài, còn ướt mực và đầy những dòng tên rất xít. Đám đông giành nhau, nhiều tờ bị xé đôi, những người cướip được tìm cách lùi ra ngoài để đọc, trong khi những người ở đằng sau xô lên, miệng hét: "Cho tôi qua nào!". - Bác giữ hộ dây cương, - Rhett nói gọn, nhảy xuống đất và quẳng dây cương cho bác Peter. Người ta thấy đôi vai lực lưỡng của chàng nhô cao trên đám đông trong khi chàng lách qua, vừa chen chúc, vừa xô đẩy thô bạo những người xung quanh. Một lúc sau, chàng quay lại, tay cầm nửa tá thông báo. Chàng ném một tờ cho Melanie và phân phát số còn lại cho các bà, các cô ở những xe gần đấy nhất: chị em nhà Mc Lure, bà Meade, bà Merriwether, bà Elsing. - Xem nhanh lên, Melly, - Scarlett giục, cổ họng se lại, cáu tiết khi thấy tay Melly run đến nỗi nàng không đọc cùng được. - Chị cầm lấy, - Melly thì thào và Scarlett giật lấy tờ giấy. Vần W. Vần W đâu nhỉ? À đây, mãi cuối trang, mực nhem nhuốc tất cả. "White", nàng đọc, giọng run lên. "Wilkens... Winn... Zebulon... Ôi, Melly, không có tên chú ấy! Không có tên chú ấy trong danh sách! Ôi, lạy Chúa. Cô Pitty kìa! Melly, nhặt lọ muối lên! Đỡ cô dậy, Melly! Melly rưng rưng khóc vì sung sướng nâng cái đầu ngoẹo sang bên của bà Pitty và đưa lọ muối hít vào dưới mũi bà. Scarlett đỡ bà già béo mập ở phía bên dưới, lòng rộn tiếng ca vui. Ashley vẫn còn sống. Chàng không bị thương. Cảm ơn Thượng đế đã cho chàng được nguyên vẹn! Thật... Nàng nghe thấy một tiếng rền rĩ nho nhỏ và quay lại, trông thấy Fanny Elsing gục đầu vào ngực mẹ trong khi bản danh sách thương vong chao chao rơi xuống sàn xe. Nàng trông thấy bà Elsing quàng tay ôm lấy con gái, đôi môi mỏng run lên khẽ nói với người xà ích: "Về nhà. Nhanh lên!" Scarlett đưa mắt lướt nhanh trên bản danh sách. Không có tên Hugh Elsing. Chắc Fanny có một cậu bồ và giờ đây cậu ta đã chết. Trong niềm im lặng thông cảm, đám đông rẽ lối cho xe của gia đình Elsing qua và theo sau là chiếc xe nhỏ bằng mây của chị em nhà Mc Lure. Miss Faith cầm cương, mặt lầm lì như đá tảng, và lần đầu tiên, người ta thấy môi cô che kín răng. Miss Hope diện mạo nhuốm màu chết chóc, ngồi thẳng đuỗn bên cạnh Faith, tay níu chặt lấy váy cô chị. Trông họ như những bà già. Cậu em Dallas là cục cưng của họ, người thân duy nhất trên đời của hai phụ nữ không chồng này. Dallas không còn nữa. - Melly! Melly! - Maybelle gọi to, giọng vui sướng. - Rene không sao cả! Và Ashley cũng thế! Ôi, đội ơn Chúa! Chiếc khăn san tuột khỏi vai cô, cái bụng chửa phô ra lồ lộ, nhưng riêng lần này, cả cô lẫn bà Merriwether đều bất cần. - Ôi, bà Meade, Rene... Giọng cô vụt thay đổi. - Melly, nhìn kìa!... Bà Meade, cháu xin lỗi! Darcy không...? Bà Meade đang trân trân nhìn xuống. Bà không ngẩng đầu lên khi nghe gọi tên mình, nhưng bộ mặt của cậu bé Phil ngồi cạnh là một cuốn sách mở, in rành rành mọi chuyện. - Thôi nào, má! - Cậu luống cuống nói. Bà Meade ngước lên, gặp luồng mắt của Melanie. - Bây giờ thì nó không cần ủng nữa, - bà nói. - Ôi, bác thân yêu! - Melly thốt lên, bắt đầu thổn thức. Nàng đẩy bà cô Pitty dựa lên vai Scarlett, lật đật xuống xe, đi tới bên bà vợ ông bác sĩ. - Má, má vẫn còn có con cơ mà, - Phil cố gắng an ủi người đàn bà mặt trắng bệch ngồi bên cậu. - Nếu má cho phép, con sẽ đi giết hết bọn Yan... Bà Meade túm chặt cánh tay Phil như không bao giờ chịu buông ra và nói "Không!" bằng một giọng nghẹn lại. - Phil Meade, cậu có im mồm đi không! - Melanie rít lên và trèo vào xe ngồi xuống bên bà Meade, quàng tay ôm lấy bà. - Cậu tưởng má cậu sẽ bớt đau đớn nếu cậu lại ra đi để bị giết nốt sao? Tôi chưa nghe thấy điều gì ngu xuẩn đến thế. Lái xe về nhà, nhanh lên! Trong khi Phil cầm lấy dây cương, nàng quay lại Scarlett. - Đưa cô về nhà xong, chị lại ngay nhà bà Meade nhé. Thuyền trưởng Butler, ông có thể nhắn giúp bác sĩ không? Bác sĩ đang ở bệnh viện đấy. Chiếc xe đi qua đám đông đang tản ra. Một số phụ nữ khóc vì mừng rỡ, nhưng phần lớn có vẻ bàng hoàng đến mức không ý thức được những tai họa nặng nề vừa giáng xuống đầu họ. Scarlett cúi xuống bản danh sách nhòe nhoẹt, đọc nhanh tìm tên bạn bè. Giờ đây, biết Ashley an toàn rồi, nàng có thể nghĩ đến người khác. Ôi, cái danh sách mới dài làm sao! Khoản thuế sinh mạng Atlanta và cả bang Georgiaphải trả, mới nặng nề làm sao! Trời đất! "Calvert... Raiford, trung úy". Raif! Đột nhiên, nàng nhớ lại cái ngày xa xưa khi hai đứa cùng nhau bỏ nhà trốn đi, nhưng đến đêm lại quyết định mò về vì đói và sợ bóng tối. "Fontaine — Joseph K.,binh nhì." Anh chàng Joe nhỏ bé, bẳn tính. Và Sally thì vừa mới ở cữ xong! "Munroe — LaFayette, đại úy". Lafe đã đính hôn với Cathleen Calvert. Tội nghiệp Cathleen! Một lúc hai cái tang, anh trai và người yêu. Nhưng tổn thất của Sally còn lớn hơn - anh trai và chồng. Ôi, ghê gớm quá. Nàng gần như không dám đọc tiếp. Bà cô Pitty hổn hển trên vai nàng và không cần giữ gìn gượng nhẹ, nàng đẩy bà vào một góc xe, tiếp tục đọc. Chắc chắn, chắc chắn... không thể có cả ba tên "Tarleton" trong danh sách này được. Có lẽ... có lẽ người thợ in vội vàng nên lặp lại, nhầm. Nhưng không. Đích thị đây này. "Tarleton, Brenton, trung úy", "Tarleton, Stuart, đại úy". "Tarleton, Tomas, binh nhì". Và Boyd chết từ năm đầu tiên của chiến tranh, không biết chôn ở nơi nào thuộc bang Virginia. Tất cả anh em nhà Tarleton hy sinh hết. Tom và hai anh em sinh đôi lười lĩnh, cẳng dài, thích tán dóc, hay đùa dai, và Boyd duyên dáng như một ông thày dạy múa, miệng lưỡi nanh nọc như cái vòi ong. Nàng không đủ sức đọc nữa. Nàng không còn lòng dạ nào để tìm thêm trên danh sách này tên tuổi của những chàng trai khác đã lớn lên cùng nàng, đã nhảy với nàng, đã cùng nàng cợt trăng đùa gió, đã hôn nàng. Nàng ước gì mình có thể khóc, có thể làm một cái gì để gỡ khỏi những ngón tay sắt đang thọc sâu vào cuống họng nàng. - Tôi xin lỗi, Scarlett, - có tiếng Rhett nói. Nàng ngước lên nhìn chàng. Nàng đã quên bẵng là chàng vẫn ở đấy. - Có nhiều người là bạn cô trong đó? Nàng gật đầu và cố gắng nói: - Hầu như tất cả mọi gia đình trong hạt... và cả... cả ba anh em nhà Tarleton. Mặt chàng trầm lặng, gần như tối sầm, không còn chút giễu cợt nào trong mắt. - Và chưa phải là hết, - chàng nói. - Đây mới chỉ là danh sách đầu tiên, chưa đầy đủ. Ngày mai sẽ có một danh sách dài hơn (chàng hạ giọng để những xe gần đấy không nghe thấy) Scarlett, chắc tướng Lee đã thất trận. Tại sở chỉ huy, tôi nghe nói ông ta đã rút về Maryland. Nàng ngước cặp mắt khiếp hãi lên nhìn chàng, nhưng nỗi sợ của nàng không phải bắt nguồn từ thất bại của tướng Lee. Một danh sách thương vong dài hơn vào ngày mai! Ngày mai. Quá sung sướng vì không thấy tên Ashley trong danh sách đầu tiên này, nàng đã không nghĩ tới ngày mai. Ngày mai. Ờ, ngay phút này đây, có thể chàng đã chết rồi và mãi đến mai hoặc thậm chí đến tuần sau, nàng mới được biết cũng nên. - Ôi, Rhett, tại sao lại phải có chiến tranh? Giá người Yankee đồng ý bồi thường cho ta về khoản nô lệ da đen... hoặc thậm chí giá ta cho không họ, thì có phải bội phần tốt hơn là để xảy ra cơ sự này không? - Vấn đề không phải là chuyện những người da đen. Đó chỉ là cái cớ. Bao giờ cũng vẫn sẽ có chiến tranh, bởi vì đàn ông vốn thích chiến tranh. Phụ nữ thì không thích, nhưng nam giới... phải, họ yêu chiến tranh hơn cả đàn bà. Chàng lại nhoẻn miệng cười, cái nụ cười quen thuộc, và vẻ nghiêm trang biến khỏi mặt chàng. Chàng nhắc chiếc mũ panama rộng vành lên chào. - Tạm biệt. Tôi đi tìm bác sĩ Meade đây. Tôi nghĩ rằng bây giờ ông sẽ không nhận thấy cái trớ trêu của số phận ở chỗ tôi lại là người báo cho ông biết về cái chết của con trai ông. Nhưng sau này, có lẽ ông sẽ phát uất khi nghĩ rằng chính một tên đầu cơ đã mang đến tin cái chết của một anh hùng. Scarlett đặt Miss Pitty vào giường, pha một ly toddy để sẵn đó, giao lại cho Prixi và chị bếp trông nom, rồi đi xuôi phố đến nhà bác sĩ Meade. Bà Meade đang ở trên gác với Phil, chờ chồng về, và Melanie ngồi ở phòng khách nhỏ, nói chuyện khe khẽ với một nhóm láng giềng sang chia buồn. Tay kim, tay kéo, nàng đang chữa một chiếc áo tang của bà Elsing cho bà Meade mượn. Ngôi nhà đã đầy mùi khen khét của quần áo đun sôi trong thuốc nhuộm đen nhà làm, vì dưới bếp, chị đầu bếp đang vừa khóc nức nở, vừa đảo tất cả các áo dài của bà Meade trong một chiếc thùng giặt lớn. - Bà ấy sao rồi? - Scarlett khẽ hỏi. - Không một giọt nước mắt, - Melanie nói. - Khi đàn bà mà đã không khóc được thì mới dễ sợ. Em không hiểu làm sao đàn ông có thể chịu đựng đau khổ mà không khóc. Em đoán là vì họ cứng rắn hơn và can trường hơn nữ giới. Bác ấy nói là sẽ đi một mình đến Pennsylvania để đưa Darcy về. Bác sĩ Meade không thể rời bệnh viện được. - Thế thì kinh khủng cho bác ấy lắm! Tại sao Phil không đi được? - Bác sợ là nếu không để mắt tới thì cậu ta sẽ nhập ngũ. Chị thấy đấy, Phil rất to lớn so với tuổi của cậu ta và bây giờ người ta tuyển quân từ lứa tuổi mười sáu. Những người hàng xóm lần lượt rút lui, không muốn có mặt khi ông bác sĩ về nhà, để lại một mình hai chị em Scarlett và Melanie ngồi khâu trong phòng khách nhỏ. Melanie nom buồn nhưng bình tĩnh, tuy nước mắt vẫn giỏ xuống chiếc áo nàng cầm nơi tay. Hiển nhiên là nàng không nghĩ đến chuyện trận đánh có thể vẫn đang tiếp diễn và có thể Ashley đã chết đúng giữa lúc này. Lòng đầy kinh hoàng, Scarlett không biết có nên nói cho Melanie biết những lời của Rhett để kiếm chút an ủi mơ hồ trong nỗi khắc khoải của cô em chồng, hay giữ kín cho riêng mình. Cuối cùng, nàng quyết định không nói gì. Chả nên để cho Melanie nghĩ rằng mình cũng lo cuống lên về Ashley. Đội ơn Thượng đế, tất cả mọi phụ nữ, kể cả Melly và bà Pitty, sáng nay đều quá chìm đắm trong những lo âu riêng tư, nên chẳng ai để ý đến thái độ của mình! Sau một lúc im lặng ngồi khâu, họ nghe thấy tiếng động ở bên ngoài và, ghé mắt qua rèm cửa, họ trông thấy ông bác sĩ Meade xuống ngựa. Đôi vai ông xụm xuống, đầu cúi gằm đến độ chòm râu hoa râm xòe ra như cái quạt trên ngực. Ông chậm rãi bước vào nhà, đặt mũ và cặp xuống, lặng lẽ hơn cả hai thiếu phụ. Rồi ông mệt mỏi bước lên cầu thang. Lát sau, Phil đi xuống, chân tay nguều ngoào, lóng ngóng. Hai chị em coi bộ muốn mời cậu lại cùng ngồi với họ, nhưng cậu đi thẳng ra cổng trước, ngồi xếp trên bậc thềm đầu tiên, tay ôm đầu. Melly thở dài. - Cậu ta tức điên vì bố mẹ không cho đi đánh bọn Yankee. Mười lăm tuổi đầu! Ôi, Scarlett có một đứa con trai như vậy, thật là tuyệt vời! - Để cho nó bị giết ư? - Scarlett hơi xẵng giọng, nghĩ đến Darcy. - Có một đứa con trai, dù là sau này nó bị giết, còn hơn là không bao giờ có con. - Melanie nghẹn ngào nói. - Chị không thể hiểu được đâu, Scarlett ạ, vì chị đã có bé Wade, nhưng em... Ôi, chị Scarlett, em thèm một đứa con biết mấy! Em biết chị cho là em đã quá đáng khi nói trắng ra điều ấy, nhưng đó là sự thật, đó chỉ là điều mà mọi người đàn bà đều mong muốn, chị còn lạ gì. Scarlett cố nén một tiếng cười khẩy. - Nếu Thượng đế muốn... gọi Ashley về chầu, em nghĩ là mình có đủ sức chịu đựng, mặc dù anh ấy chết thì em thà chết theo còn hơn. Nhưng hẳn Thượng đế sẽ cho em sức mạnh để chịu đựng. Nhưng em không thể cùng một lúc chịu đựng cả cái chết của Ashley lẫn cái nỗi... cái nỗi... không có một đứa con với anh ấy để an ủi mình. Ôi, Scarlett, chị thật may mắn! Tuy chị mất Charli, nhưng chị còn có con anh ấy. Còn nếu Ashley mất đi, em sẽ chẳng còn gì hết. Scarlett, chị tha lỗi cho em, nhưng đôi khi, em rất ghen với chị... - Ghen... với tôi? - Scarlett kêu lên, giật mình cảm thấy mình có lỗi. - Vì chị có một đứa con trai, còn em thì không. Thậm chí, đôi khi em làm như Wade là con mình, bởi vì không có con, quả là một điều khủng khiếp. - Tào lao! - Scarlett nhẹ hẳn người, nói. Nàng liếc nhanh cái thân hình mảnh dẻ với bộ mặt đỏ bừng đang cúi xuống đồ khâu. Melanie muốn có con, song khổ người cô ta chắc chắn không thể có mang được. Cô ta chỉ cao hơn một đứa bé mười hai tí chút, mông nhỏ như mông trẻ con, ngực phẳng lì. Thậm chí Scarlett không muốn nghĩ đến khả năng Melanie có con. Ý nghĩ đó gợi lên quá nhiều ý nghĩ khác mà nàng không đủ sức chịu đựng. Nếu Melanie có một đứa con với Ashley, Scarlett sẽ cảm thấy bị cướp đi một cái gì đó của riêng mình. - Chị tha lỗi cho em đã nói vậy về bé Wade. Chị biết đấy, em yêu cháu biết chừng nào. Chị không giận em chứ? - Đừng có ngớ ngẩn, - Scarlett nói, giọng hơi xẵng. - Cô ra cổng dỗ Phil đi. Nó đang khóc đấy. CHƯƠNG XV Bị đẩy lùi về Virginia, quân đội Liên bang – một đạo quân kiệt sức, bị tiêu hao nặng từ thất bại ở Gettysburg – đến đóng mùa đông ở Rapidan và khi gần đến mùa Giáng Sinh, Ashley được nghỉ phép về thăm nhà. Lần đầu tiên gặp lại chàng sau hơn hai năm, Scarlett phát sợ vì những tình cảm mãnh liệt của mình. Cái bữa đứng trong phòng khách trại Mười Hai Cây Sồi dự đám cưới của chàng với Melanie , nàng đã nghĩ rằng trái tim tan nát của mình không bao giờ có thể yêu chàng với một cường độ lớn hơn lúc bấy giờ. Nhưng giờ đây, nàng biết rằng những tình cảm của cái đêm xa xưa ấy chỉ là thứ tình cảm của một đứa trẻ con được nuôn chiều bị mất một đồ chơi. Bây giờ, tình yêu của nàng sâu sắc thêm bởi những đêm dài mơ tới chàng, tăng bội lên do phải nén lại trong lòng không dám nói ra. Ashley Wilkes trong bộ quan phục vá, bạc màu, mái tóc vàng rơm giờ đây bị nắng hè làm bệch ra, là một con người khác hẳn chàng trai vô tư lự có đôi mắt uể oải mà nàng đã yêu đến mức tuyệt vọng hồi trước chiến tranh. Và chàng còn nghìn lần quyến rũ hơn trước. Giờ đây, chàng gầy đi, da đ ồng hun (dạo trước chàng trắng trẻo, thon thon) và bộ ria vàng để dài rủ xuống quanh khóe miệng theo kiểu kỵ binh là nét cuối cùng cần thiết để khiến chàng trở thành bức chân dung hoàn chỉnh của một người lính. Vận bộ quân phục cũ, đứng thẳng trong tư thế quân sự, khẩu súng lục trong bao da sờn, vỏ kiếm sứt sẹo kiêu hãnh đập vào ủng, đinh thúc ngựa đã mở xỉn – đó là thiếu t á Ashley Wilkes của quân đội Liên bang. Thói quen chỉ huy giờ đã ăn sâu vào chàng, tạo một vẻ tự tin bình thản, đầy uy lực. Nhưng những nếp nhăn khắc khổ đã bắt đầu xuất hiện quanh khóe miệng chàng. Có một cái gì mới mẻ và kỳ lạ ở đôi vai vuông vức và ánh mắt sáng lạnh của chàng. Cái vẻ uể oải, biếng nhác xưa kia đã nhường chỗ cho sự linh hoạt của một con mèo đang rình mồi, cái linh hoạt bồn chồn của một người mà thần kinh luôn luôn căng thẳng như những sợi dây của một cây vĩ cầm. Cặp mắt chàng có một cái nhìn mệt mỏi, chất chứa ám ảnh và làn da rám nắng căng như mặt trống trên khung xương nhỏ mặt chàng – vẫn là Ashley điển trai của nàng mà sao khác vời. Scarlett đã dự định về chơi Noel ở ấp Tara, nhưng sau khi nhận được điện tín của Ashley thì không một sức mạnh nào trên trái đất, kể cả một mệnh lệnh trực tiếp của bà Ilơn thất vọng trong ngóng đợi, có thể kéo nàng khỏi Atlanta. Giá Ashley tính về trại Mười Hai Cây Sồi, nàng ắt đã tức tốc tới ấp Tara để được gần chàng; nhưng chàng đã viết thư cho gia đình đến gặp chàng ở Atlanta và ông Wilkes cùng Honey và India đã có mặt ở thành phố. Về ấp Tara để lỡ dịp gặp lại chàng sau hai năm đằng đẵng ư Để không được nghe giọng nói của chàng, cái giọng bao giờ cũng khiến tim nàng đập rộn hơn, để không được đọc thấy trong mắt chàng là chàng vẫn chưa quên nàng? Không đời nào! Dù có vì tất cả các bà mẹ trên thế giới cũng không. Ashley về tới nhà bốn ngày trước N o e l , cùng với một tốp thanh niên của Hạt cũng được nghỉ phép, số này đã giảm đi một cách đáng buồn từ trận Gettysburg. Trong tốp đó, có Cade gầy nhom, ho luôn miệng, hai trong số anh em nhà Munroe vô cùng phấn khởi với đợt nghỉ phép đầu tiên kể từ 1861 và Alex và Tony Fontaine say khướt, ồn ã và hay gây gổ. Họ phải đợi hai tiếng nữa mới có tàu và vì những thành viên tỉnh táo của nhóm phải luôn luôn giờ hết tài ngoại giao để giữ cho hai anh em Fontaine khỏi choảng nhau hoặc đánh lộn với những người hoàn toàn không quen ở ga, nên Ashley kéo tất cả về nhà bà cô Pittypat. - Cứ tưởng hai ông tướng đánh nhau ở Virginia như thế đã đủ, Cade chua ch át nói khi nhìn hai gã xù lông lên như hai con gà chọi giành nhau hôn bà cô Pitty vừa sờ sợ, vừa thích. – Nhưng mà không, họ đã say và gây sự đánh lộn từ khi chúng tôi tới Richmon. Hiến binh đã bắt hai cậu và nếu không nhờ Ashley khéo lựa lời thì họ phải qua mùa Giáng Sinh ở trong tù mất. Nhưng Scarlett hầu như không để tai đến những lời đó, vì nàng đang ngây ngất với niềm vui lại được có mặt trong cùng một phòng với Ashley. Làm sao, trong hai năm ấy, nàng có thể thấy những người đàn ông khác là hay ho, hoặc đẹp trai, hoặc hấp dẫn đươc? Thậm chí, làm sao nàng có thể cam chịu nghe họ tán tỉnh trong khi Ashley còn tồn tại trên đời? Đây chàng lại đang ở nhà, chỉ cách nàng có chiều rộng của tấm thảm trải phòng khách và nàng phải cố gắng hết sức mình mới khỏi tan thành những giọt nước mắt sung sướng mỗi khi nhìn chàng ngồi trên xôfa giữa Melly và India, trong khi Honey đứng đằng sau ô m cổ bá vai chàng. Ước gì nàng được quyền ngồi đó, bên cạnh chàng, tay khoác tay! Ước gì nàng có thể cứ vài phút lại vỗ vỗ vào tay áo chàng để chắc chắn rằng chàng đang thực sự ở đó, nắm tay chàng và lấy mùi soa của chàng để lau những giọt nước mắt vui sướng của mình ! Vì tất cả những điều đó, Melanie đang làm, không chút thẹn thùng. Quá sung sướng quên cả dè dặt, nhút nhát, nàng níu lấy cánh tay chồng không rời và công khai bộc lộ lòng tôn thờ chàng bằng ánh mắt, nụ cười và những dòng lệ. Còn Scarlett thì quá sung sướng chẳng còn bụng dạ nào mà hậm hực, quá vui mừng chẳng còn bụng dạ nào mà ghen. Cuối cùng, Ashley đã trở v ề ! Chốc chốc nàng lại đưa tay lên má, ở chỗ chàng đã h ô n và lại cảm thấy rợn lên cái tiếp xúc của môi chàng, và nàng mỉm cười với chàng. Cố nhiên, chàng không hôn nàng trước tiên. Melanie đã gieo mình vào vòng tay chàng, thốt lên những lời đứt quãng, không đầu không cuối, giữ chặt lấy chàng như không bao giờ muốn buông ra. Rồi India và Honey đã giật chàng ra khỏi vòng tay của Melanie và ôm ghì lấy chàng. Sau đó, chàng hôn ông Wilkes với cái vẻ vừa trang trọng, vừa trìu mến, chứng tỏ sức mạnh bình tĩnh của tình cảm giữa hai cha con. Rồi đến lượt bà cô Pitty loi choi trên đôi chân nhỏ bé, tớn tác. Cuối cùng, quay sang nàng lúc đó đang bị tất cả đám quân nhân về phép vây quanh đòi được hôn, chàng nói: “Ôi, Scarlett! Cô em xinh đẹp!” và hôn lên má nàng. Cái hôn đó làm tất cả những gì nàng định nói để chào đón chàng, vụt bay biến đi đâu mất. Mãi đến vài giờ sau, nàng mới nhớ ra rằng chàng đã không hôn lên môi nàng. Rồi nàng náo nức tự hỏi không biết nếu gặp nhau một mình, chàng có thể không – cúi cái thân hình cao lớn xuống xốc nàng kiễng chân lên, ghì lấy nàng hồi lâu, hồi lâu. Và nàng tin rằng chàng ắt làm thế, bởi vì ý nghĩ đó khiến nàng sung sướng. Nhưng hãy còn thì giờ cho mọi thứ, cả một tuần cơ mà ! Chắc chắn nàng sẽ có thể tạo cơ hội gặp chàng một mình và nói: “Anh có nhớ những lần chúng mình cưỡi ngựa đi chơi dọc theo những con đường hẻm chỉ riêng hai đứa mình biết ? ”. “Anh có nhớ vầng trang kỳ diệu cái đêm chúng mình ngồi trên bậc thềm ấp Tara và anh trích dẫn bài thơ ấy không? ” (Lạy chúa! Tên bài thơ ấy là gì nhỉ?). “Anh có nhớ cái buổi chiều em bị sát chân và anh bế em về nhà trong hoàng hôn chạng vạng ?”. Ôi, có bao nhiêu điều nàng có thể mào đầu bằng : “Anh có nhớ không ?”. Biết bao kỷ niệm thân thiết có thể nhắc chàng nhớ đến những ngày đẹp đẽ khi họ than thẩn trong Hạt như những đứa trẻ vô tư lự, biết bao điều gợi đến những ngày trước khi Melanie Hamilton bước vào cuộc. Và trong khi nói chuyện, có thể nàng sẽ đọc thấy trong mắt chàng một xúc động nào đó, một cái gì đó khiến nàng ngầm hiểu rằng đằng sau hàng rào tinh cảm phu thê phải dành cho Melanie , chàng vẫn yêu nàng, vẫn yêu tha thiết như trong cái ngày chàng bật nói ra sự thật giữa buổi tiệc ngoài trời. Nàng không hề nghĩ đến việc tính chuyện họ sẽ làm gì nếu Ashley nói thằng ra là chàng yêu nàng. Biết được chàng còn yêu là đủ rồi… Phải, nàng có thể đợi, có thể để cho Melanie hưởng những giờ hạnh phúc của cô ta, ghì chặt cánh tay chàng và khoe cho thỏa đi. Giờ phút của nàng sẽ đến. Nói cho cùng, một cô nàng như Melanie thì gì về tình yêu ? - Cưng ạ, nom anh rách rưới như một gã cù bờ cù bất ấy, - Melanie nói khi cơn xúc động của phút đầu gặp lại đã qua. – Ai vá quân phục cho anh đấy ? Tại sao họ lại dùng mụn màu xanh lơ nhỉ ? - Anh thì lại tưởng mình rất bảnh, - Ashley vừa nói vừa ngắm lại bề ngoài của mình. – Em thử so sánh anh với những anh chàng rách như tổ đỉa đằng kia thì em sẽ đánh giá anh khá hơn. Mose vá cho anh đấy và theo anh, nó làm được như thế là giỏi lắm rồi, vì trước chiến tranh, có bao giờ nó biết đến cái kim sợi chỉ. Về miếng mụn xanh, thì khi ở cái thế phải chọn lựa : một đằng là mặc quần thủng, một đàng là vá bằng những mảnh quân phục của một tên Yankee bị bắt… ờ, thế cũng coi như không đường lựa chọn vậy. Và còn chuyện nom như một gã cù bơ cù bất, thì đáng ra em phải cảm ơn các ngôi sao chiếu mệnh là chông em không đi chân đất về nhà. Tuần trước, ủng của anh đã đi đứt và đáng lẽ anh phải buộc bao tải vào chân để về nhà nếu bọn anh không có cái may mắn hạ thủ được hai tên thám báo Yankee. Ủng của một trong hai tên đó vừa khít chân anh. Chân duỗi đôi cẳng dài trong đôi ủng sứt sẹo cho họ ngắm. - Còn đôi ủng của tên thám báo thứ hai thì không vừa chân tôi, - Cade nói. – Nó nhỏ hơn hai số và chính lúc này đây tôi đang đau chết người. Nhưng dù sao tôi cũng có để diện về nhà. - Vậy mà cái con lợn ích kỷ ấy không người cho một trong hai anh em tôi, - Tony nói. – Trong khi nó vừa hơn với cái khổ chân nhỏ nhắn, quý tộc của dòng họ Fontaine chúng tôi. Âm ti hỏa ngục! Tôi lấy làm xấu hổ phải ra mắt mẹ tôi với đôi giày sơn trắng này. Trước chiến tranh, ngay đến bọn đầy tớ da đen, mẹ tôi cũng không để cho đi loại giầy này. - Đừng lo, - Alex nói, liếc mắt về phía đôi ủng của Cade. – Ta sẽ lột của cậu ấy trên chuyến tàu về nhà. Với mẹ thì anh không ngại, nhưng anh cóc.. anh muốn nói là anh không muốn để Dimity Munroe thấy ngón chân anh thò ra khỏi giày. - Này, đấy là ủng của tôi. Tôi đã xí trước, - Tony nói, bắt đầu gườm gườm với anh trai và Melanie cuống quýt sợ có thể xảy ra một cuộc cãi lộn lừng danh của anh em nhà Fontaine, bèn xen vào dàn hòa. - Mấy bữa trước, tôi có một bộ râu dày dặn định khoe các cô, - Ashley nói, rầu rầu xoa bộ mặt vẫn còn rõ những vết dao cạo cứa đứt chưa lành hẳn, - Một bộ râu thật oách, tôi dám nói là ngay đến Jeb Stuart [49] [49] hay Nathan Bedford Forrest cũng không thể có bộ râu đẹp hơn. Nhưng khi bọn này đến Richmond, hai tên khốn kiếp này (chỉ hai anh em Fontaine) quyết đinh rằng vì chúng đã cạo râu thì tôi cũng không thể tồn tại. Chúng đè tôi ra, cạo bừa phứa đến nỗi thật cũng lạ là đầu tôi không bị đứt với râu. Phải nhờ sự can thiệp của Evan và Cade, bộ ria của tôi mới được cứu thoát. - Láo toét ! Chị Wilkes, chị phải cảm ơn tôi mới đúng. Nếu không nhờ tôi, ắt chị sẽ không nhận ra cậu ta và không để cho cậu ta bước vào nhà, - Alex nói. – Chúng tôi làm thế để tỏ lòng biết ơn cậu đã xin bọn hiến binh đừng bắt giam chúng tôi. Nếu chị yêu cầu, chúng tôi sẽ gọt nột bộ ria của cậu ta ngay lập tức. - Ồ không, cảm ơn anh, - Melanie vội nói, sợ hãi níu lấy Ashley vì hai gã thấp bé ngăm ngăm đen nọ coi bộ có thể làm bất kỳ hành động bạo ngược nào. –Tôi thấy bộ ria ấy rất đẹp. - Tình yêu là thế đấy, - anh em Fontaines nói và trịnh trọng gật đầu với nhau. Khi Ashley ra ngoài trời lạnh để tiễn các bạn lên xe người ngựa của bà cô Pitty ra ga, Melanie nắm cánh tay Scarlett. - Bộ quân phục của anh ấy thảm hại quá, phải không nhỉ ? Liệu cái áo capốt của em có phải là một tặng phẩm bất ngờ không ? Ôi, giá em có đủ vải để may cả cái quần luôn thể ! Cái áo capốt dành cho Ashley là chuyện đau lòng đối với Scarlett, vì nàng rất tha thiết muốn rằng chính mình, chứ không phải là Melanie, có quà Noel tặng chàng. Vải len xám để may quân phục hiện nay gần như quý hơn hồng ngọc. Bộ Ashley đang mặc là bằng thứ vải thô quen thuộc dệt bằng khung cửi tay. Ngay cả loại ấy giờ đây cũng không nhiều và nhiều quân nhân hiện phải mặc quân phục của bọn tù binh Yankee đem nhuộm vỏ quả óc chó thành màu nâu sẫm. Nhưng nhờ một dịp may hiếm có, Melanie đã có đủ vải len để may một chiếc áo capốt – một cái áo capốt hơi ngắn nhưng dù thế nào cũng vẫn là một cái áo capốt. Nàng đã chăm sóc một thanh niên Charleston trong bệnh viện và khi anh chết, đã cắt một món tóc của anh gửi cho bà mẹ cùng với mấy thứ lặt vặt trong túi của anh, kèm theo một bức thư an ủi kể lại những giờ phút cuối cùng của anh, trong đó không hề nhắc đến những đau đớn anh đã phải chịu đựng trước khi chết. Từ đó, họ thường xuyên viết thư cho nhau và, được biết Melanie có chồng ngoài mặt trận, bà mẹ kia đã gửi biếu nàng tấm vải len xám cùng những khuy đồng mà bà đã mua, định may áo cho người con trai đã mất. Đó là một tấm vải đẹp, dày, ấm và hơi nhờ nhờ bóng, chắc chắn là hàng vượt rào và chắc chắn là rất đắt tiền. Giờ đây, nó đang ở hiệu thợ may và Melanie đang giục chủ hiệu phải xong cái áo vào sáng Noel. Scarlett sẵn sàng đánh đổi bất cứ cái gì để có thể bảo đảm nốt phần còn lại của bộ quân phục, song rõ ràng là số vải cần thiết cho việc đó không thể kiếm được ở Atlanta. Nàng có một món quà Noel cho Ashley, nhưng nó mờ nhạt không nghĩa lý gì bên cạnh chiếc áo capôt xám tuyệt vời của Melanie . Đó là một cái túi “nội trợ” nhỏ bằng flanel, trong đựng toàn bộ gói kim quý giá Rhett đã mang từ Nassau về cho nàng, ba chiếc mùi soa vải lanh cũng từ nguồn đó, hai cuộn chỉ và một cái kéo nhỏ. Nhưng nàng muốn tặng chàng một cái gì mang tính cách riêng của mình, một cái gì rành là cừa vợ tặng chồng, chẳng hạn một chiếc sơmi, một đôi găng tay, một cái mũ. À, đúng vậy, bằng mọi cách phải kiếm cho ra một cái mũ. Cái mũ bộ binh chóp bẹt Ashley đang đội trông thật kỳ cục. Xưa nay Scarlett vẫn ghét loại mũ ấy. Có quan trọng gì, việc Stonewall Jackson ưng đội loại này hơn mũ phớt mềm ? Điều đó không hề làm nó trông oai hơn. Nhưng loại mũ duy nhất có kiếm được ở Atlanta là mũ len gai còn tệ hơn loại mũ bộ binh chỉ đáng để cho khỉ đội. Nghĩ đến mũ, nàng liền nghĩ đến Rhett Butler. Anh ta có bao nhiêu là mũ, nào mũ panama rộng vành để đội mùa hè, nào mũ cao thành bằng da hải li cho những dịp trịnh trọng, nào là mũ đi săn, nào là mũ phớt màu hạt dẻ, màu đen, màu xanh. Anh ta làm gì mà cần nhiều mũ thế, trong khi Ashley thân yêu của nàng phải dầm trong mưa để nước tong tỏng giỏ từ chiếc mũ bộ binh xuống cổ áo ? “Mình sẽ gạ Rhett cho mình cái mũ dạ mới của anh ta”, - nàng quyết định. “Và mình sẽ thắt một dải băng xám quanh vành, đính phù hiệu của Ashley lên trên, nom sẽ rất đẹp”. Nàng ngưng lại và nghĩ có lẽ muốn được mũ mà không có đôi lời giải thích chắc cũng khó. Dứt khoát nàng không thể bảo Rhett là nàng muốn xin mũ để tặng Ashley. Anh ta sẽ nhướn mày lên với cái vẻ khả ố như mỗi lần nghe thấy nàng nhắc đến tên Ashley và rất có thể sẽ từ chối. Được, nàng sẽ bịa ra một câu chuyện tội nghiệp về một thương binh ở bệnh viện đang cầm mũ. Rhett chả cần biết sự thật làm gì. Suốt buổi chiều hôm ấy, nàng cố tìm cách để được một mình với Ashley, nhưng Melanie cứ kè kè ở bên chàng và India với Honey thì nhằng nhẵng theo chàng khắp nhà, mắt long lanh, những cặp mắt bềnh bệch trụi hết lông mi. Ngay cả ông John Wilkes rõ ràng là hãnh diện vì con trai, cũng không có cơ hội nào để nói chuyện yên ổn với chàng. Đến bữa ăn tối cũng thế, tất cả thi nhau hỏi chuyện chàng về chiến tranh. Chiến tranh ! Ai thiết gì chiến tranh ! Theo Scarlett, Ashley cũng chẳng quan tâm gì lắm đến vấn đề này. Chàng nói suốt, cười luôn miệng và hoàn toàn chủ động dẫn dắt câu chuyện như nàng chưa từng thấy trước kia, thế nhưng dường như chàng chẳng nói mấy tí. Chàng đùa tếu, kể những chuyện vui về bạn bè, vể những cách xoay sở tạm thời, giảm nhẹ mức bi thảm của cái đói, của những cuộc hành quân dài đằng đẵng trong mưa và tả tỉ mỉ bộ dạng của tướng Lee khi ông phóng ngựa qua, trên đường rút quân khỏi Gettysburg và hỏi: “Các bạn có phải lính Georgia không? Thế đấy, chúng tôi không thể thiếu những người bangGeorgia các bạn được!”