Đại tranh chi thế
- Ơ, hồi bẩm đại nhân, vị tòng đệ đó của ngài tự xưng là Dương Bân.
- Hử? Ta làm gì có...
Dương Hổ đang nói bỗng im bặt, bỗng nhiên thấy lo sợ trong lòng, vội vàng hỏi:
- Hắn đang ở đâu, mau mời hắn vào.
- Vâng vâng vâng
Tên sai vặt vội vàng lui xuống, Dương Hổ liếc nhìn hai gia nô đang quỳ rạp dưới đất, hừ lạnh nói:
- Không còn chuyện của các ngươi nữa, cút hết ra cho ta, đem mấy con vịt chết tiệt này ra ngoài đi!
Hai gia nô cuống quít nhặt vội chiếc làn với mấy con vịt hoang rồi theo hướng cửa đi ra ngoài. Khánh Kỵ vào sảnh, vừa hay cũng đi ngang qua mặt họ, trông thấy những thứ đồ trong tay những gia nô kia, không khỏi nhìn chăm chú với con mắt tò mò, rồi mới bước thong thả tiến vào sảnh. Hắn thấy trong sảnh không có người hầu, liền chắp tay nói với Dương Hổ:
- Hổ huynh, đã lâu không gặp.
Dương Hổ thu lại vẻ mặt giận dữ lúc nãy, tiến lên nghênh đón:
- Khánh Kỵ công tử, tại sao công tử lại trở lại Khúc Phụ thế?
Dương Hổ vốn liên thủ với Khánh Kỵ, muốn phò Quý Thị đánh bạt Thúc Tôn, Mạnh Tôn hai nhà, từ đó nắm toàn bộ đại quyền Lỗ quốc. Sau khi chính lệnh ở Lỗ quốc được thống nhất, hắn với tư cách là quyền thần đệ nhất trong Quý Thị môn hạ sẽ có cơ hội để phát động chiến tranh đối ngoại, lấy chiến công để được bái tước phong hầu, từ đó thoát khỏi thân phận nô bộc. Không ngờ rằng Thúc Tôn, Mạnh Tôn Thị dùng kế rút củi đáy nồi, âm thầm đi mời Lỗ quân về nước, tuy rằng cuối cùng Lỗ quân bạo tử, thế nhưng để tránh bị hiềm nghi, chứng tỏ mình thanh bạch, Quý Tôn Ý Như chỉ còn cách đành phải tán thành việc lập tân quân, đồng thời từ bỏ chức vị chấp chính, trận chiến này trên thực tế Quý Thị đã nằm ở thế hạ phong, hùng tâm của Dương Hổ cũng tan thành mây khói.
Thế nhưng việc sắp thành lại bại, đều là bởi Quý Thị không quả quyết làm nhỡ thời cơ chiến đấu, không có can hệ gì tới Khánh Kỵ. Chính bởi lẽ mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, Dương Hổ cả đời kiêu hùng, không hề vì thế mà giận cá chém thớt hoặc gây sự với Khánh Kỵ, hai người hiện tại tuy không có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ về lợi ích, thế nhưng hắn vẫn rất thân thiết đối với người chiến hữu kia.
Khánh Kỵ nói:
- Ở Phí thành ta gặp phải một ít chuyện khẩn yếu, cần phải thông báo cho Tam Hoàn đại phu với Dương Hổ đại nhân một tiếng, chính vì điều này mới quay về Khúc Phụ. Hổ huynh lúc nãy đấu khẩu với ai thế? Ta vừa nghe thấy... Khổng Khâu? Xảy ra chuyện gì vậy?
Dương Hổ nghe Khánh Kỵ nhắc đồng thời tới cả Tam Hoàn và mình, không giấu nổi vẻ mặt vui mừng, càng trở nên thân thiết với Khánh Kỵ hơn, vội kéo tay hắn vào trong, mỉm cười mà nói:
- Đừng nhắc tới hắn nữa, tên Khổng Khâu không biết trời cao đất dày là gì, để ta xem sau này hắn thành ra cái thá gì, nào nào nào, mau mau ngồi xuống đi.
Khánh Kỵ vốn định ngay lập tức vào chủ đề chính, vừa nghe tới việc hắn nhắc đến Khổng Khâu không khỏi có chút tò mò, Khổng Khâu đi cùng Triển Hoạch trở về Khúc Phụ, đáng nhẽ ra phải đi cùng đường với Triển Hoạch để mưu cầu một chân quan chức, trong khi Triển Hoạch và Dương Hổ chưa từng có qua lại với nhau, nước giếng không phạm nước sông, tại sao Khổng Khâu lại chọc tức Dương Hổ được?
Vì vậy Khánh Kỵ không vội bàn đến chuyện của mình, thuận miệng hỏi lại mấy câu. Dương Hổ ngồi xuống cùng bàn với hắn, bất đắc dĩ nói:
- Không giấu gì công tử, Hổ và Khổng Khâu quen biết từ nhỏ. Lúc tuổi còn trẻ, từng có một chút ít xích mích với nhau, có điều đó đã là chuyện của dĩ vãng rồi, Dương Hổ cũng không còn để tâm trong lòng nữa. Đến nay Dương Hổ làm việc cho Quý Tôn đại nhân, còn Khổng Khâu học thức uyên bác, trở thành văn nhân ở Lỗ quốc chúng ta, chính là bậc văn sỹ bác học, ta và hắn tuy đều là những kẻ có tiếng, nhưng lại không có cơ hội gặp mặt nhau.
Hắn nói rồi cầm lấy một chiếc bình gốm, rót cho Khánh Kỵ một cốc nước ô mai nhuận hầu. Bình gốm đó được ướp lạnh trong giếng nước, thời tiết oi bức, ngồi trong đại sảnh rộng rãi cũng chẳng thấy mát mẻ hơn là bao, uống chút nước ô mai không những làm dịu cơn khát mà còn có thể khử nóng.
Dương Hổ lại nói:
- Ta hành tẩu trước mặt Quý Tôn đại nhân, Triển Hoạch mời hảo hữu của hắn về đô thành, đòi hỏi Quý Tôn đại nhân một chức quan. Công tử cũng biết rồi đấy, Dương Hổ tuy rằng xuất thân là nô tài, nhưng những việc sát sườn của đại nhân đều do Dương Hổ lo liệu, đại nhân đương nhiên giao việc này cho ta. Ta nghĩ Khổng Khâu dù sao cũng là bậc chí sỹ bác học, về thân phận hiện tại tuy đã lụi bại, nhưng cũng là hậu duệ quý tộc, liền tuân theo phân phó của đại nhân, muốn tìm cho hắn một chức vụ thích hợp.
- Mấy ngày nay, vì công việc trên triều đình bận rộn, chưa kịp đưa ra sắp xếp cụ thể. Ta nghĩ, ta và Khổng Khâu sau này sẽ phải cùng làm việc trên triều, hắn vì một chút chuyện thù cũ ngày xưa, luôn canh cánh trong lòng đối với Dương Hổ, sau này không tiện cộng tác với nhau, liền bảo người tặng cho hắn hai cái chân lợn nướng để tỏ lòng hữu hảo. Đồng thời, giải thích cho hắn rằng bởi việc trong triều bận rộn, hai ngày sau sẽ có kết quả về chức quan của hắn, tránh cho hắn nghĩ ngợi này nọ.
Nói đến đây, cơn tức của Dương Hổ quay trở lại, đập mạnh xuống bàn mấy cái:
- Đáng hận Khổng Khâu, khiến ta nhục nhã. Người này quả thực gian trá vạn phần, nếu hắn không muốn kết giao với Dương Hổ, thì có thể cự tuyệt lễ vật đó, thế nhưng hắn lại nhận lấy lễ vật của ta, để rồi không chịu gặp mặt ta, lén lén lút lút, thừa dịp ta không có nhà đăng môn hoàn lễ(tặng lại lễ vật), hành vi tiểu nhân, quả thật khiến Dương Hổ tức chết đi được.
Khánh Kỵ nghe hắn kể đến đây mới hiểu rõ ngọn ngành câu chuyện, điểm mấu chốt trong câu chuyện này nếu như đổi lại là người hiện đại đi nghe thì chắc hẳn họ sẽ không nghe ra được đầu đuôi tai nheo ra sao. Ngươi tặng lễ cho người khác, tại sao lại nhất định phải muốn họ hoàn lễ cho mình? Hơn nữa hoàn lễ còn phải bắt buộc diện kiến đích thân ngươi, nếu không sẽ trở thành điều vô cùng bất kính? Bây giờ Khánh Kỵ đã được kế thừa toàn bộ ký ức và kiến thức của Khánh Kỵ trước đây, nên vừa nghe đã hiểu ý tứ của Dương Hổ.
Vào thời này, rất quan trọng chuyện có đi có lại, có tặng lễ, ắt phải có hoàn lễ, như vậy mới không mất lễ tiết. Đương nhiên, điều này không bao gồm lúc đút lót, nếu như người đã đứng tuổi hoặc có địa vị cao tặng lễ cho người ít tuổi hơn hoặc địa vị thấp hơn mình, vậy thì người nhận lễ cần phải đích thân cầm lễ vật đi tới phủ đối phương đáp lễ, lễ vật không quan trọng nhiều ít hay quý hiếm, điều cần ở đây chính là lễ tiết.
Nhưng Dương Hổ ngày nay quyền thế ngút trời, vốn không cần phải đi tỏ lòng hữu hảo với một quý tộc hết thời như Khổng Khâu, Khổng Khâu có cảm nhận như thế nào về hắn, cũng chẳng ảnh hưởng là bao tới hắn cả. Hắn làm như vậy là có ý đồ gì? Khánh Kỵ ngẫm nghĩ mọi chuyện, liền minh bạch dụng tâm của Dương Hổ, Dương Hổ tặng lễ, thì ra là để ném đá dò đường a!
Chắc có lẽ lần trước đám đại phu dùng âm mưu của xây Tắc từ này để hãm hại một kẻ không hiểu biết lễ trị như Dương Hổ, đã khiến cho hắn bị kích động nặng nề. Lần này hắn muốn tìm một chí sỹ bác học am hiểu lễ trị làm phụ tá cho mình. Việc học lễ trị vô cùng phức tạp rườm rà, hơn nữa những kiến thức này lại chỉ nằm trong tay các quý tộc, thường dân không thể được học những kiến thức rối rắm như vậy được. Thế nhưng những người có thân phận quý tộc thì liệu có ai lại khom lưng uốn gối mà đầu nhập vào một gia nô môn hạ như hắn? Chỉ có người đã sa cơ lỡ vận như Khổng Khâu mới có thể làm vậy. Dương Hổ tặng lễ cho Khổng Khâu, chính là để thăm dò thái độ của hắn. Nếu như Khổng Khâu nhận lấy lễ vật, rồi lại đích thân đăng môn hoàn lễ, như vậy cho thấy rằng hắn đã đồng ý cúc cung tận tụy cho Dương Hổ rồi. Nếu như từ chối nhận lễ vật của hắn, kẻ khác chỉ nói Khổng Khâu không biết thời thế, mặt mày Dương Hổ cũng không đến nỗi khó coi cho lắm. Điều đó gọi là kẻ khác không thể nào nắm thóp người có học vấn hàm súc được, đây vốn là một thủ đoạn thường dùng trong chốn quan trường.
Chỉ có điều phản ứng đáp lại lòng tốt của hắn lại quá mập mờ, hoặc là đừng nhận thì không nên chuyện, thế nhưng đã nhận lễ vật, lại chọn lúc Dương Hổ không có nhà để đến hoàn lễ, hơn nữa còn hoàn trả một con vịt hoang, khó trách Dương Hổ phẫn nộ uất ức. Cần biết rằng vào thời này không những coi trọng lễ tiết, mà còn quan trọng cả việc tặng thứ lễ vật gì nữa, bái sư thì phải tặng thịt cúng, thành thân thì tặng chim nhạn..., khi thăm viếng mà tặng vịt hoang thì sẽ là rất bất kính với đối phương.
Khánh Kỵ nghe xong sự tình cũng không khỏi khẽ lắc đầu:
- Khổng sư là người có học vấn, đáng tiếc lại làm chuyện như vậy..., ngài cũng đừng quá trông chờ vào tất cả những người qua lại với mình đều là chính nhân quân tử như Triển Hoạch, khi phương pháp sử dụng không thỏa đáng, làm sao có thể không đắc tội với người khác được đây?
Thực ra Khánh Kỵ cũng biết rõ cách nghĩ của Khổng Khâu, Khổng Khâu không hề có ý mượn cơ hội chọc tức Dương Hổ, khi Khổng Khâu thấy vị đệ nhất quyền thần Lỗ quốc này đăng môn tặng lễ, kỳ thực trong lòng có chút vừa mừng vừa sợ, đành vui vẻ nhận lấy lễ vật. Hành động chủ động tỏ lòng hữu hảo của Dương Hổ, một chút oán hận khi xưa bị hắn chế nhạo, Khổng Khâu cũng không hề để bụng.
Chỉ là sau khi nhận lễ vật, tâm tình xao động vừa mới yên bằng trở lại, Khổng Khâu liền lĩnh ngộ được thêm một tầng hàm ý trong việc Dương Hổ tặng quà cho mình. Khổng Khâu đắn đo nhiều lần, cân nhắc lợi hại, dần dần cảm thấy hối hận. Sau nhiều lần lận đận, bây giờ hắn chỉ muốn đạt được mục đích phát huy chủ trương chính trị của mình, vô luận đối phương là Quý Tôn Ý Như coi trời bằng vung hay là kẻ khí thế ngút trời như Dương Hổ, hắn đều không ngại. Thứ hắn muốn là mục đích, còn về lộ trình, đã không còn nghĩ tới việc cân nhắc chọn lựa nữa rồi.
Nhưng nói về việc không đồng đạo tất không đồng mưu, Dương Hổ cho dù chịu trọng dụng hắn, chẳng qua cũng chỉ coi hắn là một phụ tá bày mưu tính kế cho mình thôi, liệu có chịu ủng hộ hắn khôi phục lễ tiết nhà Chu, chủ trương chính trị nhân chính(nền chính trị nhân từ) không? Lại nói, những thế lực chính trị xưa nay luôn một mực ủng hộ hắn, là những quý tộc thế gia kế tục tước vị kia, lợi ích xung đột với thế lực đang lên của Dương Hổ, nếu như gia nhập môn hạ của Dương Hổ, chẳng khác nào tự cắt đường lui, đoạn tuyệt quan hệ với những quý tộc kia, từ đó ngoài việc quỳ gối hầu hạ Dương Hổ thì chẳng còn con đường thứ hai nào mà đi nữa cả.
Với cách nghĩ như vậy, thì Khổng Khâu liền không muốn thu nhận lễ vật của Dương Hổ, nhưng giờ đây hắn trả lại lễ vật, khó tránh khỏi đắc tội với Dương Hổ, đương nhiên sẽ gây cản trở cho con đường làm quan của hắn, vì vậy vắt óc nghĩ ra cách chạy lửa, hắn nghĩ rằng làm như vậy thì không chê vào đâu được nữa, vừa không chọc giận Dương Hổ, lại có thể bù đắp lại sơ suất khi nhận lễ, từ nay về sau không nợ nần gì Dương Hổ cả. Nào biết rằng Dương Hổ kia tuy học hành không nhiều, nhưng cũng không thiếu cơ trí, một chính nhân quân tử như hắn có thể nghĩ ra cách làm như vậy, một kẻ vùng vẫy đấu tranh trong môi trường lừa gạt lẫn nhau như Dương Hổ lại càng hiểu rõ hơn, làm sao mà lại không nhận ra được cơ chứ.
Khánh Kỵ thấy Dương Hổ căm hận tột cùng, không khỏi cau mày, Khổng Khâu là bạn tốt của hắn, hơn nữa do địa vị trong lịch sử của Khổng Khâu, Khánh Kỵ tự trong lòng luôn giữ vài phần kính ý với hắn, hắn không mong muốn vị Khổng Khâu kia bị kẻ khác chèn ép. Trong khi trước mắt, trợ lực lớn nhất của hắn lại là Dương Hổ, đối với đệ nhất quyền thần Lỗ quốc kia hắn càng không thể đắc tội được.
Suy nghĩ một hồi, Khánh Kỵ đành phải lựa lời khuyên bảo hắn:
- Hổ huynh là người làm đại sự, hà tất phải so đo với một sỹ tử như vậy. Khổng Khâu như Trúc Chi quân tử*, thanh cao liêm khiết, hắn làm như vậy, chắc hẳn bởi vì quyền thế của Dương Hổ đại nhân quá mạnh, là người chỉ dưới Tam Hoàn mà thôi, Khổng Khâu lo lắng sẽ bị người ngoài phỉ báng hắn cậy quyền cậy thế người khác, bất đắc dĩ mới đưa ra hạ sách này.
Lời nói của Khánh Kỵ đều nâng hai bên lên một chút, xem như là cho Dương Hổ một lối thoát, Dương Hổ không hiểu cho, hắn cười lạnh một tiếng, khinh miệt nói:
- Ha ha, Dương Hổ biết công tử và Khổng Khâu có chút giao tình, công tử không cần phải lấp liếm cho hắn làm gì. Cái gì mà Trúc Chi quân tử, thanh cao liêm khiết, theo Dương Hổ thấy, tên Khổng Khâu đó chỉ là tên chuột nhắt nhãi nhép mua danh chuộc tiếng, lừa gạt người đời mà thôi.
Hắn không háo danh không háo lợi? Hắc, nếu quả thật là vậy, thì hắn không thể nào sau khi sinh hạ nhi tử, quốc quân tặng cho một con cá chép làm quà mừng, rồi hồ hởi vui mừng mà đặt tên cho nó là Khổng Lý, vẫn chưa thấy được thân phận quý tộc của hắn đã được quốc quân thừa nhận? Ta ị vào! Lúc trước quốc quân tại sao không tặng hắn một cái đầu lừa!
Nghe Dương Hổ nói vậy, Khánh Kỵ vê vê mũi, quả thực không biết khuyên giải thế nào cho phải nữa.
Dương Hổ tức giận thở mạnh một cái, lúc này mới khoát tay nói:
- Không nhắc tới tên điểu nhân kia nữa, cứ nhắc đến là lại tức anh ách. Nói về chuyện của công tử đi, công tử đi Phí thành lần này chẳng phải là đang xây thành lập lũy, chiêu binh mãi mã ư, sao lại bí mật trở về Khúc Phụ vậy?
Khánh Kỵ nghe hắn hỏi, suy tính rằng: Những chuyện liên quan tới việc Tam Hoàn tranh lập tân quân không thể trực tiếp giãi bày với hắn về ý kiến của mình, bất luận nói thế nào, Dương Hổ và Quý Tôn Ý Như vẫn có mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu như biết mình còn có lòng khác thì chưa chắc đã chịu tiếp nhận ý kiến của mình. Vả lại, trước mắt Dương Hổ vẫn là nhân vật không thể thay thế trong mắt Quý Tôn Ý Như, những chuyện liên quan tới việc Triển Chích mưu phản, cho dù mình có giấu hắn, hắn cũng biết được từ chỗ Quý Tôn Ý Như mà thôi. Lúc đó ngược lại sẽ khiến hắn nảy sinh hiềm khích, chi bằng cứ thẳng thắn thành khẩn khai báo, từ đó nhắc tới chuyện Tam Hoàn tranh lập tân quân, rồi lại thuận theo tự nhiên nói ra kiến giải của mình, sẽ không khiến cho bọn họ nghi kỵ.
Nghĩ tới đây, ánh mắt Khánh Kỵ dừng lại, nói:
- Hổ huynh, khi ta chọn nơi xây thành tại Phí thành, phát hiện đại đạo Triển Chích ở gần đó có một sơn trại ở trong Thương Hà lĩnh, địa thế vô cùng hiểm trở. Lúc đó, Triển Hoạch đại phu phụng lệnh Quý Tôn đại nhân lên núi khuyên hàng, Triển Chích đóng cửa không tiếp, Khổng Khâu liền chủ động xin lên núi khuyên hàng thay cho Triển Hoạch. Bản công tử quen biết với họ, để an toàn, Khánh Kỵ bèn giả trang thân phận thành một thị vệ, hộ tống Khổng Khâu lên núi. Lần thương thuyết đó đương nhiên cũng không thành công, có điều Khánh Kỵ có một phát hiện khác khi ở trên núi.
Dương Hổ khi nãy dữ dằn như thể không coi ai ra gì, lúc này lại vô cùng trầm tĩnh, Khánh Kỵ nói được một nửa, liền cầm cốc nước ô mai uống cho nhuận hầu(trơn giọng), hắn cũng không thúc giục, chỉ là lẳng lặng chờ đợi. Nét mặt bất động vô cảm như nham thạch, duy chỉ có đôi mắt phát ra tia hàn quang lạnh lùng.
Khánh Kỵ hớp một ngụm nước ô mai, nói một mạch tất cả những điều hắn mắt thấy tai nghe khi ở trên Thương Hà lĩnh, nhất là về cách nhìn phẫn bức khi Triển Chích quát mắng Khổng Khâu, Dương Hổ trầm ngâm nghe cho hết, hai mắt khẽ chớp:
- Ý của Khánh Kỵ công tử là...Triển Chích làm cướp, mưu đồ thực sự là làm đại sự, hắn... muốn tạo phản sao?
Khánh Kỵ cười cười, nói:
- Chỉ có vậy, thì chưa đủ căn cứ khẳng định, hoặc cũng có thể hắn chỉ muốn xây dựng sào huyệt của mình kiên cố hơn, có được một nơi trú chân lâu dài. Có điều những chuyện tiếp theo nếu không phải là nguyên nhân này thì có chút khó lý giải rồi.
Khánh Kỵ tiếp đó thuật lại cho hắn nghe rành rọt về chuyện trên đường về thành bị tập kích, mục đích đối phương nhằm vào Thành Bích phu nhân và việc đằng sau lão trạch Quý phủ phát hiện mấy xác chết kỳ lạ, Dương Hổ nghe xong đứng dậy đi lại quanh phòng, đi được vài vòng rồi ngừng lại nói:
- Đúng thật, nếu nói là để tạo phản, thì lý do đó mới có thể giải thích được. Tên Triển Chích này vốn là công tử Triển Thị gia, Triển Thị là đại tộc giàu có bậc nhất Lỗ quốc, một vị công tử thế gia, chẳng biết tại làm sao lại đi làm cường đạo, há chẳng khó hiểu?
Trước đây người ta thường bảo người này căm ghét thế tục mà bỏ đi, thà rằng làm một đại đạo khoái ý ân cừu(ý nói ở đây là hành động theo ý thích), chứ không chịu làm một công tử ăn sung mặc sướng, thế nhưng người này sau khi làm đại đạo, tung hoành giữa các nước, tất cả hành động đều có mục đích, vừa thông minh lại vừa cơ trí, lắm mưu nhiều kế, tuyệt đối không phải một mãng phu thích hô hào chém giết. Có lúc nghĩ đến, ta cũng cảm thấy hành vi của hắn hết sức cổ quái, thế nhưng người đời đều nói hắn là đại đạo, nghe quá nhiều rồi, ta cũng không đào sâu suy nghĩ tiếp về hắn nữa. Lúc này xem ra danh tiếng đại đạo của hắn quả nhiên không phải là giả, chỉ có điều mưu đồ quá nhiều thôi.
Dương Hổ hơi ngẩng đầu lên, trên mặt lộ ra vẻ mặt cười mà chẳng phải cười:
- Ai cũng không ngờ được, thứ hắn muốn cướp lại là chức vị quân hầu.
Trong mắt Dương Hổ lúc này lóe lên quang ảnh chớp động, Khánh Kỵ thấy trên mặt hắn tràn đầy khí thế quả cảm, bỗng cảm thấy thần vận trên mặt hắn không giống như kinh ngạc, cũng không giống như là cảnh giác, mà ngược lại...giống như là đang tán thưởng và thán phục Triển Chích vậy.
Dương Hổ ngẩng đầu lên tâm tư ung dung một hồi lâu, cũng không biết đang nghĩ gì, Anh Đào đứng ở ngoài cửa, cùng Khánh Kỵ đưa mắt nhìn nhau, Khánh Kỵ khẽ lắc đầu, rồi lại cười, rủ mi xuống điềm tĩnh uống nước.
Dương Hồ suy tư một lúc lâu, rồi bỗng nhiên quay lại nhìn Khánh Kỵ, có chút nhíu mày nói:
- Tất cả đều là phỏng đoán của hai ta, e khó có thể khiến Quý Tôn đại nhân tin tưởng được.
Khánh Kỵ gật đầu nói:
- Không sai, Dương Hổ đại nhân quá hiểu về Quý Tôn đại nhân, đó là điều khỏi phải bàn rồi. Mặc dù thời gian qua lại giữa Khánh Kỵ và Quý Tôn đại nhân ngắn ngủi, nhưng cũng hiểu được đôi chút về tâm tình của đại nhân, nếu như không có chứng cứ rõ ràng, Quý Tôn đại nhân e là khó có thể đưa ra quyết tâm xuất binh diệt trừ được.
Dương Hổ cười hơi chút cổ quái:
- Công tử sai rồi, cho dù là có chứng cứ sờ sờ, trừ phi Triển Chích giết tới Khúc Phụ, e rằng Quý Tôn đại nhân cũng sẽ không điều động đại quân tới tiêu diệt. Bởi vì... phân tranh trong Tam Hoàn lại nổi lên, trong triều đình ốc còn không mang nổi mình ốc, làm sao còn tâm trí mà xuất binh đây?
Khánh Kỵ kinh ngạc nói:
- Phân tranh trong Tam Hoàn lại nổi lên? Hổ huynh nói vậy là sao?
Ánh mắt Dương Hổ khẽ lay động, hồi lâu sau bỗng nở nụ cười, ánh mắt có chút lạnh lùng nhìn về phía Khánh Kỵ:
- Công tử, Dương Hổ coi ngài là bạn, chưa từng có chút lời giấu diếm, tại sao công tử lại coi Dương Hổ là kẻ dễ dàng khi dễ vậy?
Khánh Kỵ sững sờ:
- Hổ huynh nói vậy là có ý gì?
Dương Hổ không vui nói:
- Công tử với Thúc Tôn thế gia đã định sẵn hôn ước, Thúc Tôn Ngọc đã bố trí thợ thủ công đi Phí thành, vị hôn thê Thúc Tôn Diêu Quang của công tử cũng giả trang tới thăm công tử, chuyện Tam Hoàn tranh lập tân quân, lẽ nào công tử lại không hay biết gì?
Khánh Kỵ giật mình, Thúc Tôn Diêu Quang từng nói nàng cải trang rời khỏi Khúc Phụ, không hề lộ diện trước bất cứ ai trong thành, đáng nhẽ ra không ai biết được chuyện nàng đã rời Khúc Phụ mới phải, không ngờ tai mắt của Dương Hổ lại thạo tin đến vậy, biết được hướng đi của nàng, từ đó đoán định được dụng ý đi tới đây lần này của hắn.
Trong lòng Khánh Kỵ nội tâm lộn xộn, Dương Hổ đưa ánh mắt sáng quắc như dao cạo chằm chằm nhìn hắn, không hề chớp mắt lấy một cái, trên mặt lờ mờ hiện ra vẻ dữ tợn. Khánh Kỵ thở dài một tiếng, nghĩ tới bộ dạng lúc nãy của hắn khi bị Khổng Khâu đùa giỡn, trong lòng đã có kế hoạch, vậy nên nghiêm nghị đứng dậy, chắp tay kính lễ với hắn, ung dung nói:
- Hổ huynh thứ lỗi, quả thật Khánh Kỵ có chỗ còn giấu diếm Hổ huynh, ngài đoán không sai, Khánh Kỵ quả thật đã biết đôi chút về chuyện tranh đấu giữa Tam Hoàn, chỉ là khi Diêu Quang đến phân tranh nổi lên, hơn nữa Khánh Kỵ từ Khúc Phụ đi thẳng tới đây luôn, chưa kịp ghé qua nơi nào hết, nơi đầu tiên chính là phủ đệ của Hổ huynh, để biết được cặn kẽ sự tình, không biết hiện tại kết quả đến đâu rồi. Khánh Kỵ đến Khúc Phụ, chủ yếu là vì Triển Chích, điều này là sự thật!
Dương Hổ chăm chú nhìn nhất cử nhất động và thần sắc thay đổi của hắn, một hồi lâu sau đột nhiên cười ha hả, Khánh Kỵ khẽ thở phào nhẹ nhõm. Hắn biết, những lời khẩn khoản kia đã thành công.
- Công tử mời ngồi, kỳ thực thì ai cũng đều có mưu cầu riêng, Dương Hổ đâu dám muốn bí mật gì của công tử cũng đều phải nói hết ra cho Dương Hổ đâu, chỉ có điều không cam lòng bị lừa dối thôi. Công tử đã biết việc tranh lập tân quân, vậy có kiến ý gì đối với chuyện này?
Khánh Kỵ cau mày nói:
- Hổ huynh, lần này Khánh Kỵ tới Khúc Phụ, quả thực là vì chuyện của Triển Chích, chứ không phải xuất đầu cho nhà Thúc Tôn Thị.
Hắn cười lạnh lùng, cố ra vẻ khinh thường nói:
- Hảo nam chí tại thiên hạ, nữ nhân... nơi đâu mà không có? Vả lại, Thúc Tôn Ngọc cũng chưa chắc thật lòng với bản công tử, việc gì ta phải xuất đầu cho hắn. Lần trở về này, ta không dẫn theo Thúc Tôn Diêu Quang về, chính là để thuận tiện bàn bạc với Hổ huynh.
Lời nói này của Khánh Kỵ trong thật có giả, trong giả có thật. Dương Hổ chí ít cũng tin bảy tám phần, bởi vì hắn sớm đã bố trí người theo dõi mọi động tĩnh của Thúc Tôn thế gia và Mạnh Tôn thế gia rồi, nếu Khánh Kỵ đi gặp Thúc Tôn Ngọc trước, chắc chắn không vượt qua tai mắt của hắn, cho nên việc Khánh Kỵ đi thẳng tới đây là lời nói thật, vì vậy, những lời bộc bạch này của hắn nghe rất lọt tai, nội tâm Dương Hổ thư thái hơn, niềm nở cười nói:
- Khánh Kỵ công tử là hào kiệt đương thời, lời của công tử đương nhiên ta phải tin rồi.
Khánh Kỵ mỉm cười, lại nói:
- Có điều, về chuyện Tam Hoàn tranh lập tân quân có quan hệ mật thiết tới Triển Chích, tân quân chưa được lập, vậy cũng có nghĩa là không có ai có thể khiến Tam Hoàn xuất binh, kìm hãm Triển Chích, vì vậy Khánh Kỵ vô cùng quan tâm tới chuyện lập tân quân, dụng tâm này quả không dám giấu gì Hổ huynh.
Dương Hổ nghe thấy vậy khoát tay lia lịa cười nói:
- Ha ha, Khánh Kỵ công tử, nếu công tử muốn hiểu rõ về động tĩnh hiện tại ở Khúc Phụ, Dương Hổ có thể giải thích rõ ràng cho công tử, nhưng nếu công tử muốn Dương Hổ trợ giúp, vậy thì không được đâu. Công tử có điều còn không biết, hiện tại cho dù là lập Cơ Loan hay Cơ Tống thì tranh cãi giữa các đại phu trong triều cũng không thể chấm dứt được. Hắc, Quý Thị đại nhân nhà ta luôn giả bệnh ở nhà không lên triều, Thúc Tôn Ngọc cũng rất quái gở, bắt chước không xuất đầu(ra mặt), chỉ để một đám thân tín làm loạn trên triều, đó đều là những kẻ đầy tớ không đáng đếm xỉa tới, lật đổ kẻ nào cũng chẳng hại ai, nhưng phàm là những nhân vật có ảnh hưởng lớn, hiện tại đều âm thầm nhìn tình thế. Công tử bảo Dương Hổ bước chân vào một chuyện phức tạp, lại chẳng liên can gì tới ta ư? Không được không được đâu!
Khánh Kỵ kinh ngạc nói:
- Việc này không liên can tới ngài? Hổ huynh tại sao lại nghĩ vậy?
Dương Hổ trợn mắt trắng dã nói:
- Liên quan quái gì tới ta nào?
Khánh Kỵ nói:
- Chuyện lập tân quân là đại sự cỡ nào, là đại công cỡ nào? Hổ huynh tài cán xuất chúng, là rường cột nước nhà, hiện tại mang danh Quý Thị gia nô, kỳ thực đã là tể tướng Lỗ quốc, tại sao không tiến lên một bước, phong tước giành ấp? Với thân phận gia nô hiện tại, cho dù có bản lĩnh lớn lao đến mấy, cũng khó thoát khỏi thân phận gia nô này. Thế nhưng nếu như trên Quý Thị đại nhân có quốc quân, việc lập tân quân có một phần công lao của Hổ huynh, vậy thì còn cần đến lập quân công mới được phong tước sao? Nếu quốc quân muốn dùng ngài, chỉ cần ban cho ngài thân phận nhân sỹ, thì sẽ có thể thoát khỏi thân phận nô tịch rồi. Lúc này chủ của ngài không còn là gia chủ, mà là quốc quân. Ngài cũng không còn là gia nô, mà là quốc thần, chí ít có thể phong làm đại phu, đó chẳng phải là mong ước cả đời của Hổ huynh sao? Giờ đây cơ hội ở ngay trước mắt, tại sao Hổ huynh lại nói không có can hệ gì được?
Dương Hổ nghe vậy thì biến đổi sắc mặt, hai mắt đảo loạn liên tục, thần sắc âm tình bất định, một lúc sau đó, hắn bỗng nhiên khóe mắt khẽ nheo nheo, liếc nhìn Khánh Kỵ nói:
- Công tử lại gạt ta.
Khánh Kỵ hiện ra một sắc mặt không khác là mấy so với Thành Bích phu nhân lúc bàn chuyện làm ăn, cười gian giảo nói:
- Không phải không có khả năng đó, cơ hội rất lớn, chẳng phải vậy sao?
Dương Hổ lại một phen suy nghĩ, trầm ngâm lúc lâu, đột nhiên vỗ đùi, vẻ mặt đau khổ nói:
- Tại sao ta biết rõ là động cơ của ngươi không trong sạch, thế nhưng vẫn muốn được mắc mưu của ngươi nhỉ?
Khánh Kỵ nhịn không nổi cười nói:
- Người chết vì tiền, chim chết vì ăn, cái lợi trước mắt, không thể không làm a!
- Người chết vì tiền, chim chết vì ăn, cái lợi trước mắt, không thể không làm!
Dương Hổ nhắc lại câu nói đó, lộ vẻ tán đồng nói:
- Có lý bỏ mẹ đi được! Công tử cứ nói rõ ra đi, ngươi có bao nhiêu toan tính, ngươi có mấy phần ăn chắc.
Nói đến đây, hắn cũng lộ ra một nụ cười giống hệt gian thương:
- Nếu như lỗ vốn, Dương Hổ không làm đâu nhá!
Khánh Kỵ và Dương Hổ chung xe rời khỏi phủ, hướng về phủ đệ của Quý Tôn Ý Như. Tiết trời tháng sáu, nóng nực oi bức, trên đường đi không có cả một cơn gió, hàng liễu hai bên đường ủ rũ, chỉ thỉnh thoảng đung đưa qua lại.
Hai người ngồi trên xe, vén hết thảy màn cửa màn xe lên, dù là vậy cũng khó tránh khỏi cái nóng khó chịu. Đang vào giữa trưa, người đi đường thưa thớt, chỉ lưa thưa vài người bước đi chầm chậm dưới bóng cây. Hai người trên xe bàn về cách làm sao để thuyết phục Quý Tôn Ý Như, Khánh Kỵ đang nói đến suy nghĩ của mình, Dương Hổ chăm chú lắng nghe, chợt ánh mắt lóe lên, đột nhiên hét lớn:
- Ngừng xe!
Xe ngựa lập tức dừng lại, Khánh Kỵ ngạc nhiên hỏi:
- Hổ huynh, có chuyện gì vậy?
Ánh mắt Dương Hổ nhìn xuyên qua vai hắn, hướng về phía ngoài cửa sổ cười lạnh nhạt, mặt lộ vẻ nghiêm nghị:
- Xin công tử cứ ngồi trên xe, không cần ra mặt giúp hắn đâu. Dương Hổ sẽ không làm khó hắn, chỉ muốn hỏi hắn vài câu thôi.
Khánh Kỵ ngạc nhiên:
- Hỏi ai?
Vừa nói vừa quay đầu lại, thấy có một sĩ tử cao lớn từ phía bóng cây liễu ven đường bước tới. Người này mặc chiếc trường bào vải thô, búi tóc, do tiết trời nóng nực, nhìn hắn ta bước đi cũng uể oải, lâu lâu lại đưa vạt áo lên lau mồ hôi trên trán.
Khánh Kỵ nhìn thấy người này, kinh ngạc kêu lên:
- Khổng Khâu!
Lúc này người đó đã đi đến trước mặt, Dương Hổ cúi người né sang một bên, cho Khánh Kỵ nép vào phía trong, để mình ngồi trước cửa sổ, tay vỗ mạnh vào thành cửa, hét to:
- Người kia có phải là Khổng Khâu? Nào lại đây, Dương Hổ nói với ngươi vài câu.
Khổng Khâu đi bộ định đến thăm người bạn Triển Hoạch, chợt nghe có tiếng gọi, Khổng Khâu thấy lạ, ngẩng đầu lên thấy Dương Hổ đang ngồi trong một chiếc xe ngựa, ánh mắt dữ tợn nhìn vào mình, cảm thấy lo lắng trong lòng. Dương Hổ hét lớn như vậy, muốn làm như không nhìn thấy mà tránh đi là không thể nào được, không còn cách nào khác, buộc phải bước tới trước xe hành lễ:
- Khổng Khâu xin chào Dương Hổ đại nhân.
Dương Hổ vẫn ngồi trên xe, tay gõ gõ vào khung cửa sổ, liếc nhìn Khổng Khâu, mở lời:
- Khổng Khâu, nhân sĩ nổi tiếng nước Lỗ, học cao hiểu rộng, tinh thông kim cổ, Dương Hổ đây có vài chuyện nghĩ hoài không ra, hôm nay may mắn gặp được phu tử, không biết có thể chỉ dạy giúp cho?
Khổng Khâu lặng người, biết chắc là người này không có ý tốt gì, thận trọng trả lời:
- Trước mặt Dương Hổ đại nhân, chỉ dạy thật không dám, không biết Dương Hổ đại nhân gặp phải vấn đề gì?
Dương Hổ cười nham hiểm:
- Nếu có một người, tự cho là mang trong mình tài năng siêu việt, có chí lớn an bang cứu thế, nhưng thấy đất nước suy tàn, nhân dân thống khổ, có cơ hội làm quan phò nước giúp dân, nhưng lại làm ra vẻ bất cần, tự cho là thanh cao, lấy lí do là không muốn đứng chung hàng ngũ với kẻ tiểu nhân, nhân sĩ kiểu này có xứng với chữ “Nhân” không nhỉ?
Khổng Khâu nghe nói vậy đã biết là hắn vì chuyện mình từ chối hợp tác nên gây hấn, tuy nhiên những lời Dương Hổ nói quá sắc bén, dù giải thích thế nào cũng không thể nói là không đúng, có điều muốn thành việc lớn không câu nệ tiểu tiết, đại nghĩa với tiểu nghĩa, lợi ích của xã tắc với danh tiếng cá nhân, bên nào nặng bên nào nhẹ há chẳng rõ rồi sao?
Khổng Khâu chỉ còn cách chắp tay:
- Dương Hổ đại nhân nói phải, đó là tiểu “Nghĩa”, không phải đại “Nhân”.
Dương Hổ cười ha hả:
- Đã lĩnh giáo.
Nhíu mày hỏi tiếp:
- Nếu một người mang chí lớn trong mình, vốn có rất nhiều cơ hội ra làm quan, thực hiện lí tưởng của mình, thế nhưng lại lúc nào cũng vì để ý một số tiểu tiết, thất bại lần này đến lần khác, người thế này có được coi là hiểu chuyện, là khôn ngoan không?
Khổng Khâu biết hắn đang mỉa mai chuyện mình tức giận từ quan vì chán ghét cảnh Quý Tôn Ý Như xem điệu múa của tám người đẹp, kết quả là đến nước Tề không được trọng dụng, giờ đây Dương Hổ nắm quyền lớn trong tay, Khổng Khâu không thể cự nự, chỉ còn cách nhẫn nhịn:
- Người như vậy không được coi là khôn ngoan.
Dương Hổ cười to:
- Ta hiểu rồi, thì ra người này vừa bất “Nhân” lại bất “Trí”(trí tuệ), học “tử” lễ, đọc “tử” thư, chà, người như thế này, chỉ trốn tránh là giỏi, làm một sĩ tử học nhiều nhưng vô dụng mà thôi.
Khổng Khâu tức giận tái mặt, cắn răng chịu đựng, cơ ngực phập phồng, hai mắt hướng xuống cố kiềm chế cơn giận trong lòng. Dương Hổ vừa cười to vừa vỗ lên thành xe, ra lệnh:
- Đi thôi, đi thôi. Ngày tháng thoi đưa, thời gian không đợi chờ ta đâu, Dương Hổ còn phải đi làm việc lớn, những kẻ ngốc thì chỉ có thể làm chú ve sầu suốt ngày kêu vang bên bóng cây vệ đường thôi, ha ha…
Khánh Kỵ quay đầu nhìn Khổng Khâu, chợt thương tiếc cho con người cô độc trên đường đời này. Dương Hổ vừa sỉ nhục Khổng Khâu hả giận, tâm trạng đương nhiên sảng khoái khoan thai.
Hai người đến phủ Quý Tôn, vì có Dương Hổ đi theo nên không cần bẩm báo trước, cứ thế xuống xe, Dương Hổ đi trước dẫn đường, đi qua sảnh ngoài sân trong tới nhà sau.
Nghe tin vua Lỗ qua đời, đau xót trong lòng, Quý Tôn Ý Như thân mang trọng bệnh lúc này lại đang ôm gái đẹp uống rượu ngon, thưởng thức điệu múa của sáu cô gái ăn mặc sặc sỡ, các cô gái khi xoay người lắc hông đều để lộ làn da trắng mịn, thật là quyến rũ.
Biết Dương Hổ đến xin gặp, Quý Tôn Ý Như không để ý lắm, vẫn ôm lấy gái đẹp, hả hê ngắm nhìn điệu múa của sáu cô gái xinh xắn.
- Dương Hổ vái chào chúa công.
Dương Hổ tiến lên trước chắp tay hành lễ, Khánh Kỵ đứng phía dưới ngóng đợi.
- Ờ, tốt tốt, đứng sang bên đã, ngươi kiếm đâu ra sáu cô gái này, không những xinh xắn như hoa, lại là chị em song sinh nữa, hiếm thấy, thật là hiếm thấy. Lão phu khi cần chúng hầu hạ, trái phải ôm lấy một nàng, xoay đầu qua lại cứ như nhìn vào gương ấy, ha ha, thú vị thật.
Dương Hổ cười đáp:
- Đó là do Dương Hổ tìm các mỹ nữ khắp bốn nước Tống, Trần, Lỗ và Tề, chọn ra ba cặp mỹ nhân song sinh này dâng tặng lên chúa công, để chúa công thử cảm giác mới mẻ ạ.
- Ờ, tốt, tốt lắm! Ha ha, lão phu rất hài lòng, hài lòng lắm.
Quý Tôn Ý Như vuốt râu, cúi đầu uống ngụm rượu của cô gái nâng trong tay dâng lên, mắt chưa hề nhìn về phía Dương Hổ.
Dương Hổ thấy Quý Tôn Ý Như đang vui, bèn đến sau lưng hắn, quì gối xuống bước đi hai bước đến bên tai hắn nói thầm vài câu, Quý Tôn Ý Như chợt giật mình, đột nhiên quay đầu nhìn về phía cửa lớn, phảy tay:
- Ngưng, ngưng, lui xuống lui xuống.
Các cô gái vũ nữ và nhạc sư đều ngưng lại, lần lượt lui ra. Quý Tôn Ý Như vỗ vào mông cô gái ôm trong tay:
- Người đẹp, nàng cũng ra ngoài đi, ta có chút chuyện dặn dò Dương Hổ.
- Dạ vâng!
Cô gái liếc xéo Dương Hổ một cái, đứng dậy bước ra. Quý Tôn Ý Như lại phảy tay, hai tì nữ đứng quạt sau lưng cũng vội cầm quạt lui ra.
Đợi mọi người ra ngoài hết, Quý Tôn Ý Như đá vài phát vào cái thau gỗ đựng đá để làm mát bên cạnh, đứng dậy hướng về phía Khánh Kỵ:
- Công tử Khánh Kỵ, sao ngài lại về Khúc Phụ rồi?
Khánh Kỵ bước lên hành lễ, rồi cùng ngồi với hắn, sau đó nói cho Quý Tôn Ý Như nghe mối nghi ngờ về Triển Chích của y. Quý Tôn Ý Như không tin lắm:
- Triển Chích có ý làm phản ư?
Hắn suy ngẫm một lúc, lắc đầu:
- Chuyện này…e là công tử đa nghi thôi. Danh vọng của Triển Thị tại nước Lỗ thua xa Tam hoàn thế gia của ta, cho dù cả họ nhà Triển cùng làm phản, không không gây nên sóng gió gì đâu. Hơn nữa Triển Hoạch là một quân tử chân chính, người này quyết không phản ta, quyết không làm điều gì bất lợi cho nước Lỗ. Còn về Triển Chích, hắn đã rời bỏ họ tộc từ lâu, thành một kẻ cướp mất hết danh dự. Nhà họ Triển ngoài người anh em cùng mẹ Triển Hoạch còn niệm tình với hắn ra, những người khác đã sớm không còn xem hắn là người nhà. Hắn muốn làm phản? Hắn lôi kéo được bao nhiêu người đây? Quân lính đâu mà có? Tiền lấy đâu ra?
Khánh Kỵ liếc nhìn Dương Hổ, cố tình nói nghiêm trọng:
- Đại nhân, nếu muốn có người, chuyện này rất dễ, hiện nay thiên hạ bất ổn, chốn thôn quê biết bao trai tráng tha hương tìm con đường sống, muốn chiêu binh, chỉ cần có lương thực thì dễ như trở bàn tay.
- Lúc tôi ở trên Tang Hà lĩnh , nhìn thấy nhà cửa san sát, không chỉ tráng đinh, còn có phụ nữ và trẻ nít, ruộng đồng trên núi nhiều vô số kể. Triển Chích bỏ nhà làm kẻ cướp đã gần hai mươi năm, nếu hắn sớm nuôi ý định làm phản, chắc chắn có tính toán. Hai mươi năm tích lũy chuẩn bị, chỉ riêng dãy núi phía sau lĩnh Tang Hà thôi đã không biết tích trữ bao nhiêu binh mã lương thực rồi, hơn nữa hắn đâu phải chỉ có một sào huyệt duy nhất.
- Còn về tiền, Triển Chích tuy không hoạt động nhiều ở nước Lỗ, nhưng các nước Tống Vệ Tề Trần đều bị y cướp bóc nhiều, công thành phá đất đã vơ vét không ít tiền của, ngài nghĩ xem, hắn cướp nhiều tiền của dùng vào việc gì nào?
Quý Tôn Ý Như nghe vậy không khỏi lung lay, Dương Hổ ra vẻ mới biết được tin này:
- Thật đáng chết, hắn đi nơi khác xây doanh trại không được à? Sao cứ phải chọn Phí thành? Đây là phong ấp lâu năm của chúa công tôi, lại là con đường chính thông ra biển Đông, nếu xảy ra chiến loạn thật, không những toàn bộ tiền của ở Phí thành bị hắn cướp đi, muối từ biền Đông cũng không cách nào vận chuyển, thế…thế tổn thất sẽ…
Nghe hắn nói, Quý Tôn Ý Như biến sắc, cảm thấy chuyện này liên quan tới lợi ích cá nhân mình rồi, không cần biết tin này thật giả thế nào, không thể sơ ý được nữa.
Quý Tôn Ý Như lên tiếng:
- Nếu đã vậy, lão phu nhân lúc hắn chưa dấy binh tạo phản, xuất binh tiêu diệt lĩnh Tang Hà trước.
Thấy hắn bắt đầu lo lắng, Khánh Kỵ nói vào:
- Nếu muốn tiêu diệt cũng không dễ gì, Tang Hà lĩnh địa thế hiểm trở, dễ thủ khó công, không có ba đến năm vạn quân không tấn công được, hơn nữa phía sau Tang Hà lĩnh là dãy núi, nếu chống đỡ không nổi chỉ cần trốn trong núi là hết đường đuổi theo. Mặt khác, điều động quân đội, chi phí lớn lao, giờ tuy chúng ta đoán là Triển Chích có ý tạo phản, nhưng dù sao cũng không có chứng cứ, nếu dấy binh thảo phạt, lấy danh nghĩa vì nước diệt giặc cũng được đi, chỉ là như vậy sẽ hao tổn binh lực của đại nhân, cho hai nhà Thúc, Mạnh ngư ông đắc lợi, điều này cũng không thể được.
Quý Tôn Ý Như rầu rĩ:
- Đánh không được, không đánh cũng không xong, vậy phải thế nào?
Khánh Kỵ làm ra vẻ buồn bã:
- Khánh Kỵ cũng vì hết cách nên mới đến xin Quý Tôn đại nhân định đoạt.
Quý Tôn Ý Như nhíu chặt lông mày, tay nắm lấy râu không nói một lời. Dương Hổ đứng kế bên suy nghĩ hồi lâu, chợt vỗ đùi một phát:
- Chúa công, thuộc hạ có ý này, không biết ý chúa công thế nào?
Quý Tôn Ý Như mừng rỡ:
- Mau nói ta nghe.
- Chúa công, nếu xuất binh thảo phạt, theo như lời công tử Khánh Kỵ, chưa chắc ta nắm phần thắng. Cho dù thắng được e cũng tổn thất nặng nề, chi bằng ta cho vài đội quân đến đó, trấn giữ các thành trì quan trọng xung quanh lĩnh Tang Hà, phong tỏa đường xuất quân của chúng, đề phòng Triển Chích dấy binh tạo phản làm hại đến chúa công. Sau đó cho người đi do thám tình hình trên núi, thám thính động tĩnh của Triển Chích, nếu hắn muốn làm phản thật, chúng ta đã phòng bị, hắn không kiếm chác được lợi lộc gì. Nếu như không phải làm phản, lần này điều động quân đội bố phòng, lấy lí do tập luyện săn bắn gì đó, tốn chi phí không nhiều, biết biết ý chúa công thế nào?
- Hay, hay lắm, cách này hay đó, tiến có thể tấn công, lui có thể phòng thủ, cứ làm theo…
Hắn nói đến đây sắc mặt lại bỗng nhiên trở nên khó chịu, lúc cầm quyền ở nước Lỗ còn không điều động quân đội hai nhà Thúc, Mạnh được, bây giờ phái quân đi bảo vệ đất của mình, hai nhà Thúc, Mạnh không có lí do gì xuất quân trợ giúp, còn chỉ điều động binh mã của mình thôi thì muốn trấn giữ các điểm trọng yếu xung quanh dãy Tang Hà cần bao nhiêu binh mã đây? Nơi đó là con đường giao thông huyết mạch nối đường thủy bắc nam, nối đường bộ đông tây, bao la rộng lớn đấy.
Hơn nữa, đất của Quý thị giáp ranh nước Tề, do biên giới hay xảy ra xung đột, cho nên quân đội của Quý thị phần lớn phải trấn giữ ở biên giới hai nước Lỗ - Tề. Khi xưa cha hắn là Quý Vũ Tử chia quân đội nước Lỗ làm bốn, mình chiếm lấy hai chính là lấy lí do phải lo việc quốc phòng biên giới phía Bắc (viết hoa nha), bây giờ chẳng lẽ rút quân phía Bắc về, mở rộng cửa cho người Tề đến đánh sao?
Khánh Kỵ quan sát nét mặt Quý Tôn Ý Như, cố tình hỏi thăm:
- Quý Tôn đại nhân, tôi cũng cảm thấy ý của Dương Hổ rất ổn thỏa, sao đại nhân lại có vẻ khó khăn thế ạ?
Quý Tôn Ý Như thở dài, cười khổ:
- Khó đây, sợ là ta không thể điều động được nhiều binh mã thế này, Hai nhà Thúc, Mạnh chịu trách nhiệm biên phòng bốn phía, biên giới Nam Bắc do ta đảm nhiệm, ngoài ra còn rất nhiều thành trì phải đưa quân đóng giữ. Giờ điều động mấy vạn quân đến Phí thành, không dễ dàng đâu.
Khánh Kỵ lộ vẻ kinh ngạc:
- Đại nhân định xuất binh một mình sao? Nếu quả thật Triển Chích làm phản, sẽ gây bất lợi cho cả nước Lỗ, hai nhà Thúc, Mạnh không chịu xuất binh ư?
- Nếu không nguy ngập đến mình, ai chịu xuất binh giúp ta chứ? Triển Chích hiện đóng tại đất của ta, hai nhà Thúc, Mạnh còn mong cho…
Hắn nói đến đây chợt nhớ ra Khánh Kỵ là con rể tương lai của Thúc Tôn Ngọc, quan hệ với phía kia thân thiết, có những chuyện không nên nói quá rõ ràng, nên không nói tiếp nữa.
Dương Hổ giải thích giùm Quý Tôn Ý Như:
- Công tử Khánh Kỵ, có điều này ngài không biết, vua nước Lỗ chúng tôi mới mất, sau khi lo xong việc tang lễ, sẽ bàn chuyện lập vua mới. Tiên hoàng không có con trưởng nối dõi, theo lệ phải do con thứ Cơ Loan nối ngôi. Nhưng…Ài, Thúc Tôn đại nhân lại muốn lập con của một tì thiếp sinh là Cơ Tống, làm cho rất nhiều đại thần trong triều không hài lòng.
Nói đến đây, hắn nhìn về phía Quý Tôn Ý Như, tiếp tục:
- Phế trưởng lập ưu (không lập con lớn mà lập con nhỏ), không phù hợp tục lệ, cho nên chúa công tôi không tán đồng. Cho đến giờ, lập Cơ Loan hay lập Cơ Tống, trong triều đã chia làm hai phe, mạnh ai nấy đưa ra lí lẽ, tranh cãi không thôi. Vì chúa công tôi không tỏ ý ủng hộ, nay Thúc Tôn đại nhân hận chúa công tôi, lại không hiểu nỗi khổ của chúa công…
Quý Tôn Ý Như gật đầu lia lịa, làm ra vẻ yêu nước thương dân, gật gù:
- Đúng vậy, phế trưởng lập ưu, đi ngược lại di huấn tổ tiên. Nếu làm theo chuyện này các chư hầu sẽ cười chê, hư… Công tử nói xem sao lão phu lại chấp nhận được?
- Có chuyện này sao?
Khánh Kỵ khẽ nhíu mày, lẩm bẩm: Nhạc phụ tương lai của ta rốt cuộc đang giở trò gì? Thỏa thuận đó…A! – Kêu lên một tiếng, nhìn về phía Dương Hổ.
Quý Tôn Ý Như mỉm cười, chỉ vào Dương Hổ:
- Công tử yên tâm, chuyện của lão phu không hề giấu tên nô tài này, ha ha, công tử cứ nói ra không sao đâu.
- Được, thỏa thuận đó là Quý Tôn đại nhân nhường một bước, từ bỏ nắm quyền, để Thúc Tôn thị chọn vua mới, như thế đôi bên cùng có lợi. Dù cho chọn ai cũng là công lao của ông ta cả, vậy nên ông chọn Cơ Tống để triều thần chống đối, sao lại không bỏ Cơ Tống chọn Cơ Loan, người đều là do ông ta chọn, sao cứ phải cố chấp chọn Cơ Tống.
Quý Tôn Ý Như lộ vẻ khó chịu ra mặt, trước đó hắn đã chọn Cơ Loan, còn thổ lộ ý mình với Thúc Tôn Ngọc, chuyện này tất nhiên không tiện nói với Khánh Kỵ. Thúc Tôn Ngọc nếu đổi ý lập Cơ Loan, Cơ Loan cũng sẽ cho là do công của Quý Tôn đại phu, sau này chắc chắn sẽ thân thiết với Quý Tôn Ý Như, Thúc Tôn Ngọc sao lại có thể làm chuyện không công cho người khác chứ.
Khánh Kỵ làm ra vẻ nghĩ không thông suốt, trầm tư hồi lâu, vỗ đùi một cái:
- Ta hiểu rồi, thì ra nhạc phụ có ý định này, quả nhiên là con cáo già.
Quý Tôn Ý Như nghe câu này không khỏi chột dạ:
- Hả? Ý định gì vậy?
- Việc này… Khánh Kỵ liếc nhìn Dương Hổ, ra vẻ khó xử.
Dương Hổ hiểu ý, đứng dậy:
- Chúa công, thuộc hạ có chút chuyện phải xử lí, thuộc hạ xin phép lui ra, lát nữa sẽ nghe dặn dò của chúa công.
Quý Tôn Ý Như nôn nóng muốn biết Khánh Kỵ đoán ra gì, bèn khoát tay:
- Được được, ngươi lui ra đi.
Dương Hổ tức tối nhìn Khánh Kỵ một cái, đoạn quay người lui ra.
Đợi sau khi Dương Hổ rời khỏi, Khánh Kỵ mới lên tiếng:
- Quý Tôn đại nhân, Khánh Kỵ biết Dương Hổ là tâm phúc của ngài, chỉ là những lời thẳng thắn này có mặt tâm phúc của đại nhân bên cạnh thì thật khó nói, mong là Dương Hổ không vì thế mà để bụng oán trách.
- Không sao, Dương Hổ chẳng qua là con chó dưới trướng ta, sao dám làm gì bạn của lão phu chứ? Công tử có chuyện gì, giờ có thể nói ra được rồi.
- Đại nhân, vừa rồi tôi chợt nghĩ ra lí do Thúc Tôn đại nhân không lập con trưởng mà lập con nhỏ, thâm thúy đấy, đối với ngài cũng có nhiều lợi ích đó, đại nhân sao không tỏ ý ủng hộ, lập Cơ Tống làm vua.
Quý Tôn Ý Như biến sắc:
- Công tử đến đây là để nói giúp cho Thúc Tôn thị phải không?
- Xin đại nhân đừng nghi ngờ, Khánh Kỵ phục quốc rồi mới dám kết thân với nhà Thúc Tôn, còn chuyện phục quốc thì không thể không dựa vào giúp đỡ của Quý Tôn đại nhân đây, ai nặng ai nhẹ, Khánh Kỵ tự hiểu. Giờ đây Khánh Kỵ như chó nhà có tang, sao lại có thể vì một cô gái làm ảnh hưởng quan hệ với Quý Tôn đại nhân được chứ? Há chẳng tự hủy hoại tương lai ư?
Quý Tôn Ý Như sắc mặt dịu lại, nhưng vẫn tỏ vẻ nghi ngờ:
- Được, vậy công tử giải thích cho lão phu nghe nào.
- Quân đội nước Lỗ được chia làm bốn, do ba nhà nắm giữ, quyền lực vua Lỗ là rất ít, tất cả đều nằm trong tay ba nhà. Xin hỏi Quý Tôn đại nhân, thế có hợp lí không?
Quý Tôn Ý Như ánh mắt sắc lạnh, nghiêm giọng:
- Công tử nói thế là có ý gì?
- Xin đại nhân trả lời tôi trước, điều này có hợp lí không? Hiện ở đây không có người ngoài, tôi và ngài cứ nói chuyện tự nhiên, đại nhân có gì phải e ngại?
Quý Tôn Như Ý lạnh lùng:
- Không hợp lí, thế thì đã sao?
Khánh Kỵ cười tiếp lời:
- Thế mới nói, Thúc Tôn đại nhân làm vậy là để củng cố địa vị của ba nhà đấy. Nếu lập Cơ Loan làm vua, hắn là con trưởng danh chính ngôn thuận, hợp tình hợp lí, còn nếu lập Cơ Tống, lúc đó sẽ thế nào? Vua nước Lỗ có thân phận không hợp tục lệ, thế hắn có dám làm khó ba nhà sao? Chỉ còn cách dựa vào ba vị đại nhân, mới ngồi yên được trên ngai vị, phải đề phòng các vị huynh trưởng lớn tuổi hơn cướp ngôi ấy chứ.
Người ta thường nói, vị thế của Quý Tôn đại phu trên cả quân vương, điều đó khiến Quý Tôn đại nhân bị chỉ trích nhiều, nay nếu như quân vương không hợp lễ pháp, xét cho cùng đã không đúng, còn có ai đi so sánh chủ yếu thần mạnh nữa, đối với đại nhân đó chẳng phải là một chuyện tốt cực kì có lợi sao?
Quý Tôn Ý Như nghe xong chớp mắt, cảm thấy những lời Khánh Kỵ nói rất đúng, nhưng hắn không tin là Thúc Tôn Ngọc lại nghĩ vậy, bèn nói cứng:
- Những lời công tử nói chưa chắc đúng đâu, cho dù Cơ Loan là người kế vị danh chính ngôn thuận, nhưng do lão phu đưa lên ngôi báu, chẳng lẽ không biết ơn lão phu, còn gây bất lợi cho ta ư?
Khánh Kỵ cười khẩy:
- Tiên quân Cơ Trù, cũng do lệnh tôn Quý Vũ Tử đại nhân đưa lên ngôi, Cơ Trù đối xử với ngài thế nào? Bè cánh của Cơ Loan một khi đủ mạnh, lúc đó muốn xử tội ngài thì có gì là không được.
- Ta…
Khánh Kỵ vội cướp lời:
- Chẳng lẽ ngài lại đuổi quân vương một lần nữa?
- Điều này…
Quý Tôn Ý Như nhíu chặt mày, mặt tối sầm lại, hồi lâu sau mới lên tiếng:
- Lời công tử nói có vẻ…đúng đó, thế nhưng… nhưng mà…
Hắn ngước nhìn Khánh Kỵ, cảm thấy khó mở lời:
- Lập Cơ Tống làm vua, tất cả đều là ý của nhạc phụ công tử, lão phu bây giờ đồng ý, Cơ Tống đăng cơ chắc sẽ thân với Thúc Tôn Ngọc, lão phu đã lui một bước từ bỏ chức vụ chấp chính, Thúc Tôn Ngọc không leo lên đầu lão phu sao?
Khánh Kỵ hỏi thẳng:
- Đại nhân có từng công khai phản đối lập Cơ Tống làm quân vương trên miếu đường không?
Quý Tôn Ý Như lắc đầu:
- Cái đó thì không, dù sao thì…ta và Thúc Tôn Ngọc đã giao hẹn, quyền lập quân vương giao cho ông ta, lão phu không hỏi tới.
Khánh Kỵ mừng rỡ:
- Thế thì được rồi, đại nhân chưa hề bày tỏ quan điểm, ngày mai khi thượng triều lúc hai bên tranh cãi, ngài chỉ cần phán một câu, cứ làm như lệnh tôn Quý Vũ Tử đại nhân, chỉ phán đúng một câu: Lập người này! Lúc đó tranh cãi chấm dứt, tân quân lên ngôi, làm vậy người trong thiên hạ ai mà không nói đại nhân là nhân vật then chốt quyết định tân quân, không những không làm mất danh tiếng của ngài, ngược lại, danh tiếng đại nhân còn nâng cao nữa là đằng khác.
Quý Tôn Ý Như nghe đến đấy, đôi mắt sáng rực lên, Khánh Kỵ nhìn rõ cả, nhủ thầm: “Phía Quý Tôn Ý Như coi như xong, còn có một Thúc Tôn Ngọc nữa, vị nhạc phụ tương lai này ta không thể đắc tội được, ta cũng nên nghĩ ra cách gì ăn nói với ông ta mới được…”
Khánh Kỵ và Quý Tôn Ý Như bàn bạc khá lâu, quyết định chi tiết hành động vào buổi thượng triều ngày mai, Quý Tôn Ý Như suy đi ngẫm lại, không thấy có sơ sót gì cả, nếu làm theo kế hoạch, đúng là giải quyết được thế bế tắc, chấm dứt tranh chấp, hắn còn chơi được Thúc Tôn Ngọc một vố, lấy lại một số quyền lợi, trong lòng cảm thấy hả hê.
Bàn bạc xong xuôi, Quý Tôn Ý Như dặn dò bày tiệc, đích thân ngồi uống với Khánh Kỵ, để an toàn, ngoại trừ tâm phúc đáng tin cậy ra, không ai biết vị khách quý Quý Tôn đại nhân đích thân tiếp đãi là Khánh Kỵ. Quý Tôn Tư đương nhiên không phải đề phòng, được biết bạn tốt Khánh Kỵ đến phủ, hắn hăm hở đến gặp mặt.
Hai cha con Quý thị thết đãi Khánh Kỵ xong, Quý Tôn Ý Như lại nhiệt tình mời Khánh Kỵ nghỉ lại trong phủ, còn rộng rãi chọn ra một đôi mỹ nhân song sinh trong số ba đôi khi nãy để hầu hạ Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ biết Quý Tôn Ý Như làm vậy là vì chưa yên tâm, sợ mình đi thông báo cho Thúc Tôn Ngọc biết, nên lấy danh nghĩa là tiếp đãi, thực ra là giám sát mình, bèn nhận lời không chút do dự. Chỉ là hai cô gái ủy mị xinh tươi này, hắn lấy lí do đi đường xa mệt mỏi, với lại quân tử không chiếm lấy vật yêu thích của người khác mà từ chối, Quý Tôn Ý Như vốn cảm thấy hơi tiếc nay lại càng có cái nhìn tốt về Khánh Kỵ hơn.
Tiệc tàn, hai người đứng dậy, Khánh Kỵ loạng choạng được người hầu dìu đến phòng ngủ. Quý Tôn Ý Như cũng đã say được tì thiếp dìu lấy, bước đi xiêu vẹo xuống sảnh, nhìn Khánh Kỵ rời khỏi. Đột nhiên hắn đẩy cô tì thiếp ra, ánh mắt trở nên tỉnh táo. Dương Hổ lập tức đến nghe lệnh, Quý Tôn Ý Như đã hết say, dặn dò:
- Sai người trông chừng phòng ngủ của Khánh Kỵ, trước khi ta thượng triều vào ngày mai, cho dù là một con chuột cũng không cho rời khỏi.
Dương Hổ nghe vậy đã biết Khánh Kỵ thuyết phục xong Quý Tôn Ý Như, vội vâng dạ nhận lệnh:
- Chúa công yên tâm, thuộc hạ sắp xếp ngay ạ, đêm nay phòng ngủ của chúng ta sẽ như thiên la địa võng, một con ruồi cũng không bay lọt ạ.
Quý Tôn Ý Như gật gù, mỉm cười hài lòng…
Trời tối mịt, trăng sáng lung linh, tiếng dế kêu lanh lảnh, cái nóng ban ngày đã tan biến, tiết trời se lạnh. Căn phòng Khánh Kỵ ở rất đẹp, ba mặt có hồ nước, chỉ có một mặt liền với khu vườn. Trăng thanh gió mát, cơn gió thoảng qua, thật là sảng khoái, nhưng Quý Tôn Ý Như sắp xếp cho Khánh Kỵ ở đây, chủ yếu là để tiện giám sát. Khuya lắm rồi, dưới lùm cây lại có vô số cặp mắt dõi theo căn phòng, trong phòng lúc này không nghe thấy động tĩnh gì.
Lúc này, hai võ sĩ cải trang thành dân thường bước ra khỏi một quán trọ, họ không biết rõ về nhiệm vụ của mình được giao nhưng vẫn cứ thế thi hành. Cả hai mình đầy hơi rượu, cứ như là vừa mới hoan lạc ở đâu xong, loạng choạng bước về phía phủ của Thúc Tôn Ngọc.
Họ là hai gia tướng tâm phúc đi cùng Thúc Tôn Diêu Quang đến Phí thành, lúc Khánh Kỵ quay về Khúc Phụ, đã xin Thúc Tôn Diêu Quang hai tâm phúc, bảo họ tự đánh xe đến Khúc Phụ, nán lại quán trọ này chờ tin tức của hắn. Hai người này đến trễ hơn Khánh Kỵ, khi mặt trời xuống bóng mới đến nơi. Dù là vậy nhưng đi đường mệt mỏi, bước đi cứ như là đang trên con tàu lắc lư, không cần giả bộ cũng giống hai gã say rượu rồi.
Hai người nhanh chóng đến phủ Thúc Tôn, gõ cửa bước vào, lớn tiếng cười nói thân thiết với người mở cửa, người của Quý thị đang âm thầm theo dõi nhìn thấy họ có vẻ thân thiết với người nhà phủ Thúc Tôn cũng không để ý lắm. Phủ đệ Thúc Tôn thị không có ba ngàn cũng phải có hai ngàn người, mỗi ngày đi ra đi vào nhiều vô số kể, họ chỉ cần chú ý những người lạ có cử chỉ khác thường thôi.
Thúc Tôn Ngọc đã đi nghỉ, nhưng sau khi hai kẻ say bước vào, không lâu sau một căn phòng phía sau nhà đã sáng đèn. Thúc Tôn Ngọc khoác áo ngồi trên ghế, thần sắc nghiêm nghị, hai võ sĩ quỳ trước mặt, chính là hai gia tướng vừa về phủ lúc nãy.
Thúc Tôn Ngọc ngồi đó, mắt sáng như trăng, mũi cao miệng rộng, mặt láng như ngọc, tuy đã qua tuổi trung niên, nhưng vẫn là một nam tử khôi ngô. Hắn hỏi hai kẻ thuộc hạ:
- Đấy là dặn dò của Khánh Kỵ?
Một gia tướng kính cẩn trả lời:
- Dạ, tiểu thư dặn dò tiểu nhân tất cả nghe theo sắp xếp của công tử Khánh Kỵ , bảo bọn thuộc hạ nghe theo sai bảo của công tử. Tiểu thư còn nói, nếu chúa công nghi ngờ có hỏi đến thì trả lời: Xin chúa công tin tưởng Khánh Kỵ, chàng sẽ tuyệt đối không hãm hại chúa công đâu ạ.
Thúc Tôn Ngọc hứ một tiếng, khuôn mặt lộ vẻ khác lạ. Hắn không phải không tin con gái mình, chỉ là cô con gái cưng như vàng như ngọc của mình còn chưa lấy chồng đã nói giúp cho người đàn ông này như vậy, người làm cha trong lòng có chút không vui.
Gia tướng kia nói tiếp:
- Công tử Khánh Kỵ gặp bọn thuộc hạ đã dặn dò nhanh chóng quay về Khúc Phụ, phải đến nơi trước lúc mặt trời lặn, ở tại quán trọ phía trước Lỗ Quái Cư, quán này xuất hiện nhiều ở những chương trước, là quán rượu của Thành Bích) đợi tin tức. Công tử Khánh Kỵ còn dặn, nếu đêm xuống còn chưa thấy công tử đến gặp thì phải thay đồ dân thường, tránh gây chú ý về gặp chúa công, dâng bức mật hàm này.
Tên gia tướng vừa nói vừa cẩn thận lấy từ dây lưng ra một lá thư, hai tay dâng lên cho Thúc Tôn Ngọc. Tên còn lại đi đến cái bàn lấy ngọn nến đem lại gần chiếu sáng. Thúc Tôn Ngọc mở thư ra, xem qua một cách kĩ lưỡng.
Dưới ánh nến, nét mặt của hắn dường như không có gì thay đổi, nhưng ánh mắt lúc rực sáng, lúc hoang mang, sau khi xem hết lá thư, hắn vẫn mang vẻ kinh ngạc ngồi đó, ngón tay từ từ nắm lại siết chặt lá thư, rồi khép nhẹ đôi mắt.
Hai tên gia tướng không dám làm phiền chúa công, đứng ngây ra đó chờ đợi…
Một hồi lâu, Thúc Tôn Ngọc mở mắt ra, mỉm cười:
- Được rồi, hai ngươi lui xuống nghỉ ngơi đi, chuyện này không được cho ai biết.
Hai tên gia tướng vâng dạ lui ra, Thúc Tôn Ngọc suy nghĩ gì đó, đưa tay lên ngọn nến từ từ mở ra, lá thư nắm trong tay xõa xuống bắt lửa, khi cháy gần hết Thúc Tôn Ngọc phất tay ném thư sang một bên, nhìn lá thư cháy thành tro bụi, nhướng mày gọi:
- Người đâu, mau gọi Hưu Trù đến gặp ta!
Trời sáng, các công khanh đại phu vào cung.
Những ngày này châm trích lẫn nhau, những lí do nghĩ ra được đã nghĩ hết rồi, mỗi ngày qua đi vẫn cứ đấu mồm với nhau, không những người khác cảm thấy chán, ngay bản thân mình còn thấy chán nữa là, thế nhưng ngày tháng vẫn phải trôi đi, đấu mồm vẫn cứ tiếp tục, đó là chức trách của họ.
Ngay lúc các công khanh đại phu chuẩn bị tiếp tục khẩu chiến, thái giám trong cung lớn tiếng tuyên bố “Thúc Tôn đại phu tới.”
Tiếng hét ấy làm cho tất cả mọi người phấn chấn hẳn lên, phe cánh của Thúc Tôn cũng cảm thấy hơi kinh ngạc. Những ngày qua gia chủ ba nhà có quyền quyết định sự vụ nước Lỗ đều lui về phía sau, Dương Hổ nắm quyền chỉ sau ba nhà cũng giả câm giả điếc trên điện nhìn mọi người khẩu chiến qua lại, ai cũng không biết cục diện này sẽ tiếp diễn đến khi nào. Nay Thúc Tôn Ngọc đột nhiên xuất hiện, chắc cục diện dây dưa này có gì thay đổi đây. Các đại phu đều lên tinh thần, đợi Thúc Tôn Ngọc bước vào đại điện, các đại phu tùy chức quan lớn nhỏ lần lượt lên hành lễ, Thúc Tôn Ngọc đảo mắt qua một lượt, còn chưa kịp nói gì, thái giám trong cung lại hét lớn “Quý Tôn đại phu tới.”
Quý Tôn Ý Như thân mang trọng bệnh không thượng triều giờ cũng có mặt, các đại phu liền xì xầm to nhỏ, Thúc Tôn Ngọc nhủ thầm “Quả nhiên hắn đến!”
Hắn cười giả lả quay mặt lại, nhìn về phía Quý Tôn Ý Như đang từ tốn bước vào điện. Ánh mắt hai người chạm nhau, sắc như đao kiếm, tựa như có tia lửa xẹt ra. Các đại phu trung lập cảm thấy phấn chấn xoa xoa nắm tay: “Hôm nay có tuồng hay để coi đây!”
Quý Tôn Ý Như và Thúc Tôn Ngọc mặt đối mặt, từ từ bước về phía đối phương nghiêng người hành lễ, vừa định hàn huyên vài lời, thái giám ngoài cửa lại hét lên: “Mạnh Tôn đại phu tới.”
Chưa dứt lời, Mạnh Tôn Tử Uyên thân hình ốm nhách, tính tình nóng nảy đã lướt như cơn gió vào điện. Mạnh Tôn Tử Uyên nhận được thông báo của Thúc Tôn Ngọc nên mới vội đến đây, hắn và nhà Thúc Tôn là liên minh cùng tiến cùng lui. Khi Thúc Tôn Ngọc mới đưa ra ý kiến lựa chọn tân quân, hắn vì tức giận nên đứng sang bên nghe ngóng, Quý Tôn Ý Như thấy vậy đã đến thăm nhằm lôi kéo hắn về phía mình.
Tuy Mạnh Tôn Tử Uyên hữu dũng vô mưu, nhưng cũng hiểu rõ nhà Quý Tôn thị qua hai đời Quý Vũ Tử, Quý Tôn Ý Như phụ tử vất vả gầy dựng, đã vượt xa hắn rồi. Hắn mà nương theo Quý Tôn Ý Như, chỉ cần Thúc Tôn Ngọc sụp đổ, người tiếp theo sẽ là hắn, cho nên hắn không liên minh với Quý Tôn Ý Như là vậy. Hắn còn đem chuyện Quý Tôn Ý Như đến thăm nói với Thúc Tôn Ngọc, hai người họ tuy có hiềm khích, nhưng việc lớn liên quan đến hệ thống quyền lực thì vẫn hợp tác chặt chẽ với nhau.
Gia chủ ba nhà hàn huyên một hồi, mỗi người tự bước tới đứng lên phía trước đại điện, được Thúc Tôn Ngọc nhắc nhở, các đại phu phe cánh của hắn liền xướng lên giọng điệu cũ, nhắc lại lí do tại sao lập Cơ Tống làm tân quân, lí do là Cơ Tống nhỏ tuổi thông minh, hiểu nỗi khổ của dân, học rộng biết nhiều, là người thích hợp làm quân vương hơn cả.
Các đại phu phe Quý Tôn Ý Như không nhận được chỉ thị, đều hướng mắt về phía hắn coi sao, thấy Quý Tôn Ý Như khoanh tay trước ngực, hai mắt nhắm nghiền, cứ như là đã ngủ say, nhất thời không hiểu ý hắn là gì, chỉ còn cách theo dặn dò trước đây của hắn bước tới cự lại.
Các đại phu hai bên vì có mặt chủ nhân, càng cãi nhau hăng say hơn, lời qua tiếng lại rát cả mặt, tức tối quá thì chửi rủa “Mẹ nó!”, trong phút chốc đại điện huyên náo cả lên như ngoài chợ vậy.
Thúc Tôn Ngọc và Mạnh Tôn Tử Uyên cũng như Quý Tôn Ý Như không nói lời nào, hai tay nắm lấy tay áo, đứng yên như tượng gỗ trên đại điện, chỉ là ánh mắt của Thúc Tôn Ngọc không rời khỏi Quý Tôn Ý Như giám sát mọi cử động của hắn, khiến mọi người khó hiểu.
- Ài!
Chỉ là một tiếng thở nhẹ, các đại phu đang khua môi múa mép chợt tắt tiếng, đều hướng cả về phía nơi phát ra tiếng thở, đại điện vừa mới đây hãy còn ồn ào nay bỗng im phăng phắt.
Đôi mắt Thúc Tôn Ngọc lộ vẻ đố kị xen lẫn ngưỡng mộ: Cho đến hôm nay, Quý Tôn Ý Như vẫn oai phong như xưa!
Quý Tôn Ý Như chậm rãi mở mắt ra, quét mắt qua một lượt, thong thả:
- Cơ Loan cũng được, Cơ Tống cũng được, đều là giọt máu của tiên chúa. Chúng ta bàn việc lập tân quân ở đây, không vì lòng riêng, chỉ nghĩ cho giang sơn xã tắc lê dân bá tánh nước Lỗ. Thật ra nếu theo tục lệ chúng ta lập Cơ Loan là không phải bàn cãi gì nữa.
Quần thần im lặng lắng nghe, Thúc Tôn Ngọc biến sắc nhưng chưa bộc lộ ra, giấu tay dưới tay áo, khều nhẹ Mạnh Tôn Tử Uyên, kêu hắn chớ manh động. Mạnh Tôn Tử Uyên sụ mặt không lên tiếng.
Tất cả động tác của Mạnh Tôn Tử Uyên đã bị Quý Tôn Ý Như nhìn thấy, Quý Tôn Ý Như nhìn về phía hắn, hỏi:
- Mạnh Tôn đại phu, ngài có ý kiến gì về chuyện lập tân quân?
Nghe hỏi như vậy, Mạnh Tôn Tử Uyên không thể tránh né được nữa, buộc phải bước lên, dõng dạc:
- Các vị đều đã biết, nước Lỗ ta và nước Tề khi hòa khi chiến, nước Tề mạnh hơn chúng ta, có tên láng giềng ngang tàng này, nếu chúng ta không tự cường, chắc chắn bị lép vế. Lại nói đến nước Ngô, tuy là một nước man di nhỏ bé phía nam, giờ đây cũng dám ngang nhiên khiêu khích ta, thật là không sao nhịn được! Tại sao lại như vậy, là vì nước Lỗ ta như một nhúm cát, không đoàn kết mạnh ai nấy làm.
Chúng ta cần một quân vương có tài thì nước Lỗ mới hùng mạnh được. Vì thế chuyện chọn tân quân, có là con trưởng hay không có phù hợp tục lệ hay không, không là chuyện quan trọng nhất. Vì muôn dân nước Lỗ, chúng ta phải chọn vị vương tử có tài lên ngôi. Công tử Cơ Loan là con trưởng, nhưng tư chất thông minh không bằng công tử Cơ Tống. Lão phu cho rằng, nên lập Cơ Tống làm tân quân, lão phu nói ra những lời này, mong các vị thấu hiểu.
Quý Tôn Ý Như cười nhạt, ánh mắt lướt nhẹ khắp các đại thần có mặt, phán như đinh đóng cột:
- Mạnh Tôn đại phu nói chí phải, lão phu cũng tán đồng, lão phu cho rằng nên lập Cơ Tống.
Câu này vừa nói ra, hết thảy đều ngây mặt ra, những kẻ ủng hộ lập Cơ Tống không dám tin, phe phản đối lại càng không tin vào đôi tai mình hơn, trong một lúc trên đại điện, dù có đánh rớt cây kim cũng nghe thấy được.
Quý Tôn Ý Như quay đầu qua phía Thúc Tôn Ngọc:
- Ý Thúc Tôn đại phu thế nào?
Phủ công tử Cơ Tống.
Nơi ở của Cơ Tống là một ngôi nhà lớn ba khu vườn, diện tích cũng tựa như biệt viện mà Quý Tôn Ý Như dùng tiếp đãi Khánh Kỵ. Theo quy chế công tử, hắn bố trí mười hai võ sĩ tháp tùng, khắp nhà ngoài mười hai võ sĩ này ra chỉ có hai cửa ra vào, bốn mảnh vườn, bốn tì nữ, thêm hai đầu bếp nữa. Là một vương tử, phủ đệ và người hầu như thế đúng là quá ít ỏi, nhưng thử nghĩ xem ngay cả vua nước Lỗ còn phải trốn sang nước Tề lánh nạn, hắn không phải bị người ta hãm hại còn được như thế đã là tốt lắm rồi.
Phủ công tử Cơ Tống, và các phủ công tử khác bình thường không ai ghé thăm cả, trước cửa vắng tanh hiu quạnh. Các đại thần đều sợ thế lực của Tam hoàn, không ai dám tự ý giao du với họ, Tam hoàn cũng chỉ phái người đến hỏi thăm tặng vài món quà lặt vặt vào những ngày lễ lớn.
Cơ Tống vội vàng về Khúc Phụ, trước tiên nghe ngóng tình hình biết được Thúc Tôn Ngọc muốn đưa mình lên ngôi, vừa mừng vừa lo. Phải biết hắn quay về Khúc Trì chỉ mang theo một tia hy vọng mỏng manh, phụ thân hắn có không ít con trai, dù tính thế nào cũng không đến lượt hắn, thật không ngờ nay vận may lại từ trên trời rơi xuống người hắn.
Nhưng như thế lại làm hắn sinh mối lo ngại, nếu không có hy vọng thì thôi, nay ban hy vọng cho hắn rồi, nhưng Quý Tôn Ý Như lại muốn lập anh hắn là Cơ Loan, Quý Tôn Ý Như không những là người có quyền nhất nước Lỗ, hơn nữa phụ thân hắn không có con trưởng, trong những người con thứ thì Cơ Loan lớn nhất, được lên ngôi là lẽ đương nhiên, nhất thời Cơ Tống suốt ngày đứng ngồi không yên trong phủ, mỗi ngày đều phái Nhiễm Mãnh vào cung dò thám tin tức. Trong triều tranh cãi bao nhiêu ngày nay, hắn cũng lo lắng bấy nhiêu ngày, cô nương Tiểu Ngải ngày đêm mong nhớ cũng đã tạm gác sang bên.
Hắn không được Quý Tôn Ý Như ủng hộ, chỉ còn cách bám lấy Thúc Tôn Ngọc, hắn vốn định đến thăm Thúc Tôn Ngọc, thăm dò tin tức, bày tỏ trung thành, lôi kéo tình cảm. Thế nhưng khi chưa được Thúc Tôn Ngọc nêu danh ủng hộ hắn lên ngôi còn tiện đến thăm, giờ mà đến đó chỉ gây sự chú ý, nên chỉ còn cách ngồi trong phủ, chấp nhận bó tay hết cách.
Buổi thượng triều sáng nay, hắn vừa mới phái Nhiễm Mạnh đi nghe ngóng, tên gác cửa đã chạy vội vào thông báo:
- Công tử, Hưu quản sự của phủ Thúc Tôn đại phu đến xin cầu kiến ạ.
Cơ Tống vừa cầm chén cơm lên định dùng bữa, nghe vậy vội bỏ đũa đứng dậy, hối thúc:
- Mau mời, mau mời vào đây!
Hưu Trù được mời vào đại sảnh, Cơ Tống vui vẻ ra mặt, không có dáng vẻ gì của một vương tử, cũng không câu nệ Hưu Trù chỉ là một tên gia nô quản sự phủ Thúc Tôn mà thôi, mời hắn ngồi như thượng khách. Hưu Trù nói qua một lượt, Cơ Tống nghe xong vui mừng khôn tả.
Thúc Tôn Ngọc phái Hưu Trù tới phủ Cơ Tống, chính là kế thận trọng của hắn. Khánh Kỵ đêm qua đã nói rõ trong thư, hắn sẽ phi ngựa về kinh, thuyết phục Quý Tôn Ý Như ủng hộ Cơ Tống lên ngôi, nếu khi trời tối hắn không đến gặp hai gia tướng ở quán trọ, nghĩa là hắn đã thuyết phục được Quý Tôn Ý Như, mời Thúc Tôn Ngọc thông báo trước cho Cơ Tống biết, đoạt lấy công lao ủng hộ tân quân, nếu để sau khi Cơ Tống biết được Quý Tôn Ý Như đổi ý vào sáng nay, thì chưa chắc hắn không biết ơn hướng về Quý Tôn Ý Như.
Thúc Tôn Ngọc vì con gái yêu đã tin đến bảy phần, hơn nữa hắn có phái người đến báo cho Cơ Tống một tiếng, sau đó lúc thượng triều Quý Tôn Ý Như không ủng hộ như lời Cơ Tống nói thì hắn cũng không bị thiệt gì, chẳng lẽ Cơ Tống lại dám đi rêu rao khắp nơi nói là Thúc Tôn đại phu lừa phỉnh sao?
Nghĩ vậy nên Thúc Tôn Ngọc làm theo ý Khánh Kỵ, trước khi thượng triều đã phái quản sự tới phủ Cơ Tống tiết lộ với hắn rằng hôm nay Thúc Tôn đại phu sẽ nói hết lời thuyết phục quần thần đưa hắn lên ngôi, mời hắn cứ ở nhà chờ tin tốt, tin tốt mà đến sẽ lập tức chuẩn bị việc đăng cơ cho hắn.
Những lời này nói ra chắc nịch, tuy nói là thượng triều tranh thủ giùm hắn, nhưng lại ẩn ý nói hắn biết thành công hay thất bại quyết định vào hôm nay. Như vậy nếu thành công, cho dù sau này Cơ Tống biết Quý Tôn Ý Như có ủng hộ mình lúc thượng triều thì cũng sẽ cho rằng đó là công sức của Thúc Tôn Ngọc, Thúc Tôn Ngọc sẽ giữ chặt được Cơ Tống, liên minh với hắn ta.
Cơ Tống nghe xong những lời kia, bao nhiêu ngày nôn nóng chờ mong nay được toại nguyện, sao mà không vui chứ?
Quý Tôn Ý Như đắc ý quay về Quý phủ, hôm nay hắn đã được nếm lại cảm giác uy quyền khi xưa, trên triều hắn một lời quyết định lập ai trấn áp quần thần, khi tan triều các công khanh đại phu bu lấy hắn nịnh bợ, cái oai ấy…, đại trượng phu đúng là không thể một ngày không có quyền lực à.
Lại nghĩ đến sau khi tân quân lên ngôi, vì mình ra sức ủng hộ hắn mới được lên ngôi, chắc rằng tốt với mình, nghe theo mình răm rắp, lúc đó tuy bề ngoài mình không nắm quyền chấp chính nước Lỗ, nhưng thực sự quyền lớn lại nằm trong tay, vẫn yên ổn đè đầu cưỡi cổ hai nhà Thúc, Mạnh, vui thật là vui.
Sau khi về phủ, Quý Tôn Ý Như mở cờ trong bụng, nhớ đến công thần số một Khánh Kỵ đã giúp hắn hoàn thành việc lớn này, bèn hỏi tâm phúc trong nhà:
- Công tử Khánh Kỵ đâu? Vẫn còn đang nghỉ ngơi trong phòng à?
Tên người hầu bẩm báo:
- Mới vừa đi xem qua, công tử Khánh Kỵ đêm qua uống quá chén, vẫn đang say ngủ, đại nhân muốn gặp, để tiểu nhân đi mời công tử.
Quý Tôn Ý Như cười khoái chí:
- Không vội không vội, công tử Khánh Kỵ đi đường vất vả, lại uống quá chén, cứ để công tử nghỉ ngơi thêm, Dương Hổ đâu, kêu hắn đến gặp ta.
Dương Hổ đích thân giám sát Khánh Kỵ một đêm, cũng không thấy Khánh Kỵ có động tĩnh gì, đến khi trời sáng mới thay người giám sát, còn mình về phòng nghỉ ngơi, chưa ngủ được một chút lại bị dựng dậy, bảo đến gặp Quý Tôn Ý Như gấp.
Quý Tôn Ý Như tươi cười hớn hở dặn dò:
- Dương Hổ, mau chuẩn bị một món quà hậu hĩ, lấy cả tử ngọc như ý mà lão phu hay cầm chơi đem tới phủ công tử Cơ Tống, cứ nói là món quà lão phu chúc mừng công tử lên ngôi. Đợi sau khi đăng cơ, lão phu sẽ theo phép tắc yết kiến quân vương đến bái kiến.
Dương Hổ vui mừng ra mặt:
- Chúa công, kế lớn đã thành?
Quý Tôn Ý Như đắc ý vuốt râu, cười ha hả:
- Đúng vậy. Dương Hổ này, ngươi biết không, lão phu đột nhiên thay đổi thái độ ủng hộ Cơ Tống lên ngôi, không những các đại thần ngây mặt ra, nhìn nét mặt ngơ ngác của Thúc Tôn Ngọc và Mạnh Tôn Tử Uyên cũng khá hay nhỉ. Ha ha ha…
Dương Hổ cũng cười theo nịnh bợ một hồi làm Quý Tôn Ý Như bay tuốt lên mây, rồi mới xin phép lui ra chuẩn bị lễ vật mang đến phủ Cơ Tống…
Khánh Kỵ cố ý giả say ngủ đến trưa mới tỉnh dậy, đợi sau khi rửa mặt chải đầu ăn uống qua loa xong, thong dong đến sảnh ngoài. Quý Tôn Ý Như đang ngồi đó uống rượu thưởng thức ca múa, thấy hắn bước vào, Quý Tôn Ý Như đứng dậy nghênh tiếp, mời hắn ngồi xuống, rồi kể lại chuyện thượng triều lúc sáng cho hắn nghe, nói đến chỗ khoái chí cười ha hả.
Hai người đang nói chuyện thì Dương Hổ về đến, Quý Tôn Ý Như vội cho mọi người lui xuống hỏi chuyện hắn. Khánh Kỵ không tiện nhiều chuyện, bèn tìm một lí do lui ra ngoài, ra vườn dạo chơi ngắm cảnh.
Trong sảnh. Dương Hổ bẩm báo với Quý Tôn Ý Như:
- Chúa công, thuộc hạ đã đem quà đến phủ công tử Cơ Tống, công tử Cơ Tống thấy quà quí của chúa công rất cảm kích, còn luôn miệng dặn dò thuộc hạ về đa tạ chúa công. Trong lúc vội vàng công tử không kịp chuẩn bị lễ vật, bèn lấy ngọc bội đeo ở lưng bảo thuộc hạ cầm về, xem như trả lễ cho chúa công.
- Thế ư? Mau đưa qua đây.
Quý Tôn Ý Như đón lấy miếng ngọc bội Cơ Tống tặng xem qua, vuốt râu vẻ hài lòng:
- Rất tốt, tên Cơ Tống này kể ra cũng biết điều, hiểu là chỉ có lão phu đây mới đáng cho hắn dựa dẫm, ha ha…
Dương Hổ ngẩng đầu lên, ho nhẹ:
- Chúa công, lúc nãy Dương Hổ thấy…người của phủ Thúc Tôn đại nhân cũng đến đó nữa.
Quý Tôn Ý Như lặng người, dứt tiếng cười:
- Thế ư? Thúc Tôn Ngọc cái tên cáo già này động tác cũng mau lẹ nhỉ, hắn cũng phái người tặng lễ vật à?
Dương Hổ đáp:
- Dạ. Nghỉ ngợi một lát lại nói tiếp: Thúc Tôn đại nhân đã tặng công tử Cơ Tống một món quà quí, lại còn kêu người mời Khổng Khâu tới đó, nghe nói Khổng Khâu học rộng hiểu nhiều, mời hắn dạy dỗ lễ nghi sau khi lên ngôi cho công tử Cơ Tống.
Quý Tôn Ý Như nghe xong không thèm để ý:
- Hứ, Thúc Tôn Ngọc tưởng làm vậy là lôi kéo được Cơ Tống về phía hắn ư, mặc kệ hắn. Rút hết người theo dõi hai nhà Thúc, Mạnh về thôi. Ngươi chuẩn bị cho ta, ngày mai thượng triều phải chọn ngày lành đăng cơ, một số lễ nghi cần thiết phải bàn bạc đôi chút, những thứ rắc rối này ta không nhớ rõ lắm.
Khổng Khâu trước được Triển Hoạch tiến cử cho Quý thị, nay lại nhận lời mời của Thúc Tôn thị, Dương Hổ vốn định kể chuyện này ra Quý Tôn Ý Như sẽ chán ghét Khổng Khâu, không ngờ gặp lúc Quý Tôn Ý Như đang vui, nhân vật như Khổng Khâu hắn vốn chẳng để tâm đến, sao lại vì hắn mà nổi giận được.
Dương Hổ thất vọng, vái lạy xong lui xuống.
Dương Hổ bước ra ngoài, nhìn thấy Khánh Kỵ đang đi lại trong mái đình, nhớ lại chuyện tức tối trong lòng, đi về phía Khánh Kỵ. Khánh Kỵ thấy hắn lại gần, mỉm cười:
- Hổ huynh, việc lớn đã thành, sao lại không vui thế?
Dương Hổ hậm hực:
- Chúng ta vắt óc toan tính, lại cho tên Khổng Khâu đó hưởng lợi, tên thất phu Khổng Khâu, Dương Hổ này muốn trừng trị hắn, nay hắn sáp vào quốc vương nước Lỗ, không tiện ra tay rồi, Dương Hổ này sao cam tâm cho đặng?
Khánh Kỵ ngạc nhiên:
- Khổng Khâu? Chuyện này thì liên quan gì Khổng Khâu?
Dương Hổ bèn nói qua đầu đuôi câu chuyện, Khánh Kỵ an ủi:
- Hổ huynh sao lại để ý chuyện nhỏ này, Khổng Khâu đi gặp công tử Cơ Tống chỉ là để dạy lễ nghi lúc đăng cơ thôi mà, có gì to tát đâu chứ?
Dương Hổ lạnh lùng:
- Tên Khổng Khâu đó đâu phải là một khúc gỗ ngu ngốc, hắn muốn làm quan phát điên lên được, giờ có cơ hội tiếp xúc với quân vương tương lai của nước Lỗ, hắn còn không lợi dụng cơ hội phô diễn học vấn, nói cái mớ đạo lí quân thần phụ tử làm sao lấy lòng chư hầu của hắn? Lúc ta đi gặp công tử Cơ Tống, Khổng Khâu đang ngồi đối mặt với công tử Cơ Tống, ra sức lải nhải chủ trương trị nước của hắn, làm cho công tử Cơ Tống vui ra mặt, thiếu điều lập tức tôn hắn làm thái phó, mẹ nó, để tên ngu này một bước lên mây, leo lên đầu Dương Hổ, tức chết đi được.
Khánh Kỵ không lời đối đáp, thật lòng hắn kính trọng Khổng Khâu, nhưng đại sự của hắn phải dựa vào kẻ đam mê quyền lực như Dương Hổ, xét lợi ích, hắn không đứng về phía Khổng Khâu được, nhưng Dương Hổ nói thế hắn cũng không muốn phụ họa theo.
Khánh Kỵ lựa lời an ủi, Dương Hổ nghe đến câu “Trong bụng tể tướng có thể chèo thuyền”(ý nói rộng lượng), sắc mặt mới dịu lại đôi chút:
- Đa tạ công tử Khánh Kỵ đã khuyên nhủ, chúa công còn muốn gặp công tử, mời công tử qua đó.
Khánh Kỵ nghe vậy liền nói:
- Được, công việc ở Phí thành bề bộn, Khánh Kỵ phải sớm quay về. Chuyện lập vua mới đã được quyết định, tân quân đăng cơ xong lấy danh nghĩa quân vương bắt Tam hoàn hợp sức khởi binh, điều này có ý nghĩa to lớn, không chỉ can hệ chuyện của Khánh Kỵ, còn can hệ đến doanh thu thuế má của Quý Tôn đại nhân, hơn nữa còn nói cho thiên hạ biết Tam hoàn đoàn kết một lòng sắc lập tân quân, Khánh Kỵ đi gặp Quý Tôn đại nhân đây, lát nữa xin Hổ huynh nói thêm trước mặt đại nhân, còn về công lao của Hổ huynh trong việc sắc lập tân quân thì…
Dương Hổ hớn hở:
- Cái này thì, công tử đúng là không tiện ra mặt, công tử cứ yên tâm, Dương Hổ tự có cách, để công tử Cơ Tống biết Dương Hổ này có ích thế nào.