. Scarlett có cảm giác là chàng nói chuyện huyên thuyên để ngặn họ hỏi những câu chàng không muốn trả lời. Khi thấy mắt chàng chấp chới và cụp xuống trước cái nhìn bối rối của ông John, nàng cảm thấy hơi hoang mang và băn khoăn về những điều Ashley giấu kín trong lòng. Nhưng cảm giác đó quá mau, vì tâm trí nàng không còn chỗ cho bất kỳ cái gì khác ngoài một hạnh phúc ngời ngời và một khao khát cháy bỏng muốn được một mình với chàng. Niềm vui chói lói ấy kéo dài cho đến khi mọi người ngồi quanh đống lửa bắt đầu ngáp và ông Wilkes cùng hai con gái cáo từ về khách sạn. Rồi khi cùng Ashley, Melanie và bà Pittypat lên cầu thang đã được bác Peter thắp sáng, nàng bỗng thấy lạnh toát tâm hồn. Cho đến tận cái lúc họ đứng ở hành lang trên gác, Ashley vẫn là của nàng, của riêng nàng, cho dù cả chiều nay, nàng vẫn chưa nói riêng với chàng được lời nào. Nhưng giờ đây, khi đã chúc nhau ngủ ngon, nàng trông thấy má Melanie bỗng đỏ bừng và cô ta run lên. Cô ta cắm mắt vào tấm thảm dưới chân và mặc dầu có vẻ đang xúc động ghê gớm, xem ra đằng sau cái rụt rè vốn có, cô ta vẫn tràn trề hạnh phúc. Thậm chí khi Ashley mở cửa phòng ngủ, Melanie cũng không ngước mắt lên mà chỉ bước nhanh vào. Ashley hấp tấp chúc Scarlett ngủ ngon, thậm chí cũng không nhìn vào mắt nàng. Cửa đóng lại đằng sau họ, để lại Scarlett, miệng há hốc và đột nhiên rã rời. Ashley không còn là của nàng nữa. Chàng là của Melanie. Và chừng nào Melanie còn sống, cô ta còn có quyền cùng với Ashley vào một căn buồng và đóng cửa lại, tách rời với toàn thế giới Giờ đây, Ashley lại sắp đi ra, trở về Virginia, trở về với những cuộc hành quân trường kỳ trong mưa tuyết, với những ngày đời dài hạ trại giữa cánh đồng mênh mông tuyết trắng, với khó khăn, gian khổ và với cái nguy cơ là toàn bộ vẻ đẹp của chàng – cái đầu tóc vàng rơm, cái thân hình dong dỏng kiêu hãnh – có thể phút chốc bị xóa sạch, như con kiến dưới một gót chân phũ phàng. Tuần lễ nghỉ phép đẹp lung linh như mộng, với những giờ ăm ắp hạnh phúc, đã kết thúc. Cái tuần lễ ấy đã qua nhanh như một giấc chiêm bao, một giấc chiêm bao ngào ngạt mùi cành thông và cây Noel, rực rỡ ánh nến và những đồ trang trí làm lấy, một giấc chiêm bao trong đó mỗi phút bay đi nhanh như một tiếng tim đập. Một tuần lễ vùn vụt đến đứt hơi. Trong đó, một cái gì đớn đau pha lẫn khoái cảm thôi thúc Scarlett lèn chặt và chất đầy sự kiện vào mỗi một phút để nhớ lại khi chàng đã đi rồi, những sự kueenj mà trong những ngày tháng đằng đẵng sắp tới, nàng có thể thủng thẳng nghiền ngẫm lại, chắt ra từng đóm sáng an ủi – những lúc nhảy múa, hát, cười, tìm mọi cách làm vui cho Ashley, đón trước những ý muốn của chàng, mỉm cười khi chàng mỉm cười, im lặng khi chàng nói, không rời mắt khỏi chàng sao cho từng đường nét của thân hình, từng cái nhướn mày, từng cái nhếch mép đều in sâu không thể xóa nhòa trong tâm trí… bởi vì một tuần thì qua rất nhanh, mà chiến tranh thì cứ liên miên, bất tận. Nàng ngồi trên đi văng trong phòng khác nhỏ, món tặng vật tiễn đưa dành cho chàng đặt trong lòng, kiên nhẫn đợi trong khi chàng tạm biệt Melanie, cầu trời sao cho chàng xuống thang gác một mình để nàng được một mình với chàng vài phút. Tai nàng căng ra nghe ngóng những tiếng ở trên gác, nhưng ngôi nhà im ắng lạ lùng, im ắng đến nỗi ngay tiếng thở của nàng dường như cũng vang to. Trong buổng riêng, bà cô Pittypat đang úp mặt vào gối khóc, vì Ashley đã chào tạm biệt bà từ nửa giờ trước. Không một tiếng thì thầm, không một tiếng nức nở nào vẳng ra từ sau cánh cửa đóng của phòng ngủ Melanie. Scarlett có cảm giác là chàng đã ở trong phòng đó hàng mấy tiếng đồng hồ và nàng oán ghét mỗi giây phút chàng nán lại từ biệt vợ vì thời khắc vùn vụt qua mà thì giờ của chàng lại quá ngắn. Nàng nghĩ đến tất cả những điều nàng đã định nói với chàng trong tuần qua, nhưng không có cơ hội nào để nói ra. Và giờ đây, nàng biết có lẽ mình chẳng bao giờ được dịp nói ra nữa. Một số điều thật là vớ vẩn, đại loại như : “Ashley, anh phải cẩn thận nhé !”, “Xin anh chớ có để ướt chân. Anh là chúa dễ cảm lạnh”. “Đừng có quên lót một tờ báo dưới áo sơ mi để che ngực. Nó chắn gió tốt lắm đấy…”. Nhưng có những điều quan trọng hơn mà nàng muốn nói cũng như những điều còn quan trọng hơn nhiều mà nàng muốn nghe chàng nói, những điều nàng muốn đọc trong mắt chàng, cho dù chàng chẳng nói ra. Biết bao điều cần nói mà bây giờ chảng còn thì giờ nữa. Cả đến những phút ít ỏi còn lại phần nàng cũng có thể bị giật đi nốt, nếu Melanie theo chàng ra cửa, ra tận cọc đậu xe. Tại sao nàng không tạo ra cơ hội trong suốt tuần qua? Nhưng Melanie bao giờ cũng kè kè bên chồng, đôi mắt nhìn chàng mơn trớn, tôn thờ. Nhà lúc nào cũng có bạn bè, họ hàng bà con và láng giềng đến tham và từ sáng đến đêm, Ashley không lúc nào được một mình. Rồi đến đêm, khi cánh cửa phòng ngủ sập đóng, thì chàng lại một mình với Melanie. Suốt những ngày vừa qua, không một lần nào chàng bộc lộ với Scarlett bằng một ánh nhìn, một lời nói, bất kỳ điều gì khác ngoài tình cảm thương yêu của một người anh trai đối với em gái hoặc của một người bạn trai tốt đối với một người bạn gái gắn bó trọn đời. Nàng không thể để chàng ra đi, có thể là mãi mãi, mà không biết chàng có còn yêu mình hay không. Để rồi, dù chàng có hy sinh, nàng vẫn có thể nâng niu đến trọn đời niềm an ủi ấm áp về mối tình thầm kín chàng dành cho nàng. Sau một thời gian chờ đợi tưởng chừng dài bằng cả một thiên thu, nàng nghe thấy tiếng ủng của chàng ở phòng ngủ trên gác, tiếng cửa mở rồi đóng lại. Nàng nghe thấy tiếng bước chân chàng xuống cầu thang. Một mình! Đội ơn Chúa! Chắc hẳn Melanie quá đau đớn với nỗi sầu ly biệt, không đủ sức để rời phòng. Giờ đây, nàng có thể chiếm hữu chàng cho riêng mình trong vài phút quý giá. Chàng chậm rãi xuống thang gác, đinh thúc ngựa lách cách và bao kiếm khẽ đập vào ủng. Chàng bước vào phòng khách nhỏ, đôi mắt tối sầm. Chàng gượng cười, nhưng mặt chàng trắng bệch và rã rời như bị mất máu vì một vết thương bên trong. Nàng đứng dậy, thầm nghĩ với niềm kiêu hãnh của kẻ sở hữu ràng chàng quà là người lính đẹp nhất trên đời. Được bác Peter cặm cụi đánh bóng, bao súng, bao kiếm, đinh thúc ngựa và thắt lưng của chàng đều lấp lánh. Chiếc áo capôt mới của chàng không vừa lắm vì người thợ may làm vội, có một số đường may xệch xẹo. Hàng len mới bóng của chiếc áo capôt xám tương phản một cách đáng buồn với cái quần vải thô sờn, vá víu và đôi ủng sứt sẹo, nhưng nếu chàng có mặc áo giáp bằng bạc, thì Scarlett cũng chẳng thấy lẫm liệt hơn người hiệp sĩ hiện đứng trước mặt nàng. - Ashley, - đột nhiên nàng van vỉ, - em có thể đưa anh ra tàu được không? - Xin đừng. Cha tôi và các em gái tôi sẽ ở đó. Vả lại, dù sao đi nữa, tôi cũng muốn giữ hình ảnh Scarlett nói lời tạm biệt với tôi ở đây hơn là rét run ở ngoài ga. Quá nhiều kỷ niệm rồi. Lập tức, nàng bỏ ý định ấy. Nếu India và Honey, vốn rất không ưa nàng, sẽ có mặt trong giờ phút tiễn đưa thì nàng đừng hòng nói riêng với chàng một lời nào. - Vậy thì em không đi nữa, - nàng nói. – Xem này, Ashley ! Em có một món quà nữa tặng anh. Giờ đây, đã đến lúc tao tặng vật cho chàng, Scarlett bỗng hơi rụt rè. Nàng giở cái gói ra. Đó là một chiếc khăn thắt lưng dài màu vàng bằng lụa Trung Quốc dày, có diềm tua. Mấy tháng trước, Rhett Butler có mang đến cho nàng một chiếc khăn san từ La Hanava, thêu chim và hoa bằng chỉ đỏ, chỉ xanh sặc sỡ. Trong tuần qua, nàng đã kiên trì tháo hết những hình thêu và cắt mảnh lụa vuông đó, khâu thành chiếc khăn thắt lưng dài. - Đẹp quá, - Scarlett ! Scarlett làm lấy đấy à ? Thế thì tôi lại càng thấy quý ! Quàng thử hộ tôi xem, Scarlett thân yêu ! Các cậu ấy sẽ ghen tái mặt khi thấy tôi hùng dũng trong chiếc áo capôt và khăn thắt lưng mới. Nàng quấn chiếc khăn quanh thân chàng, bên trên thắt lưng và âu yếm buộc hai đầu thành một nút “yêu đương [50]
Jeb Stuart
với chiếc lông đà điểu và chiếc khăn thắt lưng chưng diện của ông cũng không oách bằng chàng kỵ sĩ của nàng.
- Đẹp thật, - chàng nhắc lại, tay vân vê dải viền tua, - Nhưng tôi biết chắc là Scarlett đã phải cắt một chiếc áo dài hoặc một chiếc khăn san ra để may thành cái này. Đáng ra Scarlett không nên làm thế… Thời buổi này, những thứ đẹp khó kiếm lắm.
- Ô, Ashley, em sẵn…
Nàng đã định nói : “Em sẵn sàng cắt đôi tim em cho anh mang một nửa, nếu anh muốn”, nhưng lại chữa thành : “Em sẵn sàng làm bất cứ điều gì vì anh”.
- Thật không ? – chàng hỏi, mặt bỗng đỡ u ám đi phần nào, - vậy thì có một điều Scarlett có thể giúp tôi, một điều sẽ làm tâm trí tôi dịu nhẹ hơn trong khi tôi đi xa.
- Điều gì vậy ? – Nàng vui vẻ hỏi, sẵn sàng hứa mọi phép thần kỳ.
- Scarlett có vui lòng trông nom Melanie giúp tôi không?
- Trông nom Melanie?
Tim nàng se lại, thất vọng chua chát. Thì ra đó là yêu cầu cuối cùng của chàng đối với nàng, trong khi nàng khao khát được hứa hẹn một cái gì đẹp đẽ, một cái gì hùng vĩ Và cơn giận bùng lên. Giây phút này là giây phút của nàng với Ashley, của riêng nàng thôi. Vậy mà, mặc dù Melanie vắng mặt, cái bóng mờ nhạt của cô ta vẫn len vào giữa hai người. Làm sao chàng lại có thể nhắc đến tên cô ta vào cái phút chàng và nàng chia tay nhau? Làm sao chàng lại có thể yêu cầu nàng một điều như thế?
Chàng không nhận thấy vẻ mặt thất vọng trên mặt nàng. Giống như ngày xưa, cái nhìn của chàng lướt qua nàng, hướng vào một cái gì khác bên kia nàng, mà không hề thấy nàng.
- Phải, hãy trông nom, chăm sóc Melanie hộ. Cô ấy mỏng manh lắm mà không tự biết. Cô ấy sẽ hao mòn đi vì công việc khâu vá và phục vụ thương bệnh binh. Và cô ấy thật dịu dàng, thật nhút nhát. Ngoài cô Pittypat, bác Henry và Scarlett ra, Melanie không còn người bà con gần gũi nào trên đời, trừ gia đình Bar ở Meican mà họ chỉ là bà con xa thôi. Cô Pittypat thì… Scarlett biết đấy, cô có khác nào một đứa con nít. Và bác Henry thì già, Melanie rất yêu Scarlett không phải chỉ vì Scarlett là vợ của Charlz, mà còn vì… ồ, vì Scarlett là Scarlett, và cô ấy yêu Scarlett như chị ruột. Scarlett ạ, khi tôi nghĩ đến những gì có thể xảy ra đến với Melanie nếu tôi chết và cô ấy không biết trông cậy vào ai, thì đó là ác mộng đối với tôi. Scarlett có hứa giúp tôi không?
Thậm chí nàng không nghe thấy lời yêu cầu cuối cùng của chàng , vì đang quá hoảng sợ với câu nói gở : “nếu tôi chết”.
Ngày ngày, nàng vẫn đọc những danh sách thương vong, cổ họng se lại, biết rằng mọi thứ trên đời sẽ chấm dứt đối với nàng nếu chàng có mệnh hệ nào. Nhưng bao giờ, bao giờ tâm tư nàng cũng có một linh cảm rằng cho dù quân đội Liên bang có bị tiêu diệt, Ashley vẫn không bị đụng đến. Thế mà bây giờ chàng lại thốt ra cái câu dễ sợ ấy ! Toàn thân nàng sởn gai ốc và nàng chìm ngợp trong một nỗi sợ đậm màu mê tín mà nàng không thể dẹp đi bằng lý trí. Dòng máu Ailen ở nàng còn đủ mạnh để khiến nàngtin vào khả năng dự cảm tương lai, nhất là khi liên quan đến điềm báo chết chóc, và trong đôi mắt to màu xám của chàng, nàng đọc thấy một nỗi buồn sâu sắc mà nàng chỉ có thể diễn giải như là một nỗi buồn của một người đã cảm thấy bàn tay lạnh giá của. Thần chết đặt lên vai, đã nghe thấy tiếng rền rĩ của bà tiên Bansi
[51]
[51].- Anh không được nói thế! Thậm chí anh không được nghĩ thế! Nói đến cái chết là rất gở. Ôi, anh cầu nguyện đi, nhanh lên!
- Để Scarlett sẽ cầu nguyện cho tôi và thắp một vài ngọn nến luôn thể, - chàng nói và mỉm cười khi nhận thấy vẻ hốt hoảng cuống quít trong giọng nàng.
Quá bàng hoàng với hình ảnh Ashley nằm chết trong những lớp tuyết của Virginia xa xôi mà tâm chí nàng mường tượng ra, Scarlett không đủ sức trả lời. Chàng tiếp tục nói và giọng chàng đượm một nỗi buồn, một sự cam chịu khiến nỗi lo sợ của nàng càng tăng lên đến mức xóa sạch mọi dư tàn giận dữ và thất vọng.
- Tôi yêu cầu Scarlett giúp là vì lý do này, Scarlett ạ. Tôi không thể biết điều gì sẽ xảy đến với tôi, hoặc bất kỳ ai trong chúng ta. Nhưng đến khi kết thúc, ngay cả nếu tôi vẫn còn sống, tôi cũng sẽ ở xa đây, quá xa để có thể trông nom Melanie.
- Kết… kết thúc ư ?
- Ừ, kết thúc chiến tranh… và kết thúc tất cả - tận thế.
- Nhưng Ashley, lẽ nào anh lại có thể nghĩ rằng bọn Yankee sẽ đánh bại chúng ta? Suốt tuần qua, anh đã nói về sức mạnh của tướng Lee…
- Suốt tuần qua, tôi đã nói dối, như tất cả mọi quân nhân đều làm thế khi về phép. Tại sao tôi lại phải làm cho Melanie và cô Pitty sợ khi chưa cần thiết? Phải, Scarlett ạ, tôi nghĩ là bọn Yankee đang nắm chúng ta trong tay. Gettysburg là bước đầu của sự suy vong. Điều đó mọi người ở hậu phương chưa biết đâu. Mọi người không thể hình dung tình cảnh bọn tôi như thế nào, nhưng… Scarlett ạ, lính của tôi nhiều người phải đi chân đất, mà tuyết ở Virginia thì rất dày. Khi tôi trông thấy những đôi chân tội nghiệp của họ cóng cứng, quấn bằng giẻ và bao tải cũ, trông thấy những vệt máu chúng để lại trên tuyết, trong khi tôi có cả một đôi ủng, thì.. phải, tôi cảm thấy mình nên vứt ủng đi và cũng đi chân không với họ.
- Ôi, Ashley, đừng vứt, hãy hứa với em thế đi!
- Khi tôi thấy những điều như thế, rồi lại nhìn về phía bọn Yankee… thì tôi thấy mọi sự thôi thế là hết. Scarlett ạ, bọn Yankee đang mua hàng nghìn lính ở châu Âu Phần lớn tù binh chúng tôi bắt được hồi gần đây, thậm chí không biết nói tiếng Anh. Đó là những người Đức, Ba Lan và những tên điên rồ Ireland nói tiếng
Gaelic
. Còn về phía chúng ta, mỗi người mất đi là không thể thay thế được, giày hỏng là không có giày khác nữa. Chúng ta đã đến bước đường cùng rồi, Scarlett ạ. Và chúng ta không thể đánh lại toàn thế giới.
Nàng điên dại nghĩ thầm : “Mặc cho toàn Liên bang tan thành tro bụi, mặc cho thế giới tiêu vong, nhưng anh, anh không được chết! Em không thể sống được nếu anh chết !”.
- Tôi hy vọng Scarlett sẽ không nhắc lại những điều tôi vừa nói. Tôi không muốn làm những người khác lo sợ. Và chăng, Scarlett thân yêu, nếu tôi không phải giải thích lý do tại sao tôi nhờ Scarlett trông nom Melanie hộ, thì hẳn tôi cũng chẳng nói những điều ấy làm gì để cho Scarlett lo sợ. Melanie mỏng manh, yếu đuối, còn Scarlett thì đầy sức mạnh. Sẽ là một an ủi cho tôi khi được biết hai người vẫn bên nhau nếu chuyện có gì xảy ra đến với tôi. Scarlett hứa với tôi chứ?
- Ồ, vâng! – Scarlett kêu lên vì lúc ấy hình ảnh cái chết kề bên chàng khiến nàng sẵn sàng hứa bất cứ cái gì. – Ashley, Ashley! Em không thể để anh ra đi! Em không đủ can đảm!
- Scarlett phải can đảm, - chàng động viên với một thay đổi tinh tế trong giọng nói, - vang hơn, trầm sâu hơn – và lời chữ tuôn nhanh như bị thúc hối bởi một đòi hỏi bức bách của nội tâm, - Scarlett phải can đảm, vì nếu không, làm sao tôi có thể đứng vững nổi?
Mắt nàng dõi nhanh vào mặt chàng, sung sướng. Nàng tự hỏi không biết có phải chàng định nói rằng từ biệt nàng, lòng chàng cũng tan nát chẳng kém gì nàng. Mặt chàng cũng rã tời như lúc xuống gác sau khi chia tay với Melanie. Nhưng nàng không thể đọc thấy gì trong mắt chàng. Chàng cúi xuống, đưa hai tay ôm lấy mặt Scarlett và đặt một cái hôn nhẹ lên trán nàng.
- Scarlett! Scarlett! Scarlett thật hoàn hảo, vừa mạnh mẽ, vừa tốt bụng. Không phải chỉ đẹp ở dung nhan kiều diễm, Scarlett thân yêu ạ, mà ở toàn bộ : con người, thể xác, trí óc và tâm hồn!
- Ôi, Ashley, - nàng thì thầm, tràn trề hạnh phúc, sướng run người vì những lời của chàng, vì hơi ấm bạn tay chàng trên mặt. – Chưa có ai ngoài anh…
- Tôi muốn nghĩ rằng có lẽ tôi nên hiểu Scarlett hơn phần lớn những người khác, rằng tôi có thể nhìn thấy điều đẹp đẽ ẩn sâu trong tâm hồn Scarlett mà những người khác quá thờ ơ và quá vội vã, không nhận ra.
Chàng ngừng nói, buông tay khỏi mặt nàng, nhưng vẫn dán vào mắt nàng. Nàng chờ một lát, nín thở, mong chàng nói tiếp, kiễng chân lên để nghe chàng nói ba điều thần kỳ. Nhưng những tiếng đó không đến. Nàng cuồng khấu phóng mắt sục sạo mặt chàng, môi run lên vì thấy là chàng đã dứt lời.
Lần vỡ mộng thứ hai này vượt qua sức chịu đựng của con tim nàng. Nàng khẽ “Ối!” một tiếng thật là trẻ con và ngồi xuống, mắt cay sè lệ. Rồi nàng nghe thấy một âm thanh não nề trên lối xe chạy, ngoài cửa sổ, cái âm thành khiến lòng nàng nhói buốt nhớ ra rằng đã đến lúc Ashley lên đường. Một linh hồn tội lỗi nghe tiếng suối Tuyền đài róc rách hẳn cũng không thể não nuột hơn. Bác Peter, mình quấn một tấm mềm, đang đánh xe ra để đưa Ashley ra ga.
Ashley nói : “Tạm biệt!” rất khẽ, nhấc khỏi bàn chiếc mũ phớt rộng vành, nàng đã gạ được của Rhett Butler và bước ra tiền sảnh mờ tối. Tay đặt trên quả đấm cửa, chàng quay lại nhìn nàng, một cái nhìn dài, tuyệt vọng, như thể chàng muốn mang theo mọi chi tiết của mặt nàng và dáng hình nàng. Qua hàng nước mắt nhòe nhoẹt, nàng lờ mờ thấy mặt chàng, và, cổ họng đau thắt lại, nàng biết là chàng đã ra đi, đi khỏi sự săn sóc của nàng, khỏi nơi tổ ấm an toàn này, ra khỏi đời nàng, có lẽ là mãi mãi, mà không nói những lời nàng hết lòng khao khát được nghe. Thời gian vụt đi như cánh chim và bây giờ đã quá muộn. Nàng lật đật chạy qua phòng khách nhỏ, lao vào tiền sảnh và nắm lấy hai đầu chiếc khăn thắt lưng của chàng.
- Hôn em đi, - nàng thì thào. – Hôn từ biệt em đi nào.
Chàng nhẹ nhàng quàng tay ôm nàng và cúi đầu xuống mặt nàng. Môi chàng vừa chạm vào môi nàng, hai cánh tay nàng đã ghì chặt cổ chàng đến nghẹn thở. Trong một thoáng, chàng kéo nàng vào sát người chàng. Rồi nàng cảm thấy đột nhiên chàng căng hết cơ bắp, cố đẩy nàng ra. Chàng nhanh nhẹn để mũ rơi xuống sàn và đưa tay lên gỡ vòng tay của nàng khỏi cổ.
- Không, Scarlett, không nên, - chàng nói, giọng nhỏ nhẹ, bóp mạnh hai cổ tay bắt chéo của nàng.
- Em yêu anh, - nàng nghẹn ngào. – Từ trước tới nay, em vẫn luôn yêu anh. Em chưa bao giờ yêu ai khác. Em lấy Charlie chỉ là để… để làm anh đau đớn. Ôi, Ashley, em yêu anh đến mức em sẵn sàng đi bộ suốt chặng đường từ đây đến Virginia để được gần anh! Và em sẽ nấu ăn cho anh, đánh bóng ủng cho anh, chăm sóc ngựa cho anh… Ashley, hãy nói là anh yêu em đi! Chừng ấy sẽ đủ cho em đến trọn đời!
Chàng đột ngột cúi xuống nhặt mũ và nàng thoáng nhìn thấy mặt chàng. Đó là bộ mặt khổ sở nhất nàng từng thấy, một bộ mặt đã mất hết vẻ xanh lánh, mà chỉ còn in rõ mồn một tình yêu của chàng đối với nàng cùng niềm vui được nàng yêu, đồng thời in rõ cả cuộc vật lộn giữa những tình cảm đó với nỗi xấu hổ và tuyệt vọng.
- Tạm biệt, - chàng nói giọng khàn đi.
Cửa lách cách mở và một luồng gió lạnh ào vào nhà, lay động những tấm rèm. Scarlett rùng mình nhìn chàng men theo lối đi chạy tới chỗ xe đậu, bao kiếm lấp lánh trong nắng nhạt mùa đông, diềm tua của chiếc khăn thắt lưng phất phới vui tươi.
CHƯƠNG XVI
Tháng Giêng và tháng Hai năm 1864 qua đi, đầy mưa lạnh và gió cuồng. Lòng người trĩu nặng buồn nản như bầu trời kéo đầy mây u ám. Cộng với thất bại ở Gettysburg và Vicksburg, phòng tuyến phía Nam lại bị chọc thủng ở giữa. Sau những trận đánh ác liệt, gần như toàn bộ Tennessee giờ đây đã rơi vào tay quân Hợp Chủng Quốc. Nhưng mặc dù chịu thêm tổn thất này, miền Nam vẫn không mất tinh thần. Đành rằng, hi vong phơi phới đã nhường chỗ cho một quyết tâm hung hãn, nhưng người ta vẫn thấy một dải ánh sáng lấp lánh như bạc viền quanh đám mây đen trên đầu. Chẳng hạn như hồi tháng Chín, bọn Yankee đã bị đẩy lùi mạnh mẽ khi chúng cố gắng phát huy thắng lợi ở Tennessee bằng một cuộc tiến công vào Georgia.
Ở đây, trong cái góc tận cùng của miền Tây – Bắc của bang tại Chickamauga, lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh bắt đầu,chiến sự đã diễn ra ác liệt trên đất Georgia. Quân Yankees đã chiếm Chattanooga, rồi vượt qua các đèo tiến vào Georgia, nhưng chúng đã bị đẩy lùi với những tổn thất nặng nề.
Atlanta cùng những tuyến đường sắt của nó đã góp phần lớn làm cho Chickamauga trở thành một chiến thắng lớn của miền Nam. Trên những tuyến đường sắt dẫn từ Virginia xuống Atlanta, rồi ngược lên đến Tennessee, quân đoàn của tướng Longstreet đã được cấp tốc chở tới nơi diễn ra chiến sự. Toàn bộ chặng đường dài mấy trăm dặm đã được dọn quang và tất cả đầu tàu, toa xe ở miền Đông – Nam đã được tập trung để làm công việc vận chuyển.
Dân Atlanta đã thấy từng đoàn tàu nối tiếp nhau chạy qua thành phố hết giờ này sang giờ khác – toa hành khách cũng như toa hàng, toa mui cũng như toa trần, đều đầy binh sĩ nhộn nhạo hò hét. Họ đã lên đường, không ăn, không ngủ, không mang theo ngựa, không có toa cứu thương hoặc toa chở lương thực đi kèm, và khi đến nới, không chờ nghỉ ngơi, nhảy luôn xuống tàu lao vào chiến đấu. Và bọn Yankees đã bị đánh bật khỏi Georgia, đuổi về Tennessee.
Đó là chiến công lớn nhất của cuộc chiến, và Atlanta hãnh diện và hài lòng với ý nghĩ rằng những tuyến đường sắt của mình đã tạo điều kiện cho chiến thắng.
Tuy nhiên, miền Nam quả là cần cái tin phấn khởi từ Chickamauga để củng cố tinh thần của mình qua mùa đông. Giờ đây không còn ai phủ nhận bọn Yankees chiến đấu cừ và rốt cuộc, chúng cũng có những tướng tài. Đành rằng Grant là một tên đồ tể bất cần phải tàn sát bao nhiêu người để giành một chiến thắng, nhưng quả là y biết cách giành chiến thắng. Sheridan là một cái tên giao kinh hoàng trong trái tim những người dân miền Nam. Lại còn một tay tên là Sherman ngày càng được nhắc đến thường xuyên hơn. Y đã nổi bật lên trong chiến dịch ở Tennessee và miền Tây, và càng ngày y càng khét tiếng là một kẻ địch kiên quyết và tàn nhẫn.
Tất nhiên, trong đám ấy, không ai so sánh được với tướng Lee. Lòng tin tưởng vào tướng Lee và quân đội vẫn còn mạnh cũng như niềm tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng vẫn chưa hề lung lay. Song chiến tranh kéo dài đã quá lâu. Đã có biết bao người chết, biết bao người bị thương hoặc trở thành tàn phế suốt đời, biết bao quả phụ, biết bao trẻ mồ côi. Và trước mắt vẫn còn một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, có nghĩa là còn nhiều tử sĩ, thương phế binh nữa, còn nhiều cô nhi, quả phụ nữa.
Tệ hại hơn nữa, một chút hoài nghi đối với những nhân vật cao cấp đã bắt đầu lan ra trong dân chúng. Nhiều tờ báo đã thẳng thừng tố cáo chính tổng thống Davis và cách điều hành chiến tranh của ông. Chia rẽ nảy ra trong nội bộ Nội các Liên bang với những bất đồng giữa tổng thống Davis và các tướng lĩnh. Đồng tiền sụt giá nhanh chóng. Quần áo, giày dép dành cho quân đội đều hiếm, đạn dược, thuốc men lại còn hiếm hơn. Ngành hỏa xa cần có toa mới để thay toa cũ và đường ray mới để thay những đoạn bị bọn Yankees bóc mất. Các vị tướng ngoài chiến trường kêu gào bổ sung quân, mà tân binh thì càng ngày càng khó tuyển mộ. Gay nhất là một số thống đốc bang, trong đó có thống đốc Brown của bang Georgia từ chối không chịu gửi dân binh và vũ khí của bang qua biên giới. Các bang có hàng nghìn người đủ tiêu chuẩn nhập ngũ khả dĩ tạo thành lực lượng bổ sung tối cần thiết cho quân đội Liên bang, nhưng chính phủ yêu cầu hoài vẫn vô ích.
Với đợt sụt giá mới của đồng tiền, giá cả lại tăng vọt lên. Thịt bò, thịt lợn và bơ giá ba mươi lăm đô la một pound, bột mì một nghìn bốn trăm đô la một thùng, soda một trăm đô la một pound, trà năm trăm đô là một pound. Quần áo ấm, nếu có kiếm được thì cũng phải mua với giá cắt cổ đến nỗi phụ nữ Atlanta đành phải lót các áo cũ bằng giẻ và đệm thêm báo ở giữa để chắn gió. Giầy thì hai trăm đến tám trăm đô là một đôi, tùy theo bằng cáctông hay bằng da thật. Các bà, các cô giờ đều đi ghệt làm bằng khăn san len cũ hoặc bằng thảm. Giày dép thì đế toàn bằng gỗ.
Sự thật là miền Bắc hầu như đang hãm miền Nam trong tình trạng bị bao vây, mặc dầu nhiều người chưa ý thức được điều ấy. Các pháo hạm Yankees đã xiết chặt thêm hàng rào phong tỏa ở các cảng và giờ đây rất ít tàu lọt qua được mạng lưới đó.
Xưa nay, miền Nam vẫn sống bằng cách bán bông và mua những thứ mình không sản xuất, nhưng giờ đây thì cả mua lẫn bán đều không được. Ở ấp Tara ông Gerald O’Hara chất toàn bộ số bông thu hoạch trong ba năm vào cái lán gần hầm rượu, mà chẳng mang lợi lộc gì. Giá ở Liverpool thì chỗ đó đã bán được một trăm năm mươi nghìn đô la, nhưng chẳng có hi vọng gì đưa được sang Liverpool. Từ chỗ là một người giàu có, ông Gerald sa sút xuống tới mức phải tự hỏi làm sao có thể nuôi sống gia đình cùng đám đầy tớ da đen qua mùa đông.
Khắp miền Nam, phần lớn điền chủ trồng bông đều ở trong tình trạng bế tắc như vậy. Với sự phong tỏa ngày càng xiết chặt, miền Nam không có cách nào để bán bông trên thị trường Anh, không có cách nào để nhập những nhu yếu phẩm mà những năm trước vẫn mua được bằng tiền bán bông. Và miền Nam nông nghiệp đánh nhau với miền Bắc công nghiệp đang cần biết bao nhiêu thứ, những thứ mà họ không bao giờ nghĩ đến chuyện mua trữ trong thời bình.
Đó là tình hình lý tưởng đối với bọn đầu cơ trục lợi và loại người đục nước béo cò thì không thiếu. Cùng với cái ăn, cái mặc ngày càng khan hiếm và giá cả ngày càng cao, sự phản đối của dân chúng đối với bọn đầu cơ ngày càng mạnh mẽ và gay gắt. Trong những ngày đầu 1864 này, không một tờ báo nào không có những bài xa luận cay độc tố cáo bọn đầu cơ là những con kền kền rỉa xác, những con đỉa hút máu và kêu gọi chính phủ thẳng tay trừng trị chúng. Chính phủ làm hết sức mình, những những cố gắng đó không đi đến đâu bởi vì chính phủ đang phải đương đầu với bao vấn đề phức tạp.
Trong đám này không ai bị căm ghét hơn Rhett Butler. Chàng đã bán các tàu của mình khi việc vượt rào phong tỏa trở nên quá nguy hiểm và giờ đây changfc ông khai lao vào đầu cơ lương thực. Những chuyện xung quanh chàng, từ Richmond và Wilmington đồn đại về Atlanta, khiến cho những người trước kia đã tiếp chàng, giờ uất lên vì xấu hổ.
Bất chấp những thử thách khổ cực ấy, dân số mười ngàn người của Atlanta đã tăng lên gấp đôi trong chiến tranh. Thậm chí, sự phong tỏa còn làm tăng thêm uy tín cho Atlanta. Từ ngàn xưa, các thành phố ven biển vẫn nổi trội nhất ở miền Nam, về thương mại cũng như về các mặt khác. Nhưng hiện giờ, với các hải cảng bị đóng và nhiều thành phố cảng bị chiếm hoặc bao vây, miền Nam phải dựa vào sức mình để tự cứu. Nếu muốn thắng trong cuộc chiến này, miền Nam phải trông vào nội địa, và giờ đây Atlanta trở thành trung tâm chính. Nhân dân ở đây đang chịu đựng gian khổ, thiếu thốn, tật bệnh và chết chóc như tất cả các nơi khác thuộc Liên bang; nhưng, với tư cách là thành phố, Atlanta được lợi nhiều hơn thua thiệt nhờ chiến tranh. Atlanta, trái tim của Liên bang, vẫn đập đều đặn, mạnh mẽ, những tuyến-đường-sắt-huyết-quản của nó vẫn không ngừng chộn rộn những dòng bất tận binh sĩ, súng ống đạn dược và hàng tiếp tế.
Giá vào thời kì khác, thì hẳn Scarlett đã cảm thấy chua sót về những chiếc áo sờn rách và những đôi giày vá víu của mình, nhưng giờ đây, nàng bất cần, vì con người duy nhất đáng kể không có mặt ở đây để thấy nàng. Trong hai tháng ấy, nàng đã sung sướng như bao năm chưa từng được sung sướng đến thế. Chẳng phải nàng đã cảm thấy tim Ashley giật thót lên khi nàng quàng tay ôm cổ chàng đó sao? Chẳng phải nàng đã thấy trên mặt chàng cái vẻ tuyệt vọng nó còn hùng hồn hơn bất cứ lời thú nhận nào? Chàng yêu nàng. Giờ đây, nàng chắc chắn thế và niềm xác tín đó khiến nàng vui thích đến nối nàng có thể ân cần hơn đối với Melanie. Giờ đây, nàng có thể ái ngại cho Melanie, một nỗi ái ngại pha chút khinh bỉ đối với sự mù quáng, ngu ngốc của cô ta.
“Khi chiến tranh chấm dứt”, nàng nghĩ thầm. “Khi nó chấm dứt thì…”
Đôi khi, nàng thấy nhói lên một thoáng lo sợ: “Rồi thì sao?” Song nàng xua đuổi ý nghĩ đó đi. Khi chiến tranh kết thúc, mọi sự sẽ đâu vào đấy, cách nào đó. Nếu Ashley yêu nàng, chàng ắt không thể tiếp tục sống với Melanie nữa, đơn giản thế thôi.
Nhưng không thể nghĩ đến chuyện ly dị được. Với lại, là những người Cơ đốc kiên định, bà Ellen và ông Gerald ắt không đời nào cho phép nàng lấy một người đàn ông ly dị vợ. Nếu vậy, có nghĩa là phải ly khái Giáo hội! Scarlett ngẫm ngợi và quyết định là nếu phải chọn giữa Nhà thờ và Ashley, nàng sẽ chọn Ashley. Nhưng ôi, điều đó hẳn sẽ gây thị phi rất lớn. Những người ly dị không những bị Nhà thờ rút phép thông công, mà còn bị xã hội tẩy chay nữa. Không một người ly dị nào được tiếp trong giới xã giao. Nhưng với Ashley, thậm chí cả điều đó nàng cũng giám. Nàng sẵn sàng hy sinh bất cứ cái gì vì Ashley.
Cách nào đó, khi chiến tranh kết thúc, mọi sự sẽ ổn thôi. Nếu Ashley yêu nàng đến thế, chàng ắt tìm ra lối thoát. Nàng sẽ làm cho chàng tìm ra. Và càng ngày nàng càng đinh ninh rằng Ashley hết lòng yêu nàng, càng tin chắc rằng chàng sẽ thu xếp mọi chuyện đâu vào đấy khi bọn Yankees bị đánh bại hẳn. Cố nhiên, chàng đã nói là bọn Yankees “nắm” gọn chúng ta, nhưng Scarlett nghĩ đó chỉ là một ý tào lao thôi. Chàng đã nói vậy trong lúc mệt mỏi và rối trí. Nhưng nàng chẳng quan tâm mấy đến chuyện bọn Yankees thắng hay bại. Điều quan trong là sao cho chiến tranh mau chấm dứt để Ashley trở về.
Thế rồi, giữa lúc mưa tuyết tháng Ba hãm mọi người trong nhà, thì cái đòn gớm ghiếc giáng xuống. Mắt long lanh vui sướng, đầu cúi xuống bối rối nhưng hãnh diện, Melanie báo cho nàng biết là cô ta sắp có con.
- Bác sỹ Meade bảo là đến cuối tháng Tám hoặc sang tháng Chín thì ở cữ. – Melanie nói,
- Em đã đoán… nhưng mãi đến hôm nay, em mới chắc. Ôi Scarlett, tuyệt không? Em đã ghen với chị về bé Wade và thèm một đứa con nhỏ biết mấy. Và em đã rất sợ là khéo mình không có khả năng ấy, mà cưng ơi, em lại muốn có đến một tá!
Scarlett đang chải đầu, chuẩn bị đi ngủ khi Melanie đến nói chuyện ấy, và nàng dừng phắt, chiếc lược giơ lên nửa chừng.
- Lạy Chúa! – Nàng nói và trong một lúc, chưa hiểu hết ý nghĩa của điều đó. Rồi đùng một cái, vụt hiện lên trong trí nhớ nàng cánh cửa đóng kín chửa phòng ngủ Melanie và một nỗi đau như mũi dao, xuyên suốt lòng nàng, một nỗi đau cuồng dại như thể Ashley là chồng nàng và đã phụ tình nàng vây. Một đứa con nhỏ. Con của Ashley? Ôi, sao lại có thể thế, khi mà chàng yêu nàng chứ không phải yêu Melanie?
- Em biết là chị ngạc nhiên. – Melanie hổn hển nói tiếp. – Có phải là quá tuyệt vời không nhỉ? Ôi, Scarlett, em không biết sẽ viết cho Ashley như thế nào đây! Nếu có thể nói miệng với anh ấy, hoặc… hoặc… chà, hoặc chẳng nói gì sất và cứ để anh ấy dần dà nhận thấy, thì đỡ bối rối hơn, chị thấy không?
- Lạy Chúa! – Scarlett nói, gần như nấc lên, đánh rơi cái lược và đưa tay bám vào mặt đá hoa của bàn trang điểm để khỏi ngã.
- Chị thân yêu, đừng mang bộ mặt như thế! Chị biết là có mang đâu đến nỗi dễ sợ thế. Chính chị cũng nói vậy mà. Chị không nên lo cho em. Chị quá tốt nên mới cuống lên thế. Tất nhiên, bác sỹ Meade bảo là em… em… (Melanie đỏ bừng mặt) rất hẹp, nhưng có thể cũng sẽ không gay đâu và… này, chị Scarlett, hồi chị biết mình mang thai Wade, chị có viết thư cho anh Charlie không, hay bác gái hoặc bác trai O’Hara viết thay cho chị? Ôi, lạy Chúa, giá em có mẹ để làm giúp em việc này. Em thật không biết thế nào…
- Im đi! – Scarlett nói, dữ dội. – Im đi!
- Ôi! Scarlett, em thật ngốc! Em xin lỗi. Hình như tất cả những người sung sướng đều ích kỷ thì phải. Em quên bẵng mất về chuyện anh Charlie…
- Im đi! – Scarlett lại nói, cố gắng để giữ vẻ mặt bình thản và nén xúc động. Không, không bao giờ được để cho Melanie biết, hoặc thậm chí ngờ ngợ, tình cảm của mình như thế nào.
Melanie, con người phụ nữ tế nhị bậc nhất, rưng rưng nước mặt vì sự tàn ác của bản thân mình. Làm sao nàng lại có thể kéo Scarlett trở lại với cái hồi ức ghê gớm là bé Wade ra đời vài tháng sau khi Charlie mất? Làm sao nàng lại có thể vô ý vô tứ đến thế?
- Để em giúp chị thay đồ ngủ, chị thân yêu, - nàng khẩn khoản. – Và em sẽ bóp đầu cho chị.
- Để cho tôi yên, - Scarlett nói, mặt rắn đanh. Và Melanie òa khóc những giọt nước mắt tự kết tội, chạy khỏi phòng, để lại Scarlett với niềm kiêu hãnh bị tổn thương, và thất vọng, và ghen tuông. Nàng gieo mình xuống giường, không một giọt nước mắt.
Nàng nghĩ mình không thể tiếp tục sống trong cùng một nhà với người đàn bà mang đứa con của Ashley trong bụng. Nàng phải về ấp Tara thôi, về cái ngôi nhà của mình ở đó. Nàng thấy mình không thể giáp mặt lại Melanie mà không lộ tâm tư thầm kín của mình ra nét mặt. Và sáng hôm sau, nàng trở dậy với quyết tâm chuẩn bị hòm xiểng ngay sau bữa điểm tâm. Nhưng vừa ngồi vào bàn, mỗi người một bộ dạng – Scarlett lầm lầm, chẳng nói chẳng rằng, bà Pitty bối rối và Melanie ân hận khổ não – thì một bức điện tín đến.
Đó là điện của Mose, người hầu của Ashley, gửi Melanie:
“Đã tìm khắp nơi, không thấy cậu. Có cần phải về nhà không?”
Chẳng ai hiểu ý nghĩa là gì, nhưng cả ba người đàn bà đều kinh hãi giương mắt nhìn nhau và Scarlett quên hết mọi ý định trở về nhà. Bở dở bữa điểm tâm, họ lên xe ngựa vào thành phố để đánh điện cho vị đại tá chỉ huy Ashley, nhưng họ vừa bước vào sở bưu chính thì đã có một bức điện tín của ông ở đấy rồi: “Rất tiếc báo bà biết thiếu tá Wilkes mất tích trong chuyến trinh sát cách đây ba hôm. Sẽ báo tin thêm.”
Cuộc hành trình trở về nhà thật kinh khủng: bà cô Pitty úp mặt vào khăn tay khóc rấm rứt, Melanie ngồi ngay như tượng và Scarlett đờ đẫn rụng xuống trong góc xe. Vừa về đến nhà, Scarlett liền lật đật lên gác, về phòng riêng và vớ lấy chuỗi hạt trên bàn, quỳ thụp xuống, bắt đầu cầu nguyện. Song, nàng không nghĩ ra điều gì để cầu xin. Trong nàng, chỉ có một nỗi sợ trống hoác như vực thẳm, một láng máng nhận thức rằng Thượng đế đã ngoảnh mặt đi vì tội lỗi của nàng. Nàng đã yêu một người đàn ông có vợ và tìm cách cướp chàng khỏi tay người vợ, và Thượng đế đã trừng phạt nàng bằng cách giết chàng. Nàng muốn cầu nguyện nhưng nàng không thể ngước mắt lên Trời! Nàng muốn khóc, nhưng nước mắt không chảy ra. Dường như nước mắt ngập tràn ngực nàng, những giọt nước mắt nóng bỏng nhưng không chịu chảy ra.
Cửa mở và Melanie bước vào. Mặt nàng như một hình trái tim cắt bằng giấy trắng, đóng khung giữa mái tóc đen, mắt thao láo như mắt một đứa trẻ khiếp đảm lạc trong đêm tối.
- Scarlett, - nàng chìa tay ra nói. – Chị tha thứ cho em về những điều em nói hôm qua, vì bây giờ, chị… em chỉ còn có chị trên đời. Ôi, Scarlett, em biết Ashley thân yêu của em đã chết rồi!
Không hiểu như thế nào mà nàng đã ở trong tay Scarlett, bộ ngực nhỏ thổn thức, và không hiểu như thế nào, họ lại nằm trên giường, ôm ghì lấy nhau và Scarlett cũng khóc, mặt áp vào mặt Melanie, nước mắt người nọ làm ướt mà người kia. Khóc vậy đành nhẽ là đau ghê gớm, nhưng còn đỡ hơn là không khóc đươc. Ashley chết… chết rồi, nàng tự nhủ, và mình đã giết chàng bằng cách yêu chàng! Nàng lại naacsleen và Melanie tìm thấy trong nước mắt một niềm an ủi nào đó, càng ôm ghì lấy cổ nàng:
- Chí ít, - Melanie thì thầm, - chí ít… em cũng còn có con của anh ấy.
“Còn mình”, Scarlett nghĩ thầm, giờ đây quá tê tái không còn bụng dạ nào cho thói ghen nhỏ mọn, “ mình chẳng có gì… chẳng có gì… chẳng có gì ngoài cái vẻ mặt chàng khi chàng chào tạm biệt mình.”
Những báo cáo đầu tiên ghi là: “Mất tích – coi như bị giết” và trên danh sách thương vong cũng ghi như thế. Melanie đánh điện cho đại tá Sloan hàng chục lần và cuối cùng, nhận được một bức thư đầy thông cảm, cho biết rằng Ashley cùng một tốp kỵ sỹ đi trinh sát và không trở về. Tin báo về là đã có một cuộc đụng độ nhỏ bên trong phòng tuyến Yankees và Mose đau đớn điên cuồng, đã liều chết đi tìm xác Ashley, nhưng không thấy gì. Melanie, giờ đây bình tĩnh lạ lùng, đánh điện tín, kèm ngân phiếu, gọi anh ta về nhà.
Khi danh sách thương vong báo lại rằng Ashley “coi như bị bắt”, thì ngôi nhà buồn bã lại khấp khởi hy vọng. Thật khó kéo được Melanie ra khỏi sở bưu chính và chuyến tàu nào, nàng cũng ra đón, hy vọng có thư. Thời kỳ này, nàng ốm yếu luôn, tình trạng thai nghén biểu hiện bằng nhiều triệu chứng khó chịu, nhưng nàng không chịu nằm yên trên giường theo lời căn dặn của bác sĩ Meade. Một năng lượng cuồng nhiệt ốp vào nàng, không để cho nàng yên. Ban đêm, hồi lâu sau khi lên giường nằm, Scarlett vẫn nghe thấy tiếng chân nàng đi lại trên sàn buồng bên cạnh.
Một buổi chiều, bác Peter hốt hoảng đánh xe đưa nàng từ trên phố về và
Rhett
Butler
dìu nàng vào nhà. Nàng đã ngất tại sở bưu chính và Rhett, đi ngang qua thấy mọi người nhốn nháo, đã tháp tùng nàng về nhà. Chàng bế nàng lên phòng ngủ trên gác và trong khi cả nhà hốt hoảng chạy ngược chạy xuôi kiếm gạch hơ nóng, chăn mền và rượu whisky, thì chàng kê gối đặt nàng lên giường.
- Bà Wilkes, - chàng hỏi độp một cái, - bà sắp sinh cháu, phải không”
Nếu Melanie không bị ngây ngất chóng mặt như thế, tim không chao đảo như thế, thì hẳn câu hỏi đó đã làm nàng quỵ ngã rồi. Ngay cả với bạn gái, nàng cũng thấy bối rối mỗi khi có ai nhắc đến tình trạng thai nghén của nàng và mỗi lần đến khám ở chỗ bác sĩ Meade, là cả một cực hình. Còn đối với nam giới nhất là với Rhett Butler, thì quả lạ nàng không bao giờ nghĩ là họ có thể hỏi một câu như thế. Nhưng giờ đây, nằm lả đi trên giường, nàng chỉ còn biết gật đầu. Sau cái gật đầu ấy, vấn đề xem ra không đến nỗi đáng sợ đến thế nữa, vì Rhett tỏ ra rất an cần, rất quan tâm.
- Vậy bà phải chăm lo bản thân cẩn thận. Cứ chạy quanh và lo lắng suốt thế này chả có lợi gì cho bàn, mà còn có thể hại cho đứa bé. Bà Wilkes, nếu bà cho phép, tôi sẽ sử dụng chút ảnh hưởng của mình ở
Washington
để hỏi tin về ông nhà. Nếu ông bị bắt làm tù binh, thì sẽ có trong danh sách của Hợp Chủng Quốc, nếu không... ờ, chẳng có gì khổ bằng thắc thỏm. Nhưng bà phải hứa với tôi đã. Bà hay chăm lo bản thân, nếu không, thề trước Chúa, tôi sẽ không đụng đậy một ngón tay.
- Ôi, ông thật tốt, - Melanie kêu lên. – Làm sao người ta có thể nói về ông những điều ghê gớm thế?
Rồi chợt biết là mình vô ý vô tứ và khiếp hãi thấy mình lại đi bàn với một người đàn ông về tình trạng thai nghén của mình, nàng lại bắt đầu khóc yếu ớt. Và, khi chạy như bay lên cầu thang, với một hòn gạch hơ nóng bọc trong một miếng vải flannel, Scarlett thấy Rhett đang vỗ vỗ vào tay Melanie.
Rhett đã giữ lời hứa. Ba cô cháu không biết chàng đã giật sợi dây nào, nhưng không dám hỏi, sợ có thể khiến chàng thừa nhận là có quan hệ mật thiết với bọn Yankees. Phải một tháng sau chàng mới được tin và tin đó thoạt đầu khiến họ vui mừng khôn siết, nhưng sau đó lại gây một nỗi lo âu gặm nhấm con tim họ.
Ashley không chết! Chàng đã bị thương và bị bắt làm tù binh. Hồ sơ cho biết chàng hiện đang ở Đảo Đá, một trại tù binh ở bang
Illinois
. Trong cơn mừng rỡ lúc đầu, ba cô cháu không nghĩ đến điều gì khác ngoài việc chàng còn sống. Nhưng khi bình tĩnh trở lại, họ nhìn nhau và nói: “Đảo Đá!” với cái giọng khiếp hãi như nói hai tiếng “Địa ngục!”. Vì, cũng như cái tên
Andersonville (thành phố thuộc bang Georgia, nơi tập trung tù binh K- của miền Nam) khiến người miền Bắc rùng mình, cái tên Đảo Đá bao giờ cũng gieo kinh hoàng trong tim bất kỳ người miền Nam nào có họ hàng thân thích bị giam giữ tại đó.
Khi Lincoln từ chối việc trao đổi tù binh vì tin rằng việc bắt Liên bang phải chịu gánh nặng nuôi, giữ tù binh Hợp Chủng Quốc sẽ đẩy nhanh chiến tranh đến chỗ kết thúc, thì ở Andersonville, bang Georgia, có hàng nghìn lính vận quân phục xanh. Quân đội Liên bang hưởng khẩu phần
rất còm cõi và hầu như không có thuốc men, bông băng cho thương bệnh binh, nên chẳng có mấy tí san sẻ cho tù bình. Người ta nuôi tù bình bằng những gì chiến sĩ ăn ngoài mặt trận, gồm mỡ và đậu khô và với chế độ dinh dưỡng như vậy, tù binh Yankees chết như ruồi, đôi khi cả trăm tên một ngày. Phẫn nộ vì những tin tức về tình hình đó, miền Bắc bèn áp dụng những biện pháp đối xử tàn tệ hơn với tù binh Liên bang và không có nơi bào, họ bị ngược đãi hơn ở Đảo Đá. Ăn uống thiếu thốn, ba người chung nhau một tấm mền, các chứng bệnh đậu màu, sưng phổi và thương hàn hoành hành dữ dội, khiến nơi này được mệnh danh là “ổ dịch”. Ba phần tư số tù binh ở đây không bao giờ sống sót trở về.
Và Ashley đang ở cái nơi khủng khiếp ấy! Ashley còn sống nhưng chàng bị thương ở Đảo Đá. Ở Illinois, lúc chàng được đưa tới đó, chắc tuyết đang rơi dày lắm. Từ lúc Rhett được biết tin chàng đến nay, liệu chàng có thể chết vì vết thương không? Liệu chàng có thành nạn nhân của bệnh đậu mùa? Liệu chàng có đang mê man trong cơn sốt sưng phổi mà chẳng có chăn đắp?
Ôi, thuyền trưởng, liệu có cách nào… Ông có thể dùng ảnh hưởng của ông để can thiệp cho nhà tôi được trao đổi không? – Melanie kêu lên.
- Ông Lincoln, con người nhân từ và chính trực, đã giỏ những giọt nước mắt lớn khóc năm con trai của bà Bisby, nhưng không thừa nước mắt đề khóc thương hàng nghìn người Yankees đang hấp hối ở Andersonville, - Rhett bĩu môi nói. Họ có chết hết, ông cũng chẳng cần. Lệnh đã ban bố. Không có trao đổi gì hết. Tôi.. bà Wilkes, tôi đã không nói trước với bà điều này: chồng bà đã có một cơ hội để được ra khỏi trại, nhưng ông đã từ chối.
- Ôi, không có lẽ! – Melanie thốt lên, không tin.
- Phải, đúng vậy đấy. Bọn Yankees lấy người phục vụ biên giới để đánh bọn Anh-điêng, tuyển mộ trong số tù bình Liên bang. Mọi tù binh bằng lòng tuyên thệ phục tùng và đăng lính đi dẹp bọn Anh-điêng trong thời hạn hai năm, đuề được thả và phải đến miền Tây. Ông Wilkes đã từ chối.
- Ôi, làm sao anh ấy lại có thể thế nhỉ? – Scarlett kêu lên. – Tại sao anh ấy không tuyên thệ, rồi đào ngũ trốn về nhà ngay sau khi được thả?
Melanie quay sang nàng, dữ dội như một như thần tóc rắn.
- Làm sao chị có thể nêu lên một ý kiến như thế: Phản bội Liên bang bằng lời tuyên thệ đê mạt ấy, rồi sau đó lại phản lại lời hứa với bọn Yankees! Em thà biết anh ấy chết ở Đảo Đá còn hơn nghe tin anh ấy tuyên thệ như vậy. Nếu anh ấy chết trong tù, em còn có thể tự hào về anh ấy. Nhưng nếu anh ấy làm điều đó, em sẽ không bao giờ nhìn mặt anh ấy nữa. Không bao giờ! Tất nhiên là anh ấy từ chối thôi.
Khi Scarlett tiễn Rhett ra cửa, nàng hỏi, vẻ bực dọc:
- Nếu là anh liệu anh có gia nhập quân đội Yankees để khỏi chết ở trại tù và sau đó tìm cách đào ngũ không?
- Dĩ nhiên là có, - Rhett nói, phô hàm răng dưới bộ ria.
- Vậy tại sao Ashley không làm thế?
- Ông ta là người quý phái. – Rhett nói và Scarlett tự hỏi làm sao lại có thể tải chừng ấy trâng tráo vô sỉ và miệt thị trong một từ tôn quý như vậy.
CHƯƠNG XVII
Tháng Năm năm 1864 đến – một tháng Năm khô nóng làm hoa héo từ khi chớm nụ - và quân Yankees dưới sự chỉ huy của tướng Sherman lại tiến đánh Georgia, ở phía trên Dalton, cách Atlanta một trăm dặm về phía tây bắc. Tin đồn rằng có giao chiến ác liệt ở gần biên giới Georgia – Tennessee. Quân Yankees tập trung để tấn công tuyến đường sắt miền Tây và Đại Tây Dương, tuyến đường nối liền Atlanta với Tennessee và miền Tây, chính cái tuyến đường trên đó quân đội miền Nam đã được cấp tốc chở ra mặt trận hồi mùa thu năm ngoái để giành chiến thắng
Chickamauga. Nhưng về đại thể,
Atlanta
không lo lắm về triển vọng chiến sự xảy ra ở gần
Dalton
. Nơi quân Yankees tập trung chỉ cách chiến trường
Chickamauga
mấy dặm về phía đông nam, chúng đã từng bị đánh lui khi chúng tìm cách đột phá qua các đèo của vùng này và chúng sẽ bị đánh lui một lần nữa.
Atlanta
và cả bang hiểu rằng tầm quan trọng sống còn của
Georgia
đối với Liên bang không cho phép tướng Joe Johnston để cho bọn Yankee ở lại lâu bên trong biên giới của bang. Lão tướng Joe cùng đạo quân của ông thậm chí sẽ không để một tên Yankees nào xuống phía nam của
Dalton
, vì rất nhiều điều phụ thuộc vào việc duy trì hoạt động bình thường của
Georgia
. Cái bang còn nguyên vẹn chưa bị tàn phá này là một vựa lúa lớn, một xưởng máy và một nhà kho cho Liên bang. Nó sản xuất rất nhiều vũ khí và thuốc súng cho quân đội sử dụng và phần lớn hàng bông, hàng len. Nằm giữa
Atlanta
và
Dalton
là thành phố
Rome
với xưởng đúc đại bác cùng các ngành kỹ nghệ khác, là Etowah và Allatoona với những nhà máy thép lớn nhất ở phía nam
Richmond
. Và ở Atlanta không những chỉ tập trung các xí nghiệp sản xuất súng ngắn, yên ngựa, lều trại và đạn dược, mà còn có những nhà máy cán thép quy mô nhất ở miền Nam, những xưởng của các công ty hỏa xa chính và các bệnh viện lớn.
Atlanta
còn là đầu mối của bốn tuyến đường sắt quyết định sự sống còn của Liên bang.
Cho nên không ai lo ngại lắm. Nói cho cùng
Dalton
còn xa chán, mãi tít trên gần biên giới
Tennessee
. Ở
Tennessee
đã có đánh nhau từ ba năm nay và người ta đã quen nghĩ đó là một chiến trường xa, hầu như xa bằng
Virginia
hoặc sông
Mississippi
. Hơn nữa, lão tướng Joe cùng quân của ông trấn ở giữa bọn Yankees và Atlanta, và mọi người biết rằng, giờ đây khi Stonewall Jackson đã chết, thì sau tướng Lee, không còn vị tướng nào lỗi lạc hơn Johnston nữa.
Một buổi tối tháng Năm ấm áp, ngồi ở hàng hiên nhà bà cô Pitty, bác sỹ Meade đã tổng kết quan điểm của dân chúng về vấn đề này, khi ông nói rằng Atlanta không việc gì mà sợ, vì tướng Johnston đang sừng sững trên núi như một bức thành sắt. Đám cử tọa nghe ông với những xúc động khác nhau, vì những người ngồi đó trong ánh hoàng hôn dần tắt, lặng lẽ trên ghế đu, nhìn những con đom đóm đầu mùa bay lập lòe qua bóng tối nhập nhoạng, ai nấy đều mang nặng nhiều suy nghĩ trong tâm tư. Bà Meade, tay đặt lên cánh tay Phil, hi vọng là ông chồng mình có lý. Nếu chiến tranh sáp tới nữa, bà biết Phil sẽ phải lên đường. Bây giờ nó đã mười sáu và đang ở đội dân vệ. Fanny Elsing, mặt xanh xao và mắt trũng xuống từ sau trận Gettysburg đang cố gắng không nghĩ đến các hình ảnh đau đớn đã hằn sâu trong tâm trí cô từ mấy tháng qua: hình ảnh trung úy Dallas McLure hấp hối trên một chiếc xe bò lọc cọc đi trong mưa trên đường rút lui dài dặc khủng khiếp về Maryland.
Cánh tay vô dụng của đại úy Carey Ashburn lại đau nhói, thêm vào đó, chàng ngán ngẩm nghĩ rằng việc tán tỉnh Scarlett đã đi đến chỗ bế tắc. Tình hình đã như thế từ khi có tin Ashley bị bắt, mặc dầu chàng không hề thấy ra mối liên quan giữa hai sự kiện. Cả Melanie và Scarlett cùng nghĩ đến Ashley, như tất cả những khi họ không mắc làm một nhiệm vụ khẩn cấp nào đó hoặc bất đắc dĩ phải tiếp chuyện ai. Scarlett xót xa, buồn bã nghĩ: “Chắc là chàng chết rồi, nếu không thì phải có tin chứ”. Còn Melanie thì vật lộn quần lên quật xuống với nỗi sợ qua những giờ khắc bất tận, không ngừng tự nhủ: “Nhất định chàng chưa chết. Nếu chàng chết rồi thì mình ắt đã biết… mình ắt đã linh cảm thấy”. Rhett Butler
ngồi ngả người trong bóng tối, đôi cẳng dài đi ủng sang trọng bắt chéo trễ nải, bộ mặt tỉnh khô không một biểu hiện. Trong vòng tay tràng, Wade ngủ ngon lành, bàn tay nhỏ xíu khư khư một chiếc chạc xương đòn của chim được cọ bóng. Scarlett bao giờ cũng cho phép Wade thức khuya khi Rhett đến chơi vì thằng bé nhút nhát này lại khoái chàng và lạ lùng thay, Rhett dường như cũng yêu Wade. Thường thường, sự có mặt của thằng bé làm rầy Scarlett, nhưng trong tay Rhett, nó lại rất ngoan. Còn bà cô Pitty thì sợ hãi cố nén một tiếng ợ vì con gà trống thịt cho bữa tối vừa già lại vừa dai ngoanh ngoách.