- Được, như vậy là Khánh Kỵ an tâm rồi.
Khánh Kỵ khoát tay, đi trở vào đại sảnh, nụ cười hài lòng hiện rõ trên khuôn mặt.
Trong lá thư đưa cho Thúc Tôn Ngọc, không những bảo hắn thông báo trước với Cơ Tống, giành lấy công lao lập vua mới, còn bảo hắn đem tin tức đó báo cho các đại thần cần lôi kéo. Làm như vậy một khi vua mới lên ngôi, tuy là do Quý Tôn Ý Như nói ra, những người này cũng sẽ cho rằng là công lao của Thúc Tôn Ngọc, tự nhiên sẽ đứng về phía Thúc Tôn Ngọc.
Khánh Kỵ viết trong thư như vậy, là cho Thúc Tôn Ngọc cảm thấy mình hết lòng vì hắn, thực ra theo như tìm hiểu của Khánh Kỵ về Tam hoàn những ngày này, biết là Thúc Tôn Ngọc cẩn thận có thừa, chỉ không dám mạo hiểm thôi, một người đa nghi như vậy trước khi nắm rõ phần thắng sẽ không bao giờ làm chuyện để người khác nắm đằng chuôi, Khánh Kỵ đoan chắc Thúc Tôn Ngọc tuyệt đối không báo trước cho các đại thần đâu.
Thế này thì đợi khi hắn chắc chắn Quý Tôn Ý Như quả nhiên bị mình thuyết phục, muốn lôi kéo nhân tâm thì đã trễ, các đại thần ai mạnh theo nấy đều ngã về phía Quý Tôn Ý Như cả, còn Cơ Tống chắc chắn đứng về phía Thúc Tôn Ngọc, vì thế các đại thần trung lập trung quân coi như đã liên minh với Thúc Tôn Ngọc.
Thế mạnh đó không nên xem thường, hơn nữa quốc vương có đất ruộng và quân đội hoàng thất riêng, sau khi tiên quân Cơ Trù thua trận trốn sang nước Tề, số đất và quân đội này đều do Tam hoàn quản lí tạm, nay tân quân đăng cơ, số đất và quân đội này phải trả về cho quân vương, lúc trước quốc vương một mình khó chống đỡ Tam hoàn, nay quốc vương liên minh với hai nhà Thúc, Mạnh, quá đủ để chống lại thế lực ngày càng lớn mạnh của Quý Tôn Ý Như.
Nếu nói Tam hoàn trước đây là một tam giác vững vàng, vậy cái phía Quý thị quan trọng hơn cả, nay trên họ xuất hiện thêm một tân vương, tạo nên một khối kim tự tháp, quan hệ của họ vì thế càng kiên cố hơn.
Về sức mạnh quân sự, sự áp chế lẫn nhau giữa Quý thị và Thúc, Mạnh gia tăng, giúp ích không nhỏ cho ổn định chính trị, hơn thế nữa, cơ cấu quyền lực của nước Lỗ càng trở nên phức tạp, là người có quan hệ đặc biệt với cả ba phe như Khánh Kỵ, càng dễ dàng thừa nước đục thả câu, Khánh Kỵ sao mà không vui được chứ?
Dương Hổ mắt nhìn Khánh Kỵ bước vào đại sảnh, nghĩ đến tên Khổng Khâu dựa vào cái miệng khua môi múa mép, nói một số chủ trương vô dụng thế mà cưỡi lên đầu hắn, lên chức thái phó nước Lỗ, quả là khó nhẫn nhịn. Nhưng giờ mới lập tân quân, chúa công Quý Tôn Ý Như còn phải giả đò nể mặt vua Lỗ, hơn nữa còn có hai nhà Thúc, Mạnh liên minh với quốc vương, nếu Cơ Tống quả thật đưa Khổng Khâu lên làm thái phó, xếp vào một trong Tam công, với thân phận như hắn cũng không cách gì ngăn cản.
Dương Hổ càng nghĩ càng tức, suy ngẫm hồi lâu, hắn chợt nảy ra một ý, từ xưa đến nay người giữ chức thái phó, phải là người đức cao vọng trọng, là quân tử uyên bác đức độ có tài lãnh đạo được mọi người thừa nhận. Khổng Khâu tự cho là tinh thông kim cổ, tài năng xuất chúng, nếu có cách gì đó bêu xấu hắn, dù cho Cơ Tống chịu bái y làm thái phó, y còn mặt mũi nào đi nhận chức không?
Nghĩ đến đây, Dương Hổ nhớ ra một người: Thiếu Chánh Mão. Người này cũng như Khổng Khâu, là nhân sĩ nổi tiếng thông minh học cao hiểu nhiều của nước Lỗ, nếu thuyết phục được người này đến giảng dạy, lại khiêu khích cho Khổng Khâu so tài với hắn, chỉ cần Khổng Khâu thua cuộc, lúc đó…
Dương Hổ hết giận, vui sướng cười to ba tiếng, sải chân bước đi.
Cuối xuân đầu hạ là lúc bắt đầu vụ mùa mới, thế nên đại lễ đăng cơ vì không muốn quấy nhiễu dân, đã tuyên cáo chỉ tiến hành các nghi thức liên quan tại Khúc Phụ. Lệnh này là do tân quân sắp lên ngôi Cơ Tống ban ra, làm cho các đại thần phụ trách việc nông và lê dân bá tánh rất cảm kích vị vua mới này, quốc vương thấu hiểu nỗi khổ dân chúng là phúc của quốc gia.
Hôm nay là ngày cử hành đại lễ đăng cơ của tân quân, đại thần trong triều lại nhận được ý chỉ thứ hai của tân quân Cơ Tống, vì tiết trời nóng nực, lệnh cho các đại thần được ăn mặc gọn nhẹ, không cần mặc triều phục trong ngoài đến năm lớp dày cộm nữa, lệnh này làm cho càng nhiều quan lại biết ơn vị vua mới này hơn.
Vốn dĩ tân quân một khi chưa đăng cơ, là không có quyền sử dụng quyền lực nhà vua, hơn nữa vấn đề được đề cập trong hai mệnh lệnh này, kẻ làm thần tử lại không thể quyết định thay được, việc liên quan đến đại lễ đăng cơ đơn giản hay long trọng, chỉ có tân quân mới có quyền lên tiếng. Hai mệnh lệnh này Cơ Tống trước đó đã phái người đi xin ý kiến của Tam hoàn, được sự đồng ý của Tư đồ, Tư không, Tư mã tam khanh, làm như vậy không sai qui tắc lại càng tỏ rõ vị vua mới yêu nước thương dân, quan tâm đại thần, hay nữa là đằng khác.
Chính vì thế mọi tầng lớp ở Khúc Phụ khen ngợi không ngớt, Cơ Tống hãy còn không yên tâm lắm được các gia tướng thân tín dưới trướng kể cho nghe phản ứng của thần dân xong trong lòng an vui. Ban ra hai mệnh lệnh này, tất cả đều là kiến nghị của Khổng Khâu, do đó hắn càng coi trọng Khổng Khâu hơn.
Mặt trời lên cao, triều thần nước Lỗ bước lên Phi Vân đài, các đường chính trong thành Khúc Phụ và các lối từ phủ công tử Cơ Tống đến hoàng cung đều được phong tỏa, mấy ngàn binh lính đứng dọc theo hai bên đường canh gác, trong hoàng cung dưới Phi Vân đài có một trăm chiến xa, năm trăm binh lính bày hàng ngũ nghi thức, các chiến kì phi hùng, phi xà dương cao phấp phới, trên Phi Vân đài cắm cây cờ lớn ghi quốc hiệu “Lỗ”.
Đội vệ binh đi đón công tử Cơ Tống đã về đến hoàng cung, cổng hoàng cung rộng mở, các đại thần xôn xao hướng cả về phía cổng, đi trước là các binh lính cầm giáo mở đường, hôm nay các ngọn giáo đều được bọc đầu nhọn lại, là binh khí tổ chức nghi lễ không được sắc bén.
Theo sau là các binh lính cầm rìu, tiếp đó là đội cầm cờ, rồi đến cỗ xe ngựa được bốn con ngựa kéo. Ngựa phải là ngựa trắng, trong cung có người quản lí ngựa riêng, căn cứ màu lông, hình dáng và sức chạy mà chia ngựa ra làm sáu loại, tức là Chủng mã(dùng sinh sản), Nhung mã(dùng cho quân đội), Tề mã(dùng trong nghi lễ), Đạo mã(dùng đưa tin), Điền mã(dùng săn bắn), Nô mã(dùng chuyên chở tạp dịch), bốn con ngựa kéo xe lông trắng thuộc Tề mã.
Lúc bấy giờ chư hầu khắp thiên hạ đều không coi Chu thiên tử ra gì, lúc tổ chức nghi lễ long trọng theo nghi thức thiên tử ai cũng làm vậy, hơn nữa cái sau hoành tráng hơn cái trước, chỉ có nước Lỗ là còn giữ nghiêm nghi lễ Chu thất, quốc vương được bốn ngựa kéo đi, đồng thời theo quy tắc bố trí vật trang trí xếp thứ tự là Thiên tử, chư hầu cùng họ, chư hầu khác họ, chư hầu biên cương và chư hầu phiên quốc lần lượt dùng ngọc, vàng, da, ngà voi, gỗ, đã lấy vàng để trang trí.
Xe dừng lại, Cơ Tống được mời xuống xe, phía trước có mười sáu đại thần dẫn đường, phía sau là Cửu khanh mặc triều phục tháp tùng, từ từ bước lên đài. Cửu khanh đều mặc triều phục, đội mũ giáp, đeo cung tên, tay cầm mâu, cứ như vệ sĩ của vua vậy. Các đại thần bình thường gặp mặt vua đều không quì xuống hành lễ, chỉ lúc này là ngoại lệ, Cơ Tống vừa bước lên, tất cả đại thần đều nhất nhất quì xuống.
Cơ Tống lần đầu được đối xử trọng thể như vậy, khuôn mặt ửng đỏ, có hơi nôn nao không tự nhiên lắm, bước đi chậm lại, muốn dừng lại trả lễ với các đại thần, nhưng lại không biết làm vậy có phù hợp không, ánh mắt nhìn về các đại thần đang quì mọp trước mặt.
Mười sáu khanh sĩ đi làm hai hàng, hai người cuối cùng người bên phải thân hình cao to, chính là Khổng Khâu, lúc này cũng đang len lén quay đầu lại, Cơ Tống nhìn về phía Khổng Khâu, Khổng Khâu lập tức hiểu ý, khẽ lắc đầu bước đi tiếp. Cơ Tống hiểu ra tiếp tục bước về phía trước, dưới sự hộ tống của các đại thần bước qua cánh cổng hoàng cung.
Quần thần đứng dậy, vẫn đứng trên Phi Vân đài chờ đợi, sau khi Cơ Tống vào cung rồi, ngồi chễnh chệ trên ghế cao giữa điện xong xuôi, thái giám mới ra truyền chỉ, lúc đó hai cánh cổng trái phải mới mở ra, dưới chỉ dẫn của quan Ti lễ trong cung, các đại thần chia ra hai bên trái phải, ai có chức tước không có chức quan vào cửa bên phải, ai có cả chức tước và chức quan vào cửa bên trái, tất cả vào đến đại điện chính giữa, triều bái tân quân.
Lúc này Cơ Tống đã được các tì nữ trong cung hầu hạ thay áo bào của quốc vương sau bình phong, áo bào lộng lẫy có mười hai chương, mười hai chương nghĩa là mười hai hoa văn, bao gồm Nhật, Nguyệt, Tinh, Sơn, Long, Phụng, Tảo, Hỏa, Phấn, Mễ, Phủ, Phất. Áo bào thiên tử có cả mười hai loại hoa văn, áo bào của chư hầu chỉ được dùng tám hoa văn từ Long trở xuống.
Mặc chiếc áo lộng lẫy ấy vào, Cơ Tống hồi hộp đến mướt mồ hôi, lòng bàn tay ướt nhẹp, miệng khô khốc ngồi ở trên cao, đọc thầm lời phát biểu Khổng Khâu đã dạy. Nhìn thấy các đại thần hai bên lần lượt bước vào, trong lòng sợ sệt quên mất một nửa, Cơ Tống càng lo lắng, lựa lúc mọi người không để ý, lấy từ tay áo ra một mảnh lụa ghi chi chít chữ, xem tỉ mỉ thêm một lần nữa, miệng thì lẩm bẩm học thuộc.
Các đại thần đứng cả dưới đại điện, đều không biết Cơ Tống đang bận học bài, nhìn thấy quốc vương ngồi trên cao, tuy trời nóng mồ hôi lấm tấm nhưng sắc mặt hồng hào, hai mắt cụp xuống tựa như không coi đại thần trong triều ra gì, vẻ uy nghi đó đúng là có phong thái của quân chủ, tất cả đều sinh lòng khâm phục.
Các nghi thức Mộc, Trai, Đàn, Tế (Tắm rửa, ăn chay, lập đàn, bái tế), sau khi được triều thần vái lạy, tân quân phải trả lễ, sau đó phải thực hiện chức trách của quân vương sau khi đăng cơ, dẫn quần thần đi tông miếu bái tế tổ tiên, còn phải chia thịt cúng ban thưởng)… Tuy đại lễ đăng cơ của Cơ Tống đã giảm đi nhiều thứ lằng nhằng nhưng cũng đủ bận bịu nửa ngày trời.
Các nghi thức cuối cùng cũng đã thực hiện xong, chia hết thịt cho quần thần, Cơ Tống khắp người mệt mỏi về đến hoàng cung, ngồi trên đại điện nguy nga tráng lệ, nhìn khắp các thái giám đang cung kính cúi rạp người, lại nhìn các cung nữ xinh xắn kế bên, Cơ Tống cứ ngỡ đang trong mơ: Kể từ hôm nay, ta đã là quân chủ của nước Lỗ rồi sao?
- Bệ hạ, nghi thức đăng cơ đã xong, Khổng Khâu xin phép lui xuống.
Cơ Tống hãy còn đang ngơ ngác, Khổng Khâu đã đứng ra hành lễ.
Vừa thấy Khổng Khâu, Cơ Tống thấy vui trong lòng, vội nói:
- Phu tử đến hay lắm, hôm nay nếu không có phu tử quả nhân thật không biết phải làm sao, cũng nhờ phu tử nhắc nhở quả nhân mới không làm sai. Người xưa nói, quốc gia có hiền tài mà không dùng là sai lầm của quốc vương. Phu tử tài học xuất chúng, phẩm đức cao thượng, chính là hiền tài nước Lỗ ta, quả nhân muốn sắp xếp cho một chức vụ, để phu tử lúc nào cũng ở bên quả nhân, phò trợ quả nhân trị nước.
Khổng Khâu đáp tạ:
- Khổng Khâu chỉ là một sĩ tử cơ hàn, được bệ hạ nể mặt thật không dám nhận, được ở bên quốc vương đều là các trọng thần, Khổng Khâu chưa từng có công lao gì, thật không dám nhận chức vụ.
Cơ Tống cười:
- Việc này phu tử không nên từ chối, đợi khi quả nhân nghĩ ra chức vụ thích hợp rồi nói sau. Nói đến quốc sự, ngày mai quả nhân phải lên triều nghị chính rồi, nhưng giờ không có chủ ý gì cả, phu tử có thể dạy ta không?
Khổng Khâu mỉm cười đáp:
- Chính trị, cũng là chính trực. Quân vương đoan chính, thần tử phục tùng. Quốc vương chỉ cần đối xử tốt với quần thần, yêu thương dân chúng. Vua dùng lễ đối xử với thần, thần tận trung với vua, đất nước sợ gì không hưng thịnh?
Cơ Tống tỉnh ngộ:
- Phu tử nói rất đúng, nhưng… cụ thể quả nhân phải làm những gì?
Khổng Khâu đáp:
- Trị vì quốc gia không phải chuyện ngày một ngày hai, vội vàng không được. Bệ hạ vừa mới đăng cơ khó tránh bỡ ngỡ, vua mới đăng cơ cái cần trước mắt là ổn định lòng dân, còn các sách lược cai trị lớn lao không vội vào lúc này. Bệ hạ bản tính lương thiện, lại tuổi trẻ thông minh, đợi sau khi làm quen việc nước rồi, lo gì không cai trị tốt? Hôm nay vất vả cả ngày, chắc bệ hạ đã mệt, xin hãy sớm nghỉ ngơi ạ. Khổng Khâu không tiện nán lại trong cung quá lâu, xin phép cáo từ.
- Ờ…được.
Cơ Tống nhìn Khổng Khâu chắp tay hành lễ lui ra, trong lòng chợt này ra một ý, buộc miệng gọi:
- Phu tử hãy khoan, không biết phu tử giờ đang ở đâu?
Khổng Khâu cúi chào nói:
- Giờ Khổng Khâu đang thuê một căn nhà nhỏ trong thành, kể ra nơi đó cũng tao nhã thanh tịnh, sao bệ hạ lại hỏi đến?
- Thuê nhà để ở? Thế sao được, quả nhân giờ đã ở trong cung, nhà cũ kia của ta giờ bỏ trống, tặng cho phu tử vậy.
Khổng Khâu giật mình, vội xua tay:
- Làm thế đâu được.
- Sao lại không được?
Cơ Tống quay mặt nhìn hai tì nữ hai bên, tiếp:
- Phu tử một mình ở Khúc Phụ, không ai chăm sóc không được đâu, hai cô gái này quả nhân ban cho ông, hầu hạ chuyện ăn uống ngủ nghỉ, đây là tấm lòng của quả nhân, phu tử không cần khách sáo.
Tiếp nhận căn nhà Cơ Tống từng ở, Khổng Khâu có hơi chút lo âu, còn về việc tặng hai tì nữ, đó là chuyện thường thấy của các gia đình quý tộc, không bằng tấm chân tình tặng căn nhà quốc vương từng ở, Khổng Khâu thấy Cơ Tống nhiệt tình vậy, chắp tay đáp tạ.
Cơ Tống trẻ tuổi nóng vội, lập tức phái người chuẩn bị xe ngựa đưa hai cô tì nữ xinh xắn đến căn nhà ở trước kia, Khổng Khâu đáp tạ lui ra.
Cơ Tống hài lòng mỉm cười, tự nhủ: Thế này là đối xử tốt với thần tử, ta ban cho ông nơi ở, mỹ nhân, còn sợ gì ông không tận trung phò trợ cho ta sao?
Nhớ đến mỹ nhân, trong đầu hắn chợt hiện ra hình ảnh cô gái thướt tha ủy mị, trong lòng day dứt: Tiểu Ngải, trước đây nàng không chịu qua lại với ta, giờ ta là quân vương nước Lỗ, chẳng lẽ lại không xứng với nàng?
- Nhiễm Mãnh, Nhiễm Mãnh.
Nghĩ đến nàng ta, Cơ Tống lập tức truyền gọi.
Nhiễm Mãnh là gia tướng của phủ Cơ Tống, xưa nay rất trung thành, giờ Cơ Tống lên ngôi, Nhiễm Mãnh được giữ chức tướng quân thống lĩnh thị vệ trong cung. Nhiễm Mãnh nghe truyền triệu vội bước vào, Cơ Tống bảo hắn bước lại gần, nhỏ tiếng căn dặn:
- Nhiễm Mạnh, mau sai mấy người lanh lợi đến Phí thành dò la tung tích của Tiểu Ngải cô nương, mời nàng đến đây gặp ta.
Nhiễm Mạnh ngây người ra:
- Bệ hạ, giờ thân phận của ngài đã khác xưa, hà tất hạ mình với Tiểu Ngải cô nương? Chi bằng nói thẳng ra với Quý Tôn đại phu, chẳng lẽ ông ta từ chối cơ hội kết thân với ngài sao?
Cơ Tống chỉ nghĩ tới giờ mình là quốc vương nước Lỗ, Quý Tôn Tiểu Man biết được thân phận hắn, chắc sẽ không từ chối tình cảm của hắn. Nếu nói với Quý Tôn Ý Như sắp đặt sẵn hôn sự trước, lại mất đi cái thú vị. Xua tay:
- Ngươi cứ cho người đi tìm nàng ta, nếu được người đẹp gật đầu đồng ý, khi đó quả nhân mới đi cầu thân với Quý Tôn đại phu.
- Dạ.
Nhiễm Mạnh tuân lệnh lui ra, Cơ Tống hài lòng thở phào, vừa định cởi chiếc áo bào lộng lẫy ra, thái giám chạy ù vào bẩm báo:
- Bệ hạ, Quý Tôn đại phu cầu kiến.
Cơ Tống giật mình, giờ hắn tuy đã là vua nhưng đối với Quý Tôn Ý Như nắm giữ quyền lớn trong triều vẫn e sợ đến bảy phần, vừa nghe hắn đến, Cơ Tống không khỏi lo lắng, trước mắt lại không ai để hỏi, chỉ còn cách gắng gượng:
- Mau mời ông ta vào đây.
Chỉ trong giây lát Quý Tôn Ý Như đã nghe truyền gọi bước vào. Trên đại điện, ba cánh cửa mở toang, vì hôm nay là đại lễ đăng cơ nên những tấm vải tang trắng để tế tiên quân được gỡ xuống, thay vào đó là tơ lụa màu đỏ, thể hiện không khí tươi vui.
Quý Tôn Ý Như ngang nhiên bước vào, lại đi vào bằng cửa giữa, cửa giữa là cửa quốc vương đi, theo quy tắc hắn phải vào bằng cửa hông mới phải. Cơ Tống trong lòng không yên, không để ý đến việc này, mà cho dù có để ý đến chắc cũng không có gan trách phạt Quý Tôn Ý Như.
Quý Tôn Ý Như bước vào đại điện, hai mắt quét qua mặt Cơ Tống, Cơ Tống cảm thấy nhói trong lòng, không tự chủ được đứng bật dậy. Quý Tôn Ý Như cười mỉm, hành lễ:
- Quý Tôn Ý Như tham kiến quốc vương.
- À, Tư đồ đại nhân không cần đa lễ, mời ngồi.
Cơ Tống vội mời hắn ngồi, lại sai người mang lên cây trái rượu ngon, sau đó còn kính hắn một ly, dè dặt:
- Không biết tư đồ đại nhân đến gặp vào giờ này, chắc có…có chuyện gì quan trọng phải không?
Quý Tôn Ý Như không nâng ly, nghiêm nghị:
- Đúng vậy, Quý Tôn Ý Như nhận được mật báo, đại đạo Triển Chích dựng căn cứ tại Tang Hà lĩnh, chiêu binh mãi mã, tích trữ tiền lương, không lâu nữa sẽ làm phản!
Cơ Tống giật nảy mình, tay cầm rượu run rẩy, nửa ly rượu ngon bị hất đổ xuống bàn:
- Cái…cái gì? Triển Chích muốn tạo phản?
- Công tử, Cơ Tống đã triệu Tam hoàn vào cung nghị sự, chúng ta không đợi tin tức xác thực sao?
Xe ngựa đang đi trên một con đường đầy bóng râm, trên xe, Khánh Kỵ đang ngồi ở trên một tấm đệm lót mềm mại thoải mái, ở đằng trước Anh Đào điều khiển xe ngựa, tuy rằng cưỡi ngựa sẽ nhanh hơn một chút, nhưng mà chạy đường dài thì quá mức vất vả, cho nên lộ trình này hai người cũng không nhất định phải cưỡi ngựa mà đi.
Khánh Kỵ nói:
- Không cần, muốn nghị định xong, kiểu gì cũng phải mất hai ba ngày. Nếu Quý Tôn Ý Như còn không xử lí được việc này, ta ở lại Khúc Phụ cũng không có tác dụng gì. Có điều theo ta thấy, hy vọng thành công ít nhất có bảy thành, khi Lỗ quốc không có quân chủ, Tam hoàn không thể hỗ trợ lẫn nhau, Quý Tôn Ý Như nếu muốn Tam hoàn hợp lực phát binh tới phong ấp của hắn trừ đạo, điều đó là tuyệt đối không thể, Quý Tôn Ý Như cũng chẳng làm gì được bọn họ.
Nhưng mà hiện tại trên đầu bọn họ còn có một vị quân chủ, tuy rằng lực lượng của vị quân chủ này còn nhỏ bé không đáng kể, nhưng mà dù sao cũng là Lỗ quốc quân chủ trên danh nghĩa, lại vừa mới đăng cơ. Tam hoàn luôn luôn tự coi mình là trung thần nghĩa sĩ, cho dù chỉ là để cho thế nhân xem, nêm chuyện đại sự đầu tiên mà tân quân sau khi đăng cơ thực hiện, bọn họ cũng phải làm ra bộ dáng phụ họa theo đuôi.
Huống chi, Thúc Mạnh hai nhà tự nhận là có công ủng hộ lập Cơ Tống lên, bọn họ nếu muốn kéo gần quan hệ với Cơ Tống, đối với đại sự thế này, phải làm ra một cái dáng vẻ, để cho Cơ Tống cảm thấy được rằng bọn họ đúng thực là ủng hộ quốc quân, nếu không bọn họ hao hết cả tâm cơ, cuối cùng lại đẩy Cơ Tống sang phía Quý Tôn Ý Như sao?
Lại nói, Triển Chích nếu tạo phản, đều là bất lợi với Tam hoàn. Vốn là bọn họ luôn tồn tại tâm lý tranh phong với Quý Thị, muốn cười nhạo Quý Thị, có điều hiện giờ bọn họ phải biểu hiện trước mặt thế nhân, lại muốn mượn sức của tân quân đứng về phía bọn họ, cho nên việc binh này, không muốn phát cũng phải phát.
Anh Đào thở dài:
- Công tử nói quá đúng, chỉ cần nghĩ như vậy, Anh Đào cũng hiểu được rằng chúng ta không có uổng phí tâm cơ dìu dắt Cơ Tống thượng vị. Anh Đào vốn tưởng rằng công tử dũng mãnh phi thường đương thời có một không hai, thực không ngờ rằng...
- Thực không ngờ rằng Khánh Kỵ không chỉ một thân vũ dũng, lại còn có lắm mưu trí, phải không?
Khánh Kỵ tiếp lời, ha ha cười lớn, lại hỏi:
- Ngươi còn nghe được tin tức gì nữa?
Anh Đào cười nói:
- Không còn gì khác... À, đúng rồi, Cơ Tống đưa tòa trạch hắn từng ở cho Khổng Khâu, còn ban thưởng hai cung nữ xinh đẹp làm thị thiếp của hắn, mọi người đều nói, tân quân trọng đãi như vậy, là có ý muốn trọng dụng Khổng Khâu.
- Chuyện này cũng không có gì ngạc nhiên, hắn vừa mới làm quốc quân, còn chưa có nòng cốt căn cơ của mình, đương nhiên phải dìu dắt một nhóm người để hắn có thể sử dụng. Ưm... còn tặng mỹ thiếp cho Khổng Khâu? Khổng phu tử lúc này có chức quan lớn để làm, tuấn mã để cưỡi, mỹ nhân để ôm, đêm nay nhất định tinh thần long mã, khoái hoạt như thần tiên, ha ha...
"Thánh nhân xa tình ái." Khánh Kỵ vẫn cho rằng câu nói này là một cái rắm thối không chịu được. Từ sau nhà Hán, những học giả Nho giáo thổi phồng Khổng Khâu làm thần, dường như hắn là một người không có hỉ nộ ái ố, thất tình lục dục như người bình thường. Kỳ thật dưới con mắt của Khánh Kỵ, Khổng Khâu giận cũng đã từng giận, vui cũng đã từng vui, buồn cũng đã từng buồn, hận cũng đã từng hận, đúng là một nam nhân sinh động. Đạo đức của hắn cao thượng, tài học xuất chúng, học thuyết của hắn có ảnh hưởng sâu xa đối với hậu thế, nhưng không phải bởi vì vậy, hắn lại trở thành một cái gọi là thánh nhân vô tình vô dục.
Khổng Tử chính là người sáng lập khai phá lễ giáo phong kiến. Tinh hoa của lễ giáo phong kiến chính là tam cương ngũ thường, trong đó nam tôn nữ ti chính là một điều trọng yếu. Học thuyết của thánh nhân dù sao cũng chịu sự hạn chế của thời đại, trong đó có tinh hoa cũng có bã đậu. Những nhà sử học khảo chứng rõ ràng tám đời tổ tông của Khổng Tử, cũng chẳng nói Khổng Tử có bao nhiêu thê thiếp, ngay cả chuyện thê tử của hắn bởi vì lỡ miệng nói vài câu hắn không có bản lĩnh, không thể nuôi sống gia đình ăn cháo cầm hơi mà bị đuổi đi cũng không được nhắc tới. Luôn tận lực tô vẽ hắn cho đẹp, thần hóa, là vĩ nhân thì nhất định phải là một con người toàn vẹn, không phải là con người toàn vẹn cũng phải có cách mà làm cho trở thành con người toàn vẹn. Khánh Kỵ thực không cho là đúng, cho nên trêu đùa với hắn cũng chẳng có gì kiêng kị.
Một chiếc xe ngựa vội vã chạy qua bên cạnh xe của Khánh Kỵ, hất lên tro bụi đầy đường. Anh Đào ghìm cương ngựa, làm cho tốc độ xe chậm lại một chút, để tránh một đường hít bụi. Khánh Kỵ nhìn thoáng qua, chiếc xe kia cũng không có mái, trong xe có vài tên võ sĩ đang ngồi, Khánh Kỵ cũng không để ý, tùy tay thả màn trúc xuống, co duỗi thân mình một chút, nằm dựa xuống chợp mắt một lát, tâm thần đã bay trở về Phí thành Phi Hồ cốc.
Hắn đương nhiên không đoán được rằng, chiếc xe vừa mới chạy qua vừa rồi, chính là của Lỗ quốc tân quân Cơ Tống phái đi tìm Quý Tôn Tiểu Man, mà Quý Tôn Tiểu Man giờ phút này lại đang ở trong Phi Hồ cốc...
Công trường bên trong Phi Hồ cốc, người đến người đi như nước chảy. Bởi vì bên trong sơn cốc đã có những bức tường thiên nhiên làm lá chắn, còn lại phần lớn là lấy gỗ dầm với bùn đất để kiến tạo, cho nên tốc độ xây dựng rất nhanh, một tòa thành hùng vĩ cũng đã có quy mô ban đầu. Thúc Tôn Diêu Quang đang chậm rãi đi ở trong cốc với một vài tên đầu mục thợ thủ công, nghe bọn họ giải thích một vài chỗ bên trong quy hoạch thiết kế. Sau khi Khánh Kỵ đi, nàng không nghe theo lời khuyên bảo của Khánh Kỵ ở lại Quý Phủ, mà lại chuyển hẳn tới Phi Hồ cốc, mỗi ngày đều tham dự xử lý việc kiến thiết thành trì. Từ sau khi nàng tới, Thành Bích phu nhân đối với tòa tân thành này cũng không quan tâm nhiều nữa, mà ngày ngày đều tới các ruộng muối ở ven biển để gặp gỡ các vị quản sự tới bái kiến, chuyên tâm dự tính các chuyện về thống nhất sản lượng, thống nhất vận chuyển, thống nhất tiêu thụ, cho nên tòa Phi Hồ thành ở chỗ này, người cứ việc bỏ tiền ra là Thành Bích phu nhân, nhưng mà những đầu mục thợ thủ công đều nghiễm nhiên coi Thúc Tôn Diêu Quang trở thành người phụ trách của tân thành.
Ở bên cạnh cách không xa nữ xá có hơn mười hố bếp lớn, trên hố có những cái nồi to, ở dưới bếp lửa cháy hừng hực, ở đằng trước nữ xá, còn sắp xếp một loạt giá gỗ, bên trên treo những xiêm y đủ mọi màu sắc cách thức.
Quý Tôn Tiểu Man đứng ở trước một cái nồi, hơi hơi xoay xoay mặt tránh khí nóng hầm hập bốc lên từ đó, trong tay cầm một cây gậy gỗ được vót thẳng tắp, quấy quấy trong nồi một hồi, sau đó lại đi tới một cái nồi khác làm tương tự như vậy, mệt tới mức đầu nàng đổ đầy mồ hôi, khuôn mặt nhỏ nhắn đã trở thành màu đen đen đỏ đỏ.
Ào ào quấy một hơi hết cái nồi to cuối cùng, Quý Tôn Tiểu Man ném thẳng cái gậy gỗ vào trong nồi, hai tay bấu đầu gối thở ra thở vào hồng hộc. Thật đúng là mệnh khổ, lúc trước trà trộn vào Phi Hồ cốc này, vốn là muốn bắt được chứng cứ cái con tiện nhân kia thông dâm với gia nô hạ nhân, để khiến cho ả thân bại danh liệt, ai ngờ...
Quý Tôn Tiểu Man ngẩng đầu, nhìn những bộ y phục vừa mới giặt xong mắc lên giá treo, lại nhìn hai bàn tay mình bị bọt nước khiến cho nhăn nheo lại, nhất thời khóc không ra nước mắt: tính sai rồi, thật sự là tính quá sai rồi, nào biết được mình vào trong cốc này làm việc, tiện nhân kia lại không hề lộ diện. Sau khi nghe ngóng, tên Dương Bân kia cũng bị ả điều tới vùng khác để làm việc. Muốn bỏ đi, lại cảm thấy không cam lòng, cho nên cứ tạm ở trong cốc chờ đợi cơ hội.
Nhưng... hai ngày đầu còn tạm, có quản sự đại thúc lúc trước tuyển nàng vào lao dịch chăm nom cho, việc vào tay nàng cũng không tính là nặng, nhưng hai ngày sau lại có một Lý Hàn Lý đại quản sự tới đây, người này rất hung ác, ánh mắt cũng sắc bén. Không một ai được phép rảnh rỗi, tất cả mọi người đều phải quay vòng vòng quanh hắn để hắn sai sử. Nhiều y phục như vậy..., nàng phải giặt; bảy cái nồi cơm lớn..., nàng phải nấu. Đường đường là Đại tiểu thư của Quý Tôn thế gia, lại bị sai sử tới loại tình trạng này, thật sự là...
Nấu ở trong nồi là lúa mạch, lá đậu và rau dại, một ít mùi vị theo gió bay tới, mang theo bụi lửa than, Quý Tôn Tiểu Man ho khan vài tiếng, ở tận đáy lòng thoá mạ tám đời tổ tông của Lý Hàn một hồi, tiện thể hận ý đối với Thành Bích phu nhân cũng nặng thêm vài phần. Nàng vươn nắm tay nhỏ, đấm đấm vào trong gió, rồi lại nhặt cây gậy gỗ lên quấy quấy một hồi.
Vài hán tử vừa mới ở trên núi chặt gỗ xuống núi đi qua bên cạnh, vừa ngửi thấy hương vị trong nồi, một hán tử liền vẻ mặt đau khổ mà nói:
- Lại là mấy thứ này à, Tiểu Ngải cô nương, có thể đổi cái gì khác hay không? Ngày nào cũng phải ăn mấy thứ này, sắp muốn ói mất rồi.
Tiểu Ngải xoay người lại, trừng mắt nói:
- Ngươi muốn ăn cái gì nữa, ta một người còn chưa đủ bận hay sao? Vả lại, còn có cái gì nữa?
Một nam nhân hơi luống tuổi nói:
- Tiểu Ngải cô nương, tối thiểu cũng nên nấu một ít cơm, hầm một ít thịt đi, lúc nào cũng cơm với đồ ăn cùng một chỗ, có chỗ mặn không ngon, có chỗ lại nhạt nhẽo không nuốt nổi, vả lại... lúa mạch kia cũng nấu không chín, ăn vào thấy đau dạ dày đấy.
Khuôn mặt nhỏ nhắn của Tiểu Ngải nhăn lại như cái bánh bao:
- Đại thúc, ta cũng không muốn như vậy, có điều ngươi xem, y phục phía bên kia đều là do ta giặt, sáng mới bảnh mắt ra là phải giặt quần áo, giặt xong quần áo thì nấu cơm, thức ăn cho nhiều người như vậy, ta một người làm không kịp, sao có thời gian mà hầm thức ăn riêng? Lúa mạch nấu không chín, sao lại đi trách ta, nếu ngươi ngại ăn cơm cứng, thế thì đừng ăn mấy nồi đầu là được.
Hán tử kia liền nói:
- Ngươi mệt, chúng ta lại không mệt à? Lúa mạch kia ngươi cũng không vo đãi, ăn vào không phải cát cũng là đất, toàn là sạn, còn y phục kia nữa, ngươi giặt xong rồi ta mặc lên người, hắc, một mảng bùn lớn tướng vẫn còn trên đó, ngươi giặt nó lúc nào vậy? Hay là chỉ nhúng vào nước cho ướt rồi phơi lên?
Khuôn mặt Quý Tôn Tiểu Man đã hơi đen lại, vung chân lên nói:
- Ta cũng không phải nữ nhân của ngươi, sao phải giặt cho ngươi sạch sẽ, sao phải nấu ăn ngon cho ngươi, bản đại tiểu thư hầu hạ ngươi như vậy, ngươi còn không thấy đủ sao? Ngươi nếu không hài lòng, đi tìm Lý đại quản sự mà lắm chuyện đi.
- Hắc hắc hắc...
Hán tử kia nháy nháy mắt cười rộ lên:
- Ngươi nếu là nữ nhân của ta, ta sao có thể để ngươi mệt nhọc được, khẳng định mỗi ngày đều hầu hạ cho ngươi thoải mái dễ chịu, Tiểu Ngải cô nương, ta thực ra là chưa cưới vợ đó, nàng có chịu gả cho ta hay không?
Quý Tôn Tiểu Man cười ruồi, liếc nhìn hắn nói:
- Bổn cô nương chịu gả, ngươi cũng không dám lấy.
Người nọ ưỡn ngực lên rất thẳng, nói:
- Có cái gì không dám lấy, nàng nếu đáp ứng, ta sẽ mang trâu ngựa tới tận nhà nàng cầu thân.
Đúng lúc này, Thúc Tôn Diêu Quang dẫn theo một vài đầu mục thợ thủ công đến, vừa thấy tình hình như vậy thì quát lên:
- Các ngươi không có gì làm à, ở chỗ này làm gì?
Quý Tôn Tiểu Man khi còn nhỏ từng gặp Thúc Tôn Diêu Quang, nữ tử mười tám đại biến, hiện giờ lại ăn mặc thế này, thật không sợ bị nàng nhận ra, nhưng mà vừa thấy nàng tới, Quý Tôn Tiểu Man vẫn theo bản năng cúi thấp đầu xuống.
Đã ở chung với nhau nhiều ngày, những thợ thuyền này đều biết rằng vị Thúc Tôn Đại tiểu thư này dễ nói hơn nhiều so với vị Lý đại quản sự kia, lúc này đúng lúc Lý Hàn đang ở trên núi giám sát xây dựng đài quan sát, không có ở bên người Đại tiểu thư, liền mồm năm miệng mười tố khổ một hồi với nàng. Thúc Tôn Diêu Quang nhìn mấy bộ y phục móc trên giá gỗ, lại nhìn bảy cái nồi to bốc hơi nóng nghi ngút kia, đôi mi thanh tú hơi hơi nhíu lại:
- Lý Hàn làm việc thế nào, nhiều việc như thế chỉ giao cho một người làm?
Nàng thấy Quý Tôn Tiểu Man thân mình gầy yếu, có chút thương hại nói:
- Tiểu cô nương, thật sự là làm khó ngươi. Lát nữa ta sẽ bảo Lý Hàn phân vài người tới, nấu đồ ăn ngon miệng một chút.
Kỳ thật Quý Tôn Tiểu Man so với nàng không nhỏ hơn bao nhiêu, nhưng Thúc Tôn Diêu Quang một thân mặc xiêm y ung dung đẹp đẽ quý giá, nàng lại mặc một bộ y phục nam trang rách nát, thoạt nhìn lại giống như một đồng tử chưa lớn.
Quý Tôn Tiểu Man cúi đầu đáp ứng qua loa, một đầu mục thợ thủ công ở bên cạnh quát lớn:
- Không hiểu quy củ, còn không tạ ơn Đại tiểu thư.
Thân phận của Quý Tôn Tiểu Man so ra thì không thấp hơn Thúc Tôn Diêu Quang, vốn là không muốn hành lễ với nàng, lúc này lại bị người khác quát lớn, chỉ sợ sẽ bị nhìn thấu thân phận, đành phải miễn cưỡng thi lễ, lẩm bẩm nói:
- Dù có thêm hai người, sợ rằng cũng không thể khiến bọn họ vừa lòng. Người dù nhiều, nhưng đồ ăn tách ra nấu, mất rất nhiều thời gian, còn phải xây thêm bảy tám hố bếp mới được.
- Ha ha, chuyện này có đáng gì? Cho ta hai ngày thời gian, mấy vấn đề này cứ để ta giải quyết.
Nghe thấy những lời này, thân mình của Quý Tôn Tiểu Man cùng Thúc Tôn Diêu Quang đồng thời chấn động, bốn con mắt đều nhất tề hướng về phía người vừa nói, Thúc Tôn Diêu Quang đã thất thanh kêu lên:
- Khánh..., hóa ra là Dương quản sự, ngươi đã trở lại.
- Vâng, Dương Bân đã trở lại, ra mắt Thúc Tôn tiểu thư.
Khánh Kỵ cúi người thi lễ với Thúc Tôn Diêu Quang, ngẩng đầu lên nhìn nàng một cái thật sâu.
Khuôn mặt của Thúc Tôn Diêu Quang trở nên có chút phớt hồng:
- Dương quản sự trở về thật đúng lúc, đã mấy ngày xây dựng tân thành, đang có mấy việc muốn thương lượng với ngươi, ngươi đi theo ta.
- Vâng!
Khánh Kỵ đáp lời, đi theo nàng ở phía sau. Thúc Tôn Diêu Quang lòng tràn đầy hoan hỉ đi ở phía trước, cố gắng tự khắc chế mình không được quay đầu lại nhìn hắn, nhưng mà hai chân bước đi ngân nga, eo thon lúc lắc, dù là rất trang trọng, nhưng không khỏi mang theo vài phần quyến rũ mê người, đó đương nhiên là để cho người trong lòng ở đằng sau nhìn.
Mấy đầu mục thợ thủ công thấy bọn công nhân đốn củi còn đứng ở đó, liền khiển trách:
- Thất thần làm cái gì, còn không mau làm việc, nếu dám lười biếng, cẩn thận ta cắt lương các ngươi.
Quý Tôn Tiểu Man nhìn theo bóng dáng Khánh Kỵ, trong lòng nổi lên hưng phấn: "Mấy ngày này, chịu khổ cũng không phải vô tích sự, kẻ đó đã trở về, cơ hội của ta sắp tới rồi, chỉ có điều... không biết Thành Bích có gặp gỡ hắn trong cốc hay không, nếu buổi chiều hắn lại về phủ ở, ta làm sao mà lẻn vào được?"
Quý Tôn Tiểu Man nghĩ tới đó, buồn rầu nhíu nhíu mày, từ trong gió bay tới mùi cơm hòa lẫn với mùi bếp, nàng cũng không ngửi thấy...
Khánh Kỵ đi cùng Thúc Tôn Diêu Quang trở về chỗ ở lâm thời tại Phi Hồ cốc, phòng xá ở đây vừa mới hoàn thành xong chưa được mấy ngày, tuy hơi đơn sơ, nhưng trong viện có bãi cỏ, ra ngoài trông thấy hồ, phong cảnh vô cùng tú lệ.
Trong phòng, Khánh Kỵ kể lại quá trình đi tới Khúc Phụ thuyết phục Quý Tôn Ý Như kế lập Cơ Tống hết một lượt cho nàng nghe, Thúc Tôn Diêu Quang vui mừng khôn xiết, hai người chụm mặt vào nhau, bù đắp lại những tháng ngày khổ đau xa cách. Sau đó Khánh Kỵ liền nhắc nhở nàng rằng mình đã quay về, nàng cần phải mau chóng đưa Lý Hàn rời khỏi Phi Hồ cốc, tránh việc hai đại quản sự chạm trán nhau.
Đối với kẻ tâm địa âm độc, trong lòng rõ ràng có chút ý niệm ngưỡng mộ Thúc Tôn Diêu Quang như Lý Hàn, Khánh Kỵ luôn nâng cao vài phần cảnh giác, tuy rằng nói hiện tại hắn đang cúc cung tận tụy cho Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ cũng không chấp nhận cho hắn biết thân phận thật của mình. Vì vậy Thúc Tôn Diêu Quang thầm hối hận khi đã chọn Lý Hàn đi hộ tống tới Phí thành, để đến nỗi trong thời gian qua lại với Khánh Kỵ luôn phải che giấu tránh né tai mắt của hắn, thế nhưng việc Khánh Kỵ ở đây xây thành chiêu binh mãi mã vốn là chuyện đại sự, hơn nữa còn quan hệ mật thiết tới lợi ích cả đời của nàng, nên nàng càng không dám sơ suất, thuận miệng đồng ý luôn.
Chiều ngày hôm nay, thợ thủ công ở Phi Hồ cốc nhận được tin Thành phủ đại quản sự Dương Bân đã về, Thúc Tôn tiểu thư và Lý Hàn Lý quản sự quay về Phí thành trú chân. Thiếu đi tên Lý Hàn mặt nghiêm mày lạnh quản thúc, rất nhiều công nhân thợ thủ công đều cảm thấy vui mừng. Khánh Kỵ đi vòng quanh Phi Hồ cốc một vòng, trông thấy tòa hùng thành trong giai đoạn xây dựng ban đầu, chỉ còn dăm bữa nửa tháng nữa là có thể hoàn công, trong lòng cũng cảm thấy rất vui.
Những thợ thủ công và lực sĩ được chiêu mộ lần này có không ít người không phải người bản địa, bọn họ làm xong công việc, lĩnh tiền công liền lập tức quay về quê nhà. Khánh Kỵ liền dặn dò Anh Đào và mười mấy thuộc hạ, chọn lọc ra trong số đó những tráng sĩ không bị vướng bận chuyện gia đình, sau này có thể chiêu mộ dưới danh nghĩa muối đinh, trở thành thành viên trong những tân quân ở Phí thành.
Hoàng hôn, khói bếp bay lập lờ trên cao, Khánh Kỵ bỗng nhớ tới chuyện ban ngày tiểu nữ đầu bếp bị công nhân phàn nàn, liền bảo người đi tìm hai đầu mục thợ đá, hai đầu mục thợ rèn. Mọi người ngồi thành một hình tròn, dùng mộc côn vừa vẽ vừa viết trên mặt đất, diễn giải cho họ hồi lâu. Các đầu mục đưa mắt nhìn nhau, có chỗ nào khó hiểu liền cẩn thận hỏi lại. Khánh Kỵ trả lời lần lượt từng câu hỏi, mấy người đầu mục lúc này mới chịu chắp tay thoái lui.
Khánh Kỵ nhìn thấy kính ý phát ra từ trong con mắt bọn họ, không khỏi bật cười một trận. Nói ra thật cổ quái, từ khi hắn tới thời đại này, kế thừa thân phận và sứ mệnh của Khánh Kỵ, vốn là vì phục quốc mà bôn ba, bận bịu, lo việc nước việc quân, thế nhưng rất nhiều chế độ và cách tân liên quan tới việc nước việc quân hắn rõ ràng đều có những tư liệu tiên tiến cách tới hàng ngàn năm, nhưng lại không thể ứng dụng vào được. Điều đó không chỉ khiến người thường kinh hãi, mà những kế hoạch đại nhảy vọt siêu việt tiến trình lịch sử trên thực tế chẳng giúp được gì cho hắn cả. Ngay đến cả một chiếc yên ngựa bàn đạp cũng phải giấu giấu giếm giếm, thế tập quan tộc(cha truyền con nối trong chốn vua chúa quan lại cung đình) tuy rằng hủ bại, càng không thể đem ra thủ tiêu.
Ngược lại những chuyện dân sinh nhỏ nhặt này, vô luận là ăn mặc, vệ sinh, ăn uống, hắn đều có thể không cần kiêng kị mà nói ra. Nếu không phải là thân phận Khánh Kỵ công tử, hắn chắc đã trở thành một thợ thủ công có tiếng được mọi người tôn trọng, có thu nhập khá khẩm và một môi trường sinh hoạt ổn định. Thế nhưng nếu như là vậy, thì bên cạnh hắn làm sao có Anh Đào, Lương Hổ Tử, A Cừu, những người có nhiệt huyết như vậy theo gót đây? Làm sao có thể có được sự ái mộ từ những thiếu nữ tuyệt trần, gia thế giàu sang như Thành Bích, Thúc Tôn Diêu Quang? Có cái được ắt có cái mất, đời người chẳng bao giờ hoàn mỹ được cả.
Lúc này Thành Bích phu nhân không có ở Phí thành, mấy hôm trước, Thành Bích phu nhân dưới sự hộ vệ của các lộ quản sự và mấy trăm gia tướng, đi dọc theo về hướng Đông Hải , thị sát tình hình các bãi muối ở đây, gặp mặt những chủ muối lão làng ở đây đang phục vụ cho Quý Thị, cùng những "loại chư hầu" tay nắm đại quyền thương thảo về mối quan hệ hợp tác vận chuyển muối và phân chia lợi ích sau này.
Thúc Tôn Diêu Quang đã không còn lý do ở lại đây thêm nữa, chỉ đợi Thành Bích phu nhân quay lại, sẽ đi cùng trở về Khúc Phụ. Số lần gặp Khánh Kỵ không nhiều, nàng làm sao có thể bỏ phí cơ hội như vậy, cho nên ngày hôm sau liền bảo Lý Hàn dẫn theo người đi thành ấp lân cận mua đặc sản trong vùng làm quà tặng thân hữu khi trở về Khúc Phụ.
Tách được khỏi Lý Hàn, Thúc Tôn Diêu Quang mới có thể quay lại Phi Hồ cốc, lưu lại chút thời gian ngắn ngủi bên Khánh Kỵ. Thúc Tôn Diêu Quang còn không biết mùi vị sắc dục nam nữ, chỉ cần được thường xuyên ở nhìn thấy người nam tử trong lòng mình, là nàng đã thấy mãn nguyện rồi. Khánh Kỵ đang bận việc trên núi, nàng không hề quấn quýt vồ vập.
Đến sáng sớm ngày thứ ba, bốn người thợ rèn, thợ đá hôm trước được Khánh Kỵ phân phó, đến phục mệnh, hai ngày nay trải qua nhiều lần thử nghiệm chế tạo, bọn họ đã làm xong món đồ phù hợp với tiêu chuẩn của Khánh Kỵ rồi. Hai cái cối đá, sáu chiếc nồi sắt đáy bằng, cối đá được làm bằng những vật liệu thượng hạng. Còn về công cụ bằng sắt, chất sắt thời kỳ này khá giòn, dùng để đúc binh khí sẽ rất dễ đứt gãy hao phí, có điều dùng để đúc nồi thì không thành vấn đề. Vừa chế tạo xong thì bọn họ liền vội vàng nhấc lên, mời Dương đại quản sự giảng giải công dụng của chúng.
Kỳ thực những thợ thủ công này rất lành nghề, chỉ cần nghe Khánh Kỵ nói cấu tạo của chúng, bọn họ đã có thể đoán ra được mấy phần công dụng rồi, đối với họ mà nói, mỗi lần có phát minh sáng kiến mới, đều là một chuyện đại sự khiến lòng người hứng khởi, cho nên hai ngày nay tuy ngủ chẳng đã giấc, mắt ai nấy cũng đều có gân máu chằng chịt, nhưng tinh thần lại vô cùng phấn chấn, hưng phấn lạ thường.
Khánh Kỵ trông thấy cái cối đá và nồi sắt đúng với yêu cầu của mình thì rất vui, vội gọi mấy lực sĩ nhấc lên, đi tới khu vực ăn uống của những nữ xá bên cạnh. Trong lòng vốn định khoe khoang một tí, muốn những cối đá kia dùng sức nước ma sát, thế nhưng nếu làm vậy thì sẽ phải chế tạo guồng nước, còn phải chế tạo hệ thống thoát nước, hơn nữa chẳng phải chỗ nào cũng thích hợp, nghĩ mãi cuối cùng đành phải bỏ đi.
Bảy hầm lò đã được đào mấy hầm, những nữ nhân làm cơm giặt giũ được Anh Đào tăng cường thêm hai người, có điều do ngại bận rộn, chỉ là không đến nỗi cơm cũng nấu không quen thôi. Hôm nay hầm món cơm đậu mễ, Quý Tôn Tiểu Man tay khua cây gậy gỗ, đấu tranh với bảy nồi đựng cơm trưa, Khánh Kỵ dẫn một ít công nhân, vác theo mấy thứ đồ kỳ quái đó tới.
- Nào, đặt cối đá ở đây, mấy cái nồi lớn kia đặt lên trên.
Khánh Kỵ bảo ban mấy công nhân đặt cối đá đúng chỗ, mọi người đều đưa ánh mắt tò mò về phía những đồ vật kỳ lạ kia. Khánh Kỵ tuy đã nhìn thấy cối đá, hơn nữa những thứ này có cấu tạo khá đơn giản, nhưng đây mới chỉ là lần đầu tiên sử dụng, trong lòng có chút hồi hộp.
Hắn sai người dắt hai con lừa tới, bịt kín hai mắt , rồi lại gọi người mang tới một túi đậu, một túi lúa mạch, đặt lần lượt tại hai lỗ dẫn vào cối đá, rồi cho con lừa chạy vòng quanh, chỉ trong chốc lát, một ít thứ trông giống như cháo đã chảy ra từ khe phía dưới. Khánh Kỵ trông thấy thì thở phào, vui mừng nói:
- Cuối cùng đã thành công. Nào nào nào, phía dưới tiếp bao lên đây, dùng chổi quét gọn chỗ bột mì ở miệng lỗ vào trong túi lớn. Phía trên, phía trên tiếp tục đổ đậu, lúa mạch vào...
Đám thợ thủ công nhìn thấy vậy thì rất kinh ngạc, không khỏi tán thán:
- Dương đại quản sự quả nhiên thông minh hơn người, lại có thể nghĩ ra kỳ vật như vậy, tiểu nhân làm cả một đời thợ đá, đều chưa từng nghĩ tới thứ công cụ như thế này, thật là...thật là không thể tưởng tượng nổi.
Khánh Kỵ cười ha hả nói:
- Bây giờ đã biết phải làm sao rồi chứ? Sau này ngươi có thể tạo nhiều một chút, rất có khả năng mở một nhà xay bột, chuyên xay cán lương thực. Phàm là những thực phẩm loại bột gạo cứng đều có thể dùng thứ này để nghiền thành bột, những hạt mạch này nghiền thành bột mì có thể chế biến dễ dàng, có điều không nên nấu bột mì ăn trực tiếp, mà phải...
Khánh Kỵ thuận miệng nói ra cách chế biến mấy món mì sợi, bánh mì, màn thầu... Mấy nữ đầu bếp đứng cạnh tỉ mẩn ghi nhớ kỹ càng. Khánh Kỵ lại chỉ về cái thớt nghiền đậu nói:
- Nếu làm được cái cối nhỏ hơn rồi bỏ chỗ đậu đã được ngâm nước vào, đậu tương sau khi nghiền xong có thể uống được(hay còn gọi là sữa đậu nành). Còn có cả cây vừng ép dầu nữa, nghiền nhỏ thêm nữa có thể chế thành dầu, ép dầu không còn phí sức như lúc trước nữa, các ngươi thấy thế nào?
Đám thợ thủ công nghe hắn nói vậy, liền hiểu ra đạo lý trong đó, mấy người thông minh hơn đã nghĩ tới nghề nghiệp kiếm tiền kiểu mới, vui mừng không biết để đâu cho hết. Khánh Kỵ trông thấy vẻ mặt mừng rỡ đến khó hiểu của họ thì chỉ nở một nụ cười. Người đời sau rất hay nhìn thấy những thứ này, nhưng để giải quyết chuyện nấu ăn trên núi, đối với hắn cũng không có tác dụng lớn lắm.
Hắn không biết rằng việc phát minh ra chiếc cối đá bé nhỏ có ý nghĩa to lớn đến nhường nào. Vốn dĩ những loại thực vật ngũ cốc như cây đậu, lúa mạch rất dễ trồng ở đây, lại sinh sôi nhanh chóng, cũng bởi chế biến để làm thức ăn không dễ nên diện tích trồng trọt cũng không nhiều, nhưng chỉ với những cái cối đá thô kệch không bắt mắt, vai trò trong đời sống của chúng vốn không được như hạt lúa và hạt gạo, giờ đây đã nổi lên trở thành thức ăn chính, tuy nhất thời không nhìn ra tác dụng của chúng. Thế nhưng nó đã dẫn đến việc thay đổi toàn bộ cơ cấu sản xuất lương thực, có vai trò hết sức quan trọng, tạo phúc cho con cháu đời sau, so với việc hắn khôi phục giang sơn còn trọng đại hơn vạn lần.
"Còn về những nồi sắt này..." Khánh Kỵ hắc hắc cười, vén tay áo đi lên, quát:
- Nổi lửa lên!
Lập tức liền có mấy thợ thủ công tranh nhau đi lên nhóm củi nổi lửa, để xem vị đại quản sự này có trò gì nữa. Vào thời này thức ăn không có hình thức chế biến hầm, xào, ninh, muối, ngay cả thức ăn hào môn quý tộc cũng được chế biến như vậy, chỉ là nguyên liệu cao cấp hơn mà thôi. Thời đó con người chưa nghĩ tới việc rau dưa chỉ cần xào một chút là có thể bỏ khỏi nồi ăn ngay được, cái nồi để sản xuất cũng chưa từng được xào nấu. Khánh Kỵ làm mẫu cho mấy đầu bếp nữ kia một chút, mấy người này vui mừng không kìm nổi.
Quý Tôn Tiểu Man mấy năm nay thường xuyên ở tại Lỗ Quái cư mà Lão Vệ của mẫu thân nàng năm xưa mở ra. Mưa dần thấm đất, những đầu bếp lành nghề có đôi chút am hiểu, nhìn cách làm của Khánh Kỵ ánh mắt có chút khác lạ, lập tức nghĩ ra nhiều món ăn mới:
- Nếu nói cho Viên thúc biết, việc sinh ý ở Lỗ Quái cư nhất định sẽ phát đạt.
Tên đáng ghét này, khó trách hắn được lòng Thành Bích, thì ra ngoài khuôn mặt tuấn tú, hắn còn có chút thông minh nữa.
Khánh Kỵ khoắng bừa mấy cuống rau dại, ngửi ngửi vào trong nồi, cười hài lòng, đưa đũa cho trù nương(đầu bếp nữ), quay đầu tìm Tiểu Ngải nói:
- Tiểu cô nương, cô xem...
Từ khi hắn tới đây đã bận rộn với việc kê cối đá, dạy cách làm, căn bản không nhìn kỹ khuôn mặt của Quý Tôn Tiểu Man, hơn nữa Quý Tôn Tiểu Man cũng chủ động tránh mặt hắn. Nhưng khi hắn xào rau, Quý Tôn Tiểu Man cũng vì tò mò mà tiến lại gần, lúc này muốn tránh cũng không kịp, hai người chạm mắt vào nhau.
Quý Tôn Tiểu Man tuy những ngày này cũng không tắm rửa, đầu cũng không chải, cố ý làm cho mình trông bẩn thỉu nhem nhuốc giống như tiểu nha đầu, nhưng yêu cái đẹp là thiên tính của nữ hài(nam nhi cũng vậy chứ bộ), nàng sẽ không để cho mặt mình xấu quá, dù không rõ lắm nhưng vẫn trông thấy được khuôn mặt lúc trước. Khánh Kỵ gặp nàng hai lần, ấn tượng đối với tiểu cô nương đáng yêu này rất sâu, đặc biệt là cặp mắt lanh lợi của nàng, không vì nàng trang điểm cho xấu mà che giấu nổi, Khánh Kỵ nhìn mà khẽ lay động.
Quý Tôn Tiểu Man bối rối cúi mặt xuống, trong lòng thầm nghĩ:
- Lần này thảm rồi, nghìn vạn...nghìn vạn lần không được để hắn nhìn ra sơ hở, nếu không những ngày khổ cực đã qua đi tong mất...
Sau một chút lay động, thần sắc Khánh Kỵ liền khôi phục vẻ bình tĩnh, nói như không có việc gì:
- Ha ha, ngươi xem... , lần này vấn đề có thể coi là được giải quyết rồi.
Trong lòng Quý Tôn Tiểu Man nhất thời mừng rỡ:
- Hắc, hắn không nhận ra ta! Đúng là đồ có mắt không tròng.
Trên Thương Hà lĩnh, đám nhân mã đi Tề quốc Kiền Hầu cướp Lỗ quân đã quay về, được tin Lỗ quân Cơ Trù đi tham gia buổi lễ mừng thọ của tể tướng Yến Anh, kết quả dưới núi Song Phương, do ngũ tộc tru sát Yến Anh, bị kẻ khác ngộ sát, Triển Chích không khỏi ngây ra như phỗng, Kẹp Lỗ quân lệnh chư hầu, nổi lên ngọn cờ Thanh Quân Trắc(một hoạt động tiễu trừ những kẻ loạn thần tặc tử bên vua) tạo phản, vốn là một khâu quan trọng trong kế hoạch của hắn, bây giờ Cơ Trù lại chết mất rồi. Triển Chích đấm một đấm thật mạnh vào trong không khí, nhất thời hoang mang không biết phải làm sao.
Cơ Trù vừa chết, hắn vội phái người đi thăm dò tin tức đô thành, ai ngờ mấy thám mã còn chưa đến Khúc Phụ đã vội vã trở về phục mệnh. Tam Hoàn thế gia mỗi nhà khởi phát một đội quân tiến quân về phía Mông Sơn, nghe nói một là diễn tập quân đội, vừa là di chuyển thành trì.
Triển Chích nghe được tin tức nghi hoặc nói:
- Nơi này gần Đông Hải, sẽ không có địch từ hướng Đông tới, phía Bắc đã có quân phòng, dựa vào sông núi hiểm trở đủ sức ngăn chặn được Tề quân. Nếu Tam Hoàn thế gia tới diễn võ, đúng vào vụ mùa, huống hồ lại còn di chuyển địa điểm đồn trú. Hắc, chúng dời binh tới đây, là muốn phòng ai?
Cổ Quân Hải ung dung nói:
- Chủ thượng, không lẽ tin tức chúng ta khởi binh đã bị bại lộ?
Lần trước lệnh hắn quấy rối Thành Bích, Cổ Quân Hải chuyển ý, trực tiếp bắt Thành Bích phu nhân lên núi, kết quả thất thểu bỏ về, Triển Chích đã mắng chửi đám tâm phúc này không ít, ngay sau đó bảo hắn ngoan ngoãn đợi trên núi, không được phép xuống núi gây chuyện thị phi. Giờ nghe hắn nói, Triển Chích vẫn còn chút tức giận, hung hãn trừng mắt nhìn hắn, rồi lại trầm ngâm nói:
- Chắc là không, biết ta khởi nghĩa chỉ có vài người, đều là những huynh đệ đáng tin, Tam Hoàn tại sao lại có được thông tin chứ? Lẽ nào... vì chuyện Thành Bích gặp cướp, lão già Quý Tôn Ý Như bắt đầu chột dạ rồi? Hắc, giữa bọn chúng quả nhiên có tư tình.
Tiểu Ất vẻ mặt cổ quái nói:
- Chủ thượng, nói vậy e không đúng lắm. Nếu nói Thành Bích và Quý Tôn Ý Như có gian tình thì còn có thể. Quý Tôn Ý Như hành sự thiển cận, không phân được nặng nhẹ, phát binh đến bảo vệ vì nữ tử mà hắn cưng chiều cũng không phải là không làm được. Nhưng... Thúc Mạnh hai nhà cũng phát binh, chắc chắn không phải để bảo vệ cho nữ tử kia? Trừ phi mụ yêu tinh này đến cả Thúc Tôn Ngọc, Mạnh Tôn Tử Uyên cũng cho vào tròng, thế nhưng Quý Tôn Ý Như là kẻ cả ghen, hắn có thể nhẫn nhịn nổi sao?
Triển Chích khẽ đưa mắt, sắc mặt trở nên trầm mặc:
- Ý ngươi là... Tam Hoàn phát binh, mục tiêu là mỗ gia?
Tiểu Ất gật đầu nói:
- Chủ thượng, thiết nghĩ, không thể không phòng.
Triển Chích bước từ từ trong sảnh, suy nghĩ mãi, cuối cùng ngồi xuống, hai tay xuôi theo đầu gối, phân phó:
- Cơ Trù đã chết, mỗ đã mất một nửa chỗ dựa dẫm, bây giờ Tam Hoàn phát binh, mỗ mất đi tiên cơ, lúc này mà manh động là không khôn ngoan. Tiểu Ất, ngươi đích thân xuống núi, theo sát từng nhất cử nhất động của chúng, có tin gì báo lại cho ta ngay.
- Tuân lệnh!
Tiểu Ất chắp tay cáo lui, dẫn theo thân tín xuống núi thám báo tin tức Tam Hoàn. Triển Chích đang định nói với Cổ Quân Hải, một tên sơn tặc vội vã chạy từ ngoài vào, cao giọng bẩm báo:
- Báo chủ thượng, có tin quan trọng!
Triển Chích nhìn thẳng vào hắn, căng thẳng hồi:
- Có tin gì, mau nói.
Người nọ thở hổn hển nói:
- Chủ thượng, Thành Bích phu nhân từ Đông Hải trở về, lúc này đang xuôi theo mạn Tây sông Tuấn vòng về Phí thành, bây giờ đã tới Tù Long Độ(Độ: bến đò, bến sông) rồi.
Cổ Quân Hải nghe vậy thì lên tinh thần, mở miệng hỏi:
- Ả có bao nhiêu nhân mã?
Người kia nói:
- Sáu chiến thuyền lớn, áng chừng có khoảng 300 gia tướng hộ vệ, hai bên bờ còn có mỗi bên 100 binh sĩ theo hộ vệ.
- Vậy tức là hơn năm trăm người?
Cổ Quân Hải bị kích động nhảy dựng lên, nói với Triển Chích:
- Chủ thượng, đám nhân mã này chúng ta nuốt trôi được.
Hai mắt Triển Chích lạnh lùng quắc về phía hắn, Cổ Quân Hải khẽ rùng mình, dáng vẻ bệ vệ lập tức co rúm lại. Triển Chích lạnh lùng nói:
- Quân Hải, ta hỏi ngươi, chúng ta có thể đánh thủy chiến được không? Có những sĩ tốt thạo đánh thủy chiến không? Lấy cái gì ra sông bắt ả? Bắt ả để làm gì?
Cổ Quân Hải bị một chuỗi câu hỏi của hắn làm cho câm tịt không nói được câu nào.
Triển Chích nặng nề hừ lạnh một tiếng rồi nói:
- Kẻ trượng phu, đầu óc đen tối, cả ngày chỉ nghĩ đến chuyện rúc váy đàn bà, còn có tiền đồ gì nữa!
Cổ Quân Hải lần đầu tiên bị hắn nhiếc móc giữa đám đông, vừa thẹn vừa giận, khuôn mặt đỏ bừng lên.
Triển Chích không hề để ý đến hắn, cắn răng cười lạnh nói:
- Không công được, thì ta thủ. Hừ, lão thất phu Quý Tôn Ý Như lần này dẫn quân từ phía Đông tới, nếu như muốn gây rắc rối cho ta, vậy chúng ta cũng chơi cùng hắn vậy. Ta muốn xem, là kẻ nào tổn thất nhiều hơn!
Căn phòng chật hẹp, sắc xuân vô hạn. Khánh Kỵ và Thúc Tôn Diêu Quang vẫn còn đang ngập ngừng, nhưng ánh xuân sáng lóa đã chiếu rọi vào tâm can hai người rồi. Thúc Tôn Diêu Quang ngả vào trong lòng Khánh Kỵ, lưng m ông tựa vào hắn, hai mắt nhắm hờ đê mê, sung sướng tận hưởng những cái vuốt ve mơn trớn của tình lang.
Sau tà áo mỏng, phần thân thể yêu kiều mờ mờ lộ ra, cặp nhũ phong phập phồng khe khẽ theo hơi thở, nếu như cặp mắt đủ tinh tường, có thể nhìn thấy được cặp nhũ hoa trắng hồng mìn mịn, một cặp nhũ châu xinh đẹp bị Khánh Kỵ nhấm nháp trở nên ướt át, giống như hai quả anh đào căng mọng vậy. Đôi tay của Khánh Kỵ khẽ vuốt ve dưới làn áo của nàng, ngón tay đưa đẩy mân mê khắp nơi, khiến cơ thể nàng khẽ rùng mình toát mồ hôi lạnh, cơ thể của nàng, quả thực là rất mẫn cảm với điều đó (nữ nhân nào cũng vậy thôi, theo ngu ý của tại hạ là vậy).
Mùi thơm da thịt đưa thoang thoảng, đường gân kẽ thịt trong cơ thể nàng đong đưa mềm mại, tràn ngập sinh cơ và co giãn bừng bừng, khiến Khánh Kỵ có cảm giác thương mến mà chẳng nỡ rời tay, thế nhưng Thúc Tôn Diêu Quang, người đang bị Khánh Kỵ nhấm nháp bừa bãi trên cơ thể, lại phải chịu sự giày vò tra tấn của xuân tình nhục dục, từng đợt từng đợt khiến chiếc bụng nhỏ nhắn không ngừng đưa từng luồng nhiệt lưu xuống những khe rãnh ở nơi nào đó, gây ra cảm giác ngứa ngứa khó chịu, nhưng nói ra thì xấu hổ lắm, nên nàng đành phải cắn răng mà chịu đựng, lâng lâng cảm thấy một chất nhầy nhầy tanh nồng xực ra ngoài, dần dần thấm ướt (chỗ tối mật) của nàng.
- Công tử...
Dường như không thể chịu được nữa Thúc Tôn Diêu Quang liền xoay người lại, ép chặt cặp song nhũ ngọc ngà vào lồng ngực Khánh Kỵ, đôi anh đào căng mọng đang dựng đứng cao vút ép thật chặt vào lồng ngực hắn, nhẹ nhàng cọ qua cọ lại, cảm giác sung sướng đê mê như bay lên mây truyền khắp cơ thể, thế là những tiếng rên rỉ nhẹ nhàng lại phát ra qua làn miệng nhỏ, dường như gió thổi qua tiêu quản khẽ khàng nấc từng tiếng nhẹ, khiến tâm tình Khánh Kỵ lại lần nữa dao động.
Thành Bích phu nhân hôm nay sẽ quay về Phí thành, sáng mai Thúc Tôn Diêu Quang sẽ quay trở về Khúc Phụ. Lần từ biệt này, không biết phải bao lâu nữa mới được gặp lại nhau. Thúc Tôn Diêu Quang khó cầm lòng trước những khổ nhọc của biệt ly, liền muốn hiến tặng tấm thân trinh nữ cho nam nhân mà mình yêu mến, cam tâm tình nguyện làm vậy. Ai ngờ..., tên Khánh Kỵ này, thân mật cũng thân mật rồi, sờ soạng cũng sờ soạng rồi, còn bắt nàng hầu hạ những chuyện bất kham như thế, lại không muốn cơ thể của nàng, lần này động tình, cái tư vị xuân tình trầm bổng khó mà miêu tả cho hết được.
Bàn tay Khánh Kỵ xoa vuốt cặp đùi thon dài săn chắc của nàng, rồi trượt đến cặp kiều đồn tròn vểnh, lưu luyến tại đó một lúc. Cặp mông nàng săn mềm rắn chắc, lại có tính đàn hồi, cái cảm giác đó tựa hồ dùng ngón tay có thể cảm nhận được. Chỗ da thịt bàn tay tiếp xúc nõn nà trắng muốt, mềm mại có thừa. Cảm giác mềm mại như không có xương khiến người ta chơi đùa lâu thêm nữa cũng chẳng thấy chán chường.
- Công tử...
Thúc Tôn Diêu Quang lại rên khẽ một tiếng, cặp đùi thon dài có lực kẹp chặt lấy mép chăn, tâm hồn bay bổng say sưa gọi hắn. Khánh Kỵ cũng dường như không thể kiềm chế được nữa rồi, hắn ôm chặt lấy thân thể Thúc Tôn Diêu Quang, dòng hỏa nhiệt bừng bừng nén chặt lấy chiếc bụng nhỏ nhắn của nàng, khiến nàng sợ hãi giống như thỏ ngọc trúng tên, cơ thể yêu kiều bỗng nhiên run lên, hai chân đang kẹp chặt lúc này đã không còn khí lực.
Khánh Kỵ ôm thật chặt lấy thân thể mê người của nàng, dường như muốn nàng rướn người về phía mình. Thúc Tôn Diêu Quang mặt đỏ tâm động, trong khoảnh khắc hồi hộp mong mỏi, Khánh Kỵ bỗng hít lấy một hơi qua làn tóc đang xõa thẳng, đột ngột thủ thỉ vào tai nàng thì thầm:
- Thành Bích phu nhân hôm nay sẽ về thành, nàng là khách nhân, không cần xuất thành nghênh đón. Nhưng cũng cần phải dậy sớm, nếu bị Thành Bích nhìn thấy bộ dạng này của nàng, sẽ bị lộ ra sơ hở ngay.
Thúc Tôn Diêu Quang ư hử một tiếng trong mũi, uốn éo nhúc nhích cơ thể mềm mại, nhắm mắt "ngây thơ" nói:
- Bộ dạng gì cơ?
Nàng bỗng hiểu được một chút gì đó, ngượng ngùng ôm chặt lấy thân thể Khánh Kỵ, áp khuôn mặt kiều diễm vào trong lồng ngực rắn chắc vạm vỡ của Khánh Kỵ, si mê hồi lâu, nhẹ nhàng ngẩng đầu u oán nói:
- Người ta phải về Khúc Phụ rồi. Chàng... tại sao chàng lại không muốn người ta?
Khánh Kỵ xoa nhẹ cặp kiều đồn rồi để nguyên tay tại đó, khẽ khàng thở dài nói:
- Diêu Quang, hai ta... dù sao vẫn chưa thành thân.
Thúc Tôn Diêu Quang há hốc mồm, hàm răng trắng muốt chỉnh tề ở trước ngực Khánh Kỵ cắn nhẹ một miếng:
- Tấm thân của người ta, cả đời này đã xác định sẽ trao cho chàng, thành thân hay không... có can hệ gì chứ? Chàng là đồ xấu xa, đã nói là chưa thành thân, vậy mà còn bảo người ta làm... làm cái chuyện nhục nhã xấu mặt kia, lá mặt lá trái...
Lời còn chưa dứt, chính nàng cũng thấy đỏ ửng hết mặt, xấu hổ rúc vào người Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ cười gượng nói:
- Ta... thì đàn ông mà, khiêu khích như vậy, ta chịu sao nổi?
Nói đến đây, hắn không khỏi hồi tưởng lại quá khứ từ lâu đã lãng quên, còn nhớ bạn gái đầu tiên của hắn, cũng giống như Thúc Tôn Diêu Quang bây giờ vậy, yêu nhau được nửa năm, đầu tiên là nắm tay, sau đó là hôn hít, tiếp nữa là những cử chỉ thân mật không để người khác biết, tuần tự từng bước, giống như hôm nay. Nếu còn tiếp tục với Thúc Tôn Diêu Quang như vậy, thật không biết còn có thể cầm cự được bao lâu, duy trì tới sau khi thành thân hay không nữa.
Thúc Tôn Diêu Quang gắt giọng:
- Thật ích kỷ, chàng không chịu nổi, tại sao không... với người ta?
Khánh Kỵ gật gù đắc chí cười nói:
- Đó mới là hành động của kẻ quân tử. người ta thường nói Triển Hoạch ôm thiếu nữ trong lòng mà tâm không loạn, ai lại chịu cởi áo làm được chuyện như vậy? Vả lại dung mạo của cô nương kia cũng không được xinh đẹp cho lắm, nếu như đổi lại là một mỹ nhân như nàng, hắn mà chịu nổi thì mới là kẻ có bản lĩnh. Như ta hôm nay mới đúng là quân tử thật sự. Ai, sao ta khâm phục mình thế.
Thúc Tôn Diêu Quang khúc khích cười, nhẹ nhàng đánh hắn một quyền, sẵng giọng:
- Bớt khoe khoang đi, quân với chả tử, trên đời làm gì có hạng quân tử như chàng!
Khánh Kỵ trông thấy khuôn mặt kiều diễm của nàng, lại cúi đầu, định liếm láp cặp song châu trước ngực nàng lần nữa, Thúc Tôn Diêu Quang kinh hô một tiếng, bứt ra khỏi Khánh Kỵ, thuận tay vớ lấy chiếc áo treo trên giường, qua một cú xoay người, trên mình nàng đã khoác một chiếc áo gấm.
Khánh Kỵ ngẩng đầu, say sưa nhìn động tác mặc áo của nàng, da lưng của nàng căng đầy, đường cong quyến rũ, thắt đáy lưng ong, kiều đồn tròn trịa, chỉ trong chốc lát, cơ thể kiều diễm say người kia đã được che chắn bởi quần áo khoác ngoài, sau đó buộc áo, cột tóc, cắm ngọc trâm vào..., một tiểu thư khuê các thướt tha yêu kiều, đoan trang nền nã xuất hiện trước mặt Khánh Kỵ.
Thúc Tôn Diêu Quang tựa hồ như biết ánh mắt hắn đang dán vào người mình, nàng chỉnh chu áo quần tóc tai xong, quay lại mỉm cười nhìn hắn, tựa như đào hoa hé nụ:
- Hối hận chưa? Ai cần chàng làm ngụy quân tử. Lần sau a... đừng mong người ta sẽ chịu làm cho chàng chuyện mất mặt đó, trừ phi chàng chịu cùng người ta cộng hiệu uyên ương song(đừng hỏi mình nhé)
Khánh Kỵ yêu say đắm sự hoạt bát hài hước của nàng, hắn cười ha hả, liền bật dậy khỏi giường, Thúc Tôn Diêu Quang ngượng ngùng kêu lên một tiếng, che mắt lại, sẵng giọng:
- Nhanh mặc quần áo vào, bộ dạng như vậy còn ra thể thống gì nữa.
Í? Lúc nãy ở trên giường thì thế nào cũng được, tại sao vừa mới ngồi dậy, đã chẳng ra thể thống gì rồi. Khánh Kỵ nhất thời dở khóc dở cười.
Thành Bích phu nhân thu hoạch được rất nhiều qua chuyến đi lần này. Ba khu muối lớn ở Đông Hải, dưới còn có một số khu muối nhỏ cát cứ khắp nơi, những chủ trường muối kia tuy hơn trăm năm qua đều dốc sức cho Quý Thị, nhưng vì đã sống lâu ở Đông Hải, trời cao hoàng đế ở xa, nên vì muốn có lãi nhiều, cũng thường làm một vài vụ buôn lậu. Triển Chích vốn không có khu muối, có muối lậu để buôn bán, chính là lén lút cấu kết với những chủ trường muối tham tiền kia mà ra.
Nước trong quá ắt không có cá, Thành Bích phu nhân đi guốc trong bụng chúng, chỉ cần chúng không làm quá đáng, nàng cũng chẳng cần bận tâm làm gì. Dù sao, nàng cũng chỉ độc quyền sinh ý muối ở đây có ba năm, với những chủ trường muối kia, chỉ cần lôi kéo là chính, không việc gì phải làm phật lòng bọn chúng cả.
Có điều ân trọng tất dùng uy, ngay cả khi Đại Vũ trị thủy, ông đã giết Phòng Phong Thị để chinh phục các bộ lạc, Thành Bích phu nhân lần này đi tuần thị Đông Hải, cũng có ý muốn bọn chúng kính sợ mình hơn. Một nữ tắc(chuẩn mực đạo đức của người phụ nữ), muốn răn đe những nhân vật cường hạng kia, chỉ dựa vào ân trọng thì đâu có thể thành?
Trong lòng nàng chất chứa nỗi niềm như vậy, liền có cơ hội được thử thách. Một chủ trường muối Xích Thị ở lân cận Tề quốc bình thường rất không biết điều, không những tư thông buôn bán muối với Tề quốc, lọt tai mắt của Quý Thị vận chuyển muối sang Tề quốc, sản lượng lúc báo lên thấp nhất, hơn nữa sau khi nghe ngóng được việc Thành Bích phu nhân, một nữ nhân nắm giữ việc sinh ý muối ở Quý Thị, hắn lại càng không coi ra gì. Sau khi Thành Bích đến Đông Hải, hai lần truyền triệu các lộ chủ trưởng quản sự tới, hắn đều khước từ không chịu đến, muốn hạ uy danh của nữ nhân này.
Thành Bích phu nhân không thấy hắn tới, những quản sự kinh doanh và chủ trường muối đều có vài phần chế nhạo nàng, nàng cũng không hạ đạo khẩu lệnh lần thứ ba nữa, trực tiếp lệnh cho 300 thị vệ của nàng, rồi lại phái hai vị chủ trường muối tin cậy dẫn theo muối đinh hộ binh khoảng nghìn người, nhân lúc đêm tối tập kích trường muối Xích Thị, lấy thủ cấp Xích Thị, tịch biên gia sản của hắn, sau đó chia trường muối của hắn cho hai vị chủ trường có công.
Chiêu này quả nhiên rất nhanh chóng khiến cho quần hùng ở Đông Hải nội tâm lo sợ, bỗng chốc trở nên rất phục tùng. Thành Bích mượn đó để lập uy, triệu tập các chủ trường muối tới nghị sự, cuối cùng vạch định ra các khâu sản xuất, vận chuyển, tiêu thụ, đợi khi mọi việc xong xuôi, nàng liền khéo léo từ chối những lời mời mọc của các chủ trường muối, quay trở về Phí thành. Phong cảnh Đông Hải tuy đẹp, nhưng không có chàng bên cạnh, cánh chim cô đơn giữa biển trời rộng lớn, nào được thanh thoát như cánh én dập dờn.
Phí thành thủ (thủ - quân thủ vệ Phí thành) nghe nói Thành Bích phu nhân quay lại, đã vội chuẩn bị một nghìn năm trăm tinh binh đến đón, Thành Bích đi đường thủy, thủ hạ Triển Chích đều là sơn tặc, trên mặt nước chẳng làm khó nổi nàng, lại thêm đội tinh binh tiếp ứng, đương nhiên là không ngán gì cả.
Thành Bích phu nhân hồi phủ, tắm rửa nghỉ ngơi nửa ngày, rồi xuất hiện bày tiệc rượu chào đón Thúc Tôn Diêu Quang.
Trong bữa yến tiệc, Thúc Tôn Diêu Quang đa tạ những khoản đãi của phu nhân, xin được từ biệt trở về Khúc Phụ, Thành Bích phu nhân có chút bất ngờ, cặp mắt đẹp đẽ liếc qua Khánh Kỵ, Khánh Kỵ đứng bên cạnh, không nói không rằng. Thành Bích đảo mắt nhìn ra chỗ khác, khẽ mỉm cười, rồi thản nhiên nói với Thúc Tôn Diêu Quang:
- Muội muội nếu không ngại thì ở đây thêm mấy ngày nữa, Thành Bích vừa trở về, còn muốn cùng muội thăm thú Phí ấp nữa.
Khóe mắt Thúc Tôn Diêu Quang cũng liếc nhìn Khánh Kỵ, khẽ thở dài nói:
- Đa tạ ý tốt của phu nhân, Diêu Quang ở đây cũng không phải là ngắn rồi, gia huynh mấy hôm nữa sẽ hồi quốc, Diêu Quang sao có thể không ở đô thành nghênh đón? Mấy ngày này được phu nhân thịnh tình khoản đãi, Diêu Quang vô cùng cảm kích, đợi khi phu nhân trở lại đô thành, Diêu Quang sẽ thiết yến hồi thỉnh phu nhân.
Thành Bích phu nhân cười thoải mái:
- Thì ra lệnh huynh sắp hồi quốc, đáng mừng đáng chúc. Nếu đã vậy, Thành Bích cũng không tiện giữ lại. Dương Bân...
- Có nô tài.
Khánh Kỵ vội vàng chắp tay ứng đáp.
Thành Bích phu nhân không thèm nhìn hắn:
- Lát nữa tàn tiệc, ngươi ra hậu trạch, bản phu nhân chọn một vài đồ cần thiết, để làm quà tống tiễn (lễ vật tiễn biệt) tiểu thư lên đường. Gần đây đường xá không yên tĩnh, phải an bài thị vệ dọc đường, hành trình qua đêm, nên cũng phải bàn bạc cho tốt.
Khánh Kỵ gật đầu lia lịa, Thúc Tôn Diêu Quang nâng chén tạ ơn Thành Bích, sau một hồi khách sáo, Thành Bích phu nhân liền kể những điều mắt thấy tai nghe ở Đông Hải, Thúc Tôn Diêu Quang cũng chưa từng đến biển, nghe vậy thì rất phấn khích. Trông bộ dạng chuyện trò thân mật của hai người, không hề thấy bộ dạng đấu khẩu như lúc trước nữa, Khánh Kỵ đứng bên cạnh quan sát, nghĩ tới tình hình lúc bạn lúc thù của mình với Tam Hoàn, rốt cục cũng chẳng tự nhiên như bọn họ được, không khỏi âm thầm cười nhạo: nữ nhân với nhau, bất kể trong lòng nhau có mấy phần thân thiết, khi đóng kịch tỷ muội thân tình, đều cùng một giuộc như nhau cả.
…Khánh Kỵ gật đầu lia lịa, Thúc Tôn Diêu Quang nâng chén tạ ơn Thành Bích, sau một hồi khách sáo, Thành Bích phu nhân liền kể những điều mắt thấy tai nghe ở Đông Hải, Thúc Tôn Diêu Quang cũng chưa từng đến biển, nghe vậy thì rất phấn khích. Trông bộ dạng chuyện trò thân mật của hai người, không hề thấy bộ dạng đấu khẩu như lúc trước nữa, Khánh Kỵ đứng bên cạnh quan sát, nghĩ tới tình hình lúc bạn lúc thù của mình với Tam Hoàn, rốt cục cũng chẳng tự nhiên như bọn họ được, không khỏi âm thầm cười nhạo: nữ nhân với nhau, bất kể trong lòng nhau có mấy phần thân thiết, khi đóng kịch tỷ muội thân tình, đều cùng một giuộc như nhau cả.
Lúc này, mấy võ sĩ phụng lệnh quốc quân tới Phí thành bí mật tìm Tiểu Ngải cô nương đang sầu não ủ ê trong mấy căn phòng ở Hạnh Viên, bọn họ đã đi dò xét mấy ngày ở trong ngoài thành rồi, nhưng chẳng tìm được chút tăm hơi nào của tiểu thư cả.
Lúc trước khi rời Khúc Phụ, quốc quân từng nói Tiểu Ngải cô nương đã ngủ ở tòa Hạnh Viên này, nếu cần manh mối thì bọn họ phải tìm từ đây. Bọn họ đến Phí thành, trước tiên đến hỏi thăm chủ nhân khách điếm Hạnh Viên, được biết Quý Tôn Tiểu Man vẫn chưa trả phòng, không khỏi mừng rỡ, liền đợi trong Hạnh Viên, không ngờ suốt cả một ngày vẫn chưa thấy bóng dáng nàng đâu cả, chia nhau đi tìm kiếm trong thành cũng không có tin tức. Hai ngày nay, mấy võ sĩ cầm bức họa do Cơ Tống khắc họa Tiểu Ngải cô nương, tìm họa tượng(họa sĩ bây giờ) vẽ thêm vài tấm nữa. Mỗi người cầm một tấm đi tìm khắp thành, vẫn chưa tìm được chút manh mối nào cả.
Một võ sĩ nhíu mày nói:
- Tiểu Ngải cô nương vẫn chưa trả phòng, đồ đạc hành lý vẫn ở trong phòng, có lẽ vẫn chưa rời khỏi đây. Thế nhưng mấy ngày nay chưa thấy quay lại, trong thành cũng không có tin tức gì, các ngươi xem, liệu có phải...
- Không được nói bậy!
Một võ sĩ khác biến sắc nói:
- Quốc quân từng nói, Tiểu Ngải cô nương từ nhỏ đã đi theo tập luyện kiếm thuật cùng Lỗ quốc đệ nhất kiếm khách Viên Công, đừng nhìn vẻ ngoài mảnh mai của nàng, kiếm thuật tài giỏi vô cùng, mấy năm nay đi Nam vào Bắc, sơn tặc thủy tặc không biết đã gặp bao nhiêu, nhưng chưa có kẻ nào làm khó được nàng. Làm sao có chuyện được?
Vị võ sĩ thứ ba lại do dự nói:
- Giang Nguyên nói có lý, ngươi không nghe nói mấy hôm trước xa giá của Thành Bích phu nhân cũng bị cường đạo tấn công, nếu như bọn cường đạo trên núi Thương Hà nhắm vào nàng, vậy thì... muốn bắt nàng đi cũng chẳng khó khăn gì. Hảo hán nan địch tứ thủ(ý nói dù là nam nhi cũng khó chống chọi với số đông), huống hồ nàng chỉ là một nữ tử, thể lực dù sao cũng có hạn.
Bọn họ mồm năm miệng mười bàn cãi, võ sĩ đầu lĩnh Điêu Minh hết kiên nhẫn, trầm giọng nói:
- Không cần nói nữa, đã phụng quân lệnh, chúng ta phải dốc hết sức hoàn thành. Các ngươi ai nấy giữ bức họa của Tiểu Ngải cô nương, đi ra ngoài dò tìm lần nữa. Quốc quân đã dặn, bí mật tìm kiếm, nhưng... nếu vẫn không tìm được, chúng ta chỉ còn cách đi cầu trợ đầu mục bản địa, công khai tìm kiếm tung tích của nàng, đi!
Chúng võ sĩ cầm lấy bội kiếm, lũ lượt rời khỏi Hạnh Viên, lại lần nữa đi len lỏi vào trong các ngóc ngách Phí thành.
Trong phòng Thành Bích phu nhân, Khánh Kỵ vừa đi vào, Thành Bích liền ôm chặt lấy chàng, trong khuê phòng, nàng không còn là thương nhân xảo trá nữa, cũng không phải là đương gia nắm giữ quyền hành gia tộc Quý Tôn Tử Phi nữa, nàng chỉ là một tiểu nữ nhân nhu tình ngàn vạn, đáng yêu trìu mến mà thôi.
- Công tử, những ngày này, người ta đi càng xa thì lại càng lo nghĩ cho chàng nhiều hơn. Hôm nay có thể coi là đã quay lại với chàng rồi, chàng có nhớ người ta không?
Thành Bích phu nhân ôm lấy hắn, ngọt ngào hỏi:
- Ách, đương nhiên rồi, ta...
- Không cần chàng nói.
Thành Bích cắt đứt lời của hắn, rạo rực tựa vào ngực hắn:
- Nam nhân a, lúc nào không đạt được cái gì thì mới nhớ nhung, nữ nhân thì lúc nào đạt được cái gì thì mới nhớ nhung. Chàng bận như vậy, có thời gian nhớ thiếp mới là lạ, thiếp thay chàng nhớ tới thiếp là được rồi
Khánh Kỵ nghe được dở khóc dở cười, lúc đó hắn nói chưa từng nhớ tới thì không được, nói nhớ thì lại là miễn cưỡng, cho nên đành im bặt, im lặng là vàng.
Thành Bích phu nhân ép sát vào ngực hắn nghe con tim bổi hổi, tâm trạng kích động mới dịu xuống, khẽ ngẩng đầu lên nói:
- Sao Diêu Quang lại trở về Khúc Phụ vậy, sao chàng không giữ lại, không nỡ sao?
Khánh Kỵ bất đắc dĩ nói:
- Huynh trưởng của nàng ấy xa nhà đã gần nửa năm, bây giờ sắp hồi quốc, đương nhiên nàng ấy phải về tiếp đón, ta khuyên sao đây?
Thành Bích phu nhân dậm chân sẵng giọng:
- Chàng chẳng chịu đùa giỡn thiếp mấy câu, nói có thiếp bên cạnh là vui đi được không?
Khánh Kỵ cười nói:
- Chẳng phải nàng đã nói thay ta rồi đấy ư?
Thành Bích nắm lấy tay của hắn, oán hận cắn một miếng thật lớn, trên tay hắn lưu lại một dấu răng, mị nhãn như tơ nói:
- Chàng hư lắm, không biết nói lời ngon ngọt, cũng không có kim châu ngọc bảo, không biết người ta thích chàng ở điểm nào mới được.
Thanh âm của nàng ngọt ngào, không hề có chút oán hờn, chỉ là thâm tình một mảnh. Khánh Kỵ khẽ rung động nội tâm, cười nói:
- Chắc là thích khuôn mặt trẻ trung tuấn tú của Khánh Kỵ rồi.
Thành Bích khẽ cắn răng vào cặp môi đỏ mọng, trong mắt nổi lên một tia toan tính, thò tay vào trong nội bào của hắn, thân mật nói:
- Khuôn mặt của chàng tuấn tú sao? Người ta thà thích cái này của chàng...
Khánh Kỵ hô hấp nặng nề hơn, hồ mị tử (hồ li tinh quyến rũ) này, lúc lẳng lơ thực sự còn khó coi hơn cả Thúc Tôn Diêu Quang. Trời vẫn còn sáng, lúc này hắn không thể bỏ lỡ cơ hội được, nhưng cũng không muốn làm chuyện dâm ô giữa ban ngày, liền khẽ lui lại một bước, khắc chế những rung động của mình, nghiêm nghị nói:
- Phu nhân, ta có chuyện muốn hỏi nàng.
Thành Bích phu nhân sững sờ, bật cười nói:
- Có chuyện gì thì chàng cứ nói đi, việc gì phải nghiêm trọng vậy?
Khánh Kỵ kéo nàng ngồi xuống, Thành Bích phu nhân liền nhu thuận ngồi theo, chỉ là thân thể như mất hết gân cốt, mềm nhũn dựa vào cơ thể của hắn, Khánh Kỵ nắm lấy vòng eo của nàng, ngửi ngửi hương thơm trên người, thấp giọng nói:
- Gia sự (chuyện trong nhà) của nàng ta đáng ra không nên hỏi, thế nhưng... trong lòng ta quả thực có một chỗ khó quyết, mong rằng nàng có thể giúp ta trả lời. Ân oán ngày xưa giữa nàng và Ngải Thị phu nhân, rốt cuộc... rốt cuộc là như thế nào?
Thân thể Thành Bích phu nhân cứng đờ, từ từ ngồi thẳng người dậy, sắc mặt tái nhợt:
- Sao chàng lại hỏi vậy? Là ai... là ai nói với chàng những tin đồn đó?
Khánh Kỵ ôn nhu an ủi:
- Nàng không cần nghĩ nhiều, ta ở đây đã lâu, còn không biết tính cách của nàng sao? Ta chỉ muốn chính miệng nàng nói ra, nàng và Ngải Thị phu nhân...
Thành Bích phu nhân ngắt lời nói:
- Chuyện xưa đừng nên nhắc tới nữa.
Nàng khom lưng đứng dậy, vội vã đi đến trước cửa sổ, lấy tay mở rèm cửa ra, gió thổi vào phòng, thổi bay những ngọn tóc của nàng. Khánh Kỵ đứng dậy, nhẹ bước đi tới sau lưng nàng, ôm lấy vòng eo đã cứng đờ của nàng, kiều khu của Thành Bích phu nhân khẽ run rẩy, chỉ trong chốc lát, mềm nhũn ngả vào trong lòng hắn:
- Công tử, có phải chàng cũng nghĩ Thành Bích là kẻ lòng dạ lang sói, không từ thủ đoạn sát hại Ngải Thị phu nhân không?
- Không hề...
- Đừng gạt thiếp, trong lòng chàng nghĩ vậy...
Đột nhiên nước mắt Thành Bích phu nhân chảy ròng ròng:
- Chuyện cũ năm xưa, thiếp thật sự không muốn nhớ lại nữa. Thiếp cũng mặc kệ người khác nghĩ thiếp ra sao. Duy chỉ có chàng... thiếp không muốn chàng nhìn lầm thiếp. Công tử, Thành Bích phu nhân dám thề với trời, Thành Bích tuyệt đối không làm chuyện gì có lỗi với Ngải phu nhân, cái chết của nàng, thực sự không phải lỗi của thiếp.
Khánh Kỵ trầm ngâm trong chốc lát, chậm rãi nói:
- Nhi nữ của bà ấy, lưu lạc bên ngoài, bao năm qua không về phủ đệ...
Thành Bích phu nhân uất ức nói:
- Chàng vì chuyện này trách cứ thiếp sao? Quý Tôn Tiểu Man, không phải do thiếp nhẫn tâm đuổi đi. Nhiều năm qua, vì sự ra đi của nó, thiếp đã chịu không biết bao nhiêu lời chửi mắng sau lưng... Là do nó không chịu quay về, chẳng nhẽ thiếp lại ép nó về ư? Nếu thiếp làm vậy, người thiên hạ lại chẳng nói thiếp thừa cơ hại nó? Nó khỏe mạnh vô sự là được rồi, chỉ e gặp phải phong hàn, toàn thành Khúc Phụ lại bắt đầu xôn xao thôi, công tử a, chàng đã nghĩ tới chỗ khó xử của Thành Bích chưa?
Khánh Kỵ lại trầm ngâm, hồi lâu mới nói:
- Thành Bích, nàng thật sự không có ý giận chó đánh mèo Thúc Tôn Tiểu Man đấy chứ?
Thành Bích quay đầu lại, đẩy tay hắn ra, cặp lông mày dựng lên, phẫn nộ nói:
- Chàng không tin thiếp?
Trong lòng nàng vừa bi vừa phẫn, tức giận đến toàn thân run rẩy. Người ngoài nhìn nàng thế nào, nàng chẳng thèm để tâm, nhưng Khánh Kỵ nếu coi nàng là rắn rết, thì nàng khó mà chịu được, nghe thấy ngữ khí Khánh Kỵ như vậy, nàng bi phần muốn chết.
Khánh Kỵ nhẹ nhàng lau dòng nước mắt trên mặt nàng, ôn nhu nói:
- Không cần đau lòng, ta hỏi nàng như vậy, không phải là nghi kị nàng điều gì, chỉ là có một chuyện muốn nói với nàng, nếu không nghe nàng bộc bạch, thì cũng không dám nói ra.
Thành Bích phu nhân trợn to đôi mắt đẫm lệ nói:
- Chàng có chuyện gì muốn nói với thiếp? Cùng Ngải phu nhân... không đúng! Chẳng lẽ có can hệ tới Quý Tôn Tiểu Man?
Tuy nàng đang uất hận, nhưng tâm trí vẫn còn rất tinh tế, khôn ngoan, lập tức đoán ra chuyện Khánh Kỵ muốn nói nhất định có liên quan tới Quý Tôn Tiểu Man.
- Thông minh!
Khánh Kỵ tán thưởng cười một tiếng, rồi nói:
- Ta kể với nàng, nàng không cần kinh ngạc, xử lý thế nào, vẫn là do nàng quyết định. Tiểu Man cô nương... bây giờ đang ở Phí thành.
Thành Bích phu nhân kinh ngạc thấp giọng kinh hô, vội vàng lau nước mắt, hỏi:
- Sao chàng biết? Chàng nhận ra nó? Nó ở đâu?
Khánh Kỵ vuốt cằm nói:
- Đúng vậy, ta nhận ra nó, bây giờ nàng... đang ở Phi Hồ cốc, giả trang một tiểu thôn nữ, trúng tuyển vào làm một dong phụ(người phụ nữ làm thuê) nấu cơm giặt giũ, ta nghĩ... nàng ấy làm vậy, chắc là do nàng mà đến...
Thành Bích phu nhân nghe xong sắc mặt thay đổi mấy lần, cuối cùng mục quang trầm xuống, khẽ nhếch miệng nói:
- Đi, chúng ta lập tức đi Phi Hồ cốc.
Thành Bích phu nhân cũng không tránh Khánh Kỵ, vội vã vọt tới sau tấm bình phong thay quần áo. Mặt trời sáng rõ, những hình ảnh lờ mờ sau tấm bình phong khó có thể che đậy. Thành Bích vừa đi qua đó, một dòng lệ ảnh ẩn hiện in dấu trên tấm bình phong, cởi áo, thay y phục, cặp ngực nở, đôi chân dài, cảm giác say đắm mê người, vào lúc quan trọng này, Khánh Kỵ cũng chẳng còn tâm trí thưởng thức, đợi nàng thay quần áo xong, hai người liền vội vã đi ra khỏi phòng.
Hai người vừa rời khỏi hậu trạch, liền gặp Tiêu Cẩn quản sự dẫn một võ sĩ hộc tốc đi tới, trông thấy phu nhân, Tiêu Cẩn vội vàng đứng lại, chắp tay thi lễ:
- Phu nhân, vị tráng sĩ này là sứ giả đương kim quốc quân phái tới Phí thành, có chuyện cần bẩm báo phu nhân.
Thành Bích phu nhân kinh ngạc dừng bước, sau khi nàng trở về đã hay tin trong triều lập tân quân là công tử Cơ Tống, nhưng không biết vị tân quân này phái võ sĩ tới tìm mình có việc gì. Võ sĩ đó chính là Điêu Minh, người phục lệnh đi tìm Tiểu Ngải, vừa trông thấy khuôn mặt kiều diễm của Thành Bích phu nhân, cặp mắt Điêu Minh bỗng sáng lên, hắn không dám nhìn thêm, vội vàng cúi đầu xuống, tiến tới mấy bước, khom người thi lễ nói:
- Vương thành vệ phủ Điêu Minh, vái chào phu nhân.
- Điêu thống lĩnh, không biết ngài tới gặp thiếp thân là có chuyện gì?
Điêu Minh lại vái chào lần nữa, nói:
- Điêu Minh phụng lệnh quốc quân, tới đây tìm một vị cô nương tên Tiểu Ngải...
Thành Bích nghe đến đó sắc mặt lập tức biến đổi, Điêu Minh cũng không ngẩng đầu lên, tiếp tục nói:
- Nhưng Điêu Minh tới đây đã vài ngày, vẫn chưa gặp được Tiểu Ngải cô nương. Tại khách điếm Hạnh Viên, Tiểu Ngải cô nương vẫn chưa trả phòng, đồ đạc vẫn còn nguyên. Điêu Minh sợ Tiểu Ngải cô nương có điều gì bất trắc, vậy nên cầm bức họa của cô nương tới khắp nơi dò hỏi, hôm nay hỏi một tượng nhân(thợ thủ công), nghe hắn nói, trong Phi Hồ cốc có một thiếu nữ nấu cơm có khuôn mặt giống như vậy...
Võ sĩ này vốn là võ sĩ trong nội cung, cũng không phải xuất thân là gia tướng hộ vệ tùy thân của Cơ Tống, không hề biết đến sợi ân oán giữa Thành Bích phu nhân và Ngải Thị phu nhân, càng không biết thân phận thật của Tiểu Ngải, nếu không chỉ cần nghe tới việc thiếu nữ kia làm dong phụ ở Phi Hồ cốc, cũng không thể ngờ rằng nàng chính là thiên kim đại tiểu thư trong phủ Quý Tôn Tử Phi.
Lúc này nói ra, hắn sẽ tưởng rằng Quý phủ cậy thế hiếp người, cưỡng ép vô số tráng đinh lên núi làm công, nhưng Quý Thị thế lớn, tuy hắn được quốc quân giao phó trọng trách, trong ngôn từ cũng không dám có chỗ bất mãn, chỉ khéo léo nói:
- Điêu Minh vốn không tin lắm, nhưng ngoài điều đó ra thì không còn manh mối nào nữa, đành đi Phi Hồ cốc tìm người. Nào ngờ mấy hôm trước xa giá của phu nhân bị cướp, trong cốc canh phòng vô cùng cẩn mật, Điêu Minh không thể nào vào được bên trong, đành phải quay về nói rõ thân phận, thỉnh phu nhân ân chuẩn nhập sơn.
Phi hồ cốc, Thành Bích phu nhân và Khánh Kỵ, đám người của Điêu Minh đứng bên bếp lửa không lên tiếng, cô gái giống cô nương Tiểu Ngải mà Điêu Minh nói đã không biết đi đâu.
Người thợ họ đã hỏi chuyện trong thành là tên thợ vào thành sửa dụng cụ, về đến nơi đã đem chuyện có người cầm bức tranh như đang truy tìm một vị cô nương nói với Quý Tôn Tiểu Man, cô ta tất nhiên để ý, đợi khi đám người Điêu Minh bị chặn ở ngoài sơn cốc không được vào thì nàng đã biết hành tung bị bại lộ, sao còn nán lại ở đó chứ.
Vẻ mặt đám người Điêu Minh thật khó coi, trong lòng họ cho là Thành Bích phu nhân biết được tin đã đem giấu người lại rồi.
Khánh Kỵ hít một hơi dài, dặn dò Anh Đào:
- Đi cùng Điêu thống lĩnh lục soát trong cốc một lần nữa xem sao, coi có tìm được tung tích nàng ta không.
- Vâng!
Anh Đào đáp lời, ra dấu mời Điêu Minh, đám người Điêu Minh ôm hy vọng đi theo hắn ra ngoài. Khánh Kỵ sáp lại gần Thành Bích, nhẹ giọng:
- Phu nhân, hãy về phòng nghỉ ngơi giây lát đã.
Thành Bích thần thái ngơ ngác, cũng không biết gật đầu hay lắc đầu, lê bước chậm rãi về hướng căn phòng mà Thúc Tôn Diêu Quang từng ở.
- Nàng ta đến là để giết thiếp…
Vừa vào phòng ngồi xuống, Thành Bích cất giọng ưu sầu.
- Không phải chứ? Nàng ta nếu muốn giết phu nhân, sao bây giờ mới hành động? Hơn nữa, mấy hôm trước phu nhân cũng hay vào cốc, lúc đó nàng ta đã có cơ hội ra tay.
Khánh Kỵ an ủi, nhưng cũng không sao hiểu được lí do Quý Tôn Tiểu Man trốn ở đây.
Thành Bích phu nhân cười khổ:
- Công tử đừng gạt thiếp, ngoài lí do đó ra, còn giải thích thế nào được? Hồi trước có lẽ nàng ta còn nhỏ tuổi, giờ đây…cuối cùng nàng ta đã quay về, về để giết thiếp đó.
Khánh Kỵ không biết làm thế nào khuyên nhủ, hồi lâu mới lên tiếng:
- Nàng ta chỉ là một cô bé thì có bản lĩnh to tát gì chứ? Bên cạnh phu nhân rất nhiều vệ sĩ, nàng ta sao tiếp cận được, sau này ra vào cẩn thận một chút là được.
- Thù hận trên thế gian này, có những lúc mình không muốn cũng phải dính vào, giống như thiếp và Ngải phu nhân…Bao nhiêu năm qua, thiếp chưa hề muốn nghĩ đến nàng ta, không muốn nhớ những ngày tháng ấy, nhưng vì Tiểu Man, thiếp không thể không khơi lại quá khứ đau buồn đó, mệt mỏi quá…thiếp rất muốn từ bỏ tất cả, mai danh ẩn tích, đoạn tuyệt với quá khứ, bắt đầu một cuộc sống mới…
Thành Bích rầu rĩ kể lể, đầu úp xuống hai gối.
Khánh Ký chợt thấy tội nghiệp:
- Phu nhân, phu nhân không cần…
- Công tử mặc kệ thiếp, thiếp không sao, nếu Tiểu Man lại đến, thiếp sẽ đem tất cả…trả hết cho nàng ta là được rồi…
Khánh Kỵ im lặng giây lát, nhẹ giọng:
- Phu nhân tâm trạng không tốt, cứ nghỉ ngơi một chút trong phòng vậy. Đừng suy nghĩ quá nhiều, ta không để ai làm hại nàng đâu, đừng quên lời hứa của ta, chỉ cần ta còn sống, ta có thể vượt qua cửa ải sang năm, ta nhất định bắt nàng mãi mãi ở bên ta.
Khánh Kỵ đẩy cửa bước ra ngoài, đứng dưới ánh mặt trời. Tiểu Hà khép nép tiến đến gần, giọng run run:
- Quản sự…
Khánh Kỵ thở dài:
- Đứng hầu trước cửa, hầu hạ phu nhân cho tốt.
- Dạ!
Tiểu Hà cúi người tuân lệnh, khi ngẩng đầu lên Khánh Kỵ đã bước ra cửa.
Bốn bề núi non xanh biếc, cây cối um tùm, các cánh cửa dựng dưới núi đều có người canh gác, ra vào phải có thẻ bài. Không ai nhìn thấy Quý Tôn Tiểu Man rời khỏi, nàng ta trốn ở đâu được chứ? Chẳng lẽ…nàng ta đi qua khu rừng um tùm, vượt núi bỏ trốn?
Khánh Kỵ khẽ chớp mắt, giơ thẻ đi về phía khu nhà nữ nhi ở.
Đêm trăng vành vạnh, nước trong hồ phản chiếu ánh trăng lấp lánh, khắp sơn cốc đều mát lạnh hơi nước. Thành Bích phu nhân đêm nay không về Phí thành, cứ ở tại căn phòng ven hồ trong sơn cốc. Hai chiếc đèn lồng treo ngoài sân lay nhẹ theo gió, mặt hồ lung linh ánh trăng, lăn tăn gợn sóng, phản chiếu lên bức tường căn nhà gỗ, ánh sáng lấp lánh.
Thành Bích phu nhân không biết bị Tiểu Man khơi gợi chuyện gì trong lòng, cơm tối cũng không ăn được nhiều, cứ trốn ở trong phòng, thần sắc ưu tư không biết đang nghĩ ngợi gì.
Tuy vào mùa hạ, nhưng trong núi mát mẻ, cửa sổ đều đóng kín, Thành Bích phu nhân ngồi trước giường, chải đi chải lại mái tóc dài mượt mà, cứ như làm thế để tìm chút bình yên trong lòng, đột nhiên có tiếng gõ cửa nhè nhẹ.
Thành Bích phu nhân cất tiếng:
- Tiểu Hà, các ngươi đi nghỉ đi.
Bên ngoài cửa không thấy trả lời, lại gõ nhẹ hai tiếng, Thành Bích ngừng tay, ưu sầu:
- Thì ra là chàng…Ây! Thiếp không có gì đâu, chàng không phải bận lòng. Đêm nay thiếp muốn yên tĩnh một mình, chàng nghỉ ngơi đi, được không…
Ngoài cửa chợt vọng vào một tiếng cười lạnh lùng, Thành Bích phu nhân biến sắc, quay đầu lại. Cửa phòng bật mở, Quý Tôn Tiểu Man đứng chặn ngay trước cửa, trên tay cầm thanh đoản kiếm, ánh mắt sắc lạnh nhìn vào bà ta, cười mỉa:
- Sao, đêm nay lương tâm bất an, không ngủ với tên gian phu à?
- Tiểu Man!
Thành Bích phu nhân từ từ đứng dậy, ngước nhìn Tiểu Man, lộ vẻ bất ngờ:
- Bao nhiêu năm không gặp, cô…đã cao lớn thế này rồi à?
Tôn Quý Tiểu Man đứng ngay cửa, nắm chặt thanh đoản kiếm sắc nhọn, nhảy vào phòng, ánh mắt đầy thù hận:
- Không sai, ta đã lớn khôn rồi. Bao năm qua, ta không quên chuyện mẹ ta bị ngươi ép chết, chỉ vì ngươi còn an giữ bổn phận, trông giữ lấy nhà họ Quý, ta nhịn, tất cả ta đều nhẫn nhịn lấy…
Giọng nói của Quý Tôn Tiểu Mạnh hơi chút thổn thức:
- Nhưng giờ đây, cuối cùng ngươi cũng không chịu được nỗi cô đơn, thứ đàn bà không biết liêm sỉ, lại tư thông với gia nô của mình. Có phải là tiếp theo đây sẽ đem hết gia sản của nhà họ Quý ta, trốn theo người đàn ông của ngươi không? Ta, Quý Tôn Tiểu Man, cho dù là vì mối thù của mẹ, hay là vì Quý gia thanh lí môn hộ, đêm nay cũng phải bắt tên đàn bà đê tiện ngươi chết ở đây.
Ánh mắt Thành Bích phu nhân vừa đổi hướng, Quý Tôn Tiểu Man đã lạnh lùng:
- Không cần gọi đâu, hai con tì nữ của ngươi đã bị ta đánh ngất, đợi người bên ngoài đến nơi thì ngươi đã chết dưới kiếm của ta rồi, Thành Bích ngươi đừng chống cự có lẽ sẽ được chết dễ chịu hơn.
Thần sắc của Thành Bích phu nhân đã bình tĩnh lại, nghe những lời đe dọa của Quý Tôn Tiểu Man, cười chua chát:
- Cô muốn giết ta, ta không oán trách, nhưng cô cũng đừng nói ta không phải như thế, không sai, ta đã thích một người đàn ông, nhưng chàng là người đàn ông duy nhất ta yêu trên đời này. Cô luôn miệng nói đến nhà Quý Tôn, máu trong người cô là của nhà Quý Tôn, nhưng của ta thì không.
Quý Tôn Tiểu Man định lên tiếng, Thành Bích đã cướp lời, tiếp:
- Cô muốn nhắc đến phụ thân ư? Không sai, ông ấy là chồng của ta, nhưng ông ấy không phải là người đàn ông của ta, ta chưa từng yêu ông ấy! Lúc ở nhà Quý Tôn ta chỉ là một món hàng mua đi tặng lại, Quý Tôn Tử Phi có xem ta là con người không? Mười ba năm trước, ta chỉ là một tì nữ của nhà cô, nhưng phụ thân cô…trong lúc say rượu đã cưỡng bức ta. Cô cho là ta tham vinh hoa phú quí của nhà Quý Tôn ư? Cái tên Ngải phu nhân ai mà không biết, ta chỉ sợ, sợ lại bị nhà Quý Tôn của cô biến thành món hàng đem tặng qua tặng lại.
Trong mắt Quý Tôn Tiểu Man hừng hực:
- Thế là, ngươi làm đến cùng, mê hoặc phụ thân ta, bức tử mẹ ta, chiếm luôn nhà ta! Mẹ ta…rất lương thiện, rất dịu dàng, bà chưa từng nghĩ đến phải hại ai cả…
Thành Bích phu nhân nhìn trừng trừng Tiểu Man, ánh mặt lộ vẻ đau khổ khó tả:
- Cô cho là ta vui lắm sao? Mỗi ngày ta đều sống trong những ngày tháng lo lắng sợ sệt, chỉ mong cho mẹ cô đừng đối xử ta như mấy tì thiếp trước đây của phụ thân cô, đuổi ta ra khỏi Quý phủ dồn ta vào đường cùng, cuối cùng phải làm kĩ nữ, nhưng…nhưng…nhưng ta lại mang cốt nhục của phụ thân cô…
Thành Bích đột nhiên kéo mạnh dây lưng, áo vải tuột ra, hai vai mở nhẹ mặc cho chiếc áo rơi tuột xuống chân. Đó là một thân hình mỹ miều làm người ta ngưng thở, thân thể chỉ khẽ nhúc nhích, làn da mịn màng cứ như có một dòng nước bóng loáng mềm mại chảy trên đó.
Có vẻ không chịu được gió lạnh lùa vào, thân hình mảnh mai của Thành Bích run rẩy. Ánh đèn đổ bóng tấm thân tuyệt đẹp ấy lên trên tường, do tác dụng của ánh sáng, chiếc bóng có chút khác đi, thân hình cao hơn, eo thon thả hơn, bầu ngực căng tròn, phần mông đầy đặn, chiếc bóng mê hoặc làm điên đảo lòng người.
Quý Tôn Tiểu Man lạnh lùng:
- Ngươi cởi trần truồng ra thế này, lại không biết xấu hổ muốn giở trò quyến rũ người khác ra sao? Rất tiếc, ta không phải là đàn ông.
Thành Bích phu nhân cười nhạt nhẽo, dưới mái tóc dài là đôi mắt lóng lánh như trăng, nhẹ giọng:
- Cô nhìn xem, chỉ vì ta đã có mang, mẫu thân lương thiện dịu dàng của cô đã phái thích khách muốn giết ta. Nhát kiếm này, đã sém chút nữa lấy mạng ta rồi…
Dưới xương sườn của Thành Bích hiện rõ một vết sẹo, Quý Tôn Tiểu Man luyện kiếm từ lúc nhỏ, đương nhiên nhìn ra đó là vết sẹo do bị kiếm đâm. Tiểu Man giật mình, thất thanh:
- Không thể nào, mẹ ta không tàn nhẫn như thế, ngươi gạt ta!
Vừa nói Tiểu Man vừa tức giận giơ kiếm lên chỉ vào tấm ngực trần của Thành Bích phu nhân.
Thành Bích phu nhân cũng không né tránh, cúi xuống nhặt áo lên, ung dung mặc lại vào người, trên mặt có vẻ gì đó mỉa mai:
- Trong lòng mỗi đứa con, mẹ của chúng đều dịu dàng nhất lương thiện nhất hoàn mỹ nhất. Trong lòng mỗi người mẹ, con của họ đều quí báu nhất đáng yêu nhất. Trong lòng Ngải phu nhân, cô là cành vàng lá ngọc, được bà ta yêu thương chiều chuộng, được xem như viên ngọc minh châu. Nhưng trong lòng Ngải phu nhân, Thành Bích này và một con chó…có gì khác biệt đâu?
Sắc mặt Tiểu Man trắng bệch, lảo đảo lui ra hai bước, tay vịn cửa, thanh kiếm trong tay hạ xuống. Trong lòng cô, từ nhỏ đến lớn, người mẹ nhân từ hoàn hảo của mình bỗng nhiên hóa thành hung thủ tàn ác vì tranh sủng mà nhẫn tâm phái sát thủ giết chết một cô gái vô tội yếu ớt, cú sốc ấy, đã hủy diệt hình tượng tốt đẹp trong tim của cô, cô không cách nào chấp nhận được sự thật này.
- Ngươi gạt ta, chắc chắn là ngươi đang gạt ta…
Tiểu Man không muốn chấp nhận sự thật, lại giơ kiếm lên, nhưng hình như không còn sức nắm vững cây kiếm, lưỡi kiếm run run.
- Ta không gạt cô! Quý Tôn Tử Phi không có con trai, ta có mang thì mẹ cô hạ độc thủ. Vì chuyện này bại lộ, không còn mặt mũi nhìn Quý Tôn Tử Phi nên mẹ cô mới xấu hổ tự vẫn, Thành Bích này có tội gì?
Thành Bích phu nhân siết nhẹ dây lưng, ánh mắt hơi chút thù hận:
- Thích khách nhận lệnh đến giết ta, là đệ nhất kiếm khách của nước Lỗ, đệ nhất cao thủ môn hạ Quý thị Viên Tố, bây giờ là ông chủ Lỗ Quái Cư Viên công. Đường đường là một cao thủ kiếm thuật siêu phàm, cô cho là vì lí do gì mà hắn trở thành một ông chủ quán rượu chợ trời chứ?
Thành Bích phu nhân đanh nhọn nói tiếp:
- Là vì lúc hắn đâm nhát kiếm chợt sinh lòng thương hại, cố tình tránh đâm vào tim ta, không hoàn thành nhiệm vụ Ngải phu nhân giao thì là bất trung, đường đường là đệ nhất kiếm khách nước Lỗ lại đi hạ độc thủ với một cô gái chân yếu tay mềm, hại nàng ta…, nàng ta sém chết thảm, đó là bất nghĩa. Bất trung bất nghĩa như vậy nên hắn mới phong kiếm ẩn mình trở thành một ông chủ quán rượu bao nhiêu năm qua.
Quý Tôn Tiểu Man hét lớn:
- Ta không tin!
Tiểu Man đứng không còn vững, nước mắt đầy mặt. Từ khi bị phát hiện hành tung, cô đã thay đổi ý định làm cho Thành Bích phu nhân thân bại danh liệt sống không bằng chết, trốn trong căn nhà Thúc Tôn Diêu Quang từng ở này từ sớm, căn nhà này là nơi ở hoa lệ nhất trong sơn cốc, cô đoan chắc Thành Bích phu nhân nếu nghỉ lại chắc sẽ đến đây, nhưng thật không ngờ đêm nay lại nghe được một điều mà cô không thể chấp nhận được thế này.
Tiểu Man vừa khóc vừa lui lại, bỗng nhiên quay mặt hét lớn điên cuồng lao đi, khi đến chân tường hất tay một cái,trong tay áo phóng ra vật gì đó, xoẹt một tiếng bám vào cành cây to bên ngoài bức tường, đoạn dùng sức kéo mạnh, thân người như chim bay mất dạng.
- Ai đó? Đứng lại!
Các binh lính canh gác bên ngoài thấy một bóng đen bay từ chỗ ở của Thành Bích phu nhân ra, vừa tiếp đất đã nhanh nhẹn lủi vào bóng tối, hô hoán đuổi theo.
Thành Bích phu nhân bước chân lảo đảo đi ra trước cửa, tựa vào thành cửa, tay xoa nhẹ dưới bụng, ngước nhìn vầng trăng chói lọi, thổn thức:
- Cô hận ta, ta phải hận ai? Nhát kiếm đó tuy không giết chết ta, nhưng đã giết mất đứa con chưa chào đời của ta, cô cho rằng ta muốn có mọi thứ như hôm nay ư? Ta chấp nhận từ bỏ tất cả, chỉ cần xóa đi cơn ác mộng từng trải qua nơi nhà họ Quý của cô thôi.
Thành Bích dứt lời, chợt quay mình vịn vào cửa, bờ vai run rẩy, nước mắt tuôn trào…
Nhốn nháo qua đi, khắp trong ngoài tăng cường phòng vệ, Thành Bích phu nhân đóng cửa lại, ánh trăng lại soi rọi khắp mặt đất, vẻ tĩnh lặng bao trùm sơn cốc. Trên một cây to trong vườn, Khánh Kỵ lách mình ra ngồi giữa một cành cây lớn, hắn bỏ cung nỏ sang một bên, đôi chân thòng xuống dưới nhánh cây, lắc lư nhè nhẹ.
Sương đêm làm ướt áo hắn, hồi lâu hồi lâu, hắn mới thở dài một tiếng…
Quý Tôn Tiểu Man lần này biến đi mất dạng không còn tin tức gì nữa, ngay cả hành lí cô ta để trong quán trọ Hạnh Viên cũng không quay lại lấy. Đám người Điêu Minh chờ thêm hai ngày không thấy tin gì, chỉ còn cách cúi đầu ủ rũ quay về Khúc Phụ phục mệnh.
Thành Bích phu nhân vì Quý Tôn Tiểu Man đến đây khơi gợi chuyện xưa ảnh hưởng tâm trạng, tâm trạng buồn bã đó mấy ngày sau mới qua đi. Con người không thể sống mãi thế được, phải hướng về tương lai mới có hy vọng.
Ngày tháng mùa hạ khó chịu rồi cũng trôi qua, gió thu hiu hắt lá vàng rơi, khắp nơi cây cối trơ trụi, Phi Hồ thành hùng vĩ hiên ngang chắn giữa sơn cốc hiểm trở, con đường lớn trước núi người ngựa tấp nập, đều là thương lái buôn muối từ phương Nam đi về phía Bắc, trong đó phần nhiều là các phân hiệu kinh doanh của Quý thị.
Dưới núi đã đào một con sông, nước hồ từ trên núi chảy xuống, dẫn trực tiếp vào con sông lớn phía Đông, con đường lớn hướng về nước Tề phương Bắc đã xây một cây cầu đá, như vậy dòng chảy thông thoáng ngay bến đỗ cũng tiết kiệm đi, muối ăn vận chuyển từ ngoài biển vào có thể trực tiếp đưa đến Phi Hồ thành, tích trữ ở đây, rồi đưa lên xe vận chuyển bán đến các nước phía Tây. Do quân đội của Tam hoàn trú đóng ở các thành quách xung quanh, Tam Hà lĩnh được bình yên trở lại, đã lâu không có động tĩnh gì. Gió thu mang đến một tin, bên nước Tề lại xảy ra vụ cướp lớn, cả ngàn tên cướp tấn công một thành nhỏ trong đêm, cướp đi nhiều tài sản nhiều cô gái.
Cường đạo ngang nhiên tấn công thành trì, thiên hạ ngày nay ngoài Triển Chích ra không ai đủ sức làm vậy, Khánh Kỵ và các tướng trấn giữ ở xung quanh thở phào nhẹ nhõm. Sự việc đã quá rõ ràng, Triển Chích thấy không kiếm chác được gì đã rời bỏ Tang Hà lĩnh, làm vụ lớn ở nơi khác rồi.
Tam hoàn để mặc cho Triển Chích làm giặc, ngồi nhìn khí thế của hắn lớn mạnh là có dụng ý của nó. Nước Lỗ không lấy vũ lực làm cơ sở, thường bị các nước xung quanh quấy nhiễu, nay có tên đại đạo Chiển Trích này, nhằm giữ nước an dân, các nước chư hầu khác không thể không điều động binh lính tinh nhuệ trấn giữ những nơi trù phú và các đường giao thông huyết mạch, việc làm phân tán binh lực thế này, Tam hoàn rất muốn xảy ra. Vì thế nghe tin Triển Chích đi cướp bóc ở nước Tề, Tam hoàn cũng ý thức được giữ khoảng cách với sào huyệt Tang Hà lĩnh của hắn, mặc cho hắn tồn tại, nhưng không cho hắn mở rộng địa bàn, đôi bên tạm thời cứ như đạt được thỏa thuận ngầm vậy.
Lúc này, bên trong Phi Hồ lĩnh tiếng thét vang trời, từng đội từng đội binh sĩ đang hăng say tập luyện, số binh sĩ đóng trong cốc khoảng ba ngàn người, đều xuất thân nghèo khó cơ thể cường tráng chịu khổ chịu cực được.
Khánh Kỵ chiêu binh mãi mã khắp nơi, lấy chiêu bài tuyển diêm đinh vận chuyển muối, đợi khi tuyển chọn được người ngựa, lại chọn ra những ai cường tráng trong lúc huấn luyện có thân phận trong sạch đưa ra sau núi, tiến hành tập luyện như luyện binh, đây chính là cơ sở xây dựng quân đội của hắn.
Muốn vận chuyển muối đi các nước, núi sông hiểm trở, đường sá xa xôi, trên đường kẻ cướp lại nhiều vô số kể, rất cần lực lượng vũ trang đi theo bảo vệ. Theo thường lệ, mỗi lần đưa muối đi các nước ít nhất là một trăm xe, phu xe chính và dự bị là hai trăm người, số vệ sĩ đi theo chí ít cũng ba trăm, do đó Khánh Kỵ tuyển lựa vài ngàn người ngựa không có gì lạ.
Mỗi đội quân sau khi huấn luyện xong được phái đi làm diêm đinh, rèn luyện thêm lúc đi đường, lại kiếm được tiền, chỗ trống đó lại được tuyển thêm người mới vào, vì thế Khánh Kỵ đã chiêu mộ được bao nhiêu binh mã, người ngoài khó đoán ra được. Số binh lính này mỗi ngày ngoài việc tập luyện ba lần ra, còn phải cày ruộng, hái trái cây, ngâm rượu, xẻ gỗ, săn bắn thú rừng lấy da đem bán, các hoạt động này một mặt giúp tăng cường thể chất, mặt khác tự cung tự cấp, tránh ăn không ngồi rồi đến lở cả núi. Tất cả những điều này Khánh Kỵ học theo Triển Chích, làm tốt công tác tự cung tự cấp.
Lúc bấy giờ việc huấn luyện quân đội thật ra không cần làm gì nhiều, những thứ cần họ nắm bắt không nhiều, chỉ cần biết nghe tiếng trống tiến lên nghe tiếng chiêng rút lui là được, hơn nữa lúc bấy giờ toàn dân đều là quân đội, các binh lính cường tráng vốn đã nắm rõ kiến thức cơ bản của việc tòng quân, chỉ cần huấn luyện thêm chút đỉnh là chiến đấu được.
Thế nhưng Khánh Kỵ huấn luyện có trọng tâm, chính là tấn công thành trì. Hồi đó thành trì là trung tâm văn hóa kinh tế chính trị của một nước, dân số tập trung đông đúc, địa thế hiểm yếu, khi hai nước giao tranh là nơi phải quyết giành lấy, hơn nữa nhà nông không có lương thực thừa, sản lượng hàng năm phần lớn phải nộp cho chủ nhân chuyển vào trong thành, trong thành chỉ cần có nguồn nước thì với số lương thực tích trữ có bị bao vây hai năm cũng không sao.
Phe tấn công ở bên ngoài không có thành trì che chắn, lại phải chịu cảnh vận chuyển lương thực từ nơi xa đến, đối phương lại có thể phản công bất cứ lúc nào, đánh tiêu hao hoặc bao vây dựa vào điều kiện kinh tế lúc bấy giờ là không thực tế. Sách cổ hay nói thành nào là nơi nhà binh buộc phải tranh giành, kì thực tòa thành đó xung quanh không có trường thành ngăn cách, tại sao phe tấn công dù không có sự chênh lệch lớn về lực lượng không thể bao vây hoặc đi đường vòng đi qua đánh mục tiêu khác? Nguyên nhân là ở chỗ đó.
Cơ Quang đã nắm quyền cai trị nước Ngô, Khánh Kỵ là phía dấy binh, trong tình hình lực lượng hai bên không cân xứng, hắn phải chủ động phát động công thành chiến, còn phải dùng chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh giành lấy thắng lợi, nếu không đối phương hoàn toàn có đủ thời gian điều động đại quân từ các nơi khác đến bao vây, cho nên các binh lính đều chủ yếu được huấn luyện tấn công chiếm thành. Các phương thức công thành, cách sử dụng dụng cụ công thành, Khánh Kỵ đã bỏ khá nhiều công sức vào đó.
Thành trì là kiến trúc độc lập, không chỉ có tường thành bao quanh và cổng thành kiên cố, mà cứ mỗi khoảng cách nhất định đều có xây dựng đài quan sát, bên ngoài tường thành lại có hào sâu và rãnh nước ngăn cách, có thể nói là phòng thủ nhiều tầng lớp, muốn tấn công vào không phải chuyện dễ, cần dùng đến rất nhiều dụng cụ công thành, chủ yếu là dụng cụ leo trèo, đào đất và các dụng cụ phá tường phá cửa thành.
Khánh Kỵ chủ yếu huấn luyện quân đội leo thang tấn công, đào địa đạo, các công cụ dùng đến có vân thê, lâu xa, xung mộc…(là thang dùng leo lên thành, chiếc xe chứa lính đưa lên cao, khúc gỗ bự dùng tông cửa thành)
Có những công cụ hồi đó còn chưa phát minh hoặc đã có nhưng còn thô sơ, Khánh Kỵ dựa vào kiến thức của mình hoàn thiện chúng. Do hắn từng phát minh ra các thứ như bàn chải đánh răng, đá mài, chảo đáy bằng nên trong mắt các binh lính, vị Dương Bân Dương đại quản sự này là một nhà thông thái giỏi việc chế tạo các thứ, nên cũng không có ai sinh nghi.
Còn về xe bắn đá, Khánh Kỵ cũng cho thợ làm một số, nhưng xe bắn đá thời đó một xe cần một hai trăm người thao tác, rất là phức tạp, tốc độ bắn đá lại chậm, Khánh Kỵ nhớ lại từng thấy xe bắn đá của Roma trên phim thao tác đơn giản, một bên đựng đá tảng to, dùng sức nặng đè ném một đầu thanh gỗ dài bắn ra xa, thao tác loại xe bắn đá này không cần quá mười mấy người, bèn kêu các thợ lại nói ra ý tưởng bảo họ cứ thế mà chế tạo.
Sau khi làm thử vài chiếc xe bắn đá, thực tế dùng thử phát hiện tuy tầm bắn xa hơn, sức sát thương tuy mạnh hơn xe bắn đá truyền thống, nhưng tốc độ bắn khá chậm, muốn đạt đến sức mạnh kinh hãi như trong phim ảnh, ít nhất cũng phải làm hơn trăm chiếc xe bắn đá như vậy bắn cùng lúc mới có hiệu quả đó. Mà làm ra vài trăm chiếc xe, dùng vài ngàn người đi thao tác, cần bao nhiêu thời gian đi chế tạo và sử dụng? Hơn nữa hiệu quả công thành cuối cùng cũng phải cần đến binh sĩ tiến lên đánh, do đó trong trận chiến rất ít dùng đến xe bắn đá, hiệu quả đe dọa của nó lớn hơn tác dụng sát thương nhiều lần.
Hồi đó các thành trì hùng vĩ lại hiểm trở vốn đã ít, phần lớn thành trì không được xây bằng gạch đá, dù là độ kiên cố hay qui mô hiểm trở đều không cao, phải phí sức chế tạo vài trăm xe bắn đá chi bằng tấn công nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giáp lá cà với quân địch. Nghĩ vậy Khánh Kỵ tạm thời giấu phát minh đó lại, bắt các binh lính mỗi ngày dùng đống gỗ chất cao như núi học chế tạo lắp ráp các công cụ công thành khác. Đánh trận nơi xa không thể mang theo dụng cụ cồng kềnh được, chỉ có thể đến nơi mới chặt cây chế tạo, chất lượng và độ quen thuộc của binh lính trong chế tạo công cụ công thành, có vai trò to lớn quyết định việc thành bại của trận chiến.
Về trang bị vũ khí cho binh sĩ, Khánh Kỵ từng nghĩ tới liên lạc Nhâm thị nước Ngô đã lâu không có tin tức gì, thu mua một số lượng binh khí tốt, dù sao hắn cũng đã sắp phát động cuộc chiến phục quốc lần hai. Luyện thành thạo mâu, thuẫn(mâu là giáo để đâm, thuẫn là khiên đỡ) của Ngô, trở thành một chiến sĩ ưu việt. Hơn nữa muốn chỉ huy tất cả binh sĩ phối hợp tác chiến cho tốt, số binh lính hắn chiêu dụ này không làm được trong thời gian ngắn, mà hắn cũng không có tướng tài để chỉ huy thống lĩnh họ. Muốn xây dựng một đội quân phối hợp chiến đấu nhuần nhuyễn, đối với hắn mà nói vừa không đủ thời gian vừa không đủ tiền dùng trang trải chi phí, có khiếm khuyết thì phải xem làm thế nào phát huy sở trường của mình thôi, Khánh Kỵ nghĩ ngay đến người Sở.
Người Sở có nỏ tốt, nỏ nước Sở là thứ vũ khí họ tự hào nhất. Nói đến nỏ, nó có nguồn gốc từ cung tên, lúc này đã có nỏ rồi, chỉ là mới đầu nỏ được dùng để săn bắn. Dùng nỏ trong chiến đấu, bắt nguồn từ Cầm thị nước Sở, Cầm thị đã cải tạo chiếc nỏ biến nó thành vũ khí sát thương cao thích hợp dùng trên chiến trường, vừa được phát minh ra đã trở thành binh khí quan trọng trang bị cho quân đội nước Sở.
Lúc Khánh Kỵ dẫn quân chiến đấu ở Sở, quân đội của hắn cũng đã nếm mùi đau khổ của chiếc nỏ này. Nỏ của Sở có các cách bắn “Tí trương”, “Quyết trương”, “Yêu trương” (thế bắn tựa nỏ vào cánh tay, tựa vào chân, tựa vào eo), trong đó thế bắn tựa chân là mạnh mẽ nhất, mũi tên bắn ra lao vút như mưa, trong vòng trăm bước xuyên thấu giáp trụ, đó là sức sát thương đáng sợ lắm rồi, tính ra tầm bắn đến bốn trăm mét, Khánh Kỵ là người từng trải đã hiểu được hiệu quả sát thương kinh hoàng của chiếc nỏ khi dùng hàng loạt trên chiến trường.
Nguyên nhân quan trọng nhất hắn thích chiếc nỏ là không những tầm bắn xa, sức sát thương mạnh, mà không cần mất nhiều thời gian tập luyện, chỉ cần ít kỉ xảo là thao tác được, cho dù là lính mới cũng trở thành cao thủ bắn nỏ trong thời gian ngắn. Một tên nông dân vừa vứt bỏ chiếc cuốc cầm nỏ lên, có khả năng bắn chết một võ sĩ mặc giáp khổ luyện võ nghệ cả đời, với người được ca tụng thiện chiến địch cả vạn người như hắn, nếu bị nỏ bắn một phát ngay mặt kết quả chắc cũng là lăn ra chết tươi, đó chính là nỗi nhục người dũng sĩ đứng trước khí tài quân sự.
Do vậy Khánh Kỵ sai người mang nhiều vàng đến nước Sở, hy vọng mua được một lượng nỏ lớn từ Cầm thị. Mấy tên thân tín đã nhận được mệnh lệnh, nếu phía Sở vì muốn giữ bí mật vũ khí không chịu bán, thì đi liên hệ hai vị công tử Yểm Dư, Chúc Dong, thông qua cách khác lấy bằng được nỏ Sở về, nếu không được nữa thì giết chết một tên lính Sở cướp lấy nỏ, hoặc bắt giữ một tên thợ biết làm nỏ đưa về.
Nếu đã dùng nỏ, tầm bắn hiệu quả và mật độ bắn dày đặc áp chế quân địch là yếu tố quan trọng. Do đó, Khánh Kỵ không tiếc tiền của chuẩn bị số lượng lớn gỗ cứng, tre nứa, sơn dầu, đồng xanh, sừng trâu, gân trâu, các thứ dùng để làm nỏ, thề sẽ trang bị nỏ cho mỗi quân sĩ một chiếc. Gỗ cứng và tre nứa đều phải chọn lựa kĩ càng, phơi khô đợi một năm sau dùng đến, sừng trâu có độ dài vừa phải, độ khoảng nửa mét, gân trâu thì lấy gân lưng, cũng phải thổi cho khô trước, rồi bọc lại bằng vải ướt dày dùng búa gỗ giã nó, sau cùng xé ra thành từng sợi ngâm vào nước chờ dùng đến.
Kế đến là “Phiêu”, đây là chất keo nấu ra từ cá, mấy chủ sản xuất muối bên biển Đông có xưởng tinh luyện loại keo này, đưa tin đi chỉ vài ngày là có một thuyền keo được đưa đến, keo này phơi khô xong cắt ra từng khúc cất trong rương, khi dùng pha nước là được.
Chuẩn bị những thứ này trước, một khi lấy được mẫu thì bắt tay vào làm ra nhiều chiếc nỏ phù hợp được rồi, số nguyên liệu này đều của Thành Bích phu nhân mua đến, Thành Bích phu nhân quả là thần thông quảng đại, số vật liệu đủ làm ra năm ngàn chiếc nỏ, thế mà có cách nhanh chóng thu gom đủ. Chỉ là số tiền thu mua nguyên liệu tính lên đầu Khánh Kỵ, hắn phải lấy thu nhập từ kinh doanh muối giữa hai nước Vệ, Lỗ ra mà trả.
Thành Bích phu nhân thân mật với hắn nhưng nói đến chuyện làm ăn thì một là một, hai là hai, tuyệt đối không nhượng bộ nửa bước. Khánh Kỵ biết Thành Bích phu nhân làm vậy không phải tiếc tiền, với gia đình giàu sụ như thế, chút tiền cỏn con ấy Thánh Bích phu nhân chẳng thèm để mắt.
Nàng ta làm vậy, có lẽ vì quan hệ giữa nàng và Khánh Kỵ. Nàng không muốn mối quan hệ ấy bị lợi ích vật chất xen vào, hơn nữa sau khi nàng bị Quý Tôn Tiểu Man chỉ trích mỉa mai, trong tiềm thức nàng không muốn lợi dụng gia sản Quý gia giúp đỡ cho Khánh Kỵ nữa. Khánh Kỵ hiểu đó là tác dụng tâm lí thôi, với lại Thành Bích phu nhân cho hắn lấy thu nhập buôn muối hai năm tới để chi trả, thực tế đã là giả đò giúp đỡ hắn rồi. Ân tình mỹ nhân ban phát, nên hắn cũng không đưa ra yêu cầu gì quá đáng.
Từ sau cái đêm Quý Tôn Tiểu Man bỏ đi, Thành Bích phu nhân càng phụ thuộc vào hắn, tình cảm hai người như keo dính chặt nhau, Thành Bích phu nhân dường như biết hắn sớm muộn cũng rời xa mình, với lại không tin hắn sau khi phục quốc sẽ đưa một cô gái sắp qua thời xuân sắc như mình đến Ngô lập làm phu nhân, nên nàng ta khao khát đòi hỏi, muốn nắm giữ từng ngày bên cạnh Khánh Kỵ, dùng thời gian mấy tháng ngắn ngủi, tận hưởng tình yêu theo đuổi cả một đời.
Mọi chuyện ở Phi Hồ cốc tiến triển thuận lợi, tất cả đều do Thành Bích phu nhân ra sức giúp đỡ, cũng chính vì được Thành Bích phu nhân tận lực giúp sức như vậy, mọi chuyện ở đây mới thuận lợi như thế, Khánh Kỵ mới yên tâm đi nước Vệ, Thành Bích thông minh lanh lợi, mỗi khi nghĩ đến nhân quả chắc cũng dày xéo trong tim lắm đây.
Ngày chia tay lên đường cuối cùng cũng đến.
Gió thu nổi lên, Khánh Kỵ thấy việc chiêu binh Phi Hồ thành tiến hành tốt đẹp, mà đối với Ngải thành nước Vệ, hắn chỉ còn lưu giữ thân phận Khánh Kỵ, đã lâu lắm rồi không về đó, hắn ngày càng mong nhớ tòa thành ấy, cuối cùng cũng đã đưa ra yêu cầu quay về nước Vệ với Thành Bích phu nhân.
Hôm nay là ngày cuối cùng hắn xem qua Phi Hồ thành trước lúc lên đường. Khánh Kỵ đứng trên đài chỉ huy, theo sau là võ sĩ nước Tề được hắn cứu Trần Trưởng Khanh. Thương tích của Tôn Vũ đã khá hơn nhiều, giờ tuy vẫn chống gậy nhưng đi lại đã không sao. Những ngày này Khánh Kỵ hay qua lại với hắn tại nhà Quý thị, vì biết hắn từng làm tướng lĩnh dẫn quân ở nước Tề, hai người nói chuyện hay đề cập đạo binh pháp, Tôn Vũ tuy không nói gì nhiều, cứ cố gắng giữ im lặng, nhưng về chuyện hành quân đánh trận, cứ lên tiếng là có ý kiến độc đáo, Khánh Kỵ càng sinh lòng muốn chiêu dụ.
Tôn Vũ đang bắt tay vào viết một cuốn binh thư, chỉ là còn rất nhiều lí luận còn phải chỉnh lí, suy nghĩ trong lòng còn chưa tìm được câu cú diễn đạt sao cho phù hợp. “Tôn tử binh pháp” dùng từ ngữ viết văn, người xưa lúc viết văn không những ngữ pháp tinh tế, từ ngữ cũng rất khác với cách nói thường ngày, thế nên Khánh Kỵ tuy nghe hắn nói nhiều kiến giải độc đáo về việc dụng binh, nhưng chưa một lần nghe được nguyên văn trong “Tôn tử binh pháp”, thật không dám tin người trước mặt đây chính là “Binh thánh”.
Con đường nhỏ hẻm núi bên phải, vừa có một nhóm lính chân cột bao cát chạy xuống, nằm lê lết khắp mặt đất. Khoảng đất trống bên phải có hai trăm tên lính đang tập bắn nỏ, lúc này chưa được trang bị tên, họ chỉ đang tập đội hình bắn nỏ thôi, dưới hiệu lệnh của đội trưởng, binh lính chia ra đứng thành ba hàng, hàng đầu tiên bắn, hàng thứ hai đặt tên, hàng thứ ba kéo cung, khi hàng đầu tiên bắn xong lui xuống thành hàng thứ ba, hàng thứ hai tiến lên thành hàng thứ nhất, hàng thứ ba thành hàng thứ hai, cứ thế hoán đổi liên tục.
Số binh lính tập bắn nỏ này mới tuyển vào chưa lâu, lúc chiêu mộ thấy họ vung gươm múa gậy nhìn oai lắm, lúc này trên tay chúng cầm thanh gỗ thay cho chiếc nỏ, thay đổi vị trí liên tục theo đội hình thì rối cả lên, không người này đụng vai người kia, thì là dẫm đạp lên nhau, làm nhốn nháo cả đội hình, may mà đội trưởng được huấn luyện qua như vậy rồi, biết khi mới bắt đầu sẽ như thế nên cũng không bực bội, tiếp tục lớn tiếng giải thích cho họ hiểu trình tự di chuyển đội hình.
Khánh Kỵ mỉm cười hướng về phía ấy, quay lại hỏi Trần Trưởng Khanh đứng sau lưng:
- Trưởng Khanh huynh, huynh thấy cách luyện binh của ta thế nào?
Tôn Vũ thi lễ xong nói thẳng không cần khách sáo:
-Thứ cho Trưởng Khanh nói thẳng, các hạ luyện binh, quả là có nhiều cái mới mẻ, nhưng theo ý Trưởng Khanh lại không có quy củ gì cả. Với lại xem nửa ngày trời, thấy các hạ luyện binh coi trọng “Thuật” (kĩ năng chiến đấu), không chú trọng “Pháp” (quân pháp), phải biết rằng Pháp là căn bản của Thuật, “Vô pháp bất thành quân”, dù cho huấn luyện binh sĩ hung hãn đến đâu, lúc lâm trận như túm cát rời rạt, chỉ dựa vào ý chí riêng lẻ, hễ gặp trở ngại lập tức tan rã.
Khánh Kỵ cười lớn:
-Trưởng Khanh huynh nói chuyện thật là ngay thẳng, thế xin hỏi Trưởng Khanh huynh cho rằng nên luyện binh thế nào mới đúng?
-Trưởng Khanh cho rằng, luyện binh quan trọng nhất là “Pháp”, kế đến mới là “Thuật”, chủ yếu phải tăng cường bốn điều. Một là tôn chỉ trị quân, lấy luật lệ đi đầu, đối với binh sĩ, trước tiên phải có quân luật rõ ràng để quản thúc; hai là lấy luật trị quân, kỉ luật nghiêm minh, thưởng phạt phân minh, không có quân kỉ nghiêm minh cho dù người đông thế mạnh cũng chắc chắn nắm phần thua, còn không thưởng phạt phân minh binh lính sao tuân theo mệnh lệnh? Những thứ này, đều phải cho mỗi quân sĩ ghi nhớ lấy trong lòng.
Thứ ba chính là chọn lựa tướng soái, quân đội mạnh hay yếu phụ thuộc tướng soái chỉ huy, biết tính toán điều động quân số, thắng thua thành bại tất cả đều do tướng soái quyết định. Thứ tư mới là huấn luyện binh lính, quân không tập luyện, trăm người không đánh lại một, quân tập luyện kĩ càng, một địch lại trăm người. Luyện binh cũng phải có phương pháp, một là huấn luyện nghiêm khắc, hai là luyện xong phải ứng dụng…
Có lẽ được không khí thao trường luyện võ ấy khơi gợi, hôm nay Tôn Vũ thao thao bất tuyệt, đem cách nhìn của hắn nói một hơi hết cả ra. Đợi khi hắn nói xong xuôi, do dự:
-Thật đáng chê cười, chỉ trong một lúc không nói hoàn chỉnh được, vả lại…đây chỉ là cách nhìn cá nhân của Trưởng Khanh, để cho các hạ tham khảo.
Khánh Kỵ than thở:
-Chỉ là kiến giải trong một lúc thôi đã khiến ta khâm phục sát đất rồi. Khó trách nước Tề trở thành một nước lớn phía Đông, binh cường mã tráng, thực lực hùng mạnh. Nếu các võ sĩ nước Tề đều mang bản lĩnh như Trưởng Khanh huynh đây, nước Tề sẽ mãi mãi là bá chủ thiên hạ rồi.
Tôn Vũ mỉm cười:
-Đất nước mạnh hay yếu, trên dưới có một lòng, quân thần có tài giỏi hay không, đó mới là cơ sở quyết định thắng thua. Bàn vào chi tiết, việc chọn lựa tướng lĩnh, huấn luyện binh sĩ, tình hình địa lí, thiên văn khí hậu…các điều kiện ảnh hưởng thắng thua nhiều vô số kể, không phải chỉ một người tướng tài là làm ngược ý trời được.
Khánh Kỵ đáp:
-Những thứ khác khoan hãy nói đến, tại hạ hiện đang thiếu tướng tài. Trưởng Khanh huynh, huynh có bằng lòng giúp ta một tay không?
Tôn Vũ chớp chớp mắt, muốn lên tiếng nói gì đó nhưng lại thôi.
Khánh Kỵ cảm thấy không vui:
-Ta và Trưởng Khanh huynh xưa nay luôn thành thật đối xử với nhau, huynh có lời gì xin cứ nói thẳng, nếu không muốn giúp sức ta cũng không miễn cưỡng, sao lại có điều chi khó nói chứ?
Tôn Vũ lên tiếng:
-Nếu đã vậy tại hạ xin nói thẳng, cái mạng Trưởng Khanh này là do các hạ cứu, quân tử biết đền ơn báo đáp, hơn nữa tại hạ giờ cũng không có chỗ nào để đi, được ở lại Phi Hồ thành cũng là chốn dung thân. Tuy nhiên nếu các hạ muốn chiêu nạp Trưởng Khanh, Trưởng Khanh có câu hỏi này, nếu các hạ trả lời, lúc đó mới quyết định tiếp.
-Cứ hỏi.
-Trưởng Khanh nếu ở lại, sẽ với thân phận gì?
Khánh Kỵ giật mình, ánh mắt Tôn Vũ nhìn hắn sắc bén, tiếp:
-Các hạ nếu là Dương quản sự, thứ cho Trưởng Khanh không giúp sức được; nếu các hạ không phải Dương quản sự, vậy Trưởng Khanh phải được biết mình phục vụ cho ai, vì lí do gì?
Khánh Kỵ gằn giọng:
-Trưởng Khanh, huynh đoán ra gì rồi?
Tôn Vũ nhìn hắn hồi lâu, khuôn mặt từ từ dịu lại, còn mang theo nụ cười nhẹ nhàng, thoải mái nói:
-Ta nhìn ra các hạ tuy ra vẻ tức giận, nhưng không có ý định giết ta.
Khánh Kỵ lại giật mình, Tôn Vũ mỉm cười:
-Các diêm đinh Thành Bích phu nhân huấn luyện, cho dù huấn luyện theo quân pháp cũng chỉ cần tập đội ngũ hành quân, cách hạ trại, cách phòng thủ. Thế mà các hạ lại huấn luyện chúng công thành đoạt đất, đánh chiếm doanh trại, đây…tuyệt đối không là số diêm đinh mà một thương muối giàu có bậc nhất muốn có.
Khánh Kỵ biến sắc:
-Trưởng Khanh huynh, huynh không cho là ta muốn làm phản chứ?
Tôn Vũ chớp mặt một cái, nói tiếp:
-Nếu là tạo phản, các hạ được Thành Bích phu nhân giúp đỡ, lại được Quý thị trợ giúp, Quý thị có quân đội của mình, nếu có lòng riêng, không cần thiết phải che giấu thế này, nếu bị người khác phát hiện lại hóa không hay, cứ huấn luyện binh sĩ trong doanh trại của mình thì có ai nghi ngờ họ có ý làm phản chứ? Đâu cần thiết xây thành vận chuyển muối để che giấu mục đích, làm chuyện dư thừa?
Khánh Kỵ hỏi ngược lại:
-Vậy…huynh cho rằng…ta là ai?
Tôn Vũ suy tư giây lát, giọng đều đều:
-Vốn cũng không thể đoán ra, nhưng thấy các hạ luyện binh trong sơn cốc như vậy, nhìn tuổi tác, nghe giọng nói của các hạ, lại nhớ mấy tháng trước sứ giả nước Ngô đến Lỗ nói về chuyện đuổi Khánh Kỵ đi…, không biết tại hạ đoán có đúng không?
Khánh Kỵ thay đổi sắc mặt, lát sau đột nhiên ngước mắt lên, dõng dạc:
-Không sai, ta chính là Khánh Kỵ nước Ngô, Trưởng Khanh huynh có bằng lòng ở lại giúp ta phục quốc không?
Tôn Vũ mỉm cười:
-Tại hạ đã đoán đúng như vậy, còn con đường khác để đi sao?
Tôn Vũ bước lùi ba bước, đặt gậy xuống, quỳ gối, hai tay đặt sát mặt đất, cúi chào đến khi trán chạm vào lòng bàn tay. Khánh Kỵ thấy vậy không khỏi vui mừng, cách hành lễ này chỉ có thể là con lạy cha, thần lạy vua, người lạy thần mới áp dụng.
Tôn Vũ hạ giọng:
-Trước mặt công tử Khánh Kỵ, Tôn Vũ xin được làm tiên phong của điện hạ.
Khánh Kỵ giật mình, không dám tin vào tai mình, thất thanh:
-Huynh nói gì?
Khánh Kỵ ngồi trên xe vui mừng khôn siết, quả là làm chuyện tốt nay được đền đáp, ai biết được cứu một người từ dưới sông lên, lại chính là Binh thánh Tôn Vũ chứ? Giờ hắn hãy còn trẻ, có lẽ chưa tài giỏi lắm, nhưng từ từ được rèn luyện qua chiến tranh, thành tựu sau này sẽ không ai sánh bằng. Lần quay về thời Xuân Thu này, Văn thánh Võ thánh đều được gặp, thật không uổng chuyến đi.
Vị Văn thánh Khổng Khâu phải mấy trăm năm sau được Hán Vũ Đế giúp đỡ mới tu thành chánh quả được danh hiệu Chí Thánh Chi Sư, so ra Khánh Kỵ lại thấy khâm phục Tôn Vũ này hơn, không phải vì Tôn Tử binh pháp giúp ích được nhiều cho hắn, mà là vì bản lĩnh quân sự của Tôn Vũ ứng dụng thực tế tốt hơn nhiều.
Nếu không vì Hán Vũ Đế muốn củng cố quyền lực độc tôn Nho giáo, mà cứ cho các trường phái khác tự do phát triển cạnh tranh, Nho giáo chưa chắc đứng được vào vị trí độc tôn, trước thời Hán Vũ Đế, nhà nho có địa vị cao và ảnh hưởng to lớn cỡ nào? Sau thời Hán Vũ Đế, Nho giáo mất bao nhiêu năm mới thực sự hòa nhập vào mọi tầng lớp trong cuộc sống? Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông, Tống Cao Tổ, thành tựu của họ và Nho giáo không tách rời nhau, cho đến sau này không học đạo Nho thì không thể làm quan, Nho giáo không muốn phát triển huy hoàng cũng không được.
Về chiến lược quân sự của Tôn Vũ, không có vị vua nào dùng quyền lực áp đặt các học thuyết khác để đưa nó lên vị trí độc tôn, mà nó được công nhận vị trí tối cao từ chiến tranh đổ máu. Được tướng tài như thế phò trợ, đại sự chắc chắn thành công, sao Khánh Kỵ không vui ra mặt được chứ?
Thế nhưng, Khánh Kỵ không mù quáng đem tất cả hy vọng phục quốc đặt lên một mình Tôn Vũ. Theo như Tôn Vũ nói, những yếu tố quyết định thắng thua trong trận chiến là rất nhiều, tướng tài chỉ là một trong số đó, trong lịch sử lúc Tôn Vũ được Phù Sai trọng dụng, đem sức mạnh toàn quốc đi đánh nước Sở cũng phải chuẩn bị kĩ lưỡng, đợi khi nước Tần xuất quân cứu Sở thì buộc phải rút quân, nói cho cùng sức mạnh mới là yếu tố quan trọng nhất quyết định thắng thua, nhưng giờ đây có được vị Binh thánh này, phần thắng sẽ chắc chắn hơn, lòng tin phục quốc của Khánh Kỵ cũng gia tăng không ít.
Thành Bích phu nhân ngồi bên cạnh Khánh Kỵ, thấy hắn không bận tâm đến mình, vẻ mặt háo hức muốn ra đi, trong lòng cảm thấy chua xót: “Tên vô lương tâm này, đêm qua còn lưu luyến trên giường với nhau, nói ngon nói ngọt không nỡ rời xa ta, giờ còn chưa đi, tim đã bay mất rồi.”
-Thành Bích…
Khánh Kỵ cảm nhận được ánh nhìn của Thành Bích, quay đầu lại, Thành Bích hơi ngước mặt, đang say đắm nhìn vào hắn, lộ vẻ oán giận lại ưu buồn, thêm chút lưu luyến không nỡ rời xa, đôi mi ngấn lệ, tình cảm sâu nặng len lỏi tận đáy lòng.
-Chàng đó, cuối cùng chịu quay đầu rồi sao?
Thành Bích không muốn hắn thấy mình rơi lệ, chớp chớp mắt xua đi nỗi buồn, môi khẽ mỉm cười quyến rũ.
-Nàng buồn gì chứ? Ta đâu phải là không trở về, không sớm đánh về nước Ngô, chẳng lẽ ngồi nhìn ta hao mòn chí lớn, còn nàng tiêu phí tuổi xuân ư?
Khánh Kỵ vuốt nhẹ lên đôi má mịn màng của Thành Bích, dịu dàng an ủi.
Thành Bích như con mèo ngoan, nũng nịu:
-Thành Bích nào dám đòi hỏi…, thôi không nói nữa, nam nhi chí tại bốn phương, đâu có người đàn bà nào giữ lại được.
Cuối cùng cũng không kiềm được hai hàng nước mặt tuôn dài trên mặt.
Khánh Kỵ cười:
-Nàng đó, một cô gái thông minh là vậy, nhưng nói thế nào cũng không chịu tin, thật không biết nàng nghĩ gì nữa. Yêu đương nam nữ là chuyện thường tình, chẳng lẽ muốn làm một đại anh hùng thâu tóm thiên hạ lại từ bỏ ham muốn tứ đại giai không sao? Khánh Kỵ không tin vô tình mới là hào kiệt, thương hoa tiếc ngọc, Khánh Kỵ không thể xem một cô gái si tình như đóa hoa dại vô tri bên đường được, nàng có hiểu không?
Thành Bích dựa vào lòng Khánh Kỵ, thổn thức:
-Thành Bích không mong gì hơn, chỉ mong lòng chàng như lòng thiếp…
Núi xanh mơn mởn, vẻ đẹp mông lung, Khánh Kỵ cúi đầu ngắm nhìn, Thành Bích trong vòng tay hắn hơi gầy đi, đôi mắt đượm buồn, nhưng vẻ quyến rũ của chiếc mũi cao cao, đôi má hồng hào, hàng mi cong vút, bờ môi chúm chím vẫn như ngày nào.
-Tiễn đến đây thôi, đợi ta trở về.
Khánh Kỵ vỗ nhè nhẹ, cái cuối cùng lại vỗ mạnh vào mông Thành Bích làm nàng ta hét lên khoái trá.
Thuyền của Khánh Kỵ từ từ đi xa, Thành Bích đứng trên ngọn đồi, dõi mắt trông theo, Khánh Kỵ quay đầu nhìn lại, thấy Thành Bích vẫn đứng trên đồi, tà áo phấp phơi trong ngọn gió, bên cạnh nàng chỉ là tia nắng hắt hiu.
Nhìn dáng vẻ Thành Bích phu nhân lưu luyến không rời trên lưng đồi, trong lòng Khánh Kỵ như bị đấm mạnh một phát, thần trí nhộn nhạo hồi lâu, đối với nữ nhân này, hắn quả thực vừa thương hại vừa yêu mến.
Chuyện của Thành Bích và Quý Tôn Tiểu Man đêm đó, Thành Bích đến nay không biết Khánh Kỵ đã ở gần đó. Khánh Kỵ lục soát toàn sơn cốc, biết được Quý Tôn Tiểu Man không rời khỏi phía cửa, đã nghi ngờ nàng ta vẫn còn trốn trong cốc. Rừng rậm xung quanh hắn cũng xem xét rồi, suốt mấy trăm năm qua trong rừng cây cối um tùm, dây leo bít lối, lại có nhiều rắn rít sâu bọ, thật khó để vượt qua, Quý Tôn Tiểu Man tuyệt đối không rời khỏi bằng đường đó được, khả năng lớn nhất là nàng ta trốn ở đâu đó.
Cho dù nàng ta trốn ở đâu mục tiêu cuối cùng cũng là Thành Bích phu nhân, cho nên đêm đó hắn cố tình kéo dài thời gian giữ Thành Bích ở lại trong cốc, sau đó bảo vệ gần đó. Hắn chưa từng hỏi Thành Bích chuyện đau lòng xưa kia, nhưng Thành Bích phu nhân tựa cửa khóc to, tự thổ lộ những lời ấy hắn đều nghe hết, điều làm hắn ngỡ ngàng chính là lúc đó hắn mới biết Quý Tôn Sanh không phải là con ruột của Thành Bích.
Ráp nối những lời Thành Bích lại, Khánh Kỵ đã đoán ra phần lớn câu chuyện, tuy không được rõ ràng chi tiết lắm, nhưng hắn đâu phải là viên quan xét xử vụ án gia đình Quý thị, biết xuyên suốt quá trình câu chuyện để làm gì, hắn không muốn chạm vào nỗi đau của Thành Bích phu nhân, do đó giả đò không biết gì cả.
Khi xưa Ngải phu nhân tranh giành với Thành Bích phu nhân, cuối cùng thất bại tự vẫn, người ngoài không ai được biết tường tận vụ việc, bao nhiêu năm qua lời đồn qua lại, đã khác xa với sự thật, toàn bộ chân tướng vụ việc giờ chỉ còn Thành Bích phu nhân và Trọng Lương Hoài biết mà thôi.
Lúc trước, Thành Bích phu nhân được Quý Tôn Tử Phi sủng ái, khiến Ngải phu nhân ghen tuông, đợi khi nàng mang thai, càng uy hiếp đến vị trí của Ngải phu nhân. Ngải phu nhân nảy ý định giết người, thừa dịp chồng theo quốc quân sang nước Tấn gặp vua Tấn, đã phái kiếm khách tâm phúc Viên Tố giết chết Thành Bích.
Không ngờ Viên Tố lúc xuất kiếm chợt động lòng trắc ẩn, nhát kiếm đó chỉ đâm vào sườn, không đâm vào tim Thành Bích, thấy Thành Bích nằm trong biển máu, Viên Tố không nhẫn tâm đâm tiếp nhát kiếm thứ hai, lúc này đã kinh động đến các vệ sĩ trong phủ, Viên Tố thở dài quay về phục mệnh với Ngải phu nhân.
Thế nhưng hắn không ngờ tới nhát kiếm đó tuy không lấy mạng Thành Bích nhưng lại giết chết đứa con trong bụng nàng. Thành Bích lúc bấy giờ ỷ thế được Quý Tôn Tử Phi sủng ái, lại thông minh cơ trí, đã nắm giữ phần lớn quyền lực trong Quý phủ, sau khi thọ thương lập tức trốn vào phạm vi thế lực của mình, từ đó thực hiện kế hoạch trả thù Ngải phu nhân.
Thành Bích hiểu rõ một đứa con, nhất là một đứa con trai có tác dụng quan trọng trong việc tranh giành vị thế với Ngải phu nhân sau này, do đó chuyện sảy thai Thành Bích không hề nhắc đến, chỉ nói với bên ngoài là thân mang trọng bệnh phải nghỉ ngơi, sau đó bí mật bảo quản sự Lương Trọng Hoài tìm một phụ nữ mang thai, đợi ngày sinh nở lấy đứa bé trai sơ sinh đó mạo nhận làm con do Thành Bích sinh.
Chiêu này quyết định ưu thế tranh giành quyền lực của Thành Bích với Ngải phu nhân, do Thành Bích có thế lực riêng, tránh gặp mặt Ngải phu nhân, nội tình trong chuyện này Ngải phu nhân lại không nắm rõ. Bà ta chỉ biết là Viên Tố thất thủ, chứ không biết là hắn không nỡ ra tay đã tha cho Thành Bích, càng không biết Thành Bích sảy thai, hơn nữa tuy Viên Tố có che mặt nhưng Thành Bích phu nhân nhìn dáng vẻ cử chỉ đã đoán ra lai lịch của hắn.
Ngải phu nhân tuy là vợ cả của Quý Tôn Tử Phi, nhưng tội danh tuyệt hậu là không thể nào gánh vác được, trước đây bà ta hay nổi máu ghen đã có không ít lời ra tiếng vào, Quý Tôn Tử Phi không có con trai, nếu để người khác biết bà ta muốn giết chết cô tì thiếp đang mang thai của chồng, lúc đó bà ta sẽ bị chồng bỏ, không thể có con đường thứ hai để đi được. Ngải phu nhân trong lúc hoang mang nên không dám tiếp tục manh động.
Thành Bích hồi đó còn nhỏ tuổi, gặp phải kiếp nạn lớn này, thân mang trọng thương vẫn cẩn thận bố trí không cho Ngải phu nhân thừa cơ hội, đã là đáng khen lắm rồi, điều không ngờ là nàng ta rất giỏi chịu đựng, khi Quý Tôn Tử Phi về nước tuyệt nhiên không nhắc tới chuyện này, chỉ là khi chồng đùa nghịch với con thì buộc phải đến nơi ở của nàng ta, Thành Bích không để con trai rời khỏi nơi ở của mình nửa bước, Quý Tôn Tử Phi nghĩ là nàng quá thương con nên cũng không nói gì.
Lúc con trai đầy tháng, Quý Tôn Ý Như qua phủ chúc mừng, Thành Bích lúc đó mới bảo người hầu lui ra, sau đó quỳ khóc trước mặt Quý Tôn Ý Như, kể lể chuyện mình bị hành thích trước mặt chồng và Ngải phu nhân, ôm con cầu xin Quý Tôn Ý Như đưa nó đi nuôi nấng, để giữ lấy giọt máu cho Tử Phi.
Chiêu này của Thành Bích phu nhân quả là ác độc, Quý Tôn Tử Phi muốn che giấu chuyện xấu mặt này cũng không được, nóng giận sôi sục, Quý Tôn Tử Phi tuốt kiếm định giết vợ ngay tại trận, lại được Quý Tôn Ý Như ngăn cản. Quý Tôn Ý Như vừa thay cha nhận chức đại tư đồ nước Lỗ, không muốn chuyện xấu của gia tộc đồn ra ngoài cho người khác chê cười, Ngải phu nhân không bị trừng phạt cũng không bị bỏ, nhưng từ đó bị đưa vào lãnh cung giam lỏng.
Ngải phu nhân đã cố gắng mấy lần nhưng Quý Tôn Tử Phi lòng như sắt đá, cứ nghĩ tới con trai ruột sém chút mất mạng vào tay ả đàn bà này, sao tha thứ cho bà ta được chứ? Trong lúc tuyệt vọng Ngải phu nhân đã treo cổ tự vẫn. Nói đúng ra, ân oán thị phi trong chuyện này khó mà phân xử rõ ràng được, Thành Bích phu nhân và Ngải phu nhân lúc đó như nước với lửa, buộc phải một mất một còn với nhau. Thành Bích không ra tay ác độc, sớm muộn gì cũng chết dưới tay Ngải phu nhân, ai đúng ai sai, bây giờ cũng không cần thiết phán xét nữa rồi.
Trải qua cuộc đấu đá sinh tử ấy, Thành Bích như chết đi sống lại, từ đó chán ngán chuyện trai gái, dù sau khi Quý Tôn Tử Phi qua đời, cũng chưa thấy xảy ra chuyện phong lưu, khắp đất trời bao la, có người đàn ông nào có thể trao thân gửi phận được đây? Như có ý trời cố ý sắp đặt, lại để nàng gặp được Khánh Kỵ, người đàn ông này mở ra cánh cửa đóng kín trong tim nàng, cướp đi thân thể nàng, trộm mất trái tim nàng.
Trong lòng Khánh Kỵ, đương nhiên thương hại Thành Bích nhiều hơn yêu, lúc hai người lần đầu gần gũi, Khánh Kỵ cũng từng sờ thấy vết sẹo dưới bụng nàng, chỉ là thời điểm lúc đó không tiện hỏi, với lại con gái coi trọng vẻ đẹp bản thân rất ghét nhắc đến tuổi tác và thiếu sót trên cơ thể của mình, Khánh Kỵ phong độ không hề hỏi đến. Mà dù cho có hỏi Thành Bích e cũng không kể chuyện đau lòng kia ra cho hắn nghe, thì ra vết sẹo đó lại có từ câu chuyện buồn này.
Lần này quay về nước Vệ, Thành Bích anh ách trong lòng Khánh Kỵ không thể không biết, chỉ là lựa lời an ủi quá nhiều chỉ càng khiến nàng lo lắng hơn, có những lúc nói một trăm câu ngon ngọt không bằng một hành động cụ thể. Muốn xua đi niềm hoài nghi của Thành Bích phải coi thái độ sau này của hắn thôi, trong thâm tâm Thánh Kỵ không hề có ý định phụ bạc người con gái khổ mệnh này.
Lần này Khánh Kỵ về Vệ theo đường thủy, đi dọc sông Tuấn lên phía Bắc, vào Tứ Thủy, qua Khúc phụ, vượt Lai Thủy, đi thêm một đoạn đường bộ, qua vùng đất hậu thế gọi là Lương Sơn Bạc, sang bên kia Hoàng Hà là đến nước Vệ, lúc đó sẽ đi xe ngựa đến Ngải thành hoặc đến kinh đô Triều Ca của nước Vệ.
Đi như vậy tuy là có hơi chậm, nhưng khỏi phải đi xe ngựa vất vả một đoạn đường dài, trạm gác phải đi qua ít, trèo đèo vượt núi không nhiều, so ra chưa chắc chậm hơn đi đường bộ đâu.
Thuyền Khánh Kỵ khi đi ngang có ghé qua Khúc Phụ, lần này đi phải đến thăm Tam hoàn. Quý Tôn Ý Như đang ở trong phủ, Khánh Kỵ thăm hỏi xong đến phủ Thúc Tôn Ngọc không gặp được ông ta, con trai Thúc Tôn Ngọc là Thúc Tôn Vũ mới về nước không lâu, Thúc Tôn Ngọc đem theo gia quyến về đất của mình rồi. Khánh Kỵ lại đến phủ Mạnh Tôn Tử Uyên lại không gặp, bèn đi tìm Dương Hổ.
Phủ Dương Hổ, Khánh Kỵ vẫn lấy thân phận Dương Bân cầu kiến, chỉ thấy Dương Hổ tươi cười hớn hở ra nghênh đón, cười đến nỗi không ngậm miệng lại được. Hai người hàn huyên một hồi, Khánh Kỵ nói rõ việc quay về nước Vệ, sau đó cười hỏi:
- Hổ huynh có chuyện vui gì thế?
Dương Hổ cười ha hả:
- Sung sướng quá, sung sướng quá, công tử chắc chưa được biết, hai tháng nay hai nhân sĩ nổi tiếng nước Lỗ ta Khổng Khâu và Thiếu Chánh Mão tranh luận với nhau, Khổng Khâu ba lần thua cả ba, rất nhiều đệ tử của hắn cũng chuyển qua làm môn hạ Thiếu Chánh Mão rồi, Khổng Khâu hãy còn chưa chịu phục, hôm nay lại tranh luận với Thiếu Chánh Mão ở Phong Nhã đài, ha ha, chắc lại thua mất mặt thêm lần nữa đây.
Khánh Kỵ giật mình, vội hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, Dương Hổ khoái chí liền kể hắn nghe. Thì ra Thiếu Chánh Mão là một vị đại phu nước Lỗ, hai nhân sĩ nổi tiếng này, Khổng Khâu giỏi về học vấn uyên thâm, Thiếu Chánh Mão giỏi về tài biện luận, hai người đều tài năng xuất chúng, kiến thức uyên bác. Vị Thiếu Chánh Mão này cũng thích giảng đạo, chỉ là Khổng Khâu chủ trương khôi phục Chu lễ, lấy đức trị nước, Thiếu Chánh Mão lại chủ trương đổi mới, lấy pháp cai trị. Lúc bấy giờ Khổng Khâu được giới quý tộc muốn duy trì chế độ nô lệ ủng hộ, Thiếu Chánh Mão lại ảnh hưởng nhiều đến tầng lớp bá tánh trung lưu. Nói đến tu dưỡng người quân tử, học thuyết Khổng Khâu lúc ấy rất hoàn thiện, nhưng về trị nước, Khổng Khâu muốn khôi phục Chu lễ, khôi phục sự cai trị của Chu thiên tử, không chấp nhận sự thật chế độ nô lệ sắp tan rã, Khổng Khâu lại không giỏi tranh luận, sao cãi lại Thiếu Chánh Mão được, do đó hai người tranh luận quan điểm với nhau, Khổng Khâu đã thua mấy lần, Dương Hổ thấy thế, đương nhiên hả hê trong lòng rồi:
- Khổng Khâu nổi tiếng ở nước Lỗ, cũng được xem như có quan có chức, lần này tranh luận thua to, hắn đâu còn mặt mũi nào nữa. Ha ha…
Dương Hổ mặt mày hớn hở, nói:
- Ây da, xin công tử đừng trách, Dương Hổ có một chuyện đại sự làm thay quốc vương, thế này vậy, chi bằng công tử ngày mai hãy lên đường, tối nay Dương Hổ bày tiệc thết đãi công tử ở Lỗ Quái Cư.
Hắn vuốt râu, nói tiếp:
- Lão Viên của Lỗ Quái Cư không biết học ở đâu mấy món mới lạ, cách nấu nướng khác xưa nhiều, lại nghiền đại mạch ra bột mì, vừa hấp vừa hâm gì đó, nhưng lại khá ngon miệng…
Nghe hắn nói thế, chẳng qua đó là mấy món màn thầu, mì sợi thôi, Khánh Kỵ suy nghĩ: Quý Tôn Tiểu Man nhất định đã quay về Lỗ Quái Cư, cách làm các món ăn đó chắc do nàng ta dạy cho đầu bếp.
Khánh Kỵ đứng dậy theo Dương Hổ, mỉm cười:
- Khánh Kỵ vội quay về nước Vệ, vốn không muốn nán lại lâu, nhưng Hổ huynh mở lời, Khánh Kỵ không dám chối từ, vậy tối nay chúng ta gặp nhau. Hổ huynh giờ phải đi làm việc cho quốc vương? Chẳng lẽ Hổ huynh đã…
Dương Hổ hí hửng:
- Còn chưa, Dương Hổ giờ vẫn tạm giữ chức Tư sĩ, chưa được sắc phong Đại phu.
Khánh Kỵ nghe vậy chúc mừng:
- Chúc mừng Hổ huynh, được chức này đủ để thấy huynh được vua Lỗ trọng dụng, chuyện sắc phong Đại phu chỉ là sớm muộn thôi.
Dương Hổ cười ha hả:
- Dương Hổ có được ngày hôm nay, cũng nhờ công tử Khánh Kỵ, đại ân không cần nhắc, Dương Hổ ghi nhớ trong lòng. Dương Hổ giờ phải thay mặt quốc vương cầu thân với Quý Tôn đại nhân, không tiện nán lâu, chúng ta tối nay gặp nhau ở Lỗ Quái Cư.
Khánh Kỵ ngạc nhiên:
- Cầu thân cho quốc vương ư?
Dương Hổ vừa đi vừa giải thích:
- Bệ hạ rất thích Quý Tôn Tiểu Man con gái của Quý Tôn Tử Phi đại phu, tiếc là vị cô nương này hình như không thích bệ hạ cho lắm, bệ hạ đã cho người đi tìm nàng ta mấy lần, cũng không có tin tức gì cả. Trong lúc bế tắc, chỉ còn cách trực tiếp cầu thân phía gia chủ Quý Tôn Ý Như đại nhân, nếu được Quý Tôn đại nhân chấp nhận, một cô nương bé nhỏ còn bay đi đâu được chứ.
Khánh Kỵ thầm nhủ: Cơ Tống là do Thúc Tôn Ngọc đưa lên ngôi báu, nay lại lấy con gái họ Quý Tôn, vô tình quan hệ gần gũi thêm với nhà Quý Tôn, hai nhà Thúc, Mạnh chắc chắn không được vui, nay cả hai nhà Thúc Tôn Ngọc và Mạnh Tôn Tử Uyên đều không ở Khúc Phụ, e là có ý làm cho hắn biết mặt đây. Hừ, cái tên Cơ Tống này, lại là một tên si tình thà yêu mỹ nhân dám từ bỏ giang sơn!
Hai người cùng rời khỏi phủ đệ Dương Hổ, Dương Hổ gọi xe ngựa đến, lại xin lỗi Khánh Kỵ thêm lần nữa, rồi mới vội đến Quý phủ. Khánh Kỵ leo lên xe, thấy giờ còn sớm chán, quay lại thuyền thì hơi xa, chợt nhớ đến Dương Hổ có nói hôm nay Khổng Khâu tranh luận với Thiếu Chánh Mão ở Phong Nhã đài, bèn hỏi người lái xe:
- Phong Nhã đài ở đâu, ngươi có biết không?
Tên lái xe khúm núm:
- Tiểu nhân biết ạ, đó là một đình đài trong Lê viên thành Đông, phong cảnh nơi đó rất đẹp.
Khánh Kỵ ra lệnh:
- Được, đưa ta đến đó dạo chơi.
Số hộ thành Đông không nhiều, phần lớn là nhà kho và nơi cúng tế, ngoài ra đều là vườn cây ruộng rau lớn. Lúc bấy giờ ruộng ở trong thành đều là nơi một số hộ quan lớn nhà giàu dùng trồng trọt hoa quả rau xanh tự cung cấp cho mình.
Xe ngựa dừng lại trước Lê viên, Khánh Kỵ xuống xe, men theo một con đường mòn nhỏ đi vào trong. Đó là một nơi tao nhã thanh ưu, trước có một hồ nước nhỏ, xung quanh nhiều cây lá vàng tươi, gió thu mát mẻ, lá cây xào xạc. Nước hồ trong xanh nhìn thấy đáy, dưới nước không thấy có cá tung tăng bơi lội. Xa xa là một bãi cát, trên bãi có ngôi đình, lúc này trong đình chải vài tấm chiếu, xung quanh ngồi rất nhiều sĩ tử.
Khánh Kỵ nắm nhẹ thanh kiếm đeo ở hông, lấy râu giả ra gắn dưới cằm, xong xuôi mới đi về phía bãi cát. Hôm nay đến xem Khổng Khâu tranh luận với Thiếu Chánh Mão, chỉ là hiếu kì thôi, cũng là để giết thời gian, vì sắp phải về Vệ, hành động của hắn cố gắng không để cho quá nhiều người biết.
Gió lay động mặt hồ, trên cành cây trái nặng trĩu, thoang thoảng hương thơm theo cơn gió. Trời xanh mây trắng, lòng người khoan khoái tươi vui. Bên bãi cát dừng đậu nhiều xe ngựa và phu xe, họ thấy Khánh Kỵ ăn mặc như một sĩ tử, tưởng là cũng đến đây nghe tranh luận, cũng không ai hỏi đến hắn, Khánh Kỵ lại gần ngôi đình. Trong đình đang tranh luận sôi nổi, không ai chú ý đến Khánh Kỵ bước vào.
Cảnh tượng tranh luận bên trong không như những gì Khánh Kỵ tưởng tượng, hai bên cãi nhau khá gay gắt. Nhìn vào cách ngồi lại cứ tưởng là rất tùy ý, trên bàn còn bày biện rượu, trà, trái cây, thức ăn vặt không thiếu. Các sĩ tử hoặc ngồi hoặc nằm, nhưng rất tập trung chú ý, rất có khí phách nghiên cứu học thuật, hoàn toàn không đến nỗi căng thẳng muốn tuốt kiếm ra chém giết lẫn nhau.
Nếu là hậu thế ai mà nói câu Nho giáo có thiếu sót, học thuật Nho giáo không bằng người ta, vậy thì cũng không cần tranh cãi nữa, sớm bị nho sĩ khắp thiên hạ đuổi đánh như chuột qua đường rồi. Kẻ thống trị sau đời Tây Hán xem trọng trọng tâm của học thuật Nho giáo là chữ “Trung” nên ra sức ủng hộ. Văn Khổng Khâu, võ Quan Vũ, cũng chính vì nguyên nhân này được đưa lên bục cao. Vì chính quyền càng thiếu cảm giác an tâm, cần thần dân phục tùng vô điều kiện càng cần tư tưởng học thuyết của họ, cho nên vào hai triều Nguyên, Thanh, chính quyền càng ra sức cổ vũ cho tư tưởng trung nghĩa của hai thánh nhân này. Mặc dù các chính quyền đều ngầm áp dụng cai trị theo Pháp gia, nhưng bề ngoài vẫn yêu cầu toàn dân tuân thủ quy tắc hành xử Nho giáo.
Đến giai đoạn đó, Khổng Tử không vĩ đại, hậu nhân cũng ca tụng cho vĩ đại, Nho giáo không phải là số một trong tất cả tư tưởng học thuật, hậu nhân cũng đưa nó lên làm số một. Người học khắp thiên hạ đều xuất thân Nho giáo, ai dám chê nửa câu không phải? Nhưng vào thời Xuân Thu, các tư tưởng mới mẻ mọc lên như nấm sau cơn mưa, không có học thuật nào giữ vị trí độc tôn tuyệt đối, đối với các nghiên cứu phát huy học thuật, quan phủ không ngăn cấm, những kẻ ủng hộ học thuật khác nhau cũng không đánh giết lẫn nhau, có chút tự do ngôn luận trong đó.
Khánh Kỵ bước vào đình, đưa mắt nhìn thấy Khổng Khâu, tuy ngồi trên chiếu nhưng vẫn cao hơn người khác cả cái đầu, nổi bật giữa đám đông. Khánh Kỵ đảo mắt khắp nơi, muốn tìm người ba lần cãi thắng Khổng Khâu, làm nhiều đệ tử của hắn chuyển qua môn hạ của mình Thiếu Chánh Mão, vì tất cả đều ngồi phân tán nên không biết ai là Thiếu Chánh Mão, đợi khi hai bên lên tiếng mới biết thì ra người ngồi đối diện Khổng Khâu, tay cầm quả lê chính là Thiếu Chánh Mão.
Thiếu Chánh Mão ngoài bốn mươi tuổi, thân hình cao ráo, mặc chiếc áo màu xanh đậm, búi tóc bằng cây trâm ngọc, sắc mặt thư thái ung dung, lại là một nam tử tuấn tú, nhìn hắn luôn tươi cười hớn hở cứ như cuộc tranh luận này khá thoải mái đối với hắn vậy. Khổng Khâu lại khác, tuy học thuyết của hắn lúc bấy giờ không áp đặt người khác nghe theo nhưng dù sao hắn và Thiếu Chánh Mão đều nổi tiếng ngang nhau ở nước Lỗ, nay ba lần tranh luận thua cả ba, lúc này sao lại không căng thẳng được? Cho nên quỳ bằng hai gối, đang tập trung tinh thần, đừng nói là Khánh Kỵ bước đi nhẹ nhàng, dù có gây tiếng động chắc hắn cũng không quan tâm chú ý đến đâu.
Hôm nay đã là cuộc tranh luận thứ tư của hai người, đối với quan điểm cai trị của đối phương đã hiểu thấu như lòng bàn tay, nên không cần diễn giải dông dài chủ trương quan điểm của đôi bên nữa, mà chỉ là tranh luận cụ thể về những quan điểm đối phương từng nhắc đến, nghe có hơi chút rối rắm.
Chỉ nghe Khổng Khâu gằn giọng:
-Cho nên, Khổng Khâu cho rằng, duy trì nhân nghĩa, dùng Chu lễ trị nước, trên dưới giữ đúng tôn ti trật tự, quân thần phụ tử có trước có sau. Thần kính vua như cha, vua yêu thần như con, nhân đức làm chính trị, là cách ổn định thiên hạ.
Thiếu Chánh Mão cười nói:
-Lời của Khổng đại phu, Mão đây cho là không đúng, nhân đức hiếu nghĩa Khổng đại phu nhắc đến, là cơ sở để tu dưỡng người quân tử, cái Khổng đại phu nhầm lẫn ở đây là đảo lộn quan hệ giữa Nhân đức và Chính trị. Đức chỉ nên là tu dưỡng của người cai trị, chứ không thể dựa vào đó duy trì chế độ được, cai trị mà chỉ dựa vào nhân đức tự luật, có dám đảm bảo người làm quan tất cả đều thanh liêm không? Lấy đức làm cơ sở như là xây tường bằng tre, chỉ phòng quân tử không phòng tiểu nhân mà thôi.
Khánh Kỵ nghe qua biết hai người tranh luận đã được một lúc, nhìn xung quanh thấy bên kia có một chiếc chiếu còn chỗ trống, bèn đi về phía đó, gật đầu chào người ngồi cạnh, mỉm cười:
-Xin hãy ngồi qua một chút.
Vị đại phu đó đang chăm chú nghe tranh luận, chỉ ngước mắt: Cứ tự nhiên! Rồi mặc kệ Khánh Kỵ, Khánh Kỵ cũng không khách sáo ngồi vào chỗ trống, quan sát hai người kia tiếp tục tranh luận.
Lúc này Khổng Khâu đã cãi lại xong, Thiếu Chánh Mão lại tiếp lời:
-Khổng đại phu nói quân tử có khắp thiên hạ, thế ư? Lấy tiêu chuẩn nào để đánh giá ? Thế nào là nhân nghĩa? Ai phân chia đại nghĩa tiểu nghĩa? Nếu chuyện gì cũng không màng lợi ích, mở miệng ra là nhân nghĩa, xin hỏi quyền đánh giá tiêu chuẩn nhân nghĩa do ai nắm? Là ngàn vạn lê dân sao? Nực cười!
Ngài nói hành động theo nghĩa, thế nào là nghĩa? Ngài bảo lấy đạo đi đầu, thế nào là đạo? Ngài nói thiên hạ công bằng, thế nào là công bằng? Chỉ với những lời mơ hồ này, thử hỏi dân đen sao thấu hiểu được? Cuối cùng chẳng phải người cầm quyền nói sao nghe vậy ư? Còn Pháp, ghi chép luật lệ rõ ràng, có tiêu chuẩn so sánh đánh giá, điều đó lại khác à.
Có Pháp để làm theo, cứ như mua hàng ngoài chợ vậy, biết rõ công dụng của nó, cũng biết giá tiền bao nhiêu, lê dân bá tánh đều hiểu rõ giá trị và công dụng của nó như đi mua sắm vậy, tự nhiên sẽ theo đó mà làm. Còn lấy đức, nghĩa làm căn cứ cai trị, như là món hàng chỉ nói rõ công dụng chứ không đưa ra giá bán, mặc cho người bán muốn kêu giá bao nhiêu cũng được, hiểu sao cũng đúng, xem có vẻ công bằng vô tư lắm, thật ra không bảo đảm cho lê dân chút nào cả, ngài chỉ cần nói mình làm vậy đã nhân nghĩa rồi là được. Điều đáng lo ở chỗ, ngoài chợ người bán hét giá cao, ngài có thể không mua, nhưng kẻ cầm quyền hét giá cao ban hành mệnh lệnh xuống, ngài không chịu cũng không được, vì người bán lúc này nắm quyền lớn sinh sát trong tay!
Những lời này của Thiếu Chánh Mão làm cho nhiều người gật gù đồng ý, các sĩ tử ngồi nghe phần lớn đều có chức vụ, tất nhiên hiểu chỉ dùng nhân đức để phân định thị phi, không bằng quản lí bằng pháp luật qui định rõ ràng chi tiết.
Khổng Khâu khẳng khái:
-Khắp đất trời không gì lớn hơn mặt trời mặt trăng, đạo làm người không gì lớn hơn nhân nghĩa. Đạo quân tử không chỉ tu thân còn dùng trị nước, người nhân đức yêu thương người khác, giữ gìn phép tắc trật tự, đạo thánh hiền đạo làm người tất cả đều nằm ở đấy, nếu giáo hóa dân chúng, để tất cả đều trở thành quân tử, quân coi thần như thủ túc, thần coi quân như phúc tâm, sợ gì đạo lớn không thành? Mà qui định bằng điều luật, luật lệ không nhân đức, sẽ biến thành quyền lực áp đặt, lúc đó quân thành bạo quân, thi hành bạo chính.
Thiếu Chánh Mão nhướn mày, lập tức đáp trả:
-Khổng đại phu nói quá sự thật rồi, nghe có vẻ hợp lí nhưng thực ra khó thi hành, theo như ngài nói chẳng lẽ không có tôn ti trên dưới? Con người sống trên đời vốn đã biết phân biệt đúng sai, không phải cứ theo như Chu lễ mới có nhân nghĩa, chẳng lẽ Tam hoàng ngũ đế không là bậc thánh hiền? Theo lời ngài chỉ nên dựa vào thánh hiền, thế ngài có cách gì dạy dỗ tất cả người trong thiên hạ đều thành bậc quân tử? Thế chẳng phải là tự dối mình dối người sao?
Mão cho rằng, cứ cho là xây dựng luật lệ trước theo hướng có lợi cho bản thân thì cũng thừa nhận hiện trạng thực tế, chứ không đặt hy vọng viển vông vào bậc thánh hiền xuất hiện. Mối lo bạo chính của Khổng đại phu không phải không có, luật pháp lúc đầu chắc chắn tổn hại lợi ích của nhóm yếu thế mà lợi cho người nắm quyền nhưng chắc chắn được điều chỉnh theo thời gian, nếu không sẽ không tồn tại được, pháp luật đúng đắn, phải phân chia lợi ích bình đẳng giữa các nhóm, như vậy sẽ lâu dài mà cũng được công bằng.
Học thuyết của họ ai cũng có lí lẽ riêng, các sĩ tử say sưa lắng nghe, còn Khánh Kỵ có kiến thức hiểu biết hai ngàn năm sau, tự biết học thuyết của họ ai cũng có cái hay cái dở, chế độ sau này hoàn hảo hơn nhiều so với những gì họ đề xướng. Khánh Kỵ đến đây không vì mục đích học hỏi, hắn đến đây một là để giết thời gian, hai là hiếu kì, nên cũng chẳng thèm bận tâm đi suy nghĩ nhiều làm gì.
Chỉ là trong thâm tâm hắn hướng về Thiếu Chánh Mão, theo cách nhìn của hắn, xã hội pháp trị mới là điều kiện cơ bản đảm bảo công bằng xã hội, sau này nói đến đạo đức suy đồi, hàng giả hàng kém, trộm cắp lừa đảo, những chuyện này xảy ra liên tục, cũng có người cho là vì không cổ vũ tư tưởng Nho giáo mà ra. Nhưng theo Khánh Kỵ đám người xấu thì thời đại nào mà chẳng có? Lúc trước tham quan vô lại hà hiếp dân lành có khác gì bọn gian thương lừa đảo sau này đâu? Bọn họ ai không là nhân sĩ Nho giáo đọc sách thánh hiền, miệng đầy nhân nghĩa chứ? Trung thần nghĩa sĩ, cứ như là tất cả đều là quân tử do Nho giáo dạy dỗ mà ra, còn đối với đám vô lại hại nước hại dân, lại không nói Nho giáo dạy dỗ thất bại?
Thiếu Chánh Mão hỏi rất đúng, Chu lễ bắt nguồn từ Chu công, trước thời Chu công chẳng lẽ không có quân tử hiền đức, không có trung thần nghĩa sĩ? Nhân nghĩa đạo đức không phải do Nho giáo sản sinh ra, Nho giáo chỉ đưa quan niệm đúng sai vốn đã tồn tại lên vị trí cao nhất, thậm chí biến nó thành cơ sở đảm bảo cai trị quốc gia mà thôi. Cho dù là các động vật bậc thấp đi nữa, cũng có quy tắc tồn tại sống theo bầy đàn của nó. Loài người trải qua thời kì hoang sơ ăn lông ở lổ đến hôm nay, nền văn minh xã hội không ngừng phát triển, quan niệm đúng sai thích hợp tồn tại trong xã hội loài người, lúc đó quy tắc hành xử cũng sẽ được sinh ra. Nói thế không phải không coi trọng nhân nghĩa Nho giáo, cũng không nên chỉ tôn sùng Nho giáo mới giáo hóa được tất cả con người, cái lợi trước mắt chắc chắn có người làm chuyện bất nghĩa, muốn dẹp bỏ hiện tượng này, chỉ nên dựa vào “Pháp” .
Mặc dù lí luận Pháp trị của Thiếu Chánh Mão còn khoảng cách lớn với Pháp trị hai ngàn năm sau, nhưng tư tưởng Pháp trị này đã là bước một tiến lớn trong cách cai trị xã hội, nếu để Khánh Kỵ làm trọng tài phán xét, hắn đã cho Thiếu Chánh Mão điểm cao rồi. Nhưng khi hắn lên ngôi vua thì hắn vẫn cứ độc tôn Nho giáo, dẹp các học thuyết khác đi, dù không đồng ý với đạo Nho, nhưng đạo Nho lại lợi cho việc thống trị của hắn. Nói như vậy người ta lựa chọn cũng vì cái lợi, liên quan gì đến nhân nghĩa chứ? Chỉ là cái lợi có lợi lớn lợi nhỏ, cái lợi trước mắt cái lợi lâu dài, thế nên người cầm quyền cho dù dựa vào pháp trị, nhưng vì mưu cầu cái lợi lớn lâu dài nên sẽ không thực thi bạo chính. Chuyện cá biệt thì có, nhưng trong số các vị vua tuyên dương nhân nghĩa Nho giáo, lại không là loại người như thế ư?
Khánh Kỵ thở dài ngao ngán, cảm thấy Khổng Khâu khó mà thuyết phục được người khác, hắn đưa mắt nhìn quanh, xem xét tướng mạo các sĩ tử ngồi nghe xung quanh, chợt thấy ngoài kia một người chạy vội đến, đến bên một sĩ tử thiếu niên ngồi bên kia ghé tai nói nhỏ mấy câu, vị sĩ tử đó lập tức đứng dậy.
Khánh Kỵ nhìn kĩ lại chợt giật mình, người đó tuy không trang điểm son phấn, là một thiếu niên khôi ngô mắt thanh mày tú. Nhưng Khánh Kỵ vừa nhìn đã nhận ra, người này chính là Quý Tôn Tiểu Man.
-Nàng ta làm gì ở đây?
Khánh Kỵ cảm thấy ngạc nhiên, chỉ thấy Quý Tôn Tiểu Man hỏi người đó vài câu, đột nhiên đứng lên kéo người kia qua phía cây cổ thụ tiếp tục hỏi chuyện, hai người một hỏi một trả lời, thần sắc bí hiểm.
-Khôi phục lễ chế, nói nhiều nhân nghĩa, thật là nực cười, nói một câu trung hiếu nhân nghĩa, làm sao quy định hành vi con người? Triều Hạ đến triều Thương, Thương xong đến Chu, ba triều đã qua đều có quân thần, nhưng có triều đại nào không phải là thần giết vua đoạt ngôi chứ? Phu tử nói đến đây sao không tiếp tục chứ?
Khổng Khâu đáp:
-Đó là vì cuối thời Thương, Hạ nội chính bất ổn, xa hoa lãng phí, đi ngược ý trời, làm khổ nhân dân, Thương Thang Chu Văn khởi binh hỏi tội, thế thiên hành đạo, đó là hành động thuận theo lòng dân.