Sáng nay, bà cô Pitty đã tiếc rẻ đi đến quyết định hóa kiếp cho vị trưởng lão này trước khi ngài chết vì tuổi già và thương nhớ các cung tần mĩ nữ của mình đã bị ăn thịt từ lâu. Đã bao hôm nay, ngài ủ rũ đi quanh chuồng gà trống chán ngán không thiết gáy. Sau khi bác Peter vặn cổ ngài, bà cô Pitty cảm thấy lương tâm áy náy với ý nghĩ là mình đóng cửa ăn uống trong gia đình, trong khi bạn bà nhiều người hàng mấy tuần không biết đến mùi thịt gà, cho nên bà đề nghị mời khách đến ăn tối. Melanie giờ đây đã chửa năm tháng, từ nhiều tuần nay không dám ra nơi công cộng hoặc tiếp khách, nên nàng thất kinh khi nghe bà nêu ý ấy. Nhưng, riêng lần này, bà cô tỏ ra kiên quyết. Ăn mảnh con gà trống này thì thật ích kỷ, nếu Melanie kéo cái vành váy trên cùng lên cao một chút nữa, sẽ không ai nhận thấy gì, với lại, ngực Melanie lép kẹp ấy mà, lo gì.
- Ôi, nhưng cô ơi, cháu không muốn gặp ai trong khi Ashley…
- Đâu có phải như là Ashley đã… đã mất, bà cô Pitty nói giọng run run, vì trong thâm thâm, bà tin chắc Ashley đã chết. Ashley vẫn sống rành rành như cháu, mà có bầu có bạn thì tốt cho cháu chứ sao. Cô sẽ mời cả Fanny Elsing nữa. bà Elsing đã xin cô động viên Fanny giúp, tạo điều kiện cho nó gặp mọi người…
- Chà cô, nhưng thật tàn nhẫn, ai lại đi ép cô ấy, khi mà
Dallas
tội nghiệp vừa mới chết…
- Này Melly, cô sẽ khóc bây giờ, nếu cháu cứ cãi, làm cô phật ý. Hình như cô là cô của cháu, cô biết cô muốn gì chứ. Và cô muốn một bữa liên hoan.
Thế là bà cô Pitty mở tiệc liên hoan và phút cuối cùng, một người khách bà không chờ đợi và càng không muốn, chợt tới. Đúng lúc mùi gà quay tỏa đầy nhà thì Rhett Butler, từ một trong những chuyến đi bí ẩn của chàng trở về, gõ cửa với một hộp kẹo lớn gói bằng giấy đăng-ten cặp nách và miệng đầy những lời ca ngợi bà, những lòi lẽ hai mặt hiểu thế nào cũng được. Không còn cách nào khác ngoài việc mời chàng ở lại, mặc dầu bà cô Pitty biết vợ chồng ông bác sỹ Meade nghĩ thế nào về chàng và Fanny ghét cay ghét đắng bất cứ người đàn ông nào không mang quân phục. Nếu ở ngoài phố, ắt chẳng người nào thuộc gia đình Meade hoặc Elsing thèm nói với chàng, nhưng trong nhà một người bạn, tất nhiên, họ phải giữ phép lịch sự với chàng. Vả lại, giờ đây hơn bao giờ hết, chàng được sự bảo trợ của nàng Melanie mảnh dẻ yếu ớt. Sau khi chàng can thiệp để dò hỏi tin tức của Ashley cho nàng, nàng đã thông báo công khai rằng cửa nhà nàng bao giờ cũng rộng mở đón chàng chừng nào chàng còn sống và bất luận những người khác nói gì về chàng.
Những lo ngại của bà cô Pitty lắng xuống khi bà thấy Rhett đang trong lúc cư xử dễ chịu nhất. Chàng săn đón chiều chuộng Fanny với niềm tôn trọng thông cảm đến nỗi cuối cùng cô cũng phải mỉm cười với chàng và bữa ăn diễn ra tốt đẹp. Đó là một bữa tiệc ông hoàng.
Carey Ashburn mang đến một ít trà tìm thấy trong túi đựng thuốc lá rơi của một tên tù binh Yankees trên đường tới
Andersonville
và mỗi người được một chén trà phảng phất mùi thuốc lá. Mỗi suất được một miếng thịt gà già dai ngoách với một lượng gia vị hậu hĩnh gồm ngô và hành, một bát đậu khô, khá nhiều gạo và nước xốt loãng vì thiếu bột. Đồ tráng miệng gồm một cái bánh khoai lang, tiếp theo là hộp kẹo của Rhett. Và khi Rhett đưa xì gà
Havana
thứ thiệt ra mời các ông thưởng thức cùng với rượu vang dâu, thì ai nấy đều nhất trí đây là một bữa tiệc xứng đáng với Lucius (Lucius Licinius Lucullus, một viên tướng La Mã hồi thế kỷ I trước công nguyên, nổi tiếng sành ăn)
.
Khi các ông ra tụ với các bà ở hàng hiên trước, câu chuyện bèn chuyển sang đề tài chiến tranh. Chuyện trò bây giờ chỉ xoay quanh chiến tranh, bất cứ đề tài gì cũng xuất phát từ chiến tranh hoặc quay trở về với chiến tranh – lúc buồn, lúc vui, nhưng bao giờ cũng dính dáng đến chiến tranh. Những chuyện tình trong chiến tranh, những đám cưới trong chiến tranh, những cái chết trong bệnh viện và trên chiến trường, những việc xảy ra ở doanh trại, ngoài mặt trận, trên đường hành quân, sự dũng cảm, sự hèn nhát, vui, buồn, thiếu thốn và hi vọng. Bao giờ, bao giờ cũng hi vọng. Hi vọng kiên định, không lay chuyển, bất chấp những thất bại mùa hè năm ngoái.
Khi đại úy
Ashburn
thông báo là chàng đã làm đơn xin và được chấp nhận cho thuyên chuyển từ Atlanta đến đơn vị quân đội ở Dalton, phái nữ bèn hôn bằng mắt lên cánh tay cứng quèo của chàng và che giấu niềm xúc động tự hào của mình bằng cách tuyên bố đùa rằng họ không thể để cho chàng đi, vì nếu chàng đi thì biết lấy ai tháp tùng họ?
Chàng trai trẻ
Carey
coi bộ vừa ngượng vừa thích thú vì những lời tuyên bố như vậy từ miệng những bà có chồng đàng hoàng cũng như không chồng ở vậy như bà Meade và Melanie, như bà cô Pitty và Fanny. Chàng cố gắng hi vọng rằng Scarlett cũng thực sự nghĩ vậy.
- Chà, cậu ấy chả mấy chốc sẽ về thôi, ông bác sỹ nói, quàng một cánh tay lên vai Carey. Sẽ chỉ có một cuộc đụng độ ngắn và bọn Yankees sẽ tháo chạy toán loạn về
Tennessee
. Và khi chúng về tới đó, tướng
Forrest
sẽ liệu cho chúng. Các bà các cô khỏi cần phải hốt hoảng về việc bọn Yankees đến gần, vì tướng
Johnston
cùng đạo quân của ông đang trấn ở trên núi như một bức thành sắt vậy. Phải, một bức thành sắt – ông nhắc lại, tự khoái câu của chính mình –
Sherman
sẽ không thể qua được. Y không thể đánh bật lão tướng Joe.
Các bà mỉm cười tán đồng vì mỗi lời ông thốt ra đều được coi như một chân lý không thể phản bác. Nói cho cùng, những vấn đề này, đàn ông hiểu hơn phụ nữ nhiều và nếu ông đã nói tướng
Johnston
là một bức thành sắt thì ắt đúng là thế. Chỉ có Rhett lên tiếng. Chàng đã im lặng từ lúc dùng bữa và đã ngồi trong bóng tối nhập nhoạng nghe câu chuyện về chiến tranh, miệng trễ xuống, tay ẵm bé Wade ngủ gục trên vai.
- Tôi nghe tin đồn rằng, với số viện binh mới tới,
Sherman
hiện có trên mười vạn quân.
Ông bác sỹ gay gắt trả lời chàng. Từ lúc mới đến, thấy một trong những bạn cùng bàn ăn với mình là cái gã mà ông ghét thậm tệ ấy, ông đã hết sức khó chịu. Chỉ vì kính trọng bà Pittypat, lại là khách ở trong nhà bà, mà ông phải dằn lòng không để lộ rõ hơn mối ác cảm của mình.
- Thì sao, thưa ông? Bác sỹ xẵng giọng quặc lại.
- Tôi thấy cách đây một lúc đại úy
Ashburn
vừa nói với là tướng
Johnston
chỉ có khoảng bốn vạn quân, kể cả những người đào ngũ được khuyến khích trở lại dưới cờ sau chiến thắng vừa rồi.
- Thưa ông, bà Meade bất bình nói, trong quân đội Liên bang không có ai đào ngũ.
- Tôi xin bà thứ lỗi, Rhett nói với vẻ nhũn nhặn giả vờ. Tôi muốn nói đến cái số mấy ngàn người về phép rồi quên không trở lại trung đoàn và những người vết thương đã lành từ sáu tháng nay vẫn ở lại nhà làm công việc thông thường của họ hoặc cày vỡ cho vụ xuân.
Mắt chàng long lanh và bà Meade giận dữ cắn môi. Scarlett những muốn cười phá lên trước cái vẻ chưng hửng của bà vì Rhett làm bà cứng họng. Có hàng trăm người trốn trong các đầm lầy, trong núi, thách thức hiến binh bắt họ trở về quân đội. Họ là những người đã tuyên bố đây là “một cuộc chiến tranh của người giàu do người nghèo đánh thay” và họ xin đủ nó. Nhưng đông hơn đám này nhiều, là những người không có ý định đào ngũ vĩnh viễn, mặc dù bị gán cho hai chữ “đào ngũ” trong số nhân sự đại đội. Họ là những người đã hoài công chờ đợi ba năm vẫn không được nghỉ phép và trong thời gian chờ đợi ấy, đã nhận được những bức thư nhà đầy lỗi chính tả: “Ở đây đóy nắm”, “Lăm lay xã trẳng có mùa màng gì – trẳng có ai cầi bừa cả. Đóy to”, “Ban cuân nhu bắt hết nợn xữa, mấy tháng dồi không nhận được tiền của anh gửi. Cả nhà phải ăn đậu khô cầm hơi”.
Cái hợp xướng ấy mỗi lúc một tăng cường độ: “Chúng tôi đói – vợ anh, con anh, cha mẹ anh. Bao giờ mới chấm dứt? Bao giờ anh trở về? Chúng tôi đói, đói.”Khi có lệnh không cho nghỉ phép vì quân số hao hụt nhanh chóng, những người lính ấy tự động về nhà để cày ruộng và trồng lúa, mầu, chữa nhà và dựng hàng rào. Khi các sỹ quan chỉ huy trung đoàn, thông cảm tình hình ấy, thấy trước là sắp có một trận chiến gay go, họ viết thư cho những người lính đó yêu cầu trở về đại đội và hứa sẽ không hỏi han chất vấn gì cả. Thông thường, những người lính này trở về khi họ thấy gia đình có thể cầm chân cái đói thêm mấy tháng nữa. Những “đợt về phép cày ruộng” không bị coi giống như đào ngũ trước địch quân, song dù sao chúng cũng làm suy yếu quân đội.
Bác sỹ Meade vội lấp quãng ngừng lặng gượng gạo.
- Thuyền trưởng
Butler
, ông nói, giọng lạnh lùng, sự chênh lệch về số lượng giữa quân ta và quân Yankees không bao giờ là quan trọng. Một người lính Liên bang bằng một tá Yankees.
Các bà gật đầu. Điều đó, ai nấy đều biết.
- Điều đó đúng vào thời kỳ đầu chiến tranh, Rhett nói. Có thể cũng vẫn còn đúng, nếu người lính Liên bang có đạn cho súng của mình, có giày để đi và có cái ăn trong dạ dày. Thế nào, đại úy
Ashburn
?
Giọng chàng vẫn nhỏ nhẹ và đầy nhũn nhặn bề ngoài. Carey Ashburn nom thật khổ sở vì hiển nhiên là chính chàng cũng rất không ưa Rhett. Hẳn chàng sẽ sung sướng được đứng về phe ông bác sỹ, nhưng chàng không thể nói dối. Lý do khiến chàng xin thuyên chuyển ra mặt trận mặc dầu tay bị tàn phế, là vì chàng hiểu mức độ nghiêm trọng của tình hình, điều mà dân thường không nhận ra. Có nhiều người khác, tập tễnh trên chân gỗ hoặc mù một mắt, cụt mấy ngón tay hoặc cả cánh tay, cũng lặng lẽ rời ban hậu cần, bệnh viện, sở bữu điện và sở hỏa xa trở về những đơn vị chiến đấu cũ của mình. Họ biết lão tướng Joe đang cần tất cả mọi người.
Chàng không nói và bác sỹ Meade bình tĩnh gầm lên:
- Trước đây, các chiến sỹ của ta, chân không giày và bụng đói, vẫn chiến đấu và chiến thắng. Giờ đây họ sẽ lại chiến đấu và chiến thắng nữa! Tôi xin nói với ông: tướng
Johnston
không thể bị đánh bật! Từ ngàn xưa, núi rừng xưa nay vẫn là nơi nương náu và pháo đài kiên cố của nhân dân các nước bị xâm chiếm. Các vị thử nghĩ đến… nghĩ đến
Thermopylae
mà coi!
Scarlett nghĩ rất lung, nhưng
Thermopylae
chẳng có nghĩa gì đối với nàng.
- Ở
Thermopylae
, họ chết đến người cuối cùng, phải không, thưa bác sỹ? Rhett hỏi, môi bặm lại vì cố nín cười.
- Phải chăng đây là một lời lăng mạ, ông bạn trẻ?
- Thưa bác sỹ, tôi xin ông! Ông hiểu lầm tôi! Tôi chỉ hỏi cho biết mà thôi. Trí nhớ về cố sử của tôi rất tồi.
Nếu cần, quân ta sẽ chết đến người cuối cùng trước khi cho phép bọn Yankees tiến xa hơn vào
Georgia
, ông đốc tờ xẵng giọng. Nhưng sẽ không đến cái nước ấy. Chỉ một trân giao tranh nhỏ là họ sẽ đuổi chúng khỏi
Georgia
thôi.
Bà cô Pittypat vội đứng lên và yêu cầu Scarlett cho nghe một bản dương cầm chọn lọc và một ca khúc. Bà thấy cuộc trò chuyện đang nhanh chóng chuyển thành giông bão. Bà đã thừa biết tất sẽ có chuyện rắc rối khi có mặt anh ta. Loay hoay thế nào mà anh ta khới chuyện được, quả là bà không tài nào hiểu đích xác cho ra nhẽ. Chao, lạy Chúa! Không biết Scarlett thấy gì ở cái con người ấy nhỉ? Và làm sao mà Melly thân mến lại có thể bênh vực anh ta cho được?
Trong khi Scarlett ngoan ngoan đi vào phòng khách nhỏ, im lặng trùm lên hiên ngoài, một thứ im lặng đầy phẫn uất bực bội với Rhett. Làm sao lại có người không tin với tất cả trái tim và linh hồn vào tính bất khả chiến bại của tướng
Johnston
và binh sỹ của ông? Tin tưởng là bổn phận thiêng liêng. Và những kẻ phản phúc đến độ mất lòng tin thì chí ít cũng nên có liêm sỉ là ngậm mồm lại chứ!
Scarlett dạo vài hòa âm và giọng nàng vẳng ra từ phòng khách nhỏ, êm dịu, buồn buồn, qua lời một bài dân ca:
Trong căn phòng quét vôi trắng xóa.
La liệt người chết và hấp hối.
Mình đầy vết đạn và lưỡi lê.
Một hôm, người yêu ai đó được đưa vào.
Người yêu ai đó! Trẻ măng và dũng cảm!
Ôi gương mặt xanh sao hiền diu.
Chẳng bao lâu bụi lấp dưới mồ xanh.
Vẫn le lói vương nét duyên thời niên thiếu.
Những món tóc vàng đẫm bết mồ hôi.”
Giọng nữ cao run rẩy của Scarlett than vãn, và Fanny nhổm dậy nói bằng giọng nghẹn lại, yếu ớt:
- Đề nghị hát bài gì khác đi!
Tiếng piano im bắt đột ngột, Scarlett ngỡ ngàng và bồi rối. Rồi nàng lại chập dạo mấy phách đầu của bài “Chiếc áo choàng xám” và lại ngừng ở một nghịch âm vì chợt nhớ là bài này cũng rất não lòng. Tiếng piano lại tắt vì nàng hoàn toàn bí. Bài nào cũng dính dáng đến chết chóc, chia ly và đau khổ.
Rhett đứng phắt dậy, đặt Wade vào lòng Fanny và bước vào phòng khách nhỏ:
- Hãy chơi bài “Miền quê
Kentucky
xưa cũ của tôi
[52] [52] ” , chàng gợi ý và Scarlett làm theo ngay, đầy lòng biết ơn. Giọng nàng hòa cùng giọng trầm đẹp của Rhett, và khi họ hát sang đoạn hai, những người ngồi ngoài hiên thở phào thoải mái hơn, mặc dầu bài hát này cũng chẳng vui tươi gì lắm. Cực nhọc sắp qua rồi. Gánh nặng bao giờ vơi. Chẳng mấy nữa, lê gót phong trần ta trở lại. Ôi miền quê Kentucky xưa cũ của tôi! * * * * Lời tiên đoán của bác sỹ Meade tỏ ra đúng… trong chừng mực nào đó, quả là Johnston đã đứng vững như bức thành sắt trong vùng núi ở mé trên Dalton , cách Atlanta một trăm dặm. Ông trấn giữ vững vàng và quyết liệt ngăn chặn ý đố của Sherman định thọc qua thung lũng để tiến về Atlanta , đến nỗi cuối cùng bọn Yankees phải lui quân và họp bàn với nhau. Chúng không thể phá được phòng tuyến xám bằng cách tấn công trực diện, cho nên, lợi dụng đêm tối, chúng dàn thành hình vòng cung, tiến qua các đèo, hy vọng đánh tập hậu Johnston và cắt đứt tuyến đường sắt đằng sau ông tại Resaca dưới Dalton mười lăm dặm. Được tin những tuyến liên kết quý giá ấy bị đe dọa, quân đội Liên bang rời bỏ những chiến hào họ đã liều chết cố thủ và dưới ánh sao, cấp tốc hành quân đến Resaca bằng đường tắt. Khi bọn Yankees rùng rùng từ các đồi đổ xuống, quân miền Nam đã đợi sẵn chúng, nấp trong công sự, các khẩu đội trụ chắc ở vị trí, lưỡi lê lấp lánh như đã lấp lánh ở Dalton. Khi những thương binh được đưa từ Dalton về, kể bập bõm câu được câu chăng về việc lão tướng Joe rút quân về Resaca, dân Atlanta ngạc nhiên và hơi hoang mang. Như thể một đám mây đen nho nhỏ đã xuất hiện ở phía tây bắc, đám mây đầu tiên của một cơn dông mùa hạ. Không biết vị tướng nghĩ thế nào mà lại để bọn Yankees tiến sâu thêm mười tám dặm vào Georgia ? Những trái núi họp thành một pháo đài tự nhiên, như bác sỹ Meade nói. Tại sao lão tướng Joe không cầm chân bọn Yankees tại đó? Johnston chiến đấu quyết tử ở Resaca và lại đánh lui bọn Yankees lần nữa. Nhưng Sherman, vẫn sử dụng lối đánh thọc sườn, triển khai đạo quân đông đảo của y thành một vòng cung khác, vượt sông Oostanaula và lại đánh vào đường sắt ở sau lưng quân đội Liên bang. Một lần nữa, những đội quân áo xám lại phải nhanh chóng rời bỏ những đường hào đất đỏ để lui về bảo vệ đường sắt; và mất ngủ, kiệt lực vì hành quân và chiến đấu, và đói, bao giờ cũng đói, họ lại cấp tốc hành quân đổ xuôi thung lũng. Họ tới cái thị xã nhỏ Calhoun, dưới Resaca sáu dặm, trước bọn Yankees, đào công sự và lại sẵn sàng chiến đấu khi bọn Yankees tới. Giờ chiến đấu tới, và sau những cuộc đụng độ ác liệt, bọn Yankees bị đẩy lùi. Lính Liên bang mệt mỏi gục trên vũ khí, cầu sao được ngừng nghỉ một chút. Nhưng không hề có nghỉ ngơi gì cả. Sherman kiên quyết tiến, từng bước một, triển khai quân thành một vòng rộng khớp lấy họ, buộc họ phải rút lui bảo vệ đường sắt phía sau lưng. Quân Liên bang vừa đi vừa ngủ, quá mệt chẳng còn đầu óc nào mà nghĩ. Nhưng khi họ nghĩ thì họ một mực tin tưởng ở lão tướng Joe. Họ biết họ đang rút lui, nhưng họ biết họ không bị đánh bại. Họ chỉ thiếu người để giữ chốt và đồng thời làm bại chiến thuật vu hồi của Sherman . Họ có thể và thực tế đã đánh bại bọn Yankees mỗi khi chúng nghênh chiến. Cuộc rút lui này sẽ kết thúc như thế nào, họ không biết. Nhưng lão tướng Joe biết mình đang làm gì và họ thấy thế là đủ. Ông đã lãnh đạo cuộc rút lui với tài trí bậc thầy, vì họ chỉ mất có ít người, trong khi số quân Yankees bị giết và bị bắt sống lên rất cao. Họ không mất một xe tải nào, ngoài bốn khẩu đại bác. Và cũng không lần nào mất tuyến đường sắt đằng sau lưng. Sherman không đặt được một ngón tay lên hệ thống đường sắt mặc dầu mọi kế sách của y: tấn công trực diện, kỵ binh xung kích và đánh thọc sườn. Đường sắt! Nó vẫn còn là của họ, cái dải thép uốn khúc qua thung lũng về phía Atlanta . Những người lính nằm xuống ngủ ở chỗ họ có thể nhìn thấy những thanh đường ray lấp lánh yếu ớt dưới ánh sao. Những người lính nằm xuống chết và hình ảnh cuối cùng đọng lại trong đôi mắt ngỡ ngàng của họ là những thanh đường ray chói sáng dưới ánh mặt trời khốc liệt với hơi nóng bốc lên lung linh. Cùng rút lui theo họ xuống thung lũng, là cả một đạo quân bị nạn. Điền chủ và Cracker, người giàu và người nghèo, da đen và da trắng, phụ nữ và trẻ em, người già, người hấp hối, người tàn phế, người bị thương, đàn bà có mang sắp đến tháng đẻ, nườm nượp trên đường đến Atlanta bằng đủ mọi phương tiện: xe lửa, xe ngựa, xe bò chất đầy hòm xiểng và đồ gia dụng, trên lưng ngựa và đi bộ. Những người tị nạn đi trước đoàn quân rút lui năm dặm, họ dừng lại ở Resaca, ở Calhoun, ở Kingston, mỗi chặng dừng lại hy vọng nghe tin bọn Yankees bị đẩy lùi để họ có thể trở về nhà. Nhưng không có chuyện quay trở lại con đường đầy nắng ấy. Đoàn quân áo xám đi qua những đại sảnh trống không, những ấp trại vắng tanh, những lều gỗ trơ trọi cửa mở hé. Đây đó, một phụ nữ cô đơn ở lại với mấy người nô lệ thất đảm, họ chạy ra đường cái để hoan hô những người lính, mang những xô nước giếng cho toán quân khát khô cổ, băng bó những vết thương và chôn những tử sĩ ngay trong nghĩa trang gia đình nhà họ. Nhưng đại bộ phân thung lũng đều hoang phế và tiêu điều, mùa màng không ai chăm nom cháy khô trên cánh đồng. Một lần nữa bị thọc sườn ở Calhoun, Johnston lùi về ở Adairsville, giao chiến kịch liệt ở đó, rồi rút về Cassville, sau đó lại rút xuống phía Nam Cassville. Và giờ đây, quân địch đã tiến quá Dalton năm mươi lăm dặm. Ở New Hope Church (Nhà thờ Hy Vọng Mới), sâu thêm mười dặm trên con đường chiến đấu ác liệt, đoàn quân áo xám đào công sự cố thủ, quyết tâm trụ lại. Quân áo xanh đến trên đà tấn công ráo riết, như một con mãng xà tinh uốn khúc, phóng nọc độc, rụt những khúc bị thương lại, nhưng vẫn không ngừng bổ tới, bổ tới mãi. Chiến sự diễn ra quyết liệt ở New Hope Church, mười hai ngày đánh nhau liên tục, mỗi đợt tấn công của bọn Yankees, trả bằng giá máu, đều bị đánh bật ra. Rồi Johnston một lần nữa bị khuýp sườn, lại phải rút đoàn quân mỏng dần của mình lùi thêm mấy dặm nữa. Số thương vong của quân Liên bang ở New Hope Church lên khá cao. Từng đoàn tàu đổ thương binh ngập tràn Atlanta khiến thành phố thất kinh. Chưa bao giờ, ngay cả sau trận Chickamauga , thành phố này thấy nhiều thương binh đến thế. Các bệnh viện đầy ứ và thương bình phải nằm dưới sàn các cửa hiệu trống rỗng, trên những kiện bông trong các kho hàng. Mọi khách sạn, quán trọ và nhà riêng đều đầy thương bệnh binh. Bà Pitty cũng có phần, mặc dầu bà phản đối rằng trong khi Melanie đang ở một tình trạng rất cần gượng nhẹ, rất có thể đẻ non nếu nhìn thấy những cảnh đau đơn ghê rợn, mà chứa những người đàn ông lạ mặt trong nhà thì hết sức bất tiện. Nhưng Melanie kéo cao vành váy trên cùng lên cao một tí nữa để che cái thân hình ngày một sồ sề của mình và ngôi nhà gạch liền đầy thương binh. Thế là cứ liên miên nào là nấu nướng, nào là đỡ dậy, trở người và quạt cho họ, và hết giờ này sang giờ khác giặt giũ, cuộn lại băng cứu thương, tước xơ vải, và những đêm dài mất ngủ vì những tiếng mê sảng ở phòng bên. Cuối cùng, thành phố mắc kẹt không thể nhận thêm được nữa và số thương binh thừa ứ phải chuyển tới các bệnh viện ở Macon và Augusta . Với hàng loạt thương binh như thác lũ, mang những tin tức mâu thuẫn nhau và dòng người tị nạn ngày càng đông đổ về chật ních thành phố vốn đã chật, Atlanta nhốn nháo cả lên. Đám mây nhỏ phía chân trời đã nhanh chóng phình lên thành một đám mây dông lớn sầm trời và như phả ra một luồng gió thoảng nhẹ, ớn lạnh. Chưa ai mất tin tưởng ở sự bất khả chiến bại cảu quân đội, nhưng mọi người – chí ít là đám dân thường – mất tin tưởng ở tướng Johnston . New Hope Church chỉ cách Atlanta có ba mươi lăm dặm! Tướng Johnston đã để bọn Yankees đẩy mình lùi lại sáu mươi lăm dặm trong vòng có ba tuần! Tại sao ông không kìm giữ chân bọn Yankees lại, thay vì rút lui hoài. Ông ta thật điên và còn tệ hơn là điên nữa kia. Những tay kỳ cựu trong đội vệ binh địa phương và dân binh của bang, ngồi ấm chỗ an toàn ở Atlanta, một mực cả quyết rằng họ có thể điều hành chiến dịch tốt hơn và phác họa bản đồ lên khăn bàn để chứng minh luận điểm của mình. Khi quân số giảm xuống nữa và ông buộc phải lùi sâu thêm, vị tướng bèn khẩn thiết kêu gọi Thống đốc Brown bổ sung cho ông chính những người đó, nhưng quân đội của bang vẫn chắc chân không lo bị đụng tới. Dù sao, Thống đốc cũng đã từ chối yêu cầu xin quân của Jeff Davis. Lẽ nào bây giờ ông lại chấp thuận cho tướng Johnston ? Chiến đấu và rút lui! Chiến đấu và rút lui! Suốt hai mươi lăm ngày và trên bảy mươi lăm dặm, quân đội Liên bang đã chiến đấu hầu như thường nhật. New Hope Church giờ đây đã ở sau lưng đoàn quân áo xám, một hồi ức trong đám sương mù thác loạn những hồi ức tương tự, nóng, bụi, đói, mệt, rầm rập bước trên con đường đất đỏ hằn những vết bánh xe, ì oạp trong bùn đỏ quánh, rút lui, đào công sự, chiến đấu – rút lui, đào công sự, chiến đấu. New Hope Church là một ác mộng của một kiếp khác và Big Shanty cũng vậy - ở đây, họ quay lại đối đầu, đánh bọn Yankees như điên. Nhưng tha hồ đánh, đánh đến khi cánh đồng ngợp xanh những xác Yankees, bao giờ cũng vẫn có cái vòng xanh khủng khiếp ở phía đông nam khuýp vào tập hậu lực lượng Liên bang, hướng vào mục tiêu đường sắt và hướng tới Atlanta ! Từ Big Shanty, đoàn quân mệt mỏi mất ngủ rút lui theo con lộ tới núi Kennesaw, gần cái thị xã nhỏ Marietta , và ở đây họ triển khai thành hình vòng cung trên một tuyến dài mười dặm. Trên triền núi dốc đứng, họ đào hố chiến đấu và trên những đỉnh núi cao, họ đặt các khẩu đội pháo. Mồ hôi nhễ nhại, vừa chửi thề vừa kéo những khẩu pháo nặng lên những mỏm vực, vì la lừa không leo núi được. Liên lạc và thương binh về Atlanta đem những tin làm yên lòng những người dân thành phố hốt hoảng. Những cao điểm Kennesaw là không thể đánh chiếm được.Cả núi Cây Thông và núi Lạc ở gần đấy cũng vậy. Họ cũng đã xây công sự trên hai núi này. Bọn Yankees không thể đánh bật những người của lão tướng Joe và giờ đây chúng khó lòng mà thọc sườn họ vì các khẩu pháo trên đỉnh núi kiểm soát mọi con đường trên một bán kính mấy dặm. Atlanta thở phào nhẹ nhõm hơn, nhưng… Nhưng núi Kennesaw chỉ cách có hai mươi hai dặm! Vào cái ngày những thương binh đầu tiên ở núi Kennesaw được đưa về, chiếc xe ngựa của bà Merriwether đậu trước cửa nhà bà cô Pitty vào cái giờ sớm chưa từng thấy là bảy giờ sáng và bác da đen Levi nhắn người nhà lên báo Scarlett mặc quần áo ngay để đến bệnh viện. Fanny Elsing và chị em nhà Bonnell bị đánh thức từ sớm, đang ngáp ở ghế sau, trong khi bà vú già nhà Elsing lạu bạu ngồi cùng ghế xà ích, một rổ đầy băng cứu thương mới giặt ôm trong lòng. Scarlett đi một cách miễn cưỡng, vì đêm qua nàng đã nhảy đến gần sáng tại cuộc liên hoan của Vệ binh đại phương và chân còn mỏi nhừ. Nàng thầm rủa cái bà Merriwether rất tháo vát và không biết mêt, các thương binh và toàn Liên bang miền Nam, trong khi Prissy giúp nàng cài khuy chiếc áo dài diềm bâu cũ nhất và rách nhất nàng thường mặc để làm việc ở bệnh viện. Cố nuốt trôi món nước ngô rang đắng ngắt và khoai lang khô coi như bữa cà phê điểm tâm, nàng ra nhập bọn với các cô kia. Nàng đã chán ngấy cái công việc săn sóc thương binh này rồi. Ngay ngày hôm nay, nàng sẽ nói với bà Merriwether là bà Ellen đã viết thư nhắn nàng về thăm nhà. Thật chẳng ăn thua gì, vì người đàn bà đáng kính ấy, tay áo xắn cao, thân hình to béo quấn một chiếc tạp dề rộng, phóng một cái sắc như dao vào nàng và nói: - Đừng bắt tôi phải nghe những chuyện vớ vẩn ấy nữa, Scarlett Hamilton. Tôi sẽ viết thư cho mẹ cô ngay ngày hôm nay, nói cho bà biết chúng tôi cần cô như thế nào và tôi tin chắc rằng bà sẽ hiểu và để cô ở lại. Bây giờ thì mặc tạp dề vào và chạy đến chỗ bác sỹ Meade nhanh lên. Ông ấy đang cần người giúp việc băng bó đấy. “Ôi, lạy Chúa” Scarlett buồn bã tự nhủ, rầy rà lắm rồi đấy. Mẹ sẽ bắt mình ở lại đây và mình sẽ chết mất nếu còn phải tiếp tục ngửi những mùi hôi thối này. Ước gì mình là một bà già để được ức hiếp các cô gái thay vì chính mình bị ức hiếp… và bảo thẳng những mụ già nanh nọc như bà Merriwether hãy cút đi với quỷ! Phải, nàng đã ớn bệnh viện, ớn những mùi hôi thối, ớn chấy rận, đau đớn và những thân hình bao lâu không tắm rửa. Nếu như một dạo nào đó, việc chăm sóc thương binh từng có chút mới mẻ và lãng mạn thì cái đó đã nhạt đi từ một năm trước rồi. Với lại những thương binh trong đợt rút lui này không hấp dẫn bằng những thương binh hồi đầu. Họ tuyệt nhiên không tỏ ra quan tâm đến nàng và chẳng có chuyện gì để nói ngoài những câu: “Tình hình chiến sự ra sao rồi? Lão tướng Joe hiện đang làm gì? Ông già Joe thật cực kỳ tài tình”. Nàng không cho ông già Joe là cực kỳ tài tình. Tất cả những gì ông ta làm được là để cho bọn Yankees vào sâu tám mươi dặm trong nội địa Georgia . Không, cái đám thương binh này chả có gì hấp dẫn, Hơn nữa, nhiều người trong số họ đang