Thiếu Chánh Mão cười mỉa:
-Nói cũng phải, đến bước đường đó còn nói trung hiếu nhân nghĩa quân thần phụ tử gì nữa làm chi, triều đại mới ra đời lại đem ra nói, có thể thấy là quân thần trung nghĩa chỉ xuất phát từ trong lòng, không có tiêu chuẩn nào cả, nếu dùng làm cơ sở trị nước, thế người đời ai nấy có cách nhìn riêng, ai cũng cho là mình có nhân nghĩa, chỉ cần tự cho là đúng là được. Đại đạo Triển Chích nói hắn có đạo nghĩa, rốt cuộc ai có đạo lí đây? Cuối cùng ai nắm lấy thiên hạ, thì nói người khác vô đạo, mình có đạo. Luật pháp rõ ràng, vi phạm khắc biết, ai cũng trông thấy. Chuyện nhân nghĩa đạo đức, thì có thể to nhỏ dài ngắn dày mỏng vuông tròn khác nhau, hoàn toàn không có định luật nào cả.
Thiếu Chánh Mão khéo tài hùng biện, lúc này đã bắt đầu công kích Khổng Khâu, nhưng Khánh Kỵ chả còn tâm trí nghe tiếp, hắn từ từ đứng dậy, tiếp cận về phía Quý Tôn Tiểu Man. Từ sau cái đêm Quý Tôn Tiểu Man bỏ đi, Khánh Kỵ đã tăng cường vệ sĩ bảo vệ Thành Bích phu nhân, tuy Tiểu Man thất vọng vì biết được sự thật về mẫu thân, có vẻ không gây bất lợi cho Thành Bích phu nhân nữa, Khánh Kỵ cũng không dám buông lơi cảnh giác.
Cuộc tranh luận giữa Khổng Khâu và Thiếu Chánh Mão ngày càng quyết liệt, lời qua tiếng lại đã bắt đầu nóng nảy.
-Đại đạo chi hành, thiên hạ vi công. Tuyển người hiền tài, trên dưới hòa thuận…Chu công lấy nhân đức trị thiên hạ, sao lại nói nhân đức không thể trị nước? Con người không tu dưỡng nhân đức, không trị nổi bản thân gia đình, sao trị nước được? Hình phạt nghiêm khắc không áp chế được lòng tham, người xấu nắm hình phạt trong tay càng không làm đất nước mạnh lên, ngược lại đẩy đất nước đến bờ vực suy vong?
-Trị nước không phải chỉ có mỗi một cách, thời Chu công đã qua bao lâu rồi? hồi đó có bao nhiêu thành trị, bao nhiêu dân để trị? Từ sau thời Chu công, trong vòng mấy trăm năm cách cai trị Chu lễ đã không dùng được nữa, Quản Trọng lấy Pháp trị nước, dân giàu nước mạnh, mới đưa nước Tề lên làm bá chủ thiên hạ. Tình thế hôm nay, ai mà trị nước theo nhân nghĩa nào?
Đất nước lâm nguy chiến loạn xảy ra nhân nghĩa của ngài nói cho ai nghe? Ngàn vạn dân chúng tan nhà nát cửa, không có cơm ăn áo mặc ngài đi nói chuyện nhân nghĩa? Ngài muốn chọn người hiền đức, lại bảo khôi phục Chu lễ, thử hỏi thời cuộc rối ren, làm sao chọn được đây?
Lại nói già thì phải chết, trẻ phải trưởng thành, phân chia mạnh yếu, nam nữ khác biệt là quy luật tự nhiên, ngài hoàn toàn không thừa nhận trên đời thiện ác cùng tồn tại, con người có giai cấp, đeo đuổi lợi ích vốn là bản tính con người, trong mắt ngài chỉ có một đạo lí duy nhất là nhân nghĩa của nho sĩ, rất tiếc đạo lí này lại là đạo lí không cách gì xác định, không có tiêu chuẩn, mơ hồ mông lung, rất tiếc đạo lí này đã không hợp thời, trước kia tốt nhưng nay thì không, người khác nghe vào thì thấy hay, nhưng không sao thực hiện được…
Lấy thí dụ ở nước Tề, tứ đại gia tộc Quốc, Cao, Bảo, Loan mà nói, gia chủ hiền đức thì đã sao? Không hiền đức thì thế nào? Ngài lấy đạo nghĩa quản thúc được hành vi của họ không? Chỉ có uy quyền luật pháp mới bắt họ giữ yên bổn phận, ngài không tin chuyện quỷ thần, lại xem trọng tục lệ của người đã mất.
Một mặt không tin quỷ thần, mặt khác lại xem trọng tế lễ, cứ như không có khách đến nhà mà phải tiếp khách, trong hồ không có cá mà cứ thả lưới, học thuyết nhà Nho dùng để tu thân còn được, dùng trị nước làm sao được? chỉ là khua môi múa mép ngông cuồng mà thôi. Nói mà không làm được, uổng danh trong thiên hạ, sao mà lập quốc cai trị đây? Ngài nói Pháp gia vong quốc, ha ha… Với hiểu biết của ngài, lập quốc còn không xong, lấy đâu ra mà vong quốc chứ…
Hai người tiếp tục cãi nhau hăng máu, Khánh Kỵ đã tiếp cận Quý Tôn Tiểu Man, quay người lại giả đò chăm chú xem Khổng Khâu và Thiếu Chánh Mão tranh luận, đồng thời dõng tai lắng nghe Quý Tôn Tiểu Man hỏi chuyện với người kia.
-Chuyện này có thật không?
-Dạ, Viên đại gia bảo tiểu nhân lập tức đi tìm tiểu thư, báo cho tiểu thư biết sớm chuyện này, tiểu thư muốn làm thế nào là tùy tiểu thư ạ.
-Hứ! Tìm gia chủ Quý thị ta ra mặt giùm, thật là bỉ ổi vô liêm sỉ, chúng ta đi!
Quý Tôn Tiểu Man nổi giận đùng đùng quay người bỏ đi, tên hầu kia vội vã theo sau, Khánh Kỵ cũng lập tức bám theo.
Sau lưng Thiếu Chánh Mão dần chiếm thế thượng phong, Khổng Khâu tức giận sôi gan mặt mày tím tái, đôi tay run rẩy, tài hùng biện của hắn không bằng Thiếu Chánh Mão, trong lời nói đã thua kém đối phương, hơn nữa học thuyết của hắn không phải lấy thí dụ từ xa xưa thì lại hoan tưởng thế giới hoàn mỹ tốt đẹp ở tương lai, còn các tiêu cực Thiếu Chánh Mão dẫn chứng đều là sự việc đang xảy ra hiện tại, cần áp dụng cách giải quyết hữu hiệu ngay tức thì.
Thiếu Chánh Mão tiếp tục công kích:
-Tính người có thiện ác, không pháp luật không chế ngự được, thế giới đại đồng của ngài chỉ xuất hiện thời xa xưa, thời đại thôn làng chỉ hơn trăm người tụ tập sinh sống, thời nay sao thực hiện được? sau này càng không thể thực hiện. Làm sao khiến một đất nước có trăm vạn dân trên dưới một lòng? Khổng đại phu, với hiểu biết quan điểm của ngài chỉ thích hợp sống vào thời xa xưa, làm trưởng lão một thôn làng hẻo lánh chỉ hơn trăm người sinh sống mà thôi!
Khánh Kỵ bám theo sau Quý Tôn Tiểu Man, dựa vào cây cối trong Lê viên che chắn, theo nàng ta ra khỏi Lê viên, Quý Tôn Tiểu Man nhảy lên một chiếc xe ngựa chờ sẵn bên ngoài, hậm hực:
-Đi, ta càng ngày càng ghét cái tên ấy, thật là vô lí, coi Quý Tôn Tiểu Man này là một món hàng mua đi bán lại sao chứ?
Khánh Kỵ nghe câu này ngớ người ra, chợt hiểu chuyện gì đang xảy ra, Quý Tôn Tiểu Man nổi giận chắc vì chuyện Cơ Tống cầu thân với Quý Tôn Ý Như, thế này thì không liên quan đến Thành Bích phu nhân rồi. Khánh Kỵ dừng bước, nhìn chiếc xe ngựa đi xa, vốn định trở vào coi kết quả tranh luận của Khổng Khâu và Thiếu Chánh Mão, nhưng lại nghĩ Khổng Khâu uổng mang trong người học vấn uyên thâm, lại không biết cách ăn nói, xem tình hình ban nãy chắc lại thua tiếp, thấy không có gì thú vị nữa, bèn lên xe rời khỏi.
Đêm đó, Khánh Kỵ đến Lỗ Quái Cư đúng giờ, do Lỗ Quái Cư có thêm nhiều món ăn mới lạ, nên khách khứa ra vào tấp nập, không tìm đâu ra chỗ ngồi. Khánh Kỵ chờ hồi lâu mới đợi được bàn trống trên lầu, bèn gọi hai đĩa đồ nhắm và một bình rượu, Khánh Kỵ ngồi sát góc tường, uống được nửa bình rượu, chợt nghe ngoài cửa ồn ào, tiếp đó có người lớn giọng thông báo:
-Tối nay toàn thành giới nghiêm, tất cả mau rời khỏi đây ai về nhà nấy, không được đi lại lung tung bên ngoài.
Tiếp đó hai hàng lính cầm giáo mác hùng dũng tiến vào quán rượu đuổi tất cả khách khứa ra ngoài. Khánh Kỵ ngẩng đầu lên, ngó thấy Dương Hổ đang tối sầm mặt đứng bên ngoài, sau lưng là bốn võ sĩ toàn thân giáp trụ đeo kiếm ngang lưng, chau mày: Dương Hổ này…giờ cũng ngang tàng quá, hắn đến uống rượu thôi mà phải đuổi hết tất cả khách khứa đi.
Thực khách lầu hai lầu ba đại đa số đều là sĩ tử đại phu có chức quan, đến quán thưởng thức các món ăn mới lạ, vốn ỷ vào chức quan chưa muốn đứng dậy. Một tên đội trưởng râu ria bước lên trên lầu trợn mắt hét lớn:
-Quốc vương có lệnh, Quý Tôn đại phu phụng mệnh phong tỏa thành trì, tối nay toàn thành giới nghiêm, các ngươi sao còn không đi khỏi đây.
Nghe thấy đó là lệnh của vua ban, Quý Tôn Ý Như chấp hành, các sĩ tử đại phu đó không dám chậm trễ nữa vội vàng kéo nhau ra ngoài, đám tiểu nhị cũng hoảng hốt đứng yên một chỗ không biết làm gì, chủ quán Viên Tố, đệ nhất kiếm khách nước Lỗ năm xưa đang đứng sau quầy, dùng miếng vải trắng lau chuì vò rượu cầm trên tay, thần sắc tự nhiên, không thèm ngước mặt lên.
Các binh lính xem xét một lượt thấy không còn một ai mới bước xuống lầu, chợt phát hiện góc tường còn có một người ngồi đó, tên đội trưởng râu ria chau mày hất tay, hai tên lính tiến về phía Khánh Kỵ.
-Các ngươi lui ra ngoài!
Dương Hổ đứng ngoài cửa ra lệnh, hắn đưa tay lên ngăn tên đội trưởng lên tiếng, bước về phía Khánh Kỵ. Tên đột trưởng hiểu chuyện, dẫn quân lui ra, trong quán bỗng chốc trở nên trống trải.
Dương Hổ đến bên Khánh Kỵ, kéo ghế ngồi xuống, Khánh Kỵ lấy ly rượu, rót đầy cho hắn, Dương Hổ tối sầm mặt nâng ly, uống một hơi cạn, rồi mới thở dài ngao ngán.
-Hổ huynh sao vậy?
Dương Hổ lại thở dài:
-Đêm nay định uống cùng công tử cho thỏa thích, tiếc là…Dương Hổ có việc công phải làm, không ngồi cùng công tử được rồi.
-Chuyện gì vậy?
Dương Hổ chua chát:
-Hôm nay Dương Hổ phụng mệnh đi gặp Quý Tôn đại nhân, cầu thân cho quốc vương. Đây là việc tốt, Quý Tôn đại nhân tất nhiên đồng ý rồi. Quý Tôn tiểu thư bình thường không ở trong phủ, lúc tiểu thư ở Khúc Phụ chỉ đến Lỗ Quái Cư này thăm chủ quán Viên Tố. Dương Hổ là gia nô nhà Quý thị, tuy nhận lệnh quốc vương, cũng là nhận lệnh Quý thị, hôn sự này được quyết định xong Dương Hổ nhận lệnh Quý Tôn đại nhân đến Lỗ Quái Cư báo tin vui cho tiểu thư biết, ai ngờ…
Khánh Kỵ nhớ lại tình hình hồi chiều ở Phong Nhã đài, đoán ra chắc là Quý Tôn Tiểu Man từ chối hôn sự này. Quý Tôn Tiểu Man vì cái chết của mẹ, bao nhiêu năm qua không qua lại với nhà Quý thị, nàng ta trước mặt Thành Bích phu nhân ra vẻ coi trọng gia tộc chẳng qua đó là thành quả của mẹ cực khổ gầy dựng bao năm. Tiểu Man không thích Cơ Tống, muốn cô gái tính khí ngang tàng này chịu sự áp đặt của Quý Tôn Ý Như, lấy lòng quân vương nước Lỗ, nàng ta nhất định không chịu khuất phục.
Khánh Kỵ vờ hỏi:
-Quý Tôn tiểu thư thế nào rồi?
Dương Hổ than thở:
-Quý Tôn tiểu thư nghe được tin lại xông vào hoàng cung gặp quốc vương, còn chửi cho quốc vương một trận, sau đó bỏ đi. Quý Tôn đại nhân biết được rất tức giận, sai người đến đây bắt tiểu thư về định trừng trị bằng gia pháp. Ai ngờ tiểu thư chống cự lại, người của Quý Tôn đại nhân phái đến không dám làm bị thương tiểu thư, để tiểu thư trốn mất. Quốc vương hiểu rõ tính khí tiểu thư, biết tiểu thư sẽ trốn khỏi Khúc Phụ nên lập tức lệnh cho Quý Tôn đại nhân phong tỏa thành trì, truy tìm tung tích của tiểu thư.
Khánh Kỵ vội hỏi:
-Nơi này đã lục xét rồi à?
Dương Hổ đáp:
-Tất nhiên rồi, không những lục xét mà ta còn phái người theo dõi nữa, cứ cho phép các thực khách tự do ra vào, chỉ hy vọng tiểu thư tưởng nơi này đã lục xét rồi quay về, chỉ là…Ây! Vẫn không thấy tiểu thư xuất hiện.
Khánh Kỵ lắc đầu:
-Bây giờ lục xét tiếp e là đã trễ, ai biết Quý Tôn tiểu thư đã rời khỏi thành chưa?
Dương Hổ quả quyết:
-Tuyệt đối là chưa, lúc đó đã qua hoàng hôn, khi hoàng hôn tất cả xe ngựa đều không được ra khỏi thành. Đêm xuống bên ngoài thành tối đen như mực, hoang vu lạnh lẽo, tiểu thư thân gái một mình tuy biết võ nghệ chắc cũng không dám ở một mình ngoài đó.
-Đúng vậy!
Khánh Kỵ vỗ trán đồng ý, đừng nói là thời đại này, cho dù là thời đại của hắn, cũng hiếm có cô gái nào dám một mình ở lại chốn hoang vu vào ban đêm.
Dương Hổ nói tiếp:
-Công tử xin thứ lỗi, Dương Hổ còn phải dẫn người…
-Không sao, việc của quốc vương quan trọng hơn, Hổ huynh cứ đi làm việc của mình.
Dương Hổ đề nghị:
-Hay là công tử đến phủ của ta nghỉ ngơi một đêm, ta bảo vài vũ nữ hầu hạ.
Khánh Kỵ đứng dậy mỉm cười nói:
-Không cần đâu, hôm nay đến Khúc Phụ, một là chào qua gia chủ Tam hoàn, hai là cáo từ với Hổ huynh. Khánh Kỵ rời khỏi nước Vệ đã lâu, nôn nóng quay về, đêm nay ngủ lại đây, sáng mai mới đánh xe ra thành tới bến tàu lại phải mất nửa ngày trời. Giờ đây đã gặp được Hổ huynh, cũng nên quay về thuyền thôi. Không giấu gì huynh, Khánh Kỵ đã nói quay về trong đêm, nếu đêm nay không quay về, người của ta sẽ lo lắng đó.
Dương Hổ do dự một lát rồi nói:
-Nếu đã vậy Dương Hổ không tiện giữ lâu, đợi khi công tử lại đến nước Lỗ, Dương Hổ lúc đó mới bày tiệc tiếp đãi chu đáo. Chúng ta uống cạn ba ly, Dương Hổ phái người đưa công tử ra thành.
-Được! Tiểu nhị, mang rượu ngon ra đây.
Vừa nãy Khánh Kỵ uống một mình chỉ là loại rượu thường, giờ mới gọi mang rượu ngon lên, hai người uống uống cạn ba ly xong cùng bước xuống lầu.
-Ai đó?
Hai người ra khỏi Lỗ Quái Cư, tên lính đứng ngoài cửa nghe có tiếng động, rút kiếm ra hét lớn đi về phía bóng tối. Trước quán rượu chỉ treo hai chiếc đèn lồng, ánh sáng heo hắt, chỗ bóng tối là nơi dừng xe ngựa, lúc nãy đám thực khách bị đuổi đi hết, lúc này chỉ còn lại chiếc xe ngựa của Khánh Kỵ dừng ở đó, nghe tên lính hét to, gã phu xe đang ngồi ngủ trên xe giật mình tỉnh giấc, hốt hoảng:
-Chuyện gì vậy? Chuyện gì vậy?
Một con chó kêu ẳng ẳng chạy ra từ bóng tối, tên lính mới ngỡ ngàng thu binh khí lại, Khánh Kỵ và Dương Hổ thấy vậy cười to.
Dương Hổ dừng bước, chắp tay nói:
-Công tử, bảo trọng.
Khánh Kỵ cũng chắp tay:
-Hẹn ngày gặp lại.
Hai người hành lễ xong, Khánh Kỵ quay người bước lên xe ngựa.
Lúc này khắp Khúc Phụ đã được canh phòng nghiêm ngặt, các cửa thành đều đóng chặt, xe cửa của Khánh Kỵ chạy đến cửa thành phía Bắc, do có vệ sĩ Dương Hổ phái theo dẫn đường, lính canh vội mở toang cổng thành cung kính tiễn hắn ra ngoài.
Bầu trời tối mịt, xe không dám chạy nhanh, lúc về đến tàu đã quá nửa đêm. Bến sông dừng không ít tàu thuyền, nhìn từ xa như là những con mãnh thú lớn nhỏ, nhấp nhô theo con nước, ở đó chiếc lâu thuyền to lớn nhất và một chiếc thuyền nhỏ cách đó không xa là có ánh sáng hắt ra, chiếc thuyền lớn chính là thuyền của Khánh Kỵ.
Xe chạy đến cạnh thuyền, tên lái xe hét lớn, các thân binh và thuyền phu trên thuyền còn chưa ngủ nghe gọi vội thắp đèn lồng chạy ra mạn thuyền, đưa tấm ván lên bờ làm chiếc cầu nối cho Khánh Kỵ bước qua.
Khánh Kỵ bước xuống xe, dặn dò:
- Đẩy xe lên đó, nhớ cho ngựa ăn no.
Nói xong nhảy phốc lên thuyền, phía sau tên lái xe lấy roi quất vào mông ngựa, mấy tên gia tướng và thuyền phu cùng hợp sức đẩy xe lên thuyền.
Khánh Kỵ về phòng mình, tắm rửa qua loa, cởi áo ngoài ra nằm ngủ trên giường. Thân tàu lắc lư, không thể ngủ được, Khánh Kỵ nghỉ ngợi mông lung, lúc nghĩ đến nước Ngô, lúc nhớ đến Phi Hồ cốc, lúc lại nhớ Ngải thành nước Vệ, trong lòng cứ như con sóng nhấp nhô bên ngoài.
Chính vào lúc này hắn nghe thấy tiếng nhạc du dương từ đâu vọng lại, tiếng nhạc có sức cuốn hút linh hồn, được tiếng sóng vỗ phụ họa như khóc lóc ca thán như bày tỏ nỗi niềm.
Tiếng nhạc thê lương vô cùng, được cất lên trong đêm thu thanh vắng thế này càng buồn bã hơn. Bao nhiêu ý nghĩ, bao nhiêu ưu tư, bao nhiêu nỗi cực, bao nhiêu bế tắc, dường như đều chất chứa trong tiếng nhạc ấy.
Khánh Kỵ ngồi bật dậy, lẳng lặng đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài, hướng về phía phát ra tiếng nhạc, tiếng nhạc này vọng ra từ chiếc thuyền nhỏ còn sáng đèn kia, khúc nhạc cổ xưa lanh lảnh trong đêm vắng. Khánh Kỵ lắng nghe một hồi, hơi thở nhè nhẹ, suy tư của hắn được hòa cùng cảnh đêm tĩnh mịch…
Hắn nhìn vào dòng nước lặng lờ trôi, dãy núi đen như mực phía trước, lại chưa để ý thấy bóng người dưới cửa sổ, một thân hình nhỏ nhắn mặc áo xanh đang ẩn náu ở đó, chính là Quý Tôn Tiểu Man.
Hôm nay nghe nói Quý Tôn Ý Như đồng ý hôn sự của Cơ Tống, Quý Tôn Tiểu Man trong lúc tức giận xông vào cung la lối trước mặt Cơ Tống, nhưng sau khi chửi rủa xong cảm thấy không thể thay đổi ý định của Quý Tôn Ý Như, bèn nảy ra ý định bỏ trốn khỏi Khúc Phụ. Không ngờ Quý Tôn Ý Như lại phong tỏa khắp thành, Quý Tôn Tiểu Man không còn cách nào đành trốn tạm trong mật đạo Lỗ Quái Cư.
Vì năm xưa Ngải phu nhân tự vẫn, Viên Tố tự thấy có lỗi với chủ nhân, do đó từ bỏ chức vị kiếm khách ở nhà Quý thị, trở thành ông chủ quán rượu trong thành Phúc Phụ này, hắn ở lại không bỏ đi nơi khác chính là vì bảo vệ cho cô con gái Tiểu Man của phu nhân. Thành Bích phu nhân vì biết hắn chỉ làm theo mệnh lệnh, lại thương hại không giết chết mình nên xưa nay không truy cứu hắn, nhưng Viên Tố vẫn không dám không cẩn thận, với lại hắn nhận trách nhiệm lo cho an nguy của Tiểu Man, nên bề ngoài Lỗ Quái Cư là một quán rượu, bên trong lại có mật đạo phòng lúc cần lẩn trốn.
Những mật đạo cơ quan này Quý Tôn Tiểu Man rất quen thuộc, lúc nhỏ chơi trốn tìm với Viên thúc thúc đã quen lối mật đạo này rồi, vì thế lẩn trốn vào đó đám người Dương Hổ không phát hiện ra. Quý Tôn Tiểu Man cũng biết ban đêm không cách gì ra khỏi thành được, nhưng nhìn vẻ mặt nôn nóng của Quý Tôn Ý Như và Cơ Tống, sợ khi trời sáng càng khó trốn đi hơn, chính vào lúc không biết làm sao thì Dương Hổ đến gặp mặt Khánh Kỵ .
Tiểu Man đang trốn không nhìn thấy mặt Khánh Kỵ, nhưng lại nghe tiếng hai người nói chuyện, nghe Dương Hổ nói phái người đưa công tử gì đó ra khỏi thành lên thuyền, bèn tận dụng cơ hội tốt này, len lén rời khỏi mật đạo ra ngoài. Trước cửa chỉ đang đậu một cỗ xe ngựa, chắc của vị công tử ấy, thế là Tiểu Man trốn trên nóc xe, nhờ thế đã ra khỏi thành trốn ở trên thuyền.
Thân binh của Khánh Kỵ đẩy xe lên thuyền cho ngựa ăn xong rời khỏi, nàng ta cũng nhảy xuống xe tìm chỗ ẩn náu, định sáng mai khi thuyền rời khỏi Khúc Phụ sẽ tìm cách rời thuyền đi nơi khác. Không ngờ vừa lủi tới dưới cửa sổ phòng Khánh Kỵ thì hắn mở cửa sổ ra. Tiểu Man chỉ còn cách núp ở đó không dám động đậy, trong lòng tức tối: Tên khốn này sao khuya vậy rồi còn chưa chịu đi ngủ, đứng ở đó làm gì không biết.
Tiếng nhạc lại vang lên, khơi dậy biết bao nỗi niềm trong lòng Khánh Kỵ. Hắn nhớ về sinh nhật kiếp trước, người thân trong một thời đại khác của hắn, cái tuổi thơ hồn nhiên vô tư ấy, nhớ về mẹ với ánh mắt dịu dàng và mái tóc điểm bạc, được sống bên người thân thật hạnh phúc biết bao…
Khánh Kỵ nhớ về nhiều kỉ niệm, vui có, buồn có, ngọt ngào, đau thương, tiếng nhạc ấy lúc to lúc nhỏ hòa cùng dòng suy nghĩ của Khánh Kỵ, trong một lúc nước mắt đã lăn dài trên má…
Quý Tôn Tiểu Man núp dưới cửa sổ, chợt cảm thấy mặt mình lành lạnh, thì ra có vài giọt nước mắt rơi xuống, Quý Tôn Tiểu Man ngước mặt lên, thấy bầu trời lấp lánh ánh sao.
Tách, lại một giọt nước mắt rơi xuống, rơi ngay môi Quý Tôn Tiểu Man, cảm thấy mằn mặn nơi đầu lưỡi, Tiểu Man mới biết người đứng bên cửa sổ đang khóc.
Quý Tôn Tiểu Man nuốt phải giọt nước mắt của đàn ông, trong lòng tức tối: Tên vô dụng này, nam nhi chảy máu chứ không chảy nước mắt, ngươi có uẩn khúc gì mà phải khóc chứ? Ngươi khóc kệ ngươi nhưng lại rơi nước mắt vào mặt ta, nếu không phải ta đang trốn đã đánh ngươi một trận cho ngươi khóc thoải mái.
Quý Tôn Tiểu Man chửi rủa trong lòng, nhưng lại không dám động đậy. Phía trên Khánh Kỵ thở dài:
- Đã qua rồi, tất cả đều đã là quá khứ, nghĩ tới có ích gì? Giờ đây ta phải sống cho tương lai, nếu người thân bạn bè trước đây của ta có biết ta rơi vào cảnh ngộ này, chắc cũng hy vọng ta sống hạnh phúc vui vẻ, chứ không phải khóc lóc nhớ về họ…
Những gì đã qua cứ thế qua đi, cứ như dòng nước chảy dưới sông vậy, không bao giờ chảy ngược trở lại. Vui thì nhớ lấy, buồn thì phải quên đi, bỏ lại quá khứ, sống cho hiện tại, hướng về ngày mai, Khánh Kỵ ta…mới không uổng phí chuyến đi này!
Khánh Kỵ nói xong, đưa tay đóng cửa sổ lại.
Quý Tôn Tiểu Man núp ở phía dưới, nghe hắn nói vậy giật mình. Khánh Kỵ, người này chính là công tử Khánh Kỵ của nước Ngô. Lúc bấy giờ nhiều cô gái ngưỡng mộ anh hùng, Quý Tôn Tiểu Man không mù quáng như họ nhưng Khánh Kỵ nước Ngô là đại anh hùng trong số ít người được nàng khâm phục, hôm nay thật không ngờ lại có dịp trốn trong xe, giờ lại đi chung thuyền với công tử Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ…, sứ giả nước Ngô đến Khúc Phụ gây áp lực, ba tên gia chủ Tam hoàn vô tích sự ấy chẳng phải khiếp sợ nước Ngô, đã đuổi hắn ra khỏi nước Lỗ rồi sao? Thế mà giờ đây hắn vẫn ở tại nước Lỗ, lại cùng với Dương Hổ…
Quý Tôn Tiểu Man chớp mắt, dường như hiểu ra chút gì đó.
Cửa sổ được đóng lại, trong phòng không còn động tĩnh gì nữa, chắc Khánh Kỵ đã đi ngủ. Quý Tôn Tiểu Man vẫn không động đậy, một lúc sau, nàng ta mới từ từ đưa mặt ra khỏi bóng tối, để ánh trăng soi rọi lên khuôn mặt, nhẹ nhàng nằm xuống.
Sóng nước lăn tăn, tiếng nhạc buồn tẻ, thân tàu nhấp nhô, trong tĩnh có động. Quý Tôn Tiểu Man nằm trên con sóng, nhìn vào ánh trăng nhạt nhẽo trên trời, nghĩ về những chuyện chua xót trước đây, ngẫm lấy những lời của Khánh Kỵ lúc nãy. Hồi lâu, mắt nàng ngấn lệ.
Trời sáng, Khánh Kỵ thức dậy, ăn sáng xong bước lên mũi tàu, ánh nắng chói chang, làm tinh thần phấn chấn hẳn ra.
Bầu trời trong xanh, không một áng mây, gió thổi nhè nhẹ, Khánh Kỵ quay đầu mỉm cười nói:
- Thời tiết hôm nay thật tốt, ngay cả ông trời cũng giúp chúng ta, lên đường sớm thôi.
Thuyền phu nhe răng cười đáp:
- Công tử nói phải, tiểu nhân khởi hành ngay đây ạ.
Con thuyền lớn từ từ rời bến, mái chèo rẽ sóng, từ từ đi vào giữa sông, Khánh Kỵ bước về phía trước, vịn lấy mạn thuyền nhìn xa xăm. Hai bên bờ các túp lều xanh ẩn hiện, ở giữa là con sông lớn sóng nước cuồn cuộn này, những cơn sóng mạnh đập vào thân tàu, bọt nước trắng phau như tuyết, lòng người cuốn theo con sóng.
- Nước Lỗ, cuối cùng cũng rời khỏi.
- Lần này về nướcVệ, chỉnh đốn binh mã, tháng ba năm tới, lại đánh nước Ngô.
Khánh Kỵ đấm mạnh một phát vào mạn tàu, máu nóng sôi sục như mặt trời ló dạng, ý chí ngất trời.
- Có đội quân nước Lỗ này, có nhà quân sự như Tôn Vũ, sang năm ta nắm chắc phần thắng. Lần này về nước Vệ, ta phải tăng cường sức mạnh của quân đội Ngải thành, còn phải liên hệ với nước Sở, nếu cần…cứ tiếp xúc luôn với nước Việt, tất cả thế lực chống lại Hạp Lư, nếu dùng được đều tận dụng tối đa, phải đảm bảo thắng lợi của trận chiến này, nếu thua nữa, ta e là không có cơ hội nữa rồi.
Khánh Kỵ suy ngẫm: Đội quân nước Lỗ, là chuẩn bị dùng gây bức ngờ, lực lượng chủ lực vẫn cần dựa vào nước Vệ, dù sao quân đội nước Vệ mới là đạo quân thiện chiến, kinh nghiệm tác chiến phong phú, so về điểm mạnh này, đạo quân Phi Hồ cốc còn kém xa, dù cho có bậc kì tài như Tôn Vũ, cũng không thể thay da đổi thịt cho đám lính mới chiêu mộ trong thời gian ngắn được.
Hơn nữa, nước Vệ binh hùng tướng mạnh, khí thế càng lớn càng thu hút sự chú ý của quân Ngô, thế mới tạo điều kiện thuận lợi cho đạo quân nước Lỗ này thật sự phát huy tính bất ngờ được. Muốn được như vậy, ta phải tiếp tục nâng cao sức mạnh của nước Vệ.
Nhưng làm như vậy, buộc phải thu nạp thêm nhiều người nhập ngũ, tích trữ thêm lương thực, vũ khí vật dụng. Trên lãnh thổ nước Vệ, một đội quân nước ngoài phát triển thế này cần được nước Vệ cho phép, hơn nữa viện trợ từ nước Vệ không những không được đứt đoạn, mà còn phải nghĩ cách tranh thủ thêm.
Nghĩ đến những vấn đề này, Khánh Kỵ nhủ thầm: Nói không chừng, sau khi về Ngải thành, ta phải đến cung vua một chuyến gặp vua Vệ, xin ngài đồng ý, vua Vệ…
Nhớ đến Vệ Linh Công lưu danh hậu thế vì chuyện chia đào năm xưa này, Khánh Kỵ khẽ nhíu mày, con người Vệ Linh Công rộng rãi độ lượng, thích chiêu dụ anh hùng nhân sĩ, để dành được ủng hộ từ ông ta vốn rất dễ dàng. Nhưng lần trước nghe được tin, hiện nay quyền lực điền hành nước Vệ phần lớn đều nằm trong tay Vệ phu nhân Nam Tử. Sau này muốn nước Vệ giúp đỡ, e là buộc phải giao thiệp với vị Vệ phu nhân này thôi.
Nhưng hắn quả thật không hiểu nhiều về vị mỹ nhân nước Tống Nam Tử này, ngoài việc cô gái này sắc nước hương trời, là một mỹ nhân hiếm gặp ra. Hơn nữa sử sách ghi chép, cô Nam Tử này tính tình lẳng lơ, còn về năng lực chính trị của vị Nam Tử phu nhân này thì hắn biết quá ít. Nước Vệ vốn là chư hầu hoàng tộc thời Tây Chu phong tặng. Khi lập quốc đã là công tước, địa vị tối cao, suốt thời gian dài là lãnh tụ các chư hầu, thay mặt Chu thiên tử cai trị thiên hạ. Đến giờ tuy nước Vệ vẫn giữ lề lối xưa cũ, không chịu cải cách, vận nước ngày một suy tàn, nhưng vẫn là một trong mười hai nước lớn trong thiên hạ, do đó mới có thể viện trợ nhiều cho hắn được, cũng không ngại mối đe dọa của nước Ngô.
Hai nước Vệ và Tống càng có mối quan hệ sâu sắc. Năm xưa sau khi Cơ Phát diệt nhà Thương, dân Thương không chịu sự cai quản của nhà Chu, từng phát động bạo loạn lớn, Chu Công Đán khởi binh đông chinh, dẹp yên phản loạn, chia toàn bộ dân Thương làm hai. Một là “Ân Thương thất tộc”, được ở tại cố đô Triều Ca nay đã hoang tàn, lấy quốc hiệu là “Vệ”, kinh đô vẫn ở Triều Ca. Hai là các hậu duệ hoàng tộc Ân Thương, bị tách ra riêng lẻ, trở thành nước Tống, do hoàng tộc Ân Thương làm vua, đấy là hai phần của Ân Thương.
Kinh đô nước Vệ chính là Triều Ca, trung tâm chính trị kinh tế văn hóa của nhà Thương, nhưng lúc bấy giờ do Bắc Định xâm chiếm đã dời đô Bộc Dương, cũng là nơi người ta gọi là Đế Khâu. Vệ và Tống đều là nước của di dân Ân Thương, giữa hai nước có quan hệ khắng khít, qua lại hai nước luôn mật thiết, tình cảm nhân dân hai nước cũng không mấy khác biệt, cho nên công chúa nước Tống Nam Tử sau khi được gả đến nước Vệ có thể nắm quyền lớn trong thời gian ngắn là vậy.
Ngoài thủ đoạn chính trị cao siêu của cô ta ra, thân phận của cô ta nhanh chóng được dân nước Vệ chấp nhận, được xem như người nhà, đó mới là nguyên nhân chính.
Hắn muốn phát triển tại nước Vệ, lúc trước được vua Vệ cho phép là xong, giờ đây nước Vệ có thêm một nữ chủ nhân nắm quyền lớn trong tay, mong là cô ta không gây khó cho mình thì tốt. Khó khăn lắm mới lôi kéo được nước Lỗ, sắp đặt phục binh sát bên nước Ngô, nếu lại gây ra chuyện ở nước Vệ vào lúc này, nhỡ mất kế hoạch phản công Ngô, há chẳng thành trò cười ư.
Khánh Kỵ đang tính toán, chợt nghe một khúc nhạc vọng lại, bèn ngẩng đầu lên. Phía bên phải tám mái chèo của chiếc thuyền nhỏ lướt nhanh, đã đuổi kịp thuyền lớn của hắn.
Để Khánh Kỵ được thoải mái, Thành Bích phu nhân đã kiếm cho hắn một lâu thuyền, thân tàu lớn, không chỉ có thủy thủ tay chèo, còn có cả các tay kéo dây những khúc sông hiểm trở. Chiếc thuyền lớn như vậy, không thể chỉ chở mình hắn, nên chở theo nhiều muối ăn, là món hàng đầu tiên vận chuyển sang nước Vệ, do đó trên thuyền có cả võ sĩ tháp tùng. Có chủ thuyền, thuyền phu, thợ kéo dây, diêm đinh phụ trách vận chuyển muối, quản sự, khá là đông đúc.
Lúc bấy giờ dù là đi xe đường bộ hay là đi thuyền đường thủy, những nhóm đi nhỏ lẻ khi gặp đoàn lớn đều sẽ cố gắng bám theo, như vậy khi xảy ra chuyện dễ giúp đỡ lẫn nhau. Chiếc thuyền nhỏ kia thấy thuyền lớn khí thế đông đúc này đương nhiên là bám theo, do đó vừa bắt kịp, thuyền nhỏ lập tức đi chậm lại.
Hai chiếc thuyền đi song song nhau, khoảng cách khá gần, Khánh Kỵ nhìn thấy trên mũi thuyền nhỏ một vị công tử khôi ngô đang ngồi đó, dáng vẻ cao quý, tuy là đang ngồi, nhưng cũng thấy được thân hình cao ốm, dưới ánh nắng, chiếc áo bào thêu hoa mai màu nhạt của hắn tô thêm phong thái ung dung tao nhã. Khúc nhạc vừa dứt, Khánh Kỵ khen hay, nói vọng qua:
- Các hạ thổi huân hay lắm. (Huân là một loại nhạc cụ)
Vị công tử kia nghe thấy lời khen, quay đầu lại mỉm cười. Khánh Kỵ bất chợt nghi ngờ: Người này…chẳng lẽ là một cô gái sao?
Khánh Kỵ nhìn rất rõ tướng mạo người ấy, tuy là cải nam trang, nhưng đôi mày mang vẻ đẹp mềm mại, mũi như hạt ngọc, môi như cánh hoa anh đào, mắt đen lóng lánh. Hắn hai tay cầm sáo, lúc này buông nhẹ xuống đặt lên áo, vạt áo tay áo trắng như tuyết, da mặt và cổ mềm mại nõn nà, lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời, dưới gầm trời này sao lại có nam tử hán như thế được?
- Haha, chỉ là chút tài mọn, đa tạ các hạ đã khen, tại hạ đi thuyền nhỏ, muốn cùng các hạ đồng hành, mong các hạ đừng chê trách.
Người kia đứng dậy hành lễ, giọng nói lại là giọng nam nhân.
Khánh Kỵ cười đáp:
- Không sao, đều là bạn đường cả, đúng ra phải giúp đỡ lẫn nhau.
Người kia cười khẽ, để lộ hàm răng trắng như tuyết, chắp tay nói:
- Còn chưa thỉnh giáo cao danh quý tánh của các hạ.
Khánh Kỵ hơi chút do dự, không tiện nói ra tên thật, nhủ thầm: Ta là Khánh Kỵ công tử nước Ngô, hay là lấy tên nước làm họ, đặt lấy một cái tên vậy. Dù sao cũng là người đi chung đường thôi, bèn lên tiếng:
- Tại hạ Ngô Kỵ, không biết các hạ đây là…
Người kia chớp mắt, mỉm cười:
- Tại hạ Tống Triều.
Khánh Kỵ cách thuyền bắt chuyện vài câu với vị tự xưng là Tống Triều kia, ngôn từ qua lại rất hợp ý, bỗng chốc nảy sinh hảo cảm, liền nói:
- Ta và các hạ tương phùng ở đây, là chuyện hiếm gặp, ta muốn mời các hạ qua thuyền bên này nói chuyện, ha hả, hơi chút mạo muội, Tống huynh có đồng ý không?
Tống Triều hơi hơi do dự một chút, một đôi mắt quyến rũ như nữ nhân nhìn kĩ vào hai mắt Khánh Kỵ, ý đề phòng dần biến mất, liền vui vẻ gật đầu nói:
- Đương nhiên là được, Triều cũng đang muốn kết giao với các hạ.
Khánh Kỵ mừng rỡ, liền cho người dùng móc câu làm một cái cầu gỗ giữa hai thuyền, lại sai thủy thủ nắm giữ hai bên đầu cái cầu gỗ tạm, tự tay đưa một cây trúc qua bên đó, Tống Triều nắm cây trúc, cẩn thận từ chiếc thuyền nhỏ tiến tới, tới đầu thuyền thì thả người nhảy xuống, nhẹ nhàng hạ xuống đất, vỗ vỗ bụi bặm trên tay, hai người cùng nhìn nhau cười.
Thuyền xuôi dòng nước, vốn là rất nhàm chán, có người tâm sự cho đỡ buồn cũng tốt. Huống chi Khánh Kỵ bây giờ không chỉ muốn chiêu binh mãi mã, mà còn có tâm muốn chiêu hiền nạp sĩ. Hắn mới vừa rồi cách thuyền nhìn thấy Tống Triều, đương nhiên là nổi lên nghi ngờ với thân phận của người này.
Tống Triều này, vô luận là cách ăn mặc, cử chỉ thần thái, đều có một loại phong vận ung dung tự tại, hiển nhiên chính là một nhân vật đã quen ngồi ở vị trí cao, nhưng có điều nếu là nhân vật có thân phận như vậy, sao lại ngồi một chiếc thuyền nhỏ, bên người chỉ mang theo vài võ sĩ, còn nhờ cậy thuyền lớn của người khác để bảo đảm an toàn dọc đường, vậy thì lại có chút đáng ngờ. Nếu hắn là một vị sứ giả mang theo sứ mệnh bí mật của một thế lực chính trị phương nào đó, như thế thì phải lo mà che giấu hành tung chứ, lại còn ngồi ở đầu thuyền thổi sáo, rồi lại kết giao với mình?
Thiên hạ hiện giờ đang lộn xộn, giới chính trị các quốc gia đang sa sút, không ngừng có những người vì tranh đấu chính trị mà ngã ngựa, cũng có rất nhiều nhân tài trí sĩ trở thành cá trong chậu chịu tai ương, tỷ như Tôn Vũ Tề quốc chính là như vậy, nói không chừng vị Tống Triều này cũng là một vị hào kiệt một phương tranh đấu bị thất bại, nếu như vậy, có lẽ có thể thu nhận hắn, chắc chắn có chỗ dùng.
Khánh Kỵ vốn không tin vào mấy điều huyền diệu. Có điều từ khi chính hắn chết đi sống lại mới có ngày hôm nay, thì có không tin cũng phải tin. Trên đời này có biết bao sự tình mà với học thức hiện đại của hắn cũng không sao giải thích được. Đứng ở thế kỉ 21 quay đầu nhìn lại lịch sử, năm trăm năm trước, có ai tin rằng địa cầu là hình tròn sao? Ba trăm năm trước người Trung Quốc tin rằng ở bên ngoài Trung Quốc sẽ là thiên địa rộng lớn vậy sao? Hai trăm năm trước thế nhân tin rằng con người có thể một ngày nào đó bay lượn trên không trung sao? Một trăm năm trước, nhân loại có thể bước chân lên vũ trụ hay sao?
Khánh Kỵ trước kia đã từng đọc qua sách nói về học thuyết Ngũ luân (Ngũ luân là năm thứ bực đối đãi theo đạo thường của con người đối với xã hội và gia đình) và Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ nhưng vẫn chưa hiểu rõ hết, tới bây giờ hắn lại thấy có chút hứng thú. Không phải sao? Khi hắn chết đi sống lại, chính là ở trên Trường Giang; xoay chuyển cục diện bất lợi, do đó thúc đẩy được Lỗ quốc thay đổi thái độ, bí mật đạt thành đồng minh với hắn, là ở bên bờ hồ Lịch Ba; đạt được vị danh tướng đương thời Tôn Vũ, là ở bên bờ sông Tuấn. Nếu bảo là mình không hẹn mà hợp với Thủy, thì có vẻ không thông cho lắm, chí ít thì cũng dựa vào Thủy mà hưng thịnh, hiện giờ ở trên mặt nước nhìn thấy Tống Triều, Khánh Kỵ không khỏi có chút hy vọng.
Quý Tôn Tiểu Man xen lẫn trong đám người, nghe thấy Khánh Kỵ tự xưng là Ngô Kỵ, không khỏi bĩu môi, trong lòng thầm mắng: "Kẻ lừa đảo! Đây là kẻ đại lừa đảo! Ở Phí thành hắn tên là Dương Bân, tới nơi này lại thành Ngô Kỵ".
Quý Tôn Tiểu Man giấu đầu hở đuôi, không dám gặp người sáng sớm nay lén lẻn vào trong bếp ăn vụng bị người ta phát hiện ra, may là nàng thông minh lại gan lớn, dám sửa ăn vụng thành lấy đồ ăn, cứ ngông nghênh mà ăn. Bởi vì những người trên thuyền phân biệt bởi nhiệm vụ vận chuyển muối, người kéo thuyền, võ sĩ, lái thuyền thuộc những nhánh khác nhau, đầu bếp kia cũng không biết thiếu niên tuấn tú này là ai, cho nên mới bị nàng lừa gạt.
Quý Tôn Tiểu Man sau khi phát hiện ra những người trên thuyền chịu những sự quản lí khác nhau thì cũng không quen thuộc nhau cho lắm, cho nên cứ ngang nhiên đứng ở trên thuyền, cho tới tận lúc này cũng không ai phát hiện ra. Nàng xen lẫn trong đám người, đã sớm thấy rõ bộ dáng của Khánh Kỵ, một khắc đó nàng thực sự chấn động. Tới tận lúc này nàng mới biết Khánh Kỵ hóa ra chính là Dương Bân, Dương quản sự kia lại chính là do Khánh Kỵ hóa thân thành.
Khánh Kỵ vốn là một nhân vật anh hùng mà nàng ngưỡng mộ, Dương Bân là một tiện nô nhưng lại lớn mật phạm thượng, tư thông với gia chủ, thân phận của hai người trong lòng nàng đột nhiên lại trùng lên nhau, bởi vì quan hệ với Thành Bích, sự sùng bái ái mộ trong lòng Tiểu Man đối với hắn ngay lập tức bị cảm giác khinh bỉ áp đảo. Đã biết rõ thân phận của hắn đặc thù, không thể không có điều gì che dấu, nhưng vẫn không tránh khỏi thầm oán trách một hồi.
Khánh Kỵ mời Tống Triều cùng vào khoang thuyền an vị bắt chuyện, người trên thuyền ngoại trừ người chèo thuyền và thủy thủ là bận rộn, những người khác cũng không có việc gì, có người quay về khoang thuyền nghỉ ngơi, có người vịn mạn thuyền ngắm phong cảnh, có những người thường xuyên đi thuyền không có hứng thú với phong cảnh hai bên bờ sông thì tụ lại một chỗ nói chuyện phiếm, ở đầu thuyền có mấy người đang khoanh chân mà ngồi, thoải mái đánh bạc.
Quý Tôn Tiểu Man lẻn tới đuôi thuyền đứng, nhẹ nhàng hít vào một hơi, thầm nghĩ rằng: "Lại phải lừa dối, chỉ cần tới bến tàu ở thành trấn tiếp theo, ta sẽ vụng trộm lên bờ chuồn đi. Ai, hiện giờ đắc tội với gia chủ, Cơ Tống tên hỗn đản lại cứ bám riết không rời, ta muốn công khai lộ diện ở Lỗ quốc cũng khó khăn, nên đi về nơi đâu, cứ theo thuyền này tới Vệ quốc sao? Nhưng địa phương đó ta chưa từng đi qua, nhân sinh không quen thuộc..."
Nàng sờ nắn vàng bạc trân châu mấy vật quý giá giấu ở bên hông, trong lòng an tâm hơn một chút, lại nghĩ: "Khánh Kỵ, hóa ra người mà Thành Bích thích cũng không phải là Quý Thị gia nô, mà là... Ngô quốc công tử, hắn là anh hùng đương thời, thân phận cao quý, đương nhiên sẽ không làm việc của bọn đạo chích, mưu đồ tài sản Quý Thị ta. Nói như vậy thì, hắn qua lại với Thành Bích, thực là như lời của Thành Bích, chỉ vì lưỡng tình tương duyệt?"
Nghĩ đến đây, trong lòng Quý Tôn Tiểu Man có chút tư vị không thoải mái. Trong thâm tâm nàng, đúng là không muốn thừa nhận giữa Khánh Kỵ và Thành Bích có cái loại tình yêu nam nữ gì, đại anh hùng mà mình ngưỡng mộ, đương nhiên không muốn hắn có quan hệ gì với người mà mình căm hận nhất. Chỉ là khi nghĩ tới sự xinh đẹp của Thành Bích, ngay cả nữ tử nhìn thấy cũng bị quyến rũ tới động lòng, việc này hình như là đương nhiên. Nếu hắn hiện giờ còn đang ở Ngô quốc làm công tử, ỷ hồng ôi thúy, bên người không biết có biết bao nhiêu nữ tử, hiện giờ đang sa sút ở Lỗ quốc, thông đồng cùng với Thành Bích thì có gì ngạc nhiên. Ở trong con mắt của Quý Tôn Tiểu Man, trong số những đại nhân vật, có người nào mà không thê thiếp thành đàn? Chỉ có điều...
"Nhất định là con hồ li tinh kia thấy Khánh Kỵ tuổi trẻ anh tuấn, cho nên mới thông đồng với hắn!" Quý Tôn Tiểu Man nhìn núi xanh nước biếc trên bờ, căm hận nói.
Đầu thuyền, bên trong khoang thuyền, Khánh Kỵ ngồi đối diện bắt chuyện với Tống Triều. Khánh Kỵ cười nói:
- Hóa ra Tống huynh cũng đi Lê viên Phong Nhã đài nghe thuyết giảng? Tại hạ ở đó, nhưng không chú ý tới công tử cũng đứng ở đó, không biết Tống huynh đối với chính luận (bàn luận chính trị) của Khổng Khâu và Thiếu Chánh Mão có ý kiến gì không, ngài khen ngợi luận điểm của ai?
Tống Triều khẽ cười nói:
- Tại hạ đối với ngôn luận của Khổng Khâu và Thiếu Chánh Mão đều không cho là đúng. Triều từng được nghe thuyết giảng của Lão Đam (tức Lão Tử), cảm thấy rất hợp ý ta. Tại hạ nghĩ rằng, thống trị thiên hạ, ứng với thiên nhiên vạn vật mà làm, theo bản tính trời sinh mà thành tựu, cùng với phong cảnh, với hồng trần, tùy theo tự nhiên mà trị. Giống như là dòng nước dưới chân ta và ngài, cần con người dùng lực để dẫn đường sao, nó đương nhiên là cứ theo lộ trình mà chảy. Không biết Ngô huynh có cao kiến gì không?
Khánh Kỵ âm thầm lấy làm kỳ lạ, người này thờ phụng chủ trương của Lão Đam. Cuộc nói chuyện giữa hai người, đã khiến cho hắn suy đoán người này chắc chắn là một nhân vật sa sút đào vong trên quan trường của một nước nào đó. Nghe trong cách nói năng của hắn hiển lộ sự bất phàm, đã nổi tâm muốn chiêu nạp, nếu muốn hắn tin phục mình, lúc này không thể không xuất ra một vài kiến giải độc đáo.
Hắn nghĩ một chút, thong dong đáp:
- Theo lời Tống huynh, từ đầu tới cuối, đi theo tự nhiên, cũng là một biện pháp trị thế, chỉ là hiệu quả không khỏi tới hơi chậm, trong lúc đó khó tránh khỏi sai lầm. Một nước hình thành, phải đứng ở trên cao nhìn xa trông rộng, chủ động dẫn đường, phát huy tầm ảnh hưởng, phải đi trước một bước so với hàng vạn hàng nghìn thứ dân, để tìm ra một con đường chính xác, nếu như cứ theo tự nhiên mà trị, thuận theo lẽ đương nhiên, chẳng phải sẽ đánh mất căn bản sao?
- Ồ? Như vậy Ngô huynh có cao kiến gì?
Khánh Kỵ suy tư một chút, cười nói:
- Tại hạ trước tiên là nói về luận điểm của Khổng Khâu. Khổng Khâu cho rằng, thánh vương thượng cổ trị dân, thánh hiền hậu thế dạy dân, đều là một chữ "Lễ". Chữ "Lễ" này, bản chất chính là "không biến đổi", không quan tâm tới biến hóa của thế sự, kinh tế phát triển, phát minh tiến bộ, chỉ chú ý tới chính mình cùng cái gọi là "Ngũ luân" trong xã hội. Chỉ coi trọng lễ của nho gia, cường điệu tôn ti, sang hèn, địa vị lớn nhỏ, quy chế pháp luật, quy phạm đạo đức, chuẩn tắc sinh hoạt, là căn cứ vào chế độ chính trị huyết thống thị tộc mà hình thành nên, cấp bậc sâm nghiêm. Điều này để tu thân, trị trong một nhà thì còn được, nhưng mà mở rộng Lễ này ra toàn bộ thiên hạ thì càng ngày càng phức tạp, tiến tới lấy để "Trị quốc, bình thiên hạ", đó là điều không thực tế.
Tống Triều mỉm cười nói:
- Nói như vậy, Ngô huynh thờ phụng luận điểm pháp trị của Thiếu Chánh Mão?
Khánh Kỵ cũng không trả lời thẳng, lại nói:
- Việc trị quốc mênh mông thâm ảo, lời của ta và ngài cũng chỉ có thể chạm vào phần nông, vị tất đã là chính xác. Tại hạ sẽ kết hợp tình thế trên thiên hạ, nói sơ qua. Thời kì thượng cổ, thành trì cùng lắm chỉ như một thôn trấn như hiện nay, dân cư cũng ít ỏi, hơn nữa bên trong nhân dân, nhiều thế hệ sống quần cư một chỗ, ít khi lưu động. Cho đến tiếp tục phát triển, dân cư tăng lên nhiều, thành trì tăng lên nhiều, trao đổi cũng tăng theo, lúc này từ trong thị tộc bộ lạc mới xuất hiện chính quyền quốc gia.
Từ triều nhà Ân, khai sinh ra quyền thống trị. Đứng đầu sự thống trị đó, tự xưng là thiên tử, cái mà hắn nắm giữ, gọi là thiên hạ. Thiên tử phân chia thiên hạ cho các chư hầu, thành lập chư quốc. Chư quốc lại phân các phong ấp cho công khanh đại phu, gọi là thế gia. Gia, quốc, thiên hạ, bởi vậy mà hình thành. Đó là chế độ phong kiến, chế độ của quốc gia.
Nếu những công khanh đại phu trung với chư hầu, chư hầu trung với thiên tử, đó là thiên hạ hữu đạo, ngược lại, chính là thiên hạ vô đạo. Chỉ có điều tới hiện giờ không thể không thừa nhận rằng, công khanh mạnh hơn chư hầu, chư hầu mạnh hơn Chu thiên tử, đó là sự thật không thể tranh cãi.
Một tia ngạc nhiên chợt lóe trong mắt Tống Triều, vui vẻ nói:
- Nghe một lời đã giác ngộ, mời nói tiếp.
Khánh Kỵ lại nói:
- Hiện tại phải trị loạn thế, không thể không đối mặt với thế giới như vậy, nên giải quyết như thế nào đây? Nếu như dưới ép trên, đương nhiên sẽ không từ thủ đoạn, ngươi lừa ta gạt, ánh đao ảnh kiếm, dân chúng thứ dân sẽ bị vây trong nước sôi lửa bỏng. Khổng Khâu muốn phục Lễ, lại dùng luận điệu cũ rích, muốn khôi phục Chu lễ, khôi phục gia quốc thiên hạ trong quá khứ, chính là làm suy yếu quyền lực chư hầu, suy yếu quyền lực công khanh, thử hỏi miếng thịt béo tới tay có ai chịu buông sao? Người nào đã nắm giữ quyền hành trong tay có ai chịu chắp tay nhả ra? Cho nên mới nói, luận điểm của Khổng Khâu tuy rằng lý tưởng, lại khó thi hành được.
Về phần Lão Đam thuyết giảng, huyền diệu khó giải thích, theo lẽ đương nhiên, thuận theo tự nhiên mà trị, cái gì không cần làm thì không làm. Ông ta cho rằng vì có gia, quốc, thiên hạ, mới có đủ loại mâu thuẫn do con người dựng nên, mới có tình hình hỗn loạn không chịu nổi hiện giờ. Nếu muốn giải quyết tận gốc, vậy không cần gia quốc thiên hạ nữa, đó là thuận theo tự nhiên mà trị, mặc cho nó phát triển tự nhiên, như nước chảy, đó là thuận theo lẽ đương nhiên. Ta nghĩ rằng, cũng không thể thực hiện được, bởi vì gia quốc thiên hạ đã có rồi, làm sao có thể tiêu tan được.
Luận điểm pháp trị, lấy pháp trị quốc. Nếu có người có dục vọng riêng, mục đích khác nhau, hành động sai trái, vậy thì không để cho người trị nữa, mà là định ra một pháp tắc, mọi người thống nhất tuân thủ theo, bắt phải làm theo một tiêu chuẩn thống nhất duy nhất để thống trị quốc gia. Ai nếu làm trái lại, chính là làm tổn hại tới ích lợi của mọi người, sẽ dùng pháp mà áp chế. Ta cảm thấy rằng, như thế sẽ phù hợp với thực tế hơn một chút. Tuy rằng pháp này là từ trên định ra, lúc đầu không khỏi có thể xiên lệch, thiên vị, nhưng mà so với những điều không thực tế như lấy Lễ mà trị, hoặc thuận theo tự nhiên để trị, thì có lẽ cao minh hơn một chút. Hơn nữa tuy rằng có thể có thiếu hụt, có thể có hạn chế, nhưng trong khi thi hành tất nhiên có thể dần dần cải thiện. Cách này tuy có lợi và có hại, nhưng nhiều lợi mà ít hại, dùng pháp trị là khả thi nhất.
Nói tới đây, ánh mắt hắn hơi hơi chớp động, cười lãnh đạm, nói:
- Chỉ có điều thiên hạ hiện giờ hỗn loạn, vô luận là gia hay quốc hay là thiên hạ, ai cũng như thế, bởi vậy cho dù là loại chính luận nào đi chăng nữa, muốn thi hành trong thời loạn, cũng không có khả năng. Muốn thi hành trong một nhà, trước tiên phải diệt trừ những đối lập trong một nhà, thống nhất hiệu lệnh; Muốn thi hành trong một quốc gia, trước tiên phải lấy vũ lực cường đại để thống nhất chính quyền, trừ bỏ cục diện chính trị hiện giờ mạnh đè ép yếu; Toàn bộ thiên hạ, cũng là như vậy. Nếu không, mặc kệ là loại chính luận cao minh nào, cũng chỉ như hoa trong gương, trăng trong nước, thành công dã tràng mà thôi.
- Tuyệt diệu!
Tống Triều vỗ tay trầm trồ khen ngợi, khiến cho hắn lâm vào kích động, không phải là pháp trị hay thuận theo tự nhiên để trị trong lời nói của Khánh Kỵ, mà là đoạn cuối cùng Khánh Kỵ nói bên trong ẩn ẩn mang theo ý sát phạt, cái luận điểm này ý là muốn trị một nhà, trước phải yên ổn nhà, muốn trị một nước, trước phải yên ổn nước. Hắn sớm đã nhìn ra Khánh Kỵ kẻ này cũng không phải là một nhân vật tầm thường, lời nói ra từ trong miệng hắn tất có thể trông cậy. Hắn đang muốn tiến thêm một bước, hỏi chí hướng của Khánh Kỵ, chợt nghe thấy bên ngoài khoang thuyền ồn ào một trận, lập tức người lái thuyền liền giương giọng rống lên một tiếng:
- Xảy ra chuyện gì? Để cho ta yên ổn một chút. - Sau đó chính là một trận tiếng bước chân bình bịch, hai người kinh ngạc nhìn nhau, vội vàng đứng dậy đi ra ngoài.
Đi ra khoang thuyền tới chỗ vừa nghe thấy tiếng, chỉ thấy phía sau khoang thuyền tụ tập không ít người, ở giữa có người đang rống to, đoán rằng chắc là giữa hạ nhân xảy ra chuyện tranh cãi đánh nhau, loại sự tình này trong hạ nhân vốn là không hiếm thấy, Khánh Kỵ liền mỉm cười nói:
- Tống huynh mời xem, nếu theo lễ nhạc mà trị, thì nên từ từ giáo hóa, căn dặn đạo lí cho bọn họ. Nếu theo tự nhiên mà trị, chúng ta cứ làm như không thấy, cứ để họ đánh, đánh tới khi bọn họ tự cảm thấy rằng đánh nữa sẽ chỉ bất lợi cho cả hai, khi đó tự sẽ dừng tay.
Tống Triều ha ha cười nói:
- Nếu như thế, Ngô huynh nếu không ngại thì lấy pháp lệnh mà bắt tuân theo, lấy pháp để phạt họ đi.
Khánh Kỵ mỉm cười:
- Phải như vậy thôi, mời.
- Mời.
Hai người mỉm cười bước đi, Khánh Kỵ đã định bụng nghe ngóng tình hình, phân rõ thị phi, đương trường hành pháp, trừng trị kẻ sinh sự, lấy việc nhỏ nhìn việc lớn, cho Tống Triều được chứng kiến.
Ở khoang thuyền khiêu khích tranh cãi ầm ĩ không phải là người ngoài, mà chính là Quý Tôn Tiểu Man. Nàng đi tới khoang thuyền, đang ở mạn thuyền suy nghĩ tâm sự của mình, chợt nghe thấy một tiếng cục cằn vang lên:
- Phía trước đã tới Hoàng Long độ, nơi đó nước chảy xiết, thuyền lớn như của chúng ta, nếu chỉ dựa vào tay chèo sợ rằng không qua được, bảo những người kéo thuyền chuẩn bị dây thừng tốt, lát nữa sẽ lên bờ kéo thuyền, chuẩn bị sẵn sàng đi!
Theo tiếng hét lớn, một đại hán hai chân trần, mặc cát bào đi tới khoang thuyền phía sau quát to. Người này dáng người vạm vỡ, khuôn mặt sần sùi, hiển nhiên là khi còn nhỏ bị mắc bệnh đậu mùa, bộ mặt xấu xí đó khiến người ta không dám nhìn lâu. Quý Tôn Tiểu Man lẩn vào trong thuyền từ sáng sớm, cũng biết rõ thân phận của hắn, người đó là phụ tá cho người lái chính, tên là Triệu Dương, phụ trách những việc tạp vụ trên thuyền, cũng coi như là quản sự.
Quý Tôn Tiểu Man vừa thấy hắn tới, xoay người liền muốn bỏ chạy, Triệu Dương đi tới, lại chính là mặt đối mặt với nàng, liếc mắt một cái là nhìn thấy bộ dáng của nàng, Triệu Dương hai mắt chợt sáng lên. Đêm qua Quý Tôn Tiểu Man bởi vì chuẩn bị đào tẩu, thay đổi một bộ áo xanh bình thường, thoạt nhìn giống như một hạ nhân làm tạp dịch. Triệu Dương đánh giá nàng từ trên xuống một hồi, thấy thiếu niên này dáng người nhỏ xinh, mặt mày tuấn tú, vẻ dữ tợn trên khuôn mặt rỗ dần trở nên nhu hòa đi chút, thanh âm nhẹ nhàng hỏi:
- Vị tiểu huynh đệ này, ngươi là ai, sao ta chưa từng thấy mặt ngươi?
Quý Tôn Tiểu Man có chút chột dạ, cụp mắt xuống đảo đảo suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Ờ, ta... ta là theo thương đội tới Vệ quốc.
- Là người trong thương đội à?
Triệu Dương càng kỳ quái:
- Thương đội lúc lên thuyền ở Phí thành, bọn họ đều đã ra mắt ta, cũng không nhìn thấy mặt ngươi, ngươi rốt cuộc là...
- Xuỵt..., xin nhỏ giọng đi chút...
Quý Tôn Tiểu Man nhìn trái nhìn phải, áp sát vào hắn, khuôn mặt nhỏ nhắn trở nên ngọt ngào mang theo chút lấy lòng:
- Triệu đại ca, thực không dám giấu, ta vốn là ở Khúc Phụ. Phụ mẫu đáng thương của ta đều mất, một người ở Khúc Phụ không thể sống được, ta có một ca ca trong nhà, mấy năm trước tới Vệ quốc, ta nghĩ muốn tới dựa vào hắn, nhưng lại không có nhiều lộ phí như vậy, hôm nay ở bến tàu nghe nói chiếc thuyền này đi Vệ quốc, cho nên...
- Hay cho ngươi, hóa ra là một tên vụng trộm lẻn lên thuyền...
- Triệu đại ca, ngài đừng gào lên. Ngài xem ta một người lẻ loi hiu quạnh, ngài lại không động lòng trắc ẩn hay sao? Người tốt sẽ được báo đáp, ngài xin giơ cao đánh khẽ, buông tha cho ta đi.
Quý Tôn Tiểu Man một bên đau khổ cầu xin, một bên từ trong tay áo lấy ra mấy đồng tiền lớn, lặng lẽ nhét vào trong bàn tay hắn, cười trừ nói:
- Chỉ cần Triệu đại ca ngài không nói, ai có thể biết được, đó là toàn bộ tiền bạc của ta, đều đưa hết cho ngài, chỉ cầu Triệu đại ca có thể cho ta thuận tiện chút.
Quý Tôn Tiểu Man thanh âm giòn tan, ngọt ngào, giống như tiếng hát của đồng tử, mắt sáng lông mi thanh tú, cái mũi xinh xắn, miệng nhỏ nhắn, ngũ quan tinh xảo, càng xem càng khiến người ta trìu mến, hơn nữa dưới ánh mặt trời chiếu lên khuôn mặt, làn da trắng mịn non nớt càng thêm bóng loáng, khiến cho Triệu Dương nhìn mà trong lòng giống như đang có con mèo nhỏ cào cào, ngứa không chịu nổi.
Hắn là người thường xuyên đi đường sông dài, lại là một tráng niên dương khí dồi dào, trên thuyền không có nữ nhân, lâu ngày khó có thể chịu được, dần dần liền cùng một vài người trẻ tuổi trên thuyền làm một chút việc đồng tính phóng đãng (ôi mẹ ơi). Hắn chạy thuyền thế này, ban ngày là đi đường thủy, tới buổi tối, hắn lại ở trên thuyền đi đường bộ (ặc), dần dần đã mê cái tư vị này, cảm thấy rằng so với đình hoa nữ nhân còn hút hồn hơn. Chỉ có điều trên thuyền dù có nam tử tuổi trẻ, nhưng cùng lắm là mặt thanh tú một chút, chứ cũng đều là hán tử cao lớn thô kệch, không khỏi khiến cho người ta tiếc nuối. Có lúc chở khách nhân, hắn liền bỏ ra chút tiền tài, thông đồng với gã sai vặt của nhà đó. Lúc này trông thấy Quý Tôn Tiểu Man, thấy nàng da mịn thịt mềm, mặt mày căng đầy, so với nữ hài "xịn" còn có phần hơn. Một thiếu niên có tiêu chí như thế quả là một cực phẩm luyến đồng (ừm, đừng hỏi nha [IMG]file:///C:/Users/pc/Documents/My%20Dropbox/Truyen%20VVD/1.Nhan%20Van%20Thien/Dai%20Tranh%20CHi%20The/42_files/biggrin.gif[/IMG]), chỉ cần buông tóc ra, không cần thay nữ trang, là đã có tư chất xinh đẹp của một tiểu mỹ nhân rồi, hắn thèm ăn tới mức hận không thể ngay lập tức ôm mỹ thiếu niên này vào trong ngực bừa bãi một phen.
Triệu Dương lập tức thay đổi sắc mặt, đem tiền nhét lại vào tay Quý Tôn Tiểu Man, tận lực làm ra biểu tình thân thiết ôn hòa hỏi han:
- Ài, nhìn bộ dáng của ngươi thực sự đáng thương, Triệu Dương ta tâm tính thiện lương, cũng không muốn làm khó ngươi. Nhưng ngươi... thực sự là trốn lên thuyền à? Vậy buổi tối ngươi ngủ nơi nào? Ăn cơm có ai lo cho không?
Quý Tôn Tiểu Man vốn là nói dối lừa hắn, lại định lấy tiền bịt miệng hắn, cũng không hi vọng hắn sẽ chăm sóc cho mình suốt một đường đi về phía Tây, mà chỉ ngóng hắn không tiết lộ cho Khánh Kỵ, Khánh Kỵ nhận ra được nàng. Chỉ cần hắn có thể thu tiền của mình, chẳng sợ tới trạm tiếp theo sẽ đuổi nàng xuống, mà nàng cũng sẽ thần không biết quỷ không hay rời đi, không ngờ nghe được khẩu khí này, người này đúng là mặt ác tâm thiện, đã có ý niệm buông tha cho nàng trong đầu.
Nghĩ như vậy, Quý Tôn Tiểu Man trong lòng hoan hỉ, càng làm ra bộ dáng đáng thương, gục đầu xuống, yếu ớt nói:
- Không dối gạt Triệu đại ca, đêm qua... nhân gia tìm ngay một góc trong khoang thuyền để ngủ, sáng nay thì vụng trộm vào phòng ăn, thừa dịp người ta chưa chuẩn bị thì tiện tay bốc cái này cái nọ để ăn. Ai, cả một đường này nữa, còn không biết phải làm sao bây giờ?
Triệu Dương mặt mày hớn hở nói:
- Chậc chậc chậc, nhìn bộ dáng nhỏ yếu của ngươi, thật đúng là đáng thương, lão Triệu ta liền làm việc tốt vậy, buổi tối ngươi đến chỗ ta ở tạm vậy. Về phần ăn uống, hắc hắc, ta uống một ngụm cũng không thiếu cho ngươi một ngụm.
Theo tâm tư của Triệu Dương, là muốn trước hết lừa cho thiếu niên này nằm trong khoang thuyền của hắn, tới buổi tối sẽ dùng uy buộc hắn đi vào khuôn khổ. Chỉ cần tưởng tượng mỹ thiếu niên như vậy, thực đúng là cực phẩm khó có được, lại tưởng tượng lột hết y phục của hắn, ôm cái thân thể trắng hồng kia vào trong ngực hưởng thụ hương vị tiêu hồn, Triệu Dương đã thấy trong lòng rung động. Lại đúng lúc thiếu niên này gặp khổ không có chỗ dựa, có việc cầu người, liền trơ mặt dí sát vào, dâm tà liếc nhìn cái miệng nhỏ nhắn như đóa hoa của nàng nói:
- Trời thu mát lạnh khó chịu được, chúng ta hai huynh đệ một ổ chăn, còn có thể ôm nhau sưởi ấm, cả hai cùng tốt, chẳng phải tuyệt diệu sao?
Nói xong, hắn liền đưa tay nắm bàn tay nhỏ bé của Quý Tôn Tiểu Man. Quý Tôn Tiểu Man là người sinh ra phú quý, lại thuở nhỏ đã vào Nam ra Bắc, kiến thức rộng rãi, vừa nghe thấy lời này liền biết không phải là lời hay, lập tức thay đổi sắc mặt, trầm giọng hỏi:
- Ngươi nói gì cơ?
Triệu Dương vừa thấy đôi bàn tay nhỏ bé trắng như tuyết của nàng, tròng mắt rốt cuộc không dịch đi nổi nữa. Ngón tay thon dài, dáng tuyệt đẹp, dưới ánh mặt trời, sáng lên trong suốt như ngọc. Hắn cũng không nghĩ rằng một đứa nhỏ cùng khổ lại có bàn tay mềm mại trắng nõn như vậy, tinh trùng lên não, thầm nghĩ một đôi ngọc thủ xinh đẹp như vậy mà an ủi của mình (cái gì của mình tự hỉu) thì sẽ tiêu hồn đến thế nào, liền động tình chộp tới bàn tay của nàng, vẻ mặt tươi cười dâm tiện, hắc hắc nói:
- Tiểu huynh đệ, ý tứ của ta... ngươi còn không rõ sao? Ta cho ngươi ăn cho ngươi ở, đưa ngươi thẳng tới Vệ quốc, ngươi không cần làm cái gì cả, ta cũng không thu tiền của ngươi, chỉ cần ngươi để cái mông nhỏ ngon lành của ngươi cho ta hàng đêm hưởng thụ, cũng không sợ mất đi một miếng thịt, ngươi ta đều đạt được mong muốn, chẳng phải tốt sao?
Khuôn mặt của Quý Tôn Tiểu Man bỗng chốc đỏ bừng, tính tình Đại tiểu thư phát tác, nhất thời liền quên mất tình cảnh của chính mình. Triệu Dương lộ ra một khuôn mặt rỗ cười muốn nở hoa, nhưng tay kia còn chưa quơ tới được bàn tay trắng nõn của Quý Tôn Tiểu Man, bàn tay nhỏ bé đáng yêu đó đã không thấy đâu nữa.
Triệu Dương ngạc nhiên ngẩng đầu, hai mắt vừa mới nâng lên, "Bốp" một tiếng vang lên, trên mặt đã trúng một chưởng rất mạnh, tát cho khuôn mặt của hắn tê rần, lập tức cảm giác nóng rát liền truyền tới tận đáy lòng. Bàn tay của Quý Tôn Tiểu Man thoạt nhìn có vẻ mềm yếu đáng yêu, nhưng trên bàn tay đó lại có những vết chai cứng của việc luyện kiếm, nàng tập võ từ nhỏ, dưới sự dạy dỗ của Lỗ quốc đệ nhất kiếm khách Viên Công, lực tay sao có thể yếu được, hơn nữa nàng lại là căm phẫn bộc phát, một chưởng này tát thẳng vào một bên hàm răng của Triệu Dương.
Triệu Dương bất ngờ không kịp đề phòng, bị một chưởng của nàng tát vào, cắn cả vào đầu lưỡi, rụng cả răng, miệng đầy máu tươi. Triệu Dương nhất thời quàng quạc kêu to lên:
- Mau đới đây, mau đới đây, chó chẻ muốn dây dối ở đây...
Triệu Dương ú ớ quang quác một trận, phía sau khoang thuyền lập tức có một đám người chèo thuyền chạy tới, đám hán tử này thấy bộ dáng của Triệu Dương, không khỏi hoảng sợ, người đứng đầu đội kéo thuyền giật mình hỏi:
- Này, Triệu đầu nhi, ngài thế này là làm sao? Đang muốn nói cái gì?
Đầu lưỡi của Triệu Dương bị răng của mình cắn đứt một mảng lớn, căn bản không dám cử động mạnh, nói cái gì cũng mơ hồ không rõ ràng. Nói cả buổi mà đám người chèo thuyền cũng không nghe ra, có điều thấy ngón tay hắn chỉ Quý Tôn Tiểu Man, vừa nói vừa khoa tay múa chân, liền biết chuyện này không thoát khỏi có quan hệ với Quý Tôn Tiểu Man, liền đi tới vây quanh Quý Tôn Tiểu Man ở chính giữa.
Xung quanh có rất nhiều diêm đinh (thợ muối), tiểu thương xem náo nhiệt, khoanh tay đứng đó cười hì hì, ngay lúc đó, Khánh Kỵ theo tiếng ồn ào cũng đã từ khoang thuyền đi ra. Người lái thuyền chính đã nhanh hơn, từ đầu thuyền chạy tới, đẩy đám người sang một bên, lớn tiếng hô to:
- Xảy ra chuyện gì? Xảy ra chuyện gì?
Quý Tôn Tiểu Man mày liễu dựng thẳng, mắt hạnh trợn lên, nổi giận đến chẳng còn để ý tới thân phận của mình, nàng vừa thẹn vừa giận nhìn chằm chằm vào Triệu Dương, hung tợn mắng:
- Cái đồ vô liêm sỉ, dám có chủ ý với bản cô... dám sinh ra chủ ý hạ lưu xấu xa như vậy, tát ngươi một cái là còn nhẹ đó, còn dám ngông nghênh càn quấy, ta một kiếm lấy đầu ngươi.
Mắt thấy Quý Tôn Tiểu Man kiêu ngạo như vậy, đám người xung quanh ồn ào lên, hơn nữa những người chèo thuyền và kéo thuyền vốn đã có cùng một mối thù, tới tấp xắn tay áo lên, đưa mắt xem thái độ người lái chính, chỉ chờ hắn ra lệnh một tiếng, mọi người sẽ tiến lên bắt người. Người lái chính dù sao cũng còn chút lí trí, trên chiến thuyền này thân phận của bọn họ là ti tiện nhất, vô luận là thương nhân hay là diêm đinh cũng không phải là hắn có thể trêu chọc được, nếu đó là võ sĩ bên người vị công tử kia, vậy thì đánh lại càng công toi, không biết rõ thân phận của đối phương trước, hắn sao dám động thủ, liền hỏi Triệu Dương:
- Xảy ra chuyện gì? Là hắn đánh ngươi sao? Vị tiểu huynh đệ này vì sao lại động thủ với ngươi?
Triệu Dương cộng sự với hắn từ lâu, cũng biết người lái chính đang suy nghĩ gì, liền chỉ ngón tay vào Quý Tôn Tiểu Man quát:
- Dụng dụng trộm bắt cút, bắt nại...
Hắn vừa nói, máu loãng theo nước bọt bắn ra bên ngoài, kịch kịch hai tiếng động, mấy cái răng mang theo máu bắn ra boong tàu, người lái chính nhíu mày, nói:
- Ngươi chậm rãi nói thôi, nói cho rõ ràng chút.
- Chuyện gì vậy, cứ hét loạn lên.
Khánh Kỵ lắc mình đi tới.
Hắn vừa mới đi vào trong đám người, liếc mắt một cái nhìn thấy ngay Quý Tôn Tiểu Man, trong lòng cực kỳ kinh hãi. Không thể tưởng được Cơ Tống cùng Quý Tôn Ý Như lục lọi tứ phương ở Khúc Phụ, nàng lại có thể lẻn lên thuyền của mình. Nàng trốn ở trên thuyền cũng phải được một ngày một đêm rồi, không có khả năng không nhìn thấy mình, Khánh Kỵ lúc này đã vô pháp giả câm giả điếc, đành phải đi tới, mặc kệ như thế nào, trước hết phải giải vây cho nàng, sau đó đem nàng vào trong khoang thuyền của mình, dò xét xem nàng có biết thân phận của mình hay không, rồi quyết định nên xử trí thế nào.
Triệu Dương chỉ vào Quý Tôn Tiểu Man, ô ô a a mấy tiếng, Khánh Kỵ cau mày nhăn mặt:
- Như vậy sao có thể nói rõ ràng, ngươi muốn nói là nó đánh ngươi à?
Triệu Dương liên tục gật đầu, Khánh Kỵ bật cười nói:
- Sao có thể như vậy, ngươi thân hình cao lớn vạm vỡ như vậy, dáng người nó lại nhỏ yếu, có thể làm ngươi bị thương nặng vậy sao?
Triệu Dương đầu tiên là gật gật đầu, rồi lại vội vàng lắc đầu, trừng mắt nói:
- Ông tử, tiếu niên tinh đẹp như vậy, đa cũng công nghĩ đới đay chân hắn nại nợi hại...
Hắn muốn nói, công tử, thiếu niên xinh đẹp như vậy, ta cũng không nghĩ tới tay chân hắn lại lợi hại như vậy, nhưng hắn còn chưa nói xong, Khánh Kỵ đã nói:
- Người lái chính, đỡ Triệu đầu nhi trở về, rửa mặt chút đi, bao giờ có thể nói rõ ràng thì sẽ hỏi lại. Thiếu niên này... khụ, cũng là một người hầu bên người ta, ta sẽ mang hắn về hỏi rõ ràng. Những người khác tản ra đi, nên làm gì thì làm đi, không tụ ở đây xem náo nhiệt nữa.
- Ngươi...
Quý Tôn Tiểu Man chuyển hướng sang Khánh Kỵ, đang muốn phản bác, Khánh Kỵ đã một bước dài tiến tới trước mặt nàng, duỗi tay nắm lấy cánh tay mảnh khảnh của nàng, nói:
- Đi theo ta!
Ngón cái của hắn áp vào gân tê phía sau khuỷu tay của Quý Tôn Tiểu Man, dùng lực một chút, Quý Tôn Tiểu Man liền nhe răng nhếch miệng, toàn thân bủn rủn vô lực, sao có thể giãy dụa được nữa, liền bị Khánh Kỵ kéo vào khoang thuyền. Vội vàng trăm bề, Khánh Kỵ vẫn còn nhớ hô lên với Tống Triều:
- Tống huynh chớ trách, tại hạ phải xử lí chút việc tư, sau đó sẽ lại nói chuyện với Tống huynh.
Tống Triều trông Quý Tôn Tiểu Man lộ ra khuôn mặt đỏ bừng, xinh đẹp phong tình như nữ tử, Khánh Kỵ là chủ nhân hắn, lại tự tay nắm tay hắn, cử chỉ rõ ràng là không giống như chủ và tớ, nhất thời liền hiểu nhầm, nghĩ thầm: "Hay là hắn và gã sai vặt này chính là... khụ, vị nhân huynh này mới vừa rồi còn nói hay vậy, bây giờ đã vì bế đồng của hắn mà theo tư làm trái pháp luật rồi..."
Cánh cửa khoang thuyền vừa đóng lại, Khánh Kỵ liền buông Quý Tôn Tiểu Man ra. Hai người lùi lại mấy bước, nhìn vào mắt nhau, thần sắc hết sức kì quái. Khánh Kỵ không biết Quý Tôn Tiểu Man đã biết được những gì, liệu có biết được thân phận đích thực của mình không? Quý Tôn Tiểu Man cũng đang băn khoăn, không biết liệu Khánh Kỵ cho rằng nàng là Tiểu Ngải hay là Quý Tôn Tiểu Man, hay là vẫn còn một điều gì đó vẫn đang được che giấu.
Một hồi lâu sau, Khánh Kỵ khoanh 2 tay lại, hỏi thăm dò:
- Tiểu Ngải cô nương...
Lúc đó, Quý Tôn Tiểu Man mới thầm thở phào nhẹ nhõm, giả bộ đáp :
- Dương đại quản sự……
Khánh Kỵ tuy cười nhưng không vui, nói:
- Đã lâu không gặp, Tiểu Ngải cô nương vẫn đẹp như ngày nào, hôm nay dù ăn mặc như hạ nhân, nhưng vẫn xinh đẹp như xưa, thật làm rung động lòng người.
Quý Tôn Tiểu Man cười hiền đáp:
- Dương đại quản sự quá khen, thiếp long đong bụi trần, son phấn đâu thể che đi cái xấu của mình, thực không dám nhận.
Khánh Kỵ có phần nuốt không trôi với cách đối đáp văn nhã giả tạo này,vê vê mũi cười gượng gạo:
- Ài, chúng ta… nói chuyện thẳng thắn đi.
Quý Tôn Tiểu Man khiêu khích nói:
- Vậy, chúng ta sẽ nói gì bây giờ?
Khánh Kỵ hừ lạnh một tiếng đáp:
- Tiểu Ngải, ta đã biết thân phận thật sự của cô rồi.
Quý Tôn Tiểu Man cũng lạnh lùng đáp lại:
- Ta vốn cũng không định cố gắng che dấu thân phận của mình, nay ngươi đã biết thì cũng không có gì là lạ, nhưng ta cũng rất tò mò muốn biết về thân phận thật sự của nhà ngươi,vậy ta nên xưng hô thế nào đây? Ngô Kỵ, Dương Bân hay là Khánh Kỵ công tử?
Khánh Kỵ hắc hắc cười một tiếng, đôi lông mày nhướn lên:
- Quả nhiên cô cũng biết rồi... Không sai, bản công tử chính là Ngô quốc Khánh Kỵ. Tiểu Ngải cô nương, thân phận của ta với Lỗ quốc, Quý Thị gia tộc của cô đều có mối quan hệ rất lớn, hi vọng cô nương có thể giữ bí mật này cho ta.
Quý Tôn Tiểu Man nói:
- Không có vấn đề gì, chỉ có điều, mong công tử cũng hãy giữ giúp ta hành tung và thân phận này, coi như là điều kiện trao đổi.
Khánh Kỵ hơi chau mày:
- Cô nương nữ tử dặm trường, ở nơi này vô cùng nguy hiểm, chi bằng đến bến đò tiếp theo, ta sẽ cho hai võ sĩ hộ tống cô nương trở về Khúc Phụ, cô nương thấy thế nào?
- Vậy cũng được, đợi khi ta về tới Khúc Phụ,sẽ lập tức rêu rao khắp nơi rằng công tử Khánh Kỵ chưa từng bị Ngô quốc đại phu trục xuất khỏi Lỗ quốc. Những người này đã ẩn náu trong Phí thành từ suốt mấy tháng nay, họ còn xây dựng ở nơi đây 1 tòa thành lập mưu khởi nghĩa. Ta nghĩ… chỉ cần làm rõ thân phận của ta, sẽ chẳng có ai còn nghi ngờ về tính chân thực mà ta nói đâu.
Quý Tôn Tiếu Man nói với giọng uy hiếp.
Khánh kỵ chau mày:
- Cô nương rút cục muốn như thế nào?
Trên khuôn mặt của Quý Tôn Tiểu Man lúc này hiện lên nụ cười đắc thắng:
- Rất đơn giản, không được để lộ ra tung tích của ta,cũng không được can thiệp vào hành động của ta.
Khánh Kỵ hơi chút do dự, nói:
- Nếu cô nương vẫn ngoan cố không chịu trở về, như vậy cũng được, hãy cùng ta về Ngải thành đi. Đợi cho chuyện Cơ Tống cầu thân lắng dịu, ta sẽ trả cô về nước Lỗ, như vậy được chứ?
- Cùng ngươi đi Ngải thành? Dựa vào cái gì chứ?
Quý Tôn Tiểu Man lạnh lùng đáp.
Khánh Kỵ ghìm nén đáp:
- Với quan hệ giữa ta và gia tộc Quý Thị của cô nương, ta không thể thờ ơ nhìn một nữ nhi bôn ba tứ xứ bên ngoài được, nếu có bất trắc gì thì cô bảo sau này ta phải ăn nói thế nào với Quý Tôn gia chủ đây?
Quý Tôn Tiểu Man còn châm chọc nói:
- Tiểu Man với ngươi không thân chẳng quen, vậy ngươi và Quý Thị chúng ta có quan hệ gì cơ chứ? Hay là ngươi và Thành Bích kia cũng chỉ là quan hệ không đâu vào đâu?
Sắc mặt của Khánh Kỵ chợt thay đổi, Quý Tôn Tiểu Man nhận ra, trong lòng càng thêm phẫn nộ. Khánh Kỵ im lặng hồi lâu rồi chậm rãi nói:
- Cô nương biết nhiều hơn ta nghĩ đấy.
Quý Tôn Tiểu Man nói:
- Không thể xem là nhiều, nhưng chắc cũng đã đủ. Ta cũng không làm khó dễ gì cho nhà ngươi, vậy cũng mong ngươi không làm khó dễ ta!
- Không được!
Khánh Kỵ quả quyết nói:
- Nếu như ta không gặp tiểu thư thì sẽ như không biết,nhưng nay đã biết rồi thì làm sao mà bỏ mặc được? Tiểu thư đã biết quan hệ của ta và Thành Bích thì ta cũng sẽ không ngại gì khi nói với tiểu thư nữa! Thành Bích giờ đã là người góa bụa, cho dù ta và nàng ấy yêu thương nhau, thì cũng có gì là nghiêm trọng? Dù gì đi chăng nữa thì nàng ấy cũng là thứ mẫu của tiểu thư, vậy hãy dựa vào mối quan hệ ấy, tiểu thư đã lên thuyền của ta, coi như là ta cũng có quyền quản chuyện của tiểu thư.
- Đê tiện!
Quý Tôn Tiểu Man tức giận bừng bừng, toàn thân run lên như bị nhục hình, nàng chỉ thẳng tay vào mặt Khánh Kỵ, giọng run run:
- Khánh Kỵ, ngươi dám xỉ nhục ta như vậy ư? Thành Bích chỉ là kẻ mua vui trong Quý phủ ta mà thôi, cho dù ngươi cưới ả ta ,việc đó cũng chỉ như là Quý phủ ta đuổi một nữ tì đi mà thôi, ngươi và Thành Bích đã làm những việc không thể coi được, giờ lại dám tự cho mình cái quyền là kế phụ của ta ư?
Trách nhiệm của Khánh Kỵ xuất phát từ cách nhìn của hậu thế, mà lại là ở thời Xuân Thu, trái lại lý do của Quý Tôn Tiểu Man cũng là hợp tình hợp lý. Nhà giàu cưới vợ, lấy thiếp có tới năm loại. Cưới, là lễ nghi đàng hoàng, đường đường chính chính. Con của người vợ này sau sẽ là trưởng nam trưởng nữ. Nếu như người con có ngu dại hay thiểu năng thì nó vẫn có dòng dõi chính thống, có quyền thừa kế.
Nạp, là người hầu gái đi theo nhi nữ của một gia tộc đã thành thân với bên kia, địa vị thấp hơn cưới, gọi là tì thiếp. Nếu như nhà mẹ đẻ cô gái có địa vị cao thì có thể được lên làm trắc thiếp, có cơ hội phù chính (thời xưa từ thiếp lên làm vợ) như Đát Kỷ, Ly Cơ thời Xuân Thu vậy. Thậm chí người con trai sẽ được thừa hưởng tì thiếp của cha mình, điều đó cũng tự nhiên như việc kế thừa tài sản, đất đai. Phong tục này tới thời Đường Tống vẫn còn được duy trì, ở người dân du mục thì tục lệ đó còn kéo dài lâu hơn.
Thiếp, là thị nữ được mua về bằng tiền, khi gia chủ chết, người thiếp này có thể sẽ bị đem đi chôn cùng. Nhưng cũng có thể bị chủ mẫu, người phụ nữ có uy quyền nhất trong nhà lúc này hoặc người thừa kế sẽ tiếp tục đem bán đi. Đó chẳng khác gì một cuộc trao đổi hàng hóa mà trong đó vật đem đi trao đổi chẳng hề có địa vị gì hết.
Bế (được sủng ái), chính là Thành Bích phu nhân, người mà trong chốc lát trở thành chủ nhân của gia tộc này. Cho dù người này là cô gái được gia chủ sủng ái nhưng thân phận địa vị hầu như cũng sẽ không thay đổi, chỉ như những người đầy tớ trong gia đình, là những người có địa vị thấp nhất. Nhưng nếu như vẫn được sự sủng ái của chủ nhân thì hoàn cảnh sẽ thay đổi nhưng địa vị thì không đổi, vẫn là những người hèn mọn, thấp bé nhất. Nếu lập Bế làm phu nhân thì thật không hợp lễ tiết chút nào.
Thành Bích phu nhân từ thân phận Bế trở thành phu nhân, có được địa vị cao như vậy, thì phải kể đến công lao của Ngải phu nhân. Ngải phu nhân chỉ vì ghen tuông với việc chồng là Quý Tôn Tử Phi cưới thêm, cho nên tất cả thị thiếp đều bị bà đuổi đi, khiến cho con đường quang vinh trở thành phu nhân của Thành Bích càng thêm sạch sẽ chướng ngại. Bà ta chưa sinh được người thừa kế cho Quý gia, mà lúc bấy giờ, Thành Bích đã sinh cho Quý Tôn Tử Phi người con nối dõi tông đường. Nhưng theo tục lệ, đây cũng vẫn xem như là con trai của bà ta, vốn dĩ cũng là do bà ta nuôi nấng, nhưng do đố kị với việc Thành Bích ngày càng được sủng ái, Ngải phu nhân còn nhẫn tâm muốn giết luôn cả mẹ và con. Chuyện bại lộ, bà ta bị chồng ruồng bỏ, lạnh nhạt, thờ ơ. Điều đó đã giúp Thành Bích có được địa vị như ngày hôm nay,điều mà tưởng chừng như sẽ không bao giờ có thể xảy ra .
Khánh Kỵ nói nhân nhượng, do mối quan hệ giữa ta và mẹ kế tiểu thư, hơn nữa tiểu thư còn chưa trưởng thành, ta xem nàng như là con gái của ta vậy. Nhưng trong lòng Quý Tôn Tiểu Man, nàng và Thành Bích không có quan hệ gì hết. Dù bấy giờ Thành Bích đã là phu nhân, nhưng trong mắt nàng vẫn chỉ là một kẻ ở không hơn không kém.
Khánh Kỵ thấy nàng miệt thị Thành Bích, trong lòng không khỏi tức giận,hạ giọng nói:
- Việc trước kia, tiểu thư có hiểu không? Thành Bích là người vô tội, nàng mặc dầu xuất thân thấp kém, nhưng bây giờ không phải nhờ có nàng mà gia đình tiểu thư mới có thể giữ vững danh tiếng được như vậy, trở thành gia tộc giàu có bậc nhất Lỗ quốc này ư? Nếu không cứ như trước kia thì gia tộc dẫu cho không suy tàn thì sớm muộn cũng sẽ bị người trong Quý Thị tranh giành phân chia tài sản mà thôi.
Tiểu Man cô nương, trời đã sinh ta ra làm thân phận nào thì hãy nên quý trọng nó. Vậy vì cớ gì mà tiểu thư không lấy chồng là hào phú nước Lỗ mà lại gắng sức tìm cách trốn chạy tới nơi đây? Hãy dứt bỏ ân oán ngày xưa, nghĩ xem, có phải là Thành Bích đã toàn tâm toàn sức vì gia đình tiểu thư, Quý Tôn Tử Phi đã có người nối dõi, công lao như vậy, lẽ nào tiểu thư còn kì thị với nàng. Tiểu thư cho rằng mình đáng thương? Rút cục cảnh ngộ này do ai mà ra? Lẽ nào Thành Bích không phải là do cha mẹ sinh ra,sinh mệnh của nàng không đáng giá gì ư? Cứ để mẫu thân tiểu thư lăng nhục mà chết ư? Thật là hèn mạt.
Quý Tôn Tiểu Man vô cùng tức giận, dù nàng biết mẹ nàng năm xưa có phần cay nghiệt, nhưng cũng không vì vậy mà nàng bất kính với người mẹ đã khuất. Vừa nãy, nghe Khánh Kỵ trách móc, còn lớn tiếng mắng nàng, khiến nàng tức tối, hai lông mày dựng đứng hết lên,hai mắt đỏ ngàu. Nàng tức giận hét lớn:
- Ta hôm nay không phải là muốn tìm bà ta gây chuyện, cũng không phải là báo thù cho mẹ. Ngươi còn muốn gì nữa? Bà ta mãi mãi cũng sẽ chỉ là một kẻ nô tì hèn mọn, muốn ta gọi mẹ ư? Có chết cũng không bao giờ. Giờ ta sẽ đi, ngươi đừng ngăn cản ta, đừng dính vào chuyện của ta, chúng ta hãy đường ai nấy đi.
Khánh Kỵ lúc này cũng vô cùng tức giận, liến bước nhanh tới trước mặt nắm chặt lấy tay nàng. Quý Tôn Tiểu Man cũng nổi giận dữ, liền cắn luôn vào cổ tay Khánh Kỵ, vết cắn của hàm răng trắng đều đặn hằn sâu vào bắp thịt. Khánh Kỵ cũng không ngờ rằng nàng lại đáo để đến thế, hét lên đau đớn, ngay tức khắc bẻ tay nàng ra sau lưng , ép mạnh nàng xuống dưới đầu gối mình, tét một cái vào mông nàng.
“Bốp” một tiếng giòn vang, Quý Tôn Tiểu Man ngây ra một lúc, phía sau mông chợt thấy đau rát, tê tê, cảm giác vô cùng đau đớn, nhưng cái cảm giác vừa hoảng sợ, ngượng ngập, tức giận này nàng chưa bao giờ trải qua. Từ nhỏ, nàng luôn được mẹ cưng chiều, sau khi mẹ mất, cha lại thương nàng mồ côi nên cũng nuông chiều, không quản việc gì của nàng. Sau đến Lỗ Quái cư, được Viên Tố chăm sóc, Viên Tố coi nàng như bà chúa vậy, không bao giờ nạt nộ nàng bao giờ.
Suốt bao nhiêu năm nay, nàng luôn muốn ý sao làm vậy, chưa hề có ai từng nặng lời với nàng. Hôm nay lại bị Khánh Kỵ giáo huấn cho một hồi, lại bị mắng cho một trận, đối với nàng mà nói là một điều chưa từng nghĩ tới. Một cảm giác không tên cứ ùa tới, chốc lát, nước mắt đã rưng rưng. Không kiềm được, nàng nức nở nói:
- Ngươi là đồ khốn nạn, dám đánh ta ư? Ta sẽ giết chết mi, ta nhất định sẽ giết chết mi!
Nàng vung tay đánh liên tiếp lên người Khanh Kỵ rồi như tự nhiên cảm thấy mất hết sức lực, liền nhằm vào tay Khánh Kỵ mà cắn, lần này lại cảm thấy trong miệng có vị tanh mặn, hóa ra là nàng đã cắn chảy máu rồi. Khánh Kỵ gặp phải cô nương cứng đầu này, trong lòng càng thêm tức giận, dù đang bị cắn vào tay chảy máu cả ra, Khánh Kỵ vẫn giơ tay ra và liên tiếp đánh vào mông nàng, tiếng “bốp bốp” liên tục phát ra. Lúc này Quý Tôn Tử Man chỉ cảm thấy mông mình vừa tê vừa khó chịu, dường như mất hết cảm giác.
Nàng cuối cùng cũng buông lời, khóc rống lên:
- Ngươi đường đường là bậc đại trượng phu mà lại đi bắt nạt phận nữ nhi như ta. Ai bảo ta không cha không mẹ, không nơi nương tựa. Ngươi cứ giết ta đi.
Khánh kỵ vừa bực mình vừa buồn cười, dừng tay nói:
- Nhìn cái vẻ đần độn của nhà ngươi, không đánh thì làm sao hiểu được?
- Hiểu được cái rắm á. Vô ích thôi, ngươi có đánh chết ta cũng đừng hòng khiến ta xem mụ ta như mẹ. Ta không đi tìm bà ta để gây phiền phức, vậy còn chưa được à?
Nói xong, nàng lại đánh một hồi vào người Khánh Kỵ
Khánh Kỵ nói:
- Không chịu thì không chịu, ân oán ngày xưa, thật thật giả giả, ta tin rằng trong lòng ngươi đã hiểu, ân oán giữa ngươi và nàng ta có được hóa giải hay không thì cũng tùy ngươi thôi. Nàng ta chỉ mong Quý thị gia chủ bảo toàn mạng sống cho mình mà thôi. Nàng cho rằng mình không có dính dáng gì đến chuyện này, là do mẫu thân ngươi cho rằng mọi chuyện đã bị bại lộ, lúc đó lại mất đi người chồng yêu dấu, khiến mẫu thân ngươi tự sát. Ngươi cho rằng bản thân mình là người đáng thương, lẽ nào nàng ta không đáng thương sao? Công bằng mà nói, nếu ngươi là nàng ta, bị người khác đối xử như vậy, chỉ một nhát đao là khiến ngươi toi mạng, lúc đó lại còn mang trong mình một hình hài chưa thành người, nguy hiểm đến tính mạng mình, ngươi có nên hận nàng thấu xương tủy như thế không? Liệu ngươi có cho phép con gái kẻ thù của mình sống bình yên trên đời không? Đằng này nhiều năm trôi qua, khi nàng ta có quyền lực, bên người luôn có kiếm khách Viên Tố bảo vệ, nếu muốn gây khó dễ cho nhà ngươi, thì nàng ta ra tay lúc nào chẳng được. Ngươi nên nghĩ lại xem.
Quý Tôn Tiểu Man rơi lệ nghẹn ngùng đáp lại:
- Ngươi muốn ta phải làm sao?
Khánh kỵ lại tét một cái vào mông nàng, quát:
- Ta gọi người trói ngươi lại, rồi mang về giao cho Cơ Tống.
Phía sau mông của Quý Tôn Tiểu Man mềm lại, các cơ co lại, cho dù giàu tính đàn hồi cũng phải có cảm xúc, giống như một vết thương bị bọng mủ bên trong có nhiều nước. Khánh Kỵ có chút hơi quá tay.
Quý Tôn Tiểu Man xoay đầu lại, uất nghẹn nói:
- Ngươi dám giao ta cho hắn, nhất định ta sẽ làm phu nhân của nước Lỗ, đến lúc đó, đừng trách ta khiến ngươi phải làm những việc hèn hạ trên đời, nếu ngươi không tin ta thì cứ việc thử xem?
Khánh Kỵ thoáng chút sợ hãi: “Nếu nàng dùng cách này, làm cho Cơ Tống yêu nàng, chuyện này không phải là không có cơ sở, như vậy sẽ gây ra phiền phức lớn rồi”
Khánh Kỵ lập tức chuyển giọng đáp lại:
- Nếu ngươi quyết không quay về, vậy thì đi cùng ta, bây giờ chúng ta đi Ngải thành, đợi cho mọi việc lắng xuống, ta sẽ bí mật đưa ngươi quay về, ngươi thấy thế nào.
- Quý Tôn Tiểu Man ta luôn hành hiệp đơn độc, ta không muốn đi với kẻ khốn nạn như ngươi, ngươi lấy cớ gì quản được ta.
Khánh Kỵ vừa bực mình vừa buồn cười đáp lại:
- Dựa vào cái gì ư, thì dựa vào dáng vóc ta cao hơn ngươi, mạnh hơn ngươi, vậy được chưa? Ngươi không đồng ý, thì ta đành trói ngươi lại, xuôi theo dòng nước mà đi thôi.
Quý Tôn Tiểu Man há mồm muốn nói, Khánh Kỵ lại nói không chút hảo ý:
- Để ta lột xiêm y của ngươi, lộ ra cái mông khỉ đít đỏ của ngươi cho người ta xem, không tin rằng người dám biểu lộ thân phận, hừ hừ, không biết xấu hổ sao.
Quý Tôn Tiểu Man mặt đỏ bừng quát lên trong giận dữ:
- Ngươi mới chính là là khỉ đít đỏ.
Khánh Kỵ vuốt cằm đáp cười đáp lại:
- Ta vốn là công hầu , nói như vậy, nghe cũng được.
Quý Tôn Tiểu Man chịu không nổi buông một tràng cười trên khuôn mặt ngấn lệ, nụ cười trên khuôn mặt đẹp như tranh với đôi gò má ửng hồng, khiến cho Khánh Kỵ nao lòng, đột nhiên trong lòng mơ màng chạm đến một mùi vị mê hồn, hắn chợt hoàn hồn, cố ý lộ vẻ mạnh mẽ hỏi:
- Thế nào, ngươi có đồng ý không.
Quý Tôn Tiểu Man mới không tin Khánh Kỵ dám lột áo quần mình, nàng soi mình vào dòng nước, nhưng nếu không đáp ứng yêu cầu của hắn, e rằng không thể thoát thân trong hoàn cảnh này, nàng lưỡng lự suy nghĩ một hồi rồi đáp lại:
- Được, ta đồng ý, mau thả ta ra.
Khánh Kỵ ngớ người, đáp lại với dáng vẻ hoài nghi:
- Đồng ý nhanh vậy sao?
Quý Tôn Tiểu Man chột dạ đáp lại:
- Không đồng ý thì ngươi đánh ta, đồng ý rồi thì ngươi lại không tin ta, có phải nhà ngươi thật sự muốn ức hiếp ta?
Nghe nàng nói như vây, Khánh Kỵ mặt đỏ bừng, vội vàng thả nàng ra, nhưng nàng vẫn không có động tĩnh gì, lúc đó mới yên tâm đáp:
- Ngươi cứ ở yên trong khoang thuyền mà đợi, ở đây bốn bề là nước, ngươi có muốn chạy cũng không chạy được đâu, tốt nhất là đừng nên làm bậy, nếu không thì lần sau đừng trách ta lại đánh vào mông ngươi.
Quý Tôn Tiểu Man trừng mắt nhìn Khánh Kỵ, hắn đột nhiên cứng họng, cái cảm giác mê hồn lúc trước lại tràn về trong hắn, hắn bối rối nói lại:
- À, sai rồi, phải là cởi bỏ quần áo của ngươi chứ, ngươi cứ yên tâm mà ngồi đợi ở đây, mục đích của ngươi là đào thoát khỏi bàn tay của Cơ Tống và Quý Tôn đại phu phải không? Ta không mang ngươi quay về là được chứ gì, chỉ cần ngươi không gây phiền phức cho ta, thì ta cũng không gây ảnh hưởng gì đến tự do của ngươi. Ta tạm thời ra ngoài đã.
Hắn đi ra ngoài mạn thuyền, đi được vài bước lại cẩn thận ngước nhìn lại, nhìn thấy Quý Tôn Tiểu Man vẫn đứng đó, hướng mắt nhìn theo hắn, mà không có động tĩnh gì, lúc đó hắn mới yên tâm đi tiếp.
Cửa khoang vừa đóng, Quý Tôn Tiểu Man lập tức xụ mặt, đưa tay sờ vào mông, chỗ bị tê, ngoài ra không có cảm giác nào khác, chắc đã bị đánh đến nỗi vừa đỏ vừa đau, nàng ngồi xuống mà trong lòng uất hận, nhưng chỗ bị đánh đau khiến nàng không ngồi được, đành phải nằm sấp, xoa nhè nhẹ vào mông, chợt suy nghĩ đến xuất thần.
Kỳ lạ thật, trong lòng không có cảm giác phẫn nộ, ngược lại có chút gì đó hơi thân mật, từ nhỏ đến lớn, nàng nhận được không phải sự lạnh nhạt thì cũng là những lời nói nịnh hót, đành rằng được Viên Tố đối xử như người thân, thì cũng chỉ là đối đãi theo kiểu chủ tử. Đây mới là lần đầu tiên nàng bị một người con trai đối xử theo kiểu dã man vậy, nhưng thực tâm lại tỏ ra quan tâm và chăm sóc cho nàng. Cái cảm giác này, thật giống như một người cha dạy đứa con hư, về đến nhà bị cha giáo huấn vậy, điều này khiến cho tâm hồn một cô gái ngay từ nhỏ đã không nơi nương tựa có cảm giác đặc biệt, nó giống như… tình yêu của con trẻ dành cho người cha nghiêm khắc vậy.
Khánh Kỵ ra đến ngoài mạn thuyền, nhìn thấy vị Tống Triều công tử đứng đó, vội vàng bước lại chắp tay tạ tội:
- Tống huynh, thật có lỗi, ta vừa mới dạy bảo đứa mục đồng bên trong, chậm trễ đón tiếp huynh, mong huynh thứ tội.
Nụ cười đầy thâm ý hiện lên trên khuôn mặt Tống Triều, hắn đáp:
- Ngô huynh không cần giữ lễ nghi làm gì, mục đồng của huynh chắc là đang làm nũng đó, lúc nào đó phải nên chỉ bảo lại hắn rồi. Ngô huynh bận rồi, tại hạ xin mạn phép về phòng trước, đường về phía Tây còn dài, huynh đệ ta còn nhiều thời gian đàm đạo mà.
- Ồ, vậy cũng được, Tống huynh về nhé.
Khánh Kỵ chắp tay tiễn khách. Tống công tử đôi chân mày nhíu lên, mỉm cười quay người bước lên cái cầu tạm về thuyền. Hắn dáng cao thon, tóc đen, môi đỏ, răng trắng, nhìn có vẻ giống là con gái hơn, dáng đi còn có vẻ thướt tha của phụ nữ, nếu không nghe giọng nói của hắn xác thực là nam giới, với hình dáng này trong mắt khánh kỵ, hắn ngờ rằng Tống công tử cũng giống như Quý Tôn Tiểu Man đều là giả trang.
“Ài, Quý Tôn Tiểu Man…” Nghĩ tới nàng, Khánh kỵ buồn rầu nhíu mày: “Đối với nàng, không thể mặc kệ nàng hành sự được. Đừng xem Thành Bích không nói gì, nhưng mà đối với Quý gia, nàng ta vẫn còn một phần trách nhiệm, nếu xảy ra chuyện gì với nàng, Thành Bích chắc là sẽ oán trách mình. Nhưng mà đã thu nạp Quý Tôn Tiểu Man, việc này lại phải làm cho thỏa đáng, nếu không nếu Cơ Tống và Quý Tôn Ý Như mà biết được, thì ắt sẽ có chuyện lớn xảy ra.
Khánh Kỵ lắc lắc đầu cười một hồi, lại quay người đi vào bên trong khoang thuyền.
Đi được vài ngày, Khánh Kỵ dần cảm thấy yên tâm, từ hôm đó đến nay, Quý Tôn Tiểu Man đã an phận đi rất nhiều, trước mặt mọi người, nàng chỉ biểu hiện là người hầu của Khánh Kỵ. Trên thuyền cũng không có chuyện gì để nàng gây sự, mỗi lần đến cảng, Khánh Kỵ đều canh phòng nàng rất cẩn thận. Quý Tôn Tiểu Man cũng không có dấu hiệu chạy trốn, thuyền đến bây giờ đã đi qua địa phận nước Tề, lại tiếp tục hướng về phía trước có thể sẽ vào sông Hoàng Hà. Đến sông Duyên Hà rẽ trái, là vào đến Đế Khâu, lên bờ trực chỉ Ngải thành ở hướng Tây mà đi, trên đường đi dân cư thưa thớt, thị trấn cũng ít, đường đi vắng vẻ, Quý Tôn Tiểu Man dù có muốn đào tẩu thì cũng không dễ, Khánh Kỵ cũng dần dần bớt chút cảnh giác.
Hai ngày nay cùng Tống Triều trò chuyện, nhìn cách nói chuyện của hắn, chỉ là Khánh Kỵ không tiện cho mọi người biết hắn vừa mới từ nước Lỗ trở về, không thể thổ lộ cho đối phương biết được thân phận của mình, do đó khó khăn càng thêm khó khăn, nhìn cái cách nói chuyện của Tống Triều công tử, Khánh Kỵ có cảm giác vị công tử này dường như đang bóng gió thăm dò thân phận thật của mình, Khánh Kỵ ứng đối rất cẩn thận, không để lộ một sơ suất nào. Nhưng Khánh Kỵ cảm giác rằng, vị công tử này không có ác ý gì với mình cả, hơn nữa sau một ngày đàm đạo trên thuyền, hai người đều có vẻ thân thiết lắm, nhưng tuyệt đối không đả động gì đến thân phận hay mục đích đến nước Vệ của mình. Kỳ thực, họ đã trở thành những người bạn tâm đầu ý hợp của nhau.
Tống Triều đi về Đế Khâu, còn Khánh Kỵ thì hướng đến Ngải Thành, vừa qua cửa sông Hoàng Hà, cả hai đành phải chia tay nhau, nhưng có cảm giác gì đó luyến tiếc không muốn ly biệt. Cũng may là hai miền không quá xa nhau, họ giao hẹn nếu ngày sau ai đi qua địa phận của người kia thì sẽ liên lạc nhau. Khánh kỵ nghĩ rằng sau khi điều tra rõ về Tống công tử, lúc đó có thể đón mời hắn cũng không muộn.
Thuyền cập bến Độ Khẩu trên sông Hoàng Hà, một chiếc cầu to nặng được bắt qua từ thuyền lên bờ, trước đem những cỗ xe lên bờ, sau đó từ thuyền hàng hóa được chuyển vào vào bờ, Khánh Kỵ cũng lên bờ từ biệt Tống Triều. Thuyền của Tống Triều lại tiếp tục đi về phương Nam đến Đế Khâu, từ đây đi tiếp thuyền bè nhiều, hơn nữa Hoàng Hà dòng nước chảy xiết, lại ít có cướp biển, nên đường đi rất an toàn.
Hai người lưu luyến chia tay nhau, thuyền của Tống Triều nhỏ, nên cần được cung cấp thêm nhu yếu phẩm và nước sạch, lúc này cũng không gấp, nên hai người nán lại trò chuyện một hồi nữa, Khánh Kỵ thấy hàng hóa đã khuân vác xuống đủ, liền lên tiếng cáo lỗi, tạm thời lên thuyền sắp xếp mọi thứ. Tống Triều lên đến thuyền, người lái thuyền cúi đầu tiễn biệt nói:
- Tiểu nhân chỉ đưa ngài tới đây thôi, chúc quản sự đại nhân hành sự thuận buồm xuôi gió.
Khánh Kỵ chắp tay cười đáp lễ:
- Thật vất vả cho ông, người của ta đã xuống thuyền hết rồi à?
Người lái thuyền càng cười lớn nói:
- Vâng, tiểu nhân đã kiểm tra qua rồi, A… vẫn còn một người ở trên thuyền, đó là mục đồng của ngài, ngài không phải đã bảo tôi trông coi hắn cẩn thận đó sao, vì vậy… Ha Ha…
Hắn cũng nghĩ rằng Quý Tôn Tiều Man là luyến đồng của Khánh Kỵ mà thôi, cho nên cười có chút quỷ bí.
Khánh Kỵ hiểu được dụng ý của vị thuyền phu, trong lòng bất giác bật cười, hắn bước tới vỗ vai người lái thuyền, cười đáp:
- Phiền ngươi rồi, để ta mang nó đi.
Khánh Kỵ vào đến khoang thuyền, nhị quản sự Triệu Dương đang đứng chắn trước cửa, vừa trông thấy hắn, vội vàng tách ra hai bên dáng vẻ cung kính. Khánh Kỵ gật đầu, mở cửa khoang rồi hướng vào bên trong nói vọng:
- Được rồi, ra đi, chúng ta phải đi ngay bây giờ.
Trong khoang vắng lặng không một tiếng động, Khánh Kỵ gọi lớn:
- Ngươi ở đâu?
Hắn vội vàng bước vào bên trong, người lái thuyền và Triệu Dương nhìn theo rồi vội vàng vào bên trong. Trong khoang trống không, không thấy bóng dáng người nào đâu cả. Khánh Kỵ vội vàng vào phòng trong, trên giường tuyệt nhiên cũng không thấy Quý Tôn Tiểu Man, Triệu Dương nói trong sợ hãi:
- Tiểu nhân đứng canh ngay trước cửa, tuyệt đối không thấy y ra ngoài.
Khánh Kỵ lại xem cửa sổ, dang tay mở cửa, phía bên ngoài là dòng nước chảy xiết, hắn kinh ngạc tự vấn:
- Chẳng lẽ nàng nhảy xuống nước tẩu thoát rồi sao, a, đúng rồi!
Khánh Kỵ vỗ vỗ mạnh vào đầu, nhớ ra rằng nàng từ trong Phi Hồ cốc vượt qua tường cao tới đây, trong người nàng chắc chắn phải có một thứ gì đó có thể khiến nàng bay được. Chiếc thuyền này bằng gỗ, phía sau cửa sổ là mạn thuyền, nhưng bên ngoài có vách ngăn, chỉ cần nàng dùng phi trảo bám vào hai bên mạn thuyền thì cớ gì không chạy thoát chứ.
Khánh Kỵ vung tay đập mạnh vào cửa sổ, hắn cũng không trách Triệu Dương, quay mình bước ra ngoài, về đến khoang hành khách, bất chợt nhìn thấy một hàng chữ lớn được viết trên vách gỗ trước cửa thuyền:
- Công ngươi hộ tống ta, sau này sẽ báo đáp, ta đi đây, nỗi nhục của ta, suốt đời không quên được, ngươi hãy đợi đấy.
Thị vệ và người đánh xe ngựa của Khánh Kỵ đều đứng đợi trên bờ, ở hai bên khách quan lên xuống tấp nập, trông rất náo nhiệt, Khánh Kỵ nhìn quanh rồi bất giác nhăn mặt, chau mày:
- Ả nha đầu Quý Tôn Tiểu Man này thông minh lanh lợi, nếu ả cố ý ẩn náu, thì biết tìm đâu ra ở chốn đông đúc này? Không thể lục soát từng chiếc thuyền một được.
Ngồi trong quán khách nhìn thấy vẻ chau mày, mắt tìm quanh bốn hướng của Khánh Kỵ, Tống Triều vội đi ra hỏi:
- Ngô huynh, có chuyện gì vậy?
Khánh Kỵ không gấp gáp giải thích cặn kẽ, chỉ giậm chân thật mạnh nói:
- Nó…. Tên hầu của ta trốn mất rồi.
- Hử?
Ánh mắt Tống Triều chuyển hướng, nhưng cũng không tiện hỏi rõ hơn, hắn suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Bến tàu mặc dù có vẻ đông đúc, nhưng nếu nó muốn đào tẩu thì chắc đã thừa cơ chạy trốn, nhất định không thể lưu lại đây được.
Mắt Khánh Kỵ lóe lên, giật mình nói:
- Không sai, với lại ả không thể trà trộn vào những thuyền khác được, nếu muốn đào tẩu, cách tốt nhất là đi đường bộ.
Nếu muốn chạy trốn khỏi người khác, có cơ hội là chạy càng xa càng an toàn, tuyệt đối không thể ẩn náu tại nơi mà kẻ truy tìm đang ở, đây là tâm lý và trực giác của con người. Hơn nữa nếu ẩn náu tại thuyền bè khác, không những rất dễ bị phát hiện, mà khi bị truy đuổi thì khó bề trốn thoát, chỉ có đi theo đường bộ, bốn bề thông thoáng, đó mới là đường tẩu thoát tốt nhất. Vả lại, tuổi của Quý Tôn Tiểu Môn chưa đủ để hiểu được đạo lý nơi nguy hiểm nhất lại chính là nơi an toàn nhất.
Khánh Kỵ lập tức hỏi vị thuyền phu đang đứng trên bờ:
- Vừa rồi có bao nhiêu chuyến xe hàng rời khỏi đây?
Thuyền phu nhìn thấy trang phục sang trọng, khí thế bất phàm của Khánh Kỵ, không dám thất lễ, vội vàng đáp:
- Đại gia, vừa rời bến cảng này, thủy lộ có 2 chuyến thuyền, một chiếc đi lên phương Bắc, chiếc kia về phương Nam. Đường bộ có ba đội xe vừa đi khỏi, cách giờ không quá một tuần hương.
Khánh Kỵ nghe xong không trả lời. Nhảy vài bước dài, phóng lên xe ngựa của mình, ghìm dây cương, quay lại quát người của mình:
- Các ngươi ở lại đây đợi ta đi bắt nó quay về.
Khánh Kỵ vừa thúc cương ngựa, tay áo bay lên phần phật, vừa toan khuất bóng thì Tống Triều nhảy vài bước dài phóng lên xe của Khánh Kỵ, hướng về phía hắn nói nhẹ:
- Ta cũng không gấp, để ta đi cùng huynh!
Khánh Kỵ không có thời gian nói nhiều, nhẹ gật đầu, thúc ngựa chạy, một số lữ khách mang vác hàng hóa đứng gần vội vàng tránh ra hai bên cho xe ngựa chạy qua, xe ngựa của Khánh Kỵ khói bụi dày đặc, lao ra khỏi bến cảng.
Vừa ra khỏi bến tàu, chỉ có một con đường nhưng lại chia thành ba hướng, mỗi hướng đều có dấu vết xe ngựa đi qua, thật khó đoán những chiếc xe hàng đó đi theo hướng nào, Khánh Kỵ không suy nghĩ thêm, giục cương, trực chỉ con đường bên tay trái thúc ngựa chạy. Một lúc sau đuổi kịp một lộ nhân mã. Nhưng những xe hàng này đều có võ sĩ áp tải bảo vệ, vừa thấy có người chạy tới, họ liền trở nên cảnh giác.
Đoàn xe này có mười chiếc, vận chuyển vải trắng, trên xe không che đậy gì cả, hai người nhìn thấy đoán rằng Quý Tôn Tiểu Man không thể nấp trong đống vải này được, liền vội vàng quay về hướng con đường ở giữa, đoàn xe này quy mô còn lớn hơn nhiều đội xe lúc nãy, đoàn tùy tùng có võ thuật cũng rất đông, xe ngựa của Khánh Kỵ chưa tới nơi, đoàn tùy tùng kia đã chuẩn bị sẵn gươm giáo sắc bén, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Khánh Kỵ giục ngựa vượt lên phía trước, đoàn xe bên kia xuất hiện một người, khoảng hơn ba mươi tuổi, thân hình cân đối, dưới cằm có râu, bước đi khoan dung, cử chỉ lịch sự, đôi mắt ánh lên vẻ thông minh sắc sảo. Khánh Kỵ dừng ngựa, giải thích mục đích đến đây với người kia. Người kia nghe xong, cười nhẹ đáp lại:
- Thì ra là như vậy, người hầu của ngài chắc chắn không có ở đây rồi, đội xe của chúng tôi đều là bằng hữu tập hợp lại, người ngoài không thể trà trộn vào được. Các hạ hãy đi tìm nơi khác nhé.
Hắn nhìn đội xe này,chở hàng chỉ có ba chiếc, còn lại đều là xe chở khách, bên ngoài được bọc bởi một lớp bạc, nên không thể nhìn thấy được ai ngồi trong cả. Tống Triều chắp tay thưa:
- Không phải tại hạ không tin ngài, chỉ là tên mục đồng kia đối với vị hảo bằng hữu của tôi đây rất quan trọng, tên này tư chất thông minh, lanh lợi, nếu muốn ẩn nấp trong xe của các huynh, nếu không chú ý thì không dễ gì phát hiện được, các sư huynh có thể cho phép chúng tôi lục soát một lúc được không vậy?
Người kia vừa nghe xong, thần sắc chuyển biến, mặt sầm xuống, tay ấn chặt vào chuôi kiếm bên sườn, hung tợn quát:
- Một tên hạ nhân mất tích, cớ sao lại đi soát xét gia trượng của chúng ta, các vị có biết bên trong xe đều là gia quyến của Cừ gia chúng ta, các ngươi đừng có cao ngạo vô lễ như vậy!
Khánh Kỵ nghe thấy hai người đối đáp, thần sắc bỗng biến chuyển, hỏi lại:
- Cừ gia, có phải là gia quyến của Bá Ngọc Đại Phu quý phủ?
Nước Vệ họ Cừ không chỉ một người, nhưng với cách đi theo bảo vệ gia quyến quy mô như vậy, đương nhiên phải là bậc thế gia quý tộc, Khánh Kỵ nghĩ tới một người, nên mới hỏi như vậy.
Trịnh Mục ngước mắt nhìn hắn, buông lời với vẻ thách thức:
-Đúng, ngươi có quen biết người của Cừ gia chúng ta sao?
Khánh Kỵ cười nhẹ đáp:
- Bá Ngọc đại phu là bậc quân tử đương thế, tại hạ sao không tin được chứ? Xin hỏi các hạ, vừa rồi có ba đội xe vừa rời bến tàu, trong đó một đội đi về hướng trái, đoàn xe của các hạ đi đoạn đường giữa, vẫn còn một đoàn xe nữa đi trước các huynh phải không?
Trịnh Mục nghe hắn giọng nói có vẻ khách khí, mới đổi giọng giải thích:
- Chúng ta rời khỏi bến thuyền đầu tiên, nếu còn một đội nữa, thì có thể đi về hướng bên phải, tuyệt đối không thể đi trước chúng ta được.
- Đa tạ. Làm phiền huynh rồi.
Khánh Kỵ gật đầu thị ý, rồi điều xe ngựa quay trở lại.
Tống Triều hoài nghi hỏi luôn:
- Ngô huynh, huynh tin lời của họ sao?
Khánh Kỵ trả lời:
-Đúng, Cừ Viện Cừ Bá Ngọc, hiền đức vang danh khắp các chư hầu, là bậc quân tử, quang minh chính đại, gia phong nề nếp, nên gia nhân của họ tuyệt đối không cho một kẻ đi đường lai lịch không rõ ràng trú ẩn đâu, chúng ta đi về hướng bên phải tìm vậy.
Đang vào mùa thu, cỏ cây tại đồng ruộng đã hiện lên màu xanh sẫm, rất nhanh đã úa tàn rồi. Đội xe đang đi bên phải, gồm năm chiếc xe ngựa đang độc hành, bỗng nhiên dừng lại. Từ bên trong của chiếc xe ngựa đi giữa, màn được vén lên, một khuôn mặt nam nhân ôn nhu trông giống khuôn mặt nữ tử ló ra, nhìn qua chưa tới hai mươi tuổi, hắn hướng lên phía trước hỏi:
- Xảy ra chuyện gì vậy?
Một tên võ sĩ đi tiền trạm thám thính tình hình chạy lại bẩm báo:
- Bẩm đại nhân, xe của khách thương phía trước bị hư trên đường, hàng hóa đổ đầy trên đất, cản đường đi của chúng ta rồi.
- Vậy à?
Vị thiếu niên kia nhướn lên phía trước nhìn xem, quả nhiên phía trước vài chiếc xe nghiêng ngả trên đường, trong đó có một chiếc bị hư đang nằm trên đường, bánh xe bị gãy khiến cho chiếc xe nghiêng về một bên, trái cây chín bên trong đổ đầy ra đường, một vài người vội vàng nhặt lại.
Vị thiếu niên kia ra lệnh:
- Các người lại giúp họ đi, nếu là cùng đường với mình, thì đợi họ đi cùng, giúp họ chở một vài thứ đồ gì đó cũng không sao.
- Tuân lệnh!
Tên thủ hạ vừa nghe xong liền đem binh khí xếp lên xe rồi chạy lên phía trước giúp đỡ, vị thiếu niên kia cũng xuống xe ngựa, vuốt vuốt lại những nếp nhăn trên y phục, đưa tay mở nút thắt dây của chiếc mũ quan dưới cằm, đi đi lại lại bên đường để thư giãn.
Khu vực biên giới nước Vệ đa phần là hậu duệ của các đời nhà Ân Thương di cư sang, trước đây Võ vương phạt Trụ, chiến trường Mục Giới mặc dù đã trở thành con dân của Chu thất chư hầu, nhưng ngược lại trong lòng họ đều không phục, họ không muốn làm nô lệ trên ruộng đất, thờ cúng tổ tiên trên đất nhà Chu, cố nhân Ân Thương sớm có truyền thống giong ngưu xa (xe bò) hành tẩu giang hồ, buôn bán giao thương, vì vậy nam tử nước vệ xa quê đi buôn bán, du học, hành hiệp phóng khoáng rất nhiều, truyền thống đó tiếp nối vài trăm năm vẫn không thay đổi.
Người nước Vệ kinh doanh rất giỏi, và cũng hình thành tinh thần giúp đỡ, đoàn kết lẫn nhau giữa những người xa xứ, người kia mặc dù chỉ là thương nhân bình thường, nhưng vị công tử này tuân thủ theo truyền thống của bản quốc, nhìn thấy bọn họ có khó khăn không thể bỏ mặc, nên mới ra lệnh cho gia nhân lên trước giúp đỡ.
Không ngờ những tên võ sĩ theo hầu vừa đi tới toan khom lưng giúp họ thu gom hoa quả, thì những người đang dùng vạt áo đựng trái cây đột nhiên từ trong áo bào rút đao sáng loáng, lần lượt nhằm hướng các võ sĩ xông tới. Một tên cao lớn khom người cúi lạy cảm tạ lúc nãy từ trong áo bào rút ra một thanh kiếm sắc bén, chạy nhanh tới, nhằm vào ngực của người cầm cương chiếc xe ngựa thứ nhất đâm tới.
Vị thiếu niên có khuôn mặt thanh tao vừa nghe thấy tiếng hét thất thanh quay đầu lại, bất giác kinh hãi biến sắc quát:
- Các người là ai, người đâu mau đến đây!
Tên cao lớn vừa giết hạ người đánh ngựa vung thanh kiếm sáng loáng còn dính đầy máu chạy tới, cười độc ác quát:
- Đừng kêu vô ích, mau nạp mạng cho ta!
Theo sau hắn, còn có vài tên đại hán vung kiếm sáng loáng đang thủ thế. Bên cạnh vị công tử trẻ kia vài tên thủ hạ kinh hãi cầm vội lấy binh đao, nhưng chưa kịp để họ hành động, đã bị bọn người kia rất nhanh chém chết. Công tử kia kinh hãi chết đứng, tung chân bỏ chạy, nhưng chạy được vài bước đã bị tên cao lớn kia đuổi kịp, tóm lấy cổ áo, dùng chuôi kiếm đánh một nhát thật mạnh vào phía trên bụng dưới, khiến hắn đau đớn quằn quại, tựa hồ thở chẳng ra hơi.
Đại hán kia giật rơi chiếc mũ đang đội trên đầu vị công tử, vứt xuống đất giẫm đạp, cười độc ác nói:
- Tiểu súc sinh. Một thứ hàng hóa như ngươi, cũng xứng làm Vệ quốc đại phu.
Vị thiếu niên thanh tú kia nghe nói vậy, cố gắng nhịn đau, ngẩng đầu mệt mỏi hỏi:
- Các ngươi…. Các ngươi không phải kẻ cướp, vậy rốt cuộc các ngươi là ai?
Tên này lỗ mãng cười độc ác. Cộc cằn đưa tay vuốt cằm, ngạo nghễ đáp:
- Ha ha, nhà ngươi đến tính mạng mình còn không giữ được, còn muốn biết danh tánh của ta làm gì?
Hắn đẩy công tử kia về phía trước, hướng về đám thủ hạ quát:
- Nhanh trói hắn lại đưa lên xe, lập tức rời khỏi đây.
Hai đại hán chạy lại, trói vị công tử kia giống như trói gà, đưa lên một chiếc xe rồi khởi hành, cũng vào lúc này, từ xa vọng lại tiếng xe ngựa, tên đứng đầu vội vàng ngẩng đầu nhìn tới, chỉ thấy một chiếc xe ngựa đang phóng nhanh tới trong làn khói bụi mù mịt, hắn nói:
- Có người đang tới…
Khánh Kỵ giục ngựa chạy tới, từ xa nhìn tới phía trước xác người nằm la liệt, người đang đứng trên đường thì trong tay đang lăm lăm những binh khí sáng chói, dưới ánh nắng của mùa thu làm chói lên một thứ ánh sáng rực rỡ, trong lòng thoáng chút sợ hãi nói:
- Tống huynh, hãy cẩn thận.
- Ta biết rồi!
Tống Triều mỉm cười đáp lại, hắn mặc dù bộ dạng yếu ớt, mọi lời nói, hành động, cử chỉ đều có vẻ ôn nhu nho nhã, nhưng lúc này giữa hàng chân mày hiện lên điệu bộ nghiêm nghị, những ngón tay mảnh mai thon dài nắm chặt lấy chuôi kiếm, từ từ rút kiếm ra khỏi bao, động tác bình tĩnh mà dứt khoát.
- Đứng lại!
Tên thích khách đứng đầu từ trên xe của vị công tử kia cầm thanh thương thủ thế, hắn một tay cầm kiếm, tay kia cầm mâu hướng mũi về phía trước quát lớn.
Khánh Kỵ ghìm chặt cương ngựa, xe ngựa lập tức dừng lại, bụi khói sau xe bay tứ tung, mù mịt phía dưới chân của hắn, Khánh Kỵ đứng trên xe thần sắc lạnh lùng, đưa mắt liếc qua những xác chết nằm la liệt trên đất, giận giữ quát:
-Các ngươi là ai, cướp hàng của ai?
Tên đầu mục nhìn thấy trên xe chỉ có hai tên chưa qua tuổi hai mươi, không do dự, cười nhạt đáp:
- Bọn ta cướp của một tên yêu quái bán nam bán nữ, các ngươi thật không đúng lúc, xuất hiện đúng vào lúc này, ta lập tức sẽ cho các ngươi chết không toàn thây!
Hắn hướng ánh mắt sang hai bên, quát lớn:
- Giết hết chúng đi!
Một đám thích khách lập tức vung kiếm xông lên.
- Bán nam bán nữ ư?
Khánh Kỵ quan tâm tất loạn (quan tâm quá đáng tất sinh loạn), chỉ nghĩ người mà bọn chúng cướp đi chắc là Quý Tôn Tiểu Man, lúc này cũng không có thời gian để suy nghĩ xem có hợp lý hay không, trước mắt đối phương đã cầm kiếm đâm tới trước, lập tức hắn phi thân xuống đất, hét lớn, rút kiếm từ trong bao ra “ Keng keng” giao đấu với bọn họ. Tống Triều cũng tiếp sức, từ trong xe nhảy xuống, vung kiếm đánh trả với mấy tên thích khách.
Võ công của Khánh Kỵ mặc dù không giỏi về kiếm thuật, nhưng đối phó với mấy tên thích khách này còn nhỉnh hơn vài phần, vừa mới giao đấu, đã có hai tên thích khách bị hắn đánh văng xuống đất, Khánh Kỵ hướng mắt nhìn qua bên cạnh, chỉ nhìn thấy Tống Triều thân thủ bất phàm, trong tay một thanh kiếm như rồng bơi lội, thanh kiếm như nhảy múa, sáng loáng theo những bước giậm nhảy của Tống Triều, chỉ một vài giây đã hạ được ba tên.
Lúc bấy giờ, kiếm khí càng dài càng khó đúc, do vậy hộ thân bình thường thì chỉ cần cây kiếm dài hơn một thước là được. Sĩ tử đại phu tùy thân mặc dù kiếm đều dài hơn ba tấc, nhưng đa phần đều là kiếm dùng để trang trí, do tính chất giòn dễ gãy, không thể dùng vào giao chiến, chỉ là cùng với áo bào, đái ngọc, là ba tiêu chí mà bậc quân tử tùy thân mang theo người. Nhưng kiếm của Tống Triều quả nhiên là thanh kiếm tốt, kiếm dài gần ba tấc, nhưng có thể dùng để giao chiến. Âm thanh phát ra lúc đao kiếm chạm nhau liên tục truyền tới tai, thanh kiếm trong tay hắn ngược lại không thấy tổn hại gì.
Khánh Kỵ bình tĩnh trở lại, tập trung tinh thần vung kiếm chiến đấu, thanh kiếm trong tay hắn dài chỉ hai thước, phía trước mặt vài tên thích khách đang bao vây, phối hợp lẫn nhau xuất chiêu, Khánh Kỵ càng không dễ dàng chiếm được tiện nghi. Nhưng lúc tên thích khách đầu mục vung kiếm lao đến, thuận tay cầm một thanh binh đao đưa đến tay Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ vừa nhìn thấy cây mâu thì vui mừng, vung kiếm đỡ lấy thanh trường mâu, đưa tay cướp lấy nó, rồi nắm chặt cán mâu trong tay, dựa vào sức thần lực của hắn thì người nào có thể cản bước được, tên đầu mục cố gắng dùng sức, nhưng đều không may bị hắn hất văng ra phía trước, kinh hãi vội vàng buông tay. Trường mâu rơi vào tay Khánh Kỵ, hắn cười một tràng dài sang sảng, một tay cầm mâu, một tay cầm kiếm, trường mâu tấn công, đoản kiếm phòng thủ, trong phạm vi một trượng, một giọt nước cũng không thể lọt qua, chẳng có kẻ nào địch lại nổi tam hợp của hắn.
Đợi Khánh Kỵ từ trong yết hầu của một tên thủ hạ rút thanh chiến thương dính đầy máu tươi, lại đi tìm địch thủ, thì phát hiện tên thủ lĩnh cùng với hai tên thủ hạ đã chạy đi xa. Nhìn hắn với đôi mắt khiếp đảm, hồn bay phách lạc.
Phía bên kia, tên giao chiến với Khánh Kỵ cũng quay đầu bỏ chạy, bọn họ đều bị thủ đoạn tàn độc giết người như mổ chó của Khánh Kỵ làm cho hoảng sợ rồi. Đội quân hung ác đã bị đánh cho tan tác làm cho tiêu tan ý chí, thì so với người bình thường càng thêm phần sợ hãi, bọn chúng đứng một bên run rẩy hoảng sợ, ngay cả Tống Triều cũng một mặt kinh sợ.
- Mau đem người mà các ngươi vừa bắt giao ra đây!
Khánh Kỵ trừng mắt nhìn tên đầu mục quát lớn.
Máu từ trên cây thương của Khánh Kỵ rơi từng giọt từng giọt xuống dưới, xem ra tên thủ lĩnh vẫn một hồi cứng đầu, hắn cứng đầu nói:
- Ngươi… Ngươi đừng cho rằng việc hành hiệp vì nghĩa là việc cao cả. Núi có cao thấp, Nước có nông sâu. Ngươi dù có dũng mãnh chăng nữa, cái vũng nước đục này... không phải ngươi muốn vượt qua là vượt được.
Khánh Kỵ trong mắt lộ ra vẻ giễu cợt nói:
- Núi có cao hơn, khó cản được mãnh hổ, sông có sâu hơn, khó ngăn được giao long. Các ngươi đến từ đâu, tại sao lại ngông cuồng như vậy?
Người kia làm sao có thể nói ra thân phận thật của mình, mắt nhẹ nhàng biến chuyển, mạnh bạo đáp lại:
- Dưới trướng của đại đạo thống soái đội quân chín ngàn người, tung hoành liệt quốc, không ai có thể cản được, đó là thủ lĩnh Triển Chích, ngươi có thể đã nghe qua?
Khánh Kỵ ngớ người ra:
- Các ngươi là người của Triển Chích?
Tên đầu mục nhìn thấy thần sắc của Khánh Ky, mạnh bạo đáp lại:
- Đúng, chủ công của ta chính là Triển Chích!
Khánh Kỵ cười nhạt đáp:
Triển Chích chỉ giỏi để đem ra hăm dọa mấy đứa trẻ nhỏ khóc đêm thôi, ta mà sợ hắn sao? Hãy mau giao người ra đây, ta còn tha cho con đường sống, nếu không thì tất cả các người đều phải nằm lại đây!
Tên thủ lĩnh giận giữ quát lại:
- Ngươi….
Khánh Kỵ ánh mắt đanh lại, tên kia trong lòng chấn động, những lời muốn nói cố nuốt vào trong.
Khánh Kỵ quát lớn lại lần nữa:
- Có giao người ra hay không?
Hắn vung tay một hồi, cây đao bên tay phải bay vù vù, tên thủ lĩnh cảm thấy có gì khác lạ trên mặt, đưa tay lên sờ, thì trong tay dính đầy máu tươi, hướng bên cạnh, hai tên thủ hạ đứng gần hắn cũng bị bó dây trên cây thương văng qua dính đầy máu, máu tươi đỏ thẫm, sắc mặt tái mét, trông giống như tiểu quỷ, nghĩ rằng sớm muộn gì cũng bị như vậy. Khánh Kỵ quát lớn:
- Ta nói lại, giao người ra, ta để cho các ngươi đi, còn không, tất cả các ngươi phải phơi xác tại đây!
- Đại…đại ca…
Hai tên thủ hạ bên cạnh tên đầu mục tay run run, có vẻ như cầm không nổi thanh kiếm nữa, run rẩy khẩn cầu tên đầu mục.
Tống Triều cười một tràng dài, thu kiếm dài trong tay bỏ vào bao kiếm, hắn đã hướng sang bên đường bước đi hai bước, nhìn hình dáng này, đã biết bọn kia đã bị đánh hạ hết rồi.
- Đại ca, lưu tại núi Thanh Sơn, không sợ không có củi đốt (còn người còn của), chúng ta không hoàn thành sứ mệnh, không cần phí công bỏ mạng vô ích…
Vài tên thích khách sợ hãi, lần lượt chắp tay thỉnh cầu thủ lĩnh.
Tên đứng đầu nghiến nghiến răng giận giữ, cuối cùng cũng khuất phục trước thái độ ngang ngược của Khánh Kỵ. Hắn uất hận mở lời:
- Mang người qua đây…
Bọn thích khách nghe xong vui mừng khôn xiết, trong đó một tên hết nhìn Khánh Kỵ, rồi đến Tống Triều, lắp bắp nói:
- Để…để ta đi mang người lại cho.
Nói rồi hắn vừa bước đi thăm dò chừng hai bước, nhìn thấy Khánh Kỵ hai người không có ý ngăn chặn, lập tức quay người chạy đi.
Vị công tử kia vừa bị bọn người kia nhốt trên xe ngựa, thì nghe bên ngoài có tiếng hò hét liên hồi, âm thanh chém giết không ngừng, trong lòng vẫn còn chút hi vọng, chỉ mong có người cứu mình thoát ra. Đang trong tâm trạng lo lắng, bỗng nhìn thấy một người mang kiếm chạy đến, lại tưởng là có người đến ám sát, lúc này toàn thân run rẩy, mắt nhắm nghiền nín thở, tên thích khách nhìn thấy điệu bộ của hắn, cục cằn quát:
- Mau xuống xe.
Thiếu niên kia bị hắn đẩy từ trên xe xuống, nghiêng nghiêng ngả ngả nhào về phía trước, Khánh Kỵ và Tống Triều nhìn thấy bộ dạng của hắn như vậy không giấu được vẻ ngạc nhiên, ngớ người ra. Tên đầu lĩnh giận giữ trong uất hận chắp tay nói:
- Người đã giao rồi, hi vọng các ngươi cũng giữ lời cam kết.
Khánh Kỵ xua tay, tên đầu mục lập tức dẫn người chạy khuất, nhảy lên hai chiếc xe ngựa, quất ngựa chạy mất.
Khánh Kỵ và Tống Triều hai người trên mặt đều hiện lên thần sắc cổ quái. Vị công tử kia trong lòng thận trọng, trên khuôn mặt giãn ra, cất giọng nói nhẹ nhàng chắp tay thưa:
- Đa tạ ơn cứu mạng của nhị vị tráng sĩ.
Khánh Kỵ lúc này đã biết cứu nhầm người, trong lòng khổ sở cười đáp:
- Không biết các hạ gia thế ra sao?
Vị công tử khuôn mặt thanh tao, vội vàng đáp:
- Vệ đại phu Di Hạ, còn chưa thỉnh giáo nhị vị tráng sĩ quý tính đại danh ra sao?
Khánh Kỵ ngớ người:
- Sao lại có thể là hắn, Dư Đào chi luyến Di Tử Hạ!
Khánh Kỵ và Tống Triều dẫn Di Tử Hạ với khuôn mặt sống đi chết lại quay trở về bến thuyền rồi cáo biệt. Tống Triều hướng về Đế Khâu mà đi, Khánh Kỵ thì dẫn đội xe nhằm hướng Ngải Thành mà đi, trong xe thiếu đi Quý Tôn Tiểu Man, lại có thêm Vệ đại phu Di Tử Hạ. Di Tử Hạ họ Di, tên Hạ, thiếu niên đắc chí, sống trong nhà quan, do đó được xưng là Di Tử. Chỉ là vị thiếu niên này được nuôi dưỡng nuông chiều từ nhỏ, thân hình yếu ớt, ẻo lả, lại không có tài năng gì.
Khánh Kỵ lúc ở tại Ngải Thành biết Di Tử Hạ có thể đạt đến chức vị đại phu, là bởi vì hắn nhận được sự sủng ái của tên Vệ hầu Cơ Nguyên, nói cho cùng, chẳng qua chỉ một cặp tình nhân đồng tính mà thôi. Cùng với hắn đồng hành, Khánh Kỵ cảm thấy có chút không tự tại. Nhưng Khánh Kỵ bây giờ còn cần sự giúp đỡ của Vệ Quốc, có thể cứu được người mà Vệ hầu sủng ái, yêu mến thì mối quan hệ giúp đỡ giữa Khánh Kỵ và Vệ hầu được nâng lên một bước, do đó Khánh Kỵ mới có ý tiếp nhận Di Tử Hạ.
Di Tử Hạ lần này ở nước Tề trở về, bởi vì phía Đông của nước Vệ, ngăn cách bởi dòng Hoàng Hà, và tiếp giáp với ba nước Tề, Lỗ, Tống, trong đó nước Tề là cường quốc mạnh nhất. Thời gian trước đây, nước Tề ngũ tộc giết Yến (Yến Anh), thế cục bất ổn. Là một quốc gia láng giềng, nước Vệ rất quan tâm đến sự biến đổi chính trị của nước Tề, còn phái sử giả đến Tề quốc thám thính tình hình.
Nhận nhiệm vụ sứ giả xuất quốc, chính là một vinh hiển, hơn nữa đạt được chiến tích này cũng dễ dàng. Vệ Hầu biết vậy nên hắn đề cử Di Tử Hạ, quốc dân nhiều lần nghị luận, tiện đem cái việc tốt xấu này giao cho hắn. Di Tử Hạ là người hiếu thảo, hắn về tới nước Tề, tiện nghĩ nhân cơ hội này về nhà thăm viếng mẫu thân, vậy nên hắn cùng với đoàn sứ tiết chia ra làm hai tại bến đò Hoàng Hà, đại đội người ngựa tiếp tục xuôi theo dòng sông đi về phía Nam, trực tiếp về Đế Khâu, còn Di Tử Hạ mang những tên hầu thân cận lên bờ, tạm quay về phong ấp nhà mình, không ngờ lại xảy ra chuyện như vậy nữa.
Thái ấp của Di gia ở Kiền thành, cách không xa Ngải thành, Khánh Kỵ tiện cho Di Tử Hạ cùng đi theo hướng Ngải thành, lại cho người đi theo hướng gia đình của hắn báo tin, cử người đến đón Di Tử Hạ. Bởi vì Di Tử Hạ và Vệ Linh Công là những kẻ đồng tính, nên lúc đầu Khánh Kỵ cảm thấy khó chịu khi cho hắn đi cùng, nhưng qua vài ngày đàm đạo, Khánh Kỵ phát hiện ra Di Tử Hạ chỉ là một chàng thiếu niên tuấn mỹ, nói năng nhỏ nhẹ thẹn thùng, đỏ mặt, tính tình hồn nhiên không có vẻ gì xảo quyệt, hắn mặt dù được Vệ Hầu sủng ái, nhưng tuyệt không làm ra vẻ bẽn lẽn của kẻ nam nhân nữ tính, tuyệt không khiến cho người khác cảm thấy chán ghét.
Vào thời đó các sĩ phu đều tôn trọng người đồng tính, thậm chí còn có thơ ca ngâm về vấn đề này. Người đời tuyệt nhiên không xem chuyện này là xấu xa, Trượng phu là người đồng tính, thê tử cũng không kỳ thị, quan lại như vậy theo hầu quan trên, cũng không hề nhận được sự khinh bỉ, cùng lắm là bị người đời giễu cợt hắn không dựa vào bổn sự, chỉ dựa vào năng lực giường chiếu của bản thân mà thượng vị, vì thế nên được hậu thế truyền là thiên cổ đệ nhất đại thánh Khổng Khâu, đối với việc này, cũng mang thái độ khoan dung. Hai năm trước nước Lỗ và nước Tề xảy ra chiến tranh tại biên giới hai nước, một vị công tử nước Lỗ cùng với một tên thủ hạ họ Uông nảy sinh tình yêu đồng tính, hai người đều tử trận nơi chiến trường. Do Uông tuổi còn nhỏ, người trong nước muốn tổ chức lễ tang dành cho người chết yểu, Khổng Khâu đối với việc này phát biểu ngôn luận. Cho rằng hắn vì tổ quốc mà hi sinh, thì nên long trọng tổ chức tang lễ như người trưởng thành, tuyệt không vì giới tính của hắn mà kì thị. Do sự phóng khoáng như vậy, người đồng tính cũng không vì đó mà thay đổi tâm tính, bình thường ăn ở sinh hoạt với các nam nhân khác không có gì khác biệt, cùng với Di Tử Hạ sinh hoạt đã nhiều ngày qua, càng có cảm giác vị công tử này là một người có tính tình ôn hòa, tâm tính lương thiện. Khánh Kỵ cũng bớt đi nỗi lo, cả hai trở thành bạn tâm giao tri kỉ của nhau. Thời gian này Khánh Kỵ từng hỏi Di Tử Hạ có biết ai phái người đến hành thích hắn hay không, Di Tử Hạ nhíu mặt chau mày, điệu bộ ấp úng đáng thương, cứ bù lu bù loa. Nói đến nửa ngày mà cũng không tìm ra nửa phần trọng tâm vấn đề. Nhìn bộ dạng của hắn, mặc dù là bậc đại phu,nhưng đối với việc triều chính thì tỏ ra rất chậm chạp, càng đơn thuần có tính hai mặt, nói rõ ra là người không biết đã đắc tội với ai, cản đường ai, Khánh Kỵ nhìn thấy điệu bộ của Di Tử Hạ, trong lòng không kiềm được nụ cười khổ.
Di Tử Hạ nói đến nửa ngày cũng không tìm ra đầu mối nào, ngược lại cứ vẽ ra những chuyện không đâu vào đâu. Trên khuôn mặt trắng như tuyết, dường như đang chảy dài hai dòng lệ còn vương tại đôi gò má, hắn buồn bã khóc, nói trong nước mắt:
- Hạ nhận được sự ưu ái của Vệ Hầu, được ban chức đại phu. Nhưng nhất mực hướng thiện, lại chưa từng kết oán với ai, chuyện hoạn nạn hôm nay xảy ra với mình là hoàn toàn bất ngờ, nếu không được công tử ra tay cứu giúp, thì trên thế gian này không còn Di Tử Hạ nữa rồi. Thương cho mẹ ta góa phụ, đơn độc không người nương tựa. Nghĩ tới chuyện này, trong lòng Di Hạ thập phần lo lắng, tiền đồ nguy hiểm như vậy, Di Hạ ta muốn thối lui cũng không thể, ta biết phải làm sao đây?
Di Tử Hạ càng nói càng đau lòng, hắn co hai chân lại, úp mặt vào gối, hai vai rung lên, khóc thút thít, tiếng khóc của vị thiếu niên tuấn mỹ này làm cho hai mắt Khánh Kỵ cũng chực khóc theo, loại cảm tính của nam nhân như thế này, đây mới là lần đầu hắn gặp phải, trên lá hoa rơi xuống từng giọt nước đều có thể làm người ta xao động, cảm xúc, muốn khuyên nhủ Di Hạ nhưng cũng không biết bắt đầu từ đâu.
Phía trước đã gần đến địa giới của Ngải Thành, Khánh Kỵ quay lại vùng đất này, trong lòng vô cùng xúc động, vừa vào đến địa giới Ngải Thành, thì vén màn xe kiệu, tận hưởng cái không khí mùa thu phía bên ngoài xe. Đi tiếp về phía trước, lại xuất hiện từng thửa ruộng, lúc này đang là mùa thu hoạch, trên cánh đồng đay, trà, lúa xanh tốt, hướng mắt nhìn, hiện lên cảnh tượng một mùa bội thu.
Nước Vệ là quốc gia kiên trì với chế độ tỉnh điền (chia ruộng đất), không chịu thay đổi, nếu chỉ dựa vào nông nghiệp, thì đất nước đã sớm bị suy nhược không phát triển, nhưng nước Vệ lại là đầu mối giao thông với các nước khác, cộng thêm có nhiều người hành nghề buôn bán, đủ để bù đắp những thiếu khuyết, vì vậy nước Vệ là một quốc gia giàu có và đông đúc. Vì ở Ngải Thành biết tính toán kinh doanh, Khánh Kỵ ở đây, làm nông nghiệp rất mạnh, tự cung tự cấp, khai hoang rất nhiều vùng đất mới, đất đai ngàn dặm, vừa trồng trọt vừa chăn nuôi, cũng đủ để chu cấp cho cuộc sống.
Di Tử Hạ đứng trước xe, hoan hỉ nhìn theo từng hàng từng hàng bắp vàng kéo dài trên cánh đồng, quay đầu lại cười nói:
- Công tử, vùng Ngải Thành này ruộng đồng phì nhiêu, một vùng đất thịnh vượng, từng thửa hoa màu kéo dài không nhìn thấy bờ, Tử Hạ quả là từ nhỏ đến giờ chưa từng được diện kiến.
Do đã biết hắn là Vệ đại phu, vì vậy sau khi hai người đi trên đường, Khánh Kỵ mới nói rõ thân phận của mình, là để Di Tử Hạ biết rõ thân phận thật của hắn. Khánh Kỵ không kềm được cảm xúc trong lòng, cười nhẹ đáp:
- Đúng vậy, chỉ có cây trúc chết khô trên núi Thanh Sơn, chứ ta chưa nhìn thấy cây bắp này chết vì khô hạn bao giờ. Loại bắp nhỏ này vừa chịu được khô hạn, vừa ít sâu bệnh, mùi vị lại rất thơm ngon. Đây là loại hoa màu mà người dân Ngải thành ta trồng nhiều nhất. Ha ha, năm nay trời đất ôn hòa, xem ra lại một mùa bội thu nữa rồi.
Khánh Kỵ khom người, bước ra khỏi xe, cùng với Di Tử Hạ đứng nơi đầu xe, mắt hướng về cánh đồng bội thu ở hai bên đường. Dọc theo con đường, từng hàng từng hàng đều là đồng ruộng, bên trong, nhiều thanh niên vạm vỡ đang thu hoạch, dưới ánh nắng mặt trời, chiếu xuyên qua lộ rõ từng tấm lưng trần của những thanh niên đang chăm chỉ làm việc trên cánh đồng. Bên trong cánh đồng, vài chiếc xe trâu kéo lúa đang dừng lại, ngũ cốc vừa thu hoạch xong được đóng vào bao, rồi những thanh niên vạm vỡ chất lên xe. Đã có vài chiếc chất ngũ cốc lên cao ngất, họ lại dùng những chiếc xiên bằng gỗ hoặc bằng thép xiên qua những bó ngũ cốc chất tiếp lên, vài chiếc đã chất đầy ngũ cốc, cột chặt lại, đang được vận chuyển vào trong thành.
Bên cạnh một chiếc xe chở đầy ngũ cốc đang vượt qua, bên trên chất đầy cao lương giống như một quả núi nhỏ di động, Khánh Kỵ thuận tay từ trên xe rút một bông lúa, bứt từng hạt, trên mặt hiện lên nụ cười sảng khoái.
Ngải thành không lớn, tường thành nhỏ được xây bằng đất, đã bị xóa mòn vài chỗ, ngoài cửa thành, xe cộ vào vào ra ra, có quân sĩ đứng gác, người vào ra đều phải xem xét thân phận. Khánh Kỵ nhìn thấy vậy thầm gật đầu:
- Kinh Lâm là người cẩn thận, hành sự thận trọng. Quả nhiên dưới sự sắp xếp của hắn, Ngải thành dần trở nên ngăn nắp, rõ ràng hơn.
Xe đến trước cổng thành, Khánh Kỵ vội kéo Di Tử Hạ vào trong xe, ấn ngồi xuống ghế. Lúc Khánh Kỵ cử Lương Hổ Tử quay trở về Ngải thành, tiện dùng hắn thay thế thân phận của mình, lúc này không biết trong thành tình hình thế nào, tùy tiện lộ diện nếu tên lính nào biết hắn nhìn thấy, thì e rằng khó tránh khỏi một hồi giải thích.
Những tên lính thân cận bên cạnh Khánh Kỵ thân phận rõ ràng, lính gác thành kiếm tra thẻ bài xong, cho phép vào bên trong thành, phía sau là một đội xe chở muối dài nhằng đi cùng. Vừa vào đến cửa thành, chợt nghe thấy âm thanh “ Leng keng, leng keng” của những tiếng đánh búa rèn vũ khí vọng tới. Khánh Kỵ nhẹ nhàng vén một góc màn rèm nhìn ra, nhìn xem Ngải thành bây giờ còn giống lúc trước không, bởi vì đến nơi này quân lính đóng quân ở đây đều là đội quân của hắn, dân cư ở đây lác đác thưa thớt, thành trì hình như đã cải tạo thành một doanh trại quân lính.
Nhìn vừa theo tầm mắt là xưởng cơ khí, bên trong nhiều thợ rèn với tấm lưng trần, tay cầm búa, đang đúc vũ khí. Ngải thành không sản xuất đồng, sắt, binh khí đa phần là đi mua, nhưng bên trong doanh trại quân đội đều phải có thợ sửa chữa vũ khí. Có lúc cũng tự mua kim khí về tự đúc rèn vũ khí để tiết kiệm quân nhu, những lò rèn kia lửa bùng lên bừng bừng bên các lỗ thông gió, để tạo ra vũ khí, trông rất vất vả.
Lại hướng về phía trước, là những thửa đất bằng phẳng, có đội quân đang bó những bó ngũ cốc mang ra sân phơi, hoặc có đội đang tuốt lúa, hoặc đang kéo cối đá, bên cạnh đặt cái chiếu trúc, cuối cùng lại dùng những chiếc mủng bằng gỗ, xúc lúa lợi dụng sức gió gieo xuống để tách lương thực và bụi đất ra.
Lại hướng về phía trước, là một cái nhà kho, có chỗ dùng để chứa lương thực, có chỗ dùng để lưu trữ da động vật và những sơn phẩm khác. Nhập gia tùy tục, người Vệ giỏi kinh doanh, Khánh Kỵ tại đây chiêu binh dưỡng quân, cũng chọn ra những binh lính có tài kinh doanh, nhưng hiền lành lương thiện để buôn bán kiếm thêm lợi nhuận.
Ngoài một bên đơn độc được quy hoạch thành một chiến khu, xung quanh được bao bọc bởi dòng dòng nước chảy, liên kết với bên ngoài bằng một cây cầu gỗ, trên cầu có sĩ binh cầm đứng gác. Chỉ nhìn thấy ở khoảng trống đối diện rất nhiều quần áo phụ nữ đủ màu xanh đỏ được phơi trên giá. Đây có thể là khu vực giành cho nữ giới trong doanh trại, kỹ nữ ở đây đều từ những thành trì gần đây được tuyển mộ vào, đa phần đều là phận buôn phấn bán hương, đến nay thì đã qua cái tuổi xuân xanh, hết thời rồi nên không được còn được chú ý nữa, tìm ra được một ả xem được trong đám này thì thật là hiếm, nhưng bọn kỹ nữ ở đây giá cả phải chăng nên được bọn sĩ binh ở đây ưa chuộng. Trong doanh trại này, vừa giải quyết được nhu cầu của đám quân sĩ, lại vừa không để chúng chìm đắm trong nữ sắc, thậm chí còn xảy ra những vụ đánh ghen tranh giành tình nhân, do đó tất phải cử người đến quản lí.
Tiếp hướng về phía trước, thì xuất hiện một trạch viện, bên trong trạch viện, mặt dù không có rường cột chạm trổ, nhưng phòng ốc thì rất nhiều. Xe ngựa đi đến trước cổng, một tên lính vào bên trong thông báo, ngay trong tức khắc, tiếng bước chân từ trong vọng ra, A Cừu Tái Cừu trong nhà chạy ra hét lớn:
- Công tử đâu..?
Khánh Kỵ cố ghìm nén những kích động trong lòng, cười lớn quát tháo:
- Hai tên nô tài kia, toàn là mắt bò hết, công tử nhà ngươi to lớn như vậy mà cũng tìm không ra sao?
- Công tử, ngài đã trở về rồi!
A Cừu Tái Cừu hai huynh đệ chạy tới, mỗi người ôm lấy một chân, vui sướng khóc rống lên.
Di Tử Hạ đứng bên cạnh mắt nhìn trân trân, với điệu bộ kỳ quái nhìn bọn họ. Khánh Kỵ nói cười trong nước mắt:
- Mau thả chân ta ra, để ta xuống đất đã nào, các ngươi khóc gì chứ.
- A, công tử mau mau xuống xe.
A Cừu Tái Cừu nghe xong vội vàng lau nước mắt, vội vàng đặt ván gỗ để hắn xuống xe, Khánh Kỵ vừa nhảy xuống đất, đứng vững lại rồi cười nói:
- Ta không phải là con gà bị trói chân, còn đặt cái ván này làm gì chứ. Di Hạ, để ngài cười chê ta rồi.
Vừa nhìn thấy dáng vẻ thanh tao của Di Tử Hạ, A Cừu đón chào rồi nói:
- Ya, công tử đã thay đổi khẩu vị rồi sao? Người này là nam hay nữ?
Di Tử Hạ vừa nghe xong, khuôn mặt ửng hồng bỗng nhiên đỏ gay như lửa, hắn dữ dằn đưa mắt trừng A Cừu, nhưng với dáng vẻ tuấn mỹ như vậy, thì cách nhìn không thể uy nghi được, ngược lại càng giống như cô gái đang hờn dỗi.
Khánh Kỵ gõ nhẹ vào sau lưng A Cừu, quát lớn:
- Cút đi chỗ khác, vị này là Vệ đại phu Di Tử Hạ đại nhân, người như ngươi sao có thể vô lễ như vậy được. Tử Hạ, mời ngài xuống xe, mời vào phủ của ta nghỉ ngơi, ta sẽ phái người đến dinh phủ của ngài báo tin.
- Đa tạ công tử.
Di Tử Hạ bị A Cừu, Tái Cừu, hai cặp mắt nhìn chằm chằm gây khó chịu, ngại ngùng bước xuống xe, trong lòng ngược lại có chút bẽn lẽn. A Cừu Tái Cừu là hai tên ngốc nghếch, nghe qua vị thiếu niên này chính là người tình của Vệ Hầu, đưa mắt nhìn hắn giống như nhìn động vật quý hiếm, mà không để ý gì đến sắc mặt của Di Tử Hạ. Hai tên hầu nhìn kĩ vị thiếu niên, nhìn cách trang điểm của hắn, kì thực so với các cô gái khác còn đẹp hơn gấp mười lần, hai tên không kiềm được cứ gật đầu liên tục. Bỗng nhiên lại nghĩ, không biết công tử nhà mình là như thế nào với vị thiếu niên này, hay là cũng thích vị thiếu niên này rồi, hắn mặc dầu tuấn mỹ, nhưng tiếc là không thể sinh con, công tử nhà mình mà thích hắn, thì nhà mình sẽ không có tiểu công tử ra đời, hai tên bất giác lắc đầu.
Khánh Kỵ không biết hai tên hầu ngốc nghếch đang suy nghĩ như vậy, hắn đỡ Di Tử Hạ xuống xe, rồi hướng về hai tên ngốc đang nhìn chằm chằm Di Tử Hạ hỏi:
- Kinh Lâm, Lương Hổ Tử đâu, bọn chúng không ở trong phủ sao?
- Công tử, Tiểu nhân đây ạ.
Một âm thanh phát ra từ phía sau vọng đến, ngữ âm nhẹ nhàng pha chút run rẩy, Khánh Kỵ bỗng nhiên quay đầu lại, chỉ thấy Kinh Lâm người mặt chiếc áo giáp mỏng, khuôn mặt ốm, đôi mắt ngấn lệ, miệng run rẩy cất lời.
- Kinh Lâm bái kiến công tử, cung hỉ công tử quay về Ngải thành!
Kinh Lâm bước tới ba bước, hướng về phía Khánh Kỵ phất tay áo, quỳ xuống, chắp ta bái kiến lễ phép theo quân lễ.
Khánh Kỵ vội bước tới đỡ Kinh Lâm dậy, hai tay cầm lấy khuỷu tay Kinh Lâm, mũi cay xè, đôi mắt cũng ngấn lệ.
Khánh Kỵ có nhiều chuyện không tiện cho Di Tử Hạ biết, vào trong phủ sắp xếp chỗ ở cho hắn xong, vội vàng bước nhanh ra phòng trước, lúc này nhiều thị vệ thân cận nghe nói Khánh Kỵ trở về, đều vui vẻ tranh nhau vào phòng lớn. Khánh Kỵ diện kiến những hảo binh đệ đã từng cùng nhau vào ra sinh tử, trong lòng cảm thấy vui vẻ, vội nói:
- Nào nào nào, các ngươi ngồi xuống đi, không cần phải đa lễ.
Khánh Kỵ đối đãi với thuộc hạ từ trước đến nay hiền lành, nên những cận vệ thân tín đều hiểu rõ bản tính này, vội vàng ngồi xuống ghế, tiếng cười nói rộn ràng khắp nhà, cùng nhau đàm đạo một hồi, sơ lược về sự tình của nước Lỗ, Khánh Kỵ tiện hỏi Kinh Lâm đang ngồi phụ cận:
- Lương Hổ Tử đâu, sao ta không thấy hắn?
Kinh Lâm đáp lại:
- Lương Hổ Tử luyện binh ở Tây Sơn, thủ hạ đã cử người đến đó thông báo hắn quay về rồi.
Khánh Kỵ gật gật đầu, uống một hớp rượu, tiện tay bốc một quả mơ khô chua ngọt bỏ vào miệng, rồi nói tiếp:
- Hôm nay trở về, ta thấy việc cai quản Ngải Thành rất ngăn nắp rõ ràng, trong lòng rất vui. Kinh Lâm, Khánh Kỵ ta nếu khôi phục lại nước Ngô, thì công lao của ngươi rất lớn đó.
Kinh Lâm chắp tay cười đáp:
- Công tử quá khen, việc này giao phó cho Kinh Lâm, thần dốc tận tâm tận lực, dốc hết khả năng của mình ra làm việc.
Khánh Kỵ cười đáp:
- Ngươi tạm thời nói cho ta nghe qua tình hình nước Vệ gần đây, ta đi khỏi lâu như vậy có thay đổi gì không?
Với câu hỏi này, thần tình của Kinh Lâm bỗng nghiêm túc trả lời:
- Công tử, có một chuyện tỳ chức chưa nói cho ngài biết, Lương Hổ Tử cũng có ý như vậy, Công tử ở nước Lỗ vẫn còn nhiều chuyện đại sự cần làm, chúng thần cho rằng, chuyện nhỏ nhặt này không cần để công tử chiếu tâm.
Khánh Kỵ chăm chú hỏi lại
- Chuyện gì, nói ta nghe.
Kinh Lâm bậm môi, mở lời:
- Lương Hổ Tử thế thân cho công tử được A Cừu hai người họ hộ tống quay về nước Vệ, đã gặp phục kích giữa đường, nhìn binh khí, nghe giọng nói của bọn ho, chắc chắn là người nước Ngô.
(Đoạn này xin nhắc lại: Khi Khánh Kỵ tới Phí thành thì Lương Hổ Tử nhận trách nhiệm giả dạng Khánh Kỵ lên đường trở về Vệ quốc)
Khánh Kỵ nhăn mày hỏi:
- Lại đến hành thích sao?
Hắn bỗng chốc giật mình, nói:
- Có thể là người của Úc Bình Nhiên, ài! Hắn đã tan tác như vậy rồi, lại còn muốn hãm hại ta. Các ngươi có bị sao không?
Kinh Lâm đáp:
- Thương vong quá nửa, nhưng bọn họ cũng không dễ dàng đánh được chúng ta. Chúng ta bởi vì giả vờ đang hộ tống công tử, sợ để lộ tin tức, nên đi trên đường rất cẩn thận, bọn họ còn chưa kịp phát động tập kích thì đã bị chúng ta phát hiện, bọn họ cũng đánh trọng thương xấp xỉ một nửa số quân ta. Trước tình hình đó, chúng ta đành phải tuyên bố ra bên ngoài, nói là công tử bị thương, người thay thế công tử do vậy nên không cần công nhiên xuất hiện nữa. Nói ra thì bọn họ cũng giúp đỡ cho ta rất nhiều.
Chỉ là lúc đầu còn tốt. Công tử vài tháng nay chưa lộ diện. Người của chúng ta biết công tử không phải là ít. Thần cũng không dám để kẻ thế thân ngài thường xuyên xuất hiện, là vì trong doanh trại có kẻ tung tin nhảm, đã nghiêm trị trừng phạt vài tên, vì thế không ai dám công khai tung tin nữa, nhưng lòng người thì khó tránh khỏi hoang mang.
Nói đến đây, hắn bỗng vui vẻ cười lớn đáp:
- Nhưng công tử bây giờ trở về rồi, vậy là tốt rồi. Hai ngày nay chỉ cần tại doanh trại đi lại một lúc, nói là vết thương đã khỏi rồi, tin đồn nhảm kia sẽ không còn nữa, lòng người cũng an tâm hơn.
Khánh Kỵ gật gật đầu, dùng tay ra hiệu, Kinh Lâm giơ tay đưa lên miệng nốc cạn chén rượu rồi nói tiếp:
- Nước Sở hai ngày trước đưa tin đến. Thủ hạ chưa cho người đưa tin cho công tử.
- Tin gì vậy?
- Yểm Dư, Chúc Dung hai vị công tử nói, thành mới của nước Ngô đã xây xong. Cơ Quang và Ngũ Tử Tư đang di chuyển những hộ gia đình giàu toàn quốc tới cư trú tại thành mới. Một là để tạo nên vinh hiển, hai là muốn ràng buộc, khống chế những gia đình giàu có này. Công tử bởi vì bị nước Ngô đánh đuổi khỏi nước Lỗ, sau khi trở về lại khởi bệnh không khỏi, Cơ Quang hiện nay đang khấn trương tấn công nước Sở, hình như không còn xem công tử là mối hoạ lớn nữa.
Nói đến đây, Kinh Lâm dường như thay công tử nhà mình nổi thái độ khinh thường xen lẫn phẫn nộ bất bình.
Khánh Kỵ cười nhẹ đáp:
- Hắn càng xem xem thường ta, thì càng có lợi cho ta. Ai có thể nở nụ cười sau cùng, đó mới là người chiến thắng. Đây là tin tốt, việc Cơ Quang tăng cường khống chế đối với những bậc thế gia nước Ngô thì vấn đề này thật nan giải, chúng ta muốn tìm kiếm sự giúp đỡ của những gia đình giàu có nhưng bất mãn với Cơ Quang, khó khăn càng thêm khó khăn. Hừm… đây nhất định là chủ ý của Ngũ Tử Tư, ta vốn chưa hiểu tên nô tài này tại sao lại đã rầm rộ xây kinh đô mới ở nơi Cơ Quang vừa cướp được, thì ra là vì chủ ý này. Ngươi tiếp tục nói đi.
- Đúng, vì đã xem nhẹ việc cảnh giác đối với công tử, hiện tại nước Ngô đang tập trung quan tâm đến nước Sở, không ngừng phái binh lính đến tập kích, khẩu hiệu đánh tự nhiên là truy lùng Yểm Dư, Chúc Dung công tử , do đó một vài đại phu của nước Sở xem hai vị công tử là những người gây ra loạn lạc giữa hai nước Sở, Ngô. Hai vị công tử ấy đang rơi vào cảnh ngộ vô cùng khó khăn.
- Cái nhìn ngu xuẩn! Cơ Quang nếu thật sự có dã tâm, việc gì phải chĩa mũi dùi vào Yểm Dư, Chúc Dung? Sở Vương đã cho hai vị Vương thúc Yểm Dư, Chúc Dung ra bá quốc (một nước trực thuộc) ở ngoài nước Sở, ý là muốn để mặc cho hai hổ đấu nhau. Nhưng hai vị Vương thúc làm gì có đủ thực lực để đối phó với Cơ Quang? Nếu theo những gì ta dự liệu không sai, Cơ Quang nếu thật tâm muốn giết bọn họ, thì hai vị Vương thúc kia đã không còn sống đến bây giờ đâu. Cơ Quang cố ý đánh mà không giết, là do mê hoặc cái ngai vàng nước Sở, mục đích chính của hắn không phải là ở Yểm Dư, Chúc Dung, mà là nước Sở!
- Công tử minh giám. Nước Sở mặt dù là nước lớn, nhưng Sở Vương là bậc hôn quân, trong triều lại nhiều nịnh thần, khiến cho những bậc công thần nghĩa sĩ không được trọng dụng, lại thêm diện tích lãnh thổ rộng lớn, nhiều khu vực lớn, vì vậy mặc dù có mười vạn đại quân, nhưng để điều đi đánh trận chiến đấu với nước Ngô thì ngược lại không nhiều, do dó đối với thế tiến công của Cơ Quang như vậy, nhất thời cũng là bó tay chịu trói mà thôi.
Khánh Kỵ cười nhẹ, Cơ Quang là một tên có dã tâm, còn Ngũ Tử Tư thì sao? Người này vì muốn báo thù nên suy nghĩ điên rồ rồi, để báo thù mà không tiếc hai lần phản bội lại chủ, lần lượt mưu hại hai vị quốc quân Trịnh, Ngô đã thu lưu hắn (Chuyên Chư đâm Cơ Liêu chính là do Ngũ Tử Tư bày kế). Hiện tại hắn có đại quyền trong tay, ngọn lửa báo thù rửa nhục đang dâng trào trong người hắn, lại có thêm một tên tâm địa dã man Cơ Quang đối với hắn bảo sao nghe vậy, hai con người này hợp lại với nhau, không gây chuyện rắc rối, thị phi thì mới là lạ.
Nghĩ đến đây, Khánh Kỵ trong lòng xao động nhẹ: “Trong lịch sử Ngũ Tử Tư có hơn mười năm nuôi hận báo thù nước Sở, lấy thi hài của Sở Vương trong mộ phần ra mà quất, nỗi hận trong đầu hắn lớn như vậy, tâm địa báo thù của hắn mãnh liệt như vậy sao? Còn nhớ lúc bị hắn xúi giục, Cơ Quang vài lần giục binh tiến đánh nước Sở, đều bị Tôn Vũ lấy việc chuẩn bị chưa kĩ, thời cơ chưa đến mà khuyên can ngăn cản, tới khi sẵn sàng cho ra trận đánh, phải chuẩn bị gần mười năm mới xuất binh đánh Sở, một trận đánh đã chiếm được kinh đô Sính thành của Sở quốc. Tôn Vũ hiện giờ đang đứng ở dưới trướng của mình, lửa hận thù trong lòng Ngũ Tử Tư đang sục sôi, tâm địa hiểm ác của công tử Quang cũng dâng trào, thiếu đi sự bình tĩnh khuyên bảo của Tôn Vũ, bọn họ liệu có thể xuất binh đánh Sở sớm vậy không. Nếu là như vậy thì….”
Mắt Khánh Kỵ bỗng lóe lên tia sáng. Trai cò đánh nhau, ngư ông đắc lợi, Sở quốc lại không phải là một con chim giỏi, bây giờ không ngại lửa đổ thêm dầu, gây nên chút rắc rối giữa hai nước Ngô, Sở. Nếu Ngô, Sở xảy ra đại chiến, quân đội ở nước Vệ sẽ trợ chiến nước Sở, thu hút sự chú ý của Cơ Quang. Lúc đó quân mai phục của hắn ở nước Lỗ sẽ….
Một kế hoạch đầy bản lĩnh dần dần hình thành trong đầu Khánh Kỵ. Kinh Lâm nhìn dáng vẻ trầm tư suy ngẫm của Khánh Kỵ, cấm khẩu không nói gì, đồng thời nhẹ nhàng khoát tay, ra hiệu cho những thị vệ thân tín đang ngồi không được quấy nhiễu công tử đang suy nghĩ. Khánh Kỵ lặng lẽ suy nghĩ một lúc, rồi nói:
- Được, ngươi tiếp tục nói, tình hình tập luyện võ thuật thế nào rồi, hiện tại có bao nhiêu binh mã?
Kinh Lâm đáp:
- Binh xe mũ áo giáp, chúng ta đã tích lũy đủ số lượng, binh khí một mặt đã được mua trang bị hoàn thiện,còn lại một số được chế tạo, chỉ khó khăn ở vấn đề chiêu binh.
Khánh Kỵ lập tức chú ý tới
- Khó khăn ở đâu?
Kinh Lâm đáp:
-Vệ hầu không quá quan tâm đến việc của Ngải thành chúng ta, để mặc cho người trong nước tới đầu nhập, cũng mặc cho dũng sĩ của nước khác nghe tin đến đầu nhập, bổ sung quân lính cơ bản là không khó khăn. Nhưng đến nay Vệ phu nhân nắm đại quyền trong tay tại nước Vệ, Vệ phu nhân nói, người nước Ngô chiêu mộ rộng rãi trai tráng nước Vệ vào quân ngũ, làm cho ruộng đồng tại Vệ quốc trở nên hoang vu, giao thương buôn bán suy giảm; binh lính các nước qua lại Vệ quốc, du thủ du thực, thường xuyên gây rắc rối, làm cho lãnh thổ bất an. Chúng ta tại Ngải thành giương một ngọn cờ, giống như là một quốc gia trong một quốc gia, nếu không khống chế, sợ rằng gây nguy hại đến nước Vệ. Do vậy phải thực hiện khống chế. Vệ Hầu đối với ả thì nói gì nghe đó, lại dựa vào chủ ý của ả, nghiêm ngặt hạn chế kết giao giữa dũng sĩ nước Vệ và chư hầu. Do đó, đến nay chúng thần chỉ chiêu mộ được hai vạn ba ngàn binh mã, trong đó tinh binh một vạn rưỡi, bốn trăm chiếc xe binh, ngoài ra còn chiêu mộ được hơn năm trăm phu lái thuyền, đang đóng tại bến thuyền, bình thường thì chở khách sang sông, tương lai chỉ dùng để vận chuyển binh lính.
- Vệ phu nhân hạn chế chúng ta chiêu binh sao?
Khánh Kỵ nghe xong bỗng nhăn mày, nói tiếp:
- Đây là địa bàn của họ, Vệ quốc nếu như muốn hạn chế sự phát triển của ta, quả thực là quá dễ dàng. Ngải thành cách Đế Khâu không xa, nếu ở địa phương gần như vậy lại có một chính quyền lưu vong chiêu binh mãi mã tứ phương, dần dần trở thành một lực lượng cường đại, thì đúng là một nhân tố cực kỳ khó an tâm được. Một cỗ lực lượng như vậy mặc dù không có khả năng ở trong quốc gia của hắn mưu đoạt quyền lực, chỉ là nếu đạt được liên minh với vị công tử hoặc đại phu nào đó có dã tâm trong quốc gia, lại trở thành một cỗ lực lượng cường đại nằm trong tay những kẻ có ý đồ đảo điên chính quyền. Đó cũng là nguyên nhân chủ yếu mà Tam hoàn Lỗ quốc muốn mược sức của ta, hiện giờ phải làm sao để thoát khỏi khốn cục đây?
Khánh Kỵ chợt nghĩ đến Di Tử Hạ vừa trở về nước đã gặp phải phục kích giữa đường, dần dần nhận ra rằng, chính cục nước Vệ không còn yên bình như cái vẻ ngoài của nó nữa. Hắn gật gật đầu, trong lòng chợt nghĩ: “Xem ra ta cần phải đi Đế Khâu một chuyến, tiếp xúc với vị Vệ phu nhân này thử.”
Hắn ngước mắt, nhìn thấy Kinh Lâm đang nhìn lại hắn, cười lớn một tiếng:
- Không sao, việc này tạm thời chưa cần quan tâm đến. Hai ngày tới, Bản công tử sẽ đưa Di Tử Hạ quay về Đế Khâu, rồi chờ chỉ thị từ Vệ Hầu là được. Mau gọi người chuẩn bị yến tiệc, hôm nay ta không bàn đến chuyện này nữa, để ta và các vị huynh đệ cùng say một bữa…
- Công tử, công tử!
Bên ngoài phòng vọng vào tiếng thỉnh cầu liên hồi, Lương Hổ Tử một mình thân mang áo bào, đầu đội mũ giáp, mồ hôi ướt đẫm tiến vào bên trong.
Khánh Kỵ nhìn hắn rồi hướng về phía Kinh Lâm cười lớn nói
- Tên nô tài này thính thật, ta vừa nói đến đãi tiệc rượu, là thấy ngươi xuất hiện rồi.
Kinh Lâm định giải thích gì đó với Khánh Kỵ, lời còn chưa nói ra, Khánh Kỵ đã cười lớn bước tới chỗ Lương Hổ Tử, dang hai tay, toan ôm lấy Hổ Tử, đồng thời đưa cánh tay ra định vỗ vào tay trái Hổ Tử, không ngờ lại vỗ vào không khí.
Nụ cười trên khuôn mặt của Khánh Kỵ bỗng nhiên tắt lịm, nghiêm mặt lại, hắn nắm lấy cái tay áo trống không của Hổ Tử, hạ giọng hỏi:
- Tại sao lại như vậy?
Kinh Lâm đứng bên cạnh vội vàng giải thích:
- Công Tử, đó là do lúc gặp người Ngô phục kích trên đường lần trước, Lương tướng quân một mình đấu với bốn tên, không đề phòng phía sau bị bọn chúng chém lén…
Nói chưa dứt lời, Lương Hổ Tử đã cười lớn cởi mở, lớn tiếng nói:
- Hảo nam nhi lấy chiến công làm đầu, có biết bao nhiêu binh sĩ bỏ mạng nơi sa trường, ta chỉ có vết thương nhỏ nhặt này, tính toán làm gì chứ? Lương Hổ Tử chỉ có một ý nguyện, dốc hết lực phục tùng công tử nhà ta thôi.
- Lương tướng quân.
Khánh Kỵ chịu không được, hai mắt chợt ngấn lệ, trong dòng nước mắt, Lương Hổ Tử đã nắm chặt lấy tay hắn, hướng về phía mọi người cười lớn:
- Tam quân Ngải thành, ngẩng đầu nên nào, hôm nay cuối cùng công tử nhà ta đã quay về, hôm nay các ngươi cùng ta có nhiệm vụ phục rượu công tử, không say không về.
Ngày hôm sau, Khánh Kỵ xuất hiện tại thao trường luyện binh. Hôm nay, Khánh Kỵ đầu đội mũ giáp, áo bào bao bọc toàn thân, bên ngoài khoác chiến khố bằng da tê giác, hông đeo kiếm, tay cầm thương, lúc hắn xuất hiện trên thao trường, đám quân lính nghe qua là công tử đã khỏi bệnh lúc này tinh thần phấn chấn, đồng thanh hô vang hoan hỉ không ngừng.
Cái gọi là tinh thần của đám binh lính, mục đích và ý nghĩa tồn tại đều dựa vào Khánh Kỵ, có Khánh Kỵ, toàn bộ đám quân lính mới có được Tinh, Khí, Thần.
- Bày trận, đội cầm kiếm thuẫn hướng phía trước, đội cầm giáo thương phía sau.
Lương Hổ Tử đứng trên đài cao. Tay cầm một thanh trường thương dựng đứng uy nghiêm, giống như một vị thiên thần uy phong lẫm liệt. Theo tiếng hô to của Lương Hổ Tử, cờ lệnh phất động, tiếp theo là tiếng cổ vũ reo hò, nghe thấy tiếng hô hào này, nhìn thấy cờ hiệu đang phất, đội quân bắt đầu rời vị trí, đan xen vào nhau, đứng trên đài cao quan sát, nhìn thấy đạo quân biến hóa rất rõ ràng.
- Tập trận, binh khí dài ngắn phối hợp tác chiến.
Đội hình lại biến hóa một lần nữa, đội tay cầm giáo, đội cầm thương, đội cầm kiếm, thuẫn tập hợp thành những đội nhỏ, hình thành một trận đồ tác chiến. Từ trên cao nhìn xuống giống như từng đóa hoa mai. Tất cả đội hình này tùy vào cờ hiệu mà chuyển động lên phía trước.
- Giết, giết, giết
Hiệu lệnh tác chiến được phát ra, cả ngàn người đồng thanh hô to, rền vang trời đất. Âm thanh keng keng phát ra từ kiếm đánh vào mặt thuẫn, làm cho hồn người khiếp sợ, toàn đội dựa vào tiếng trống mà tiến lên phía trước, giáo đâm vào cổ, thương đâm vào bụng, kiếm thuẫn vượt qua đến gần đọ sức, chém vào thủ cấp, võ sĩ đấu tay không cũng tiến lại gần giáp lá cà.
Khánh Kỵ nhìn cách bày trận này, trong lòng vui mừng, mặc dù nói rằng chiêu binh không đủ, nhưng nếu như thế này, đối với việc huấn luyện binh lính cũ, cứ nghiêm chỉnh chấp hành quân lệnh, phối hợp ngầm với nhau, thì lực chiến đấu trong lúc chiến đấu không dám nói là một tương đương với mười, chí ít cũng có thể tương đương với ba người khi nghênh chiến với những đội quân chưa từng được chinh chiến huấn luyện qua.
- Luyện binh, chú trọng rèn luyện quân luật, chấp hành quân lệnh. Tiếp theo, là kinh nghiệm trước chiến đấu, lòng can đảm và dũng khí chống lại kẻ thù. Thứ ba, là đội quân cầm giáo, đội quân mang thương, đội kiếm thuẫn, đội cung tên có sự phối hợp hoàn mĩ, cuối cùng mới là trình độ của người dụng binh. Từ nay về sau, cần gia tăng tập luyện như vậy, chú trọng thứ tự trước sau, đồng thời, cũng không thể dùng chiến trận giả như vậy để giao chiến, có thể dùng kiếm gỗ thay thế để thực chiến, Kinh Lâm, Hổ Tử mỗi người một bên, chia nhau ra đánh trận thật.
Khánh Kỵ đứng trên đài cao khoanh tay đứng nhìn trận đồ, lần lượt giải thích cho hai vị đại tướng quân Kinh Lâm, Lương Hổ Tử.
- Tuân lệnh, xin nghe theo hiệu lệnh của công tử.
Kinh Lâm và Lương Hổ Tử thân mặt áo giáp, chắp tay xưng mệnh.
Khánh Kỵ vui vẻ gật đầu, quay mình bước xuống đài, vừa bước đi được vài bậc, bỗng quay đầu lại hỏi:
- À… Kinh Lâm, ngươi vừa nói gì với ta, rượu gì?
Kinh Lâm vội vàng bước tới hai bước, đáp lại:
- Thủ hạ nói là, rượu mà chúng ta ủ, đã được đem ra khỏi hầm rồi, ngài xem, có cần giữ lại một ít không, chúc mừng công tử quay về? Đương nhiên, chúng tôi không thể nói như vậy được, vài ngày nay bởi vì công tử không xuất hiện trước mọi người, lại không có lí do nào khác, sĩ binh bọn họ tỏ ý nghi ngờ, lén lút đào ngũ. Những người ở lại, có thể nói là những huynh đệ trung thành với chúng ta, hơn nữa lại vừa thu hoạch xong, mọi người ai cũng vất vả hết…
Hắn nói còn chưa xong, Khánh Kỵ đã cười lớn, nói:
- Được rồi, giữ lại đủ rượu cho ta, để cho các huynh đệ vui sướng một hồi, còn nữa, gọi người giết cho ta hai mươi con lợn, dê đang nuôi trong chuồng, để các huynh đệ ăn một bữa thật no. Thời gian, để tối nay đi, tại khuôn viên doanh trại, đốt đèn lên, để cả nhà náo nhiệt một đêm…
Khánh Kỵ lại bước tiếp hai bước, rồi lại quay đầu ngạc nhiên hỏi
- Rượu ủ, rượu ủ phải cần lương thực, hơn nữa phải rất nhiều lương thực, chúng ta chuẩn bị đủ lương thực để nuôi vạn đại quân không? Bình thường tiêu hao lương thực tràn lan, lúc thu hút quân đi chinh phạt, quân nhu càng cần nhiều hơn đó.
Kinh Lâm cười vui giải thích:
- Công tử, rượu ủ mặc dầu cần lương thực, nhưng loại rượu cao lương mà chúng ta ủ mùi vị đậm đà, rất được ưa chuộng, giá bán rất cao, dùng số tiền bán rượu này đi mua lương thực về so với lương thực dùng để ủ rượu còn nhiều hơn gấp bội. Hơn nữa, chúng ta còn ủ rượu bằng thảo quả hái trên núi về, công không nhiều, lại chua chua ngọt ngọt, rất được các bậc sĩ đại phu nước Vệ ưa chuộng.
Khánh Kỵ nghe hắn tính toán chi li như vậy, trong lòng vui lên nói
- Được lắm.
Hắn lại chớp mắt hỏi tiếp:
- Lần này, ta thuận đường mang về mười xe muối, sau này, loại muối biển trắng như tuyết, chất lượng thượng đẳng này sẽ còn được đưa tới cuồn cuộn không dứt, ta bảo ngươi đi thăm dò, việc bán muối này ngươi chuẩn bị tới đâu rồi?
Kinh Lâm chắp tay thưa:
- Công tử yên tâm, thủ hạ đã chuẩn bị đầy đủ, hai nước Vệ, Tấn đều đã thăm dò kĩ càng rồi. Do công tử có chí phục quốc, chúng ta vài ngày nữa xuất binh, kinh thương chỉ là tức thời thôi, vậy nên sau khi thuộc hạ tính toán, cho rằng nếu phải bán hàng tại khắp các thành trấn , không bằng liên hệ với thương nhân, bỏ chút ít lợi ích, do họ buôn bán lẻ, hiện tại đã liên hệ với nhiều thương nhân rồi, chỉ chờ hàng muối đến, là lập tức áp tải đến đó.
Khánh Kỵ kêu một tiếng rõ to
- Được lắm
Rồi quay mình vỗ vỗ bả vai của Kinh Lâm, lại quay sang Hổ Tử nói:
- Hai ngươi quản lí quân chính, tập luyện binh mã, cố gắng chuẩn bị tốt, qua hai ngày tơi, ta đi Đế Khâu, tranh thủ sự đồng ý của Vệ Hầu và Vệ phu nhân, chiêu mộ thêm binh mã, tháng ba sang năm, lại khởi binh đáng nước Ngô.
Lương Hổ Tử và Kinh Lâm tinh thần phấn chấn, đồng thanh chắp tay thưa
- Tuân mệnh
Cung điện nước Vệ rường cột chạm trỗ, mang một vẻ đẹp cổ vận, kiến trúc trong vườn cây được sắp xếp cẩn thận dựa vào sinh thái nguyên thủy, vết tích của các nhân công điêu khắc không hiện rõ lên. Hồ bơi, vườn hoa, đường đi, vườn cây, tất cả đều hiện lên đầy vẻ hoang dại, vui tai vui mắt.
Phía hai bên cung điện, vườn cây thấp thoáng, ẩn hiển, người vào ra rất nhiều, trong đó có thị vệ trong cung, lại có thị vệ đại phu ngoài cung, không kể trong ngoài, nhìn y phục thì biết là người có chức quan, phía trên cổng cung điện có treo một tấm bảng đen đề ba chữ: Nguyệt Hoa Cung
Vệ phu nhân Nam Tử ngồi chính giữa phía sau ngọc án, cổ thẳng đứng, hai hàng chân mày liễu. Một đôi mắt phụng chứa đựng vẻ tà khí. Cái miệng dễ thương cứ nhép nhép liên hồi bỗng nhiên dắt nhẹ lên trên, kéo ra một sợi dây biểu lộ thần khí cười mà không cười.
Phía dưới thềm có các quan viên thần sắc nghiêm nghị, hơi thở nhẹ nhàng đang ngồi trên hai chiếc thảm, cố gắng không gây ra tiếng động khiến người khác chú ý. Vệ Hầu thì ra chính phu nhân là Thích phu nhân, nhưng nàng bị thất sủng, hiện tại chính phu nhân của Vệ Hầu là Nam Tử phu nhân. Nam Tử phu nhân mặc dầu còn trẻ, nhưng là người mưu mô thủ đoạn, đến nước Vệ không bao lâu, nhưng đã tạo thế chân kiềng, đầu tiên nắm giữ dân chính, sau đó nắm quân quyền, từng bước thu nạp những tên du thủ du thực, hay quyền lực của những đại công khanh không phục chính nghiệp Vệ Hầu giao phó. Việc mua bán quan chức trong ngoài triều, hắn đều không quan tâm, hôm nay là lần đầu triệu tập nhiều người như vậy đến bàn chuyện triều chính, thử hỏi ai mà không thấp thỏm lo âu.
Nam Tử phu nhân hai mắt chớp nhẹ. Đưa ngón tay thon dài, đẹp đẽ ra hiệu, từ trên án thượng cầm một tấm thẻ bài, nhẹ nhàng đưa ra ngay trước mặt, hai hàng chân mày xao động nhẹ, nghiêm nghị quan sát. Bọn lính hầu phía sau nhất từ đầu đến cuối ngồi yên như núi, không hề nhúc nhích.
hắn mặc bộ y phục màu xanh thẫm, cổ áo và tay áo được thêu thùa hoa văn đính vàng, ngay eo mang một dây thắt lưng thêu ngọc, mái tóc đen tuyền bóng loáng được bới lên cao, một cây trâm ngọc trắng tinh không chạm trổ hoa văn được cài lên trên búi tóc đen tuyền kia. Bờ vai giống như được gọt thành, tấm lưng dài, trắng mút, cử chỉ tao nhã, đôi mắt đẹp khi lấp lánh giống như thanh vân che nguyệt, dung mạo rất đẹp. Hai mắt liếc nhanh nhìn phút chốc, Nam Tử cầm bút chấm nhẹ vài nét trên tấm thẻ trúc, sau đó tay phải vén lấy tay áo bên trái, rồi gác bút lông trở về nghiên bút, mày ngài dao động một lát, lạnh nhạt đưa mắt nhìn xuống đám quân thần., tương giao mà nói
- Vài năm trở lại đây sản lượng tơ tằm, dệt lụa giảm xuống hằng năm. Càng ngày càng ít, nước Vệ chúng ta cho dù không phải là quốc thái dân an,nhưng cũng không xảy ra chiến loạn, lại không có thiên tai dịch bệnh gì xảy ra, cũng chưa từng có ai tấu trình cho ta nguyên nhân, ai nói cho quả nhân biết, nguyên nhân từ đâu?
Vợ Châu Thiên Tử, xưng Vương Hậu, phương nam mạo xưng Vương địa Sở Vương, Việt Vương, Ngô Vương, thê tử cũng xưng Vương Hậu. các nước chư hầu tuyệt nhiên không chịu tôn sùng Châu Thiên Tử là cung chủ. Vợ của An Lễ Chất, Bang Quân, vua xưng là phu nhân, phu nhân tự xưng là tiểu đồng, quốc nhân xưng là quân phu nhân, chẳng qua cũng là tự xưng là phu nhân đi cùng quân chủ, trước mắt hạ thần tự xưng là quả nhân, đó là truyền thống của nước Vệ.
Chúng quan viên chỉ biết nhìn nhau, đưa mắt ra hiệu lẫn nhau, cuối cùng mới có một vị đại phu chức vụ tương đối cao từ phía sau án thượng bước ra, bước đến đứng trước điện, chắp tay kính cẩn thưa
- Khởi bẩm quân phu nhân, thần tận trung báo quốc, không dám tắc trách. Vài năm trở lại, sản lượng hàng tơ lụa, dệt may, thêu thùa giảm xuống, chắc hẳn nguyên nhân là do lợi ích mà giới kinh doanh trong nước ham muốn, lực lượng thanh niên lao động trong nước đa phần đã ra nước ngoài kinh thương, không chịu được khổ cực làm việc trên đồng ruộng, do đó sản lượng hàng năm liên tục suy giảm.
Thủ lĩnh Tự Nhân Thiệu bước ra, nói tiếp
- Lữ đại phu nói là, Quân phu nhân, hơn một năm nay, tên người nước Ngô Khánh Kỵ chiêu binh mãi mã tại Ngải thành, đã kiến công lập nghiệp, vợ con được hưởng đặc quyền khi đến đây đã thu hút, mê hoặc, khiến cho nhiều thanh niên trai tráng không chịu an tâm làm nông nghiệp, bỏ đến Ngải thành sung quân, đó cũng là một nguyên nhân…
- Nói bậy…
Nam Tử phu nhân phất tay áo, phát ra âm thanh phần phật, thẻ tre trên án thượng rơi xuống, Lữ đại phu kinh hoảng thối lui hai bước, vệ Nhân, Tự Nhân Thiệu vội quỳ xuống, đưa tay trước trán, run sợ nói
- Quân phu nhân tha tội!