sắp chết, chết nhanh chóng, lặng lẽ, chẳng còn mấy hơi sức để chống lại chứng nhiễm độc máu, chứng hoại thư, thương hàn và sưng phổi đã xâm nhập cơ thể trước khi họ kịp tới Atlanta gặp bác sỹ. Trời nóng và từng đàn ruồi ùa vào những cánh cửa mở rộng, những con ruồi béo lười nhác đánh gục nhuệ khí của các chiến binh hiệu quả hơn cái đau. Như một đợt sóng thủy triều, những mùi hôi cùng sự đau đớn dâng lên, dâng lên hoài quanh nàng. Mồ hôi thấm qua chiếc áo dài mới hồ bột trong khi nàng cầm cái chậu đi theo bác sỹ Meade. Ôi, cái cảm giác buồn nôn khi đứng cạnh ông bác sỹ, cố gắng để khỏi ói mửa khi con dao mổ sáng loáng của ông cắt vào lớp thịt bị thối hoại! Và ôi, nỗi khiếp sợ phải nghe những tiếng rú cất lên từ phòng mổ khi có người phải cưa chân hoặc cưa tay! Và cái cảm giác thương hại bất lực đến nôn nao khi nhìn thấy bộ mặt trắng bệch, căng thẳng của những người thân hình sứt sẹo, chờ bác sỹ khám để nghe thấy những lời kinh khủng này: “Rất tiếc, anh bạn trẻ ạ, bàn tay này phải cắt bỏ thôi. Phải, phải, tôi hiểu nhưng, nhìn này, có thấy những vằn đỏ này không? Phải cắt đi thôi”. Thuốc mê giờ đây hiếm đến nỗi chỉ được phép sử dụng cho những trường hợp cưa cắt gay go nhất và thuốc phiện là của quý chỉ được dùng để những người hấp hối qua đời được nhẹ nhàng, cứ không phải để giảm đau cho người sống. Ký-ninh và i-ốt đều không có. Phải, Scarlett đã ớn tất cả và sáng nay, nàng ước giá mình cũng có thể viện lý do mang thai như Melanie.Trong những ngày này, đó là lý do duy nhất có thể chấp nhận việc miễn chăm sóc thương binh. Đến trưa, nàng cởi tạp dề, lẻn ra khỏi bệnh viện trong khi bà Merriwether đang bận viết thư hộ một người miền núi mù chữ. Scarlett cảm thấy không thể chịu đựng được nữa. Đó là một hình phạt đối với nàng và nàng biết rằng khi chuyến tàu trưa chở đợt thương binh mới đến, thì sẽ bận túi bụi đến tối mịt… và có lẽ chẳng có gì mà ăn nữa kia. Nàng hối hả đi ngược hai khu phố đến phố Cây Đào, hít mạnh vào lồng ngực làn không khí trong lành bằng những những hơi thật sâu, sâu đến mức tột cùng mà chiếc coóc-xê bó chặt của nàng cho phép. Nàng đang đứng ở góc phố, phân vân chưa biết nên làm gì tiếp theo, xấu hổ không dám về nhà bà cô Pitty, nhưng quyết tâm không trở lại bệnh viện, thì Rhett Butler đánh xe đi qua. - Nom cô như con một người nhặt giẻ rách ấy, chàng nhận xét, đưa mắt nhìn chiếc áo diềm bâu vá màu xanh nhạt loáng thoáng pha đỏ, bết mồ hôi và đây đó hoen những vệt nước bẩn bắn ra từ cái chậu bạn nãy nàng cầm theo bác sỹ Meade. Scarlett vừa bối rối vừa tức điên. Tại sao anh ta luôn luôn chú ý đến y phục phụ nữ và tại sao anh ta lại thô lỗ đến mức lên tiếng bình phẩm sự nhếch nhác của mình lúc này? - Tôi không muốn nghe anh nói một lời nào. Anh ra đỡ tôi vào xe đi, rồi đánh xe đến nơi nào không ai nom thấy tôi. Dù họ có treo cổ tôi lên, tôi cũng không trở về bệnh viện nữa! Lạy Chúa, tôi đâu có gây ra cuộc chiến tranh này, và tôi chẳng thấy có lý do gì khiến tôi phải làm việc chí chết và… - Phản bội sự nghiệp vinh quang của chúng ta! - Chó chê mèo lắm lông! Đỡ tôi vào đi nào. Tôi bất cần anh định đi đâu. Bây giờ hẵng đưa tôi dạo chơi một chút đã. Chàng nhảy từ xe xuống đất và Scarlett chợt nghĩ: thật dễ chịu biết bao, được thấy một người lành lặn, không mù mắt hoặc mất tay, mất chân, hoặc đau đến nhợt nhạt người, hoặc vàng bủng vì sốt rét, một người nom có vẻ ăn uống đầy đủ và khỏe mạnh. Và lại ăn mặc sang trọng nữa chứ. Quần áo chàng bằng cùng một loại vải và vừa như in, chứ không lùng thùng hoặc quá chật đến nỗi không cử động được. Và lại mới chứ không rách rưới, phô cả da thịt nhớp bẩn và chân cẳng lông lá ra. Coi bộ như chàng không hề có điều gì lo nghĩ trên đời và điều đó tự thân nó đã kỳ lạ trong thời buổi này, khi mà những người đàn ông khác đều có vẻ băn khoăn, lo lắng, cau có lầm lỳ. Bộ mặt ngăm ngăm của chàng hồn hậu và cái miệng có đôi môi đỏ, rõ nét như miệng đàn bà, gợi dục, tủm tỉm một nụ cười vô tự lự trong khi chàng đỡ nàng lên xe. Những bắp thịt trên cơ thể to lớn của chàng cuồn cuộn lên dưới lần vải bộ quần áo may rất khéo, khi chàng vào ngồi bên cạnh nàng, và, như mọi lần, cảm giác về thể lực cường tráng của chàng khiến nàng choáng váng như bị một đòn giáng vào người. Nàng nhìn đôi vai lực lưỡng của chàng vồng lên dưới lần vải, với một cảm giác mê hoặc, xao xuyến và hơi sờ sợ. Cơ thể chàng có vẻ cứng rắn, dẻo dai, khác nào đầu óc sắc sảo của chàng. Ở chàng là một sức mạnh mềm mại, thoải mái, cái vẻ lười nhác của một con báo nằm ườn ra phơi nắng, với sức bật nhanh như một con báo chồm tới vồ mồi. - Cô thật gian trá, chàng nói và tặc lưỡi giục ngựa đi. Cô nhảy suốt đêm với bọn lính, cho họ nào hoa hồng, nào ruy băng, nói với họ là cô sẵn sàng chết vì Sự nghiệp, nhưng đến lúc phải băng vài vết thương, bắt vài con rận thì cô chuồn cho nhanh. - Anh không thể không nói gì và cho xe chạy nhanh hơn được sao? Khéo mà ông nội Merriwether lại ra khỏi cửa hàng và trông thấy tôi rồi về hót với mụ già… tôi muốn nói là bà Merriwether thì thật rủi cho tôi đấy! Chàng khẽ chạm rọi vào con ngựa và nó thoăn thoắt nước kiệu qua ngã Năm và qua con đường xe lửa cắt đôi thành phố. Chuyến tàu chở thương binh đã vào ga và những người cáng thương đang hối hả làm việc dưới nắng nóng, chuyển thương binh sang các xe cứu thương và xe chở đạn che bạt. Nhìn họ, Scarlett chẳng hề cảm thấy lương tâm cắn rứt mà chỉ thấy nhẹ nhõm mênh mông vì đã thoát tội thoát nợ. - Tôi ngấy đến tận cổ cái bệnh viện già cỗi ấy rồi, nàng nói, chỉnh lại những lớp váy xòe và thắt chặt thêm quai mũ dưới cằm. Và mỗi ngày thương binh đến một nhiều hơn. Tất cả là tại tướng Johnston . Nếu ông ta chặn được bọn Yankees ở Dalton thì chúng ắt… - Nhưng ông ta có chặn được quân Yankees đấy chứ, cô bé mít đặc! Và nếu ông cứ tiếp tục trấn ở đấy, Sherman ắt sẽ khớp sườn ông và kẹp nát ông giữa hai cánh quân của y. Và ông sẽ bị mất đường sắt. mà Johnston chiến đấu, chính là để bảo vệ đường sắt. - À, phải, Scarlett nói, chẳng hiểu tí gì về chiến lược quân sự. Dù sao, cũng lỗi tại ông ấy. Đáng lẽ ông phải kiếm cách gì để gỡ thế cờ chứ. Theo tôi, phải cách chức ông đi. Tai sao ông không trụ lại chiến đấu mà cứ rút lui hoài? - Cô cũng giống mọi người khác to miệng gào: “Chặt đầu hắn đi!” chỉ vì đương sự không làm được điều không thể làm được. Tướng Johnston đã là Chúa Jesus Cứu Thế ở Dalton và giờ đây ông là tên Judas phản Chúa ở núi Kennesaw, tất cả chỉ trong vòng có sáu tuần. Tuy nhiên, chỉ cần ông đẩy lùi bọn Yankee hai mươi dặm, ông sẽ lại là Jesus. Cô bé ạ, quân của Sherman đông gấp đôi quân của Johnston , y có thể thí hai tốt để đổi lấy một chàng trai dũng mãnh của chúng ta. Còn Johnston thì không có quân đâu mà phí lấy một người. Ông đang rất cần bổ sung quân, vậy mà ông sắp được gì? “Những cục cưng của Joe Brown chi viện quý giá làm sao!” - Có thật là dân binh sắp được huy động ra mặt trận không? Cả Vệ binh địa phương nữa ư? Tôi không nghe nói. Làm sao anh biết? - Có tin đồn là như thế? Tin này đến cùng với chuyến tàu từ Milledgeville về sáng nay. Cả dân binh lẫn đội Vệ binh địa phương sắp được phái đến chi viện cho tướng Johnston . Phải, cuối cùng, những cục cưng của thống đốc Brown cũng sắp được ngửi mùi thuốc súng và tôi hình dung hầu hết bọn họ sẽ ngã ngửa người. Ngài Thống đốc đã hứa với họ thế mà. Chà, đó là một quả đùa hay ho đối với họ. Họ đã tưởng nắm chắc chữ thọ vì thống đốc đã cưỡng lại cả với Jeff Davis và từ chối không chịu phái họ đến Virginia , viện cớ rằng họ là lực lượng cần thiết để bảo vệ bang. Ai ngờ chiến tranh đến tận sân sau nhà họ và họ sắp thực sự phải bảo vệ bang của mình? - Ôi, anh tàn nhẫn thế, sao anh có thể cười được! Anh hay nghĩ đến những ông già và những cậu bé trong đội Vệ binh địa phương! Chao, chú bé Phil Meade sẽ phải ra đi, rồi cụ ông Merriwether và bác Henry Hamilton nữa. - Tôi đâu có nói đến những chú bé và những cựu chiến binh của cuộc chiến tranh Mexico [53] [53] . Tôi muốn nói đến các chàng dũng sỹ như Willie Guinan chỉ thích mặc quân phục đẹp và vung gươm… - Và bản thân anh! - Cô bạn thân mến, tôi chả việc gì mà động lòng. Tôi không mặc quân phục, cũng chẳng vung gươm và số phận của Liên bang chẳng có nghĩa gì đối với tôi. Hơn nữa, vì lý do ấy, tôi không muốn chết trong đội Vệ binh địa phương hoặc trong bất kỳ đạo quân nào. Về chuyện quân sự thì những điều đã trải ở West Point cũng đủ cho tôi suốt đời rồi… Ồ, tôi chúc lão tướng Joe may mắn; tướng Lee không thể chi viện gì cho ông được vì còn bận đối phó với bọn Yankees ở Virginia . Cho nên địa phương quân của bang Georgia là số viện binh duy nhất Johnston có thể có được. Ông xứng đáng được hơn thế vì ông là một nhà chiến lược lớn. Bao giờ ông cũng đến được nơi cần đến trước bọn Yankees. Nhưng ông sẽ còn phải tiếp tục rút lui nếu ông muốn bảo vệ đường sắt. Và, xin cô hãy nhớ lấy lời tôi, khi chúng đẩy bật ông ra khỏi núi, đến vùng đồng bằng quanh đây, quân của ông sẽ bị nướng chả cho mà xem. - Quanh đây! Scarlett kêu lên, anh thừa biết là bọn Yankees sẽ không bao giờ tiến xa được đến thế! - Kennesaw chỉ cách đây có hai mươi dặm và tôi cuộc với cô… - Rhett nhìn kìa, phía cuối phố ấy! Cái đám đông kia! Không phải binh sỹ! Quái nhỉ…? Ồ, bọn da đen! Bụi đỏ từ đường phố bốc lên thành một đám mây lớn và từ đám mây ấy vang ra tiếng bước chân rậm rịch của nhiều bàn chân cùng hàng trăm giọng da đen trầm trầm uể oải hát một bài tụng ca. Rhett đánh xe tạt vào bờ hè và Scarlett tò mò nhìn những người da đen mồ hôi nhễ nhại, xẻng cuốc trên vai, bị lùa đi bởi một sỹ quan và một tốp lính mang phù hiệu công binh. - Quái nhỉ…? Nàng lặp lại. Thế rồi, nàng nhìn thấy một gã da đen đang hát ở hàng đầu. Gã cao tới hai mét có lẻ, một mẫu người khổng lồ, đen như mồ hóng, bước đi mềm mại, uyển chuyển như một con mãnh thú, hàm răng trắng lấp lánh khi gã lĩnh xướng bài “Hãy bước xuống, Moses.” cho đồng bọn hát theo. Chắc chắn là trên đời không có người da đen nào cao lớn và cả giọng hát như gã này trừ Big Sam (Sam lớn), đốc công của ấp Tara . Nhưng Big Sam làm gì ở đây, cách xa nhà bao nhiêu đường đất, nhất là vào thời điểm này, ở ấp không có giám thị, mà anh ta lại là cánh tay phải của ông Gerald? Trong khi nàng nhổm người lên khỏi ghế để nhìn cho rõ hơn, gã khổng lồ trông thấy nàng và bộ mặt đen của anh ta toác ra một nụ cười khoan khoái vì nhận ra người quen. Anh ta dừng lại, buông xẻng xuống và vừa tiến về phía nàng vừa gọi những người da đen gần anh nhất: - Lạy Trúa toàn năng! Tiểu thư Scarlett đây này! Ê, Lige! Postle! Prophet! Tiểu thư Scarlett đây này! Hàng ngũ đâm lộn xộn. Đám đông dừng lại phân vân, nhe răng cười, cùng với ba người da đen to lớn khác theo sau, Big Sam chạy qua đường tới chỗ chiếc xe ngựa. Viên sỹ quan tức tối rượt sát, miệng quát: - Quay trở lại hàng, các người! Quay lại kẻo ta… Kìa, bà Hamilton , xin chào bà vào chào ông nữa. Bà định làm gì mà lại xúi giục nổi loạn và bất phục tùng thế này? Có Chúa biết là sáng nay tôi đã đủ khốn khổ vì cái lũ này rồi! - Ồ, đại úy Randall, ông đừng mắng mỏ họ. Họ là người nhà tôi mà. Đây là Big Sam, đốc công của ba tôi, và đây là Lige và Apostle và Prophet [54] [54] cùng ở ấp Tara . Dĩ nhiên là họ phải nói chuyện với tôi. Thế nào, các anh có khỏe không? Nàng bắt tay suốt lượt, bàn tay nhỏ trắng muốt lút vào những bàn tay đen to tướng của họ và bốn gã nhảy cẫng lên, phần vì sung sướng được gặp nàng, phần vì tự hào được dịp phô cho các bạn thấy mình có cô chủ trẻ và xinh đẹp nhường nào. - Các anh làm gì ở cái nơi xa ấp Tara như thế này? Ta dám chắc là các anh chạy trốn, hả. Các anh không biết là cánh tuần tra chắc chắn sẽ tóm được các anh ư? Nghe nàng đùa như vậy, họ khoái trí cười ầm lên. - Trạy trốn ư? Big Sam đáp. Không, xưa cô; trúng tôi không có trạy trốn. Họ đến tìm và lôi trúng tôi đi, là vì trúng tôi là dững tay khỏe dứt, to dứt ở Tara (anh ta hãnh diện nhe hai hàm răng trắng). Họ kếm tôi dáo diết dứt, là vì tôi hát hay. Vâng, xưa cô, chính ông Frank Kennedy đến lôi trúng tôi đi. - Nhưng tại sao lại thế, Big Sam? - Lạy Trúa, Tiểu thư Scarlett! Cô không biết à? Chúng tôi phải đi đào hầm cho các ông nhớn da chắng trốn khi bọn Yankee đến. Đại úy Randall và những người ngồi trên xe cố nhịn cười khi nghe lời giải thích chất phác ấy về việc đào chiến hào. - Cố diên, ông Gerald thiếu chút nữa là lên cơn khi họ bắt tôi đi, ông bảo thiếu toi ông không cai quản được ấp chại. Cơ mà bà Ellen bảo: “Lấy nó đi, ông Kennedy. Liên bang cần Big Sam hơn trúng tôi”. Và bà cho tôi một đô la, bảo tôi phải làm đúng dư lời các ông da chắng bảo. Thế là chúng tôi đến đây. - Thế nghĩa là thế nào, đại úy Randall? - Ồ, rất đơn giản thôi. Chúng tôi phải tăng cường công sự phòng thủ Atlanta bằng cách đào thêm chiến hào trên một chiều dài vài dặm nữa, mà tướng Johnston thì không thể rút ra một người nào khỏi mặt trận. Cho nên chúng tôi phải đi bắt những tên to khỏe nhất ở nông thôn lên để làm công việc đó. - Nhưng… Ngực Scarlett bắt đầu thon thót một nỗi sợ lạnh người. Thêm vài dặm chiến hào nữa! Tại sao còn cần thêm nữa? Trong năm ngoái, một loạt đồn đất tú ụ có bệ pháo đã được xây dựng ở quanh Atlanta , cách trung tâm thành phố một dặm. Những công sự lớn đắp bằng đất ấy được nối liền với nhau bằng những đường hào chạy dài hàng dặm, quây kín thành phố. Thế mà lại còn đào thêm chiến hào nữa! - Nhưng mà… ta đã có công sự phòng ngự rồi, tại sao còn phải đào hào đắp lũy thêm nữa? Ngay cả những cái đã có sẵn, ta cũng sẽ không cần hết nữa là. Chắc chắn, tướng Johnston sẽ không để… - Những công sự hiện tại của chúng ta chỉ cách thành phố có một dặm, đại úy nói, giọng cộc cằn. Như thế gần quá, không tiện lợi… hoặc không an toàn. Những công sự mới này sẽ làm xa hơn. Bà thấy đấy, một đợt rút lui nữa là quân ta sẽ ở ngay trong Atlanta . Thấy mắt nàng trố ra sợ hãi, lập tức viên đại úy tiếc là đã lỡ miệng nêu lên nhận xét sau cùng. - Nhưng dĩ nhiên là sẽ không có đợt rút lui nữa, anh chàng vội vàng nói thêm. Các tuyến quanh núi Kennesaw là không thể đánh chiếm được, các khẩu đội pháo được bố trí suốt các sườn núi kiểm soát đường cái. Bọn Yankees không thể qua được đâu. Nhưng Scarlett trông thấy mắt anh ta cụp xuống trước cái nhìn uể oải nhưng xuyên thấu của Rhett và nàng hoảng hồn. Nàng nhớ đến câu cảu Rhett: “Khi bọn Yankee đánh bật ông khỏi núi xuống đến vùng đồng bằng, quân của ông sẽ bị nướng chả cho mà xem! - Ôi, đại úy, ông có nghĩ là… - Chà, dĩ nhiên là không. Bà đừng có hoang mang. Lão tướng Joe cẩn thận đề phòng thôi mà. Đó là lý do duy nhất khiến chúng ta đào thêm hào… Nhưng tôi phải đi thôi. Được hầu chuyện bà, thật là dễ chịu… Chào bà chủ đi, các chú mày, rồi ta đi thôi. - Chào các anh. Nếu các anh bị ốm đau hay gặp chuyện rắc rối, thì nhớ cho tôi biết đấy… Tôi ở ngay cuối phố Cây Đào, dưới kia kìa, cái nhà gần đầu tỉnh ấy. Khoan đã… (nàng lục ví). Ôi, lạy Chúa, tôi chẳng còn một xu nào. Rhett, cho tôi mượn ít tiền lẻ. Này, Big Sam, mua tí thuốc lá sợi cho anh và các bạn. Và hãy ngoan ngoãn làm theo lời đại úy Rendall. Hàng người xệch xẹo tập hợp lại, bụi lại bốc thành một đám mây đỏ khi họ cất bước tiếp tục đi. Big Sam lại lên giọng: - Hãy bước xuống, Moses! Bước xuống E- Cậậập! Và xin v-u-a Fa-a-ô-ô-n-g. Cho dân trúng tôi đi. - Rhett ạ, đại úy Randall cũng nói dối tôi như tất cả mọi người…, cố tìm cách không cho phụ nữ chúng tôi biết sự thật, e chúng tôi ngất xỉu. Ôi, Rhett nếu tình hình không nguy kịch thì tại sao họ lại phải đào thêm công sự mới? Có đúng là quân đội thiếu người đến nỗi phải dùng đến bọn da đen không? Rhett tặc lưỡi giục ngựa. - Quân đội rất thiếu người. Nếu không thì tại sao lại phải gọi đến vệ binh địa phương? Còn về chuyện đào hào, thì chậc! Công sự phòng thủ được xem là có một giá trị nào đó trong trường hợp bị bao vây. Tướng Joe đang chuẩn bị trận cố thủ cuối cùng của mình ở đây. - Bao vây! Ôi, quay ngựa lại. Tôi về nhà đây, về nhà ở ấp Tara ấy, ngay bây giờ! - Cô làm sao thế? - Bao vây! Lạy Chúa, một cuộc bao vây! Tôi đã nghe kể về điều đó. Ba tôi đã từng mắc trong một vòng vây, hay có thể là cha của ba tôi, và ba đã kể cho tôi nghe… - Cuộc bao vây nào? - Cuộc bao vây thành Drogheda, hồi Cromwell đánh Ireland . Họ chẳng có gì ăn. Ba tôi kể là người chết đói khắp các phố và cuối cùng, họ phải ăn đến mèo và chuột, thậm chí cả gián nữa. Ba tôi kể họ còn ăn thịt lẫn nhau trước khi đầu hàng, mặc dầu tôi không biết có nên tin hay không. Và khi Cromwell chiếm được thành phố thì tất cả phụ nữ đều bị… Ôi, lâm vào tình trạng bị bao vây! Lạy Đức Mẹ Đồng Trinh! - Tôi chưa thấy người trẻ tuổi nào mít đặc đến độ man rợ như cô. Chuyện bao vây Drogheda là vào năm một nghìn sáu trăm bao nhiêu đó và dạo ấy làm gì đã có ông O’Hara. Với lại, Sherman không phải là Cromwell. - Ừ, nhưng y còn tệ hơn. Người ta bảo… - Và còn về những loại thịt quái dị mà người Ireland ăn trong thời kì bị bao vây thì… riêng phần mình, tôi sẵn sàng chén một con chuột béo, còn hơn một số món người ta dọn cho tôi ở trong khách sạn trong thời gian gần đây. Tôi nghĩ mình phải trở về Richmond thôi. Ở đấy còn có thức ăn ngon lành, nếu có nhiều tiền. Mắt chàng cười giễu vẻ sợ hãi trên mặt nàng. Bực mình vì đã tỏ ra hoang mang, Scarlett kêu lên: - Tôi không hiểu tại sao anh lưu lại đây lâu thế! Anh độc chỉ nghĩ đến tiện nghi, đến ăn uống và… và những thứ tương tự. - Tôi không biết có cách dùng thì giờ nào thú vị hơn là ăn uống và… ờ… những thứ tương tự, chàng nói. Còn về chuyện tại sao tôi lưu lại ở đây thì… phải, tôi đã đọc rất nhiều về các thành phố bị bao vây và những chuyện đại loại như vậy, nhưng chưa bao giờ trực tiếp chứng kiến. Cho nên tôi nghĩ cũng nên ở lại đây mà quan sát. Tôi sẽ không bị thương bởi vì tôi không chiến đấu, và lại, tôi muốn trải qua cái kính nghiệm này. Không bao giờ nên bỏ qua những kinh nghiệm mới, Scarlett ạ. Chúng làm phong phú đầu óc ta. - Đầu óc tôi thế này cũng đủ phong phú rồi. - Có thể về điểm này cô biết rõ hơn tôi, nhưng tôi muốn nói… Nhưng mà thôi, nói thế thì bất nhã với phụ nữ quá. Mà có lẽ, tôi ở lại để cứu cô khi nào thành phố bị bao vây. Tôi chưa bao giờ cứu một cô gái trong cơn cùng quẫn. Đó cũng sẽ là một kinh nghiệm mới. Scarlett biết chàng đang trêu mình, nhưng nàng mang máng cảm thấy đằng sau những lời đó, có một cái gì nghiêm túc. Nàng hất đầu: - Tôi không cần anh cứu tôi. Cảm ơn, tôi có thể tự lo liệu lấy. - Đừng có nói thế, Scarlett! Nếu cô thích nghĩ vậy thì cứ việc nghĩ, nhưng đừng bao giờ, đừng bao giờ nói thế với một người đàn ông. Đó chính lại cái dở của các cô gái Yankees. Lẽ ra họ có thể rất dễ thương nếu họ không luôn luôn nói cảm ơn, họ có thể tự lo cho bản thân. Thường thường là họ nói thực, cầu Chúa phù hộ cho họ. Và thế cho nên đàn ông để cho họ tự lo liệu lấy. - Anh khéo liến láu gắn chuyện nọ với chuyện kia nhỉ, nàng lạnh lùng nói, vì không có lời nhục mạ nào nặng hơn là bị đem ví với một cô gái Yankees. Tôi tin rằng, về chuyện bao vây, anh đã nói dối. Anh biết rằng bọn Yankees không đời nào đến được Atlanta . - Tôi cuộc với cô là chúng sẽ ở đây trong vòng tháng này. Tôi xin đánh cuộc một hộp bánh đổi. Mắt chàng lia tới đôi môi nàng… lấy một cái hôn. Trong thoáng ngắn ngủi, nỗi sợ hãi quân Yankees tràn tới bóp nghẹt tim nàng, nhưng nghe thấy tiếng “hôn”, nàng lại quên hết. Đó là miếng đất quen thuộc và thú vị hơn chuyện tác chiến nhiều. Nàng phải vất vả mới nén được một nụ cười vui thích. Từ hôm cho nàng chiếc mũ xanh, Rhett không hề có một cử chỉ làm thân nào có thể coi như sự mon men tán tỉnh của một người tình. Dù có cố gắng đến đâu, nàng cũng chưa lần nào dụ được chàng vào những cuộc trò chuyện tâm tình riêng tự, vậy mà bây giờ, không cần nàng thả mồi buông câu, tự dýng chàng bỗng nói đến chuyện hôn. - Tôi không thích kiểu nói năng như vậy, nàng nói, giọng lạnh nhạt, và vờ cau mày. Với lại, tôi thà hôn một con lợn còn hơn. - Về chuyện sở thích thì chả biết thế nào mà cắt nghĩa được. Xưa nay, tôi vẫn nghe nói người Ireland vốn mê thích lợn… trên thực tế, họ thường để chúng nằm bên dưới giường mình. Nhưng, Scarlett ạ, cô đang rất cần được hôn. Đó chính là chỗ dở đối với cô. Tất cả những chàng theo đuổi cô đều quá tôn trọng cô, có Trời biết vì lý do gì, hoặc giả họ quá sợ cô, không dám thực sự làm điều cần làm với cô. Kết quả là cô đâm kiêu kỳ đến độ không chịu được. Cô cần phải được hôn và được hôn bởi một người biết hôn. Câu chuyện không xoay theo chiều hướng nàng muốn. Bao giờ cũng là như vậy khi nàng nói chuyện với Rhett. Bao giờ cũng là một cuộc đọ kiếm mà phần thất bại thuộc về nàng. - Và tôi chắc anh nghĩ mình là người đó? Nàng mỉa mai hỏi, chật vật lắm mới giữ được bình tĩnh. - À, phải, nếu tôi chịu khó làm vậy, chàng thảm nhiên nói. Người ta bảo tôi hôn cực kỳ. - Chà, nàng mở đầu, phẫn nộ thấy Rhett chẳng coi duyên sắc nàng là gì cả. Làm sao mà anh… Nhưng nàng chững lại, mắt đầy bối rối. Chàng đang tủm tỉm cười, nhưng trong thẳm tối mắt chàng, một đóm sáng nhỏ xíu lóe lên một thoáng ngắn như một ngọn lửa tinh chất. - Tất nhiên, có thể cô thắc mắc tại sao tôi không phát huy cái hôn trong trắng tôi tặng cô cái hôm tôi mang chiếc mũ đến… - Tôi không bao giờ thắc… - Vậy thì cô chẳng hay ho gì, Scarlett ạ, và tôi lấy làm ân hận được biết thế. Tất cả các cô gái hay thật sự đều thắc mắc tại sao đàn ông không tìm cách hôn mình. Các cô biết là không nên muốn đàn ông làm thế và biết là phải tỏ ra bị xúc phạm nếu họ làm thế, song mặc dù thế, họ vẫn muốn đàn ông tìm cách hôn mình… Nào, cô bạn thân mến, hãy can đảm lên. Một hôm nào đó, tôi sẽ hôn cô và cô sẽ thích. Nhưng chưa phải bây giờ, cho nên tôi xin cô đừng quá nôn nóng. Nàng biết chàng đang trêu chọc, nhưng cũng như mọi khi, những lời trêu chọc của chàng khiến nàng tức điên. Bao giờ những điều chàng nói cũng chứa đựng phần lớn sự thật. Được rồi, đây là giới hạn cuối cùng đối với anh ta. Nếu có lúc nào anh ta mất dạy đến độ giở trò sàm sỡ, mình sẽ cho anh ta biết tay. - Xin anh vui lòng cho ngựa quay lại hộ, thuyền trưởng Butler . Tôi muốn trở về bệnh viện. - Có thật thế không, thiên thần chăn dắt tôi? Vậy là cô thích chấy rận và những xô nước bẩn hơn nói chuyện với tôi. Thôi được, tôi hoàn toàn không có ý định ngăn một đôi tay tự nguyện lao động vì Sự Nghiệp Vinh Quang của chúng ta. Chàng quay ngựa, cho xe chạy trở về phía Ngã Năm. - Còn về lý do tại sao tôi đã không dấn thêm, chàng nói, giọng ngọt lừ như thể nàng không hề ngụ ý rõ rằng cuộc trò chuyện đã kết thúc, đó là vì tôi còn chờ cô lớn thêm một chút nữa. Cô thấy không, nếu tôi hôn cô ngay bây giờ thì chẳng thú vị gì lắm, mà về chuyện hưởng lạc, tôi lại rất ích kỷ. Tôi chẳng bao giờ thích hôn trẻ con. Chàng cố nén một nụ cười khi liếc mắt thấy ngực nàng bồng lên vì uất nghẹn. - Hơn nữa, chàng khẽ nói tiếp, tôi còn chờ cho ký ức về con người đáng quý Ashley Wilkes phai nhạt đi. Nghe nhắc đến tên Ashley, nàng bỗng thấy nhói đau và nước mắt chợt dâng lên cay sè. Phai nhạt ư? Ký ức về Ashley sẽ không bao giờ phai, ngay cả nếu chàng đã chết một nghìn năm. Nàng nghĩ đến Ashley bị thương, hấp hối trong một nhà tù Yankees xa xôi, không chăn đắp, không có người thân thương nào cầm tay, mà lòng tràn đầy căm ghét đối với gã đàn ông ăn uống đầy đủ, phây phây, đang ngồi cạnh mình, giọng lè nhè lộ rõ ý giễu cợt. Nàng uất quá không nói được và họ im lặng một lát trong khi xe tiếp tục lăn bánh. - Bây giờ, tôi hầu như biết tỏng mọi chuyện về cô và Ashley, Rhett nói tiếp. Tôi bắt đầu mang máng hiểu ra từ cái màn không lấy gì làm trang nhã ở Trại Mười Hai Cây Sồi và từ bấy đến nay, nhờ luôn luôn để mắt trông chừng, tôi đã lượm được nhiều điều. Những điều gì ư? À, nào là cô vẫn đang ôm ấp một mối tình lãng mạn kiểu nữ học sinh đối với Ashley, mà anh ta cố gắng đáp lại trong chừng mực bản chất tôn quý của anh ta cho phép. Nào là bà Wilkes không biết tý gì, và trong quan hệ chị dâu em chồng giữa hai người, cô đã chơi bà ấy một vố hay hớm. Tôi hiểu hầu hết mọi chuyện, từ một điều – và điều đó kích thích óc tò mò của tôi. Đã bao giờ Ashley tôn quý dám làm bợn linh hồn bất tử của mình bằng cách hôn cô chưa? Đáp lại chàng, Scarlett chỉ lặng thinh như đá và quay đầu đi. - À, ra thế, anh ta có hôn cô. Tôi đồ là vào cái đận anh ta nghỉ phép về đây. Và giờ đây, khi mà anh ta có thể đã chết, cô lại nâng niu trong tim kỷ niệm về cái hôn ấy. Nhưng tôi dám chắc là cô sẽ vượt qua nỗi sầu tủi ấy và khi nào cô quên cái hôn của anh ta, tôi sẽ… Nàng điên tiết quay lại: - Anh, anh… quỷ bắt anh đi! Nàng dữ tợn nói, đôi mắt xanh rừng rực nộ khí. Và hãy để tôi ra khỏi xe, kẻo tôi lao vọt qua bánh xe bây giờ. Và tôi sẽ không bao giờ muốn nói chuyện với anh nữa. Chàng dừng xe, nhưng chưa kịp đỡ nàng thì Scarlett đã ngảy xuống. Vành váy của nàng vướng phải bánh xe và trong một khoảnh khắc, người qua lại Nga Năm thoáng thấy một lô váy ngắn và quần lót. Rhett bèn cúi xuống, nhanh nhẹn gỡ ra. Nàng vùng vằng đi khỏi không nói một lời, thậm chí không thèm ngoái lại nhìn. Rhett khẽ cười và tặc lưỡi giục ngựa đi. CHƯƠNG XVIII Lần đầu tiên, kể từ khi bắt đầu chiến tranh, Atlanta nghe thấy tiếng súng giao tranh. Sáng sớm tinh