- Quả nhân sớm biết, trên phố có người xuất bán các loại hàng tơ lụa, đồ trang trí, hàng dệt với phẩm chất thượng đẳng,những sản phẩm này tại sao lại được bán ở những nơi tầm thường đó được, ngươi nói đi.
Nam Tử nhỏm dậy, lạnh nhạt quát lớn, khoa tay chỉ, lộ ra chiếc móng tay dài hướng xuống dưới, cái móng tay dài được nuôi dưỡng từ lâu như chực đâm vào mũi của Tự Nhân đang quỳ cách đó vài trượng, Tự Nhân trong lòng run sợ, thân hình cúi xuống đất.
Lữ đại phu hoảng sợ lại lui một bước, trong điện một hồi yên ắng, không ai dám lên tiếng. từng cặp mắt run sợ hướng về người phụ nữ diễm lệ tuổi hai mươi chín đang ngồi trên án thượng.
Nam Tử hướng đôi mắt sắc lạnh, với hai con ngươi lạnh toát nhìn xuống đám quan thần trong ngoài ngu dốt, cái môi đẹp đẽ nhẹ nhẹ lấp liếm, miệng hơi nhếch lên, gọi lớn
- Điển Ti, Điển, Nhiễm Nhân, Lư Sư, Vũ Nhân, Chưởng Cát, Chưởng Nhiễm Thảo.. tất cả đứng dậy cho Quả nhân.
Điển Ti, Điển…đều là những tên quan hầu phụ trách việc sản xuất, chế tạo, và trưng thu các loại nguyên vật liệu như tơ tằm, vải đay, ấn loát, thuốc nhuộm…, tùy theo tên gọi của Nam Tử phu nhân, một đoàn người bước ra, tới đại điện quỳ xuống.
Điển Ti Thành đại phu, ngươi nói
Nam Tử phu nhân nghiêm giọng nói
- Nói thật cho ta nghe, nếu nữa lời giả giối, nghiêm trị không tha.
Thành đại phu quỳ dưới nền toàn thân run rẩy, mồ hôi thấm đầy ra mặt của Đậu Đại, đứng đó nữa nữa ngày cũng không nói ra một lời.
Nam Tử phu nhân ném ánh nhìn về phía y, cười nhạt nói
- Đồ vô dụng
Phía dưới cằm của hắn nhẹ nhàng giương lên, lướt mắt nhìn qua nhưng quan sử đang quỳ dưới điện, nghiêm nghị nói
- Những thứ này, từ gieo trồng, thu hoạch, chế tạo, ấn loát, trưng thu, đều khéo kín, chỉ có các ngươi, nếu các ngươi thông đồng với nhau, nếu các ngươi không lừa đảo, thì làm sao có thể xảy ra chuyện này chứ?
Quân thần hoảng sợ không dám nói, Nam Tử nhìn thấy cảnh này càng thêm tức giận, hắn đập mạnh tay xuống án thượng, quát lớn
- Trồng đay, dệt lụa là mạch máu kinh tế của nước Vệ ta, những sản phẩm tơ lụa thượng đẳng chỉ do nước ta chế tạo, hiện tại có kẻ tham ô, do đó sự giàu có của dân chúng, phồn thịnh của quốc gia, đều lọt vào tư túi của những kẻ này. Những tên sâu mọt, tiểu nhân như vậy, hai bên đều không dám ra mặt, các ngươi đều là những quan viên có trách nhiệm trông coi việc này, đến hôm nay, còn có thể đổ lỗi cho nhau nữa không?
- Quân phu nhân thứ tội!
Điển Ti, Điển, Nhiễm Nhân, Lư Sư, Vũ Nhân và những quan lại không dám biện bạch, đồng loạt bái lạy xuống đất, hoảng sợ cáo tội.
Lữ đại phu mắt thấy mọi người quỳ xuống, cũng không dám đứng một mình, lo sợ không yên quỳ xuống theo mọi người, thái giám Thiệu dập đầu bình bịch, hoảng sợ kêu to:
- Quân phu nhân thứ tội, quân phu nhân thứ tội, chúng ta... chúng ta... - Hắn có tâm muốn đưa mọi người lên pháp trường, nhưng mà trước mặt người khác thì không tiện mở miệng, ê a ê a, khó có thể nói thêm được.
Nam Tử cười lạnh không nói, thái giám Thiệu chỉ biết dập đầu, trán dần dần chảy đầy máu tươi, âm thanh bình bịch dập đầu khiến cho mọi người nghe mà hãi hùng khiếp vía, mỗi tiếng vang lên, trán của bọn họ đều tê rần, như kiểu chính mình đang đập đầu lên mặt đất vậy.
Nam Tử phu nhân rủ mi mắt nhìn hắn, bên trong đôi mắt quyến rũ hiện lên một tia sáng lạnh buốt kì dị, cao giọng nói:
- Nội ti, lấy Thiệu làm trưởng; Ngoại ti, lấy Lữ đại phu làm trưởng; Hiện giờ tài sản quốc gia đi vào trong nhà riêng, tội của hai ngươi không thể tha thứ, người đâu, dẫn hai người kia đi, giao cho Tư Khấu đại nhân thẩm tra xử lí!
Ngoài điện lập tức vài tên thị vệ như lang như hổ vọt vào, nắm lấy Lữ đại phu cùng thái giám tổng quản Thiệu kéo ra ngoài, những người khác mặt xám như tro, quỳ trên mặt đất chỉ biết phát run.
Nam Tử phu nhân mang theo chút ý đùa cợt liếc nhìn những người đang quỳ dưới kia, lạnh lùng nói:
- Các ngươi đều là công khanh đại phu, đạo đức quân tử, xưa nay đều ra vẻ đường hoàng đạo mạo, ngôn từ toàn nói nhân nghĩa, lời lẽ không rời đạo đức, trên thực tế cũng chỉ là lừa trên gạt dưới, không từ bất cứ việc xấu nào, hiện giờ đã biết tội chưa?
Đến tình huống này rồi, cũng không còn ai dám phản bác, mọi người mồm năm miệng mười liên thanh xin lỗi. Bọn họ không biết Nam Tử sẽ xử lí bọn họ thế nào, trong lòng ai cũng sợ hãi, không ngờ Nam Tử chỉ nhẹ nhàng thở dài, nói:
- Thôi, việc này cũng không phải toàn bộ trách nhiệm của các ngươi, kẻ bề trên đi làm cướp, làm việc như vậy thì sao có thể làm gương cho người khác noi theo. Mà những giám quan cũng lơi lỏng quá mức, mới dẫn đến cục diện hôm nay. An trị Vệ quốc, toàn bộ phải dựa vào các khanh, quả nhân không muốn làm lớn, tha cho các ngươi lần này vậy.
Nam Tử phu nhân nói lời này đúng là chiêu độc, trước tiên đem trách nhiệm chủ yếu đổ lên đầu Lữ đại phu cùng thái giám Thiệu, rồi lại không nhẹ không nặng làm giảm vị trí đứng đầu hậu cung của Thích phu nhân, những quan lại này lập tức theo gió lấn tới, tới tấp thể hiện sự trung thành, theo ý tứ của nàng tới tấp ngươi một lời ta một lời tố giác Thích phu nhân, Lữ đại phu, thái giám Thiệu vô năng ngu ngốc như thế nào, tham lam thành tánh thế nào, cái có cái không, càng nói càng trở nên thái quá.
Nam Tử liếc mắt nhìn trò hề của bọn họ, gõ gõ ngón tay, nhẹ nhàng bâng quơ nói:
- Trước giờ không phạm tội, không có nghĩa là giờ có thể phạm tội. Quả nhân sẽ xin ý chỉ của quốc quân, Do Đặng Hiền, Bắc Cung Hỉ hai vị đại phu tra rõ việc này, lấy về tang vật tham ô của Lữ đại phu và thái giám Thiệu. Về phần các ngươi... Không cần quả nhân dạy các ngươi cũng biết nên làm thế nào rồi?
- Phải phải, chúng thần đã hiểu, chúng thần đã hiểu, chúng thần trở về sẽ lập danh mục, điều tra rõ thiếu hụt, tất cả tổn thất sẽ được bổ sung.
Nam Tử đứng lên, hừ lạnh một tiếng, phất tay áo rời đi, chân sen nhẹ nhàng. Những đại phu và thái giám đang quì sấp thỉnh tội vội vàng bò lui ra phía sau, tránh đường cho nàng đi, một đám đầu đầy mồ hôi cúi gằm. Chỉ nhìn thấy váy áo lướt qua, một làn gió thơm thoang thoảng thổi tới, Nam Tử phu nhân đã đi qua bọn họ thản nhiên ra ngoài.
Lúc Nam Tử rời khỏi Nguyệt Hoa cung, sắc trời u ám, những cơn mưa mùa thu rơi xuống, đập vào lá cây tí tách. Thị tỳ bên người sớm đã chuẩn bị ô che, phu nhân vừa tới, nàng đã mở ô ra. Nam Tử chưa quay về buồng ngủ, nàng hít một ít không khí trong lành, bước đi về phía hậu hoa viên. Thị tỳ vội vàng cầm ô đi theo, hơn một nửa thân mình đều đã dính đẫm nước mưa, tới khi đến hậu hoa viên, môi đã đông lạnh tím tái cả lại.
Nam Tử ngẩng đầu lên nhìn trời, thở dài một hơi, đón nhận cái ô từ trong tay thị tỳ, thản nhiên nói:
- Ta tự đi trong vườn một chút, ngươi đi thay y phục đi, đứng ở trong điện chờ ta.
- Dạ!
Thị tỳ hành lễ lui ra, Nam Tử ngưng lại một chút, rồi bước đi về phía vườn.
Trong hậu hoa viên, những cây hoa chiều cao không đồng nhất đều đã dính đầy giọt nước mưa, mưa thu tí tách, những lá cây dính nước mưa cũng không tràn ngập dào dạt sinh cơ như mùa xuân, mà thoạt nhìn có chút hương vị hiu quạnh.
Nhìn thấy tòa đình lầu các, trên mái hiên mưa rớt như những hạt ngọc, ào ào rung động.
Tòa đình phía trước, một nam tử thân mình thon dài tay để sau lưng đang đứng trong đình, nhìn mưa bên ngoài đến xuất thần. Nhìn thấy hắn, trong mắt Nam Tử lóe ra một tia thần sắc bối rối, trong giây lát lại trở nên trong sáng, liền đi vào trong đình. Nam tử đứng trong đình đúng là một thanh niên ngọc thụ lâm phong, mặt như Quan Ngọc, dung mạo tuấn mỹ, dáng người cao lớn. Gió thổi mưa tạt, có khi nhẹ hắt vào trong đình, rớt xuống dưới chân hắn, hắn vẫn không nhúc nhích, áo bào có khảm ngọc nên khá nặng, không thể bị khó thổi lên, chỉ theo làn gió mà khẽ đu đưa, bội kiếm đeo ở bên hông cũng nhẹ nhàng mà lay động.
Nam Tử nhẹ nhàng đi vào trong đình, để ô sang một bên, người kia không nhận ra có người đến, vẫn nhìn cơn mưa ngoài đình đến xuất thần. Nam Tử bỗng nhiên thở dài, đi tới đó, mở rộng vòng tay, nhẹ nhàng ở đằng sau ôm lấy eo hắn, dán mặt mình lên tấm lưng của hắn.
Thân mình người kia đầu tiên là chấn động, rồi lại trầm tĩnh lại, đôi mi thanh tú mở ra, trên vẻ mặt cô đơn lộ ra thần sắc vui sướng. Hắn nhẹ nhàng nắm bàn tay nhỏ bé lạnh lẽo của Nam Tử, ôn nhu xoa nắn một chút, sau đó xoay người lại, nhẹ nhàng vuốt ve cằm của nàng, đầu ngón tay nhẹ lướt qua làn môi nàng, một chút ý cười hiện lên trên khuôn mặt kiều mỵ của Nam Tử.
Nhìn bộ dáng người này, chính là Tống Triều đã theo Khánh Kỵ từ Lỗ quốc tới Vệ quốc.
- Tử Triều, để chàng đợi lâu.
- Không có gì, nàng hiện giờ là quân phu nhân cao quý, có rất nhiều đại sự buộc phải làm.
Nam Tử mỉm cười:
- Hiện giờ chàng đã là Vệ quốc đại phu, đối với chức vị hiện tại có vừa lòng không?
- Đương nhiên là vừa lòng, tất cả đều là nhờ nàng đó.
Nam Tử khẽ sẵng giọng:
- Nói cái gì đó, chàng là ca ca của thiếp, thiếp không giúp chàng thì còn giúp ai đây?
Tống Triều giữ chặt tay nàng, nhẹ giọng cười nói:
- Nam Tử, ta chỉ là ca ca của nàng thôi sao?
Hai má Nam Tử trở nên đỏ bừng, đánh nhẹ vào ngực hắn một quyền, đôi mày đột nhiên nhướn lên, yếu ớt nói:
- Ai..., hiện giờ thiếp đã là Vệ Hầu phu nhân, chàng lại là huynh trưởng của thiếp, còn có thể làm được gì?
Tống Triều nghe thấy vậy, đáy mắt hiện lên một tia che giấu, rồi lập tức tản đi, chỉ nhẹ nhàng thở dài.
Hóa ra, Tống Triều này chính là Tống quốc công tử, họ Tử tên Triều, cũng chính là mối tình đầu trong truyền thuyết ở Tống quốc của Nam Tử. Tử Triều cùng Nam Tử theo bối phận xem như là đường huynh muội (anh em họ), tuy rằng Tống quốc lập quốc đã hơn năm trăm năm, nếu thật sự tính toán, bọn họ cũng không biết tổ tông nào của mình là thân huynh đệ, nhưng mà đều là công thất quý tộc của Tống quốc, tới thời bọn họ đồng lứa cũng được coi như đường huynh muội.
Nhưng mà đối với đôi đường huynh muội này, giữa hai người lại có cảm tình, cuộc tình này cũng có thể coi như là không theo luân lí, khiến cho người khác chỉ trích. Vua Tống nghe phong phanh được, sợ hai người lại nháo lên làm nhục tôn nghiêm của công thất, cho nên mới vội vội vàng vàng đem gả Nam Tử cho Vệ Hầu.
Nam Tử rời khỏi Vệ quốc còn chưa tới một năm, Tử Triều bởi vì ở Tống quốc tranh đấu thất bại, lo ngại bị đối thủ sát hại, vì thế nên cuống quýt chạy sang Tống quốc. Hắn thân mật với Nam Tử, ở Tống quốc ai ai cũng biết, hiện giờ Nam Tử là Vệ phu nhân, hắn muốn đào tẩu, dù là ai cũng đoán được rằng hắn muốn tới đầu nhập vào Nam Tử. Tử Triều lo rằng kẻ thù sẽ mai phục giữa đường, cho nên không đi theo đường bộ trực tiếp tới Vệ quốc, mà là lấy một chiếc xe lớn, trước tiên chạy sang Lỗ quốc, sau đó từ Lỗ quốc lại đi thuyền qua Việt Tề tới Vệ, gián tiếp đi tới Đế Khâu.
Nam Tử đang được Vệ Hầu sủng ái, theo sự tiến cử của Nam Tử, kẻ thống trị quốc gia tựa như một thằng ngu, một Vệ Linh Công chiêu hiền đãi sĩ như thánh nhân liền thu lưu hắn, cũng bái quan làm đại phu, làm quan ở Vệ quốc.
Nam Tử thấy hắn trầm mặc, tự thấy hối hận đã nói lỡ, vội miễn cưỡng thay đổi đề tài, đắc ý nói:
- Vệ quốc trên dưới, thật sự là chủ tầm thường thần gian trá, thối nát không chịu nổi, cứ như vậy thêm, sớm muộn gì cũng do thế gia nắm giữ, giống như Lỗ quốc Tam hoàn vậy. Hiện giờ Nam Tử đã là Vệ phu nhân, không thể ngồi xem giang sơn xã tắc bị tư nhân nắm giữ, hiện giờ đang dốc sức thu hồi lại quyền lực.
Hôm nay, lợi dụng chuyện quyền thần trong ngoài cấu kết tham ô, thiếp đã cho bắt hai kẻ nắm giữ tài chính nước Vệ là Lữ đại phu và thái giám Thiệu, giao cho đại tư khấu Tề Báo xử trí, đồng thời bảo Đặng Hiền, Bắc Cung Hỉ hai vị đại phu kê biên tài sản của hai kẻ tham ô, hy vọng có thể lấy lại được những tài sản đó.
Công tử Triều nghe thấy vậy thì nao nao, ngạc nhiên nói:
- Tề Báo cùng Bắc Cung Hỉ đã đầu phục nàng rồi? Hai người bọn họ sẽ theo ý nàng hành sự, nhưng hai người đó lại chỉ có chức không có quyền, bị Công Mạnh Trập chi phối, chỉ sợ sẽ không có trọng dụng. Về phần Đặng Hiền, người này vốn có hiền danh, nhưng luôn luôn chỉ là một chính nhân quân tử không chịu leo lên quyền quý...
Nam Tử cười nhạt nói:
- Hắn thì tính là cái chính nhân quân tử quái gì, chỉ là một kẻ tốt bụng lúc nào cũng cẩn thận dè dặt không dám đắc tội với người khác mà thôi.
Nam Tử cười nhạt nói:
- Hắn thì tính là cái chính nhân quân tử quái gì, chỉ là một kẻ nhát gan lúc nào cũng cẩn thận dè dặt không dám đắc tội với người khác mà thôi.
Công tử Triều cười nói:
- Bảo hắn là kẻ nhát gan cũng đúng, người này từ xưa tới nay không dễ mà đắc tội với người khác, đúng là một người tốt nổi danh xán lạn. Sau lưng Lữ đại phu chính là Công Mạnh Trập, Công Mạnh Trập thế lực khổng lồ, sẽ ngồi yên xem thân tín của mình bị đoạt quyền sao? Theo tâm tính của Đặng Hiền, chỉ cần Công Mạnh Trập vừa mới nhíu mày, hắn đã run sợ trong lòng rồi.
Công Mạnh Trập là huynh trưởng của đương kim Vệ Hầu, là một gã què, nhưng hắn là người nắm binh quyền nặng nhất chỉ dưới vua Vệ. Trong triều đình hắn có rất nhiều tai mắt, thế lực khổng lồ, áp đảo tất cả công khanh thế tộc, nếu tùy ý để cho hắn phát triển, gia tộc Công Mạnh Trập tất nhiên sẽ giống như Lỗ quốc Tam hoàn, quyền bính đảo ngược, khiến quốc quân trở thành thứ trưng bày.
Nam Tử mày ngài nhướng lên, nói:
- Thiếp biết, đâu chỉ có Đặng Hiền, trên dưới triều đình, có mấy ai dám chống lại kẻ quyền lực khuynh đảo triều chính như Công Mạnh Trập? Vốn là như thế, nên thiếp mới nhất định phải đối phó với hắn. Vua sở dĩ là vua, không thể dựa vào lòng trung thành của thần tử, mà phải dựa vào quyền hành và thế lực quân chủ, vua mà thất thế, tất sẽ bị thần khống chế. Cho dù thần tử bây giờ có trung thành, ai có thể cam đoan rằng sau này hắn vẫn trung thành? Hắn dù có trung thành, ai có thể cam đoan rằng hậu thế của hắn cũng sẽ trung thành, quyền lực tốt nhất phải nắm giữ trong tay mình.
Cho nên Nam Tử xuân khuê tịch mịch đem hết cả tinh lực đặt vào trong chính trị, nàng muốn lấy lại quyền lực, người đầu tiên phải đối phó chính là Công Mạnh Trập. Bằng nàng một người đương nhiên không thể, cho nên Tề Báo, Bắc Cung Hỉ toàn bộ đều rơi vào trong mắt nàng.
Tề Báo, Bắc Cung Hỉ đều là thế tộc công khanh Vệ quốc, nhưng mà hai người đều bị Công Mạnh Trập áp chế, ở trong triều không có triển vọng. Gã thọt này luôn không coi Tề Báo, Bắc Cung Hỉ ra gì, cứ trêu đùa bọn họ tới mức khiến cho người ta khó có thể tha thứ. Hắn thường xuyên bới ra cái tội danh gì đó để cướp đoạt chức vụ của Tề Báo, thu hồi đất phong của hắn. Đến khi nào cần dùng hắn, lại thăng quan lại, trả lại thành, tới khi dùng xong người, lại tìm ra cái cớ gì đó để bãi quan hắn, rồi lại thăng quan, lặp đi lặp lại. Tề Báo bị gã thọt này tra tấn tới mức sắp phát điên lên rồi, tình cảnh của Bắc Cung Hỉ với hắn so ra thì cũng giống nhau.
Hiện giờ Vệ phu nhân Nam Tử nghiễm nhiên chính là một ngôi sao sáng đang lên trong chính đàn Vệ quốc, với thân phận cùng địa vị đặc thù của nàng, khiến cho nàng trở thành người duy nhất có thể đối kháng với Công Mạnh Trập. Tề Báo cùng Bắc Cung Hỉ đương nhiên không chút do dự, lập tức đầu nhập làm môn hạ của nàng. Dưới sự nâng đỡ của nàng, Công Mạnh Trập cũng không dám bắt nạt bọn họ không hề kiêng nể như trước, nhưng mà đúng như lời của công tử Triều, bọn họ bây giờ còn chưa có đủ thực lực để đối kháng với Công Mạnh Trập.
Nam Tử thản nhiên cười nói:
- Chuyện này thiếp đương nhiên là biết, nhưng mà Đặng Hiền cái gã nhát gan kia không dám đắc tội với Công Mạnh Trập, cũng không dám đắc tội với thiếp. Theo như thiếp sở liệu không sai, hắn sau khi nghe cái sai phái này, nhất định sẽ ăn không ngon ngủ không yên, nghĩ mọi biện pháp để từ chối. Ngày mai, thiếp sẽ thỉnh Vệ Hầu cho thiếp ra ngoài thành săn bắn, đến lúc đó kêu Đặng Hiền đi theo, chàng cũng đi cùng. Đặng Hiền tất nhiên sẽ tìm cơ hội để xin Vệ Hầu cho hắn thôi không nhận sai sử này, Lữ đại phu và Công Mạnh Trập quan hệ chặt chẽ, Công Mạnh Trập tóm lại sẽ không mặt dày đến mức đề cử chính mình đi tra án tử chứ? Đến lúc đó tự sẽ có người khéo léo tiến cử với Vệ Hầu cho chàng đi tra án...
Đôi mày liễu cong cong của nàng nhướng lên, đắc ý cười nói:
- Thiếp tin rằng, chàng sẽ không chịu khuất phục trước uy quyền của Công Mạnh Trập, đúng không?
Công tử Triều bừng tỉnh đại ngộ, vỗ tay nói:
- Biện pháp quá tốt, nếu là nàng trực tiếp tiến cử ta, không khỏi khiến cho lão mơ hồ có sự cảnh giác.
Hắn kích động nắm lấy đầu vai của Nam Tử nói:
- Nam Tử, nàng thật sự là khổ sở suy nghĩ, lo lắng cho ta. Sự khổ tâm như vậy, vi huynh thật sự là không biết nên tạ ơn nàng thế nào mới tốt.
Nam Tử nhẹ nhàng tránh khỏi tay hắn, yếu ớt nói:
- Chàng đó, tới lúc này mới nhớ ra rằng thiếp tốt. Thiếp tới Vệ quốc lâu như vậy, chưa từng thấy chàng hỏi thăm một lời, có đôi khi ngẫm lại, thật không hiểu sao thiếp lại phải mang lắm tiếng xấu như vậy, thích chàng một kẻ vô lương tâm như thế thì đáng giá hay không đáng giá?
Công tử Triều thấy bộ dáng thương tâm của nàng, liền ôn nhu nói:
- Nam Tử, ta làm sao có thể quên nàng được, nàng tới Vệ quốc làm phu nhân, đó là nở mày nở mặt đến thế nào. Bên ngoài vốn có người tung tin đồn về ta và nàng, ta sao có thể nhờ người truyền tin cho nàng được? Một khi bị tiết lộ, chẳng phải sẽ khiến nàng bất lợi sao?
Nam Tử vẻ mặt khinh thường nói:
- Cái gì mà phu nhân nở mày nở mặt, rất thể diện sao? Cái lão già đó thích nữ nhân sao, trong mắt hắn, Nam Tử còn không bằng một thiếu niên thanh tú, thiếp từ lúc được gả vẫn còn chưa...
Sau đó có một vài điều khó có thể mở miệng, nàng ngừng nói, nâng đôi mắt lên, nhìn công tử Triều, si ngốc nói:
- Chàng thật sự nhớ ta?
Công tử Triều vẻ mặt chính sắc nói:
- Đương nhiên, trong lòng ta, trên đời này không có gì trân quý hơn nàng, lần này tranh đấu thất bại, bị buộc chạy khỏi Tống quốc, chính là bởi vì đối thủ mang chuyện của ta và nàng ra để công kích, khiến cho những công khanh đại phu tự xưng là chính trực trong triều đều bị kéo sang phía bọn họ, ta mới bị thất bại thảm hại. Cho dù như vậy, dọc đường chạy trối chết, ta cũng không có chút hối hận, chỉ cần có nàng, ta không cần gì hơn.
- Tử Triều...
Nam Tử cảm động nhào vào lồng ngực hắn ôm chặt lấy thân mình hắn, một nữ nhân dù có khôn khéo mấy một khi lâm vào tình cảm, đều chỉ biết mù quáng không thấy rõ mọi thứ, công tử Triều nói một chút đã khiến cho Nam Tử nghe thấy mà cảm động.
Công tử Triều ôm nàng trong ngực, con mắt lại loạn chuyển nhanh như tia chớp, không biết đang suy tư cái gì, sau một hồi lâu, hắn tựa hồ cũng đã tìm được từ ngữ hợp lí, nắm thật chặt thân thể mềm mại của Nam Tử, ôn nhu nói bên tai nàng:
- Ta lần này vào Vệ quốc, có thể lại được nhìn thấy nàng, cả đời không cần gì hơn. Chỉ có điều... quan hệ của hai chúng ta, chỉ sợ sớm muộn gì cũng bị truyền tới tai Vệ Hầu, khi đó hắn sẽ đối với ta như thế nào? Mà ta... ta làm sao có thể từ nay về sau chỉ có thể gặp nàng mà không thể biểu hiện ra ngoài mặt, sao có thể bỏ nàng mà trốn đi chốn tha hương?
Nam Tử, nàng làm rất đúng, nếu muốn thoát ra khỏi lòng bàn tay kẻ khác, chỉ có thể nắm giữ lực lượng vào trong tay mình rồi đi khống chế kẻ khác, nàng ở Vệ quốc đã khống chế lực lượng rất lớn, nhưng nàng dù sao cũng chỉ là một nữ nhân, quyền bính không thể truyền lệnh trong cung thành, chỉ có thể thông qua những quyền thần phụ thuộc vào nàng để phát huy lực lượng chính mình, nàng cần một người toàn tâm toàn ý với nàng ở bên cạnh để giúp nàng, người này trừ ta ra thì còn ai. Hãy nghĩ biện pháp lợi dụng sự tín nhiệm và sủng ái của Vệ Hầu đối với nàng, mau chóng đưa ta lên làm thượng khanh, nắm giữ quyền lực tạm đủ, nàng và ta trong ngoài liên thủ, khi đó... Trên dưới Vệ quốc còn có ai dám nói xằng nói vậy về chúng ta nữa?
Nam Tử nghe thấy thế thì tim đập mạnh, mặc kệ là Vệ Hầu đối đãi với nàng thế nào, nàng dù sao cũng là Vệ phu nhân, đứng ở trên lập trường của nàng, đúng là không thể nhìn trượng phu chỉ có hư danh, bị kẻ khác khống chế, cho nên nàng mới nghĩ trăm phương ngàn kế, nắm lại quyền lực, nhưng mà lời nói này của công tử Triều... Nàng vốn là nể trọng công tử Triều, tin tưởng rằng hắn đối với mình không có gì không trung thực, chỉ là với suy nghĩ đó của hắn, Công Mạnh Trập sau khi ngã xuống, hắn có thể hay không lại biến thành Công Mạnh Trập thứ hai?
Nam Tử nhẹ nhàng đẩy công tử Triều ra, nhìn chăm chú vào khuôn mặt hắn, khuôn mặt kia ung dung cao quý, thanh tú như xử nữ. Nhưng mà ánh mắt hắn sắc bén bình tĩnh, đó cũng là một đôi mắt rất nam nhân, tràn ngập khát vọng với quyền lực và sự sát phạt quyết đoán tàn nhẫn. Hắn rốt cuộc vẫn là nam nhân, bên trong lòng nam nhân, dã tâm, dục vọng, quyền lực cùng kiêu ngạo, đều mãnh liệt hơn rất nhiều so với tình yêu.
Nam nhi chí tại thiên hạ, một người tài trí song toàn như hắn, ở Tống quốc một lòng mưu cầu quyền lực, sắp thành lại bại phải chạy sang Vệ quốc, có Vệ phu nhân làm cường viện cho hắn, hắn làm sao có thể chỉ cam tâm làm một trung đại phu lo áo cơm không đủ, điều hắn khát vọng là quốc gia, dã tâm nắm giữ giang sơn, hắn muốn dẫm nát người khác dưới quyền lực của mình.
- Nam Tử, nàng làm sao vậy?
Công tử Triều nhẹ lay nàng hỏi:
- Đây mới là kế an toàn nhất, nếu không, chúng ta chẳng phải chỉ là miếng thịt bò trên thớt gỗ, mặc cho người chặt sao? Chẳng lẽ... Nàng không muốn nối lại tình xưa với ta? Vệ Hầu thích nam nhân, để nàng tịch mịch như thế, nàng lại còn tuổi trẻ, cam tâm từ nay về sau giam cầm chốn thâm cung làm quả phụ sao?
Nam Tử chăm chú nhìn hắn, ánh mắt yếu ớt, không nói được một lời.
Công tử Triều có chút giận dữ, hắn chật vật gầm nhẹ:
- Nàng không tin ta có phải không? Tốt! Ta biết rõ trên đường có kẻ muốn sát hại, vẫn không ngại nguy hiểm chạy tới gặp nàng, nàng lại nghi ngờ dụng tâm của ta, thôi, thôi, ta phải đi thôi, rời khỏi Vệ quốc, đi sang tha hương, tránh cho một ngày kia quan hệ giữa ta và nàng bị lộ, phá hỏng vinh hoa phú quý của nàng, một đời được tôn vinh! Quân phu nhân, người xin tự bảo trọng cho mình đi!
Công tử Triều dứt lời, giận dữ phất tay áo, xoay người liền đi.
- Không cần!
Nam Tử bỗng nhiên kéo cánh tay áo hắn, công tử Triều cũng không xoay người, chỉ đứng thẳng người xoay lưng lại với nàng, lồng ngực phập phồng, hơi thở khó bình tĩnh, lạnh lùng thốt lên:
- Không biết quân phu nhân còn có gì phân phó tại hạ?
Nam Tử chua xót trong lòng, khẽ cắn môi nói:
- Được, thiếp... thiếp đáp ứng với chàng, ở lại bên thiếp, thiếp sẽ cho chàng... làm gì cũng được...
Công tử Triều nhanh nhẹn xoay người, kinh hỉ nhìn nàng, sau đó ôm thẳng nàng vào trong lòng ngực, thật chặt, vui sướng nói:
- Ta biết mà, Nam Tử sẽ không gạt bỏ ta, nàng vĩnh viễn là Nam Tử mà ta yêu nhất.
Nam Tử nằm trong lòng ngực hắn, lệ nóng tràn mi tuôn ra, ướt đẫm cả ngực hắn.
- Nam Tử, sao nàng lại khóc?
Công tử Triều nhẹ nhàng lau đi những giọt nước mắt của nàng, kinh ngạc hỏi.
Nam Tử cố gắng kìm nén những giọt lệ, nâng con mắt lên yên lặng nhìn hắn, khóe môi hơi giật giật, rồi lại lộ ra một nụ cười mê người như hoa quỳnh lộng lẫy:
- Không có chuyện gì, nữ nhân... khi nào muốn khóc, sẽ khóc...
Nàng hít vào mấy hơi, đột nhiên quay người liền đi, ra tới cửa đình, bỗng nhiên ngừng lại, nhẹ nhàng nói:
- Chàng... sớm về nghỉ ngơi đi, ngày mai, ta sẽ phái người tới mời, cùng xe bắt thú.
Nói xong, Nam Tử bước nhanh vào trong cơn mưa, nhanh chóng biến mất sau bóng cây tử đằng bên trong mưa bụi mờ hồ.
Công tử Triều đối với biểu tình khác thường của Nam Tử thì có chút hoang mang, hắn nhăn mặt nhíu mày, ánh mắt nhẹ nhàng hạ xuống, một chiếc ô đang mở ra ở trong đình nhẹ nhàng đu đưa, mưa theo tán ô nhẹ nhàng chảy xuống, thấm ướt một mảng đất...
Mưa đập vào trần xe, thanh âm lộp bà lộp bộp khiến cho người ta nghe lâu thấy buồn ngủ, Khánh Kỵ giờ phút này cũng đã buồn ngủ. Dọc theo đường đi, Khánh Kỵ hỏi Di Tử Hạ rất nhiều về triều đình Vệ quốc, Di Tử Hạ tuy rằng không thông chính sự, nhưng mà những việc này hắn đều biết, rất nhiều điều nói ra, chính hắn còn không rõ ý vị trong đó, nhưng Khánh Kỵ lại từ những sự việc này mà nắm giữ được nhiều tình báo trọng yếu.
Đến khi không còn gì để hỏi, Di Tử Hạ liền đảo lại, hưng phấn bừng bừng hỏi hắn chinh chiến Sở quốc, đào vong Vệ quốc, phạt Ngô phục quốc rất nhiều chuyện xưa, nghe tới say sưa, hai người dọc đường đi đúng là không tịch mịch.
- Được rồi! Nhắm mắt lại ngủ một lát đi.
Khánh Kỵ nói xong sự tình trên sông Trường Giang, ngáp một cái nói:
- Việc này, kỳ thật cũng chỉ bình thường, nhưng mà cả đời ngươi cũng không gặp phải. Ngày mai mới đến Đế Khâu, đường còn rất dài, bảo dưỡng tinh thần đi.
- Ừm!
Di Tử Hạ đáp ứng, một đôi mắt to đẹp như nữ tử chớp chớp, bỗng nhiên nói:
- Công tử, ngài không cần phải quá lo lắng, tới Đế Khâu, ta nhất định sẽ ở trước mặt Vệ Hầu nói tốt cho ngài, ngài đối với ta ân trọng như núi, Di Hạ thế nào cũng phải báo đáp lại ân tình của ngài với ta.
Nghe được ngữ khí kiên định của hắn, Khánh Kỵ kinh ngạc nhìn về phía hắn, Di Tử Hạ thẹn thùng cười cười, khuôn mặt trắng nõn hơi hơi có chút đỏ ửng, nụ cười có chút ngại ngùng.
" Di Tử Hạ chỉ là một thiếu niên theo tình cảm mà thôi, cũng chẳng phải là người trong chốn quan trường."
Khánh Kỵ cười rộ lên, nói:
- Tử Hạ, đa tạ hảo ý của ngươi, có điều việc này dính dáng đến Vệ phu nhân, ngươi là Vệ quốc đại phu, cho nên không nên đắc tội với nàng. Khánh Kỵ sẽ xử lý thích đáng việc này, tới Đế Khâu, nếu tiện, ngươi cho ta mượn một chỗ ở tạm, giúp ta hỏi thăm chút tin tức là tốt rồi.
Di Tử Hạ lập tức vỗ ngực đáp ứng:
- Tuyệt đối không thành vấn đề, chỉ cần có chỗ dùng Di Hạ, công tử cứ việc mở lời.
Mưa giông dài, xe xóc nảy, Khánh Kỵ dựa vào thành xe, gối lên gối đệm mềm mại, trên đỉnh xe truyền đến những tiếng mưa thu tí tách tí tách, khiến người ta nghe mà thấy nhàm chán, hắn cũng dần dần ngủ mất.
Di Tử Hạ khoanh chân ngồi trên ghế, nâng cằm, mở to đôi con ngươi đen như sơn nhìn hắn, một lát sau lại nhàm chán nhìn ra cửa sổ. Một lát sau, hắn cũng bị sự uể oải của Khánh Kỵ cuốn hút, thân mình mềm oặt, gối lên đùi Khánh Kỵ, chìm vào giấc mộng nặng trĩu...
Khánh Kỵ kỳ thật vẫn chưa ngủ, hắn mặc dù nhắm mắt lại, nhưng trong lòng lại đang suy nghĩ rất nhiều, tâm tư đương nhiên không rời khỏi việc phạt Ngô phục quốc. Muốn phạt Ngô, có ba phương diện là trọng yếu nhất. Về phương diện lực lượng, từ tình huống hiện giờ xem ra, Cơ Quang cũng đã khống chế được Ngô quốc ở mức cao. Hắn xây Đại Thành, phát binh phạt Sở, một phương diện muốn nhanh chóng thành lập chiến công, mở rộng ảnh hưởng của mình, củng cố địa vị chính mình, về phương diện khác cũng thuyết minh rằng hắn trên cơ bản cũng đã khống chế được toàn cảnh Ngô quốc, cho nên mới thoải mái mà dùng binh đánh nước khác.
Ngô quốc quốc nội, có thể gây ra uy hiếp với Cơ Quang chỉ có những công khanh đại phu cùng gia thần phong ấp. Bọn họ ngay cả khi có điều gì bất mãn, nhưng khi khuyết thiếu một người lãnh đạo cường đại, cũng sẽ không mạo hiểm cả an nguy của gia tộc để đối đầu với Cơ Quang. Xuân Thu người vì nghĩa mà chết thì nhiều, kẻ vì trung mà chết thì ít, những trung thần tử sĩ như sắt thép, ở thời kì này đúng là không có, thời đại này, cha so với vua lớn hơn, nhà so với nước lớn hơn, cũng không trách được bọn họ.
Về phần mình, Lỗ Vệ hai nước đã có hai nòng cốt. Hiện giờ phân chia để Tôn Vũ, Anh Đào cùng Lương Hổ Tử, Kinh Lâm phụ trách, bọn họ làm khá tốt việc huấn luyện sĩ tốt, mở rộng quân bị, khiến mình có thể rút thân ra, lo lắng vấn đề đi mượn ngoại lực. Về phần đối với việc nắm giữ hai cánh quân này, hắn thực sẽ không lo lắng, cũng không phải bởi vì sự trung tâm của mấy viên tướng lĩnh, trung tâm là một thứ gì đó vô hình mà lúc nào cũng có thể biến đổi, hoặc vì ngoại lực, hoặc vì nội lực, nhưng mà hai nhánh quân này là do hắn thành lập nên, tôn ti quan niệm của sĩ tốt vẫn còn chịu giới hạn trong thời đại này, hơn nữa hai nhánh quân này lại thành lập trên đất đai của hắn, điều kiện tồn tại duy nhất chính là hắn tồn tại, vì sự nghiệp phục quốc của hắn mà chiến đấu, bởi vậy ít nhất là trước khi hắn phục quốc thành công, sẽ không có tướng lãnh nào ăn no phè phỡn quá mà sinh ra ý niệm, xuất hiện tình huống binh quyền đảo ngược, hắn có thể yên tâm giao các việc nội vụ cho bọn họ làm.
Nhưng cho dù Tôn Vũ, Lương Hổ Tử bọn họ có giỏi đến đâu, dùng võ có thuần thục đến đâu, hắn vĩnh viễn cũng không có khả năng vượt qua được Cơ Quang. Mặc dù hai vua Lỗ Vệ yên tâm để cho trong nước bọn họ có một nhánh quân không nằm trong tay mình được phép phát triển cường đại, nhưng mà Cơ Quang đang dốc nhân lực cả nước để kiến thiết quân đội, tốc độ và quy mô đúng là hắn không bằng nổi. Ở trong tình huống Cơ Quang đã cơ bản nắm trong tay toàn cảnh Ngô quốc, hắn phải mượn ngoại lực, phục quốc mới có thể thành công được. Lúc này cùng với việc tự lực phạt Ngô hồi đầu năm không giống nhau, sách lược phạt quốc cũng phải theo thời thế mà biến hóa.
Dùng binh đầu tiên là mưu, rồi đến ngoại giao, sau rồi mới công, điều này phù hợp với thời kỳ Xuân Thu tiểu quốc san sát, cục diện chính trị chính quyền thay đổi cứ như trò đùa. Rất nhiều chư hầu các quốc gia sau khi bị đuổi đi lại có thể phục quốc, nguyên nhân chủ yếu đều là mượn ngoại lực. Nhưng mà hiện tại cục diện chính trị có chút đặc thù, đầu tiên không có một vị bá chủ tự coi việc duy trì trật tự thiên hạ làm nhiệm vụ của chính mình (kiểu Mỹ bây giờ), những cường quốc như Tấn, Tề, Sở, Tấn Tề hai nước công khanh tranh quyền, nội chiến liên miên, không rảnh mà lo việc bên ngoài. Sở quốc tập trung quyền lực vào tay vua, không có thế khanh cường đại, nhưng mà Sở Vương ngu ngốc, không có chí lớn, người có tài cán đều bị hắn tiêu diệt hết, nên không nhận nổi trách nhiệm này.
Còn các quốc gia khác thực lực đều chỉ có hạn, Lỗ quốc chỉ có thể âm thầm tương trợ, Vệ quốc tuy rằng khẳng khái, cũng chỉ cho hắn mượn một thành trì, tiện cho hắn chiêu mộ binh mã, hiện tại lại bởi vì hắn dần dần cường đại mà sinh tâm sợ hãi. Muốn phục quốc, hy vọng thành công lớn nhất là đi mượn ngoại lực, mà ngoại lực này, phải làm sao mới lấy được?
Lỗ quốc Tam hoàn có thể dùng được, nguyên nhân căn bản chính là lực lượng cân bằng giữa Tam hoàn. Còn Vệ quốc thì sao, những người cầm quyền Vệ quốc có dục vọng gì, có nhược điểm gì? Khánh Kỵ liên hệ đủ các loại tư liệu mà trong hai ngày qua âm thầm hỏi được từ miệng Di Tử Hạ, âm thầm phân tích dần dần.
Người Vệ trên trăm năm qua buôn bán mà lãi lớn, bởi vậy người nước Vệ không có những ý tưởng phi thực tế, mà chỉ chú ý ích lợi thực tế, không có những người như Quý Tôn Ý Như vì hư danh mà mệt người. Người Vệ thích lợi ích, chỉ có lợi ích mới có thể đánh động bọn họ. Người Vệ theo tính cách thích lợi ích, để cầu thành công cũng không từ thủ đoạn, từ những hào kiệt nước Vệ hơn trăm năm nay lần lượt xuất thế như Thương Ưởng, Ngô Khởi, Lã Bất Vi là có thể thấy được.
Những người này đều là hạng người hùng tài đại lược, nhưng mà đều là những người có cá tính và không có tình cảm, để đạt mục đích không từ thủ đoạn, thậm chí dùng bất cứ thủ đoạn tồi tệ nào. Thương Ưởng là pháp gia, "Bảy quốc gia hùng mạnh, nước Tần đứng đầu mạnh nhất, đều do Thương Ưởng." Nhưng mà Thương Ưởng bởi vì quá mức tàn bạo, chỉ cần một tội danh là liên lụy trăm nhà, pháp nghiêm hình nặng, không thể hơn nổi nữa, hắn mặc dù đạt được thành công lớn, nhưng cũng chết bởi chính pháp luật tàn khốc do mình sáng chế ra.
(Thương Ưởng người nước Vệ làm tướng quốc nước Tần)
Ngô Khởi công lao sự nghiệp rạng rỡ, nhưng lại tàn nhẫn hay nghi kỵ, bạc tình bạc nghĩa, mẫu tang không về, giết vợ cầu tướng, đủ mọi hành vi vô lại để đạt được công tích trác tuyệt. Lã Bất Vi lại càng không cần nói, sự tích của hắn thì ai cũng thuộc rồi. Loại tính cách này chính là mấu chốt để người nước Vệ lấy được thành công, nhưng cũng là một đại thiếu hụt trong tính cách của bọn họ.
Nghĩ đến đây, Khánh Kỵ chậm rãi mở mắt, Di Tử Hạ bên cạnh đã ngủ say, trên mặt một mảng ửng đỏ, tươi đẹp như hoa đào. Khánh Kỵ cười cười, thuận tay nhấc cái áo choàng mắc trên vách phủ lên cho hắn, nhíu mày lại nghĩ: "Một khi đã như vậy, thì cứ tấn công vào lợi ích và hiệu quả của người Vệ, nhưng mà, hiện giờ thế lực Vệ quốc chia làm hai đại phe phái Công Mạnh Trập, Nam Tử. Công Mạnh Trập là chính khách uy tín, thế lực hùng hậu. Nam Tử phu nhân là ngôi sao đang lên trong chính đàn, tiền đồ không lường trước được, hai người đó, mình nên dựa vào người nào, xin giúp đỡ người nào?"
Khánh Kỵ sau khi tới Đế Khâu thì ở tạm quý phủ của Di Tử Hạ.
Phủ đệ nơi này chính là do Vệ Hầu Cơ Nguyên ban cho tiểu tình nhân Di Hạ của hắn. Di đại phu ở Đế Khâu, sứ mạng duy nhất chính là lấy thân thể ra phụng dưỡng, khiến cho Vệ Hầu vui thích, kì thực cũng được xem như là một ngoại thiếp (vợ bên ngoài) của hắn, hơn nữa lại còn là ngoại thiếp được sủng ái nhất. Khu vườn này mặc dù không lớn, nhưng lại thập phần thanh tĩnh lịch sự u nhã, mã phu đầu bếp, thị vệ gia nô, trang bị đầy đủ mọi thứ.
Di Tử Hạ thập phần nhiệt tình với ân nhân cứu mạng của mình, tự mình an bài, thu xếp thích đáng chỗ ở cho hắn, sau đó mới tắm rửa thay quần áo, vào cung gặp Vệ Hầu. Di Tử Hạ sau giờ ngọ vào cung, cho đến chạng vạng, mới ngồi xe từ trong cung trở về.
Vừa về phủ đệ, Di Tử Hạ lập tức mời Khánh Kỵ tới gặp. Khêu đèn ngồi đối diện, mùi hương thoang thoảng phả vào mặt, ánh sáng nến càng tôn thêm khuôn mặt của Di Tử Hạ như tranh vẽ, trơn nhẵn như mỡ, trên khuôn mặt quyến rũ hiện lên chút ửng đỏ, bộ dáng giống như một thiếu nữ mới lần đầu trải qua mưa gió. Khánh Kỵ chợt động trong lòng, nhớ tới vừa rồi hắn phải quỳ gối khom người hầu hạ cho hạ thân một nam nhân, tưởng tượng tới việc Di Tử Hạ phải giả làm bộ dáng nữ nhân kiều mỵ, trong lòng bất giác có chút không được tự nhiên.
Đã kết giao nhiều ngày, Khánh Kỵ đối với việc Di Tử Hạ có chút thiên lệch về giới tính cũng không có thái độ kì thị, nhưng mà nhìn hắn vừa mới đi gặp tình nhân về, trong thần sắc khó tránh khỏi có hơi chút quái dị. Di Tử Hạ là một thiếu niên có tâm tư mẫn cảm, nhìn sắc mặt hắn, là biết được hắn đang đăm chiêu gì trong lòng, thần sắc không khỏi có chút ngượng ngùng lại lúng túng, khuôn mặt tròn lại càng trở nên phơn phớt hồng.
Khánh Kỵ tự biết đã thất thố, vội vàng chuyển đề tài làm hắn phân tâm, hỏi:
- Tử Hạ, hiện giờ tình hình Đế Khâu như thế nào?
Cái gọi là biết người biết ta, mới có thể trăm trận trăm thắng, Khánh Kỵ nếu đã biết Di Tử Hạ, ở Đế Khâu sẽ không tiếp xúc qua lại tùy tiện với những người cầm quyền. Căn cơ của hắn là ở Vệ quốc, đương nhiên là phải lập mưu rồi mới động, hành sự ổn thỏa.
Di Tử Hạ nghe thấy hắn hỏi, vẻ lúng túng trên mặt giảm bớt, hé môi nói:
- Di Hạ đã kể chuyện ở bến đò Hoàng Hà cho Vệ Hầu nghe, quốc quân rất giận dữ, nhưng Quân thượng cũng không đoán được ra rằng là ai muốn giết ta, vì để an toàn..., quốc quân ban thưởng mười tám tên dũng sĩ cho ta, theo bên cạnh bảo vệ cho sự an toàn của ta.
Nói tới đây, Di Tử Hạ có chút đắc chí, cặp mày liễu quyến rũ nhướng lên, lập tức lại nói:
- Chuyện công tử nhờ ta hỏi thăm ta cũng đã hỏi qua thái giám Ung Thư trong cung. Thái giám trưởng trong cung vốn là Thiệu, nhưng mà Thiệu đắc tội với quân phu nhân, hiện giờ đã bị hạ đại lao, vài thái giám đầu lĩnh trong cung đều đang thèm khát vị trí béo bở đó của hắn.
Ung Thư này là do Di Hạ góp lời, mới trở thành hoạn quan kề cận hầu hạ quốc quân, bởi vậy thực sự là bợ đỡ Di Hạ. Nhờ vào Di Hạ nên hắn mới có được vị trí hôm nay, cho nên hắn nói như thế thì có thể tin tưởng được.
Khánh Kỵ gật gật đầu:
- Ừm, không biết Tử Hạ từ chỗ Ung Thư dò xét được tin tức gì?
Di Tử Hạ nói:
- Hiện giờ quân phu nhân cùng Công Mạnh Trập đại phu càng đấu càng gay gắt. Hôm qua quân phu nhân mượn chuyện tham ô, trừng phạt hai kẻ thân cận Công Mạnh Trập đại phu là Lữ đại phu và thái giám Thiệu. Lại giao cho Tư Khấu Tề Báo đại nhân thẩm tra xử lí vụ án này, tiến cử Đặng Hiền, Bắc Cung Hỉ hai vị đại phu kê biên tài sản đã nhận hối lộ của hai đại phu phạm án. Hôm nay săn thú, Đặng đại phu lấy cớ tuổi già sức yếu từ chức, Chử Sư Phố đại phu liền tiến cử công tử Triều thay thế vị trí của Đặng Hiền đại phu.
Chính là tới buổi chiều, Công Mạnh Trập đại phu bảo có người báo rằng bên trong phong ấp của tư khấu Tề Báo và Bắc Cung Hỉ đại phu tự tiện mở ruộng riêng, trốn tránh thu thuế, nên bãi miễn chức vụ bọn họ, còn bảo muốn thu hồi lại phong ấp của bọn họ, hiện giờ còn đang trói bọn họ ở trong phủ chờ xử trí. Đối với chuyện tham ô của Lữ đại phu và thái giám Thiệu, hắn không thể làm qua loa tắc trách, đành kiên quyết điều tra rõ ràng, truy cứu trách nhiệm của tất cả những kẻ phạm án, khiến cho hiện tại lòng người đều hoảng sợ, những bọn quan viên vốn đã đầu nhập vào quân phu nhân giờ lại tới sân nhà hắn tặng lễ đầu nhập.
Nói tới đây, Di Tử Hạ cười nói:
- Nghe nói quân phu nhân ở trong cung nghe được tin tức này, tức đến mức sắc mặt tái mét, đi gặp Vệ Hầu tranh luận, đi gấp tới mức, còn suýt nữa bị vấp ngã rách cả váy. Cuộc đọ sức này, hôm qua nhìn thì thấy quân phu nhân chiếm thế thượng phong, nhưng mà hôm nay Công Mạnh Trập đại phu đã lấy lại được chút mặt mũi, hai bên đều bị mất đi hai đại tướng, nhưng có vẻ như tổn hại của quân phu nhân có lớn hơn chút đỉnh.
- Ồ?
Khánh Kỵ xoay chuyển con ngươi, lại hỏi:
- Quân phu nhân chỉ giận dữ, chứ không có hành động gì sao?
Di Tử Hạ nói:
- Cũng khó, quân phu nhân đến Vệ quốc ta chưa lâu, trong triều tuy rằng có một vài đại thần nghe theo hiệu lệnh của nàng, nhưng mà căn cơ còn lâu mới bằng được Công Mạnh Trập. Công Mạnh Trập vốn kiêng kị nàng là quân phu nhân, nàng nói gì Vệ Hầu nghe nấy, cho nên mới có chút nhường nhịn với nàng, nhưng mà quân phu nhân đã chọc giận hắn như vậy, hắn đâu có thèm để ý Nam Tử phu nhân có phải là đương kim Vệ phu nhân hay không.
Nói tới đây, hắn nhướng đôi mi thanh tú cong cong như nữ nhân, khe khẽ thở dài:
- Khi ta vào cung, Vệ Hầu còn đang phiền não về chuyện quân phu nhân tranh đấu với Công Mạnh Trập, một bên là phu nhân của ngài, một bên là huynh trưởng của ngài, phu nhân đương nhiên sẽ không hại ngài, huynh trưởng cũng luôn trung thành và tận tâm, hai bên tranh quyền, chỉ khổ cho Vệ Hầu ở giữa không biết nên làm gì.
Khánh Kỵ nghe đến đó thì cau mày thật chặt, Di Tử Hạ liếc nhìn hắn, nồng nhiệt nói:
- Công tử, theo lời ngài dặn, Di Hạ cũng không dám nói rằng ngài đã tới Đế Khâu, có điều chuyện quân phu nhân hạn chế ngài chiêu binh, ta cũng đã thăm dò ý tứ của Vệ Hầu.
Khánh Kỵ hơi động thần sắc, vội vàng truy hỏi:
- Vệ Hầu nói như thế nào?
Di Tử Hạ vui vẻ nói:
- Vệ Hầu nói, ngài biết chuyện này, quân phu nhân an bài như vậy, cũng là lo lắng cho Vệ quốc. Có điều ở trong lòng ngài, không bao giờ tin rằng một Khánh Kỵ công tử luôn có tấm lòng rộng rãi vô tư sẽ gây nguy hiểm gì cho Vệ quốc. Vệ Hầu rất cảm kích với việc ngài cứu ta, còn nói, hôm sau sẽ khuyên bảo phu nhân bỏ chủ trương đó đi. Có điều hiện giờ đúng là đang vào vụ mùa thu hoạch, hơn nữa Công Mạnh Trập và quân phu nhân đang có chút bất hòa, quân phu nhân đang vào lúc tức giận ưu sầu, lúc này ngài cũng không tiện yêu cầu quân phu nhân bỏ đi chủ trương đó, đợi sau này ngài sẽ từ từ khuyên bảo phu nhân. Công tử, ngài xem, Vệ Hầu đúng là đứng về phía ngài đó.
Khánh Kỵ vừa nghe thấy vậy thì trong lòng lạnh lẽo, kiểu nói qua loa tắc trách như thế này thì chỉ có Di Tử Hạ một thiếu niên không hiểu thời thế mới có thể tin là thực, cho dù lời đó của Vệ Hầu có là thật đi nữa, tới khi hắn can thiệp cũng không biết sẽ tới ngày tháng năm nào, sợ rằng khi đó ngay cả cháu chắt của Cơ Quang cũng đã sinh ra đời, còn phục cái gì quốc? Khánh Kỵ cười khổ một tiếng nói:
- Đa tạ ý tốt của Tử Hạ, có điều... Ài! Thời gian không đợi ta, chờ đợi lâu quá, ta sợ sẽ bỏ lỡ cơ hội tốt để phản công Ngô quốc.
- Như vậy thì...
Di Tử Hạ cắn cắn đôi môi đỏ mọng mê người như đóa hoa, chau đôi mi thanh tú lại suy nghĩ một chút, nói:
- Nếu đã như vậy, không bằng công tử đi bái kiến Công Mạnh Trập đại phu đi.
- Ồ... ý tứ của Tử Hạ là...?
- Ngài nghĩ mà xem, người hạn chế ngài chiêu binh chính là quân phu nhân, nàng ngang nhiên hạ mệnh lệnh, làm sao có thể thu hồi lại làm mất uy phong của mình? Hơn nữa, hiện giờ xem ra, quân phu nhân tuy rằng lợi hại, nhưng tóm lại vẫn không thể so được với Công Mạnh Trập đại phu. Mạnh Trập đại phu nếu muốn đả kích quân phu nhân, đương nhiên sẽ nghĩ biện pháp để bác bỏ những chủ trương của nàng, làm cho nàng chỉ an phận ở sau hậu cung. Ngài đi thỉnh ông ta hỗ trợ, ta nghĩ ông ta tám chín phần mười sẽ đáp ứng.
Khánh Kỵ hơi hơi suy nghĩ một chút, nhẹ nhàng lắc lắc đầu, đứng dậy bước đi thong thả trong phòng một hồi, ngẩng đầu lên nhìn xà nhà tới ngẩn ra. Công Mạnh Trập tuy rằng tranh quyền với Vệ phu nhân, nhưng mà dù sao đây cũng là tranh đấu ở bên trong Vệ quốc, quyền lực của Công Mạnh Trập đến từ Vệ Hầu, dựa vào Vệ Hầu mà tồn tại. Hắn hiện tại không có dã tâm muốn áp đảo bề trên, nếu trợ giúp mình thì cũng chẳng giúp gì được cho hắn, hắn vốn đã vững vàng ở thế thượng phong, việc gì phải làm việc thừa mà đi trợ giúp mình, người nước Vệ nếu không có lợi thì sẽ không làm.
Mà Vệ phu nhân..., hiện giờ xem ra, căn cơ của nàng còn ít, năng lực tự bảo vệ mình sợ còn không đủ. Thời điểm như thế này, cho dù nàng có chịu thay đổi chủ ý, cũng sẽ không vội vàng mà đi giúp mình, chuốc lấy mệt vào người. Ai! Vốn tưởng rằng làm xong xuôi chuyện ở Lỗ quốc, là có thể nắm chắc việc làm lớn mạnh lực lượng của mình chuẩn bị chiến tranh phục quốc, nào biết được bên trong công khanh của Vệ quốc lại xuất hiện tranh quyền đoạt lợi, chính mình cũng bị chịu ảnh hưởng. Chẳng nhẽ chỉ vì đấu tranh nội bộ nước Vệ mà làm hỏng đại sự của mình?
Khánh Kỵ từ từ bước đi thong thả, cân nhắc lặp đi lặp lại hồi lâu, bỗng nhiên dừng bước nói:
- Tử Hạ, ngài có thể tùy ý ra vào cung đình, lại được Vệ Hầu tín nhiệm, có thể nghe ngóng nhiều tin tức, ta nghĩ phải kính nhờ ngài tiếp tục tìm hiểu về những hành động của Vệ phu nhân và Công Mạnh Trập, không biết Tử Hạ có chịu...
- Việc này công tử không cần phân phó ta cũng sẽ làm.
Di Tử Hạ chặn lời hắn, mỉm cười nói.
- Đa tạ Tử Hạ, đại sự của Khánh Kỵ phải kính nhờ ngài rồi. Nếu Khánh Kỵ có thể phục quốc thành công, bất cứ lúc nào Tử Hạ nguyện tới, đều sẽ sẽ vị trí đại phu, thái ấp chờ ngài đại giá. Chỉ có điều trước mắt...
Khánh Kỵ cười khổ nói:
- Khánh Kỵ không thể không ở tạm trong quý phủ Tử Hạ vài hôm.
Di Tử Hạ bị sự khách khí và hứa hẹn của hắn khiến cho đỏ mặt, hắn vốn dựa vào thân thể phụng dưỡng mới được tới chức đại phu, lúc đó những quý tộc thích nam nhân nơi nào cũng có, dù chưa từng nghe nói Ngô quốc Khánh Kỵ có thích nam nhân hay không, nhưng nghe Khánh Kỵ hứa hẹn mua chuộc lòng người như vậy, trong lòng không khỏi tự tưởng niệm rằng có lẽ hắn cũng đã say đắm dung nhan của mình. Di Tử Hạ lộ ra một khuôn mặt nhất thời giống như một mảnh vải bố đỏ thẫm, cặp kè với Vệ Hầu lâu như vậy, hắn cũng đã dần dần quen với tư vị hoan lạc hậu đình, nếu cho hắn tuyển, Khánh Kỵ một nam tử anh tuấn trẻ tuổi, khí lực cường tráng như vậy đương nhiên có lực hấp dẫn hơn so với Vệ Hầu Cơ Nguyên.
Khánh Kỵ cũng không biết biết rằng việc mình đem danh lợi ra mua chuộc lòng người lại khiến cho mỹ thiếu niên thân nam nhi tâm nữ nhi này có suy nghĩ như vậy trong đầu, chỉ thấy Di Tử Hạ mặt đỏ hồng nói:
- Công tử chớ nên khánh khí như thế với Di Hạ, anh hùng khó tránh khỏi có lúc gặp rủi ro, công tử hiện giờ mặc dù có nước khó về, nhưng mà với những người có con mắt tinh đời, ai dám bảo rằng công tử không phải là anh hùng đương thời? Hơn nữa mạng này của Di Hạ cũng là do công tử cứu, làm một chuyện nhỏ cho ngài, Di Hạ... đương nhiên là chịu, dò la một chút sự tình chỉ là việc nhỏ mà thôi, công tử sao phải nói cám ơn...
Công Mạnh Trập phủ đệ, hôm nay là một cảnh tượng ca múa mừng thái bình.
Là huynh trưởng ruột thịt của đương kim Vệ Hầu, quy mô phủ đệ của Công Mạnh Trập cũng gần bằng cung thành, bởi vậy có thể thấy được quyền thế của hắn. Giờ phút này, Công Mạnh Trập đang thoải mái nằm trên một tấm thảm gấm, đầu gối đùi mỹ nhân, một tay nâng chén, cười nhìn vũ kỹ ca múa ở lan can bên ngoài đình.
Tòa đình đó xây rất rộng, bốn phía là nước biếc, trên mặt nước tuy rằng hoa sen đã rụng, nhưng lá sen vẫn tươi đẹp, hạt sen đã chín muồi. Đình này nối với bên trong bởi một chiếc cầu kiều cong cong, một con đường mòn nước chảy róc rách, bốn bề là núi đá, kết hợp với những cây cổ thụ tạo nên một phong cảnh xa xưa tĩnh lặng, cực kì lịch sự tao nhã.
- Đại phu, quốc quân đã tới.
Một đầy tớ quản sự vội vàng đi vào trong đình bẩm báo, Công Mạnh Trập nghe vậy hai hàng lông mày nhướng lên, mắt chợt lóe sáng ngời, vội vàng đứng dậy, phất tay áo nói:
- Ra nghênh đón!
Công Mạnh Trập dám tranh phong cùng với Vệ phu nhân Nam Tử, ngoại trừ việc thực lực của hắn quả thực là cường đại, thì sự tín nhiệm và ủng hộ của Vệ Hầu cũng là một lí do. Công Mạnh Trập bởi vì hồi bé bị ngã què chân, hành động mất đi phần uy nghi, cho nên vô duyên với chức Vệ Hầu, ngai vàng Vệ Hầu này mới rơi vào tay của Vệ Hầu Cơ Nguyên. Vệ Hầu tự biết rằng mình thua kém người huynh ruột thịt này nhiều, cho nên vô cùng dung túng cho hắn.
Công Mạnh Trập lại không vì được chiều mà kiêu ngạo, ngần ấy năm qua, hắn vẫn chú trọng quan hệ qua lại với huynh đệ nhà mình, bảo trì tình cảm và sự thân mật, thường xuyên mở tiệc chiêu đãi lẫn nhau, lúc uống rượu, lúc du ngoạn, tình cảm huynh đệ vô cùng tốt. Vệ Hầu tới quý phủ Công Mạnh Trập dự tiệc, đó là chuyện bình thường, bởi vậy cũng không phải long trọng đối đãi, Công Mạnh Trập chỉ mặc đại bào mặc thường ngày, dẫn theo một vài tên quản sự thân cận, đi ra cửa nghênh đón.
Xe của Vệ Hầu đã tới cửa hông của hậu hoa viên, dừng ở trước hiên cửa, Vệ Hầu mới từ trên xe đi xuống.
Vệ quốc hiện giờ mặc dù đã không còn cái khí thế bề trên với các chư hầu, so sánh với các cường quốc Tấn, Sở, Tề có lẽ cũng không bằng, nhưng mà thực lực của một nước vẫn rất cường đại, vũ lực cũng rất mạnh. Vệ Hầu xuất môn mặc dù chỉ là đi chơi nhưng vẫn vô cùng phô trương.
Vệ đội cung đình mặc giáp cầm binh khí, nghiêm nghị đứng thẳng, mặc dù ở trong hoàn cảnh khắp nơi là chim kêu hoa nở, vẫn thẳng lưng đứng nghiêm giống như ở trên sa trường, không có ai lơi lỏng. Công Mạnh Trập bước đi vội vàng, cà nhắc cà nhắc tới đón, vui vẻ cười nói:
- Quốc quân, thần nghênh giá chậm rồi.
Vệ Hầu Cơ Nguyên thấy huynh trưởng ra nghênh đón, cũng cười cười chào lại. Vị Vệ Linh Công nhân chuyện "Phân đào" (1) mà được văn thơ lưu danh sử sách, năm nay mới vừa trên 50, nhưng mà xem tướng mạo, thật chỉ như mới 40. Dáng người cao to, mi dài tới mai (tóc mai), ánh mắt sáng ngời, nhìn bộ dáng đó, khi còn trẻ nhất định cũng là một phấn hồng mỹ nam tử mê đảo hàng vạn hàng nghìn người.
Công Mạnh Trập cùng Cơ Nguyên có vài phần giống nhau, chỉ có hai hàng lông mày là còn đậm hơn, nét mặt có vẻ già nua hơn một chút. Thoạt nhìn thì hắn có vẻ uy nghiêm hơn so với Vệ Hầu đẹp trai thanh tú lại hơi ngả ngớn, chỉ tiếc rằng, khi hắn đi đường, một tay phải đỡ đầu gối, cà nhắc cà nhắc, khi đó tất cả uy nghiêm đã không còn sót lại chút nào...
Trong đình vũ kỹ cất giọng ca ưu mỹ, nhảy múa tung bay, nhưng mà đôi huynh đệ này đối với ca múa thì nhìn mãi quen rồi, mắt điếc tai ngơ, làm như không thấy,chỉ lấy ca múa làm nền cho mình uống rượu, tâm sự một vài chuyện nhà mà thôi.
- Mạnh Trập, theo quả nhân thấy, cũng dễ xử lí thôi, Tề Báo cùng Bắc Cung Hỉ, cứ cho bọn chúng phục hồi nguyên chức là được, ngươi là người mà quả nhân nể trọng nhất, phu nhân lại là người đứng đầu hậu cung của ta, hai người các ngươi ầm ĩ với nhau, quả nhân đứng ở giữa, hai bên đều khó xử.
Cơ Nguyên nâng một chén rượu, uyển chuyển khuyên bảo Công Mạnh Trập. Công Mạnh Trập nghe đến đó, hơi hơi lộ ra vẻ không vui, hắn phất tay áo, những người phụng dưỡng tả hữu lập tức đều lui ra, nội đường quản sự bước nhanh tới phía trước đình, phất tay ý bảo những người ca múa cũng đều lui ra, chỉ có hoạn quan Ung Thư vẫn cúi đầu đứng hầu hạ phía sau quốc quân, bên trong đình lập tức trở nên yên tĩnh.
- Quốc quân, Mạnh Trập lần này khổ tâm là vì ai? Quân phu nhân vốn là Tống quốc công chúa, hiện tại anh họ của nàng lại đang có chức vị ở Vệ quốc ta, quyền hành nắm giữ trong tay nàng, thực không phải là phúc cho người Vệ.
Công Mạnh Trập buông chén rượu, khập khiễng đi tới trước phòng, vịn vào lan can, phẫn uất bất bình đấm vài cái. Dưới mái hiên, mấy con chim én từ trong tổ nhô đầu ra, líu ríu kêu lên.
Công Mạnh Trập hít một hơi thật dài, giận dữ quay đầu lại nói:
- Nữ tử dựa vào đâu mà cầm quyền, thử hỏi Nam Tử nàng thân là Vệ phu nhân, không lo lễ nghi ở hậu cung, lại cứ nhúng tay vào triều chính, là muốn như thế nào?
Vệ Hầu đứng lên, ngượng ngùng nói:
- Mạnh Trập, ngươi là huynh đệ của quả nhân, ở trước mặt ngươi quả nhân cũng không muốn giấu diếm. Ngươi cũng biết quả nhân hơi lệch lạc, chuyện này... không khỏi làm phu nhân lạnh lẽo, nàng là Tống quốc công chúa cao quý, tuổi trẻ mỹ mạo như vậy, gả cho quả nhân, vốn là đã ép nàng rồi, hiện giờ lại để nàng giường chiếu vắng vẻ, quả nhân tự cảm thấy thẹn, cho nên nàng có yêu cầu gì, quả nhân cũng không muốn làm trái lại ý tứ của nàng...
Công Mạnh Trập bỗng nhiên quay đầu lại, ánh mắt sáng ngời nói:
- Chỉ là bực nữ lưu, kim châu bảo ngọc, cẩm y ngọc thạch, là có thể làm nàng thỏa mãn. Chẳng lẽ giang sơn cũng có thể dùng cho nàng bớt tịch mịch? Quốc quân, xin thứ cho thần vô lễ, quốc quân là muốn làm theo Chu U Vương đốt lửa giễu chư hầu (2), vì một nụ cười mà mất thiên hạ sao?
Vệ Hầu nghe thấy vậy thì mặt đỏ tai hồng, có chút không chịu đựng nổi. Công Mạnh Trập thấy thế, không tiện làm hắn khó xử, đành thở dài thật mạnh, nói:
- Quốc quân, nhìn xem thiên hạ, Tấn quốc lục khanh đoạt quyền, chiến loạn không ngừng; Tề quốc ngũ tộc giết Yến, cực kỳ nguy hiểm; Lỗ quốc Tam hoàn khi quân, ngươi lừa ta gạt, nguyên nhân tất cả đều là do quyền lực của quân vương bị suy đồi.
Mạnh Trập được quốc quân coi trọng, giao phó cho chức vị quan trọng, vì cảm động ân huệ của Quân thượng, cho nên chưa bao giờ có chút buông lỏng với Vệ quốc ta, thay quốc quân nắm giữ triều chính Vệ quốc, dốc hết tâm huyết, đi từng bước đều cẩn thận..., chỉ có điều, quốc quân lại bởi vì trong khuê phòng có một quân phu nhân, mà mang cả giang sơn xã tắc ra làm trò tiêu khiển. Quốc quân, thần... thần vô cùng đau đớn!
Vệ Hầu Cơ Nguyên hơi giật mang tai, nghe hắn nói rất chân thành, không khỏi xấu hổ cúi đầu nói:
- Chuyện này..., vậy theo Mạnh Trập, quả nhân phải làm sao cho phải?
Trên mặt Mạnh Trập lộ ra một tia vui mừng, lập tức nói:
- Tề Báo, Bắc Cung Hỉ cậy quyền hậu cung, tự mở ruộng riêng, xứng đáng bị bãi chức quan, thu lại phong ấp, để cho người khác noi gương theo. Chử Sư Phố, Công Tử Triều cũng là những người thân cận bên phu nhân, nhưng để bảo vệ chức tước, chắc chắn sẽ lấy an toàn làm thượng sách không can thiệp vào. Về phần quân phu nhân, tin rằng qua chuyện này, nàng sẽ thu liễm hơn một chút, quốc quân nếu cảm thấy ngại, thì về sau sủng ái nàng hơn một chút là được.
Vệ Hầu xúc động, không kìm lòng nổi nắm lấy tay Công Mạnh Trập, xúc động nói:
- Mạnh Trập nói quá lời rồi, Cơ Nguyên một ngày còn làm vua, Mạnh Trập sẽ còn là trọng thần Vệ quốc, huynh trưởng của Cơ Nguyên. Làm cho người tốt như ngươi lại phải khổ tâm, đều là vì quả nhân, được, hôm nay quả nhân quyết định, huynh đệ là huynh đệ, phu nhân là phu nhân, việc này ngươi cứ thoải mái làm, phu nhân nếu cản trở, quả nhân sẽ tới khuyên nhủ nàng.
Công Mạnh Trập mừng rỡ vái lạy, trịnh trọng nói:
- Quốc quân tiếp nhận lời khuyên thành thật, là phúc cho Vệ quốc ta. Thần thay mặt cho ngàn vạn lê dân Vệ quốc tạ ơn quốc quân, cầu cho Vệ quốc ta thiên thu muôn đời, phát triển không thôi. Tới đây, mang rượu tới, ca múa hầu hạ đi.
- Ài, rượu ngon thì được, ca múa thì thôi, quả nhân nghe tới mệt rã rời rồi.
Công Mạnh Trập ha ha cười lớn:
- Nếu quốc quân đã không thích oanh ca yến hót, trong quý phủ của thần còn có một môn khách rất giỏi múa kiếm, để gọi hắn lên múa một bài cho quân thượng xem, có được không?
- Ồ? Mau mau triệu hắn lên đi.
Vệ Hầu nghe thấy vậy thì hai mắt nhất thời trở nên sáng ngời, hắn vốn là người giỏi võ, nghe nói có người giỏi múa kiếm, nhất thời cũng động tâm.
Công Mạnh Trập mỉm cười, vỗ tay nói:
- Tới đây, triệu Ngải Tử Man múa kiếm cho quốc quân.
- Quốc quân, Ngải Tử Man này là môn khách mà thần mới chiêu nạp được, nói năng phong nhã, nhân phẩm phong lưu, kiếm nghệ xuất chúng, không phải võ sĩ thông thường có thể sánh được. Thần vui mừng quá, ban cho hắn cả Thừa Ảnh kiếm.
Vệ Hầu Cơ Nguyên nghe thấy vậy thì không khỏi kinh sợ, Hàm Quang, Thừa Ảnh, là danh kiếm đương thời, vô giá. Hai thanh kiếm này Hàm Quang là hùng, Thừa Ảnh là thư, từ trước tới nay luôn là bảo vật Công Mạnh Trập mang theo bên mình. Hiện giờ hắn lại tặng thư kiếm cho một môn khách để lấy lòng, người này thật sự là có kiếm nghệ kinh thiên sao?
Một lúc sau, một người cầm kiếm nhẹ nhàng đi vào đình, nhanh nhẹn đứng thẳng, thi lễ từ xa xa. Vệ Hầu Cơ Nguyên giương mắt ra nhìn, vừa nhìn thấy nhất thời như bị lôi đình đánh trúng, cứng cả họng, giống như người gỗ ngồi đó. Chén rượu đang nâng lên nửa, bất giác nghiêng đi lúc nào không biết, rượu chảy xuống ướt hết cả y phục, hắn còn hồn nhiên không phát giác ra.
Khóe mắt Công Mạnh Trập hơi hơi thoáng nhìn, thấy Cơ Nguyên lộ ra bộ dáng như con ong thấy mật, khóe miệng không khỏi hơi nổi lên chút ý cười.
Trong đình trên mặt nước, Quý Tôn Tiểu Man mặc một bộ áo bào võ sĩ màu trắng rất vừa vặn, trắng như phấn như ngọc. Y phục của nàng, cổ tay áo được thêu lên kim tuyến, hơi động là lấp lánh tỏa sáng. Bên hông đeo một cái đai đen của võ sĩ, làm tôn thêm vòng eo nhỏ nhắn, thân thể lả lướt, má phấn hồng mắt lung linh, băng thanh ngọc khiết, khiến cho Vệ Hầu Cơ Nguyên thích nam giới không khỏi nuốt nước miếng ừng ực, hận không thể cho mỹ thiếu niên trước mặt này vào miệng một ngụm nuốt thẳng vào bụng.
Quý Tôn Tiểu Man đứng ở trong đình, mở to một đôi mắt đen lúng liếng, đang tò mò đánh giá vị Vệ Hầu không thích nữ sắc chỉ thích nam nhân này, hoàn toàn đã quên rằng hiện giờ chính nàng cũng đang ở trong bộ dáng của một mỹ thiếu niên: "Oa, người kia chính là Cơ Nguyên à? Bộ dáng giống như một con cẩu, tuyệt đối không ẻo lả như mấy vị nương nương nha..."
--------------------------
(1) Một lần, Di Tử Hạ theo Vệ Linh Công đi tản bộ trong vườn hoa, nhìn thấy một trái đào trên cây đã chín mới thuận tay hái xuống cho vào miệng ăn rất ngon lành. Cắn xong một miếng mới đưa quả đào cho Vệ Linh Công, nói: “Gia thần hiến một quả bích đào, thần nghĩ, hôm này trời vẫn lạnh, cây cỏ vẫn chưa sinh, đây nhất định là đào tiên nên đặc biệt hiến đại vương hưởng thụ”. “Khó mà có được tấm lòng trung như ái khanh”, Vệ Linh Công vừa ăn quả đào dở vừa nói. Sau đó rất lâu mọi người cũng đã quên đi việc này thế nhưng Vệ Linh Công thì không. Gặp ai Vệ Linh Công đều khoe: “Di Tử Hạ rất yêu quý ta, một quả đào ngon cũng không ăn một mình mà chia cho ta ăn cùng”. Người đời sau vì thế mà gọi mối tình đồng tính giữa Vệ Linh Công và Di Tử Hạ là “mối tình chia đào”.
(2) Chu U Vương đốt lửa giễu chư hầu:
Bao Tự được Chu U Vương sủng ái. Để làm nàng cười, nhà vua đã làm mọi cách. Sau nhiều lần cố gắng nhưng không thành, Quắc công Thạch Phủ tâu với vua là mình có cách làm cho nàng cười. Quanh đất nhà Chu cai trị vốn xây nhiều tháp dầu để khi có giặc kéo đến thì đốt các cột lửa báo hiệu cho chư hầu đến cứu. Quắc Công khuyên Chu U vương đốt lửa cho chư hầu đến để cho Bao Tự cười. U vương làm theo.
Quân chư hầu mấy nước lân cận trông thấy các cột lửa cháy, ngỡ là có giặc bèn hớt hải mang quân đến cứu. Đến kinh thành, thấy mọi người vẫn đi lại bình thường, không có giặc giã gì cả. Các chư hầu ngơ ngác nhìn nhau. Bao Tự ở trên đài trông thấy bật tiếng cười lớn. U vương vô cùng hoan hỉ vì làm được cho nàng cười. Xong U vương lệnh cho các trấn chư hầu rút quân về vì không có giặc.
Đến một thời gian sau, vua Chu lại sai đốt lửa lần nữa và các chư hầu lại bị lừa để Bao Tự có được tiếng cười.
U vương say mê Bao Tự, xa lánh hoàng hậu họ Thân. Bao Tự sinh được một hoàng tử, U vương rất yêu quý, định lập làm thái tử và muốn phế truất thái tử Nghi Cữu. Cha Thân Hậu bèn liên hệ với quân Khuyển Nhung bên ngoài kéo vào đánh úp Cảo Kinh. U vương vội cho đốt lửa hiệu triệu chư hầu tới cứu, nhưng các chư hầu bị lừa vài lần nên tưởng vua đùa, không tới nữa. U vương mang Bao Tự và con nhỏ bỏ chạy, bị quân Khuyển Nhung đuổi theo giết chết. Riêng Bao Tự bị vua Khuyển Nhung bắt về cung để mua vui.
Quân Khuyển Nhung cướp phá giết người kinh thành. Thân Hậu ân hận mang họa cho dân Cảo Kinh bèn viết thư triệu các nước chư hầu Tấn, Tần, Trịnh đến đánh quân Khuyển Nhung. Quân ba nước kéo đến đánh tan quân Nhung. Vua Nhung bỏ chạy. Bao Tự thấy quân các nước kéo vào cung bèn thắt cổ tự vẫn.
Con trưởng U vương là Nghi Cữu được lập lên ngôi, tức là Chu Bình Vương.
Quý Tôn Tiểu Man lui về sau một bước, tay trái nâng bảo kiếm, tay phải nắm chuôi kiếm, "Keng" một tiếng, Thừa Ảnh kiếm đã ra khỏi vỏ, thanh kiếm đó vừa dài vừa mỏng, rút ra giống như dòng nước tuôn chảy, thanh âm rồng ngâm không dứt bên tai, thật giống như một con thần long thét dài một tiếng trên chín tầng trời, dư âm ngân nga xuống tận dưới mặt đất.
Cơ Nguyên ngồi ở trong sảnh nhìn chăm chú, không khỏi khen ngợi một tiếng:
- Quả nhiên là kiếm tốt.
Chỉ có điều miệng hắn thì khen kiếm, hai mắt lại cứ không rời khỏi thân mình Quý Tôn Tiểu Man, nhìn từ trên xuống dưới không ngừng, nhìn càng lâu, ánh mắt lại càng hoan hỉ mê muội.
Thừa Ảnh kiếm dài hai thước tám tấc, nhưng tua kiếm hồng rủ xuống còn dài hơn ba thước. Quý Tôn Tiểu Man cầm kiếm lui về phía sau, nín thở ngưng thần, ánh mắt nhìn chằm chằm vào mặt nước hồ trước mặt, nói rõ ràng:
- Ngải Tử Man không có sở trường gì, chỉ biết một chút kiếm kỹ tầm thường, cùng lắm chỉ là một kẻ mới tập kiếm, xin vua đừng đi bêu xấu với mọi người, nếu có chỗ nào không được, mong được chỉ giáo thêm.
Bêu xấu? Sao phải bêu xấu, ở trong mắt Cơ Nguyên, Ngải Tử Man này quanh người trên dưới không có chỗ nào là không đáng yêu, lại nghe thấy âm thanh ngọt ngào giòn tan, thân thể mềm mại, hắn không khỏi vuốt râu tán thưởng. Quý Tôn Tiểu Man thanh kiếm quét ngang, kiếm theo thân người mà động, tua kiếm hồng như lửa đã bị kéo thành một đường thẳng tắp.
Chớ xem Tiểu Man dáng người nhỏ xinh, một khi bắt đầu múa kiếm, thân hình nhẹ nhàng bay lên, một lát sau chỉ thấy như tia chớp, kiếm phong loang loáng, khắp nơi trong đình đều chỉ thấy bóng kiếm sắc bén cùng với bóng của dây tua hồng vung lên như sợi roi, xem tới chấn động lòng người, khiến cho tâm thần người khác phải toàn tâm chú ý vào giữa bốn cột đình. Không gian trong đình rộng lớn, nhưng lúc này xem ra toàn bộ không gian đó đều đã bị thanh kiếm sắc của nàng bao trùm. Ánh mặt trời chiếu xiên lên thân kiếm, bóng kiếm phản quang lại lạnh lẽo, từng đạo hào quang phản xạ thỉnh thoảng xẹt qua căn phòng mà Cơ Nguyên cùng Mạnh Trập đang ngồi, giống như một người đang soi gương mà thỉnh thoảng lại để cho ánh mặt trời rọi vào.
Vệ Hầu Cơ Nguyên cũng thông hiểu kiếm thuật, thấy công phu của nàng như vậy thì hai tròng mắt không khỏi lộ ra vẻ kinh diễm, không khỏi tán thưởng:
- Mỹ nhân như ngọc, kiếm khí như hồng (cầu vồng), quả nhân hôm nay đi một chuyến tới đây quả là không tệ, tuyệt diệu, thật sự là tuyệt diệu.
Hắn tiến về phía trước hai bước, hai tay vịn vào lan can, hận không thể bay vào trong đình, trong lòng nghĩ thầm: “Bên người quả nhân đã có Di Hạ, Di Hạ nhã nhặn thanh tú, ôn nhu đáng yêu. Kẻ này tư thế oai hùng, còn tốt hơn nữa, quả nhân nếu đoạt được mỹ thiếu niên này, trái ôm phải ấp, vậy thì không còn gì phải tiếc nuối."
Quý Tôn Tiểu Man ở trong đình thân mình duyên dáng uyển chuyển, kiếm như du long, kiếm thế hùng hồn tiêu sái, vô cùng sắc bén. Đó không chỉ là múa kiếm, đó còn là kiếm pháp giết người chân chính. Múa đến phần sau, Quý Tôn Tiểu Man giống như đang đuổi theo một kẻ địch hoảng sợ né tránh chạy trốn khắp đình, kiếm vung lên như tia chớp, khắp nơi đều bị ảnh kiếm bao phủ.
Bộ kiếm pháp này của Quý Tôn Tiểu Man là tập từ Lỗ quốc đệ nhất kiếm khách Viên Công. Nàng mặc dù nhỏ xinh, khí lực lại hữu hạn, nhưng mà mỗi chiêu mỗi thức đều là chân truyền từ Viên Công, thanh kiếm trong tay vung ra thu vào, tràn ngập khí thế bá đạo, hơn nữa thanh Thừa Ảnh kiếm đích thực là một thanh bảo kiếm khó có được. Kiếm quang vun vút, khiến cho người ta khó có thể tin tưởng rằng kiếm pháp sắc bén như vậy lại được sử ra từ một mỹ thiếu niên nhỏ xinh.
Đột nhiên, kiếm quang đầy trời chợt tắt. Quý Tôn Tiểu Man đột nhiên chuyển từ động sang tĩnh, cho kiếm lại vào bao, quay trở về bộ dáng xinh đẹp như khi nàng đang rút kiếm, mà trong ánh mắt của Cơ Nguyên cùng Công Mạnh Trập vẫn còn lấp loáng dư ảnh của kiếm quang khắp đình mới rồi.
- Hay!
Công Mạnh Trập vỗ tay trầm trồ khen ngợi, Vệ Hầu cũng hưởng ứng theo.
Quý Tôn Tiểu Man cười ngọt ngào, thu kiếm lui về phía sau, thi lễ, lại bái, nói:
- Tử Man xin cáo lui.
Nàng khom người hành lễ, liền nhẹ nhàng lui ra.
Cơ Nguyên thấy hắn tuổi còn nhỏ, bộ dáng lại đáng yêu, hơn nữa mới rồi khi dừng múa kiếm, trên khuôn mặt trắng nõn lại trở nên đỏ bừng như trái đào, đúng là đặc điểm độc nhất vô nhị của xử nữ, khiến cho hắn vì thèm ăn mà xúc động không khống chế nổi, hận không thể lập tức lấy đùi mình làm ghế, gọi thiếu niên này ngồi vào đó rồi thân thiết hỏi chuyện. Vấn đề là mỹ thiếu niên này là môn khách của Công Mạnh Trập, hắn là Vệ quốc quốc quân thân phận tôn kính, tạm thời cũng không có lí do thích hợp để gọi hắn tới gần.
Công Mạnh Trập tay vuốt chòm râu, nhìn bóng dáng Quý Tôn Tiểu Man rời đi, tán thưởng nói:
- Trong hàng ngàn môn khách của Mạnh Trập, người có nhân phẩm xuất chúng, kiếm nghệ xuất sắc như vậy cực kỳ ít, hơn nữa hắn cũng chỉ vừa học vài năm, đúng là một nhân tài dựa vào khổ luyện mới thành. Thần đặt kỳ vọng rất lớn vào hắn, cho nên mới không do dự tặng Thừa Ảnh kiếm bên người cho hắn, một thanh kiếm được coi là vô giá, chung quy lại cũng chỉ là vật chết, sao có thể bằng được một kẻ sĩ có tài? Ha hả...
Cơ Nguyên vốn định mở miệng hướng hắn xin người, lường trước rằng đây là môn hạ của hắn, nhưng một khi vua một nước mở miệng, Công Mạnh Trập chắc chắn sẽ đáp ứng. Có điều vừa nghe thấy Công Mạnh Trập nói như vậy, hắn lại không mở miệng xin người nữa, dù sao... cái sở thích đặc thù của hắn, Công Mạnh Trập chẳng biết quá rõ. Công Mạnh Trập đã có tâm bồi dưỡng cho Ngải Tử Man này thành rường cột nước nhà, sao có thể nhả ra làm luyến đồng cho mình được. Chẳng nhẽ thần thì nghĩ việc công, hắn là quốc quân lại chỉ nghĩ tới dâm dục sao?
Nghĩ tới một mỹ thiếu niên đang tung tăng đằng kia, hắn lại không thể chạm vào được, khiến cho Cơ Nguyên gấp đến độ muốn vò đầu bứt tai. Công Mạnh Trập lại cười nói:
- Quốc quân, ngài xem kiếm thuật của thiếu niên này có được không?
- Được, được chứ, quả nhân cho rằng, người tài giỏi như vậy, thật sự khiến cho người ta thần hồn điên đảo, a... Quả nhân là muốn nói kiếm thuật của hắn vô cùng cao minh, thật sự là rất cao nha, quả nhân bên người có vô số kiếm khách, cũng chẳng có ai có võ nghệ cao siêu như vậy.
Công Mạnh Trập cười, đột nhiên nhíu mày nói:
- Thần muốn nói một chuyện, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, đều có lực lượng riêng, hiện giờ muốn tước đi chức vị của bọn họ, thu hồi phong ấp, chỉ sợ bọn họ sẽ chó cùng rứt giậu, gây bất lợi cho quốc quân.
Cơ Nguyên ngẩn ra nói:
- Không thể nào, quả nhân cho rằng bọn họ không có gan đó đâu.
Công Mạnh Trập thản nhiên cười:
- Quốc quân một thân gắn với ngàn vạn thứ dân, dù chỉ là chuyện vạn nhất, cũng phải cẩn thận. Thần nghĩ, Ngải Tử Man này kiếm nghệ vô cùng cao minh, hơn nữa trừ người trong phủ ta, không ai biết chi tiết về người này. Chờ khi trừng trị Tề Báo, Bắc Cung Hỉ xong, thì cho hắn giả làm thái giám, theo hầu bên cạnh quốc quân, vạn nhất có chuyện gì, với võ nghệ của hắn cũng có thể giữ an toàn cho quốc quân. Không biết ý của quốc quân thế nào?
Cơ Nguyên vừa nghe thấy vậy thì mừng rỡ như điên, thiếu niên này đã vào trong tay mình thì có thể trốn nổi sao? Công Mạnh Trập đưa ra đề nghị này đúng là hạn hán lâu ngày gặp mưa, Cơ Nguyên vội vã gật đầu liên tục nói:
- Ý kiến hay, ý kiến hay, vẫn là Mạnh Trập suy nghĩ chu đáo. Quả nhân lúc này nghĩ lại, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ đám người trước nay rất ngoan độc, nếu không còn đường lui, không biết chừng thực sự sẽ bí quá hóa liều, vậy thì hôm nay quả nhân hồi cung liền mang hắn về luôn đi.
Công Mạnh Trập nói:
- Vậy cũng chưa thỏa đáng, gia tướng môn khách của Tề Báo, Bắc Cung Hỉ không phải ít, nếu muốn làm xằng bậy thì không phải là chuyện nhỏ. Quốc quân đã có ý muốn trừng phạt gian nịnh, thần phải chuẩn bị thật vẹn toàn, chờ thời cơ tốt hạ lệnh bắt người. Việc điều binh mã, còn mất một ít thời gian, lúc này không được để lộ tin tức. Ngải Tử Man này dù sao cũng không phải hoạn quan, lúc này mà cho vào cung, rõ ràng là không thích hợp. Huống hồ, hắn đối với những quy củ trong cung còn chưa biết gì cả, thần phải dặn dò một chút mới được.
- Như vậy... cũng được...
Cơ Nguyên khó chịu, cắn răng gật gật đầu. Hắn vốn là một người rất dễ dao động, hôm nay đáp ứng với Công Mạnh Trập, ngày mai nói không chừng lại nghe ai nói mà thay đổi chủ ý, chỉ có điều lúc này trong lòng hắn toàn bộ đã bị dáng người của mỹ thiếu niên kia chiếm đầy, hận không thể ngay lập tức ban bố mệnh lệnh, tước chức vị của Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, để cho mỹ thiếu niên kia tới bên người chính mình, cho nên hắn tha thiết dặn dò:
- Mạnh Trập, đêm dài lắm mộng, chậm tất sinh biến. Việc này, quả nhân liền giao cho ngươi toàn quyền phụ trách. Cần phải nhanh chóng an bài thỏa đáng, thanh trừng bọn gian nịnh Tề Báo.
Công Mạnh Trập nghiêm nghị chắp tay nói:
- Rõ, thần Mạnh Trập, cung kính nhận mệnh!
- Khánh Kỵ công tử, Ung Thư lúc đó cũng ở đó, những điều hắn nghe được là như vậy, ài, không thể tưởng được Công Mạnh Trập đại phu bình thường không động, nhưng khi đã muốn phản kích, lại ngay vào chỗ tử địa của đối phương, ngày thường gặp mọi người đều cười nói thân thiết, thập phần khách khí. Di Hạ nghe thấy chuyện này thì thực cảm thấy kinh hãi, thật là đáng sợ. Tề Báo, Bắc Cung Hỉ nếu bị lật ngã, quân phu nhân ở trong triều sẽ không còn dùng được ai, khiến cho cung đình trên dưới chỉ còn người của Công Mạnh Trập đại phu. Công tử, hiện giờ xem ra, ngài chỉ có thể xin đi giúp đỡ Công Mạnh Trập đại phu mà thôi.
Khánh Kỵ đi qua đi lại trong phòng, nghe Di Hạ nói xong, lại suy tư một lúc lâu, đột nhiên quay đầu lại hỏi:
- Tử Hạ, quan hệ của ngài với đám người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều là như thế nào?
Di Hạ ngây người ngẩn ra, nói:
- Công Tử Triều vừa mới tới Vệ quốc ta, Di Hạ còn chưa từng gặp mặt. Về phần Tề Báo, Bắc Cung Hỉ hai người xưa nay rất hòa hợp, mọi người gặp nhau đều nói nói cười cười, khách khách khí khí, về phần thâm giao thì chưa tới được. À... tương đối mà nói, quan hệ của Di Hạ với Tề Báo đại phu có tốt hơn chút.
Nói tới đây, trên mặt hắn hiện lên nét xấu hổ, Khánh Kỵ trong lòng sáng tỏ, chỉ sợ rằng Tề Báo này cũng là thích nam nhân. Di Tử Hạ bị Vệ Hầu độc chiếm, Tề Báo sao dám có chủ ý với Di Tử Hạ, nhưng mà nhìn thấy mỹ thiếu niên mà mình ngưỡng mộ trong lòng, nói chuyện kết giao thân thiết thì cũng có thể. Di Tử Hạ trên mặt hiện lên nét xấu hổ, chỉ sợ rằng Tề Báo đã từng nói với hắn cái gì đó thân thiết lại có chút ám muội. Nói như vậy , Tề Báo kia chẳng những hữu hảo với Di Tử Hạ, hơn nữa lá gan cũng không nhỏ. Vậy là được, người không có đảm lượng sao có thể làm nên chuyện?
Khánh Kỵ lập tức gật đầu nói:
- Tốt, chính là hắn. Tử Hạ, ta mong ngài hỗ trợ, an bài cho ta gặp mặt Tề Báo, không biết... ngài có chỗ nào khó xử không?
Di Tử Hạ giật mình nói:
- Tề Báo sắp tiêu đời rồi, công tử còn đi gặp hắn làm gì? Ây... nếu Di Hạ nói, chắc chắn không vấn đề. Di Hạ nếu muốn đăng môn bái phỏng, Tề Báo sẽ không thể không gặp ta, công tử trốn trong xe của ta đi vào Tề gia là được.
Khánh Kỵ nhìn Di Tử Hạ, một đôi mắt hoa đào trời sinh quyến rũ, ánh mắt tinh thuần ngây thơ, trong suốt thanh tuyền như nước. Khánh Kỵ không đành lòng lợi dụng vị thiếu niên này, không biết là may mắn hay bất hạnh, dựa vào sắc đẹp mà ngồi lên được chức đại phu, chỉ nói:
- Tử Hạ, không đơn giản chỉ như vậy. Hiện giờ Công Mạnh Trập cùng quân phu nhân đã ở vào thế không thể cùng tồn tại, ngài giúp ta đi gặp Tề Báo, chính là đối đầu với Công Mạnh Trập. Vốn, trong nước Vệ, ngài cũng không phải là nhân vật gì lợi hại, bây giờ nếu ta lôi kéo ngài vào, nói không chừng còn có thể bị Công Mạnh Trập trả thù, ngài có hiểu không?
Di Tử Hạ ngẩn người, đôi mắt chợt đỏ, hắn nắm chặt tay áo Khánh Kỵ, bịn rịn nói:
- Di Hạ vốn là một thiếu niên ngây thơ, những đại phu ở Đế Khâu mặc dù thân thiết với ta, nhưng ta biết trong lòng bọn họ cũng không để mắt đến ta, càng không có một ai thành thật với ta. Công tử lại đối với ta như vậy...
Hắn sụt sịt mũi, nói:
- Công tử là ân nhân cứu mạng của ta, chuyện như thế này mà Di Hạ còn không làm được, vậy thì thật uổng làm người, huống chi công tử lại đối đãi chân thành như vậy. Công tử không phải lo, ngài bao giờ muốn đi gặp Tề Báo, Di Hạ sẽ đưa ngài đi.
Khánh Kỵ gật đầu một cái thật mạnh, vỗ vỗ bả vai hắn nói:
- Được! Tử Hạ mặc dù tuổi đời còn trẻ, nhưng lại có can đảm hơn nhiều nam tử khác. Ngài trợ giúp ta như vậy, Khánh Kỵ chắc chắn sẽ không để ngài chịu thương tổn. Việc gặp Tề Báo, không nên trì hoãn, việc này không thể chậm trễ, hiện tại đi luôn!
- Được!
Di Tử Hạ nói:
- Công tử chờ một chút, Di Hạ sẽ bảo người chuẩn bị xe.
Tề Báo đang ở hậu viện nhà mình múa võ, Tề Báo có một thân khí lực cao lớn cường tráng, cơ bắp cuồn cuộn, dường như khí lực có thể dùng mãi không hết. Khuôn mặt hắn hơi đen, một bộ râu quai nón, tóc mai dài tới môi, đôi lông mày rậm rạp, có vẻ cực kì uy mãnh.
Thời kỳ Xuân Thu, người đời thích võ. Mọi người đều tôn sùng yêu mến nam nhi khí khái anh hùng, đó là thời đại "Vũ phu oai hùng, công hầu giữ thành.". Công khanh đại phu ai cũng tập võ, Tề Báo lại là một người nổi bật trong số đó, vốn luôn nổi danh cậy sức khỏe.
Một cây chùy sắt ở trong tay hắn mạnh mẽ đập gió, hắn tựa hồ phát tiết tất cả phẫn uất vào trong cái chuôi chùy này, quát mắng liên hồi, một cây trùy nặng ở trong tay hắn cũng chẳng tính là gì. Tình cảnh thế này, gia tướng nô tài Tề phủ nhìn thấy cũng không thể khuyên bảo, đã sớm tránh đi, để mặc hắn phát tiết trên võ trường.
Tề Báo bị miễn chức chờ xử trí, hắn tuy rằng tức giận tới nổi điên, nhưng mà gia nhân ở Tề phủ thời gian này cũng thấy nhiều quen rồi, vị tư khấu đại nhân này hôm nay bị miễn chức, hôm sau lại phục chức, rồi sau đó lại miễn chức... Quanh đi quẩn lại, đã không chỉ là một hai lần, ở trong mắt bọn họ, chuyện này đã thành cơm bữa, ai cũng không để trong lòng. Khi chủ nhân phát hỏa, mọi người tránh đi một chút, chờ tới khi ngài phát tiết hết lửa giận, lại uống rượu một hồi là hết chuyện.
Nhưng mà hôm nay, có một quản sự đui mù trong lúc Tề báo đang múa chùy sau đình để hả giận, lại vội vàng chạy đi vào.
"Phanh!" Một trận đất đá rung chuyển, âm thanh khiến cho người ta sợ hãi phát ra khi cây chùy sắt to lớn đập vào mặt đất trước chân của vị quản sự, trên mặt đất lún xuống một hố to, bùn đất bắn lên cả mặt hắn, khiến cho vị quản sự trợn trừng hai mắt đứng im, không dám cử động tí nào.
- Cút đi, ai cho phép ngươi vào đây?
Tề Báo trợn mắt hét lớn.
Quản sự kia nơm nớp lo sợ nói:
- Đại nhân, có khách nhân tới thăm.
Bộ ngực lông lá của Tề Báo đã đầy mồ hôi, hắn nặng nề hít một hơi, quát:
- Khách nhân quái gì? Còn có con quỷ nào đăng môn sao?
Hắn thầm nghĩ: "Chẳng nhẽ là Bắc Cung Hỉ cái kẻ cùng cảnh ngộ với ta kia? Trước kia mình hay bị miễn chức, hắn cũng hay bị mắng chửi. Kẻ này cũng chịu tai ương như ta, chắc là không chịu nổi rồi."
Tưởng tượng như vậy, Tề Báo thoải mái trong lòng hơn chút, hắn đi lấy y phục, mắt liếc ngang hỏi:
- Nói đi, là ai tới, không phải là Bắc Cung đại phu đấy chứ?
Quản sự nuốt một ngụm nước miếng, nói:
- Đại nhân, không phải là Bắc Cung đại phu đến đây, mà là Di Hạ Di đại phu.
- Di Tử?
Tề Báo sửng sốt, trong lòng đột nhiên hiện lên hình ảnh một mỹ thiếu niên làn da bóng láng mịn màng, da mặt ửng hồng, chỉ tiếc một cực phẩm thiếu niên như vậy hắn lại chỉ có thể nhìn mà không thể động, hơn nữa lúc này cũng chẳng có tâm tình đó. Có điều Di Hạ trước mắt cũng được Vệ Hầu sủng ái đệ nhất, ngay cả không có chủ ý gì với hắn, cũng không thể khinh nhờn được, Tề Báo vội nói:
- Mau mau mời vào trong sảnh, ta lập tức sẽ ra.
Tề Báo vội vàng ăn mặc chỉnh tề, sải bước đi tới phòng khách bên ngoài. Vào trong phòng, liền tươi cười chắp tay nói:
- Di đại phu, ít thấy tới, ít thấy tới, đại phu sao lại... Hử?
Đôi mày rậm của hắn hơi nhíu, kinh ngạc nhìn nam tử đang cùng ngồi với Di Tử Hạ. Hai người đều mặc một bộ áo choàng trắng thuần nhẹ nhàng, Di Hạ bộ dáng vũ mị, nam tử kia lại có vẻ đẹp cứng rắn mạnh mẽ. Đúng lúc này hắn đứng lên, thân hình hùng vĩ, còn cao hơn Di Tử Hạ cả nửa cái đầu, diện mạo anh tuấn, hai mắt hữu thần, sống lưng thẳng tắp, tùy ý đứng ở đó, cũng có một loại khí thế nghiêm nghị bất phàm. Tề Báo hai mắt hơi hơi nhíu lại, mơ hồ cảm thấy có chút quen mặt, lại nhớ không nổi gặp mặt nơi nào.
Di Tử Hạ chắp tay cười nói:
- Tề đại phu, Di Hạ mạo muội tới đây, thất lễ. Vị này là bạn tốt của Di Hạ, muốn gặp mặt Tề đại phu, hôm nay Di Hạ là bồi ngài ấy tới đây.
- Ồ?
Tề Báo thần sắc hơi hơi động, lập tức cho lui tả hữu, nghi hoặc hỏi:
- Vị này là...
Khánh Kỵ mỉm cười, tiến lên một bước nói:
- Tề đại phu, một năm không gặp, đại phu đã không nhận ra bản công tử rồi sao?
Tề Báo thần tình hoang mang, Khánh Kỵ lại nói:
- Ngô quốc Khánh Kỵ, một năm trước từng gặp Vệ Hầu, lúc đó Tề đại phu...
- A!
Tề Báo kinh động kêu lên một tiếng, dùng lực quá độ, các đốt ngón tay đều kêu lên "răng rắc", thất thanh kêu lên:
- Ngài là Khánh Kỵ, công tử Khánh Kỵ! Ngài... hiện giờ hẳn là phải ở Ngải thành chứ, sao lại...
Nói tới đây hắn biến sắc nói:
- Công tử sao lại tới Đế Khâu? Là Vệ Hầu vời đến hay là tự ý đến?
Khánh Kỵ cười cười, nói:
- Tề đại phu không mời bản công tử ngồi sao? Khánh Kỵ tuy rằng không mời mà tới, nhưng thế này cũng không phải là đạo đãi khách nhân thì phải.
- Công tử... Mời ngồi.
Tề Báo liếc nhìn Di Hạ, thần sắc bình tĩnh trở lại, trong suy nghĩ của hắn, Khánh Kỵ xuất hiện ở Đế Khâu, lại được Di Hạ tiếp đón, hẳn phải là do Vệ Hầu mời tới, chỉ không hiểu vì sao hắn lại tới gặp mình, thật sự là vì chuyện gì?
Khánh Kỵ ngồi xuống, Tề Báo lại hỏi lần nữa:
- Công tử là do quốc quân có lời mời đến Đế Khâu sao? Không biết hôm nay quang lâm phủ của kẻ hèn, là có chuyện gì?
Khánh Kỵ mỉm cười nói:
- Khánh Kỵ tới, là muốn tương trợ, cũng là xin giúp đỡ.
Tề Báo trợn mắt nói:
- Lời đó của công tử là ý gì?
Khánh Kỵ nói:
- Tề đại phu cũng biết, ngài cùng với quân phu nhân bắt tay đối phó Công Mạnh Trập đại phu, từng bước áp sát, lại chọc giận tới hắn. Ngày trước mất chức mất ruộng, mặc dù đại phu bị mất mặt, bị những đại phu ở Đế Khâu chê cười, nhưng thực tế lại chẳng tổn thất gì, có điều lúc này... Công Mạnh Trập đại phu đã thực sự giận, thuyết phục được Vệ Hầu, ý đồ muốn thu hồi đất phong của ngài và Bắc Cung Hỉ đại phu, tước đi bổng lộc của ngài.
Tề Báo nghe thấy vậy thì hoảng sợ chấn động, thất thanh nói:
- Sao có thể như vậy, công tử không phải định lấy lời nói không căn cứ để lừa ta đó chứ?
Khánh Kỵ bình tâm tĩnh khí nói:
- Là thực hay giả, Khánh Kỵ cũng không biết. Tin tức này, Khánh Kỵ cũng chỉ nghe từ Tử Hạ nói.
Một đôi mắt hổ của Tề Báo lập tức trừng về phía Di Hạ, Di Hạ có chút co rúm nói:
- Tin tức này đúng là do thái giám Ung Thư nói cho Di Hạ, hắn nói, hôm qua quốc quân tới Công Mạnh Trập đại phu quý phủ dự tiệc. Quốc quân chính mồm đáp ứng với Công Mạnh đại phu, sẽ giao việc này cho hắn phụ trách, ít ngày nữa, Công Mạnh Trập đại phu sẽ điều binh mã tới phụ cận Đế Khâu để phối hợp tác chiến, lúc đó sẽ hạ lệnh bắt ngài.
Tề Báo nghe tới đây thì đã tin tưởng không thể nghi ngờ, hắn từ lúc bị miễn chức, luôn phái người ở trong cung tìm hiểu tin tức, xúc tiến mời quân phu nhân ra mặt vì hắn đòi lại công đạo. Trong lúc vô ý có nghe được tin tức, Công Mạnh Trập có điều một đạo quân phòng ngự bên bờ Hoàng Hà cấp tốc trở về Đế Khâu, lúc đó còn nghĩ là không liên quan gì đến hắn, lúc này nghe Di Hạ nói vậy, hai bên đối chiếu với nhau, chắc chắn là tin tưởng không thể nghi ngờ.
Nghĩ một chút, sắc mặt của Tề Báo nhất thời như tờ giấy, trắng bệch đi. Trước kia Công Mạnh Trập làm nhục hắn, liên tục thu ruộng, bãi chức, nhưng tước vị vẫn còn, vẫn là đại phu tôn quý, muốn khôi phục lại thì dễ như trở bàn tay. Nhưng nếu lần này tước đoạt cả vị trí thượng khanh của hắn, trở thành thứ dân, chỉ sợ sẽ không có khả năng lật lại được nữa.
Lại tiến thêm một bước mà nói, Công Mạnh Trập nếu đã hạ nhẫn tâm muốn tước đi chức vị này, vậy tức là không còn muốn thấy hắn sống trên dời, đoạt chức thượng khanh là việc đầu tiên, tới khi hắn trở thành thứ dân, muốn diệt trừ hắn chẳng phải quá dễ sao. Loại chuyện này cũng không phải là không có khả năng, hắn không thể so sánh được với Quốc, Cao hai tộc ở Tề quốc. Quốc Cao hai tộc là thế khanh Tề quốc do chính Chu thiên tử phong, Tề quốc quốc quân theo thể chế chỉ có thể bãi trừ bọn họ rồi lập hai môn hạ khác làm gia chủ, chứ không có quyền tước đi vị trí thượng khanh. Bên hắn lại khác, chỉ cần Vệ Hầu đồng ý là được.
Thời tiết mùa thu đã rõ ràng, khí trời cũng không nóng bức, chỉ có điều Tề Báo vừa mới múa chùy sắt, huyết mạch cả người đương nhiên là đã thông mở, lúc này đột nhiên nghe thấy tin tức như vậy, nhất thời kinh hãi ngây ra như phỗng, không nhúc nhích, chỉ có trên trán mồ hôi lạnh đầm đìa chảy xuống.
- Không có khả năng, không có khả năng, Tề thị ta đã lao tâm khổ tứ phò tá cho Vệ Hầu, mấy trăm năm nay luôn trung thành tận tâm chưa từng có ý gì khác. Quốc quân nếu tự dưng tước đi chức khanh của ta, chẳng phải sẽ làm rét lạnh cái tâm của những thế tộc trong nước ư.
- Vậy đã là gì, thiên hạ chỉ lo không có vua, chứ lo gì không có thần? Về phần chúng khanh Vệ quốc, đến lúc đó tuyết nhà ai nhà đó quét, ai quản Tề đại phu ngài gặp tai họa lâm môn?
- Ta có tội gì? Chỉ là bởi mở ruộng riêng sao? Đó là cánh đồng hoang vu, ngay cả đi khai khẩn để trốn tránh thuế ruộng, cũng không thể vì vậy mà tước đi chức khanh của ta...
- Muốn có thêm tội, đâu có khó, Công Mạnh Trập đại phu nếu đã muốn dồn ngài vào chỗ chết, tội danh chẳng phải là muốn nhiều có nhiều, muốn ít có ít sao?
Tề Báo kinh hãi khiếp đảm, đột nhiên đứng dậy nói:
- Ta muốn lập tức đi cầu kiến quân phu nhân.
Khánh Kỵ ngồi ở đó không nhúc nhích, chỉ mỉm cười nói:
- Chỉ sợ quân phu nhân lần này cũng không thể nào cứu được ngài, quân phu nhân nếu có thể cứu được ngài, cũng sẽ không đợi tới lúc này, huống hồ Vệ Hầu đã có tâm tư, lúc này... hắc!
Hắn quay sang Di Hạ, hỏi:
- Ung Thư nói, Công Mạnh Trập đại phu mời Vệ Hầu dự tiệc, còn mời một vị mỹ thiếu niên giỏi kiếm kỹ múa cho hắn xem, có phải không?
Di Hạ chính mình là luyến đồng của Vệ Hầu, nhắc tới chuyện này thì có chút không được tự nhiên, hắn hơi hơi xấu hổ nói:
- Đúng vậy, nghe Ung Thư nói, thiếu niên kia kiếm nghệ xuất chúng, phong thái rạng ngời, Vệ Hầu nhìn thấy, thất hồn lạc phách, bởi vì lúc đó không thể mang được hắn về cung, cho nên dọc theo đường về luôn thở ngắn than dài, sau khi trở về cung còn... còn nhớ nhung quên cả cơm nước.
Nói tới đây, trong lời nói của Di Hạ còn ẩn ẩn mang chút ghen tuông.
Tề Báo thầm nghĩ: "Khó trách hắn dù không có thâm giao với ta, lại không ngại đắc tội với Công Mạnh Trập, nói tin tức trọng yếu như vậy cho ta biết, hóa ra là lo lắng Công Mạnh Trập hiến mỹ nhân, đoạt đi niềm vui của Vệ Hầu. Chỉ có điều Khánh Kỵ..."
Lúc này, hắn mới thanh tỉnh lại, đột nhiên nhớ tới Khánh Kỵ mới vừa rồi nói rằng " Tới xin tương trợ, cũng là xin giúp đỡ", vội vàng hỏi hắn:
- Khánh Kỵ công tử do thám biết được tin tức, lại tới báo cho ta, không biết ý muốn của công tử là gì?
Khánh Kỵ liếc mắt nhìn Di Tử Hạ một cái, áy náy cười nói:
- Tử Hạ có thể ra ngoài một lát được không, việc này ngài biết càng ít càng tốt.
- Đương nhiên.
Di Hạ tự biết rằng đối với những thủ đoạn ngươi lừa ta gạt, tranh danh đấu lợi trên quan trường hắn không hiểu được, Khánh Kỵ không cho hắn tham dự, thực ra là vì lo lắng cho hắn, liền ngoan ngoãn đứng dậy đi ra ngoài.
Tề Báo vội nói:
- Di đại phu đi đâu vậy, không thể để ngài đứng ngoài sân được, Di đại phu mời ngồi lại, ta mời công tử đi vào trong phòng nói là được.
Lập tức Tề Báo mời Di Tử Hạ quay lại, rồi dẫn Khánh Kỵ tới hậu thất, đóng nhanh cửa, lúc này mới khẩn trương hỏi:
- Công tử, hiện tại có thể nói.
Khánh Kỵ nói:
- Tình hình gấp gáp cùng hậu quả đáng sợ của các hạ hiện giờ, tin rằng Tề đại phu đã biết rõ trong lòng. Muốn hóa giải kiếp nạn này, chỉ có một biện pháp, tiên phát chế nhân (hành động trước để kìm chế đối phương)!
Ánh mắt Tề Báo chợt lóe, vội vàng hỏi:
- Tiên phát chế nhân? Ý công tử là gì?
Khánh Kỵ ung dung nói:
- Đại phu biết rõ rồi còn hỏi? Hiện giờ ngài cũng biết âm mưu của Công Mạnh Trập, chẳng nhẽ muốn chờ chết phải không? Không bằng giành động thủ trước, đánh vào tử địa của Công Mạnh Trập, tình thế nguy hiểm của các hạ tự nhiên là dễ dàng được giải quyết.
Tề Báo nghe thấy lời nói long trời lở đất này, khuôn mặt lập tức xám như tro, kinh sợ nói:
- Công tử sao lại nghĩ được ra chủ ý đó? Thế này... này chẳng phải giống với mưu phản sao. Quốc quân nếu đã đáp ứng Công Mạnh Trập, tất sẽ muốn trị tội Tề Báo. Huống chi, Công Mạnh Trập tay cầm binh quyền, nếu chỉ bằng mấy trăm gia tướng của ta mà muốn giết Công Mạnh Trập, thì chẳng khác gì lấy trứng chọi đá, không được không được, kế này không được.
- Tề đại phu, ngài hiện tại đã bị dồn vào tử địa, hoặc là ngồi chờ chết, hoặc là dốc sức làm một trận chiến. Chỉ có một trận chiến, mới có cơ hội, ngài đã không còn có lựa chọn thứ hai rồi!
Khánh Kỵ lạnh lùng nói:
- Điểm này, ngài chắc cũng đã rõ ràng. Về phần lo lắng của ngài, chỉ là binh quyền của Công Mạnh, cái này kì thực giải quyết rất dễ dàng.
Tề Báo thân mình chấn động, gắt gao nhìn hắn hỏi:
- Công Mạnh Trập tay nắm binh quyền, Tề Báo làm sao có thể thắng được? Công tử mời nói rõ hơn.
Khánh Kỵ bình tĩnh cười nói:
- Công Mạnh Trập tuy có thiên quân vạn mã, bên người hắn lại chỉ có chừng ngàn người. Kết hợp Tề đại phu, Bắc Cung đại phu, Chử Sư Phố đại phu, Công Tử Triều, tập hợp gia tướng của bốn người, nhân số cũng đã đủ để địch lại, huống chi hắn lại còn không phòng bị cơ mà? Về phần binh lính bên ngoài, Khánh Kỵ bất tài, nguyện dẫn quân trong tay ngăn trở ở ngoài thành Đế Khâu. Trong thành Đế Khâu kể cả có làm loạn tới long trời lở đất, Khánh Kỵ cũng không để cho ai được vào thành, tình hình như vậy, Tề đại phu cảm thấy được có thể có phần thắng hay không?
Nghe thấy lời nói long trời lở đất như vậy, Tề Báo đầu tiên là giương lớn hai mắt, hoảng sợ nhìn hắn hồi lâu, rồi hoài nghi nói:
- Công tử tương trợ ta như thế, không biết công tử có yêu cầu gì?
Khánh Kỵ thản nhiên nói:
- Không gì khác, một là cầu sự thuận tiện, dốc sức lập công, hi vọng làm quân phu nhân vui vẻ, có thể cho Khánh Kỵ chiêu binh mãi mã, để mà phạt Ngô quốc; thứ hai là, phục quốc chiêu binh, thiếu tiền ít lương thực, nếu Khánh Kỵ có công trợ giúp quân phu nhân, giúp Tề đại phu cùng các công khanh thoát khỏi hiểm cảnh, tin rằng quân phu nhân và các công khanh có thể viện trợ cho ta. Ngoài cái này, không còn cầu gì.
Tề Báo vẫn chưa loại bỏ nghi ngờ, lại hỏi:
- Tương trợ ta, vô cùng nguy hiểm, cũng không nắm chắc mười phần thành công. Ngăn cản công tử tiếp tục chiêu binh chính là quân phu nhân, vì sao công tử không đến cầu trước mặt quân phu nhân, cũng không đi cầu Công Mạnh Trập tương trợ?
Khánh Kỵ thong dong đáp:
- Có mua mới có bán, có người cần mới có người giúp. Công Mạnh Trập hớn hở đắc ý, Tề đại phu một khi ngã xuống, toàn bộ Vệ quốc sẽ không còn địch thủ, thử hỏi hắn còn cần Khánh Kỵ hiến sức lực vào chỗ nào? Mà các công khanh lại không giống vậy, hiện giờ các công khanh nguy cơ sớm tối, cảnh ngộ so với một công tử mất nước phải nương tựa vào Vệ như Khánh Kỵ còn hung hiểm hơn. Các công khanh đang đi tìm cường viện, thời gian cấp bách, nước xa khó cứu được lửa gần, nếu muốn phản kháng, chỉ có thể dựa vào Khánh Kỵ mà thôi. Hợp tác đôi bên cùng có lợi, vậy thì vì sao lại không bắt tay hợp tác được?
Tề Báo nghe thấy vậy thì thần sắc trở nên âm tình bất định. Lời nói của Khánh Kỵ rất có logic, hắn không còn nghi ngờ vào dụng tâm của Khánh Kỵ, chỉ là suy nghĩ tới đủ các loại hậu quả của việc hành sự như vậy. Khi thì nghĩ rằng Vệ Hầu tức giận, sẽ phủ quyết đi chủ ý đại nghịch bất đạo này, khi thì lại sợ gia tộc mình từ nay về sau xuống dốc, chính bản thân mình có thể còn bị người ta ám sát ngoài đầu đường, nghiến răng nghiến lợi quyết liều chết một phen, khi thì lo lắng Vệ Hầu sẽ phát binh trong cung thành để giải vây cho Công Mạnh Trập, khi đó cả nhà đều sẽ bị chém đầu.
Khánh Kỵ lại nói:
- Tề đại phu, ngài cùng với Công Tử Triều, Bắc Cung đại phu, Chử đại phu một khi tổn hại sẽ cùng tổn hại, một khi quang vinh sẽ cùng quang vinh, đại sự như vậy ngài đâu phải tự mình gánh vác, chuyện này ngài có thể thương nghị với bọn họ một chút, là muốn sống sót từ trong hung hiểm, hay là ngồi yên chờ chết, mọi người không ngại thương nghị một chút. Về phần lực lượng cung thành cấm vệ, ngài đừng quên, trong cung còn có một vị Nam Tử phu nhân đứng về bên phía các ngài, chỉ cần bà ta có thể kiềm chế được một chút, tới khi Công Mạnh Trập đầu rơi xuống đất, tất cả bụi bặm coi như được quét đi rồi.
Tề Báo do dự nói:
- Khó, khó đó, cung thành cấm vệ, là do thân tộc của quốc quân nắm giữ, quân phu nhân sợ cũng không điều động được.
- Chuyện đó thì có gì? Trước hết thì giam lỏng Vệ Hầu lại, đợi tới khi quét sạch bụi bặm, lại cung thỉnh Vệ Hầu vào triều. Hắn ngay cả có cam lòng hay không, cũng dám xử trảm người đã nắm trong tay toàn cục hay sao, chưa kể các ngài còn xem như là có công nữa.
Chiêu này của Khánh Kỵ là được tiếp thụ từ giáo huấn của Ngũ Tử Tư. Ngũ Tử Tư ở Trịnh quốc mê hoặc những quyền thần có dã tâm làm phản, chính là ban đầu khống chế Trịnh quốc quốc quân, khiến cho hắn không thể thoát ra ngoài để triệu binh mã, tránh cho việc sắp thành lại bại. Hiện giờ hắn muốn lợi dụng tình thế hung hiểm không còn đường thối lui của bọn Tề Báo để phản kháng lại Công Mạnh Trập, đương nhiên trước tiên phải khống chế được quốc quân.
Tề Báo suy nghĩ trước sau, tóm lại vẫn cảm thấy không ổn, không khỏi liên tục lắc đầu.
Khánh Kỵ nói tới đây thì đứng lên, vẻ mặt khinh thường cười lạnh nói:
- Công Mạnh Trập mài kiếm soàn soạt, cũng đã chém tới đầu ngài rồi. Đại phu cứ ở chỗ này do do dự dự, khó quyết làm hay không, Khánh Kỵ sớm nghe nói Tề đại phu thần lực vô địch, có sự dũng mãnh vạn người khó địch, là dũng sĩ của Vệ quốc, cho nên mới có ý muốn kết giao với đại phu, không thể tưởng được lại là một người thiếu quả quyết, đối với một kẻ thọt như Công Mạnh Trập lại sợ hãi, giống như một thiếu phụ bất tài, thật sự là khiến anh hùng thiên hạ chê cười! Thôi, ngài cứ đóng cửa chờ chết đi, Khánh Kỵ cáo từ!
Khánh Kỵ vén trường bào, đi nhanh về phía cửa. Tề Báo bị hắn nói tới đỏ lựng cả mặt, mắt thấy Khánh Kỵ đã nắm lấy cánh cửa, đột nhiên hét lớn một tiếng:
- Công tử chậm đã!
Khánh Kỵ quay đầu lại, chỉ thấy Tề Báo chậm rãi gục đầu xuống, cúi đầu nói:
- Công tử chậm đã, việc này... việc này chờ Tề Báo triệu tri kỷ đến để bàn bạc một phen.
- Được, Khánh Kỵ sẽ ở quý phủ Di Hạ đại phu chờ tin tức của ngài. Có điều thời gian cấp bách, từ bến Hoàng Hà tới Đế Khâu, chỉ mất mấy ngày hành trình. Công Mạnh Trập đại quân chốc lát là tới, hy vọng đại phu sẽ không đợi tới thời điểm kiếm kích tới sát người, cả nhà bị chém mới thay đổi chủ ý!
Công Tử Triều, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố, bốn người tề tụ trong một căn phòng. Hiện ở trong nhà Tề Báo, trên bàn không rượu, bốn người cứ thẳng chiếu mà ngồi, sắc mặt ngưng trọng, không khí trong sảnh thập phần áp lực.
Qua hồi lâu, Tề Báo nói:
- Tin tức mà ta có được chính là thế đó, chư vị, các ngài thấy thế nào?
Bắc Cung Hỉ hít sâu một hơi, trầm giọng nói:
- Ta tin tưởng vào tin tức Khánh Kỵ đưa tới, hắn có lẽ không có ý tốt, muốn từ chuyện này mà thủ lợi, có điều cái loại chuyện này hắn cũng không dám bịa đặt, cho nên tin tức Công Mạnh Trập muốn xuống tay với chúng ta hẳn là thật. Hơn nữa, ngày trước gia tướng trong phủ ta từng nghe được một ít chuyện, lúc đó cũng không để ý lắm, lúc này nghĩ lại, đó chính là bằng chứng.
Hắn cau mày, lại tiếp tục nói:
- Chúng ta mặc dù bất hòa với Công Mạnh Trập, nhưng không thể cấm các môn hạ thực khách qua lại, trong phủ của ta có mấy thực khách, vẫn luôn hữu hảo với thực khách trong phủ Công Mạnh Trập, thường xuyên uống rượu dạo chơi, có điều hai ngày nay... Thực khách trong quý phủ Công Mạnh Trập đều an phận thủ thường chờ ở trong phủ, ta từng nghe môn khách của ta oán giận quý phủ Công Mạnh Trập nhiều quy củ rắc rối, hiện giờ xem ra, có vẻ chính là một dấu hiệu.
Bắc Cung Hỉ tướng ngũ đoản (mình và tứ chi đều ngắn), eo thô lưng dày, mắt tròn miệng rộng, nhìn rất bưu hãn mạnh mẽ. Hắn giống với Tề Báo, gia tộc vốn luôn chấp chưởng binh quyền Vệ quốc, cho nên hai người luôn sở trường về vũ lực. Có điều hai mươi năm trước Công Mạnh Trập đã dần dần nhúng tay vào binh quyền, nắm trong tay vũ trang, hai nhà bọn họ liền trở thành hư danh, không còn ảnh hưởng gì lớn.
Tề Báo chăm chú hỏi:
- Như vậy, ý Bắc Cung đại nhân là như thế nào?
Bắc Cung Hỉ liếc mắt nhìn hắn một cái, gò má nhẹ nhàng giật giật hai cái, tựa khóc tựa cười nói:
- Chẳng lẽ, kiếm đã kề tới cổ, ta còn chịu ngồi bó tay chịu trói?
Hắn hung hăng cắn chặt răng, cười gằn nói:
- Hoặc là, cùng hợp lại liều mạng với hắn, tóm lại không thể để Công Mạnh Trập dễ dàng đắc thủ.
Lời đó của Bắc Cung Hỉ chính là hợp với tâm tư của Tề Báo, trước khi chưa biết ý kiến của mọi người, hắn còn chưa dám biểu đạt chủ trương của chính mình. Lúc này nghe thấy Bắc Cung Hỉ mở miệng, lập tức liền phụ họa theo, nói:
- Không sai, ta cũng có ý tứ này. Công Mạnh Trập cuồng vọng tự đại, không coi ai ra gì, không chỉ có mấy người chúng ta bị hắn làm nhục, mà những công khanh trong triều bị hắn khinh thường cũng có cả đống. Ta tin rằng nếu chúng ta giành được lòng người, chỉ cần giữ yên quốc quân sang một bên là không thành vấn đề gì rồi. Chử đại phu, ngài thấy thế nào?
Sư Phố trên dưới năm mươi tuổi, bộ dáng phúc hậu, đỉnh đầu hơi hói, cho nên mặc dù ở trong sảnh vẫn đội mũ quan chỉnh tề. Hắn mặc dù hơi mập, nhưng mà khuôn mặt tròn tròn lại hé ra nụ cười trời sinh hiền hậu, cằm dầy đậm, nhìn giống như một người rất phúc hậu, thật khiến cho người ta không ghét được.
Chử Sư Phố ê a nói:
- Công Mạnh Trập không chỉ là thượng khanh Vệ quốc ta, còn là anh ruột của đương kim quốc quân, chúng ta... chúng ta hành sự như vậy, chỉ sợ..., theo ý ta, chúng ta không bằng trước tiên cầu khẩn với quân phu nhân, đi cầu tình với quốc quân, quốc quân xưa nay luôn nhân từ, có lẽ sẽ không...
Bắc Cung Hỉ tím mặt nói:
- Nói thoải mái thật, Công Mạnh Trập muốn san bằng Tề thị và Bắc Cung gia ta, lại chỉ răn đe qua loa với ngài, ngài đương nhiên chỉ coi đó là chuyện ngoài.
Sư Phố mặt đỏ tai hồng nói:
- Bắc Cung đại phu nói cái gì vậy, ngài và ta cùng tiến cùng lùi, cùng tổn hại cùng quanh vinh, Chử Sư Phố sao có thể là loại tiểu nhân chỉ lo cho bản thân mình?
Công Tử Triều cúi đầu, vểnh tai nghe bọn họ bàn bạc với nhau, thần sắc mịt mờ. Nghe tới đây, hắn ngẩng đầu lên, cười nhẹ giải vây:
- Người không vì mình, trời tru đất diệt. Đại phu lo nghĩ vì nhà mình, đó cũng là việc hợp với đạo lý. Chỉ có điều, Chử đại phu, ngài phải hiểu rằng, Công Mạnh Trập sở dĩ muốn chém Tề thị, Bắc Cung thị, lại lưu lại ngài và ta, chỉ sợ là vì còn bị quốc quân ngăn cản. Sau khi Tề thị, Bắc Cung thị bị lật ngã, khi đó muốn đồ sát hai kẻ không có quyền bính là ngài và ta, còn không phải giống như nghiền một con kiến sao?
Hắn đầy thâm ý liếc mắt nhìn Chử Sư Phố, thản nhiên nói:
- Môi hở răng lạnh, nương tựa lẫn nhau, chẳng lẽ Chử đại phu không biết đạo lý đó sao?
Tề Báo vỗ tay khen ngợi:
- Vẫn là Công Tử khôn khéo, nhìn thấu dụng ý ác độc của Công Mạnh Trập, nói như vậy Công Tử cũng cho rằng chúng ta hẳn là nên chủ động ra tay, tiên phát chế nhân?
Công Tử Triều nhướng mi nói:
- Không sai, Triều cũng cho rằng, nên tiên phát chế nhân. Có điều, mặc dù Khánh Kỵ thật sự có thể chặn được quân chi viện, thuận tiện cho chúng ta hành sự, nhưng phải làm cho quốc quân đứng ngoài cuộc mới thành công được. Nếu không, hợp lực của ta và các ngài, mặc dù có thể chống lại Công Mạnh Trập, nhưng mà hai lực lượng cung vệ và thành vệ một khi tham chiến, chúng ta cũng không chắc thắng. Muốn ổn định quốc quân, khống chế được cung thành vệ đội, không phối hợp với quân phu nhân thì tuyệt đối không được. Cho nên... chúng ta nên nói chuyện này cho quân phu nhân biết, chờ bà ta đồng ý, như vậy cũng xem như chúng ta có một cái lí do, không đến mức quá bị động.
Tề Báo nghĩ một chút, đại sự như vậy, nếu được Vệ quốc phu nhân gật đầu hỗ trợ, làm việc càng có thêm phần đạo nghĩa, liền gật đầu nói:
- Công Tử suy nghĩ thấu đáo, vậy cứ theo lời Công Tử, trước bẩm báo cho phu nhân đã. Chỉ có điều... Công Mạnh Trập lúc nào cũng có thể động thủ, chúng ta phải nắm chắc thời gian.
Công Tử Triều đứng lên, nghiêm nghị nói:
- Tử Triều hiểu, bây giờ ta vào cung, hỏi xem ý tứ của quân phu nhân thế nào.
Tề Báo chợt nhớ tới một sự kiện, vội hỏi:
- Đúng rồi, chư vị sau khi trở về cần phải xốc lại tinh thần, tăng mạnh cấm vệ trong phủ lên ngàn vạn lần, đề phòng bất trắc.
Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố liên tục bảo "được", Công Tử Triều hơi hơi suy nghĩ, lại nói:
- Không thể! Đạo quân Công Mạnh Trập điều tới còn chưa tới Đế Khâu, hắn hẳn là sẽ không động thủ. Nếu ta sở liệu không sai, thì hắn sẽ làm ra vẻ công chính vô tư, dưới tình huống tự tin đã nắm được toàn cục, hắn sẽ không làm chuyện không nói mà diệt. Tám chín phần mười là sẽ điều động quân đội khống chế phủ đệ của chúng ta, sau ở trên triều đình tuyên bố tội trạng, ai trục xuất thì trục xuất, ai phải vào nhà lao thì vào nhà lao, để thể hiện quyền bính của hắn.
Hắn đã muốn xuống tay với chúng ta, đối với hành tung của chúng ta sao lại không giám thị? Chỉ sợ hành tung giờ phút này của chúng ta đã rơi vào tai mắt của hắn. Theo ý ta, mọi người cứ làm ra bộ dáng giống như toàn bộ không biết gì, chuyện gì cần làm thì cứ làm, quý phủ không được có dị động, mới có thể làm cho hắn lơ là mất cảnh giác. Nếu không, chỉ sợ hắn sẽ bất chấp việc gây đại loạn ở Đế Khâu, động thủ trước...
Tề Báo hoàn toàn tỉnh ngộ, nói:
- Công Tử nói đúng, Tề Báo suýt nữa làm hỏng đại sự. Mọi người cứ theo kế của Công Tử mà thong thả hành sự, không thể để cho người khác nhìn thấy sơ hở.
Trong bốn người, căn cơ của Công Tử Triều mỏng nhất, nhưng hắn lại là đường huynh của quân phu nhân, lần này biểu hiện ra mưu trí khôn khéo lại càng khiến cho đám người Tề Báo tâm phục, vô hình, hắn đã trở thành nhân vật lãnh quân bên trong đám người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ.
- Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố, Công Tử Triều tụ tập ở quý phủ Tề Báo?
Công Mạnh Trập ngồi ở trên cái đôn bằng đá hỏi.
Một chân của hắn bị thọt, nếu không cần thiết thì sẽ không đi lại. Ở ngoài phủ đều đi trên xa mã, ở nhà nơi đâu cũng có thảm gấm đôn đá, chỉ có khi đón chào Vệ Hầu, mới phải làm phiền đôi chân bước đi.
- Vâng, Công Tử Triều rời khỏi Tề Báo phủ, liền vào cung gặp quân phu nhân, những người khác đều quay về nhà mình, cũng không có động tĩnh gì đặc biệt.
Người trước mặt đang chắp tay đáp lời là một trung niên nam tử hơi gầy, ánh mắt khôn khéo, người này chính là gia tướng quý phủ Công Mạnh Trập Ngao Thế Kỳ, một thân dũng lực, vũ kỹ tinh xảo, luôn trung thành tận tâm với Công Mạnh Trập.
- Trong phủ bọn họ có dị động gì không?
- Không có, Bắc Cung Hỉ sau khi về phủ thì tiếp tục uống rượu giải sầu, còn ném vỡ một chén rượu, làm ướt y phục thị tỳ của hắn. Chử Sư Phố buổi chiều đi bái kiến Sử Công, về phần quý phủ của bọn họ, cửa nhà mở rộng, thực khách gia tướng tản mạn ra vào, không có gì dị thường.
Công Mạnh Trập ung dung cười:
- Mấy kẻ này vốn là những nhân vật thích thông đồng làm bậy, như vậy xem ra, lén lút tụ tập cùng lắm cũng chỉ càu nhàu mà thôi. Chử Sư Phố bái kiến Sử Công, ha hả, xin hắn nói giùm sao? Sử lão phu ở trước mắt ta có thể diện lớn vậy sao? Nếu bảo hắn đến quỳ gối trước mặt lão phu, lão phu có lẽ cũng không làm hắn khó xử. Còn về phần Công Tử Triều...
Hắn cười khinh miệt:
- Chỉ xứng bám váy nữ nhân!
Hắn liếc mắt nhìn Ngao Thế Kỳ, phân phó:
- Tiếp tục theo dõi phủ đệ bọn chúng, nếu có gì dị động, lập tức báo lại!
- Rõ!
Ngao Thế Kỳ chắp tay đi ra.
Công Mạnh Trập vuốt râu trầm ngâm một lát, gọi:
- Chu Bát!
Một đại hán mặc áo đen bước nhanh tới trước mặt hắn, chắp tay nói:
- Chủ công.
- Gia tướng thực khách trong phủ còn phải bị ước thúc, cấm ra ngoài một mình, hai ngày này... còn có lúc cần dùng tới bọn họ. Đồng thời, tăng mạnh đề phòng trong phủ.
- Rõ!
- Ừm, đi đi, phân phó người đi mời Khổng Chi Tuyền, bảo hắn ngày mai chờ ở cửa cung, đi cùng quốc quân tới yến tiệc ta mời.
- Rõ!
Chu Bát lĩnh mệnh lui ra.
Sáng sớm hôm sau, Vệ Hầu rời khỏi cung tới yến tiệc của Công Mạnh Trập. Hai ngày này hắn đặc biệt chịu khó đi tới quý phủ Công Mạnh Trập, có điều lại có dụng ý khác. Đối với dáng vẻ mỹ miều của tiểu đồng kia, do e ngại quan hệ với Công Mạnh Trập, hắn cũng không mạnh mẽ ép Ngải Tử Man đi vào khuôn khổ. Lại bởi vì nổi lên tâm tư thương hương tiếc ngọc, muốn mỹ thiếu niên kia thực tình phục vụ cho hắn, cho nên Cơ Nguyên liền sử dụng những thủ đoạn dụ dỗ mạnh mẽ, hai ngày gần đây, ban thưởng không kể xiết, mỗi ngày đều chui vào trong phủ của Công Mạnh Trập, không nghe múa hát, không thích vui chơi, chỉ thích luận bàn kiếm thuật cùng với thiếu niên kia. Người không biết rõ còn tưởng rằng quốc quân chuyển tính, xem trọng anh hùng tuổi trẻ hùng tâm tráng chí.
Vệ Hầu Cơ Nguyên hôm nay không mặc y phục quốc quân, chỉ mặc một bộ áo bào võ sĩ thêu hoa, đầu đội mũ võ sĩ cắm lông gà rừng, tay cầm một thanh bảo kiếm, chân đi nhẹ nhàng, thần thái phơi phới, miệng còn nhẹ nhàng hát một điệu dân ca. Cách ăn mặc này vào lúc đó có chút mới mẻ, chỉ có lúc vui đùa mới mặc, vua của một nước mà ăn mặc như thế, không khỏi có chút ngả ngớn, hắn thầm nghĩ muốn cho thiếu niên kia vui vẻ, nên hạ thân mình, không thèm để ý xì xào.
- A! Tiện thiếp tham kiến quốc quân!
Một bóng người chợt hiện ở hành lang, khiến cho Cơ Nguyên đang mỉm cười chợt cả kinh, vội vàng chỉnh đốn lại trang phục cho chỉnh tề. Người này mũ ngọc áo lông, eo đeo ngọc đái, dáng người thon thả duyên dáng, mái tóc mây tôn lên dung nhan xinh đẹp, có một loại kinh diễm thanh lệ không nhiễm bụi trần, siêu phàm thoát tục.
- A, là phu nhân à?
Cơ Nguyên lắp bắp kinh hãi.
Mỹ nhân trước mặt đã uyển chuyển cúi người thi lễ:
- Mới sáng sớm, quốc quân đang muốn đi đâu vậy?
- A... này..., à, quả nhân đi dự tiệc ở quý phủ Công Mạnh, hôm qua đã đồng ý với hắn tới dự rồi, quả nhân đương nhiên không thể nuốt lời, ha ha, ha ha...
- Ồ,
Nam Tử cười nhợt nhạt:
- Nếu như vậy, tiện thiếp cung tiễn quốc quân.
- Miễn lễ miễn lễ, phu nhân không cần khách.
Cơ Nguyên có chút chật vật tăng cước bộ rời đi. Nam Tử một vưu vật tuyệt diệu như vậy, vốn luôn là nữ tử mà mọi nam nhân tha thiết mơ ước, đáng tiếc lại ở trong tay của Cơ Nguyên. Một nữ tử xinh đẹp động lòng người như vậy, lại không bằng một luyến đồng tuổi trẻ, ở trong mắt người khác giống như vật báu thế gian, ở trong mắt hắn lại chẳng có giá trị gì, chỉ là một ái thê chính quy mà thôi. Lúc này hắn muốn đi tới Công Mạnh Trập quý phủ gặp tiểu mỹ nhân ngưỡng mộ trong lòng, tiểu mỹ nhân này lại là một nam tử, khiến cho hắn không dám đối diện với con ngươi trong suốt của Nam Tử.
Nam Tử chậm rãi đứng dậy, nhìn bóng dáng vội vàng rời đi của Vệ Hầu, trên khuôn mặt thanh lệ thoát tục của nàng lộ ra một chút u oán thản nhiên. Vệ Hầu tuy nói rằng dự tiệc của Mạnh Trập, nhưng nàng ở trong cung cũng có tai mắt, sao lại không biết quốc quân đang si mê một kiếm đồng ở quý phủ Công Mạnh Trập như điên như cuồng. Tuy rằng nàng đối với Vệ Hầu cũng không có tình thâm gì, nhưng dù sao cũng là trượng phu của mình, trượng phu của chính mình lại đi mê luyến đồng, coi nàng không ra gì, khiến cho người luôn tâm cao khí ngạo như nàng không khỏi cảm thấy tổn thương.
Nàng vốn định sáng sớm đi tới ngự hoa viên để tản bộ giải sầu, lúc này tuy nhìn thấy non xanh nước biếc, hoa văn phượng hoàng trang trí tinh mỹ, bỗng nhiên nàng lại mất đi hứng thú, chẳng còn tâm tình gì nữa, liền xoay người trở về tẩm cung của mình.
Hậu hoa viên trong cung Vệ Hầu không phải là nhỏ, nhưng xây cách khu tập trung cung điện cũng không xa. Con đường rải đá ở trước mặt cung điện, nếu ban đêm có xe ngựa đi vào, thì thanh âm lộc cộc có thể truyền vào tận tẩm cung. Cơ Nguyên bước nhanh đi, chỉ chốc lát đã tới cửa cung, Đại phu Khổng Chi Tuyền đang chờ ở cửa cung, hôm nay hắn cũng được mời đi cùng quốc quân tới phủ Công Mạnh Trập.
Thượng khanh Vệ quốc, vốn có Tôn Thị, Ninh thị, Tề thị, Bắc Cung thị, Khổng thị, Sử thị, Thế Thúc thị. Mấy trăm năm trước, Tôn Thị, Ninh thị bởi vì phản loạn mà tiêu vong, chỉ còn lại có Tề thị, Bắc Cung thị, Khổng thị, Sử thị, Thế Thúc thị, cùng với Công Mạnh thị vừa mới quật khởi chưa tới hai mươi năm. Vị Khổng Chi Tuyền Khổng đại phu này cũng là người trong Khổng thị.
Công Mạnh Trập sau khi mượn cớ miễn chức của Tề Báo, liền đưa Khổng đại phu tiến lên chiếc ghế đại tư khấu phụ trách tư pháp của Vệ quốc. Khổng Chi Tuyền cảm động đến rơi nước mắt, đương nhiên nguyện trung thành với Công Mạnh Trập. Hai ngày sắp tới binh mã vừa đến Đế Khâu, Công Mạnh Trập sẽ nhanh chóng bắt Tề Báo cùng Bắc Cung Hỉ, lúc đó đường đường hai thượng khanh, không thể không nói gì mà cứ thế diệt, cho nên hôm nay cho gọi Khổng đại phu tới, là muốn bàn bạc hành động, để cho hắn chuẩn bị.
Vừa thấy quốc quân đi ra, Khổng đại phu vội vàng chắp tay thi lễ, nói:
- Thần tham kiến quốc quân.
Bên cạnh cũng chợt hiện lên một người, chắp tay thi lễ nói:
- Thần Tử Triều ra mắt quốc quân.
Cơ Nguyên tập trung nhìn vào, hóa ra là Công Tử Triều, đường huynh của Nam Tử phu nhân.
Khổng đại phu là thượng khanh, ở trước mặt vua có thể tự xưng là vi thần. Công Tử Triều là trung khanh, ở trước mặt quốc quân phải xưng tên, phải xưng là 'thần gì gì đó' mới không bị thất lễ, cho nên ngôn ngữ của hai người mới không giống nhau.
Công Tử Triều môi hồng răng trắng, khuôn mặt tuấn tú, đúng là một nhân vật tao nhã khiến cho người ta vừa thấy liền sinh hảo cảm. Cơ Nguyên vốn là rất tán thưởng hắn, rất có hảo cảm, hơn nữa hắn cũng cảm thấy thẹn với Nam Tử, cho nên đối với người nhà của nàng thì thập phần khách khí. Công Mạnh Trập vốn hiểu tâm tư của hắn, cho nên bởi vì lí do này, để đề phòng có xích mích với Cơ Nguyên, hôm trước khi hiến kế mới có cách đối xử khác nhau, không đụng tới Công Tử Triều.
Nhìn thấy Công Tử Triều, Cơ Nguyên dừng bước, trên mặt lộ ra nụ cười, nói:
- Tử Triều, ngươi sao lại ở đây?
Công Tử Triều kính cẩn nói:
- Thần Tử Triều vốn muốn vào cung thăm quân phu nhân, ở đây lại gặp Khổng Chi Tuyền, nên bắt chuyện với ngài ấy một lát, đúng lúc lại gặp quốc quân.
Dựa theo lễ chế, ở trước mặt quốc quân, mặc kệ là chức vị cao thấp thế nào, các quan viên đại phu gọi lẫn nhau cũng chỉ xưng đủ tên họ, chứ không được xưng là đại phu gì, đại nhân nào, bởi vậy Công Tử Triều mặc dù về tuổi, về chức vị đều còn lâu mới bằng Khổng Chi Tuyền, nhưng ở trước mặt Cơ Nguyên cũng chỉ xưng tên chứ không xưng hô tôn kính.
Cơ Nguyên "Ồ" một tiếng, xua tay nói:
- Phu nhân dậy sớm, đang tản bộ trong hậu hoa viên, ngươi tự đi tìm nàng đi.
- Dạ, cung tiễn quốc quân.
Công Tử Triều vái thật sâu, nhìn theo Cơ Nguyên cùng Khổng Chi Tuyền lên xe đi, lúc đi mới đi vào trong cung.
Lúc này, ở cửa hông của cung Vệ Hầu, Di Tử Hạ cũng đang thản nhiên tiến vào trong cung. Công Tử Triều vốn là người thân của quân phu nhân, có thẻ bài là có thể thông hành. Có điều khi vào cung hắn cũng phải đăng ký, đã vào cung rồi là nhất định phải ra. Mà Di Tử Hạ còn được Vệ Hầu sủng ái hơn cả hắn, vào cung cũng chẳng ai để ý tới. Lúc này, hắn vi phạm lệnh cấm dẫn theo một người hầu dáng người cao lớn, thủ vệ cửa cung cũng chỉ mắt nhắm mắt mở, chứ không ngăn trở.
- Công Tử, Di Hạ chờ ngài ở Phụng Tiên điện, ngài... ngàn vạn lần phải cẩn thận một chút.
Di Tử Hạ vừa đi, vừa khẩn trương nói với Khánh Kỵ phía sau. Ngày hôm qua Công Tử Triều vào cung gặp Nam Tử, Nam Tử nghe thấy Công Tử Triều nhắc lại chủ trương lớn mật của Khánh Kỵ, trong lòng trù trừ không dám đáp ứng, sắc trời lại đã muộn, thời gian Công Tử Triều ở trong cung khuyên nhủ cũng chỉ hữu hạn, cho nên đành phải trở về phủ. Tề Báo tính tình không kiên nhẫn, buổi chiều cho người tới hỏi tin tức từ hắn, Công Tử Triều bởi vì chưa có được câu trả lời thuyết phục từ phía Nam Tử, cho nên khó tránh khỏi chưa trả lời được rõ ràng. Tề Báo lo lắng không thôi, dù sao trong kế hoạch của Công Mạnh Trập, hắn cùng Bắc Cung Hỉ là người đầu tiên bị đối phó, mà Công Tử Triều có thể mất đi quyền lực, nhưng mà ít nhất cũng không mất đi vinh hoa phú quý. Hắn sao dám ký thác hi vọng duy nhất lên người Công Tử Triều, cho nên mới liên lạc với Khánh Kỵ và Bắc Cung Hỉ bàn bạc tự mình hành động.
Khánh Kỵ muốn lấy được trợ lực này, đương nhiên nắm càng chắc càng tốt, cho nên muốn tự mình vào cung thuyết phục Nam Tử. Vì thế nên tạm thời trấn an Tề Báo, để cho Di Tử Hạ dẫn hắn vào cung, hắn biết ngày hôm nay Công Tử Triều cũng sẽ vào cung gặp Nam Tử, chỉ có điều không nghĩ tới rằng hắn lại đến sớm vậy thôi.
Khánh Kỵ mặc trang phục võ sĩ người hầu, tỉnh táo đánh giá bốn phía, nói:
- Tử Hạ yên tâm, nếu vạn nhất có người biết được, Khánh Kỵ sẽ bảo là do ta bức ép ngài, không để cho ngài phải phiền hà đâu.
Di Tử Hạ dậm chân nói:
- Di Hạ đâu có lo lắng điều đó? Ngay cả ta có đưa ngài vào cung, Vệ Hầu cũng sẽ không trách tội của ta. Ta là lo lắng ngài... trời sáng sủa thế này, ngài muốn lẩn vào hậu cung gặp quân phu nhân, nói dễ hơn là làm.
Khánh Kỵ cười cười, nói:
- Trong cung sao có thể so được với phủ đệ người khác, nếu buổi tối ta vào, ngay cả có ẩn náu đến đâu, cũng không tránh nổi hơn mười con chó dữ tuần tra ban đêm. Yên tâm đi, trời càng sáng sủa, cấm vệ trong cung sẽ càng lơi lỏng, ai lại nghĩ rằng có người xông vào cung làm gì? Ta là đứng về phía phu nhân, nàng ngay cả không đáp ứng ta, cũng sẽ không lấy oán báo ân, gây bất lợi cho ta.
Di Tử Hạ cảm thấy Khánh Kỵ nói có lý, trong lòng yên ổn đi chút. Hắn nhìn nhìn khắp nơi, lúc này vừa khéo đi tới một bụi cây sum xuê, xung quanh không có thị vệ, liền dừng bước, nhỏ giọng nói:
- Cứ đi theo đường mòn này, là sẽ tới hậu cung. Công tử đã nhớ rõ địa hình trong cung mà ta vẽ chưa?
Khánh Kỵ thấp giọng nói:
- Tử Hạ yên tâm, ta đã nhớ kỹ trong đầu. Ta đi đây!
Khánh Kỵ chợt lóe thân mình, nhảy vào trong lùm cây, nhanh chóng khuất dạng.
Nguyệt Hoa điện, Vệ phu nhân tẩm cung. Một chiếc giường hoa mỹ tinh xảo, mùi hương thơm lượn lờ quanh giường, khắp bốn phía đều có màn che. Lúc này tấm màn che đã được kéo vào, ngồi ở trên giường là một tiểu mỹ nhân dáng vẻ thướt tha.
Nàng đang chậm rãi thay y phục, mặc vào một bộ trường bào mặc ở trong cung, lúc này đã cởi giày, cởi tất bố, chuẩn bị đeo guốc gỗ đế cao.
Trước giường cách đó không xa, Công Tử Triều đứng đó, một bộ y sam xanh lam, sáng sủa thanh tú, chiếc mũ công tử màu trắng đội trên đầu khiến cho hắn càng thêm anh khí, nhưng mà cặp lông mi nho nhã lại đang hơi hơi nhíu lại, một bộ dáng đang có tâm sự nặng nề.
- Nam Tử, chúng ta gặp nhau ở trong tẩm cung, nếu lan truyền ra ngoài chỉ sợ không ổn.
- Ta còn không sợ, huynh sợ cái gì?
Nam Tử liếc mắt nhìn hắn, thần sắc mang theo một chút hương vị khiêu khích. Nàng trời sinh đoan chính, khiến cho người ta mất hồn, nhưng mà Công Tử Triều dù sao cũng đã quen biết nàng lâu ngày, đối với sắc đẹp của nàng có một loại miễn dịch không nhỏ, cho nên thần sắc vẫn rất ung dung.
- Nam Tử, ta không lo kẻ khác, chỉ lo rằng Vệ Hầu nếu biết, sẽ gây bất lợi cho muội.
- Hắn? Hừ!
Đôi mày ngài quyến rũ của Nam Tử nhướng lên, cười lạnh nói:
- Cho dù huynh có nằm trên giường của ta bị hắn biết được, chỉ sợ rằng cũng sẽ chẳng để ý. Tâm tư của hắn, hiện tại đều đặt trên người một mỹ thiếu niên ở Công Mạnh Trập quý phủ rồi.
Con ngươi của Công Tử Triều chợt lóe lên trong nháy mắt:
- Đây chính là việc tốt mà Công Mạnh Trập làm! Nam Tử, hôm qua chuyện ta nói cho muội, muội đã suy nghĩ thế nào rồi? Công Mạnh Trập sắp hành động rồi, chúng ta nếu không hạ thủ thì sẽ mất đi lợi thế.
Lúc này, Khánh Kỵ mặc một bộ y phục thái giám trong cung, lặng lẽ lẩn vào trong tẩm cung của Nam Tử. Tẩm cung của Nam Tử Di Tử Hạ cũng chưa bao giờ tới, có điều cung điện thiên hạ đều xây dựng theo Chu lễ, phần lớn là giống nhiều mà khác ít, Khánh Kỵ vốn là Ngô quốc vương tử, tới nơi đây như là ngựa quen đường cũ, hắn xuyên qua các cánh cửa, tránh khỏi các thị tỳ và thái giám trong cung, dần dần tiếp cận với trung tâm của tẩm cung. Nơi này những người phụng dưỡng đã sớm bị Nam Tử đuổi đi, cũng không có ai trông coi.
Chung quanh điện có những dải lụa trắng noãn hạ xuống, che giấu thân hình của hắn, khiến cho hắn có thể lặng yên tới gần. Nghe thấy trong điện mơ hồ truyền ra âm thanh nói chuyện, Khánh Kỵ lập tức đi nhẹ nhàng, rón ra rón rén theo những dải lụa tiến tới gần, sau đó nhẹ nhàng giữ chặt một vài dải, cố định chúng lại để che thân hình của mình, lặng lẽ nhìn về phía chiếc giường lớn trong điện.
Một cái liếc mắt nhìn này, một bóng người xinh đẹp lập tức nhảy vào mắt. Nữ tử xinh đẹp ngồi trên giường lớn kia, luận về nhan sắc, phải xấp xỉ với Thành Bích phu nhân, so với Nhâm Nhược Tích, Thúc Tôn Diêu Quang còn hơn một chút. Khác với sự thành thục quyến rũ của Thành Bích, sự diễm lệ của nàng mang theo một loại lãnh ý cao ngạo, cái loại phong vận cao cao tại thượng không thể xâm phạm này, khiến cho tất cả nam nhân đều nảy sinh dục vọng chinh phục.
Nam Tử ngồi nghiêng trên giường, cởi tất bố đang chuẩn bị đeo guốc gỗ, mắt cá chân tinh xảo đặt ở trên giường, áo bào mềm mại hơi co lại, lộ ra một đôi chân nhỏ rất cân xứng. Cái đường cong mềm mại đó rất khó có thể tả được. Nàng nhấc một chiếc guốc gỗ lên xỏ vào chân, động tác tuyệt đẹp, mang theo một tia ý nhị nồng đượm.
- Ta suy nghĩ cẩn thận rồi, chúng ta không thể làm như vậy.
Nam Tử thản nhiên nói.
Công Tử Triều nắm chặt hai tay, tiến lên hai bước, vội la lên:
- Tại sao lại thế? Chẳng nhẽ ta nói còn chưa rõ sao? Công Mạnh Trập lần này nếu đắc thủ, muội và ta sẽ mất đi đại thế. Vệ Hầu sủng ái muội à? Đến lúc đó, muội chỉ có thể khổ sở ở thâm cung, còn làm được cái gì? Có khác gì với Thích phu nhân bị đày vào lãnh cung không? Mà ta, cũng chỉ có thể dựa vào một ít bổng lộc mà ăn ở, lấy lòng Công Mạnh Trập mà sống. Đó là kết quả mà muội muốn sao? Nam Tử, hiện giờ chúng ta không thể không đấu được!
Nam Tử ngẩng đầu lên, cổ thon dài lộ ra một loại tao nhã khó có thể hình dung, càng hiển lộ sự cao quý và ung dung:
- Tử Triều, ta đã thực sự suy nghĩ về những gì huynh nói, nhưng mà sau khi nghĩ kĩ, ta lại cảm thấy rằng, nếu khởi binh giết Công Mạnh Trập, thực sự không ổn.
- Có gì không ổn, muội nói đi!
Công Tử Triều vội vàng nói.
Khánh Kỵ núp sau dải lụa nín thở lắng nghe, trong lòng hắn nghĩ, Nam Tử nếu phản đối, chỉ có thể xuất phát từ một nguyên nhân duy nhất, đó là sợ hãi. Đảm lượng của nữ nhân luôn tương đối nhỏ, huống chi nàng là một cô gái vừa mới quá nhị cửu. Vốn ở thời đại của hắn, cô gái tuổi này chỉ vừa mới vào cao đẳng, đại học, làm sao có đủ đảm lượng và kiến thức?
Đồng thời, hắn cảm thấy rằng thanh âm của nam tử xoay lưng về phía hắn cực kỳ quen tai, không khỏi âm thầm lấy làm lạ: "Công Tử Triều này, chẳng lẽ là người ta quen biết, như thế nào mà thanh âm của hắn... Giống như là nghe ở đâu đó rồi? A, hay là... hay lại chính là hắn..."
Khánh Kỵ thân mình vừa động, dải lụa trong tay liền lay động một trận, cũng may những dải lụa từ đỉnh điện rủ xuống này vốn vẫn nhẹ nhàng đung đưa, nên vẫn không khiến cho Nam Tử chú ý.
Nam Tử yếu ớt nói:
- Tử Triều, Vệ quốc còn chưa từng có tiền lệ giam lỏng quốc quân, tru sát quyền thần, nhất là lại còn có quốc quân phu nhân tham dự vào. Hơn nữa, lúc này lại phải mượn sức của Ngô quốc Khánh Kỵ, tai họa khó lường được.
Công Tử Triều cười lạnh:
- Chỉ lí sự cùn! Chúng ta bây giờ ngay cả hiện tại còn không có, muội còn lo lắng cho thiên thu muôn đời sau sao? Khi đó muội sớm đã trở thành đất vàng rồi, cho dù hắn có làm cái gì long trời lở đất, cũng chẳng có can hệ gì với ta và muội.
- Huynh!
Hai hàng lông mày của Nam Tử dựng thẳng, nhưng mà đón nhận ánh mắt sắc bén như lưỡi kiếm của Công Tử Triều, thái độ của nàng lại phải mềm xuống.
- Ai! Huynh đã nghe ta nói rõ ràng chưa?
Nam Tử u oán liếc mắt nhìn hắn, nói:
- Bổn ý của ta là giảm mạnh nâng yếu, tập trung quyền lực về vua, chứ không phải là bỏ đi một quyền thần, lại bồi dưỡng một kẻ mới. Nếu là như vậy, thà rằng quyền bính này nằm trong tay của Công Mạnh Trập, ít nhất hắn cũng là huynh ruột Vệ Hầu, nhìn chung cũng mạnh hơn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ. Tề Báo, Bắc Cung Hỉ vốn cũng là võ sĩ thế gia, một khi đoạt được quyền, sẽ như mãnh hổ thêm cánh, chắc gì đã kém bá đạo hơn Công Mạnh Trập.
- Ai nói quyền hành nhất định phải giao vào tay bọn họ?
Công Tử Triều vội nói.
- Không giao mà được sao?
Nam Tử lạnh lùng nói:
- Việc này nếu thành, chúng ta đã đắc tội với Vệ Hầu, huynh đừng nhìn bộ dạng hôn quân hoang dâm của hắn, Vệ Hầu kẻ này, ân oán rõ ràng, hơn nữa lại có đủ dũng cảm, khi còn trẻ thực sự đã làm nên một vài đại sự. Hiện giờ tuy rằng già nua, chìm vào tửu sắc, nhưng vuốt hổ vẫn sắc, nanh hổ vẫn nhọn, nếu chung ta giam lỏng hắn, giết huynh ruột vẫn giao hảo tốt với hắn từ trước tới này, hắn có chịu không? Nếu không nắm giữ binh quyền trong tay chúng ta để tự bảo vệ, hắn có thể sẽ không trả thù với chúng ta sao?
Công Tử Triều cả giận nói:
- Đó cũng chỉ là biện pháp giải vây trước mắt, muội nếu lo lắng bọn họ, vậy thì giao binh quyền cho ta là được.
"Dã tâm của huynh, nhỏ hơn bọn họ sao?" Những lời này Nam Tử thiếu chút nữa là thốt ra, nhưng nàng mặc dù từ Tống quốc công chúa trở thành Vệ Hầu phu nhân, điều khiển hậu cung, cao cao tại thượng đã vài năm, đối với người khác có thể hất hàm sai khiến, nhưng đối với nam nhân duy nhất mà nàng thực sự yêu, vẫn giữ một tính tình công chúa hồn nhiên tươi đẹp như trước, sao có thể nói nặng lời với hắn.
Nàng uyển chuyển nói:
- Sao có thể như vậy? Huynh nghĩ xem, huynh là đường huynh của ta, lại vừa mới vào Vệ quốc, sao có thể đưa binh quyền Vệ quốc vào tay huynh? Người trong thiên hạ đều sẽ nói là chúng ta liên thủ cướp Vệ quốc, đến lúc đó chúng ta sẽ trở thành đống phân trong mắt mọi người, họa sát thân lúc nào cũng có thể tới. Chỉ có điều nếu giao binh quyền cho Vệ quốc thế khanh Tề Báo và Bắc Cung Hỉ, kết quả chỉ sợ còn tệ hơn so với bây giờ. Ta cùng với Vệ Hầu hiện giờ chính là bằng mặt không bằng lòng, nhưng không tới mức như nước với lửa, đến lúc đó không dựa vào người ngoài thì không thể sinh tồn được, huynh nghĩ xem, không phải còn càng tệ hơn sao?
Nàng nói tới đây, liếc mắt nhìn Công Tử Triều, đứng dậy, đi đến trước mặt hắn, nhẹ nhàng kéo tay hắn, ôn nhu nói:
- Công Mạnh Trập mặc dù nắm hết quyền hành, nhưng hắn lúc này không có dã tâm muốn giành quyền từ Vệ Hầu, cũng không dám quá mức đe dọa tới ta. Hắn không dám khinh ta, chẳng lẽ ta còn không bảo hộ được huynh sao? Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, vốn chỉ là hai con chó mà chúng ta nuôi dưỡng, hiện giờ nếu đã không đảm bảo, cứ để cho bọn họ chết đi cũng tốt. Công Mạnh Trập tuổi đã quá nửa trăm, huynh lại hào hoa phong nhã, sợ hắn cái gì, chúng ta tạm thời nhẫn nhịn, từ từ bàn mưu tính kế, cơ hội sao có thể không đến được? Hắn dù có cao đến đâu chăng nữa, cũng không thể đối phó được với địch nhân cường đại nhất mà ai cũng không có cách nào chống cự: Thời gian trôi đi.
- Vậy phải đợi bao nhiêu năm?
Công Tử Triều phẫn nộ khó bình tĩnh, tức giận hỏi.
Khánh Kỵ ở phía sau màn nghe thấy Nam Tử tính toán như vậy, trong lòng không khỏi đại hận, tay hơi hơi sử lực, lụa Lỗ cảo kia đúng mà mềm mại, bị hắn nhẹ nhàng kéo thôi, hai dải lụa trắng đã nhẹ nhàng rơi xuống. Khánh Kỵ kinh hãi, vội vàng lắc mình lui về phía sau, tránh sau một dải lụa trắng khác.
Nam Tử ánh mắt chợt lóe, nhìn thấy màn lụa tự nhiên rơi xuống, nhất thời cả kinh, thất thanh kêu lên:
- Kẻ nào đó?
Công Tử Triều phản ứng nhanh hơn, khi ánh mắt Nam Tử chợt lóe, thất thanh kêu lên, hắn cũng đã xoay người, rút thanh kiếm từ ngang hông ra, ánh mắt có thể nhìn thấy một góc tay áo chợt hiện ra phía sau một dải lụa. Công Tử Triều tung người nhảy, vù vù một kiếm đâm vào đó.
Dải lụa nhẹ mềm vốn không chịu lực, nhưng tốc độ ra kiếm của Công Tử Triều cực nhanh, một kiếm này vô thanh vô tức xuyên thẳng qua, đột nhiên đâm ra phía sau màn.
Trường kiếm đâm ra, sau màn không có người, Công Tử Triều người theo kiếm tiến đến, vào trong màn, lại thấy một thân ảnh nhẹ nhàng trốn sau một vài dải lụa, Công Tử Triều lập tức vung kiếm đâm tới, không lưu tình chút nào.
Hôm nay hắn tới gặp Nam Tử ở tẩm cung vốn đã vượt lễ nghi, lại đàm luận chuyện cơ mật đại sự, nếu để bị người khác nghe thấy, mặc kệ kẻ đó là người phương nào, hắn cũng nhất định phải giải quyết.
Khánh Kỵ nhất thời cũng không biết có nên đi ra ngoài hay không, mắt thấy kiếm thế của đối phương tàn nhẫn ác độc, mỗi đường kiếm đều nhằm vào chỗ yếu hại, cũng không có cách nào dừng lại để giải thích, chỉ đành vội vàng né tránh sau màn lụa. Hai người giống như bướm bay trên những khóm hoa ngươi tiến ta lui, chạy vòng quanh màn lụa bên trong đại điện, khiến cho những dải lụa cũng theo đó mà đung đưa dữ dội. Chỉ một lát thời gian, Công Tử Triều đã đâm ra mười ba kiếm, thân ảnh Khánh Kỵ bay ngược lại khổ sở tránh né kiếm thế của hắn.
Khánh Kỵ vừa mới vọt tới mặt sau màn lụa, liền đã thấy phía trước dải lụa nhẹ nhàng chấn động, một tia sáng lóe lên từ trên lụa vù vù lộ ra, thẳng tới ngực hắn. Khánh Kỵ hoảng hốt, lui lại đã không kịp, vội vàng rút ra bội kiếm của mình, kiếm mới rút ra được nửa, hào quang đã tới ngực. Khánh Kỵ một tay cầm vỏ, một tay cầm kiếm, liền nâng thanh đoản kiếm mới rút khỏi vỏ một nửa chắn ngang lại một kiếm của Công Tử Triều.
"Keng" một tiếng, mũi kiếm của Công Tử Triều khó khăn lắm mới đâm được tới ngực hắn, lại bị đánh bay ra. Hai kiếm đụng nhau, tàn lửa bay bốn phía. Trên thân kiếm của Khánh Kỵ đã xuất hiện một vết nứt chạy dài.
Công Tử Triều kiếm thế không ngừng, mũi kiếm vung lên, quét ngang về phía eo hắn. Khánh Kỵ mắt thấy trên thân kiếm có vết nứt, lại cứng rắn lấy kiếm ra chặn, không ngờ đoản kiếm của mình cũng bị bảo kiếm của hắn đánh gãy, lập tức tra lại kiếm vào vỏ, ngay cả vỏ kiếm cũng mang ra chắn. Lại một thanh âm vang lên, kiếm của Công Tử Triều lại bị ngăn, dải lụa kia cũng bị mũi kiếm chém đứt, chậm rãi rơi xuống mặt đất. Một nửa dải lụa bị gió thổi tung bay lên, khiến cho khuôn mặt hai người lộ ra trước mặt đối phương.
Một người mũ ngọc áo quan, mặt như bôi phấn, một người mày ngài sang sảng, phong vận ẩn vào bên trong, hai người thấy bộ dáng của đối phương thì đều ngẩn ra, Khánh Kỵ thất thanh nói:
- Quả nhiên là ngươi.
Công Tử Triều thất thanh kêu lên:
- Hóa ra là ngươi.
- Nguyên lai Tống Triều chính là Công Tử Triều, ta sớm nên biết mới phải.
Khánh Kỵ vui vẻ cười nói.
- Thân phận chân chính của ngươi, là gì?
Công Tử Triều không dám sơ suất, lưỡi kiếm đặt ngang trước ngực, nếu có gì không đúng, kiếm của hắn sẽ không chút do dự, lập tức vung ra.
Trên mặt Khánh Kỵ lộ ra nụ cười:
- Ngô quốc Khánh Kỵ công tử, ra mắt Tống quốc Tử Triều.
Nam Tử tẩm cung, vẫn là một nam một nữ.
Điều khác biệt là, Công Tử Triều khoác áo bào đen đã được Nam Tử bảo cho ra ngoài, để lại Khánh Kỵ khoác trên mình một bộ đồ thái giám nhưng vẫn không hề giấu đi tư thế oai hùng ở lại trong phòng. Vệ phu nhân Nam Tử ngồi trên giường, tư thế ngay ngắn, giống như một đóa hoa sen rủ xuống hồ nước trong xanh, thuần khiết tinh túy không gì có thể xâm phạm.
- Dụng ý của Khánh Kỵ khi tới đây lúc nãy Công Tử Triều cũng đã nói rồi. Nỗi lo của Quân phu nhân không phải không có đạo lý, song tuy rằng nuôi hổ có thể dẫn đến tai họa, tình thế hiểm nguy trước mắt càng cần phải giải quyết. Còn về chuyện sau này... tin rằng với sự sáng suốt của phu nhân và cơ trí của Công Tử Triều, đối phó với bọn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ đương nhiên sẽ dễ dàng hơn rất nhiều so với việc đối phó một mình Công Mạnh Trập. Quyền lực chia ra hai nhà, mạnh hơn một nhà, huống chi là Tề Báo và Bắc Cung Hỉ chưa hẳn đã không có hiềm khích với nhau.
Nam Tử khuôn mặt dửng dưng, lạnh lùng nói:
- Ngươi không cần nói nữa, lợi hại thế nào thì ta đã suy xét vô cùng tường tận, ta sẽ không chấp nhận làm đồng mưu phản nghịch với ngươi đâu.
- Hử? Nếu đã vậy, Quân phu nhân việc gì phải bảo Công Tử Triều ra ngoài, nói chuyện riêng với ta?
Nam Tử từ từ đứng dậy, điềm tĩnh đi tới trước mặt hắn. Dáng người Khánh Kỵ lực lưỡng to cao, Nam Tử chỉ đứng tới vai của hắn, lúc đi tới trước mặt hắn, Nam Tử liền ngẩng trán lên định nói chuyện, thế nhưng trên mặt nàng rõ ràng mang sự cao ngạo hống hách kiểu bề trên.
- Quả nhân để lại một mình ngươi trong phòng, là bởi vì có một số chuyện không tiện để cho đường huynh biết...
Nàng liếc nhìn Khánh Kỵ, lạnh lùng nói:
- Tử Triều có dã tâm của hắn, ta lẽ nào lại không nhận ra? Tề Báo, Bắc Cung Hỉ thì tranh đấu như bầy thú dữ để mong đường sống. Còn ngươi thì lợi dụng Tử Triều kiếm lợi, Tề Báo , Bắc Cung ba người thì dùng lời ngon ngọt điêu ngoa đầu độc bọn chúng, chẳng phải ngươi cũng cầu lợi lộc về mình thì là gì?
- Sở quốc Ngũ Viên đê tiện vô sỉ, lấy oán trả ơn, vì lợi ích của cá nhân mà đầu độc quyền thần ở Trịnh quốc mưu phản làm loạn, lúc bại lúc thắng, làm chuyện phản nghịch chôn sống thái tử Kiến. Đó chính là đã đi theo vết xe đổ của Khánh Kỵ nhà ngươi. Đám công tử vong quốc các ngươi như những võ sĩ đã hết thời, luôn không quên những vinh hoa phú quý lúc trước, luôn không quên những ân oán thị phi của các ngươi, vì những điều này thì có ai là các ngươi không thể hy sinh? Có ai là không thể trở thành công cụ cho các ngươi lợi dụng?
Một lý do đường đường chính chính để các ngươi yên tâm đi mưu sát thu phục, chiêu nạp ân nhân của các ngươi, khiến nghìn vạn sinh linh ở nước của hắn trở thành vật hy sinh. Nói cái gì mà hiếu đạo công nghĩa, ra dáng đạo mạo, cái đám tự xưng là nam nhi đại trượng phu các ngươi, đều là lũ lòng lang dạ sói, khốn nạn vô liêm sỉ mà thôi.
-Nàng nói đúng lắm!
Khánh Kỵ thần sắc ung dung, không hề kích động:
- Chẳng bao lâu nữa, ta cũng căm ghét cái loại người đó, nhưng khi ta phải bước vào con đường sinh tử tiến thoái lưỡng nan, ta mới hiểu rằng làm một quân tử đạo đức quên mình vì người là khó như thế nào. Người có thân sơ, nghĩa có đại tiểu. Một người sống trong thế gian, điều đầu tiên là phải sống vì hắn, sống vì người thân của hắn, chà đạp lên kẻ khác mà sống.
Chư hầu trong thiên hạ này ai mà chẳng sống vì gia tộc nhà mình? Kẻ nào cũng đặt Chu thiên tử, đặt thiên hạ treo trên miệng, nhưng kẻ nào dám khẳng định là mình để tâm tới họ? Trong thiên hạ có mấy kẻ dám bỏ qua cái tôi, sống vì tập thể? Khi Cơ Quang hành thích quốc quân, ai đến chủ trì công lý cho ta? Khi ta thất thế chạy nạn, không ai chịu chứa nạp ta, có ai lại chẳng suy nghĩ cho mình chứ?
Ta không phải là kẻ tàn bạo khát máu, nhưng khi có kẻ đe dọa tới lợi ích và tính mạng của ta, ta cũng sẽ không ngồi yên khoanh tay mà chờ chết. Nếu bây giờ có kẻ lén phóng tiễn, ta không thể tránh kịp. Đứng bên cạnh ta lại là những thân thích bằng hữu mà ta yêu mến và kính trọng, thì ta thà chịu mũi tên đó, chứ không để cho bọn họ phải lao ra ngăn đỡ mũi tên thay ta. Nhưng nếu bên cạnh ta là một kẻ xa lạ không thân không thích, thì ta sẽ chẳng ngần ngại mà kéo hắn lại làm khiên chống đỡ, nếu như kẻ đó vốn cũng chẳng đối tốt gì với ta, thì ta sẽ càng không cần phải do dự. Nếu như bên cạnh là những người nhỏ yếu vô tội, chắc ta cũng có thể động lòng từ bi, nhưng như vậy cũng chỉ là để lương tâm của ta được thanh thản, chẳng việc gì phải lôi ra mấy cái thiên hạ đại nghĩa đó làm gì cả.
Bản thân sống không bằng chết, còn ở đây đàm luận nhân nghĩa? Phu nhân là mẫu quốc tương công*, năm xưa xướng giảng nhân nghĩa, kết quả là trở thành trò cười cho thiên hạ. Bá Di Thúc Tề giảng giải nhân nghĩa, kết quả là trở thành công cụ hiệu triệu người trong thiên hạ của những kẻ không chịu thần phục Chu thất. Bọn họ chạy đến núi Thủ Dương, tuy hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn không chịu khuất phục trước kẻ địch. Khi còn sống Chu Thất năm lần bảy lượt phái người dò la thám thính, rồi còn thổi phồng tuyên dương nghĩa cử của chúng, nhân nghĩa Chu thất dụng tâm ác độc làm sao? Hành động lần này rõ ràng là ép buộc chúng phải đâm lao theo lao theo chiêu bài "nhân nghĩa" cao đẹp. Ép bức bọn họ phải chết không toàn thây. Đến khi bọn họ chết rồi thì Chu thiên tử cũng có thể yên tâm. Người chết, chỉ còn lại nghĩa, chẳng còn nữa những xung đột về lợi ích với kẻ sống. Thế là bọn chúng nhũn nhặn nhân nhượng quốc gia, trung giáo tiết liệt; Và thế là chúng trở thành thiên cổ đại hiền,được Chu thất tôn sùng thán phục, các bậc quân vương ca tụng, bi thương làm sao!
*(Tống Tương Công, chú thích: Năm 638 TCN Tống Tương công cầm quân nước Tống đối đầu với quân nước Sở tại trận Hoằng Thủy (nay nằm ở phía Tây Bắc Chá Thành, Hà Nam). Lúc đó khi chứng kiến binh lực mạnh mẽ của quân Sở, đại tư mã nước Tống là Tử Ngư khuyên Tương công chờ quân Sở đi tới giữa sông thì tung quân tấn công, Tương công từ chối vì cho rằng quân Tống là quân nhân nghĩa nên không thể làm như vậy. Tới khi quân Sở đã sang sông và đang bày thế trận, Tử Ngư lại khuyên Tương công tấn công vì cho rằng quân Sở chưa kịp ổn định đội ngũ, tấn công ngay thì may ra mới có cơ hội thắng lợi, Tống Tương công lại đem bài nhân nghĩa ra để cự tuyệt, rốt cục quân Sở đánh cho quân Tống đại bại, bản thân Tương công cũng bị trúng tên trọng thương, không lâu thì mất. Con trai Tương công lên nối ngôi quốc quân tức Tống Thành công. Vì tư tưởng quân nhân nghĩa lạc hậu của Tương công nên có thuyết không xếp Tống Tương công vào hàng Ngũ Bá.)
Kho đẫy thóc thì mới biết lễ tiết, cơm no áo ấm thì mới biết vinh nhục, thời đại mà con người giãy dụa trong cuộc can qua. Ta không làm được như Bá Di, Thúc Tề, thà chết đói chứ không chịu mất khí tiết. Ta không làm được như Tống Tương Công không chịu nhụt chí, mang khí tiết để lấy đức phục nhân. Ta, Khánh Kỵ, cũng chỉ là một kẻ phàm phu tục tử mà thôi. Hy sinh thân mình, chỉ để cho người trong thiên hạ cảm động đôi chút sau một cuộc say sưa? Hy sinh bản thân ta cùng hàng trăm hàng nghìn nam nhi ý chí sục sôi luôn tận tụy theo gót ta, chỉ để trở thành những công cụ để kẻ khác lợi dụng? Ta không có những suy nghĩ vĩ đại như vậy, nếu như ta đặt bản thân mình giữa vòm trời đất giết người không thấy máu, vậy thì bây giờ ta cũng nên đi chết được rồi. Đừng nói với ta những thứ thiên hạ đại nghĩa gì đó nữa, đống thiên hạ đại nghĩa đó, đợi khi ta trở thành người nắm giữ thiên hạ rồi hãy nói tới.
Nam Tử bị một tràng lời nói của Khánh Kỵ khiến cho đứng như trời trồng, Khánh Kỵ lại nói:
- Bây giờ Quân phu nhân có sở cầu, ta cũng có sở cầu, giúp đỡ nhau cùng có lợi chứ không có ý gì khác. Ta không hề gây bất lợi cho Vệ hầu, ta giúp các người đối phó với Công Mạnh Trập, còn Công Mạnh Trập không phải là không có tâm địa hãm hại Vệ hầu, chỉ vì nắm giữ đại quyền mà phải làm quân hậu chi quân(vua ở sau vua)? Điều này, ta tin chắc rằng Quân phu nhân sẽ tinh tường hơn ta nhiều.
Nam Tử khẽ chau mày, rồi điềm nhiên nói:
- Tinh tường thì sao nữa? Mặc ngươi ăn nói khéo léo thế nào đi nữa, đừng mong thuyết phục được Nam Tử ta. Quả nhân có khối thủ đoạn xơi tái Công Mạnh Trập, không cần đến người ngoài phải động tay vào, kẻo lại dẫn đến loạn cục ở Vệ quốc. Khánh Kỵ, ta khuyên ngươi hãy từ bỏ ngay lập tức ý định ở Đế Khâu đi, trở về với Ngải Thành của ngươi., an phận thủ thường tại đó. Chuyện ngày hôm nay ta có thể giả như không hề hay biết, nếu như ngươi còn định đầu độc Công Tử Triều làm loạn nữa, lúc đó chớ trách quả nhân không khách khí với ngươi!
Khánh Kỵ cười nói:
- Quân phu nhân nói năng thật là hiên ngang lẫm liệt, ta còn tưởng rằng nàng đang suy nghĩ cho phu quân Vệ hầu cơ. Thì ra trăm phương ngàn kế, đều là sự tính toán từ người của nàng.
- Hỗn xược!
Nam Tử nổi giận quát một tiếng, lồng ngực phập phồng, tâm tình khẽ động, những đường rãnh hấp dẫn lộ ra trước mắt, khuôn mặt hơi ủng đỏ nói:
- Khánh Kỵ, không cần nói những lời của bọn đồ tể nữa, bất luận là ngươi dụ lợi, khích tướng hay dùng lãnh ngữ trào phúng, thì cũng chẳng có tác dụng gì với bản phu nhân đâu, ngươi đừng phí công sức nữa.
- Ta đã từ bỏ rồi!
Khánh Kỵ cười nhạt:
- Trên đời này có rất nhiều loại nữ nhân, loại khó nói chuyện nhất là loại nữ nhân ngu xuẩn. Nữ nhân ngu xuẩn thì chẳng bao giờ biết nói lý, giờ đây ta thật bất hạnh khi gặp phải một kẻ trong số đó. Khánh Kỵ sẽ cáo từ ngay đây, tin rằng phu nhân sẽ không tiết lộ chuyện ngày hôm nay ra ngoài. Bởi vì trong đó... có quá nhiều điều không thể nói cho kẻ khác biết được, đúng không nào? Nhưng cũng không nhất định, ai mà biết được nữ nhân ngu xuẩn thì sẽ làm ra những gì chứ? Khi lên cơn có lẽ là hết thuốc chữa mất!
- Ngươi... đồ khốn..
Nam Tử giận đến phát run, nhất thời không nói được câu nào.
Nàng vốn là công chúa Tống quốc, giờ là Vệ quốc quân phu nhân, chưa từng có kẻ nào dám nói như vậy với nàng. Mấy câu nói vừa rồi của Khánh Kỵ khiến cho nàng giận dữ đến phát run toàn thân. Khánh Kỵ nói xong thì quay người bỏ đi, chẳng thèm ngó ngàng gì tới nàng nữa, khiến cho cơn lửa giận dữ của nàng không có chỗ phát tiết.
Khánh Kỵ đi ra khỏi Nam Tử tẩm cung, Công Tử Triều đang sốt ruột đứng ở bên ngoài liền tiến lại, mở miệng hỏi:
- Công tử, thế nào rồi?
Khánh Kỵ liếc nhìn hắn, gượng cười lắc đầu.
Công Tử Triều nghe xong mặt mày ủ rũ, khuôn mặt hắn âm tình bất định suy tư trong chốc lát, khẽ cắn răng một cái rồi nói:
- Ả không chịu hợp tác, vậy chúng ta tự ra tay
Khánh Kỵ ngây người:
- Chúng ta ra tay? Nếu như không thể điều khiển được cung vệ và thành vệ, ngài cho rằng có thể thành công sao?
Trên mặt Công Tử Triều hiện lên một nụ cười u ám:
- Ai nói chúng ta không thể điều khiển được cung vệ, thành vệ? Đợi đến khi chúng ta phát động, ả không tương trợ không được.
Khánh Kỵ thất thanh nói:
- Xuống tay trước để ép nàng chịu đi vào khuôn khổ? Liệu có quá mạo hiểm không, vạn nhất nàng cứng đầu không theo...
Công Tử Triều nhe răng cười nói:
- Trong hiểm nguy cầu phú quý, huống hồ cái mạo hiểm này ta đã không thể không mạo phạm được? Ta biết rõ tâm tính của ả, ả hiện tại tuy không chịu, đến hoàn cảnh đó, nếu ả không muốn hành động cũng sẽ phải chịu liên lụy, còn lo gì về ả nữa?
Khánh Kỵ không nói gì, hắn nhìn thấy được tâm ý của Nam Tử với Công Từ Triều, tuy nhiên trong ý nghĩ của Công Tử Triều, công danh lợi lộc vượt xa một tấm phương tâm, đứng ở lập trường của hắn thì chẳng tiện mà nói thêm điều gì cả.
Trong bụng Công Tử Triều đã lập sẵn kế hoạch, khuôn mặt cũng bắt đầu rạng rỡ, hắn nhìn khuôn mặt của Khánh Kỵ, khẽ chau mày nói:
- Ta định mời công tử đi thương nghị với đám Tề Báo, Bắc Cung, chỉ có điều... công tử mặc một bộ đồ thái giám, ra khỏi cung bằng cách nào đây?
Khánh Kỵ cười nói:
- Điều này không khó, ta phụng sự ủy thác theo Di Tử Hạ vào cung, đợi lát nữa ta đổi một bộ đồ kẻ hầu, rồi đi theo hắn xuất cung là được rồi.
Lúc này Công Tử Triều mới biết hắn không có tài năng thông thiên triệt địa, giữa ban ngày ban mặt vượt tường vào cung. Công Tử Triều vui vẻ nói:
- Nếu vậy thì tốt quá, ta đứng ở ngoài chính môn cung thành đợi công tử, sau khi công tử ra ngoài sẽ lập tức gặp lại ta, cùng nhau đi tới phủ Tề Báo, rồi chúng ta lại tiếp tục đàm đạo bàn bạc trên xe.
Khánh Kỵ giả trang làm thái giám trong cung, đi tìm Di Tử Hạ là điều quá dễ dàng. Cung thành này tuy không lớn, những thái giám trong cung không phải ai cũng quen biết nhau, lại cộng thêm việc thường xuyên có thái giám mới nhập cung, cho nên chẳng có ai nghi ngờ tra hỏi. Trên đường gặp một số thị nữ trong cung, trông thấy một thái giám anh hùng phi phàm trẻ tuổi, ngoài việc thầm tiếc trong lòng ra, còn khẽ liếc những con mắt đầy ý dâm về phía hắn.
Trong phủ Tề Báo, mọi người lại lần nữa tụ hội, lần này ngồi cùng với Công Tử Triều còn có thêm một người ngọc thụ lâm phong (chỉ người có khí độ phóng khoáng, dáng vẻ oai vũ) như vậy, nhưng còn có thêm vài phần khí chất kiên cường nữa, đó chính là Khánh Kỵ.
- Chư vị, Quân phu nhân đã đồng ý với kế hoạch của chúng ta, đến lúc đó Quân phu nhân sẽ đoạt được binh phù, điều khiển cung vệ và thành vệ, chúng ta có thể phóng tay đại sát một phen rồi!
Công Tử Triều cười đắc ý nói.
Mọi người nghe xong như vậy thì xì xầm bàn tán, ai nấy vẻ mặt khác thường, Công Tử Triều không có thời gian để ý phản ứng của mọi người, lập tức nói luôn:
- Chư vị, hôm nay chúng ta tụ họp, là để vạch kế hoạch chi tiết tường tận từng bước một...
Công Tử Triều đem phương án hành động của hắn cùng Khánh Kỵ bàn thảo lúc nãy trên xe ra cho mọi người xem một lượt, sau đó hỏi ngược lại:
- Chư vị, có ý kiến bổ sung gì không?
Bắc Cung Hỉ nói:
- Nhân mã của Khánh Kỵ công tử lúc nào có thể đến được đây? Có thể điều động được bao nhiêu người?
Khánh Kỵ đáp:
- Công Mạnh Trập từ cửa sông Hoàng Hà điều năm nghìn binh lính tới Đế Khâu, số nhân mã ta mang tới không ít hơn con số đó, Khánh Kỵ nói rồi, sẽ không để một binh một tốt vào thành, chư vị có thể yên tâm, còn về thời gian...
Hắn tính toán sơ sơ trong chốc lát rồi nói:
- Dự tính nhân mã của Công Mạnh Trập nội trong vòng bốn năm ngày nữa sẽ tới Đế Khâu, ta đã phái người dùng khoái mã trở về Ngải thành triệu tập binh lính tới đây, nội trong ba ngày nữa là có thể đến chốt chặn ở các cửa ải hiểm yếu phía Đông của Đế Khâu chống cự với bọn chúng được rồi.
Công Tử Triều cười nói:
- Ngô quốc Khánh Kỵ có cái dũng vạn người khó địch, cầm quân đi đánh trận, e là chẳng có ai trong số chúng ta là đối thủ của công tử. Mọi người có thể tin tưởng tuyệt đối vào những phương thức và kế sách của Khánh Kỵ.
Nhớ tới uy danh của Khánh Kỵ, mọi người thi nhau gật đầu.
Công Tử Triều nói:
- Khi Tử Triều tới Vệ, bên mình chỉ mang theo hơn mười viên gia tướng thân tín, đều là những dũng sĩ sống chết theo mình. Đến giờ hành động, Quân phu nhân lấy được ấn tín binh phù, ta sẽ bảo những dũng sĩ đó hộ tống phu nhân tiếp quản cung cấm, thành vệ, diệt trừ những kẻ thân tín của Công Mạnh Trập dám cả gan trái lời.
Tề đại phu, Bắc Cung đại phu thì tập trung gia tướng, thực khách, hợp binh tại một chỗ, tiến đánh phủ đệ Công Mạnh Trập. Chư vị nhớ kỹ, bất luận là ai bắt được Công Mạnh Trập, thì đều không được để cho kẻ nào sống sót. Nếu như ngộ nhỡ hắn chạy thoát được ra ngoài, lúc đó ngoài thành đã được Khánh Kỵ công tử khống chế, nơi duy nhất hắn có thể chạy tới đó chính là cung thành của tâm phúc Nhâm chủ tướng của hắn. Ta sẽ đợi sẵn ở đó bắt hắn chui đầu vào lưới. Như thế có thể giữ được bí mật tuyệt đối.
Khuôn mặt căng thẳng của Chử Sư Phố toát đầy mồ hôi, hắn móc từ trong tay áo ra chiếc khăn lụa để lau mồ hôi, lắp ba lắp bắp rụt rè hỏi:
- Vậy thì... vậy thì chỗ quốc quân các vị định tính thế nào?
Công Tử Triều và Khánh Kỵ đưa mắt nhìn nhau, Khánh Kỵ nói:
- Chử đại phu, chỗ của Vệ hầu đành phải trông chờ vào ngài rồi. Đến lúc đó chỉ cần ngài dụ Vệ hầu vào trong phủ, hết sức khách khí và cung kính mời hắn đợi ở đó, đợi khi đại cục đã định, thì lại cung thỉnh hắn ra ngoài, ngài xem thế nào?
Chử Sư Phố vừa nghe vậy thì sắc mặt trắng bệch, nói thất thanh:
- Vậy sao được? À... ý ta là, Chử mỗ làm sao có thể làm được đây? Ta... ta làm gì có cách gì có thể lừa phỉnh được quốc quân đến phủ đây?
Công Tử Triều cười híp mắt nói:
- Điều này đơn giản thôi, Tử Triều đã nghĩ giúp ngài rồi, mùa này gió thu hiu quạnh, trăm hoa điêu linh, ngài đi nói với quốc quân rằng, có một cây đào trong hoa viên nhà ngài bỗng nhiên hoa tươi nở rộ, giống như không khí tiết xuân, với tính cách của quốc quân chắc chắn sẽ tò mò mà đến thưởng ngoạn, chỉ dùng kế nhỏ, không động đến binh đao. Đó chẳng phải là đã mời được quốc quân tới phủ của ngài rồi sao?
Công Tử Triều biết rằng trong đám người này thì có Chử Sư Phố là ý chí không kiên định nhất, sợ hắn hai lòng, gặp lúc hoạn nạn thì sinh biến. Cho nên mới không giao cho hắn việc đi bắt Công Mạnh Trập, ngược lại đem cái việc nhìn bề ngoài thì nhẹ nhàng vô cùng, nhưng một khi động thủ, nó sẽ là một con bài trói buộc hắn không thể trốn tránh khỏi liên lụy: giam lỏng Vệ hầu.
Tề Báo và Bắc Cung Hỉ lúc này đều đã rõ dụng ý của Công Tử Triều, ai nấy cũng gật đầu khen ngợi. Chử Sư Phố giống như nuốt phải mật đắng, đắng từ ngoài miệng đến tận trong tâm can. Nhưng đến nước này thì hắn làm sao có thể thoái thác được? Chỉ biết cắn răng mà gật đầu nhận việc được giao mà thôi. Cơn mưa tầm tã, đây có lẽ là trận mưa to nhất kể từ khi vào thu đến giờ.
Mưa dày như mành, thu lạnh thấu xương. Trên thảo nguyên mênh mông, đang có một đội ngũ rồng rắn tiến về phía trước, đi qua những cánh đồng ruộng tiêu điều cũng như đã được thu hoạch. Mặt cờ của đội ngũ đi trước bị nước mưa làm ướt sũng, quấn vào cán cờ, không thể nào nhìn rõ được cờ hiệu.
Trước mặt đã sắp đến Bạch Dương quan, nhìn từ xa, chòi quan sát của Bạch Dương quan đã có thể nhìn thấy. Một vị tướng lĩnh đứng ở trên mô đất cao, cao giọng quát lớn thúc giục sĩ tốt đẩy nhanh tốc độ cuộc hành quân. Thế nhưng đám quân đội đi suốt đêm từ cửa sông Hoàng Hà đến đây đều đã người ngựa mệt mỏi, sức cùng lực kiệt, dù là quân sĩ có quất mạnh roi thế nào chăng nữa, thì ở dưới là bùn đất ướt át lầy lội, ngựa cũng không thể đẩy đi nhanh được.
Vị tướng quân kia nhìn thấy vậy không khỏi chau mày, vị tướng lĩnh binh này tên Vương Bình, tuổi hai mươi bảy, hắn vốn xuất thân từ hạ khanh đại phu, vì dũng mãnh thiện chiến, anh hùng quả cảm nên được Công Mạnh Trập coi trọng, nhiều lần được đề bạt, tuy tuổi còn trẻ nhưng đã là tướng lĩnh thống lĩnh hàng vạn đại quân rồi. Cũng vì thế mà Vương Bình thề sống thề chết cúc cung tận tụy cho Công Mạnh Trập.
- Tướng quân, trước mặt đã là Bạch Dương quan rồi. Binh sĩ đều đã mệt mỏi quá sức rồi, hay là nghỉ tạm ở đó một đêm?
Phó tướng Phạm Trọng Thúc vội vã chạy tới, lau những hạt mưa vương đầy trên mặt, đề xuất với Vương Bình.
Vương Bình nhíu mày nói:
- Mạnh Trập đại phu muốn chúng ta hành quân ngày đêm đi tới Đế Khâu chờ lệnh, chắc chắn là việc đại sự vô cùng hệ trọng, làm sao có thể trì hoãn hành trình được?
Phạm Trọng Thúc nói:
- Tướng quân, vẫn biết là chuyện đại sự quan trọng, nhưng nếu khi đến đó dẫn theo một đám binh uể oải không còn sức chiến đấu, thì liệu làm được nên chuyện gì đây? Tướng quân xem bọn họ đã không còn sức mà đi nữa rồi. Áo giáp nặng trịch, lại thêm nước thấm vào nên sức nặng tăng lên không chỉ một lần, ai cũng phải vác theo lương thực, binh khí, đường đi trơn trượt, đám giầy kia dính bùn, trọng lượng một đôi trở thành 10 cân, đi đường thế nào được đây?
- Điều này...