mơ, trước khi thành phố cựa mình thức giấc, người ta đã có thể nghe văng vẳng tiếng đại bác từ núi Kennesaw xa tít, một tiếng ầm ì mờ trầm có thể tưởng lầm là sấm mùa hè. Đôi khi nó to rộ lên đến mức ngay cả buổi trưa cũng nghe thấy được qua tiếng xe cộ đi lại rầm rầm. Người ta cố không lắng nghe nó, cố nói chuyện cười đùa, tiếp tục công việc bình thường, như thể không có bọn Yankee ở cách đó hai mươi dặm, nhưng lúc nào những cái tai cũng cứ tự động dỏng lên nghe ngóng cái tiếng ầm ì đó. Thành phố mang một vẻ âu lo, vì bất kể tay đang bận làm gì, tất cả vẫn cứ lắng tai, lắng tai nghe ngóng, tim đột ngột thót lên hàng trăm bận một ngày. Tiếng uỳnh oàng có to lên thật không? Hay đó chỉ do họ tưởng là nó to lên? Liệu lần này tướng Johnston có cầm chân được chúng không? Liệu ông có chặn được chúng không? Thiếu chút nữa là kinh hoàng bày ra mặt. Thần kinh, vốn đã mỗi ngày một căng thêm từ khi cuộc rút lui bắt đầu, giờ đây đang tới dần độ bựt đứt. Không ai mở miệng nói đến cái sợ. Đó là đầu đề húy kỵ, song thần kinh căng thẳng biểu hiện trong việc lớn tiếng chỉ trích tướng Johnston. Dân tình lên cơn sốt hầm hập. Sherman đang ở ngay cửa ngõ Atlanta. Một lần rút lui là quân Liên Bang sẽ chết ngay trong thành phố. Hãy cho chúng tôi một vị tướng không biết lùi! Hãy cho chúng tôi một con người biết trụ lại chiến đấu. Tai ù lên tiếng đại bác rền xa xa, lực lượng dân binh của bang, “những cục cưng của Joe Brown” và đội vệ binh địa phương lên đường hành quân ra khỏi Atlanta để bảo vệ những cầu và bến phà trên sông Chattahoochee ở phía sau Johnston. Đó là vào một ngày trời xám xịt, đầy mây và khi họ vừa đi ngang qua ngã Năm ra đến con lộ Marietta thì một trận mưa nhỏ bắt đầu rơi. Cả thành phố ra tiễn họ và mọi người đứng sát vào nhau dưới những mái hiên gỗ của các cửa hiệu dọc phố Cây Đào, cố gắng làm ra vẻ hoan hỉ phấn khởi. Scarlett và Maybelle Merriwether Picard được phép nghỉ việc ở bệnh viện để tiễn đoàn quân lên đường, vì ông bác Henry Hamilton và ông nội Merriwether ở trong đội vệ binh địa phương, và hai nàng đứng cùng bà Meade, ép giữa đám đông, kiễng chân để nhìn cho rõ hơn. Mặc dầu đầy lòng mong muốn, như toàn thể miền Nam, chỉ tin vào những điều phấn khởi, an tâm nhất trong diễn biến của chiến sự. Scarlett vẫn cảm thấy lạnh người khi nhìn những hàng người ăn vận tạp nham đi qua. Chắc chắn là tình hình đã đến bước đường cùng mới phải gọi đến cái đám ô hợp những ông già và thiếu niên này ra làm bia đỡ đạn! Nói cho đúng ra, cũng có những thanh niên khỏe mạnh trong đoàn người đi qua, diện những bộ đồng phục dân binh lấp lánh, mũ cắm lông chim phất phơ và khăn thắt lưng dập dềnh. Song đại đa số là các ông già và thiếu niên, và nhìn họ, lòng nàng se lại, vừa thương hại vừa lo sợ. Có những ông cụ râu bạc, già hơn cả cha nàng, cố đi đều bước cho ra dáng theo nhịp kèn trống của đội quân nhạc dưới làn mưa nhẹ hạt. Cụ Merriwether, vai quàng chiếc khăn san đẹp nhất của bà Merriwether để che mưa, đi ở hàng đầu và nhoẻn miệng cười với hai nàng. Họ vẫy mùi soa, vui vẻ cất tiếng chào tạm biệt cụ, nhưng Maybelle nắm lấy cánh tay Scarlett, thì thầm: “Tội nghiệp ông lão! Chỉ một trận mưa ra trò là cụ xong đời! Chứng đau lưng của cụ…” Ông bác Henry Hamilton đi ở hàng sau cụ Merriwether, cổ áo capot đen dựng trùm lấy tai, hai khẩu súng lục từ hồi chiến tranh Mexico dắt ở thắt lưng và một chiếc túi du lịch cầm nơi tay. Đi bên cạnh ông là người hầu da đen cũng già gần bằng ông, giương một chiếc ô che cho cả hai thày trò. Và sát vai với các bậc cha chú, là đám thiếu niên, không cậu nào nom quá mười sáu tuổi. Trong số này, nhiều cậu đã trốn khỏi ghế nhà trường để nhập ngũ và đây đó có những tốp mặc đồng phục học sinh sĩ quan các học viện quân sự, những chiếc lông gà trống đen cắm trên mũ cát két xám đẫm nước mưa, những dải vải bạt trắng tinh bắt chéo qua ngực cũng ướt sũng. Phil Meade ở trong đám này, kiêu hãnh đeo thanh gươm và khẩu súng kỵ binh của người anh trai quá cố, chiếc mũ đội lệch sang bên một cách ngang tàng. Bà Meade cố mỉm cười vẫy cho đến khi cậu đi qua hẳn, rồi gục đầu vào bả vai Scarlett một lúc như thể bao nhiêu sức lực đột nhiên biến đi đâu hết. Nhiều người hòan toàn không có vũ khí vì Liên bang chẳng còn dư súng đạn để phát cho họ. Những người này hy vọng sẽ tự trang bị bằng vũ khí tước của bọn Yankee bị giết hoặc bị bắt. Những người dắt dao bầu ở ủng và cầm trong tay những gậy dài to gộc có đầu nhọn bằng sắt được gọi là “giáo của ông Joe Brown”. Những người may mắn hơn đeo chéo qua vai những cây súng hỏa mai cũ kỹ và dắt ở thắt lưng những chiếc sừng đựng thuốc súng. Johnston đã mất khoảng mười nghìn quân trong cuộc rút lui. Ông cần có thêm mười nghìn quân bổ sung. Vậy mà, Scarlett kinh hãi nghĩ thầm, đây là những gì ông được tăng viện! Khi những cỗ pháo ầm ầm đi qua, làm bắn bùn lên đám đông đứng xem, Scarlett chợt nhìn thấy một người da đen cưỡi la đi cạnh một khẩu đại bác. Đó là một thanh niên nước da màu yên ngựa, mặt nghiêm trang. Scarlett bật kêu lên: “Đúng là Mose! Mose, người hầu của Ashley! – Hắn ta làm gì ở đây?” Nàng lách qua đám đông, chen ra bờ hè và gọi: - Mose! Dừng lại! Gã thanh niên nom thấy nàng, bèn ghìm cương, mỉm cười vui thích và định nhảy xuống đất. Một trung sĩ, quần áo ướt đẫm, phi ngựa đằng sau gã, hét: - Ngồi nguyên trên con la, anh kia, kẻo ta đốt lửa thiêu anh bây giờ! Dù sao chúng ta cũng phải đến dãy núi kia chứ. Mose phân vân hết nhìn viên trung sĩ lại ngó sang Scarlett, trong khi nàng bì bõm lội qua bùn, sát bên những bánh xe đang lăn qua, và nắm lấy sợi dây da cột đinh thúc ngựa của Mose. - Ôi, trung sĩ, chỉ một phút thôi! Khỏi phải xuống, Mose. Anh ở đây làm gì? - Tui lại lên đường da chận, tiểu thư Scarlett. Lần này thì theo hầu ông cụ John, thay vì cậu Ashley. - Ông Wilkes! Scarlett sửng sốt: ông Wilkes đã gần bảy mươi. Thế ông cụ đâu rồi. - Đằng xau, theo khẩu đại bác cuối cùng ấy, tiểu thư Scarlett ạ. Đằng xau kìa! - Xin lỗi bà. Đi thôi, ông tướng! Scarlett đứng ngây ra đó một lúc, bùn ngập đến mắt cá chân trong khi các cỗ pháo ngất ngư qua. Ồ, không, nàng nghĩ thầm, không có lẽ. Ông cụ quá già rồi. Và ông cũng chẳng thích chiến tranh gì hơn Ashley! Nàng lùi lại mấy bước về phía bờ hè và dõi mắt vào từng gương mặt đi qua. Thế rồi khi chiếc đầu xe cuối cùng kéo cỗ đại bác cuối cùng rầm rầm qua, làm bùn đất bắn tứ tung, nàng trông thấy ông Wilkes mảnh khảnh, thẳng đuỗn, mái tóc dài bạc trắng ướt đẫm bết vào cổ, thoải mái trên mình một con ngựa cái nhỏ màu dâu tây đang rón chân qua các vũng bùn yểu điệu như một tiểu thư trong một chiếc áo dài bằng xatanh. Ồ… con ngựa cái này là Nellie! Con Nellie của bà Tarleton! Kho vàng của bà Beatrice Tarleton.! Trông thấy Scarlett đứng trong bùn, ông Wilkes ghìm cương với một nụ cười vui thích và xuống ngựa đi tới chỗ nàng. - Bác cũng hy vọng là sẽ gặp cháu, Scarlett ạ. Ba mẹ cháu nhắn biết bao nhiêu điều, nhưng bác chẳng có thì giờ. Bọn tôi vừa mới tới đây sáng nay và bị thúc hối đi ngay, như cháu thấy đấy. - Ôi, bác Wilkes, nàng kêu lên tuyệt vọng, nắm chặt tay ông. Bác đừng đi! Tại sao bác lại phải đi! - À, vậy là cháu cho rằng bác quá già. Ông mỉm cười – và đó là nụ cười của Ashley trên một bộ mặt già hơn. Có lẽ để hành quân bằng đôi chân thì bác đã già thật, nhưng để cưỡi ngựa và bắn súng thì chưa đâu. Và bà Talerton lại có nhã ý cho bác mượn con Nelli, thế là bác có con tuấn mã. Bác hy vọng sẽ không có gì xảy đến với Nelli, vì nếu nó có làm sao thì bác không còn mặt mũi nào về gặp lại bà Talerton. Nelli là con ngựa cuối cùng còn lại của bà – Lúc này ông cười hồ hởi, xua tan mối lo sợ của Scarlett – Ba mẹ và các em gái cháu đều khỏe và gửi đến cháu những tình cảm yêu thương. Suýt nữa thì ba cháu cũng cùng đến đây với chúng tôi hôm nay đấy! - Ồ, không, đừng để ba cháu đi! Scarlett sợ hãi kêu lên. Đừng để ba cháu đi! Ba cháu sẽ không ra trận chứ, bác? - Không, nhưng ông ấy đã định đi đấy. Dĩ nhiên, với cái đầu gối bị liệt khớp, ông ấy không thể đi xa được, song ông ấy một mực đòi cưỡi ngựa ra đi với chúng tôi. Mẹ cháu đồng ý với điều kiện là ông nhảy qua được hàng rào đồng cỏ vì, bà nói, trong quân đội, rồi đây cánh kỵ binh sẽ phải qua nhiều thử thách gay go. Ba cháu cho cái đó là dễ ợt, nhưng…chả biết cháu có tin không? Khi con ngựa lao tới chỗ hàng rào, nó dừng sững lại và ba cháu bay qua đầu nó! Kể cũng lạ là làm sao ông ấy không hề gãy cổ! Cháu cũng biết là ba cháu ương ngạnh như thế nào! Ông ấy đứng ngay dậy và thử lại lần nữa. Thế đấy, Scarlett, ông ấy nhào như vậy ba lần trước khi bà O’Hara và Pork dìu ông vào giừơng. Ông ấy rất cay cú chuyện ấy và nhất quyết rằng mẹ cháu đã niệm thần chú vào tai con ngựa. Quả là ông ấy không còn đủ sức phục vụ trong quân đội, Scarlett ạ. Cháu không việc gì phải xấu hổ về chuyện ấy. Nói cho cùng, cũng phải có người ở lại nhà, trồng cấy, thu hoạch mùa màng cho quân đội chứ. Scarlett chẳng hề xấu hổ chút nào, mà chỉ cảm thấy nhẹ hẳn người. - Bác đã gửi India và Honey đến Macon ở với gia đình Burrs, còn ba cháu hiện trông nom cả trại Mười Hai cây Sồi lẫn ấp Tara…Thôi, bác phải đi đây, cháu thân yêu, cho bác hôn bộ mặt xinh đẹp của cháu nào. Scarlett dẩu môi lên hôn lại ông, cổ họng đau nghẹn lại. Nàng rất yêu quý ông Wilkes. Đã có một thời kỳ, xa lắm rồi, nàng từng hy vọng được làm con dâu ông. - Và cháu phải chuyển lại cái hôn này cho Pittypat và cái này cho Melanie nhé, ông nói, khẽ hôn nàng hai lần nữa. Thế con Melanie ra sao? - Cô ấy khỏe ạ. - Chà! Mắt ông nhìn vào nàng, nhưng xuyên qua nàng, vượt qua nàng y như cách nhìn của Ashley dạo xưa, đôi mắt xám xa vắng hướng về một thế giới khác. Bác xiết bao mong muốn được thấy đứa cháu nội đầu tiên của mình! Tạm biệt, cháu thân yêu. Ông nhảy lên mình con Nelli và phóng đi, mũ cầm tay, phơi mái tóc bạc dưới mưa. Mãi sau khi trở lại bên Maybelle và bà Meade, Scarlett mới vỡ ra hết ý nghĩa câu nói cuối cùng của ông. Rồi, trong một nỗi kinh hoàng dị đoan, nàng làm dấu thánh giá và cố đọc một lời cầu nguyện. Ông đã nói đến cái chết, cũng như Ashley và giờ đây, Ashley…Không ai nên nói đến cái chết! Nhắc đến cái chết tức là như Thiên mệnh. Trong khi ba người đàn bà lặng lẽ trở về bệnh viện dưới mưa, Scarlett thầm cầu nguyện: “Xin thượng đế đừng gọi bác ấy về chầu! Xin tha cho bác ấy và cả Ashley nữa!” Cuộc rút lui từ Dalton về núi Kennesaw kéo dài từ đầu tháng Năm đến giữa tháng Sáu. Và khi những ngày mưa oi nồng tháng Sáu đã qua và Sherman không đánh bật được quân Liên bang khỏi những triền núi trơn, dốc đứng, thì hy vọng lại chớm nở. Ai nấy đều phấn chấn hơn và nói tốt hơn về hướng Johnston. Khi tháng Sáu ẩm ướt chuyển qua một tháng Bảy còn ẩm ướt hơn và quân Liên bang, quyết tử chiến trên những cao điểm, vẫn cầm chân được Sherman, thì Atlanta vui như điên. Hy vọng bốc lên đầu như men rượu. Hoan hô! Hoan hô! Ta đã nắm được huyệt chúng! Hàng loạt cuộc liên hoan, nhảy múa bùng ra. Bất kỳ lúc nào có một nhóm người ở trận tuyến về ghé lại nghỉ đêm ở thành phố, người ta đều mở tiệc chiêu đãi họ, sau đó là khiêu vũ và các cô gái, đông gấp mười họ, tranh nhau nhảy với các chàng dũng sĩ. Atlanta đầy những khách đến thăm, dân tỵ nạn, gia đình các thương binh điều trị ở bệnh viện, vợ và mẹ các quân nhân đang chiến đấu trên núi muốn được ở gần họ trong trường hợp bị thương. Thêm vào đó, từ những quận, huyện chỉ còn những cậu bé dưới mười sáu tuổi hoặc những ông già ngòai sáu mươi là nam giới, hàng bầy đoàn thiếu nữ đổ xô về thành phố. Bà cô Pitty hết sức chê trách đám này, vì bà cảm thấy họ đến Atlanta không vì lý do nào khác ngoài việc kiếm chồng và cái thói trơ trẽn mặt dày mày dạn ấy khiến bà tự hỏi không biết rồi thế giới còn sa đọa đến đâu nữa, Scarlett cũng đồng tình với bà. Nàng bất cần sự ganh đua ráo riết của các cô bé mười sáu tuổi mà những cặp má hồng tươi tắn cùng những nụ cười rực rỡ khiến người ta quên những chiếc áo dài đã lộn tới hai lần cùng những đôi giày vá của họ. Quần áo của nàng còn đẹp hơn, mới hơn hầu hết bọn họ nhờ những hàng tơ lụa, vải vóc Rhett Butler đã mang về cho nàng trong chuyến tàu vượt rào cuối cùng của chàng, nhưng dù sao, nàng cũng đã mười chín, mỗi ngày một nhiều tuổi, mà đàn ông thì lại có cái thói cứ chạy theo những đồ trẻ ranh ngu ngốc. Một quả phụ có một con là ở thế bất lợi so với những ả xinh tươi ấy, nàng nghĩ thầm. Nhưng trong những ngày náo nức này, tình cảnh mẹ góa con côi của nàng đỡ nặng nề hơn bao giờ hết. Giữa những công việc ở bệnh viện ban ngày và các cuộc liên hoan ban đêm, nàng chả mấy khi thấy mặt bé Wade. Đôi khi, nàng thở dài, nàng quên bẵng là mình có con. Trong những đêm hè nóng ẩm, các gia đình ở Atlanta đều mở rộng cửa với những người lính, những người bảo vệ thành phố. Những ngôi nhà lớn từ phố Washington đến phố Cây Đào rực rỡ ánh sáng, khi người ta tiếp đãi các dũng sĩ lấm lem bùn đất từ chiến hào trở về, và tiếng banjo, violon, tiếng chân nhảy rậm rịch cùng tiếng cười lâng lâng vang đi xa trong trời đêm. Từng tốp, từng tốp xúm quanh những chiếc piano và những giọng đắm đuối hát lên lời ca buồn thảm của bài “Thư em có đến nhưng đến quá muộn”, trong khi các chàng si rách rưới liếc mắt đưa tình với các nữ lang yểu điệu đưa những chiếc quạt lông công lên che miệng cười, khẩn cầu các nàng đừng có chờ đến lúc quá muộn. Không nàng nào chịu chờ, khi có hoàn cảnh. Theo cái cao trào hoan lạc cuồng nhiệt tràn ngập thành phố, họ đổ xô đi lấy chồng. Trong cái tháng Johnston cầm chân địch ở núi Kennesaw, bao nhiêu đám cưới đã được tổ chức, những đám cưới trong đó cô dâu, mặt đỏ bừng hạnh phúc, diêm dúa trong xiêm y và đồ trang sức mượn vội mượn vàng của mười cô bạn và chú rể thì đeo gươm dập hoài vào đầu gối quần vá víu. Xiết bao phấn khích, biết bao cuộc liên hoan, xiết bao mê ly rạo rực! Hoan hô! Johnston đang chặn đứng bọn Yankee cách đây hai mươi hai dặm! Phải, những phòng tuyến quanh núi Kennesaw quả là kiên cố, không lực lượng nào có thể đánh chiếm được. Sau hai mươi lăm ngày công kích kéo theo những tổn thất cực lớn, ngay cả tướng Sherman cũng phải tin là thế. Thay vì tấn công trực diện, ông ta lại triển khai quân thành một vòng tròn rộng, cố thọc vào giữa quân đội Liên bang và Atlanta. Một lần nữa, chiến lược này lại đạt kết quả. Johnston buộc phải bỏ những cao điểm ông đã chốt một cách tuyệt vời đến thế, để bảo vệ phía sau lưng. Ông đã mất một phần ba quân số trong trận này và số còn lại mệt mỏi lê bước trong mưa qua vùng nông thôn về phía sông Chattahoochee. Quân Liên bang không thể trông mong thêm một sự tăng viện nào nữa, trong khi tuyến đường sắt từ phía nam Tennessee cho tới mặt trận, giờ đây do bọn Yankee chiếm giữ, hàng ngày vẫn chở đến cho Sherman những đợt tiếp tế mới về người và lương thực. Như vậy, những đoàn quân áo xám, xuyên qua cánh đồng lầy lội, rút về phía Atlanta. Với sự thất thủ của cái cứ điểm được coi là không thể đánh chiếm một làn sóng kinh hoàng mới lại tràn ngập thành phố. Trong hai mươi lăm ngày vui sướng điên cuồng, ai nấy đều cam đoan với người khác rằng điều ấy không thể xảy ra. Vậy mà giờ đây, nó đã xảy ra! Nhưng chắc chắn tướng Johnston sẽ giữ được bọn Yankee trên bờ sông bên kia. Mặc dầu Chúa biết là con sông cũng khá gần, chỉ cách thành phố có bảy dặm! Nhưng Sherman lại đánh vu hồi, cho quân vượt sông ở mé trên họ và đoàn quân áo xám mệt mỏi lại phải hối hả băng qua dòng nước vàng đục một lần nữa nêm mình vào giữa, ngăn bọn xâm lược với Atlanta. Họ đào vội đào vàng những hào nông tòen ở thung lũng suối Cây Đào ở phía Bắc thành phố. Atlata quằn quại, kinh hoàng. Đánh rồi lại thoái! Đánh rồi lại thoái! Và sau mỗi đợt rút lui, quân Yankee lại sáp tới gần thành phố hơn. Suối Cây Đào chỉ còn cách có năm dặm. Tướng Johnston nghĩ thế nào vậy? Những lời kêu gào: “Hãy cho chúng tôi một con người biết trụ lại chiến đấu!” vang lên đến tận Richmond. Richmond biết nếu mất Atlanta là mất luôn cả cuộc chiến tranh và sau khi quân Liên bang rút qua sông Chattahoochee, tướng Johnston bị cách chức tư lệnh. Tướng Hood, một trong những chỉ huy quân đoàn của ông, lên thay và thành phố thở nhẹ nhõm hơn một chút. Hood chắc sẽ không chịu lùi. Không con người quê ở Kentuckian này, con người cao lớn trượng phu, râu phất phơ bay và mắt nảy lửa, ắt chẳng chịu lùi! Ông nổi tiếng là hăng như một con chó bo. Ông sẽ đánh lui bọn Yankee khỏi Suối Cây Đào, phải, đẩy lùi chúng qua sông, rồi từng bước một chiếm lại con lộ dẫn tới Dalton. Nhưng binh sĩ thì lại kêu gào: “Trả lão tướng Joe lại cho chúng tôi!” vì họ đã nằm gai nếm mật với lão tướng Joe trên suốt bao dặm đường mệt nhọc từ Dalton tới đây và khác với những người dân thường không ở trong cuộc, họ hiểu mọi khó khăn, trở ngại đã chống lại họ, đã trói tay họ. Sherman không chờ đợi cho Hood chuẩn bị sẵn sàng mới tấn công. Một ngày sau khi thay đổi tư lệnh, viên tướng Yankee đánh chớp nhoáng vào Decatur ở quá Atlanta sáu dặm, chiếm được thị trấn nhỏ này và cắt đứt đường xe lửa tại đó. Đây là tuyến nối liền Atlanta với Augusta, với Charleston, với Wilmington và với Virginia. Sherman đã giáng cho Liên bang một đòn bại hoại. Đã đến lúc phải hành động.Atlanta kêu gào hành động! Rồi vào một chiều tháng Bảy, nóng như thiêu đốt, Atlanta đã thỏa nguyện. Tướng Hood còn làm hơn là trụ lại chiến đấu. Ông tấn công quyết liệt bọn Yankee ở Suối Cây Đào, ném quân từ chiến hào vào giữa hàng ngũ áo xanh ở chính chỗ quân của Sherman đông hơn gấp đôi mình. Vừa sợ hãi, vừa cầu nguyện cho cuộc tấn công của Hood đẩy lùi được bọn Yankee, ai nấy lắng nghe tiếng pháo gầm và tiếng đùng đoàng của hàng nghìn khẩu súng trường, tuy cách trung tâm thành phố những năm dặm mà nghe to như ở khu phố bên cạnh. Họ có thể nghe thấy tiếng sấm rền đại bác, trông thấy khói cuồn cuộn như những đám mây là thấp trên ngọn cây, nhưng trong hàng giờ liền, không ai biết diễn biến trận đánh ra sao. Vào cuối chiều, những tin đầu tiên tới, kinh hoàng, nhưng đầy mâu thuẫn, không đảm bảo chính xác, vì được thông báo từ miệng những người bị thương từ lúc mới bắt đầu trận đánh. Những người này bắt đầu thất thểu lần về thành phố, đi lẻ hay từng tốp, người bị thương nhẹ đỡ người tập tễnh đi không vững. Chẳng mấy chốc, một dòng thương binh liên tục đã hình thành, lê lết khó nhọc tìm đường về bệnh viện thành phố, mặt xạm đen thuốc súng, bụi và mồ hôi, ruồi bu đầy những vết thương không được băng bó, máu đã đông lại. Nhà bà cô Pity là một trong những ngôi nhà đầu tiên mà anh em thương binh mò tới khi họ kéo vào thành phố từ phía Bắc. Lần lượt từng người chuệnh choạng theo nhau tới cánh cổng, rụn xuống bãi cỏ xanh và thều thào: - Nước! Suốt buổi chiều nóng như thiêu đốt, bà cô Pitty cùng cả nhà, da trắng cũng như da đen, đứng dưới nắng, múc nước từ những xô và băng bó những vết thương cho đến khi không còn cuộn băng nào, thậm chí cả những mảnh xé từ khăn mặt và khăn trải giường cũng hết sạch. Bà cô Pitty hoàn toàn quên hẳn cái chứng ngất xỉu mỗi lần nhìn thấy máu, và cứ làm miết cho đến khi đôi chân nhỏ bé sưng lên trong đôi giày quá chật và không đỡ nổi thân hình bà nữa. Ngay đến khi Melanie, giờ đã chửa vượt mặt, cũng quên cả e thẹn và mải mê làm việc, sát cánh với Prissy, chị bếp và Scarlett, gương mặt cũng căng thẳng như bất kỳ một thương binh nào. Cuối cùng, khi nàng lả đi thì không còn chỗ nào để đặt nàng ngòai cái bàn bếp, vì tất cả giường, ghế và sofa trong nhà đều đã có thương binh nằm. Bị bỏ quên trong sự nhốn nháo ấy, bé Wade thu lu sau hàng lan can ở hiên trước, nghé mắt nhòm ra ngoài bãi cỏ như một chú thỏ khiếp đảm bị nhốt trong lồng, mắt thao láo kinh hãi, ngón tay cái đút vào miệng, vừa mút vừa nấc. Một lần, Scarlett trông thấy nó và quát: “Ra sân sau chơi, Wade Hampton!”, nhưng nó quá sợ, đồng thời lại quá mê mẩn với cái cảnh điên loạn trước mắt, nên chẳng còn bụng dạ nào mà làm theo lời mẹ. Bãi cỏ la liệt những người nằm gục, quá mệt không đi được xa hơn nữa, quá đuối sức vì những vết thương đến độ không cử động được nữa. Những người này, bác Peter chất lên xe ngựa, chở đến bệnh viện, hết chuyến này đến chuyến khác, tới khi con ngựa già vã mồ hôi ra như tắm. Các bà Meade và Merriwether cho xe nhà tới tiếp sức, đến lượt những xe này phóng đi, lò xo trĩu xuống dưới trọng lượng của các thương binh. Sau đó, trong hoàng hôn nóng bức, kéo dài của tiết hè, những xe cứu thương và xe quân nhu phủ bạt lấm lem bùn đất, rầm rầm từ mặt trận về. Rồi đến những xe tải cho nông trại, xe bò và thậm chí những xe tư nhân bị ban quân y trưng dụng. Những đoàn xe này qua trước cửa nhà bà cô Pitty, xóc lên xóc xuống trên con đường đầy ổ gà, chất đầy những người bị thương và hấp hối, máu rỏ xuống lớp bụi đỏ. Trông thấy các phụ nữ với những xô nước và gáo, những người lái xe dừng xe và một hợp xướng cất lên, kẻ thì thào: - Nước! Scarlett đỡ những cái đầu ngật ngưỡng để những môi khô có thể uống được, đổ hàng xô nước lên những thân hình nhớp bụi, sốt hầm hập, lên những vết thương hoác miệng, cho họ được nguôi dịu trong chốc lát. Nàng kiễng chân đưa những gáo nước cho các lái xe cứu thương và mỗi lần như vậy, nàng đều hỏi, cổ họng se lại: - Có tin gì không? Có tin gì không? Tất cả đều thống nhất một câu trả lời: - Chúng tôi không biết đích xác, cô ạ. Còn quá sớm chưa nói chắc được. Đêm xuống và trời vẫn ngột ngạt. Không một hơi gió và những ngọn đuốc thông cháy bùng bùng trong tay những người da đen càng làm cho không khí thêm nóng bức. Bụi chét trong lỗ mũi Scarlett và làm môi nàng khô lại. Chiếc áo diềm bâu màu hoa oải hương nhớp những máu, bụi đất và mồ hôi. Thì ra đây chính là điều Ashley muốn nói khi chàng viết trong thư rằng chiến tranh không phải là vinh quang huy hoàng, mà là bùn đất bẩn thỉu và khổ cực cơ hàn. Cái mệt điểm vào toàn bộ cảnh này một nét hư ảo, đầy màu sắc ác mộng. Đây không thể là cảnh thật – mà nếu nó là thật thì quả là thế giới hóa điên mất rồi. Nếu không thì tại sao nàng lại đứng đây, trong mảnh sân trước yên bình nhà bà cô Pitty, giữa những ánh lửa chập chờn, mà đổ nước lên mình những chàng si hấp hối? Vì trong số này có rất nhiều người theo đuổi nàng và họ cố mỉm cười khi trông thấy nàng. Trong số những người được chở trên những chiếc xe lọc cọc xuôi con đường tối và đầy bụi, có biết bao chàng rất quen thuộc đối với nàng, trong số những người đang hấp hối trước mắt nàng đây, với hàng đàn ruồi muỗi nhâu nhâu xà vào bộ mặt đầy máu, có biết bao chàng đã từng nhảy với nàng, cười đùa với nàng, đã từng nghe nàng đàn, hát, đã từng bị nàng trêu chọc, đã từng được nàng động viên an ủi và yêu…một tí ti. Nàng phát hiện thấy Carey Ashburn chỉ còn thoi thóp trong một chiếc xe bò, nằm tận dưới cùng với một vết đạn vào đầu. Nhưng nàng không thể lôi anh ta ra mà không làm rầy sáu thương binh khác, thành thử nàng phải để họ đưa anh ta đi tiếp đến bệnh viện. Về sau, nàng nghe nói anh ta đã chết trước khi được bác sĩ ngó tới và được chôn ở đâu đó không ai biết đích xác. Tháng ấy có biết bao người đã được chôn trong những huyệt nông đào vội vàng ở nghĩa trang Oakland. Melanie rất khổ tâm về nỗi không lấy được một lọn tóc của Carey để gửi cho bà mẹ ở Alabama. Đêm hè nóng nực tàn dần, lưng đau nhừ, và đầu gối rụn xuống vì mỏi mệt, nhưng bà Pitty và Scarlett vẫn hỏi hết người nọ đến người kia: “Có tin gì không? Có tin gì không?” Và qua những giờ dài dằng dặc, họ nhận được câu trả lời, một câu trả lời khiến họ xanh mắt nhìn nhau: “Chúng tôi đang rút lui”, “Chúng tôi buộc phải rút lui”. “Bọn chúng đông hơn quân ta hàng nghìn tên” “Bọn Yankee cắt đôi kỵ binh của Wheeler ở gần Decatur. Chúng tôi phải tăng viện cho họ” “Quân ta sắp kéo hết về thành phố”. Scarlett và bà Pitty nép vào nhau, người nọ níu cánh tay người kia. - Thế…bọn Yankee có đuổi theo không? - Có chứ, bọn chúng xẽ đuổi theo, dưng chúng xẽ không tiến xa được đâu, thưa bà. - Tiểu thư đừng lo, chúng ta có hàng tỉ cây xố công xự quanh thành phố này. - Chính tai tôi nghe già Joe nói: Ta có thể giữ được Atlanta mãi mãi. - Cơ mà bây giờ ta có còn gọi là già Joe lữa đâu. Bây giờ là…. - Im cái mồm, đồ ngu! Cậu muốn làm các bà khiếp đảm, hử? - Bọn Yankee sẽ không bao giờ chiếm được nơi này đâu, thưa bà. - Tại sao bà mấy cô không đến Macon hay lơi lào an toàn hơn? Bà mấy cô không có bà con thân thích ở đấy à? - Đáng nhẽ ra bọn Yankee xẽ không chiếm nổi Atlanta, dưng mà xắp tới, khi bọn chúng cố húc đầu vào thì chả tốt nành gì cho các bà các cô đâu. - Sắp tới sẽ là những trận mưa đại bác đấy. Ngày hôm sau, dưới một cơn mưa oi nóng làm đường phố bốc hơi, đoàn quân thất trận chảy nườm nượp qua Atlanta, hàng nghìn, hàng nghìn người kiệt lực vì đói và mệt rời rã sau bảy mươi sáu ngày chiến đấu và rút lui. Ngựa đói, gày dơ xương, xe đại bác buộc chằng được sao hay vậy bằng những đoạn thừng đầu thừa đuôi thẹo, bằng những dải da thô. Nhưng đó không phải là một đám người ô hợp, chạy tán loạn. Họ đi rất trật tự, quần áo rách tơi tả mà vẫn hiên ngang, lá cờ trận đỏ rực rách nát vẫn phấp phới trong mưa. Họ đã học được thuật rút lui dưới sự chỉ huy của lão tướng Joe, người đã biến việc đó thành kỳ tích chiến lược cũng lớn ngang với tiến quân. Những hàng người râu ria, tiều tụy chạy xuôi phố Cây Đào theo điệu hát “Maryland! Maryland của tôi” và cả thành phố đổ ra hoan hô: Dù thắng hay thua, đó vẫn là những tráng sĩ của họ. Đơn vị dân binh của bang, mới ra đi chưa được bao lâu, chói ngời trong những bộ đồng phục mới, giờ đây cũng bẩn thỉu, lôi thôi lếch thếch chẳng khác quân chính qui là mấy. Mắt họ có một vẻ gì mới. Giờ đây, họ đã bỏ lại sau lưng ba năm ròng biện minh, giải thích lý do tại sao họ không có mặt ngoài mặt trận. Họ đã đánh đổi sự an toàn đằng sau trận tuyến lấy những gian khổ chiến trường. Nhiều người trong số họ đã đổi cuộc sống thoải mái lấy cái chết đau đớn. Giờ đây họ là những cựu chiến binh, và họ đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Họ tìm những khuôn mặt bạn bè trong đám đông và nhìn thẳng vào những khuôn mặt ấy, kiêu hãnh, thách thức. Giờ đây, họ có thể ngẩng cao đầu. Đội vệ binh địa phương đi qua, các cụ già râu bạc quá mệt hầu như không nhấc nổi chân, còn đám thiếu niên thì mang bộ mặt phờ phạc của những đứa trẻ phải đối mặt quá sớm với những vấn đề của người lớn. Scarlett nhìn thấy Phil Meade và phải khó khăn lắm mới nhận ra cậu, vì mặt cậu đen nhẻm thuốc súng và cáu ghét, mệt mỏi và căng thẳng. Ông bác Henry tập tễnh đi trong mưa không mũ măng, đầu thòi qua lỗ hổng một tấm vải sơn cũ kỹ. Cụ Merriwether ngồi trên một chiếc xe chở pháo, đôi chân trần quấn bằng những mảnh vải xé từ mền ra. Nhưng tha hồ tìm, nàng vẫn không thấy tăm hơi ông John Wilkes đâu. Tuy nhiên, các cựu chiến binh của Johnston vẫn diễu qua với bước chân thoải mái như không hề biết mệt, đã thành nếp trong ba năm qua. Họ vẫn còn đủ sức để nhỏen miệng cười và vẫy những cô gái xinh đẹp, để giễu cợt thô bạo những chàng trai không mặc quân phục. Họ đang trên đường tới hệ thống chiến hào bao quanh thành phố - không phải những đường hào đào vội vàng, mà là những công sự cao ngang ngực, đắp thêm bao cát và trên có cắm những cọc gỗ đầu nhọn hàng bao dặm quanh thành phố, những đường hào chạy suốt – những vệt khe đỏ đội những gò đỏ đang chở đoàn chiến binh đến chiếm lĩnh. Đám đông hoan hô đòan quân như thể chào mừng họ chiến thắng trở về. Trong thâm tâm, ai nấy đều lo sợ, nhưng giờ đây, khi họ đã biết sự thật, khi điều xấu nhất đã xảy đến, khi chiến tranh đã tới mảnh sân trước nhà họ, bộ mặt thành phố bỗng thay đổi. Không kinh hoàng, không thác loạn. Dù trong lòng có nghĩ gì, cũng không lộ ra nét mặt. Mọi người nom đều vui tươi, mặc dầu phải cố gượng hò reo hoan hô. Trước mặt đoàn quân, mọi người đều cố tỏ ra can đảm, tin tưởng. Mọi người đều nhắc lại lời lão tướng Joe đã nói, đúng vào lúc trước khi ông bị cắt chức tư lệnh: “Tôi có thể giữ Atlanta mãi mãi”. Giờ đây khi Hood phải rút lui, khá nhiều người mong muốn như anh em binh sĩ là lão tướng Joe đã được trả về cương vị cũ, nhưng họ tránh không nói ra, mà chỉ mượn câu của lão tướng Joe để nuôi dưỡng ý chí và lòng can đảm. “Tôi có thể giữ Atlanta mãi mãi!” Những chiến thuật thận trọng của tướng Johnston không hợp với Hood. Ông tấn công bọn Yankee, hết đánh đông lại đánh tây. Sherman vây quanh thành phố như một đô vật đang tìm miếng để quật ngã địch thủ, còn Hood thì không chịu nấp dưới chiến hào chờ bọn Yankee tiến công. Ông mạnh bạo tung quân ra, giáp chiến dữ dội. Trong mấy ngày, đã diễn ra các trận Atlanta và Nhà Thờ Ezra, cả hai đều là những cuộc giao chiến lớn đến nỗi bênh cạnh đó, trận suối Cây Đào dường như chỉ là cuộc đụng độ lẻ. Nhưng bọn Yankee vẫn trở lại tiếp tục công kích. Chúng đã bị tổn thất nặng nề, nhưng chúng không chịu thua. Và các khẩu pháo của chúng không ngừng trút đạn xuống thành phố, giết nhiều người ngay trong nhà mình, lột bằng những mái nhà, khoét những hố to tướng trên đường phố. Dân thành phố tìm những nơi trú ẩn tốt nhất: trong hầm rượu, trong những hốc sâu và trong những hào nông đào bên rệ đường sắt. Atlanta đã bị bao vây. Trong vòng mười một ngày sau khi nắm quyền chỉ huy, tướng Hood đã tiêu một số quân gần bằng số quân Johnston đã mất trong bảy mươi hai ngày giao chiến và rút lui, để bây giờ Atlanta bị vây ém ở ba mặt. Đường xe lửa từ Atlanta đến Tennessee giờ đây ở trong tay Sherman trên toàn bộ chiều dài của nó. Quân của ông ta chặn ngang đường sắt về phía tây và ông ta đã cắt đứt tuyến chạy sang phía tây nam tới Alabama. Chỉ còn tuyến duy nhất xuống phía nam tới Macon và Savannah là chưa bị động tới. Thành phố chật ních binh lính, la liệt người bị thương, nhan nhản dân tị nạn và tuyến đường sắt duy nhất này không đủ đáp ứng những nhu cầu bức thiết đến phát gào lên của thành phố đau đòn. Nhưng chừng nào còn giữ được đường sắt thì Atlanta còn có thể đứng vững. Scarlett thất kinh khi nhận thức được tuyến đường sắt này đã trở nên quan trọng như thế nào, Sherman sẽ đánh dữ như thế nào để chiếm nó và Hood sẽ chống lại quyết liệt như thế nào để giữ nó. Vì đó là con đường sắt chạy xuyên qua, chạy xuyên qua Jonesboro. Và ấp Tara chỉ cách Jonesboro có năm dặm. Ấp Tara dường như một bến trú bình yên so với cái địa ngục Atlanta đầy tiếng gào rú này, nhưng ấp Tara chỉ cách Jonesboro có năm dặm! Vào cái ngày diễn ra trận Atlanta, Scarlett và nhiều phụ nữ khác ngồi trên mái bằng của các cửa hàng, dưới bóng những chiếc dù nhỏ xíu, và theo dõi diễn biến của cuộc chiến đấu. Nhưng khi những trái đạn đại bác bắt đầu rơi vào các phố lần đầu tiên, họ bèn chạy xuống các hầm rượu. Và đêm hôm ấy, cuộc di tản đàn bà, trẻ con và người già ra khỏi thành phố bắt đầu, nhằm hướng Macon. Nhiều người trong đám tị nạn lên tàu đêm ấy, đã từng chạy đến năm, sáu lần kể từ khi Johnston rút lui khỏi Dalton. Giờ đây, hành trang của họ gọn nhẹ hơn khi họ tới Atlanta. Phần lớn chỉ mang một chiếc túi bằng thảm và một suất ăn gói trong một chiếc khăn tay lớn in hoa sặc sỡ. Đây đó, mấy gia nhân nhớn nhác mang những bộ đồ ăn bằng bạc: bát đĩa, cốc, dao, rĩa và một, hai bức ảnh gia đình đã cứu được từ lần chạy loạn đầu tiên. Hai bà Merriwether và Elsing không chịu đi. Bệnh viện cần các bà và, hơn nữa, các bà kiêu hãnh nói – các bà đâu có sợ. Không một tên Yankee nào có thể đuổi các bà ra khỏi nhà mình được. Nhưng Maybelle cùng đứa con nhỏ và Fanny Elsing thì tản cư về Macon. Bà Meade lần đầu tiên từ khi lấy chồng, tỏ ra bất phục tùng và thẳng thừng từ chối, không chịu nghe theo lệnh của ông bác sĩ bắt bà lên tàu đến nơi an toàn. Bà nói ông bác sĩ cần đến bà, hơn nữa, Phil đang ở nơi nào đó trong chiến hào và bà muốn ở gần cậu trong trường hợp… Nhưng bà Whiting thì đi cùng với nhiều phụ nữ khác trong giới giao du với Scarlett. Bà cô Pitty người đầu tiên lên án chiến lược rút lui của lão tướng Joe, cũng ở trong số những người đầu tiên đóng gói hành trang ra đi. Thần kinh của bà yếu, bà nói, và bà không chịu nổi tiếng động. Bà sợ mình có thể ngất khi nghe tiếng nổ, không kịp xuống hầm rượu. Không, bà không sợ. Cái miệng con nít của bà cô mắm lại cho ra vẻ hùng dũng mà không được. Bà sẽ đến Macon với bà chị họ già Burr và hai cô cháu gái có nhiệm vụ phải đi theo bà. Scarlett không muốn đi Macon. Tuy rất sợ đạn pháo, nàng vẫn ưng ở lại Atlanta hơn là đi Macon, vì nàng ghét cay ghét đắng bà già Burr. Cách đây nhiều năm, bà đã bảo nàng “lẳng lơ” sau khi bắt gặp nàng hôn Willie, con trai bà, trong một bữa chiêu đãi ở gia đình Wilkes, “Không”, nàng nói với bà cô Pitty, “cháu sẽ về ấp Tara, để Melanie đi Macon với cô”. Nghe vậy Melanie òa lên khóc, đau đớn và sợ hãi, không sao dỗ nổi. Khi bà cô Pitty vội vàng đi kiếm bác sĩ Meade, Melanie nắm lấy tay Scarlett, van vỉ: - Chị thân yêu, đừng bỏ em mà về Tara! Vắng chị, em sẽ cô độc biết mấy. Ôi, Scarlett, nếu chị không ở bên em khi em sinh cháu thì em chết mất! Phải,…phải, em biết là đã có cô Pitty và cô rất dễ thương. Nhưng dù sao đi nữa, cô chưa bao giờ biết đến chuyện sinh con đẻ cái, với lại đôi khi cô làm em sốt ruột muốn hét lên. Đừng bỏ em, chị thân yêu. Chị đúng như chị ruột em và hơn nữa (nàng mỉm một nụ cười nhợt nhạt), chị đã hứa với Ashley là sẽ trông nom em mà. Lúc chia tay, anh ấy có bảo em là anh ấy sẽ nhờ cậy chị” Scarlett ngạc nhiên nhìn Melanie chằm chằm. Người thiếu phụ này, xưa nay, nàng vốn ghét đến mức phải khó khăn lắm mới giấu nổi ác cảm, vậy mà làm sao Melly có thể yêu nàng đến thế? Làm sao Melly có thể ngu ngốc đến độ không đoán ra mối tình thầm kín của nàng đối với Ashley? TronG những tháng đau đớn chờ đợi tin tức về Ashley, nàng đã để lộ ra hàng trăm lần, mà Melanie vẫn chẳng thấy gì cả, Melanie, con người vốn chỉ nhìn thấy cái tốt ở những người mình yêu…Phải, nàng đã hứa với Ashley sẽ chăm lo cho Melanie. Ôi, Ashley! Ashley! Hẳn anh đã chết, chết từ nhiều tháng nay rồi! Và bây giờ, lời hứa của anh vươn tay ra, níu chặt lấy em! - Thôi được, nàng nói, giọng cộc lốc. Tôi đã hứa với anh ấy và tôi không nuốt lời. Nhưng tôi sẽ không đi Macon ở với cái bà già Burr nanh nọc ấy đâu. Trong vòng năm phút, khéo tôi sẽ móc mắt bà ấy ra mất. Tôi sẽ về ấp Tara và cô có thể đi cùng với tôi. Có cô đến cùng ở, mẹ tôi chắc sẽ thích lắm. - Ôi, thế thì thích quá! Mẹ chị rất đáng yêu. Nhưng chị biết đấy, nếu khi em sinh cháu mà cô Pitty không có ở bên thì cô đến chết mất, mà em biết là cô ấy ắt chẳng chịu đi Tara đâu. Ở đấy quá gần mặt trận, mà cô thì muốn an toàn. Bác sĩ Meade thở hồng hộc chạy đến, những tưởng sẽ thấy ít ra Melanie chí ít là đang lên cơn đau trở dạ sớm, bằng vào cái vẻ hoảng hốt của bà cô Pitty đến gọi. Ông bực bội phát biểu thẳng nỗi bất bình của mình. Và sau khi được biết nguyên nhân sự náo động này, ông giải quyết vấn đề bằng những lời quyết đoán không cho phép bàn cãi. - Đừng có đặt vấn đề đi Macon, cô Melanie. Tôi sẽ không đảm bảo nếu cô di chuyển. Các chuyến tàu đều chật ních, giờ giấc không nhất định, và nếu cần chở thương binh hoặc quân đội cũng vũ khí, đạn dược thì hành khách dám bị mời xuống nghỉ tạm trong rừng bất cứ lúc nào. Cô đang bụng mang dạ chửa… - Nhưng nếu cháu đi Tara với chị Scarlett… - Tôi đã bảo tôi không đồng ý để cho cô di chuyển. Tàu đi Tara cũng là tàu đi Macon, điều kiện y hệt nhau. Hơn nữa, chẳng ai biết đích xác giờ bọn Yankee ở đâu, nhưng thực tế là chúng có mặt khắp nơi. Thậm chí, chúng có thể chẹn bắt tàu cô đi. Và ngay cả nếu cô tới được Jonesboro an toàn, thì cũng còn phải đi xe ngựa năm dặm trên một con đường gồ ghề nữa mới đến ấp Tara. Đó không phải là một cuộc hành trình thích hợp với một phụ nữ đang ở thể trạng cần phải hết sức gượng nhẹ. Vả lại, trong hạt đó không có lấy một bác sĩ nào từ khi ông bác sĩ già Fontaine gia nhập quân đội. - Nhưng có nhiều nữ hộ sinh…. - Tôi nói bác sĩ kia, ông đáp giật giọng và mắt ông bất giác lướt trên thân hình mảnh dẻ của Melanie. Tôi không muốn cô di chuyển. Điều đó có thể nguy hiểm. Cô không muốn đẻ trên tàu hoặc trên xe ngựa chứ. Sự thẳng thắn đầy tinh thần lương y ấy làm mấy người phụ nữ đỏ mặt, bối rối và lặng thinh. - Cô phải ở lại ngay đây, nơi tôi có thể theo dõi và cô cần nằm yên trên giường. Không có chạy lên chạy xuống cầu thang hầm rượu. Không, ngay cả nếu đạn đại bác rót vào ngay cửa sổ. Nói cho cùng, ở đây cũng chẳng đến nỗi nguy hiểm lắm đâu. Chúng ta sẽ mau chóng đánh lui bọn Yankee…Thôi, Miss Pitty, bà cứ Macon đi, để hai cô ở lại đây. - Không có ai giám hộ ư? Bà Pitty kinh hãi kêu lên. - Họ đã là những thiếu phụ có chồng, ông bác sĩ khó chịu nói. Với lại bà Meade nhà tôi ở cách đây có hai nhà. Dù sao đi nữa, với tình trạng cô Melly hiện nay, họ chẳng tiếp khách đàn ông đâu mà lo. Lạy Chúa, Miss Pitty, đây là thời chiến mà! Ta không thể nghĩ đến chuyện phép tắc lễ nghi được đâu. Ta phải nghĩ đến cô Melly là chính. Ông dận gót ra khỏi phòng và đợi ở hiên trước cho đến khi Scarlett ra gặp ông. - Tôi sẽ nói chuyện thẳng thắn với cô, cô Scarlett ạ, ông mào đầu, tay giật giật bộ râu lốm đốm bạc. Cô có vẻ là một thiếu phụ thông minh biết điều hơn lẽ thiệt, cho nên xin cô đừng có đỏ mặt. Tôi không muốn phải nghe nhắc đến chuyện đưa cô Melly đi nữa. Tôi không tin là cô ấy có thể chịu đựng được nỗi vất vả đường trường. Cô ấy sắp phải qua một bước gay go, ngay cả trong hoàn cảnh thuận lợi nhất…mông cô ấy rất hẹp, cô thấy đấy, và có khi phải dùng forceps để cặp thai ra cũng nên, vì vậy tôi không muốn để một mụ da đen dốt nát nào đỡ cho cô ấy. Phụ nữ kiểu như cô ấy lẽ ra không nên sinh nở, nhưng…Dù sao, cô cũng hãy lo thu xếp hành lý cho bà Pitty đi Macon đi. Bà ấy yếu bóng vía đến độ có thể làm cho cô Melly đâm hoang mang và như thế sẽ chẳng có lợi gì. Và bây giờ, cô nữa (ông đăm đăm nhìn như xuyên suốt người nàng), tôi cũng muốn nghe nhắc đến chuyện cô đòi về nhà. Cô phải ở đây với cô Melly cho đến khi đứa bé ra đời. Cô không sợ chứ. - Ồ, không! Scarlett nói cứng. - Thế mới là một cô gái dũng cảm chứ! Bà Meade nhà tôi sẽ phò tá cô bất cứ lúc nào cô cần và tôi sẽ cử bà già Betsy đến nấu nướng cho hai cô, nếu bà Pitty muốn mang theo tất cả gia nhân. Chả mấy nữa đâu. Chỉ năm tuần nữa là đến cữ, nhưng con đầu lòng thì chẳng biết thế nào mà nói trước được. Nhất là cứ pháo kích ùng oàng thế này, cô ấy có thể trở dạ bất cứ hôm nào. Thế là bà cô Pitty đi Macon, khóc như mưa như gió, mang theo bác Peter và chị bếp. Trong một cơn bốc đồng ái quốc, bà tặng bệnh viện cả xe lẫn ngựa, xong lại hối tiếc ngay và điều đó khiến bà đổ thêm nhiều nước mắt nữa. Scarlettarlett và Melanie ở lại một mình với bé Wade và con Prissy trong một ngôi nhà lặng lẽ hơn nhiều mặc dầu các cuộc pháo kích vẫn tiếp tục. CHƯƠNG XIX Trong những ngày đầu này của thời kỳ bị bao vây, khi pháo binh Yankee nã ầm ầm đây đó vào những phòng ngự của thành phố, những quả đạn nổ làm Scarlett khiếp đảm đến nỗi chỉ còn biết co rúm người, đưa tay lên bịt tai, chờ bị tan thây vĩnh viễn bất cứ lúc nào. Mỗi khi nghe tiếng rít veo véo báo hiệu đạn sắp rơi, nàng lại chạy bổ sang phòng Melanie, gieo mình xuống giường cạnh em chồng và hai chị em ghì chặt lấy nhau, vùi đầu dưới đống gối mà kêu “Ôi! Ôi!”. Prissy và Wade lon ton chạy xuống hầm rượu, nấp trong bóng tối đầy mạng nhện, Prissy thì la lên đến vỡ phổi, còn Wade thì thổn thức nấc lên từng cơn. Ngạt thở dưới chồng gối lông trong khi cái chết rú rít trên đầu, Scarlett rủa thầm Melanie đã khiến nàng không xuống được những chỗ an toàn dưới cầu thang. Nhưng bác sĩ Meade đã cấm Melanie không được đi lại thành thử Scarlett phải ở lại với nàng. Cộng với nỗi lo sợ bị tan thây là nỗi sợ không kém mãnh liệt rằng đứa con trong bụng Melanie có thể đòi ra bất cứ lúc nào. Mỗi lần nghĩ vậy, Scarlett lại vã mồ hôi lạnh toát. Nàng biết làm gì nếu Melanie bắt đầu trở dạ? Nàng biết là mình thà để Melanie chết còn hơn là chạy ra phố tìm bác sĩ giữa lúc đạn đại bác rào rào như mưa. Nàng biết là phải đánh con Prissy gần chết mới hòng bắt nó mạo hiểm ra ngoài nhà. Nàng sẽ làm gì nếu Melanie lên cơn đau đẻ? Nhưng vấn đề này, nàng đem ra thì thầm bàn bạc với Prissy, một buổi tối, trong lúc soạn bữa ăn đêm cho Melanie và thật kỳ lạ, Prissy đã làm nguôi mối lo sợ của nàng. - Cô Scarlett, ngay cả lếu không kếm được bác xĩ khi cô Melanie đến lúc đẻ, cô cũng đừng có lo. Cháu có thể thu xếp được. Cháu chả lạ gì chuyện đẻ đái. Bu cháu chả phải là bà đỡ sao? Mà bu cháu lại dạy cháu để nhớn lên cũng thành bà đỡ! Cô chỉ việc để cháu lo liệu. Scarlett thở phào nhẹ nhõm khi biết có những bàn tay thành thạo ngay ở bên, nhưng dù sao nàng cũng cầu mong cho cuộc thử thách kết thúc dứt khoát đi; khao khát điên cuồng những muốn xa hẳn cảnh bom rơi đạn nổ, trở về ấp Tara yên tĩnh, đêm nào nàng cũng cầu nguyện cho đứa bé ra đời ngay ngày hôm sau cho nàng được giải thoát khỏi lời hứa và có thể rời khỏi Atlanta. Ấp Tara có vẻ xiết bao an toàn và xa mọi nỗi cơ cực. Scarlett da diết nhớ nhà và nhớ mẹ như chưa từng nhớ bất kỳ cái gì đến như vậy trong đời. Nếu được ở bên bà Ellen, nàng sẽ không sợ, bất kể chuyện gì xảy ra. Đêm nào cũng vậy, sau một ngày nghe đạn đại báo réo xé bên tai, nàng về giường nằm với quyết tâm là sáng hôm sau nàng sẽ bảo Melanie rằng nàng đã hết khả năng chịu đựng, không thể ở lại Atlanta thêm một ngày nào nữa, rằng nàng phải về nhà còn Melanie phải sang nhà bà Meade thôi. Nhưng cứ đặt đầu lên gối là khuôn mặt Ashley lại hiện lên trong ký ức nàng, như cái bữa nàng gặp chàng lần cuối, tựa hồ đang bị một nỗi đau đớn nội tâm giày vò, nhưng mỗi vẫn hơi mím lại cười : “Scarlett sẽ trông nom Melanie nhé? Scarlett tràn trề sức mạnh… Hứa với tôi đi”. Và nàng đã hứa. Giờ đây, Ashley đã nằm yên nghỉ ở một nơi nào đó. Dù ở đâu, chàng vẫn đang theo dõi nàng, buộc nàng vào lời hứa đó. Dù sống dù chết, nàng cũng không thể làm chàng thất vọng bằng bất cứ giá nào. Thành thử nàng vẫn ở lại, hết ngày này sang ngày khác. Trả lời những bức thư của bà Ellen khẩn cầu nàng về nhà, nàng cố giảm nhẹ những nguy hiểm của tình thế bị vây hãm, giải thích tình trạng gay go của Melanie và hứa sẽ về nhà ngay sau khi đứa bé ra đời. Vỗn mẫn cảm với những mối liên hệ họ hàng, dù là ruột thịt máu mủ hau thông gia, bà Ellen viết trả lời, miễn cưỡng đồng ý rằng nàng phải ở lại, song yêu cầu nàng cho Wade và Prissy về ngay. Gợi ý này được Prissy hoàn toàn tán thành, vì giờ đâu nó đã bị cái chứng ngu xuẩn đánh đàn răng mỗi khi có một tiếng động bất ngờ nào. Nó hầu như lúc nào cũng núp dưới hầm rượu, thành thử nếu không có bà già Betsy bình thản nhà Meade thì hai chị em ắt sẽ rất lúng túng không biết xoay sở ra sao. Scarlett cũng sốt ruột muốn đưa Wade ra khỏi Atlanta không kém gì mẹ nàng, không phải chỉ vì sự an toàn của thằng bé, mà còn vì sự sợ hãi thường xuyên của nó khiến nàng bực mình. Nhưng cuộc pháo kích làm Wade khiếp đảm đến nỗi không nói được và ngay cả trong những lúc tạm ngừng, nó cũng cứ bám chặt lấy váy mẹ, sợ bóng tối, sợ trong khi ngủ bọn Yankee đến bắt đí và tiếng khóc ti tỉ của nó trong đêm gại vào thần kinh của nàng đến nỗi không chịu đựng nổi. Trong thâm tâm, nàng cũng sợ như nó, nhưng nàng điên tiết vì bộ mặt nhớn nhác, căng thẳng của nó lúc nào cũng nhắc đến nỗi sợ. Phải, ấp Tara là chỗ dành cho Wade. Prissy phải đưa nó tới đấy rồi quay về ngay để có mặt khi Melanie ở cữ. Nhưng Scarlett chưa kịp cho hai đứa lên đường về nhà thì có tin bọn Yankee đã chuyển xuống phía nam và đang mở những cuộc đánh lẻ dọc tuyến đường sắt Atlanta đến Jonesboro. Giả sử bọ Yankee cướp được đoàn tàu có Wade và Prissy…. Ý nghĩ ấy làm cho Scarlett và Melanie tái mặt vì ai nấy đều biết sự tàn ác của bọn Yankee đối với trẻ em còn khủng khiếp hơn đối với phụ nữ. Cho nên nàng không dám gửi Wade về nhà và ở lại Atlanta như một cái bóng ma bé nhỏ, lặng lẽ, lẫm chẫm bám riết theo Scarlett khắp nơi, chỉ sợ tuột tay rời váy mẹ, dù chỉ trong một phút. Cuộc bao vây tiếp tục suốt những ngày tháng Bảy nóng nực, những ngày rền vang tiếng súng tiếp theo những đêm ảm đạm một sự im lặng báo điểm gở, và thành phố bắt đầu quen dần. Như thế là một khi điều xấu nhất đã xảy ra rồi thì chẳng còn gì nữa để mà sợ. Trước đó, họ sợ một cuộc vây hãm, thì đây cuộc vây hãm đang diễn ra và xét cho cùng, nó cũng chẳng đến nỗi tệ lắm. Cuộc sống có thể và thực tế đang tiếp tục gần như bình thường. Họ biết mình đang ngồi trên một ngọn núi lửa, nhưng từ giờ cho đến khi ngọn núi lửa ấy bắt đầu phun, họ cũng chẳng làm gì xoay chuyển được tình hình. Vậy thì việc quái gì mà lo? Và chưa biết chừng nó sẽ không phun lửa cũng nên. Đấy, cứ xem tướng Hood chặn đứng bọn Yankee bên ngoài thành phố cũng đủ rõ! Và xem kỵ binh ta giữ vững đường sắt đi Maicon như thế nào? Sherman đừng hòng bao giừ chiếm được tuyến đường ấy. Nhưng mặt dầu bề ngoài làm ra vẻ không lo lắng trước những trái đạn đại bác rơi và những khẩu phần ăn ngày càng ít đi, mặt dầu cố làm lơ là sự có mặt của bọn Yankee chỉ cách đó có nửa dặm và mặc dầu tin tưởng vô hạn vào những chiến binh áo xám rách tả tơi trong những hào phòng thủ. Ngay đưới lớp da của Atlanta vẫn ngay ngày một nỗi thắc thỏm không biết ngày hôm sau sẽ đem lại điều gì. Hồi hộp, lo lắng, buồn khổ, cái đói và sự giày vò đau đớn của hy vọng khắc khoải không ngớt lóe lên, vụt tắt, lại lóe lên, tất cả những cái đó bào mòn xơ lớp da đó của thành phố. Dần dà, Scarlett lấy được can đảm nhờ những gương mặt dũng cảm của bạn bè và nhờ sự điều chỉnh đầy khoan dung mà đấng tự nhiên mang lại khi con người phải chịu đựng những gì vô phương cứu chứa. Nói cho đúng, nghe tiếng nổ, nàng vẫn còn giật bắn người, nhưng nàng không vừa la hét vừa chạy đến vùi đầu xuống gối của Melanie nữa. Giờ đây, nàng có thể nuốt nước bọt đánh ực và nói bằng một giọng yếu ớt : “Quả này gần nhỉ?” Nàng bớt sợ hơn cũng vì cuộc sống giờ đã mang một tính chất mộng ảo, một giấc mộng quá khủng khiếp để có thể là thật. Không có lẽ nàng, Scarlett O’Hara này, lại lâm vào một tình cảnh khốn quẫn như thế này, với cái nguy cơ chết đột ngột rình rập quanh mình từng giờ, từng phút. Không có lẽ cái dòng yên bình của cuộc sống lại có thể thay đổi hoàn toàn đến thế trong một thời gian ngắn đến vậy. Thật vô lý, vô lý đến mức kỳ cục, là bầu trời ban mai đang xanh êm đềm như thế lại có thể bị ô uế bởi khói đại bác vật vờ trên thành phố như những đám mây dông; là không khí ấm áp buổi trưa đầy hương thơm dịu ngát và thấm đượm của những bụi hoa kim ngân và những dây hồng leo lại có thể trở nên khủng khiếp đến thế khi những trái đại bác rú rít trong các phố, nổ tung như đến ngày tận thế, văng những mảnh sắt ra xa hàng trăm mét, xé người và vật thành từng mảnh. Không còn những giấc ngủ trưa lơ mơ, yên tĩnh, mặc dầu tiếng ầm ầm chiến trận thỉnh thoảng có lắng xuống, phố Cây Đào giờ nào cũng nhộn nhịp, huyên náo, nào xe chở pháo và xe cứu thương rầm rập qua, nào thương binh từ chiến hào tập tễnh trở vào thành phố, nào những trung đoàn từ mé bên này thành phố được điều sang bảo vệ một điểm đang bị sức ép mạnh ở mé bên kia, cấp tốc hành quân qua và những liên lạc viên cắm cổ chạy dọc phố tới sở chỉ huy, như thể vận mệnh Liên bang nằm trong tay họ vậy. Những đêm nóng nực đem lại chút yên tĩnh, song là một thứ yên tĩnh chết chóc. Khi nào đêm tịch lặng thì lại quá lịch lặng… cơ hồ lũ ếch nhái, cào cào châu chấu và chim nhại tiếng quá khiếp đảm không dám cất tiếng hòa vào bản hợp xướng đêm hè thường lệ của chúng. Thỉnh thoảng, những tiếng súng hỏa mai đì đẹt ở phòng tuyến cuối đột ngột, phá tan im lặng. Nhiều bận, vào những giờ sắp tàn đêm, khi đèn đã tắt, Melanie đã ngủ và im lặng chết chóc đè nặng trên thành phố, Scarlett nằm thao thức, nghe thấy then cổng tiền lách cách và những tiếng gõ khe khẽ nhưng khẩn cấp lên cửa ra vào. Bao giờ đó cũng là những người lính không rõ mặt đứng ở hàng hiên tối và từ trong bóng đêm, nhiều giọng khác nhau nói với nàng. Đôi khi là một giọng rất thanh lịch: “ Thưa bà, cho tôi xin lỗi vì đã quấy rầy bà một cách khả ố, nhưng tôi có thể được chút nước cho bản thân tôi và ngựa của tôi được không?” Đôi khi là một giọng miền núi thô kệch, đôi khi là một giọng mũi lạ hoắc của miền đồng cỏ tít dưới phía nam, có lúc lại là cái giọng kéo dài êm ru của miền duyên hải làm tim nàng thót lại, nhớ đến giọng bà Ellen. - Xưa cô, tôi kó một người bạn đồng đội tôi định đưa đến bệnh viện dưng mà xem chừng cậu ta không kéo dài được đến lúc tới đó. Cô kó thể nhận cậu ta vào nhà được không - Thưa bà dám chắc là tôi có thể ăn một chút gì. Dám chắc là tôi sẽ không chê một chút ngô nếu bà không vì thế mà nghèo đi. - Thưa bà, xin bà tha lỗi cho sự đột nhập của tôi… tôi có thể nghỉ qua đêm ở ngoài hiên này được không ạ? Tôi trông thấy những bông bồng, ngửi thấy mùi hoa kim ngân và điều đó gợi nhớ quê nhà đền nỗi tôi đánh bạo… Không, những cái đêm ấy không thể là thật được! Đó là một cơn ác một và những người lính là một bộ phận của cơn ác mộng đó, những con người vô hình thể hoặc vô diện mạo, chỉ là những giọng mệt mỏi nói với nàng từ trong bóng tối nóng hầm hập mà thôi. Rót nước, cho ăn, sắp gối ở ngoài hiên, băng bó vết thương, nâng đầu những người hấp hối… Không, có thể nào những cái đó đã xảy đến với nàng. Một lần, vào cuối tháng Bẩy, chính ông bác Henry Hamilton đến gõ cửa giữa đêm khuya. Giờ đây ông bác Henry Hamilton không có ô cũng chẳng còn chiếc xắc du lịch bẳng thảm và cái bụng phệ cũng tiêu đâu mất. Trên bộ mặt xưa hồng hào phương phi, làn da chảy xuống bèo nhèo như cặp má xệ của một con chó bò và mái tóc bạc dài của ông bẩn khôn xiết tả. Ông hầu như không có giầy dép, chấy rận đầy người, bụng đói nhưng tính cách hùng hùng hổ hổ thì vẫn không thay đổi. Mặc dầu ông tuyên bố : “Thật là một cuộc chiến điên rồ, khi mà những anh già rồ dại như bác đây mang thân ra vần pháo”, Scarlett và Melanie vẫn có cảm giác là ông khoái nó. Người ta cần đến ông như cần đến đám trai trẻ và ông đang làm công việc của một thanh niên. Hơn thế nữa, ông có thể theo kịp bọn thanh niên, chứ không như cụ Merriwether, ông vui vẻ nói với hai chị em Scarlett thế. Chứng đau lưng hành hạ cụ khổ sở và tay đại úy muốn cho cụ giải ngũ, nhưng cụ không chịu về. Cụ thẳng thắn nói rằng cụ thích nghe tay đại úy chửi thề và để anh ta ăn hiếp hơn là được bà con dâu chiều chuộng và không ngừng yêu cầu cụ bỏ thói quên nhai thuốc là và ngày nào cũng sửa râu. Cuộc ghé thăm của ông bác Henry ngắn ngủi vì ông chỉ có bốn giờ phép, mà cuốc bộ từ chiến lũy về rồi lại trở ra đã mất đứt nửa thời gian. - Các cháu gái, sắp tới, trong một thời gian, bác sẽ không ặp các cháu, ông thông báo vậy khi ngồi trong phòng ngủ của Melanie, khoan khoái ngọ nguậy đôi bàn chân phồng rộp trong chậu nước lạnh Scarlett đặt trước mặt ông… Sáng mai, đại đội bác xuất phát - Đi đâu ạ? Melanie lo sợ hỏi, nắm chặt cánh tay ông. - Đừng có đụng vào tay bác, ông Henry cáu kỉnh nói. Ng ười bác lổm ngổm những chấy rận. Chiến tranh sẽ là một cuộc picnic nếu không có chấy rận và kiết lị. Đi đâu ư? Chà, người ta không nói cho b á c biế t nhưng bác cũng đoán ra. Nếu bác không lầm thì sáng mai, bọn bác sẽ nam tiến, hướng Jonesboro. - Ồ tại sao lại đi về hướng Jonesboro. - Bởi vì ở đó sắp đánh nhau to, tiểu thư ạ. Bọn Yankee đang tìm mọi cách chiếm đoạn đường sắt ấy. Và nếu chúng làm được thì thôi, “goodbye” Atlanta. - Ôi, bác Henry, bác có nghĩ chúng có thể làm được việc ấy không? - Đừng hòng, các cô ạ! Không! Làm sao chúng có thể được khi ta còn ở đó? Ông bác Henry nhe răng cười khi thấy vẻ mặt kinh hãi của hai c ô chá u gái, rồi trở lại nghiêm trang. Sắp tới sẽ có một trận đấy gay go, các cháu gái ạ. Chúng ta buộc phải thắng. Dĩ nhiê n m các cháu cũng biết là bọn Yankee đã chiếm tất cả các tuyến đường xe lửa, trừ tuyến đi Maicon, nhưng không phải chỉ có th ế mà thôi. Có thể là các cháu chưa biết, nhưng thực tế chúng còn kiểm soát tất cả các tuyến đường bộ, mọi con đường lớn, nhỏ xe chạy được và ngựa đi qua được, trừ con lộ McDonough. Atlanta đang nằm trong một cái bị và dây thắt là ở Jonesboro . Và nếu bọn Yankee chiếm được đường sắt ở đấy, chũng sẽ có thể thắt dây lại và nắm được chúng ta như trong một cái bẫy chuột vậy. Cho nên chúng ta không thể để chúng chiếm đoạt đường sắt ấy… Bác có thể đi xa một thời gian, các cháu gái ạ. Bác chỉ ghé để tạm biệt các cháu và để yên trí rằng Scarlett vẫn ở lại với Melly thôi. - Tất nhiên là chị ấy ở lại với cháu, Melanie nói, giộng đầy ưu ái. Vác khỏi phải lo cho chúng cháu, bác Henry, bác hãy lo cho bản thân ấy. Ông bác Henry chùi chân vào thảm và hầm hừ xỏ chân vào đôi giày rách tã. - Bác phải đi đây, ông nói. Bác phải cuốc bộ năm dặm, Scarlett, cháu soạn gói cho bác chút gì ăn trưa. Bất cứ thứ gì cháu có. Sau khi hôn tạm biệt Melanie , ông xuống bếp, ở đó Scarlett đang gói một chiếc bánh bột trứng sữa và mấy trái táo tây cho vào một chiếc khăn ăn - Bác Henry… có thật… có thật nghiêm trọng đến thế không? - Nghiêm trọng ư? Lạy chúa toàn năng, phải! Đừng có ngớ ngẩn thế. Chúng ta đang ở bước đường cùng - Theo bác, liệu chúng có đến ấp Tara được không? - Chà… ông bác Henry mở đầu, bực với cái đầu óc đàn bà chỉ nghĩ đến chuyện riêng tư trong khi đang có những vấn đề quan trọng dính dáng đến vận mệnh chung. Nhưng rồi thấy vẻ mặt buồn rầu, khiếp hãi của nàng, ông dịu xuống. - Dĩ nhiên là chúng không thể. Ấp Tara cách đường xe lửa năm dặm và bọn Yankee nhằm đánh chiếm đường sắt cơ. Cô chẳng thông minh gì hơn bọn bò dừa, tiểu thư ạ Ông đột ngột chuyển sang chuyện khác. - Bác đi suốt cả quãng đường dài đến đây hôm nay không phải để tạm biệt các cháu. Bác mang cho Melly một tin buồn, song đế lúc phải nói thì bác lại không đủ sức để báo cho nó. Cho nên bác giao lại việc đó cho cháu. - Ashley không… bác không nghe tin… rằng… anh ấy đã… chết? - Dào, làm sao bác có thể nghe tin về Ashley được trong khi bác đứng trong chiến hào, bùn ngập đến tận đít quần? Ông già cáu kỉnh vặn lại. Không. Đó là về cha nó. John Wilkes chết rồi. Scarlett ngồi phịch xuống, suất ăn đang gói dở trong tay. - Bác đến để báo cho Melly biết… nhưng bác không đủ can đảm. Cháu phải hộ bác. Và đưa cho nó những thứ này. Ông móc trong túi ra một chiếc đồng hồ vàng nặng nề với dây chuyền lủng lẳng, một hình nhỏ xíu của bà Wilkes mất đã lâu và một đôi khuy măng – sét to tướng. Nhìn chiếc đồng hồ nàng đã từng thấy ông John Wilkes đã cầm nó trong tay hàng nghìn lần, Scarlett mới nhận chân ra rằng cha của Ashley đã chết thật sự. Nàng quá bàng hoàng không khóc cũng chẳng nói nên lời. Ông bác Henry bối rối, húng hắng ho và không dám nhìn nàng, sợ thấy nước mắt sẽ khiến lòng ông chao đảo. - Ông ấy là một con người dũng cảm, Scarlett ạ. Cháu hãy nói với Melly thế. Bảo nó viết thư nói điều đó với các con gái ông ấy. Và là một người lính cừ mặc dù tuổi đã cao. Ông bị vì một quả đại bác rớt trúng cả người lẫn ngựa. Làm cho ngựa toạc cả… chính tay bác đã phải bắn cho nó chết hẳn, chấm dứt đau đớn, tội nghiệp con vật. Một con ngựa cái bé nhỏ tuyệt vời. Cháu cũng nên viết thư cho cả bà Tarleton về chuyện đó nữa. Bà ấy quý con ngựa lắm. Thôi, gói suất ăn cho bác, cô bé, bác phải đi đây. Thôi nào, cháu thân yêu, đừng quá đau buồn về chuyện ấy. Thử hỏi đối với một ông già có cái chết nào đẹp hơn là ngã xuống trong khi làm nhiệm vụ của một thanh niên? - Ôi, lẽ ra bác ấy không chết! Đáng lẽ bác ấy không phải ra trận! Đáng lẽ bác ấy. phải sống để thấy cháu nội bác ấy lớn lêm, đang lẽ bác ấy phải được chết bình yên trên giường! Ôi sao bác ấy lại phải ra đi? Bác ấy không tin việc ly khai là đúng, bác ấy ghét chiến tranh và bác… - Nhiều người trong bọn ta nghĩ thế đây, nhưng mà biết làm thế nào? Ông bác Henry bực bội hỉ mũi. Cháu tưởng ta khoái để cho bọn xạ thủ Yankee dùng ta làm mục tiêu tập bắn, ở cái tuổi của ta chăng? Nhưng thời buổi này, kẻ sĩ phu không còn lựa chòn nào khác. Hôn tạm biệt ta đi, cô bé, và đừng lo cho ta. Ta sẽ ra khỏi cuộc chiến này lành lặn, nguyên vẹn. Scarlett hôn ông và nghe tiếng chân ông bước xuống bậc thềm, đi vào đêm tối, nghe tiếng then lách cách ở cổng tiền. Nàng đứng một lúc nhìn nhưng di vật trong tay. Rồi lên cầu thang để báo tin cho Melanie. Cuối tháng Bảy, lan truyền đi cái tin chẳng lành, mà ông bác Henry đã tiên đoán, là binh Yankee lạu chuyển hướng tấn công vào Jonesboro. Chúng đã cắt đứng đường sắt dưới thành phố bốn dặm, nhưng đã bị kỵ binh Liên Bang đánh lui và cho đơn vị công binh nai lưng đổ mồ hôi dưới nắng thiêu chữa cho xong tuyến đường. Scarlett lo điên người. Trong ba ngày chờ đợi, nỗi sợ mỗi lúc một tăng lên trong tim nàng. Rồi một bức thư của ông Gerald đến làm cho nàng yên tâm. Kẻ địch đã không tới được Tara. Mọi người nghe thấy tiếng súng giao chiến, nhưng không thấy tên Yankee nào. Thư ông Gerald đầy những lời lẽ huênh hoang về chuyện bọn Yankee bị đánh bật khỏi đường sắt, đến nỗi người ta có thể tưởng như chính ông đã một mình làm nên chiến công ấy. Ông viết ba trang đặc những sự dũng cảm của quân ta, rồi đến cuối thư mới nói qua loa rằng Carreen đang ốm. Bà O'Hara bảo là thương hàn. Bệnh tình không nặng lắm, Scarlett khỏi phải lo; hiện tại trong bất kỳ trường hơp nào Scarlett cũng không nên về, ngay cả nếu đường xe lửa trở nên an toàn. Giờ đây, bà O'Hara lấy làm rất mừng là Scarlett và Wade đã không về nhà khi bao vây bắt đầu. Bà O'Hara bảo Scarlett phải đi nhà thờ đọc kinh Rosaries để cầu nguyện cho Carreen bình phục. Đọc câu cuối này, Scarlett thấy áy này lương tâm vì đã nhiều tháng nay nàng không hề bước chân đến nhà thờ. Giá như xưa kia, nàng đã coi thiếu sót này là một tối đáng chết, nhưng bây giờ, không hiểu tại sao, việc xa lánh nhà thờ dường như không đến nỗi đầy tội lỗi như trước. Nhưng nàng vâng lời mẹ và về phòng quỳ xuống đọc vội vàng một bài kinh Rosaries. Khi nàng đứng dậy, nàng không cảm thấy nguôi dịu như trước kia sau mỗi lần cầu kinh. Ít nhất lâu nay, nàng cảm thấy như Thượng Đế không nhòm ngó đến nàng, đến nhân dân Liên Bang hoặc đến miền Nam nữa, bất chấp hàng triệu lười cầu nguyện dân lên Người hàng ngày. Đêm hôm ấy, nàng ngồi ngoài hiên trước với bức thư của ông Gerald trong áo ngực để thỉnh thoảng có thể chạm tay vào và, qua đó, cảm thấy gần ấp Tara và bà Ellen hơn. Qua cửa sổ phòng khách nhỏ, ngọn đèn hắt những ánh vàng kỳ lạ lên hàng hiên tối có có phủ giàn dây leo. Cái mớ rằng rịt những hoa kim ngân và hồng leo làm thành bức tường hương thơm hỗn quyện bao quanh nàng. Đêm hoàn toàn tịch lặng. Từ lúc mặt trời lặn, thậm chí không có cả đến một tiếng súng trương và thế giới dường như xa lắc xa lơ. Scarlett đu người từ đằng trước ra đằng sau, nàng cảm thấy cô đơn, buồn khổ từ khi đọc được thư nhà và nàng ao ước có một người nào đó đến bên mình, bất kỳ ai, thậm chí bà Merriwether cũng được. Nhưng bà Merriwether đang trực ở bệnh viện, bà Meade ở nhà chiêu đãi Phil vừa ở trận tuyến về thăm mẹ, còn Melanie thì đang ngủ. Thậm chí cũng không hi vọng có một người khách tình cờ. Tuần qua, chẳng con ai đến thăm nhau vì tất cả mọi đàn ông có thể đi được đều ở chiến hào hoặc truy kích bọn Yankee quanh vùng nông thôn Jonesboro. Chẳng mấy khi nàng thấy cô đơn như thế này và nàng không thích thế. Khi cô đơn thì phải nghĩ ngợi và thời buổi này, các ý nghĩ thường chẳng mấy vui thú. Như mọi người khác, nàng đã mắc thói quen nghĩ về quá khứ, về những người đã chết. Đêm nay Atlanta thật yên tĩnh, nàng có thể nhắm mắt lại, tưởng tượng mình đang lại tắm trong cái tĩnh mịch thôn dã của Tara và cuộc sống vẫn bất di bất dịch, không hề thay đổi. Nhưng nàng biết cuộc sống ở hạt Jonesboro sẽ không bao giờ trở lại như cũ nữa. Nàng nghĩ tới bốn chàng trai Tarleton – hai anh em sinh đôi tóc đỏ và Tom và Boyd – và một nỗi buồn da diết làm cổ họng nàng nghẹn lại. Phải, Stu hoặc Brent, một trong hai lẽ ra là chồng nàng. Nhưng rồi đây, khi chiến tranh kết thúc, trở về sống ở ấp Tara, nàng sẽ không bao giờ lại được nghe tiếng hú cuồng nhiệt của họ khi họ phóng ngựa như bay ngược lối đi giữa hai rặng tuyết tùng. Và Raiford Calvert, chàng trai khiêu vũ tuyệt vời, sẽ không bao giờ chọn nàng làm bạn nhảy nữa. Và anh em nhà Munroe và Joe Fontaine bé nhỏ và… “Ôi, Ashley !” nàng nấc lên, gục đầu vào hai bàn tay. “Em sẽ không bao giờ quen được với sự vắng mặt của anh trong đời!” Nàng nghe thấy tiếng lách cách ngoài cổng và vội vàng ngẩng đầu lên, đưa ngang tay quệt ngang cặp mắt ướt lệ. Nàng đứng dậy và trông thấy Rhett Butler trên lối đi, tay cầm chiếc mũ panama rộng vành. Từ cái hôm nàng hấp tấp xuống khỏi xe của Rehtt ở chỗ Ngã Năm đếnnay, nàng chưa gặp lại chàng. Lần ấy, nàng đã tuyên bố mong muốn không bao giờ phải nhìn thấy chàng nữa. Nhưng giờ đây, nàng lấy làm sung sướng có được người nói chuyện, để khỏi phải nghĩ tới Ashley, đến nối nàng vội vàng gạt phăng cái ký ức kia đi. Hiển nhiên là chàng cũng đã quên cuộc cãi vã ấu rồi, hoặc giả vờ quên, vì chàng ngồi luốn xuống bậc thềm trên cũng bên chân nàng mà không nhắc lại chuyện xích mích cũ. - Vậy là cô không tản cư về Maicon! Tôi có nghe tin bà Pitty đã tị nạn và tất nhiên tôi nghĩ là cô đi theo. Cho nên khi thấy nhà cô có ánh đèn, tôi bèn tới để tìm hiểu xem ra sao. Tại sao cô ở lại? - Để bầu bạn với Melanie. Anh thấy đấy, cô ấy… ờ, hiện tại cô ấy không thể đi được. - Thiên lôi Hà bá! Chàng nói và trong ánh đèn, nàng tháy chàng cau mày. Cô muốn nói là bà Wilkes vẫn ở đây? Tôi chưa từng nghe chuyện ngu xuẩn như thế bao giờ. Thật là nguy hiểm cho bà ấy trong tình trạng bụng mang dạ chửa. Scarlett im lặng, ngượng ngập vì tình trạng của Melanie không phải là một đầu đề nàng có thể bàn cãi với một người đàn ông. Nàng ngượng còn vì Rhett biết rành về những nguy hiểm có thể đến với Melanie. Những kiến thức ấy thật không phù hợp với một chàng trai chưa vợ. - Anh thật chả nịnh đầm tí nào, anh không nghĩ rằng cả tôi cũng có thể bị thương nữa chứ, nàng nói chát chúa. Mắt chàng lấp lánh một ánh vui thích. - Tôi dám cuộc là bọn Yankee có bữa còn toạc mặt với cô ấy chứ lại - Tôi không chắc đó có phải là một lời khen không nữa, nàng nói, vẻ thiếu tự tin. - Đúng, đó không phải là một lời khen, chàng đáp. Đến bao giờ cô mới bỏ cái thói quen tìm những lời ca ngợi trong bất kỳ phát biểu bâng quơ nào của cánh đàn ông? - Khi nào tôi nằm trên gường lâm chung, nàng trả lời và mỉm cười, bụng nghĩ bao giờ cũng sẽ có những người đàn ông ca tụng nàng, cho dù Rhett chẳng khi nào làm thế. - Phù phiếm, phù phiếm, chàng nói. Chí ít cô cũng thành thật về chuyện đó. Chàng mở hộp xì – gà, lấy ra một điếu xì – gà đen, đưa lên mũi ngửi một túc. Một que diêm lóe lên, chàng dựa lưng vào một cái cột và chắp tay ôm đầu gối, lặng lẽ hút thuốc một lúc, Scarlett lại đu đưa người. Bóng tối tịch mịch của đêm nóng nực lại khép lại quanh họ. Con chim nhại, náu trong bụi hồng và kim ngân, thức giấc và rụt rè cất lên trong tiếng trong leo lẻo. Rồi, như suy tính đi tính lại, nó lại im lặng. Từ trong bóng tối của hàng hiên, Rhett đột nhiên bật cười, một tiếng cười khẽ, trầm ngâm. - Vậy ra cô ở lại với bà Wilkes đấy! Quả là một tình huống kỳ lạ nhất tôi từng thấy. - Tôi chẳng thấy chuyện đó có gì là kỳ lạ cả, nàng gượng gạo trả lời, lập tức cảnh giác. - Thật ư? Nhưng nếu thế thì cô không có quan điểm khách quan. Thời gian qua, tôi có cảm giác là cô gần như không chịu đựng nổi bà Wilkes. Cô cho bà ấy là khờ khạo, ngu ngốc và những quan điểm ái cuốc của bà ấy làm cô chán ngấy. Chả mấy khi cô bỏ qua cơ hội đưa đẩy một đôi lời gièm pha bà ấy, cho nên đương nhiên là tôi lấy làm lạ khi thấy cô chọn làm cái điều hỉ xả ở lại đây chịu đựng bom đạn với bà ấy. Thế nào, tại sao cô lại làm thế? - Vì cô ấy là em gái của Charlie… và cũng như em gái tối, Scarlett trả lời với tất cả sự đĩnh đạc có thểm, mặc dầu đôi má mặc nhiên cứ nóng dần lên. - Cô định nói là bà ta là vợ góa của Ashley Wilkes. Scarlett đứng phắt dậy, cố nén cơn tức giận. - Tôi đã sắp đến chỗ tha thứ cho cách cư xử thô bỉ của anh trước đây, nhưng bây giờ thì thôi. Nếu không đang buồn chán thì hẳn tôi đã không để anh đặt chân lên hàng hiên này và… - Hẵng ngồi xuống và đừng xù lông lên thế nữa, chàng nói với một giọng đổi khác. Chàng với lên, cầm tay nàng, kéo trở laị ghế, tại sao cô lên cơn buồn chán thế? - À, hôm nay tôi nhận được một bức thư từ ấp Tara. Bọn Yankee ở ngay gần vùng nhà tôi và em gái tôi đang bị thương hàn và… và… cho nên, bây giờ, ngay cả nếu tôi có thể về nhà, như tôi vẫn muốn vậy, mẹ tôi cũng không đồng ý vì sợ tôi lây bệnh. Ôi lạy Chúa, mà tôi thì muốn về nhà biết mấy. - Thôi, đừng có khóc, chàng nói, giọng ân cần hơn. Cô ở đây, ở lại Atlanta này, an toàn hơn, ngay cả trong trường hợp bọn Yankee vào được thành phố, phải, an toàn hơn là ấp Tara. Bọn Yankee thì không làm gì nổi cô nhưng bệnh thương hàn thì có thể đấy. - Bọn Yankee không làm gì tôi! Làm sao anh có thể nói dối trắng trợn như thế? - Cô gái thân mến của tôi, người Yankee không phải là quỷ dữ. Họ không có sừng có móng như cô nghĩ. Họ cũng khá giống người miền Nam… ngoài việc họ kém thanh lịch, cái đó là tất nhiên thôi, và phát âm trọ trẹ ghê người. - Hừ, bọn Yankee sẽ… - Cưỡng hiếp cô? Tôi không nghĩ thế. Mặc dầu cố nhiên là họ cũng muốn thế. - Nếu anh ăn nói bậy bạ, tôi sẽ quay vào nhà ngay, nàng kêu lê, thầm cảm ơn bóng tối đã che khuất bộ mặt đỏ bừng của mình. - Hãy thành thật. Cô đúng là cô đã nghĩ đến điều đó không? - Ồ, chắc chắn là không! - Dào, nhưng mà lại đúng thế! Đừng có điên tiết vì tôi đọc được ý nghĩ của cô, vô ích. Đó là điều mà tất cả các bà các cô được nuôi dạy trong thanh cao và đầu óc trong sáng của miền Nam chúng ta đều nghĩ. Cái ý nghĩ ấy thường trực trong đầu họ. Tôi dám cuộc là ngay cả những bậc mệnh phụ như bà Merriwether cũng… Scarlett lặng lẽ nuốt cơn giận, nhớ lại trong những ngày gay go này, bất kỳ ở đâu có vài ba người phụ nữ có chồng tụ tập, là y như rằng họ thì thào với nhau về những chuyện như vậy, toàn là chuyện xảy ra ở Virginia hoặc Tennessee hoặc Louisiana, chẳng bao giờ gần vùng nhà cả. Bọn Yankee hiếp phụ nữ, lấy lưỡi lê đâm xuyên qua bụng trẻ con và đốt nhà trên đầu người già. Ai cũng biết đó là sự thật mặc dầu người ta không gào nó lên ở giữa phố và nếu Rhett biết điều hơn lẽ thiệt một chút thì anh ta ắt nhận chân ra đó là những điều có thật và không nói đến nữa. Vả chăng, đó đâu phải là chuyện để đem ra cười đùa. Nàng nghe thấy chàng cười khẽ. Đôi khi anh ta thật bỉ ổi. Thực tế, hầu như lúc nào anh ta cũng bỉ ổi. Một người đàn ông mà lại biết rõ phụ nữ trong bụng nghĩ gì và bàn vạc những gì, thật gớm ghiếc. Cái đó khiến một cô gái cảm thấy như bị lột truồng vậy. Và cũng chẳng có phụ nữ tử tế nào lại đi nói cho một người đàn ông biết những điều như vậy. Nàng phẫn nộ vì Rhett đọc được trong đầu nàng. Nàng vốn tin rằng mình là một cái gì bí ẩn với đàn ông, nhưng nàng biết Rhett nhìn thấy nàng như trong gương. - Nhân đang nói chuyện này, chàng nói tiếp, xin hỏi cô có người bảo trợ hoặc giám hộ nào trong nhà không? Bà Merriwether đáng ngưỡng mộ hay bà Meade? Họ luôn luôn nhìn tôi như thể tôi đến đây vì mục đích bất chính vậy. - Bà Meade thường đêm nào cũng sang, Scarlett đáp, vui sướng được chuyển sang chuyện khác. Nhưng đêm nay bà không sang được: cậu con trai Phil về thăm nhà. - Thật may cho tôi được gặp cô một mình, chàng khe khẽ nói. Một cái gì trong giọng chàng làm tim nàng đập nhanh hơn một cách dễ chịu và nàng cảm thấy mặt mình đỏ lên. Nàng đã nghe cái nốt này trong những giọng đàn ông khá nhiều lần để biết đó là khúc dạo đầu cho một sự tỏ tình. Ôi, thật hay ho kỳ thú! Nếu anh ta nói là anh ta yêu nàng thì nàng sẽ hành cho đã đời để trả thù tất cả những lời châm chọc giễu cợt anh ta nhắm vào nàng suốt ba năm qua. Nàng sẽ làm tình làm tội anh ta để bù lại cả cái nỗi nhục ghê gớm hôm anh ta chứng kiến việc nàng tát Ashley . Và sau đó,nàng sẽ hết sức dịu dàng bảo anh ta rằng nàng chỉ có thể là em gái anh ta và rút lui với danh dự vẹn toàn. Nàng rúc rích cười, mường tượng trước cái triển vọng thú vị ấy. - Đừng có cười như thế, chàng nói và cấm lấy tay nàng lật ngửa lên ép môi vào lòng bàn tay ấy. Một cái gì rất sống động như một dòng điện truyền từ chàng sang nàng với sự tiếp xúc của đôi môi ấm, một cái gì đó như một ve vuốt khiến toàn thân nàng gợn lên rạo rực. Đôi môi ấy lướt lên cổ tay nàng. Biết là chàng hẳn phải cảm thấy mạch máu nàng giần giật theo nhịp tim đập nhanh hơn, nàng cố rụt tay lại. Nàng đã không tính đến điều này – cái đợt sóng cảm cảm giác nồng ấm và phản phúc ấy khiến nàng muốn lùa tay vào tóc chàng và thèm cảm thấy môi chàng trên miệng mình. Nàng xao xuyên tự nhủ: mình không yêu anh ta, mình yêu Ashley kia. Nhưng làm sao giải thích được cái cảm giác này nó đang làm cho tay nàng run lên và khoang bụng nàng lạnh toát. Rhett khẽ cười. - Đừng có rụt tay lại! Tôi không làm cô đau đâu mà sợ! - Sợ ư? Tôi không sợ anh đâu, Rhett Butler, tôi cũng chẳng sợ người đàn ông nào trên đời, nàng nói to, bực tức thấy cả giọng lẫn tay mình đều run. - Thật đáng khâm phục, nhưng hãy hạ giọng một chút. Bà Wilkes có thể nghe thấy đấy. Vậy xin hãy bình tĩnh lại. Giọng chàng nghe có vẻ khoái trá trước sự bối rối của Scarlett . - Scarlett, cô có thích tôi, phải không? Câu này thì gần gũi với điều nàng chờ đợi hơn. - À. Đôi khi, nàng thận trọng đáp. Lúc nào anh không cư xử như một tên vô lại. Chàng lại cười và áp lòng bàn tay nàng vào má mình. - Tôi lại nghĩ cô thích tôi vì tôi là một tên vô lại. song trong cảnh màn che trướng rủ, cô biết quá ít kẻ vô lại chính cống, nên chính cái khác đời của tôi lại có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với cô, Điều này không theo chiều hướng nàng dự kiến và nàng cố giằng tay ra mà không được. - Không đúng! Tôi thích những người đàn ông hào hoa phong nhã… những người mà ta có thể tin tưởng là bao giờ cũng lịch thiệp. - Cô định nói những người đàn ông mà bao giờ cô cũng bắt nạt được. Đó chỉ đơn thuần là vấn đề định nghĩa. Nhưng cái đó chẳng quan trọng gì. Chàng lại hôn lòng bàn tay nàng và một lần nữa, nàng lại thấy làn da gáy rợn lên đê mê. - Nhưng cô có thích tôi. Liệu đến lúc nào đó, cô có thể yêu tôi không, Scarlett? “A!” nàng đắc thắng tự nhủ, “giờ thì mình nắm được thóp anh ta rồi!” và nàng trả lời với một vẻ lạnh lùng cố ý. - Thật tình là không. Có nghĩa là … trừ phi anh sửa chữa tác phong rất nhiều. - Mà tôi thì không hề có ý định sửa chữa. Vậy cô không thể yêu được tôi? Vậy đúng như tôi hi vọng. Vì tuy tôi rất thích cô, tôi cũng không yêu được cô. Và sẽ thật là bi kịch nếu đời cô hai lần đau khổ vì yêu mà không được đáp lại, có phải không, bạn thân yêu? Tôi có thể gọi cô là “bạn thân yêu” được không? Tôi sẽ cứ gọi cô là “bạn thân yêu”, dù cô thích hay không thích, song dù sao vẫn phải giữ cho hợp thức, thưa Hamilton phu nhân. - Anh không yêu tôi ư? - Quả thật là không. Cô có hi vọng là tôi yêu cô không? - Đừng có hợm hĩnh thế. - Đúng, cô có hy vọng! Than ôi, tôi buộc phải làm tiêu tan hy vọng của cô! Lẽ ra tôi nên yêu cô mới phải, vì cô thật quyến rũ và có tài năng làm nhiều điều vô ích. Song nhiều người phụ nữ cũng có duyên sắc và tài năng và cũng vô dụng như cô. Không, tôi không yêu cô. Nhưng quả thực tôi rất thích cô… thích vì tính co dãn linh động của lương tâm cô, vì tính ích kỷ mà cô không cần mất công che giấu máy khi và vì tính thực dụng ranh ma cô thừa kế được từ một vị tổ tiên người Ireland không xa lắm, có lẽ là nguồn gốc nông dân gì đó. Nông dân! Chà, anh ta đang lăng mạ mình! Nàng tức giận lúng búng không nên lời. - Đừng ngắt lời tôi, chàng khẩn cầu, bóp mạnh tay nàng. Tôi thích cô vì tôi cũng có những tính y hệt như thế, mà những kẻ giống nhau thường không ưa thích nhau. Tôi hiểu cô vẫn nâng niu những kỷ niệm về cái vị thần ngu độn là Mr Wilkes có lẽ nằm dưới mồ từ sáu tháng nay rồi. Nhưng trong tim cô, cũng phải có chỗ tôi nữa chứ. Scarlett, đừng có giãy nảy lên thế nữa! Tôi đang tỏ tình với cô đây. Tôi đã khao khát cô từ lần đầu trông thấy cô ở tiền sảnh Trại Mười Hai Cây Sồi, khi cô đang chài anh chàng Charlie Hamilton tội nghiệp. Tôi khao khát cô hơn bất kỳ người đàn bà khác… và tôi đã chờ đợi cô lâu hơn tôi từng chờ đợi bất kỳ người đàn bà nào khác. Những lời cuối cùng của chàng khiến Scarlett nghẹn thở vì kinh ngạc. Mặc dù luôn tìm cách xúc phạm nàng, Rhett có yêu nàng, song anh chàng vốn trái tính trái nết không muốn thú nhận thật và nói thẳng ra, sợ nàng cười. Được, nàng sẽ cho anh ta biết tay, không lâu la gì. - Đây có phải là một lời cầu hôn không? Chàng buông tay nàng ra và cười to đến nỗi nàng co người lại trong chiếc ghế bành. - Lạy Chúa, không! Tôi đã chẳng nói với cô rằng tôi không phải là loại đàn ông thích hợp với hôn nhân sao? - Nhưng… nhưng… điều gì…. Làm sao… Chàng đứng dậy, đặt tay lên ngực, cúi chào nàng một cách hài hước. - Bạn thân yêu, chàng thản nhiên nói, tôi đang ca ngợi trí thông minh của cô bằng cách đề nghị cô hãy là nhân tình của tôi, mà không để tôi phải mất công chinh phục cô trước. “Nhân tình!” Hai tiếng ấy dội vang trong đầu nàng như một sự xúc phạm bỉ ổi. Nhưng thực tế, trong phút sửng sốt đầu tiên ấy, nàng không hề cảm thấy bị xúc phạm. Nàng chỉ cảm thấy trào lên một nỗi bất bình mãnh liệt vì nỗi chàng có thể nghĩ nàng ngu dại đến thế. Chàng hẳn phải cho là nàng ngu dại thì mới đề nghị như thế, thay vì đưa ra lời cầu hôn như nàng chờ đợi. Cuồng nộ, hợm hĩnh bị xì hơi và thất vọng, chừng nấy thứ làm đầu óc nàng rồi loạn và chưa kịp nghĩ ra những cơ sở đạo đức cao siêu để dựa vào đó quở mắng chàng, nàng đã bật ra những lời đầu tiên trên môi. - Nhân tình! Thế tôi sẽ được gì trong cuộc này ngoài một lũ trẻ lau nhau? Thế rồi nàng há hốc miệng kinh hãi khi hiểu ra điều mình vừa nói nghĩa là thế nào. Chàng cười ngất, dõi mắt nhìn nàng trong bóng tối khi nàng ngồi lặng đi, áp mù- soa lên miệng. - Chính vì thế mà tôi thích cô! Cô là người phụ nữ thẳng thắn duy nhất mà tôi thiết biết, người đàn bà duy nhất nhìn vào khía cạnh thực tế của sự vật, không cần phải ngụy trang bằng những lời giả dối về tội lỗi và luân thường đạo lý. Bất cứ người đàn bà nào khác ắt sẽ ngất xỉu trước và sau đó đuổi tôi ra khỏi cửa. Scarlett đứng bật dậy, mặt đỏ bừng xấu hổ. Làm sao nàng có thể nói năng như vậy nhỉ? Làm sao nàng, con gái bà Ellen, được giáo dục tử tế, lại có thể ngồi đây nghe những lời lẽ đồi bại như thế để rồi trả lời một câu trơ tráo như thế? Lẽ ra nàng phải la lên. Lẽ ra nàng phải ngất xỉu. Lẽ ra nàng phải lạnh lùng quay đi, không nói không rằng, rời khỏi hiên nhà. Bây giờ thì quá muộn mất rồi! - Tôi sẽ đuổi anh ra cửa, nàng quát lớn, bất cần Melanie, hoặc ông bà Meade ở gần đấy có thể nghe thấy. Ra ngay! Làm sao anh dám nói những điều ấy với tôi! Tôi đã làm gì khuyến khích anh… để khiến anh nghĩ rằng… Ra khỏi đâu và đừng bao giờ đặt chân trở lại nữa. Làn này, tôi nói thật đấy, Đừng có bao giờ trở lại đây với những vỉ kim băng, kẹp tóc và ruy băng vớ vẩn của anh nữa, hòng tưởng tôi sẽ tha thứ cho anh. Tôi sẽ… tôi sẽ mách ba tôi và ba tôi sẽ giết anh! Chàng nhặt mũ lên, cúi chào, và trong ánh đèn, nàng trông thấy hàm răng chàng lộ ra trong một nụ cười tủm tỉm dưới hàng ria mép. Chàng không xấu hổ mà lại thích thú với điều nàng vừa nói và chàng đang chăm chú quan sát nàng. Chao! Anh ta thật đáng ghét! Nàng quay gót và đi vào nhà. Nàng định sập cửa đánh rầm một cái, nhưng cái móc cài quá nặng. Nàng đánh vật với nó, thở hổn hển. - Tôi có được phép giúp cô không? Rhett hỏi Cảm thấy mình có thể đứt mạch máu nếu còn đứng lại thêm một phút nữa, nàng chạy bổ lên gác như một cơn gió. Và lên đến tầng trên, nàng nghe thấy tiếng sập cửa : Rhett đã có nhã ý làm động tác ấy thay nàng
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com