Vương Bình nghe thấy vậy cũng hơi do dự, nghiêng người nhìn đám binh sĩ đang đi đứng lảo đảo trên đường, trong lòng đã có chút dao động
Một binh lính cũng mỏi mệt không chịu được nữa đứng bên cạnh thấy thế cũng khuyên nhủ:
- Tướng quân, hay là để mọi người nghỉ ngơi một lát đi. Nếu cứ đi liên tục không nghỉ thế này thì cũng nên đợi đến lúc mưa ngớt, tốc độ đương nhiên cũng được đẩy nhanh. Mưa to thế này thì để anh em nghỉ ngơi lấy sức một chút, đợi khi mưa tạnh rồi hãy lên đường. Lúc đó sức lực được hồi phục, mọi người sẽ đi nhanh hơn, chưa chắc đã đi chậm hơn đâu.
- Cũng được!
Vương Bình cuối cùng cũng bị thuyết phục, căn dặn:
- Đại quân vào trong Bạch Dương quan nghỉ ngơi, đợi khi mưa tạnh rồi đi tiếp.
- Rõ!
Viên lính kia nghe vậy thì mừng quýnh, vội vàng cao giọng phát ra mệnh lệnh, đám binh sĩ nghe xong thì tinh thần phấn chấn, vội dùng hết sức tàn còn lại rảo bước đi về phía Bạch Dương quan.
Vùi nồi nấu cơm, cọ rửa chiến mã, rất nhanh chóng khói bếp đã lượn lờ ở trên Bạch Dương quan. Chỉ có điều đám củi gỗ bị mưa thấm ướt, khói bay mù mịt, lửa không được to, khiến cho trong Bạch Dương quan người hô ngựa hí, tiếng ho khan phát ra không ngừng.
Lúc này, trên con đường từ Ngải Thành đi tới Đế Khâu, một đội ngũ gồm ba cánh quân, giống như ba con rắn lớn uốn lượn không thấy điểm đầu đuôi, cũng đang gấp rút hành quân. Tất cả binh sĩ đều mặc áo mỏng, không đeo bì giáp, bên ngoài khoác chiếc áo tơi mỏng bằng lá cây, trong tay cũng chỉ cầm một loại binh khí, dưới chân đều là những đôi giầy rơm nhẹ nhàng, khi đi trên đường lầy lội thì không bị bám bùn như ủng da.
Bọn họ vừa đi vừa lấy từ trong ngực áo một miếng thịt bò khô nhét vào miệng, rồi lại ăn thêm một chiếc bánh ngô được nghiền từ bột ngũ cốc. Toàn bộ đội ngũ trước không thấy đầu, sau không thấy đuôi, lặng ngắt như tờ, ngay ngắn chỉnh tề.
- Đem tráng khí của các ngươi ra hết đây cho lão tử xem nào!
Tướng quân cụt một tay Lương Hổ Tử vịn kiếm đứng trên xe, cao giọng gầm thét:
- Công tử nói rồi, nuôi binh ba năm dùng binh một khắc, giờ chính là lúc dùng đến các ngươi, ai cũng không được lơ đễnh xả hơi, muốn nhẹ nhàng đi tới Thanh Ngõa quan thì lão tử đã để cho các ngươi toại nguyện rồi, bây giờ tất cả các ngươi đều phải xốc lại tinh thần hết cho ta.
A Cừu dắt lưng một đôi đoản kích, cởi bỏ giầy lộ ra đôi bàn chân đầy những vết chai sạn, cũng động viên tinh thần binh sĩ:
- Gắng sức lên, cố gắng tiến bước trên đường. Đến Thanh Ngõa quan sớm để chiếm địa lợi, khi đánh trận chúng ta sẽ có được tiện nghi. Đợi khi đánh thắng trận, công tử sẽ khao thưởng ba quân, lợn béo, dê béo, các ngươi ăn bao nhiêu tùy thích. Lúc đó thì tất cả dũng sĩ tham chiến đều được nghỉ ngơi ba ngày, những nữ lư(kỹ viện) bây giờ đều đóng cửa cấm vào, đó là để đợi khao thưởng các người đấy!
Tái Cừu cười to nói:
- Đúng vậy, mọi người cố gắng tiến bước, vì thịt béo và nữ nhân mà hăng hái tiến bước, xông lên!
Đội ngũ đang yên lặng lập tức truyền ra những tiếng cười đùa bàn tán, những mệt mỏi và rét lạnh không cánh mà bay, đám binh lính chọc ghẹo lẫn nhau, bước chân cũng nhanh nhẹn hơn...
Công Mạnh Trập đứng trước cửa sổ, nghe tiếng mưa rơi tí tách, lông mày khép chặt lại.
Phía sau, gia tướng thân tín Ngao Thế Kỳ, Chu Bát cung kính đứng hầu một bên, đứng ngay ngắn không thốt một lời.
Ánh mắt Công Mạnh Trập hung ác nham hiểm, một hồi lâu sau mới nói:
- Lão phu luôn cảm thấy... bọn chúng nhiều lần tụ họp đến thế, có chút không bình thường. Chẳng lẽ... bọn chúng đã nghe ngóng được tin tức gì rồi?
Ngao Thế Kỳ tiến lên trước một bước nói:
- Chủ công, theo ý kiến của nô tài, chi bằng chúng ta động thủ trước, với số lượng của gia tướng và thực khách trong phủ của chúng ta, rồi lại thêm việc thỉnh được quốc quân hạ lệnh cho vệ thành đến tương trợ, lúc đó thì có thể dễ dàng mà tóm gọn toàn bộ bọn chúng.
Công Mạnh Trập dường như không nghe thấy, một lúc sau chợt hỏi:
- Chu Bát, mấy người trong nhà Tề Báo vẫn chưa có biểu hiện gì bất thường à?
Chu Bát đáp:
- Vâng, trong phủ của chúng nhìn bên ngoài thì rất bình lặng giống như ngày thường. Chỉ có điều những kẻ đó trước nay đều không có gì đáng chú ý, nên nô tài không cắm tai mắt ở trong phủ của chúng. Hai ngày nay, nô tài đang phái người dùng tiền thưởng lớn đi mua chuộc gia nhân trong phủ của chúng, truyền rằng một tin tức thưởng năm mươi lượng vàng, nếu như thành công thì sẽ có tin tức truyền đến ngay.
Công Mạnh Trập "Ồ" một tiếng, rồi nói với Ngao Thế Kỳ:
- Tề Báo, Bắc Cung Hỉ đều xuất thân là võ tướng, những thực khách, gia tướng, gia nô, người hầu đều biết võ công, chỉ dựa vào lực lượng hiện tại của chúng ta, nếu như đánh chúng bất ngờ, trở tay không kịp thì chắc chắn bọn chúng không có cách nào phản kháng, nhưng nếu như chúng đột phá vòng vây đào tẩu, chúng ta dù có điều toàn bộ binh mã thành vệ thì cũng không thể phong tỏa được toàn bộ Đế Khâu, nếu như để bọn chúng chạy về phong ấp... Dù sao thì gia tộc của chúng ở đó xây dựng lực lượng cũng đã mấy trăm năm, làm sao có chuyện không ai giúp đỡ chúng được? Lúc đó thì một trận đại loạn là điều khó tránh khỏi, cho nên... cần phải suy nghĩ cho thật thấu đáo mới được.
Ngao Thế Kỳ nói:
- Chủ công, nếu như ta điều động binh mã cung vệ, thì phần thắng của chúng ta sẽ nhiều hơn.
Công Mạnh Trập quay đầu lại trừng mắt nhìn hắn, trách mắng:
- Hồ đồ, cung vệ là đội quân bảo vệ cung thành, có lẽ nào mà quốc quân lại đồng ý điều động cung vệ cho ta sử dụng được chứ.
Nói đến đây, hắn vuốt chòm râu đắc chí cười nói:
- Lão phu cẩn thận đề phòng như vậy, cũng chỉ là để tránh mắc phải sơ suất tới mức thấp nhất mà thôi. Kỳ thực cũng không cần phải lo nghĩ quá, bọn chúng rõ ràng là biết lão phu muốn đối phó với chúng, vậy thì chúng cũng làm được gì đây? Thành vệ canh giữ thành trì, bọn chúng không thể chạy ra ngoài được, trong phủ của ta phòng bị nghiêm ngặt, bọn chúng không thể đánh vào được. Đợi khi đại quân của ta đến, muốn chém giết muốn xẻ thịt thì đều phụ thuộc vào ta thôi. Trừ phi... bọn chúng cầu xin ông trời có được thiên binh xuống tương trợ, nếu không thì đừng hy vọng sống sót.
Hắn khoát tay nói:
- Các ngươi lui ra đi, hôm nay mưa rơi liên miên, quốc quân sẽ không đến đâu, mấy hôm nay uống rượu vô độ, lão phu cũng phải đi nghỉ một chút
Hai viên gia tướng thân tín lĩnh mệnh lui ra, một hán tử mặc áo tơi hộc tốc chạy về phủ Công Mạnh Trập, gõ mở cửa chính lách mình đi vào, một lát sau, hắn đã xuất hiện trước mặt Chu Bát. Chu Bát tra hỏi một hồi, cầm lấy tiền thường đưa cho hắn, rồi vội vã trở về hậu trạch.
Công Mạnh Trập vừa mới nằm ngủ, hai mắt đang lim dim mệt mỏi chìm vào giấc ngủ, bỗng cánh cửa nhẹ nhàng gõ vang, Công Mạnh Trập giận dữ quát:
- Kẻ nào phá hỏng giấc mộng đẹp của ta?
Ngoài cửa một thị tì nhút nhát e lệ nói:
- Đại nhân, Chu Bát có việc gấp muốn cầu kiến.
- Hả?
Công Mạnh Trập khẽ hấp háy mắt, khôi phục lại dáng vẻ tỉnh táo:
- Mau chóng truyền hắn vào cho ta.
Trong giây lát, Chu Bát đã vội vã đi vào, chắp tay thi lễ nói:
- Chu Bát đã quấy rầy giấc ngủ của chúa công rồi.
Công Mạnh Trập hừ lạnh một tiếng, nói:
- Nói mau, có chuyện gì quan trọng?
Chu Bát nói:
- Việc dùng kim tiền mua chuộc gia nhân trong phủ Tề Báo đã có tiến triển, thu được một vài thông tin.
Hai mắt Công Mạnh Trập sáng rực lên, nói:
- Nói mau đi.
Chu Bát nói:
- Vì thời gian gấp gáp, lại sợ đánh rắn động cỏ, người của nô tài không tiếp xúc được với quản sự trong phủ Tề Báo, chỉ mua chuộc được một tên gác cổng.
Công Mạnh Trập vừa nghe xong, ủ rũ nói:
- Một tên gác cổng thì có thể thu được thông tin gì đây?
Chu Bát nói:
- Dạ dạ, nhưng tên gác cổng đó kể một chuyện, nô tài cảm thấy cần phải bẩm báo cho chủ công biết. Mấy ngày trước, Di Tử Hạ đăng môn bái phỏng Tề Báo, đem theo một tên tùy tùng thiếp thân. Hai ngày nay Di Tử Hạ không hề lộ diện. Nhưng mỗi lần bọn bốn người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố, Công Tử Triều gặp nhau thì tên tùy tùng đó đều xuất hiện, dường như... bây giờ hắn đã là người của Công Tử Triều rồi. Tuy nhiên người của nô tài nhận được thông tin này xong, âm thầm truy theo hành tung của chúng, lại phát hiện người này vẫn đang ở trong phủ của Di Tử Hạ.
Công Mạnh Trập nghe vậy thì mặt biến sắc:
- Tên tiểu tử Di Tử Hạ từ trước tới nay không tham dự việc triều chính, tại sao hắn lại, tại sao hắn lại giao du với bọn người Tề Báo? Di Tử Hạ...
Di Tử Hạ căn bản là không hiểu chuyện trong quan trường, nhưng hắn lại nhiều lần phái một người đến tiếp xúc với bọn Tề Báo, một kẻ đa nghi như Công Mạnh Trập không thể không nghĩ tới người đứng sau lưng Di Tử Hạ: quốc quân Cơ Nguyên. Lẽ nào Cơ Nguyên không có động tĩnh, giả vờ ra vẻ đại khái qua loa, ý là muốn liên hợp hai đại gia tộc Tề thị, Bắc Cung thị, mong đoạt lấy quyền lực của hắn?
Nghĩ tới đây, Công Mạnh Trập bất giác toát mồ hôi lạnh, hắn lật đật đứng dậy, rảo bước đi trong phòng hai vòng, bỗng nhiên lắc đầu nói:
- Không thể nào không thể nào, nếu như quốc quân có dụng ý với ta, tại sao lại án binh bất động, ngồi đợi ta điều binh trở về đô thành? Lấy điều đó để khép ta vào tội mưu phản? Vậy thì sẽ phải mạo hiểm biết bao, không thể nào có chuyện đó được, nhưng... người đó... rốt cuộc hắn là ai đây?
- Chủ công...
Chu Bát lập tức căng thẳng trở lại:
- Hay là... dựa theo kế của Ngao Thế Kỳ, chúng ta cứ ra tay trước đi. Phỏng chừng ngày mai binh mã của chúa công sẽ đến, cho dù bọn chúng chạy thoát được, thì chúng ta sẽ lại lập tức dẫn quân tấn công phong ấp của chúng, chắc hẳn chúng sẽ không kịp có cơ hội hợp binh phản kháng.
Công Mạnh Trập tuy chưa bao giờ đích thân đi dẫn quân đánh trận, dù sao cũng là chủ quản việc binh trong suốt hai mươi năm qua, nghe thấy nói vậy lập tức lắc đầu nói:
- Quân lính rệu rã, làm sao có thể đem ra sử dụng lần nữa? Vả lại, chưa xác định được liệu nhân vật thần bí kia có phải do quốc quân sai khiến, giống như cái gai trong lòng ta, không thể nào yên tâm cho được.
Hắn suy nghĩ hồi lâu trong phòng, đột nhiên dừng bước, xoay người lại, thần sắc nghiêm nghị nói:
- Chu Bát, ngươi lập tức đi tuyển chọn hảo thủ nhất đẳng trong phủ, bắt lấy cái tên hành tích khả nghi kia về cho ta một cách bí mật thần không biết quỷ không hay, việc này không thể để lộ ra ngoài.
- Vâng!
- À... đợi đã, mang theo cả Ngải Tử Man. Hắn thân thủ linh hoạt, kiếm kỹ xuất chúng, có thể trọng dụng.
- Tuân lệnh!
Chu Bát cũng biết tình thế cấp bách, lập tức lách mình đi ra ngoài, thông báo cho Ngao Thế Kỳ, Ngải Tử Man biết để chuẩn bị.
Công Mạnh Trập nheo mắt lại, trầm ngâm nói một mình trong phòng:
- Người này... rốt cuộc là ai? Hắn thuộc lực lượng của ai? Hắc! Lão phu cứ tưởng đã nắm được sự tình trong lòng bàn tay, giờ đây xem ra tình hình đã phức tạp rồi!
Khi trời tạnh mưa thì cũng là lúc hoàng hôn đang dần buông xuống.Trên đường một vũng nước vẫn còn đọng lại, mặt nước lá vàng khô và cành cây bị gió thổi gãy nhè nhẹ trôi lềnh bềnh, một cảnh sắc đìu hiu điêu tàn. Có lẽ do thu hàn bỗng nhiên đến, lại đúng lúc hoàng hôn xuống, trên đường ít người qua lại.Khánh Kỵ mặc lên người y phục của gia tướng thị vệ, cầm theo một thanh kiếm, rời khỏi phủ Di đại phu.
Trong phủ Di Tử Hạ không có thực khách, ra vào đều là gia tướng trong phủ, những gia tướng này đều biết Khánh Kỵ, biết hắn bây giờ là thị vệ được sủng ái của Di đại phu, Di đại phu đi đâu cũng đưa hắn đi cùng. Khánh Kỵ khiến cho họ có cảm giác tuy trầm mặc ít nói, cũng không được thân thiện cho lắm, nhưng đối nhân xử thế cũng được xem là khiêm nhường, có lễ độ. Thế nên dù không nồng nhiệt nhưng họ cũng chắp tay đánh tiếng chào hỏi. Khánh Kỵ đáp lễ, nét mặt ung dung rời phủ Di Tử Hạ đi dạo trên đường.
Khánh Kỵ ra ngoài đương nhiên không giống như những gia tướng thị vệ đi tìm quán rượu giải khuây hay đến lầu xanh mua vui. Hôm nay người của Khánh Kỵ đã phi ngựa đến báo, đám người Lương Hổ Tử đang ngày đêm dẫn đại quân thần tốc đến, một trăm hai mươi tám dũng sĩ nhanh nhẹn, cường tráng đã đến trước mai phục ngoài cửa ải Thanh Ngõa Quan. Khánh Kỵ trong lòng đã quyết.
Ngày mai, đợi toàn quân đến Thanh Ngõa Quan, bên này phải hành động ngay. Đến thời điểm đó, phủ Công Mạnh Trập sẽ trở thành chiến trường chính. Khánh Kỵ khá tin tưởng thuộc hạ của mình là Đại tướng Lương Hổ Tử, để Lương Hổ Tử một mình dẫn quân. Những chuyện như chặn đường cản địch đương nhiên hắn ta làm được, không cần Khánh Kỵ phải đích thân giám sát và đốc thúc tác chiến. Khánh Kỵ muốn lưu lại Đế Khâu để tiện theo dõi tình hình.
Bởi vì đại sự sắp diễn ra, Khánh Kỵ muốn hiểu rõ hơn địa hình trong thành Đế Khâu. Lúc này, Khánh Kỵ muốn nhân lúc sau cơn mưa mùa thu ít người qua lại, đến gần phủ Công Mạnh Trập quan sát kiến trúc hai bên trái phải, đường đi trước sau. Để đạt được thành công thì cần phải hiểu rõ ngọn ngành. Vì Công Mạnh Trập nếu binh bại, rất có khả năng sẽ chạy vào cung cầu cứu Vệ Hầu. Tường thành trong cung vững chắc, dễ phòng thủ khó tấn công, trong cung lại có đội quân tinh nhuệ đóng giữ, nếu để chúng trốn thoát vào trong thì đại sự bất thành.
Mặc dù nói Công Tử Triều dường như khá tin tưởng vào sự khuất phục của Nam Tử lúc lâm nguy, nhưng Khánh Kỵ lại không thể mang quyền chủ động hoàn toàn kỳ vọng vào sự chân thành của Nam Tử đối với Công Tử Triều. Ngộ nhỡ Công Tử Triều không thể khống chế cung vệ, cấm vệ. Hoặc Vệ Hầu không bị họ giam lỏng trước. Vậy nếu có thể giết chết Công Mạnh Trập trước khi cung vệ thành vệ hành động, thì cũng giống như có thể đạt được mục đích. Vì thế mà mọi việc cần tìm hiểu kỹ lưỡng trước, nắm vững địa hình xung quanh Phủ Công Mạnh Trập là điều rất cần thiết.
Có ba con đường thông suốt giữa Phủ Công Mạnh Trập và Cung điện. Trong đó có một đường lớn, xe ngựa thường ngày qua lại, cực kỳ sầm uất, lúc đó sau cơn mưa hoàng hôn buông xuống tuy ảm đạm nhưng trên đường người vẫn túm năm tụm ba, cũng không ít người qua lại. Con đường này không thể là đường Công Mạnh Trập chạy trốn, bởi vì đường lớn rất dễ bị đuổi kịp, vả lại họ sẽ tấn công Phủ Công Mạnh Trập từ cửa chính. Công Mạnh Trập nếu có thể xông ra ngoài vòng vây từ cửa chính thì rất có khả năng là đã chuyển bại thành thắng, đánh tan quân địch, như vậy thì hà tất phải phá vây bỏ trốn.
Khánh Kỵ đảo mắt, theo dò hỏi từ trước đi xem con đường thứ hai. Con đường thứ hai này ngoằn ngoèo khúc khuỷu, là hẻm giữa các nhà dân tạo thành một con đường nhỏ quanh co. Có rất nhiều lối rẽ, lúc đó vì trời mưa lầy lội nên Khánh Kỵ chỉ đi vào ngõ một đoạn không xa, chỉ đi qua hai lối rẽ liền quay về đường cũ.
Ở đây giống như mê cung vậy, nếu như không phải người dân hàng ngày sinh sống ở đây, đi vào rất dễ bị lạc. Con đường này vốn dĩ nên là con đường chạy trốn tốt nhất, nhưng lại không hợp với Công Mạnh Trập, Công Mạnh Trập thân phận là hạng cao quý, không thể hiểu rõ đường quanh co khúc khuỷu thứ dân ở trà trộn này được. Còn các võ sĩ thuộc hạ thân tín của hắn cũng không thể thông thạo vượt qua khu dân cư này.
Con đường thứ ba…
Khánh kỵ đứng hai bên sông quan sát. Con đường này gần sông, nối liền với một con sông của thành Đế Khâu, xem ra không rộng không sâu, một bên thông với tường sân sau của phủ Công Mạnh Trập, một bên thông hướng về cung điện, đến phía trên thành cung điện là sông Ngự rồi.Đi một hồi ven theo bờ sông, phát hiện ra đường đê bên sông khá bằng phẳng, nước sông lúc đó còn nhìn thấy một chiếc lá buộc bên mạn thuyền con theo dòng nước đong đưa.
- Ừm, con đường này chắc là con đường Công Mạnh Trập chọn để thoát thân trong lúc hoảng sợ. Chúng ta có lẽ nên bố trí quân mai phục. Nhưng, Bắc Cung, Tề Báo tập trung người ngựa có hạn, nếu phân binh, e rằng lực mỏng, tiếc là … Tề Báo bọn họ có đề phòng ta, không cho người và ngựa của ta vào Đế Khâu…
Khánh Kỵ đang suy nghĩ thì đột nhiên nghe thấy đằng sau vọng tới một loạt tiếng bước chân nhỏ. Khánh Kỵ lập tức quay đầu nhìn thì đã có bảy tám người đứng ngay đằng sau, tay cầm binh khí, bao vây thành hình cánh chim nhạn. Những người này hai mắt chằm chằm nhìn Khánh Kỵ, mặt hằm hằm sát khí, rõ ràng những kẻ này không thân thiện. Khánh Kỵ trong lòng thầm tự cảnh giác, nhè nhẹ nắm chặt thanh kiếm.
Trong đám người này có một tên hình dáng gầy còm, đôi mắt sắc bén, nhìn cử chỉ rõ ràng là tên cầm đâu. Hắn cười lạnh một tiếng, đưa tay ra hiệu, đám người liền xông tới Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ vừa di chuyển người quan sát thế trận bao vây của bọn chúng, vừa gằn giọng hỏi:
- Chư vị đến từ đâu? Có thù oán gì với tại hạ?
Ngao Thế Kỳ cười lạnh đáp:
- Ngươi không cần biết bọn ta đến từ đâu, hôm nay ta đến bắt ngươi, chúng ta đang muốn biết ngươi đến từ đâu.
Khánh Kỵ nghe xong cảm thấy yên tâm hơn một chút, chỉ cần bọn họ không biết thân phận thật sự của mình, như vậy thì có rất nhiều cách. Khánh Kỵ đưa mắt nhìn bốn xung quanh một lượt, hé mắt nhìn một khoảng trống, hét lên một tiếng rút kiếm xông tới.
Người đó thân hình cao lớn, tay cầm một cái giản đồng nặng chịch (giản: một loại binh khí cổ). Khánh Kỵ nhìn hắn di chuyển có chút chậm chạp, thân thủ không linh hoạt, Khánh Kỵ lúc này chỉ muốn phá vây, không muốn ham chiến, liền nghĩ dựa vào hắn phá vỡ lớp vòng vây.
Đại hán kia mắt nhìn Khánh Kỵ nhún người bổ tới, lưỡi kiếm sáng lóe lên, ánh hào quang cùng ập tới đập vào mặt. Đại hán hoảng hốt giơ giản đồng lên ứng phó. Trong tay hắn là chiếc giản đồng nặng chịch, cho dù kiếm kia là thượng thừa bảo kiếm cũng không thể địch được binh khí nặng khó chặt khó chém như thế này. Đại hán trong lòng chắc mẩm lưỡi kiếm chém vào giản đồng thế nào cũng bị gãy.
Khánh Kỵ vung kiếm ra chém, vẫn giữ được bốn phần sức lực. Kiếm giản va vào nhau, Khánh Kỵ bỗng vặn mình rút kiếm ra, mạnh mẽ rút về bổ ra một kiếm. Gió lốc lướt qua, đại hán kia kêu to hạ xuống, giơ tay ra sờ sờ, áo giáp bị rách, tay đầy máu. Thực ra hắn chỉ bị Khánh Kỵ chém một vết vào giữa bụng, nhưng hắn lại cảm thấy đau đớn, lại nhìn thấy máu tuôn ra nên vu rằng Khánh Kỵ đâm thủng bụng hắn. Tự nghĩ thế nào cũng chết, trong lúc hung hăng, hai tay giơ giản đồng vọt dựng lên, nhằm vào Khánh Kỵ mà đâm.
Khánh Kỵ một chân giẫm vào vũng nước, lớp bùn bắn lên ngăn hai tên võ sĩ tiếp cận. Thấp người xuống Khánh Kỵ né được giản đồng của đại hán, khuỳnh khửu tay hung hãn đánh vào ngực tên đại hán. Đại hán kia nhận của Khánh Kỵ một kiếm vốn dĩ bị thương không nặng, bây giờ ngực bị khửu tay của Khánh Kỵ đập mạnh, phát ra tiếng xương bị gãy, máu tươi phun ra bắn vào mặt Khánh Kỵ, kêu thảm thiết. Đại hán thân hình cao lớn bị đánh bay ngược trở lại, hất ra xa hai trượng, đập vào nền đất bùn bịch một tiếng. Thở yếu dần, nhìn thấy không sống được nữa.
Cùng lúc Khánh Kỵ đánh bay đại hán, một tên võ sĩ nhân cơ hội cầm giáo dài đâm vào eo Khánh Kỵ, Khánh Kỵ dựa vào lực khửu tay nghiêng người tránh cây giáo. Do chân bị ướt, trọng tâm không vững nên cả người Khánh Kỵ bị ngã xuống đất. Hắn thực sự muốn thoát khỏi đây, đặt ngang kiếm lướt một lượt, một tên võ sĩ bị bổ trúng mắt cá chân, chân bị cắt đứt, ngã bịch xuống đất la hét dữ dội lăn vào Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ túm lấy cơ thể quằn quại của hắn cùng dịch chuyển, tránh những lưỡi kiếm đâm tới. Khánh Kỵ trở tay đẩy hắn ra, đánh hai tên võ sĩ trước mặt, nhân cơ hội vọt lên phía trước. Phía trước có hai bụi cây cao bằng nửa người, ở giữa là con đường hắn đi lúc đến đây. Khó khăn lắm mới chạy được đến bên lùm cây thì sau lùm cây đột nhiên có tiếng quát :
- Hãy nộp mạng!
Một bóng người uốn cong nhảy ra, kiếm trong tay vung lên giữa không trung tạo nên vầng sáng lung linh,vầng sáng này chuyển động cũng không biết muốn đâm vào ngực hay vào mặt Khánh Kỵ. Khánh Kỵ không thể ngờ rằng đối phương lại có mai phục, hoảng sợ lùi lại, người kia nhảy xuống đất, xoảng xoảng lại là ba thanh kiếm đâm tới, thân thủ mạnh mẽ, nhanh nhạy như vượn, bắn lên, xuất kiếm, nhảy xuống, thu kiếm, xoay người, đâm tiếp, tất cả hành động đều thành thục lưu loát, vừa đẹp lại sắc bén.
Khánh Kỵ chỉ hận không tiện có binh khí trong tay, bị vị thiếu niên áo đen này làm cho lại lùi hai bước, nhìn đằng sau đám võ sĩ đã đuổi tới nơi. Khánh Kỵ không muốn lại lùi nữa, dựa vào lực cánh tay, trầm giọng quát, giơ kiếm xông thẳng vào vị thiếu niên. Lúc này vị thiếu niên lật cổ tay, kiếm hướng chính vào chỗ dưới cổ họng ba tấc, nếu Khánh Kỵ không tránh thì đương nhiên lưỡi kiếm kia sẽ đâm trúng vào cổ họng. Nhưng với tốc độ vung kiếm của Khánh Kỵ thì vị thiếu niên áo đen kia cũng bị chém mất mạng.
Khánh Kỵ lường trước đối phương và mình không có huyết hải thâm thù sát phụ đoạt mẫu, tất không cam tâm cùng đi đến chỗ chết. Khánh Kỵ nghĩ muốn lấy chiêu này buộc hắn phải tránh ra. Không ngờ khi hắn đâm kiếm đã nhìn thấy rõ dung mạo của Khánh Kỵ. Hắn nhất thời chấn động, quên né tránh. Khánh Kỵ lúc này cũng nhìn rõ diện mạo của hắn, kinh ngạc cũng không kém phần.
- Quý Tôn Tiểu Man, sao lại là nàng?
Đôi mắt đen kia như điểm thêm nước sơn, ánh lên đầy bóng dáng của Khánh Kỵ, một chút ánh sáng họa ra đường vòng cung, theo ánh mắt của nàng hướng xuống phía dưới chợt hiện là thanh kiếm sắc bén trong tay Khánh Kỵ. Chốc lát, trong mắt Quý Tôn Tiểu Man tràn ngập cảm giác kinh hãi, hoảng sợ, hối hận.
Khánh Kỵ vừa nhìn thấy nàng, liền dốc sức dồn lực thu kiếm về. Nhát kiếm này là Khánh Kỵ dốc toàn lực, phóng ra với sức mạnh ghê gớm, muốn thu kiếm lại không phải là chuyện dễ dàng. Kiếm này bổ tới trán của Quý Tôn Tiểu Man thì dừng lại. Cùng lúc đó, kiếm thế của Quý Tôn Tiểu Man định đâm vào cổ họng Khánh Kỵ cũng được nàng ra sức thu lại.
Cơ thể hai người đều đứng bất động. Một cơn gió thổi qua, vài sợi tóc trên trán Quý Tôn Tiểu Man bay xuống, cũng cùng lúc đó một giọt máu đỏ sẫm từ cổ họng Khánh Kỵ chảy ra, dọc theo lưỡi kiếm sáng như gương dần dần chảy xuống ngoằn ngèo như con rắn, trượt đến nửa lăn rớt xuống dưới kiếm. Tuy nhiên trên thân kiếm một giọt cũng không dính.
Con ngươi dường như đã bất động của Quý Tôn Tiểu Man hơi hơi lấp lánh, đã khôi phục lại vài phần sinh khí. Khánh Kỵ nhìn thấy một bóng mơ hồ trong đôi mắt nàng. Hắn theo bản năng nhìn xuống phía dưới, liền nhìn thấy trên lưỡi dao sáng như gương trong tay nàng cũng có một hình ảnh mơ hồ hiện ra. Khánh Kỵ chợt ngộ ra, bỗng nhiên ngẩng đầu lên, liền thấy một cái lưới lớn chụp lên đầu hắn.
Ở lùm cây bên kia, Chu Bát đắc ý đứng đó. Cái võng vừa rồi là do hắn quăng ra,cái lưới lớn hất lên không trung giống như đóa nụ nở hoa, nở rộ xòe ra giữa không trung rồi lại từ từ rơi xuống, chụp lấy con cá ở giữa…
“Ai! Nàng lúc đó rõ ràng đã kinh ngạc khôn xiết, khó mà nhúc nhích được. Nhát kiếm của ta đáng ra đã chém tới, coi như vì gặp cố nhân không nỡ hạ thủ, ta cũng không nên lòng dạ hẹp hòi. Ta bị bắt sống, đám Tề Báo, Bắc Cung Hỉ không thấy bóng dáng của ta nhất định sinh nghi, chỉ sợ bọn họ không dám ra tay. Ta mà chết, mấy vạn tướng sĩ của ta sẽ làm thế nào đây?”
Khánh Kỵ quần áo rách tả tơi, mình đầy thương tích bị khóa trên cột đá thủy lao. Khánh Kỵ tự trách mình, bị nỗi đau này khắc sâu trong lòng.
Khánh Kỵ sau khi bị bắt về Phủ đệ Công Mạnh Trập, lập tức bị tra tấn bức cung. Khánh Kỵ nói đông nói tây, đương nhiên không để lộ ra chân tướng sự tình, nói tưởng là thật mà lại là giả, lại làm cho Công Mạnh Trập sinh nghi.
Năm ngoái khi Khánh Kỵ lần đầu đến nước Vệ, đã từng đến Đế Khâu bái kiến Vệ Hầu, lúc đó trong triều có mặt rất nhiều công khanh đại phu, nhưng Công Mạnh Trập lại không tham dự nên đối với Khánh Kỵ Công Mạnh Trập không hề có chút ấn tượng. Tên Công Mạnh Trập này chỉ ham mưu danh cầu lợi nắm giữ quyền lực, đối với những nghi lễ ngoại giao không hề hứng thú. Hắn không thích lộ diện trước công chúng, Chuyện này đại khái có liên quan đến khuyết tật của hắn thuở xưa. Không phải bất đắc dĩ, Công Mạn Trập tuyệt đối không muốn lê cái chân tật nguyền của hắn xuất hiện trước mặt người khác. Trời dần tối, Công Mạnh Trập từ đầu tới giờ vẫn chưa tra rõ được thân phận của Khánh Kỵ, đành phải tạm giam Khánh Kỵ đợi mai tra hỏi tiếp.
Khánh Kỵ lúc này bị trói trên cột đá, vết thương trên người đau rát như thiêu như đốt. Nhưng nghĩ đến tình hình gấp gáp hiện giờ ở Đế Khâu, nghĩ đến mấy ngàn tướng sĩ của mình đã xuất phát tiến về Thanh Ngõa Quan, trong lòng Khánh Kỵ lại như lửa đốt. Nhưng mà, Khánh Kỵ tự nhiên lại không hối hận, nếu thời gian quay ngược trở lại, cho hắn thêm một lần nữa, hắn có thực sự nhẫn tâm vung kiếm chém vỡ đầu Quý Tôn Tiêu Man không? Hắn không biết .
Trên người bị tra tấn, chỗ nào cũng bị thương, nửa người bị ngâm trong nước. Vết thương ở nửa người phía trên vẫn nóng rát như thiêu như đốt, vết thương ở dưới bị ngâm trong nước ao lạnh buốt vốn đau rát nhức nhối giờ đã không còn cảm giác nữa.
Ở góc tường ẩm ướt,phía trên cao có một cái cửa sổ, ánh trắng mỏng manh yếu ớt đang chiếu vào, Khánh Kỵ ngẩng đầu nhìn thứ ánh sáng duy nhất trong nhà lao tối tăm, cười khổ một tiếng, ngẩn ngơ nghĩ:
- Ta, chung quy vẫn không phải là kẻ máu lạnh vô tình, giết người không nương tay, mọi việc lấy lợi ích của bản thân làm trọng. Rốt cuộc, thời gian ta ở trong cái thời đại ngươi lừa ta gạt, đấu đá lẫn nhau, không từ một thủ đoạn nào này cũng chưa lâu. Nói thì dễ làm mới khó, nghĩ cho thông đạo lý rồi chưa hẳn có quyết tâm mà ngoan độc cho được. Có điều, ta chết không tiếc, các huynh đệ vì ta mà chết, hi sinh này vô nghĩa mất rồi…
Khánh Kỵ gục đầu, thở dài sầu não!
Đời người vốn đầy mâu thuẫn. Trong đường đời không ngừng xuất hiện những ngã rẽ cần phải lựa chọn, một khi đã chọn thì không có đường lui. Cho dù chọn con đường nào rồi cũng mất đi vài thứ, đánh rơi vài thứ.
Đời người vốn đầy nuối tiếc, nhưng đây cũng là nơi phồn hoa mỹ lệ mà nhân loại vạn vật trên cõi này đã tạo nên. Nếu như loài người hoàn toàn chỉ biết đến lợi hại được mất của bản thân thì nơi kia sẽ chỉ là màn bi kịch. Đặt mình vào trong đó, có ai lại không suy tính thiệt hơn đâu.
Trong lòng Khánh Kỵ cũng rõ rằng nếu như quay lại được, e rằng hắn cũng không nỡ ra tay. Đúng như cái ví dụ chặn tên mà hắn nói với Nam Tử. Nếu như đối phương và hắn không hề quen biết, hắn sẽ không do dự biến hắn thành cái khiên thịt, trong giây phút nguy cấp giữa cái chết và sự sống thì đại đa số con người đều ích kỷ. Nhưng nếu đối phương và ta quen biết nhau, mà lại có chút tình cảm chứ? Hoặc đối phương là một đứa bé hoặc một tiểu cô nương, hắn vẫn nhẫn tâm hạ thủ sao.
Con người vẫn là con người, không phải là một cái máy không có tình cảm chỉ biết lựa chọn đúng sai, có khi rõ ràng biết đó là sai, rõ ràng biết lựa chọn này sẽ khiến mình phải hối hận nhưng vẫn chọn…
Trong hoa viên, đêm xuống lạnh buốt, bầu trời trăng sáng tĩnh mịch chỉ có vài ngôi sao thưa thớt.
Quý Tôn Tiểu Man đặt ngang Thừa Ảnh kiếm, lặng lẽ ngồi bên cạnh bờ ao, ngửa mặt lên nhìn bầu trời đen như mực chiếu xuống trăng sáng như bàn ngọc, khuôn mặt thanh tú trắng ngần. Nàng có làn da sáng đẹp nhẹ nhàng, hai hàng lông mày nhíu lại, phảng phất nỗi u buồn.
Nàng tới Đế Khâu, sau khi tình cờ được Công Mạnh Trập thu nạp làm thực khách, thì muốn ở nhờ nơi đây, đợi Cơ Tống bên Lỗ quốc không si mê nàng nữa thì nàng trở về. Nàng không nghĩ lại gặp phải một tên Cơ Nguyên. Mấy ngày nay Vệ Hầu Cơ Nguyên ngày ngày chạy đến phủ Công Mạnh Trập, kiếm cớ mời nàng cùng đi luyện kiếm, lời nói và hành động biểu hiện rất tình tứ.
Mỗi khi nhớ đến Quý Tôn Tiểu Man đều dở khóc dở cười, chẳng nhẽ trời sinh nàng có mệnh làm phu nhân quân vương? Khi còn ở nhà thì có Lỗ quân Cơ Tống theo đuổi không bỏ, nàng phải cải trang thành nam nhi. Giờ tự nhiên lại đưa tới một Vệ Hầu Cơ Nguyên. Quý Tôn Tiểu Man thấy phiền toái không chịu được, mấy ngày nay đang tính lặng lẽ rời đi, tìm một nơi khác sống nhờ. Không ngờ hôm nay đột nhiên nàng lại nhận được lệnh đi bắt người.
Quý Tôn Tiểu Man tự nghĩ, mình làm thực khách ở đây, ở trong phủ này lâu cũng nhận được sự trọng đãi của Công Mạnh Trập, trước khi rời đi giúp ông ta một việc cũng coi như tròn bổn phận của thực khách, nếu cứ như vầy mà đi thì thật là áy náy. Nàng cũng không nghĩ được rằng lúc đó đi lại gặp đúng người mà đáng lý tuyệt đối không nên xuất hiện ở Đế Khâu này, ai mà ngờ được rằng người mà bọn họ muốn bắt lại là Khánh Kỵ
Quý Tôn Tiểu Man không kìm được lòng nhớ tới ngày kinh hoàng khi hai bên giao kiếm. Khánh Kỵ đằng sau có binh đuổi theo, con đường này vốn dĩ là con đường thoát duy nhất bọn chúng cố ý lưu lại, bởi vì mục đích của bọn chúng chính là bắt giữ hắn ta mà không phải là mang một cái xác trở về. Vì thế người có kiếm thuật cao nhất là nàng được bố trí ẩn sau lùm cây cản địch, còn Chu Bát hạ thủ bắt địch.
Nàng sau khi đâm kiếm ra liền kinh ngạc nhận ra đối phương là Khánh Kỵ, lúc ấy nàng kinh ngạc đến ngây người. Khoảnh khắc ấy, kiếm thế của Khánh Kỵ đã bổ tới mặt nàng rồi, thanh kiếm quyền uy đó thật là đáng sợ. Nàng kinh ngạc, sau lại hoảng sợ. Khi kiếm của nàng gần đến cổ Khánh Kỵ nàng lại thấy hối hận vô cùng. Nàng hận tại sao mình không nhẫn tâm ra tay, để hắn ta chết trong tay mình, nhưng mà…
Quý Tôn Tiểu Man nhè nhẹ đưa tay lên sờ sờ trán mình, ở chỗ này bị chém đứt mất mấy sợi tóc, vẫn còn một vết thương mờ mờ. Khi đó nàng kinh ngạc rồi lại hoảng sợ đến đờ người không biết phản ứng ra sao, lúc nàng hối hận thì kiếm thế đã đưa tới điểm cuối, muốn giành lại nhất thiết phải thu thân, những thứ này nhanh như là ánh chớp từ hòn đá lửa, nàng nghĩ đến nhưng đã không còn phản ứng kịp nữa.
Nếu kiếm Khánh Kỵ cứ như thế bổ tới, hắn ta tự nhiên có thể thoát thân, còn nàng thì sao, nàng giờ đây đã là cái xác chia đôi, hương tan ngọc nát. Nhưng hắn cuối cùng đã không ra tay, cho dù biết rõ đằng sau quan binh đuổi theo rất sát rồi, vả lại hắn ta bí mật xuất hiện tại Đế Khâu này ắt phải có nguyên do rất lớn. Nhưng mà tất cả điều này đều vì mình mà từ bỏ, cuối cùng hắn ta đã lựa chọn … đưa tay chịu trói.
Quý Tôn Tiểu Man trong lòng dâng lên một dòng chảy ấm áp, lan tỏa khắp cơ thể, khiến nàng không chút cảm nhận thấy cái lạnh của đêm thu.
Kiếm thế đó Khánh Kỵ vốn có thể đâm tới.
Quý Tôn Tiểu Man sinh ra trong gia đình quyền quý, tai nghe mắt thấy, đã nhìn quen tình cảnh như cha con, thân như huynh đệ nhưng cuối cùng cũng vì địa vị quyền lực, được mất thiệt hơn mà lừa gạt lẫn nhau, không chút nể nang. Vậy mà hắn ta…hắn ta vì tính mạng của mình mà từ bỏ…
Nói thì dễ, làm được có dễ gì đâu.
Khi Khánh Kỵ bị bắt về phủ Công Mạnh Trập chịu cực hình tra tấn, Quý Tôn Tiểu Man vẫn chưa vào thủy lao, nàng không chịu được cảnh Khánh Kỵ chịu cực hình. Nhưng nàng biết Khánh kỵ nhất định đã phải chịu sự tra tấn đáng ra hắn không phải chịu. Nghĩ đến đây, đến cơm tối nàng cũng không ăn. Lúc này đêm càng ngày càng khuya, nàng nhẹ nhàng ngồi giữa vườn, trong lòng dậy sóng. Từ ngày phụ mẫu nàng qua đời nàng chưa từng đối với ai lo lắng rối ruột gan như bây giờ.
Nhớ đến lúc quen biết Khánh Kỵ, Quý Tôn Tiểu Man chợt cảm thấy mông mình ngứa ngứa, nhè nhẹ sờ sờ mông, cái kiểu đau này mang theo một cảm giác tê dại tựa hồ như lại truyền tới đầu ngón tay. Cái cảnh bị Khánh Kỵ vừa mắng vừa đặt lên đầu gối dữ dằn quất vào mông cứ nhảy nhót trong đầu nàng. Lúc này Quý Tôn Tiểu Man toàn thân nóng bừng, da mặt cũng đỏ hết lên.
Nàng cắn một cái vào môi, đột nhiên vươn thân ra, đặt Thừa Ảnh kiếm sau vai, lấy dây đai lưng buộc lại, ống tay áo giơ lên, “ đốc” một tiếng, trong tay áo bay ra một thứ ôm lấy cây đối điện mọc ở ao. Quý Tôn Tiểu Man dùng lực kéo, hai chân nhảy vút lên, phóng thân bay ra, vạt áo nàng bay trên mặt ao vút qua, chớp mắt mất hút trong màn đêm…
- Sao nàng cứu ta?
- Nàng trà trộn vào phủ Công Mạnh Trập có mục đích gì?
- Bọn chúng có biết nàng là nữ nhi không?
- Trong phủ Công Mạnh Trập tối nào cũng canh phòng nghiêm ngặt như
thế này sao?
Quý Tôn Tiểu Man đi phía trước đột nhiên dậm chân, quay đầu sẵng giọng:
- Ta chưa bao giờ gặp một nam nhân lắm lời như vậy, ngươi nhanh nên có được không?
- Chân của ta bị thương.
Quý Tôn Tiểu Man mềm lòng, quay đầu lại đặt cánh tay Khánh Kỵ lên vai mình.
- Thơm thật, trên cơ thể nàng có mùi thơm, có thật không ai phát hiện ra nàng là nữ nhi?
- Vệ Hầu đồng tính, trên dưới làm theo, nam tử nước Vệ đa phần trang điểm tô son trát phấn, chỗ nào cũng có kẻ làm điệu bộ nữ nhi nhu mì duyên dáng, ai có thể nghi ngờ ta?
- Ồ, nàng thấp quá, đỡ ta cũng không có tác dụng, ta còn phải khom đầu gối xuống mới có thể để nàng đỡ được.
Quý Tôn Tiểu Man giận dữ đáp:
- Thế làm thế nào mới được đây, chẳng nhẽ ta phải cõng ngươi sao? Ta làm sao mà cõng được một nam nhân nặng như ngươi?
Khánh Kỵ cười gượng đáp:
- Như thế thật không cần, ý ta là… hay là để ta tự đi, sẽ đi nhanh hơn một chút…
Quý Tôn Tiêu Man tức tối bỏ tay Khánh Kỵ ra, nhưng lờ mờ nhìn thấy Khánh Kỵ đau đến nhăn nhó mặt mày, nghĩ đến vết thương trên người hắn, Quý Tôn Tiểu Man lại không đành lòng. Nhưng đương nhiên nàng không thể mở miệng giải thích, chỉ trề môi đi cạnh hắn.
Hai người vội vàng trở lại phủ Di Tử Hạ, lão quản gia cất tiếng trả lời mở cổng, nhấc đèn lồng híp đôi mắt hoa lên nhìn Khánh Kỵ, vội hỏi:
- Ai da, ngài đi đâu vậy? Đại phu đã tìm ngài rất lâu, mà... làm sao thế này, sao ngài lại bị thương thế này. Hử, hắn là tên nào?
Khánh Kỵ lách mình vào trong cửa, lấy tay đóng cửa lại, hỏi:
- Di đại phu đâu?
Hôm nay Khánh Kỵ muộn rồi mà vẫn chưa về, Di Tử Hạ đứng ngồi không yên. Đợi đến đêm khuya cuối cùng không chịu được nữa, dẫn gia tướng trong phủ tìm Khánh Kỵ khắp thành. Lão quản gia này tuy không biết thân phận thật của Khánh Kỵ những cũng nhận ra Di Tử Hạ rất coi trọng Khánh Kỵ, thế nên dáng vẻ rất ân cần. Nghe thấy Khánh Kỵ hỏi liền đáp:
- Di đại phu thấy ngài quá đêm không về, không yên lòng, nên dẫn gia tướng trong phủ đi tìm ngài rồi.
Khánh Kỵ suy nghĩ sơ qua, liền nói:
- Lão quản gia, ngươi đi nghỉ ngơi đi. Không có chuyện gì to tát, không cần làm ầm lên.
Lão quản gia hiểu trong đó có nguyên do, lúc đó tất nhiên biết điều không dám hỏi nhiều, vội vàng đáp tiếng lùi ra, sợ chuốc vạ lây.
Khánh Kỵ dẫn Quý Tôn Tiểu Man đến chỗ ở của mình, châm ngọn đèn dầu trên bàn, ánh đèn sáng lên giữa phòng. Quý Tôn Tiểu Man đứng ở cửa không tiến vào, chỉ nói:
- Ngươi đã an toàn trở về. Ta… cũng nên trở về rồi.
Khánh Kỵ quay đầu nhìn nàng hỏi:
- Nàng vẫn muốn quay lại phủ Công Mạnh Trập sao?
Quý Tôn Tiểu Man trả lời:
- Yên tâm, ta ra tay nhanh gọn. Huống hồ bắt được ngươi còn có công lao của ta, không thể có người phát hiện nghi ngờ ta được.
Khánh Kỵ suy nghĩ, lại hỏi:
- Hiện nay ở phủ Công Mạnh Trập liệu đã có kẻ phát hiện ra ta biến mất chưa?
Quý Tôn Tiểu Man ngập ngừng đáp:
- Có lẽ là chưa. Mấy ngày nay các gia tướng, thực khách trong phủ Công Mạnh Trập đều bị nghiêm cấm xuất môn, cùng ở trong phủ đợi lệnh, cũng không ai biết chuyện gì cả. Thủy lao kia một khi cửa đã đóng thì người không thể thoát ra được, thế nên từ trước tới nay chỉ để hai gia tướng bình thường canh gác ở trong nhà kế bên ngoài thủy lao. Buổi tối không có người thay phiên. Ta nghĩ… chưa đến bữa sáng thì không thể có người phát hiện ra có khác thường. Trừ khi bây giờ hoặc sáng sớm Công Mạnh Trập muốn tiếp tục tra khảo ngươi.
Khánh Kỵ ừ một tiếng nói:
- Vậy thì tốt. Nàng đừng quay lại phủ Công Mạnh Trập nữa, tạm thời ở phòng của ta đi.
Quý Tôn Tiểu Man đỏ mặt. Sẵng giọng:
- Buồn cười nhỉ, ai muốn ở phòng của ngươi?
Khánh Kỵ ngẩn ra, giật mình nói:
- Không cần lo lắng, bây giờ ta lập tức phải ra ngoài.
Quý Tôn Tiểu Man trong lòng nghi ngờ nói:
- Ngươi thân thì bị thương còn muốn ra ngoài sao? Đúng rồi, ta vẫn chưa hỏi, ngươi đến Đế Khâu, lén lén lút lút che giấu thân phận, rút cuộc ngươi muốn làm gì?
- Đừng dò hỏi lung tung! Ta bảo nàng ở lại đây là muốn tốt cho nàng.
- Ta không muốn ở lại, hôm nay ta cứu ngươi là đã trả hết tình nghĩa cho ngươi, nếu không phải thấy ngươi thương tích đầy mình, hừ… Ngươi không nhớ ngươi đã bôi nhọ ta sao? Hôm nay bản cô nương chẳng thèm tính toán với ngươi. Ta đi rồi, từ giờ chỉ có ngươi nợ ta, ta không nợ ngươi gì nữa. Ái… ngươi làm gì vậy?
Quý Tôn Tiểu Man hét lên một tiếng, đã bị Khánh Kỵ túm lại. Khánh Kỵ một tay bắt nàng, giống như bắt một con gà con vậy. Ngón tay cái đặt lên bắp thịt trên khửu tay nàng, khiến nửa cơ thể nàng không thể động đậy.
Thời gian cấp bách, không có thời gian nói tỉ mỉ với nàng được, Khánh Kỵ không thể phân bua, liền ấn nàng lên giường, xé một tấm màn trướng, trói hai tay cùng với vai của nàng lại. Quý Tôn Tiểu Man tức quá, hai chân đạp lung tung:
- Mau thả ta ra. Người như ngươi sao lại lấy ân báo oán, đáng ra ta phải để ngươi chết trong thủy lao.
Khánh Kỵ không để ý đến nàng, lại xé một dây vải, đặt lên chân nàng trói lại.
Bàn tay to của Khánh Kỵ đặt lên một cái, chân của Quý Tôn Tiểu Man liền đạp loạn xa không chịu bị chế ngự. Một sức nóng từ bàn tay Khánh Kỵ truyền thẳng vào da thịt nàng, rồi nhanh chóng truyền tiếp tới eo, khiến nàng khó ngăn được xao động, khuôn mặt tròn kia cũng vì thế mà đỏ như cái bánh nướng. Vừa nãy nàng vẫn còn hung hãn đạp lung tung, nhưng giờ đây đã ngoan ngoãn không dám cựa quậy.
- Chà chà, đôi chân khỏe thật, thảo nào đạp cao như vậy…
Hừ! Quý Tôn Tiểu Man hừ một tiếng, nhướng mày lộ ra vẻ kiêu kỳ!
Khánh Kỵ tiếp tục nói:
- Giống như khỉ con vậy.
Quý Tôn Tiểu Man nghe không khỏi chán nản.
Khánh Kỵ từ mắt cá chân, quấn hết hai chân nàng, lúc này cả người nàng thẳng đờ ngã xuống giường, chỉ còn phần eo là có thể cử động.
- Nàng ở lại đây, đừng động đậy lung tung.
Quý Tôn Tiểu Man kêu lên:
- Ngươi đi làm việc xấu xa gì mà lại trói ta ở đây?
- Nói bé một chút, hay là nàng muốn ta quất nàng ngồi không nổi, nằm không xong?
Khánh kỵ đẩy cái eo nhỏ nhắn, lật thân hình mềm mại của nàng nghiêng sang một bên, nửa mông nhô hẳn lên. Hắn vung tay lên uy hiếp, Quý Tôn Tiểu Man đỏ hết cả mặt, khiêu khích nói:
- Ngươi… ngươi dám?
Khánh Kỵ hừ một tiếng, hạ tay xuống nói:
- Đánh thì đã đánh rồi, nàng nói ta không dám sao? Chà chà. Nàng nói như thế, lại là nhắc nhở ta.
Nói xong Khánh Kỵ liền hạ tay xuống, lại xé thêm miếng vải. Thấy Khánh Kỵ không ra tay, Quý Tôn Tiểu Man thở phào nhẹ nhõm, nhưng trong lòng dường như có chút hụt hẫng.
Khánh Kỵ xé ra một vốc vải vóc, vo tròn lại, không quan tâm Quý Tôn Tiểu Man phản kháng, liền nhét vào miệng nàng, vỗ vỗ tay nói:
- Như thế này được rồi!
Nói dứt lời Khánh Kỵ đến bên cửa sổ, kéo rèm cửa sổ làm bằng lụa xuống, xé ra một mảnh rộng, sau đó cởi bỏ y phục rách nát trên người xuống, lấy mảnh vải kia quấn vào người.
Quý Tôn Tiểu Man nằm trên giường, nhìn thấy Khánh Kỵ cởi áo chỉ còn mỗi quần, không khỏi xấu hổ đỏ hết mặt. Nàng vốn muốn quay đầu không nhìn nhưng nghe thấy tiếng động của Khánh Kỵ không kìm được hiếu kỳ, lại quay đầu lại nhìn. Nàng nhìn thấy trên người Khánh Kỵ đâu đâu cũng có những vết roi, vết bỏng, có chỗ đã bị loét ra. Những vết thương kia thực sự nhìn thấy mà đau lòng. Trong đôi mắt long lanh của Quý Tôn Tiểu Man bất giác lộ ra nét dịu dàng và thương cảm.
Khánh Kỵ cố chịu đau, lấy vải quấn chặt bụng, hai chân, hai cánh tay…
Khánh Kỵ bị bắt, điều này cho thấy Công Mạnh Trập đã phát hiện ra chút gì đó hành tung của họ. Hiện giờ thoát vây, nếu như Công Mạnh Trập phát hiện, khó mà đảm bảo không hành động trước. Hắn cần ngay lập tức báo cho đám Tề Báo hành động trước. Những vết thương này không băng bó, giữa lúc đó làm sao ra tay được.
Thân hình Khánh Kỵ đẹp cường tráng, trong mắt các cô gái vốn có lực hút chết người, mà trong thời đại đặc biệt tôn sùng võ sĩ cường tráng thì Khánh Kỵ càng có sức hấp dẫn. Cho đến khi hắn băng bó xong vết thương, lấy ra áo dài võ sĩ mặc lên người, Quý Tôn Tiểu Man nằm trên giường hai mắt vẫn lưu luyến, nhìn chăm chú.
Khánh Kỵ vẫn chưa chú ý đến ánh mắt của Quý Tôn Tiểu Man. Khi mặc xong áo, thuận tay hắn vớ luôn Thừa Ảnh kiếm của nàng, rút ra cắm xuống đất, nét mặt hớn hở nói:
- Quả là một thanh kiếm tốt, Quý Tôn tiểu thư, ta mượn kiếm dùng một lát, nàng chắc không thể không đồng ý chứ?
Quý Tôn Tiểu Man miệng không nói được, chỉ nhăn nhăn cái mũi, hai mắt trừng trừng nhìn Khánh Kỵ. Khánh Kỵ cười ha ha, giắt kiếm vào eo rồi đẩy cửa đi ra ngoài.
Khánh Kỵ vội vàng chạy đến phủ Tề Báo, cảnh giác đề phòng bốn xung quanh, không thấy có người bám theo, lúc này mới nhẹ nhàng gõ cửa viện. Cửa viện vừa vỗ nhẹ, lập tức hé ra một khe hở, hình như đã có người đợi sẵn, khiến Khánh Kỵ sợ hãi.
Dưới ánh trăng, chỉ thấy trong sân ánh kiếm lòe lòe, một đám người đứng đông nghịt, người đến trước mở cửa vẫn chưa thắp đèn lồng, nhưng trong tay lại nắm một thanh kiếm sáng loáng. Khánh Kỵ bị dẫn vào trong sân liền tỏ rõ thân phận.
Khánh Kỵ vừa đứng vững, cửa phòng mở ra, ánh đèn hắt ra phía ngoài. Đám Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Di Tử Hạ vội chạy ra, nhìn thấy quả đúng là Khánh Kỵ thì không khỏi mừng rỡ. Di Tử Hạ nói:
- Công Tử về rồi, thế là ta yên tâm rồi. Ta đi khắp nơi tìm công tử không được, vừa đến tìm Tề đại phu bàn cách.
Công Tử Triều nén giận nói:
- Công tử đi đâu vậy, cũng không nói một tiếng, hại bọn ta hoảng hốt lo sợ, còn lo công tử xảy ra chuyện.
Khánh Kỵ vội nói:
- Mọi người vào phòng nói chuyện, đừng đứng ngoài này.
Khánh Kỵ không muốn nói với bọn họ chuyện mình bị bắt, giờ phút này rất dễ làm dao động lòng quân, đặc biệt là Chử Sư Phố vốn ý chí không kiên định, nếu như bị dọa không chừng sẽ đánh trống lui quân.
Mọi người cùng quay lại phòng, Khánh Kỵ nhíu mày nói:
- Sao lại thiếu kiên nhẫn như thế, tất cả đều chạy đến đây, ngộ nhỡ người của Công Mạnh Trập biết được đêm khuya tụ họp, chẳng phải sẽ phá hỏng đại sự sao?
Chử Sư Phố nói:
- Điều này công tử không phải lo, Chử mỗ cũng sợ thường qua lại sẽ khiến người ta chú ý nên dặn Tề đại phu hôm nay dùng một số tiền lớn mua nhà bên cạnh, chúng ta đều từ bên đó sang đây, khi ra ngoài đều mặc y phục gia tướng bình thường, cũng không ngồi xe, nhỡ có người theo dõi cũng không đến nỗi ngay cả hàng xóm láng giềng cũng đưa vào tầm mắt.
Khánh Kỵ đưa mắt nhìn hắn ta, thầm nghĩ: “Tên nhát gan này hóa ra cũng có cái được ra phết!”
Thời gian cấp bách, Khánh Kỵ cũng không hỏi nhiều nữa liền nói:
- Lúc này không có thời gian để nói nhiều, tối nay ta đến phủ Công Mạnh Trập thăm dò động tĩnh, nghe được Công Mạnh Trập và đám gia tướng thân tín của hắn bàn bạc sáng mai sẽ hành động.
Nghe xong mọi người nhất loạt giật mình, Bắc Cung Hỉ vội nói:
- Hay là, bây giờ chúng ta hành động thôi.
- Từ từ đừng hấp tấp.
Khánh Kỵ vội ngăn cản, rồi quay ra nói với Di Tử Hạ:
- Khiến Tử Hạ lo lắng, Khánh Kỵ không sao nữa rồi. Hay là Tử Hạ về phủ trước đi, đợi ta hành sự. Chuyện này ngài vô can, không cần phải dính dáng tới làm gì.
- Được, vậy thì ta về trước đây.
Di Tử Hạ cũng biết mình không nhúng tay vào được, quay lại bọn họ vái chào rồi xoay người đi. Khánh Kỵ lập tức đuổi theo nói vài câu vào tai Tử Hạ. Tử Hạ kinh ngạc nhìn Khánh Kỵ rồi gật gật đầu vội vàng đi.
Giờ phút vô cùng cấp bách này không đưa tiễn, Khánh Kỵ lập tức quay trở lại nói với mọi người:
- Tình hình bây giờ đặc biệt, buổi tối không phải là lúc bọn chúng canh phòng lỏng lẻo, dễ tấn công. Ngược lại, bọn chúng càng thêm cảnh giác, nếu chúng ta ẩn náu trong phủ Công Mạnh Trập sẽ hao rất nhiều công sức. Đại đội binh mã nếu như đi trước, cách xa cũng sẽ bị phát hiện. Tấn công ban đêm bọn chúng sẽ chiếm ưu thế, chúng ta sẽ tổn thất rất nhiều. Ngộ nhỡ Công Mạnh Trập nhân cơ hội chạy trốn cũng rất khó đuổi theo. Điều mấu chốt bây giờ là nếu chúng ta hành động mà vẫn chưa có cách nào khống chế được Vệ hầu, như thế chẳng khác nào đi trên cầu phao đầy lưỡi dao.
Khánh Kỵ nói rõ nguy hiểm rồi lại động viên mọi người nói:
- Binh mã tiên phong của ta đã đến Thanh Ngõa Quan, binh mã phía sau đang tiếp tục đến, sáng sớm mai tất sẽ đến nơi, tấn công chặn đầu đại quân Công Mạnh Trập, phong tỏa cửa ải Thanh Ngõa Quan. Trong thành Đế Khâu đều dựa vào các ngài và ta, chúng ta cần hành động trước, nhưng thời cơ cần phải suy tính kỹ.
Gia tướng, thực khách của Công Mạnh Trập hai ngày đều đeo kiếm mặc nguyên quần áo, kiếm kê trên đầu ngủ. Đợi đến khi trời sáng bọn chúng không thể ngờ được chúng ta ra tay, mà lúc đó lại là lúc chúng lơi lỏng, lại thêm cả đêm ngủ không ngon, khi đó cũng là lúc chúng mệt mỏi nhất, chúng ta sẽ động thủ.
Nhưng từ bây giờ trở đi, chúng ta phải sớm chuẩn bị. Tề đại phu, Bắc Cung đại phu, chúng ta lập tức bí mật triệu tập thực khách, gia tướng trong phủ, mặc áo giáp, mang binh khí. Sáng sớm làm cơm. Khi đó tất cả phải chuẩn bị xong, bất cứ lúc nào cũng có thể hành động. Chử đại phu cũng cần hành động sớm, sáng sớm phải vào cung ngay, bất luận thế nào cũng phải để Vệ Hầu đi ngao du, ra khỏi cung, Tử Triều…
Tử Triều hiểu mình cần làm những gì, quốc quân rời cung, Tử Triều lập tức vào cung gặp Quân phu nhân.
- Tốt!
Khánh Kỵ gật mạnh đầu, mặt nghiêm nghị nói:
- Tề đại phu còn phải giúp ta sắp xếp vài gia tướng lanh lợi, lập tức đến xung quanh phủ Công Mạnh Trập thăm dò động tĩnh. Bọn chúng chỉ cần động một cái là chúng ta hành động. Cho dù sứt đầu mẻ trán, đến lúc đó cũng phải làm đến cùng!
- Được rồi, mọi người nếu không có ý kiến gì, lập tức chia ra hành sự.
Thời cơ, mọi người trong lòng nghiêm lại, không có ý kiến gì với sự sắp đặt của Khánh Kỵ. Chử Sư Phố đi đến giờ phút này, càng ngày càng đi sâu vào, quyết không lùi bước, cắn răng một cái, cũng bằng lòng ưng thuận, đám người lập tức chia ra về phủ chuẩn bị.
Ở thời này mọi người trong gia tộc đều sống gần nhau, nhà nhà san sát, cùng chung sân vườn. Họ đều là cùng chung huyết thống tổ tông, ở như thế sẽ dễ cho họ liên lạc với nhau. Chử Sư Phố, Bắc Cung Hỉ về đến phủ của mình lập tức gọi các trưởng lão đến, còn cụ thể nói những gì, làm thế nào thuyết phục trưởng lão tán thành thì phải dùng cách nói khéo.
Đêm nay đối với Khánh Kỵ mà nói, thực là dài như cả năm vậy. Chỉ đến khi trời sáng không thấy phủ Công Mạnh Trập phát ra động tĩnh gì thì Khánh kỵ mới yên tâm được. Biết những lời Quý Tôn Tiểu Man nói không phải là giả. Tình hình canh phòng của phủ Công Mạnh Trập quả là trái ngược với phủ Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, ngoài chặt trong lỏng, nội bộ bên trong xảy ra chuyện lại không dễ bị phát hiện.
- Quốc quân, Quốc quân, xảy ra chuyện lớn rồi!
Một buổi sáng sớm, Chử Sư Phố vội vàng cấp tốc chạy vào cung cầu kiến Vệ Hầu, vừa gặp Vệ Hầu, Sư Phố lập tức khoa chân múa tay, ra vẻ ngạc nhiên mừng rỡ.
Vệ Hầu lúc này đang đánh răng, trong tay cầm bàn chải đánh răng loại mới thịnh hành ở các nước nhưng lại không biết người phương nào phát minh ra, ngạc nhiên nhìn Chử Sư Phố, ậm ờ hỏi:
- Xảy ra chuyện gì?
Chử Sư Phố ra vẻ chạy đến nỗi thở hồng hộc, kỳ thực là căng thẳng đến nỗi toát mồ hôi, may là thân hình hắn ta mập mạp, bình thường gặp Cơ Nguyên mặt cũng đầy mồ hôi, nên Vệ Hầu nhìn thấy cũng không thấy gì là lạ. Chử Sư Phố hai đùi run run, giọng run rẩy nói:
- Quốc quân, hoa… hoa nở rồi!
Cơ Nguyên càng thêm khó hiểu, hỏi:
- Hoa gì nở?
Chử Sư Phố căng thăng đến nỗi quên hết lời công tử Triều dặn dò, càng cuống mặt lại càng nhiều mồ hôi. Hắn ta thấm mồ hôi loang loang ở cổ thuận miệng nói:
- Hoa cúc nở.
Cơ Nguyên cười ha ha, chỉ vào hắn ta mắng:
- Cái đồ ngu dốt nhà ngươi, bây giờ là tiết trời cuối thu, đang là mùa hoa cúc nở rộ, có gì mà lạ? Chẳng nhẽ nở trên mông ngươi sao? Nếu thế thì đích thị là chuyện lạ.
Chử Sư Phố mặt đỏ ửng, lúng túng nói:
- Ái… điều này…, Quốc quân nói đúng, nhưng hoa cúc trong nhà hạ thần nở ra bảy màu, điều này từ trước tới nay chưa từng có.
- Ồ
Cơ Nguyên nghe xong không khỏi kỳ lạ, chuyện này chưa thấy ai nói, hắn cũng chưa từng nghe thấy có loại hoa kỳ lạ thế bao giờ.
Chử Sư Phố vội nói:
- Thần nhìn thấy hoa lạ như thế, tất Vệ quốc ta có điềm may, vì thế vội đến báo cáo với quốc quân, mời quốc quân đến xem.
Vệ Hầu nghe xong, vui vẻ nói:
- Rất tốt, đợi quả nhân dùng bữa sáng xong sẽ đến phủ của ngươi xem hoa lạ chưa từng nghe thấy.
Mưu đồ của Cơ Nguyên và Công Mạnh Trập vốn cực kỳ bí mật, không nghĩ lại bị lộ. Đặc biệt hôm nay người đến là Chử Sư Phố. Xưa nay hắn là tên nhát gan, lần này cũng không phải hắn bị phạt, làm sao có thể nghĩ được rằng hôm nay hắn lại to gan như thế.
Chử Sư Phố cười nói:
- Quốc quân đến phủ hạ thần dùng bữa sáng cũng được mà. Hoa cúc bảy sắc kia nở trong vườn, kỳ tình đẹp không tả xiết, đến lúc bình minh lên, hoa nở rộ là lúc hoa đẹp nhất. Đợi đến khi cảnh sắc tươi cao trào rồi, cảnh sắc kia sẽ kém đi.
- Cũng được, quả nhân lập tức khởi giá.
Vệ Hầu hiếu kỳ, vội vàng rửa mặt xong liền cùng Chử Sư Phố đi đến phủ của hắn. Công tử Triều đã sớm đợi ở bên ngoài ngoài cung, vừa nhìn thấy xe của Quốc quân chậm rãi rời cung, lập tức lấy bài vị giắt ở eo ra tiến vào trong cung, đi thẳng vào điện vua.
Nam Tử dậy từ rất sớm, hai ngày nay Công Tử Triều không đến gặp nàng. Trong lòng Nam Tử rất buồn bực, còn nói hắn ta là bởi vì mình không chịu giúp hắn ta. Đúng lúc đó nghe thấy Công Tử Triều đến, Nam Tử hân hoan vui sướng, cũng muốn làm hắn ta bớt kiêu ngạo, liền trang điểm thật lộng lẫy đến cung Nguyệt Hoa. Với cung cách của Quân phu nhân, Nam Tử ngồi ngay ngắn giữa điện, mắt nhìn đường huynh của mình vào cung, trên mặt không chút biểu cảm. Cho đến khi Công Tử Triều hành lễ xong mới lạnh nhạt hỏi:
- Tử Triều, Khánh Kỵ trở về Ngải Thành rồi sao?
Công Tử Triều thực là một người làm đại sự. Trước đó trong lòng hắn lo lắng không yên, cũng có chút cảm giác bất an. Nhưng đến khi bước vào trong điện hắn lại bình tâm, điềm tĩnh không hoang mang. Tử Triều cũng thản nhiên thực hiện nghi lễ nói:
- Khánh Kỵ vẫn chưa rời Đế Khâu, không dám dấu Quân phu nhân, đêm qua
thần và hắn vẫn còn gặp mặt.
Đôi bàn tay Nam Tử vụt nắm chặt, giận dữ nói:
- Hai ngày nay huynh không đến gặp ta, ta biết ngay huynh chưa từ bỏ ý định. Huynh không nghe lời ta, còn lén lút qua lại với hắn.
Công Tử Triều ngang nhiên nói:
- Qua lại thế nào? Tử Triều bây giờ vẻn vẹn chỉ còn cái thân này, Quân phu nhân nếu muốn mang ta trị tội, chỉ cần hô một tiếng là được.
Nam Tử trừng mắt nhìn Tử Triều, sẵng giọng nói:
- Huynh đoán là ta không thể bắt huynh hỏi tội, đúng không?
Câu hỏi này có chút hờn dỗi, không đấu lại được cái lối ngang ngược của Quân phu nhân, Công Tử Triều liền dịu dàng, nhẹ thở dài nói:
- Nam Tử, hai ngày này ta không vào cung, đám Bắc Cung Hỉ, Tề Báo hai ngày không đến gặp nàng, nàng ở trong chốn thâm cung, chuyện bên ngoài cung nàng cũng không biết chút nào sao? Không, nàng chuyện gì cũng không biết! Cho dù bên ngoài đã ầm ĩ tới mức long trời lở đất.
Nàng vẫn không biết? Nàng là phận nữ nhi, nếu không có lực bên ngoài giúp, thì lực lượng của nàng chỉ dừng lại ở hậu cung. Nếu những người như Tề Báo, Bắc Cung Hỉ bị diệt sạch, nàng còn có thể làm được gì? Cho dù nàng muốn đối phó với Công Mạnh Trập, khi đó nàng sống cô đơn trong chốn thâm cung như người mù, kẻ điếc, nàng sống được không?
Nam Tử trừng đôi mắt thanh tú, cười lạnh nói:
- Huynh không từ bỏ ý định, còn muốn khuyên ta, đúng không? Thiên hạ chỉ loạn vì không có vua, chưa từng loạn vì không có thần! Chỉ cần ta cầu cứu, chẳng nhẽ không có người thay nhau hi sinh sao?
Công Tử Triều ung dung cười đáp:
- Đợi đến khi Công Mạnh Trập độc bá vương triều, nắm quyền trong tay, thế lực mạnh hơn hôm nay, khi đó còn nhân vật đắc lực nào bằng lòng dựa vào nàng? Hôm nay Tề Báo, Bắc Cung Hỉ rơi vào kết cục thế nào, một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, sau này còn ai dám trung thành với nàng?
Nam Tử ánh mắt sợ hãi, giọng cứng lại nói:
- Nghe điệu bộ huynh nói, vậy là huynh vẫn muốn cùng đám Khánh Kỵ, Tề Báo mưu toan làm loạn? Tử Triều, tâm tư này của ta, huynh hoàn toàn suy nghĩ vì Vệ quốc sao? Huynh làm sao biết ta không phải vì huynh… Tử Triều, nghe ta nói, sớm ngừng tay lại, vẫn còn ta, ắt bảo vệ được huynh, Công Mạnh Trập vẫn không làm gì được huynh.
Công Tử Triều cười lạnh đáp:
- Điều này thì ta tin, nhưng muốn ta nhờ một nữ quân vương bao bọc,làm một đại phu thu tàn không biết lo cơm áo gạo tiền sống nốt quãng đời còn lại ư? Đại trượng phu không thể một ngày không có quyền lực, đó không phải là cuộc sống ta mong muốn.
Công Tử Triều cao ngạo khiến Nam Tử trở nên quý mến, nhưng Công Tử Triều một mình liều lĩnh lại làm Nam Tử giận dữ. Nàng phất ống tay áo một cái, trầm giọng quát:
- Công Mạnh Trập trong tay nắm giữ quyền lực binh mã, lại tình nghĩa sâu nặng với Vệ Hầu, chỉ dựa vào mấy người các ngươi làm sao động đến được hắn? Chẳng nhẽ lại dựa vào một thành cô độc của Khánh Kỵ với hai vạn binh sĩ? Đại quân của Công Mạnh Trập sắp đến Đế Khâu, nếu huynh không kịp thời ngừng tay, lại dính thêm tội phản loạn. Đến lúc đó chết không có chỗ chôn, ngay ta đây cũng không cứu nổi mạng huynh. Tử Triều, huynh đừng mộng tưởng hão huyền nữa!
Công Tử Triều đứng thẳng lưng, cười nhạt, bình tĩnh nói:
- Nàng nói muộn rồi, chúng ta đã hành động!
Nam Tử nghe Công Tử Triều nói ngây ra, trong mắt dần lộ ra vẻ sợ hãi, giọng cứng lại hỏi:
- Huynh nói gì?
Công Tử Triều chắp tay cúi mắt nhìn xuống, khóe miệng rung rung cười lạnh:
- Giờ phút này đại quân của Công Mạnh Trập đã bị binh mã của Khánh Kỵ ngăn lại ở ngoài cổng Thanh Ngõa Quan; Giờ phút này Tề Báo, Bắc Cung Hỉ đã dẫn tộc nhân, gia tướng, thực khách tấn công phủ Công Mạnh Trập; Giờ phút này, Vệ Hầu cũng đã bị dụ vào phủ Chử đại phu giam lỏng rồi.
Nam Tử càng nghe càng hoảng sợ, gương mặt phấn son đã trở nên xanh mét. Công Tử Triều nhẹ thở dài, nói:
- Nàng thấy đấy, ta nói rồi, trong triều nếu không có ai để nàng dùng, cho dù tấm lòng của nàng có cao hơn trời, thông minh hơn người, chính lệnh cũng khó mà ra khỏi cửa cung. Trong thâm cung này, nàng một điều không biết, hai điều chẳng rõ. Nam Tử, hiện giờ trước mặt nàng có hai lựa chọn. Một là, ngồi xem Tử Triều, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ đi đến chỗ chết, còn nàng tự bảo vệ được mình, từ nay giam mình trong chốn thâm cung lạnh lẽo, hồng nhân vùi dập, ngẩng đầu cũng chỉ thấy được mảnh trời góc tường thành cung điện. Hai là, giúp ta thẻ lệnh binh thư, khống chế cung vệ, thành vệ, tiêu diệt Công Mạnh Trập.
Công Tử Triều nói đến đây, ngẩng đầu nhìn Nam Tử, ánh mắt tình tứ, dịu dàng nói:
- Nam Tử, Vệ Hầu già rồi, vả lại một tên đồng tính vốn không thể xứng với một người hiền lành lương thiện như nàng. Nàng không hi vọng… chúng ta thường xuyên bên nhau sao? Nếu quyền lực nằm trong tay chúng ta, chúng ta mới có thể không phải vụng trộm như thế, không phải hành lễ quân thần. Nàng giúp ta cũng là giúp chính mình. Nam Tử, thời gian gấp gáp, tên đã lên cung rồi, nàng hãy sớm quyết định!
Thanh Ngõa quan, là con đường yếu đạo từ phía Đông đến Đế Khâu, dựa vào địa thế hai dãy núi cao và nguy hiểm hai bên, hùng quan sừng sững, là con đường bắt buộc phải đi qua nến muốn vào phía tây, nếu không qua Thanh Ngõa quan, đại quân tất phải chọn con đường khác núi non hiểm trở đứt đoạn, với lộ trình vượt hơn cả trăm dặm.
Đội quân của Vương Bình đi đến con đường hẹp phía trước Thanh Ngõa Quan, trong lòng bất giác tỏ ra vẻ vui sướng, hân hoan. Vượt qua Thanh Ngõa Quan, hôm nay có thể vào đến Đế Khâu thành, cuối cùng cũng không làm nhỡ yếu sự của Công Mạnh đại phu. Hắn khoát tay ra lệnh:
- Xếp quân thành hình con rắn, nhập quan.
Đại quân xếp thành ‘trường xà trận’, uốn lượn đi vào sơn cốc, tuần tự hướng vào phía trước, đạo quân tiên phong phía trước đã thấy xa xa hiện lên ải thành lầu của Thanh Ngõa quan, bỗng nhiên từ hai bên núi vọng ra âm thanh răng rắc, từng khúc gỗ còn cả cành lá đổ xuống, đám quân lính bỗng nhiên hoảng loạn, bọn họ không ngờ gặp phục kích tại quốc thổ, tại nơi lân cận với đô thành, vài tên lính phản ứng không kịp bị đè bẹp dưới những thanh gỗ lớn, trên mặt đầy những vết thương do những đống cây nguyên cành lá kia quất vào, đổ ụp dưới đất la hét kinh hoàng.
Những thân cây lớn đã làm tan tành ‘trường xà trận’, ở hai bên trong rừng lập tức từ trên cao nhảy xuống một đội vũ tiễn, nã cung tên vào những toán lính hỗn loạn phía trước đang tìm đường thoát thân, hơn mười tên trúng tên toi mạng, đồng thời từ trong rừng vọng ra tiếng hô to:
- Công Mạnh Trập mưu đồ làm loạn, quốc quân đóng cổng thành để bắt giặc. Quân phòng thủ Hoàng Hà đứng im đợi lệnh, không được tiến bước, nếu không nghe lệnh, quy vào tội làm loạn.
Công thành vi hạ, công tâm vi thượng (đánh thành không bằng đánh vào tâm lí). Vừa nghe xong những tiếng hô đó, đội quân đang hoảng loạn của Vương Bình lúc này càng thêm kinh sợ. Không những đám binh sĩ kia, mà ngay cả đại đa số thống binh tướng soái cũng ngờ vực nghi ngờ, không biết những lời nói phát ra từ trong rừng kia có phải là sự thật, sĩ khí vì vậy mà giảm đi bội phần.
Đám quân phòng thủ trong rừng ngăn cấm bọn họ tiến lên phía trước, lại yêu cầu bọn họ đứng im đợi lệnh, chỉ có điều đối với phía trước có hơn trăm tên lính bị cắt đứt không người viện trợ, bọn họ lại không chút khách khí. Hai bên đường trong rừng bỗng vụt ra một đoàn nhân mã, dẫn đầu là hai vị tướng quân mạnh mẽ, uy lực. Râu tóc rậm rạp, tay mang đoản kích, gầm vang như sấm dẫn đầu đạo quân tiến ra sát phạt đạo quân tại trận đồ phía trước.
Đại quân của Vương Bình gấp rút tiến lên phía trước, bị rơi vào thế chống đỡ như vậy, đã sức cùng lực tận rồi, lại đến việc sau khi bị phục kích, nghe thấy họ đang cùng Công Mạnh tham gia vào mưu đồ gây loạn, khiến cho binh sĩ hoang mang, đại loạn. Như vậy còn có thể đủ sức chiến đấu nữa không? Hơn nữa hơn trăm tên lính đang trong vòng vây bị chia cắt lại không còn tướng soái thống lĩnh chỉ huy chiến đấu, A Cừu, Tái Cừu hai người thúc binh mã tiến đánh tới tấp, giống như hổ dữ gặp bầy dê vậy .
Hai quân giáp nhau, trận thứ nhất, , đập tan đạo quân đang rơi vào thế thân cô thế cô của Vương Bình. Đám lính chỉ lo chạy tháo thân, không tên nào dám tổ chức phản kháng lại. Kết quả bị A Cừu, Tái Cừu chỉ huy đánh tan, trong phút chốc hơn trăm tên lính bị giết sạch không còn một tên sống sót.
Vương Bình từ xa nhìn thấy, khóe mắt mở to, lập tức ra lệnh cho quân binh chia làm ba đội, hai bên có cung tên áp chế, hướng vào bên trong khu rừng lùng sục, tự dẫn trung quân dẹp bỏ chướng ngại vật trên đường. Lương Hổ Tử biết rằng những lời nói kia chỉ có thể đánh động được quân tâm của hắn. Ngược lại không thể đả động gì đến những tên tướng lĩnh đang bị dồn vào chỗ chết tận tâm, quên mình phục vụ cho Công Mạnh, vì vậy từ sớm hắn đã chuẩn bị cho một cuộc chiến đẫm máu. Tại hai bên khu rừng hắn đã bố trí đào nhiều hố chông, bên dưới cắm nhiều cọc gỗ sắc nhọn, lại sai những tên lính biết đi săn trong doanh trại chế tạo những bẫy giậm, chông gỗ…, đám quân của Vương Bình vừa tiến vào trong rừng, còn chưa nhìn thấy tung tích quân thù đâu, đã có tên bị rơi xuống hố chông, hoặc bị bẫy giậm, chông nhọn giết hại, khiến cho bọn họ nơm nớp thận trọng, bước đi cẩn thận.
Đạo quân Vương Bình đang chỉ đạo ở con đường giữa, lại không có ai chặn đánh, chỉ có người từ xa lúc bọn họ đang dẹp chướng ngại vật bắn tên phá rối, nhưng mà hai đội quân địch mai phục trong rừng không thể tiêu diệt được, do đó cho dù có dẹp được đường, Vương Bình cũng không dám thâm nhập, vì vậy hắn một mặt thúc giục quân lính bất chấp mưa tên, nhanh chóng dẹp bỏ chướng ngại, một mặt khẩn trương chú ý quan sát tình hình hai bên đang giao chiến.
Phạm Trọng Thúc thống lĩnh binh lính phụ trách cánh trái của khu rừng, vừa gặp phải cạm bẫy, lập tức ra lệnh quân lính cẩn thận tiến về phía trước, tuân thủ mệnh lệnh của hắn, đám lính giống như rùa bò tiến lên, cánh phải hai bên đang giao chiến, còn hắn cánh này vẫn chưa thấy mặt đối thủ đâu. Phạm Trọng Thúc không phải là phe phái thân tín của Công Mạnh, lúc nghe thấy tiếng reo la phát ra từ trong rừng, hắn đã có tính toán. Công Mạnh nắm giữ quyền bính cực mạnh, nếu nói trong triều có người mưu đồ làm loạn, vậy thì chỉ có Công Mạnh mới đủ thực lực. Mặc dù người trong rừng hành tung bí hiểm, từ xa nhìn qua, từ trong rừng đám quân mai phục xông ra đánh hạ đạo quân phía trước, y phục trên người chúng cũng không giống binh lính nước Vệ, nhưng hắn vẫn còn có chút hoài nghi. Dựa vào lập trường của hắn, thì không thiếu kẻ vì Công Mạnh mà hi sinh thân mình, nên hắn không thể công nhiên phản kháng quân lệnh được, lại tiêu cực biếng nhác, đợi tình hình thế nào rồi tính tiếp.
Người của Lương Hổ Tử đợi cho quân địch mệt mỏi rồi mới tấn công, lại thông thuộc địa hình, bọn chúng lại không dễ dàng tấn công qua, lúc này trong lòng quân tướng lại đang có dị tâm, làm sao có thể tiến lên được.
Tin tức về trận đánh đẫm máu trong cốc đã loan truyền đến Thanh Ngõa quan, tướng quân của Thanh Ngõa quan từ trên cao nhìn tới, chỉ thấy trong cốc người người hỗn loạn, vô số binh mã đang chém giết không ngừng, tạm thời nhìn không rõ hai bên đến từ đâu, càng quyết không thể xem thường, chỉ cần không có người tấn công vào Thanh Ngõa quan, thì hắn cũng không dám mạo hiểm chỉ đạo xuất binh. Vội vàng ra lệnh toàn quân lập tức đóng cửa thành, tăng cường chuẩn bị súng bắn đá… cẩn trọng chờ đợi.
Vương Bình chỉ huy đạo quân Hoàng Hà giao chiến với tinh binh Ngải thành của thống soái Lương Hổ Tử, cuộc chiến đẫm máu diễn ra bên ngoài Thanh Ngõa quan…
Sáng sớm, ở nơi đại thành phồn hoa Đế Khâu, trên phố cũng không bao nhiêu người qua lại. Vậy mà sáng nay, con đường lớn của thành Đế Khâu đi qua phủ đệ của Công Mạnh Chập, lại có một đám tráng sĩ vạm vỡ khoác áo vải chạy như bay trên con đường vốn yên lặng tĩnh mịch, tiếng bước chân phát ra không đều nhưng rất nhanh.
Những tráng sĩ này, trang phục kì dị, có người mang cẩm bào áo mũ, có tên lại mặc y phục dệt bằng vải, lại có kẻ mặc áo đay, quần bông, xem ra có thể là toàn bộ những người trong thị tộc, lính trong nhà, thực khách, gia nô của một gia đình giàu có cùng đi, với lại người người trong tay đều cầm dao sắc, đằng đằng sát khí.
Trong đám người này còn có nhiều nam tử tuổi đã qua năm mươi đặc biệt gây sự chú ý, bọn họ trên người khoác bộ áo giáp đã cũ kĩ, nhưng ngược lại binh khí trong tay họ được lau chùi sáng loáng. Mặc dầu, đại đội binh mã này chạy rất nhanh, nhưng những vị nam nhân này vẫn giữ được đội hình đi sát nhau, giống như một thanh gỗ lớn trôi theo dòng nước lũ, mặc dù tùy vào sóng gió mà nhấp nhô, lên xuống, nhưng những khúc gỗ đó, nó vẫn là nó.
Bọn họ đều là những bậc lão binh trong đạo quân của Tề thị, Bắc Cung thị lúc nắm trong tay quyền bính năm xưa, và cũng đều là những tùy tùng thân tín của gia chủ Tề thị, hậu Bắc Cung ngày xưa. Sau khi hai nhà Tề thị, Bắc Cung thị mất đi quân quyền, những thân binh tì tướng này tự biết rằng khó có thể được Công Mạnh trọng dụng, nên cũng theo gia chủ mà thoái giáp quy điền (bỏ giáp về làm ruộng), Tề thị, Bắc Cung thị đối với những lão binh đã cùng họ vào sinh ra tử có phần chiếu cố, bình thường để cho họ cai quản việc làm ăn, điền địa, nông canh của gia chủ, cuộc sống của họ so với những gia đình bình thường khác có phần hậu đãi hơn nhiều.
Hôm nay gia chủ của họ gặp nguy, thân là bậc đại trượng phu có chí làm sao có thể khoanh tay đứng nhìn được chứ? Huống hồ bọn họ cả đời xem Tề thị, Bắc Cung thị hai gia chủ là người một nhà. Bất kể là vinh nhục hay thiệt hơn, bọn họ tuyệt đối không do dự khoác lên mình chiến giáp ngày xưa, cầm lại binh khí, theo ý gia chủ, tái chiến sa trường.
Đám người này đều là bách chiến lão binh, hai mươi năm chinh chiến, thể chất đã không còn như trước, nhiều người còn có bụng phệ, nhưng kinh nghiệm chiến trường và tố chất tâm lí của họ, những chiến binh nhiều trận chinh chiến sa trường, ngược lại nhiệt huyết sục sôi của những chiến binh trẻ không thể so sánh được. Thân thể mập mạp cường tráng, nhưng thái độ lạnh nhạt, ánh mắt sắc lạnh của họ so với đám binh lính tuổi trẻ hừng hực sát khí kia, ngược lại còn khiến người người sợ hãi.
Đám người Tề Báo biết một khi hành động thì khó có thể bưng tai bịt mắt người khác, quyết định xuất binh từng phần, trực tiếp xông vào phủ Công Mạnh Trập , trên đường hai bên tập hợp lại. Nhân mã hai bên thanh thế lẫy lừng, đi được nửa đường hai đạo quân lẫy lừng tác hợp, càng thêm đại chấn. Trong đó cũng không tránh khỏi có chút tác dụng tâm lý, khi mọi người xông pha chiến trận, không ngừng có người gia nhập, sĩ khí đó càng ngày được nâng cao.
Bọn họ với vận tốc nhanh nhất xông đến phủ đệ của Công Mạnh Trập, không cho bọn mật thám có thời gian quay về báo tin. Bọn mật thám mà Công Mạnh Trập phái đi thám thính tình hình không phải ít, phi nước đại quay về báo tin, bọn họ đặt chân xông vào trong phủ đệ. Quân mã củaTề Báo và Bắc Cung Hỉ cũng đã đến rồi
- Nhanh chóng đóng cửa phòng thủ, gõ chuông báo động, Bắc Cung Hỉ tạo phản rồi.
Âm thanh cấp báo lập tức hướng về phía sau hậu đường, gia quân môn khách bọn họ trong phủ của Công Mạnh Trập đang gối giáo và mặc đồ đi ngủ, lúc này đều rất mệt mỏi, đang nghĩ là sau khi ăn cơm lại tranh thủ thời gian rảnh để nghỉ ngơi một lát, tiếng kêu la thất thanh vọng vào ầm ầm khẩn cấp, cánh cửa chính đang được tận lực kéo lên lập tức bị đẩy ra, hai cánh cửa bị kéo ra, làm ngã vỡ vài bình hoa đặt trên hai bên hành lang.
Khẩn cấp, lệnh chém giết vang lên, một đạo quân tráng sĩ phá cửa xông vào, kiếm kích trường thương vung chém, giống như thủy triều cuồn cuộn, gia quân thực khách trong phủ Công Mạnh Trập đều cực kỳ hoảng sợ, may mà bọn họ hai ngày nay đã thủ sẵn binh khí đợi lệnh, vũ khí luôn mang theo bên người, lập tức cử khởi binh khí nghênh chiến.
Cửa lớn mở ra, người người xông vào như thủy triều, người của Tề Báo hô hào xông vào bên trong, vừa tiến vào vừa giao chiến với đối thủ, dưới chân tuyệt nhiên không dừng bước. Đám lính vừa mới giao chiến đã tiến vào hơn mười bước, lại thấy kẻ thù mới xuất hiện phía trước, Tề Báo và Bắc Cung Hỉ trước đó đã truyền lệnh, vượt qua tiến thẳng vào bên trong, kẻ nào bắt giết được Công Mạnh Trập coi như đã lập đại công, thưởng cho ngàn vàng, vậy nên kẻ nào cũng đầy dũng khí đối chiến với đám gia binh môn khách trong nhà Công Mạnh.
Đại quân hơn trăm tên đã tiến vào tiền đường, trong viện đã chất đầy người chết, lúc này Khánh Kỵ và Tề Báo, Bắc Cung Hỉ lãnh đạo đại quân thứ hai tiến vào bên trong. Tam quân đều mang sát khí hừng hực, Khánh Kỵ hông đeo kiếm, tay cầm trường thương, Tề Báo tay mang đại chùy, Bắc Cung Hỉ trong tay là một thanh giáo dường như là kì môn binh khí (binh khí hiếm thấy), điểm kì lạ ở loại binh khí này là toàn thân được đúc thành từ đồng thau, phần đầu thô to, còn có một đoạn dao ngắn, tương đối giống thanh Lang Nha Bổng ở hậu thế.
Tề Báo khuôn mặt tàn bạo, trong mắt lộ ra ánh nhìn hung ác tàn nhẫn nói:
- Phủ Công Mạnh Trập có ba phần trọng yếu, lại có hai bên nhà ngang, ta tấn công ở giữa, Bắc Cung đánh vào hướng phải, Công tử tiến về bên trái, như vậy đi.
Bắc Cung Hỉ đáp:
- Được, chúng ta ba người đồng thời hành động, xem thử kẻ nào sát đến hậu trạch (nhà sau) đầu tiên, ai là người đem thủ cấp Mạnh Trập quay về.
Bắc Cung Hỉ tính tình táo bạo, lời còn chưa dứt, đã lệnh cho đám thân binh hướng về phía bên phải lùng sục.
Khánh Kỵ cười nhẹ, tay nhấc thanh trường đao lên nói lại:
- Tề đại phu, hẹn gặp tại hậu trạch.
Tay chân vừa động, vết thương trên thân mặt dù được băng bó cẩn thận, nhưng vẫn cảm thấy đau đớn khó chịu. Thế nhưng vết đau này ngược lại càng kích thích tiềm năng trong người hắn, khiến thể năng của hắn phát huy đến cực hạn. Tề Báo và Bắc Cung Hỉ cũng đã phân phối sáu mươi tên lính đợi lệnh của hắn, đám quân lính cùng tiến lên phía sau Khánh Kỵ hướng bên trái phủ đệ lục soát, người ngăn giết người, thánh cản giết thánh, thế tiến công áp đảo như chẻ tre.
Đám môn khách, gia quân trong phủ của Công Mạnh Trập ngang ngửa với đạo quân mà Khánh Kỵ phái tới, nhưng lúc này bọn họ thất kinh không còn động cơ chiến đấu, không có ai chỉ huy mà tự thân hành động. Một đại quân có mục tiêu rõ ràng, có thống soái lãnh đạo, một đạo quân khác thì giống như lũ kiến vỡ tổ, tháo chạy tứ tung, mặc dù cũng mười phần dũng khí, gặp kẻ thù là đánh, nhưng cao thấp đã được phân định rõ. Nếu như chủ động xuất quân, thì đạo quân uy nghi mãnh liệt của Công Mạnh Trập đối với liên quân của Tề Báo, Bắc Cung Hỉ lại không dễ dàng thua trận dễ dàng như vậy đâu, máu chảy thành sông, xác chết chất cao như núi.
Tiếng chém giết rền vang trong phủ của Công Mạnh Trập, tì nữ, gia nô lớn bé tháo thân trốn chạy, may mà liên quân do Bắc Cung Hỉ, Tề Báo, Khánh Kỵ chỉ mê hoặc bởi cái thủ cấp đáng giá ngàn vàng của Công Mạnh Trập, mà không gây hại đến những tên thanh niên, nữ tử kia, đám lính mắt đỏ hau, vung binh khí hùng hục tiến vào bên trong hậu đình. Nhưng càng tiến vào bên trong, đám gia binh thực khách bên trong càng nhiều, dần dần cũng ổn định tình hình, tổ chức phản kháng lại, do đó tốc độ đánh chiếm của đạo quân ba hướng cùng công tiến vào bên trong lại chậm lại, hai bên giáp là cà giao chiến dữ dội, từng bước từng bước chiếm cứ chiến địa.
Vệ hầu Cơ Nguyên hứng thú bước vào phủ đệ của Chử Sư Phố, liên thanh nói:
- Cây hoa cúc bảy màu kia đâu rồi, mau đem ra cho quả nhân xem.
Chử Sư Phố ra hiệu cho tên quản sư đứng nghênh tiếp trước cửa, rồi vội khom lưng, mặt mày hớn hở nói lại:
- Quốc quân, mời ngài đi bên này. Nó đang được đặt ở hậu hoa viên(vườn hoa phía sau nhà).
Chử Sư Phố hộ tống Vệ Hầu Cơ Nguyên bước ra hậu hoa viên, quanh quẩn trước sau, đi đến một cái đình quán trong khuôn viên. Cơ Nguyên tiến lên phía trước vài bước, nhìn kĩ tứ phía, nhìn thấy trong khuôn viên hoa cúc nở đầy, hương hoa thơm ngát, nhưng tuyệt nhiên không thấy loại hoa cúc kì dị bảy màu kia đâu, bất giác ngạc nhiên hỏi:
- Hoa cúc bảy màu kia đâu, không phải ngươi nói đã khai nở đầy hoa sao?
Phía sau yên lặng không nghe thấy trả lời, Cơ Nguyên quay lại, nhìn thấy Chử Sư Phố đã thối lui vài trượng, quỳ rạp xuống đất chịu tội. Cơ Nguyên ngạc nhiên hỏi:
- Chử Sư Phố, ngươi như vậy là có ý gì?
Chử Sư Phố đang quỳ, trán chạm đất, dập dập liên hồi đáp:
- Thần đáng tội chết, thỉnh cầu Quốc quân yên tâm, Chử Sư Phố thần vạn lần không dám gây bất lợi cho quốc quân.
- Cái gì?
Cơ Nguyên thất sắc, ngạc nhiên hỏi tiếp:
- Chử Sư Phố, ý của ngươi là sao?
Chử Sư Phố chỉ đập đầu, không nói tiếp. Cơ Nguyên kinh ngạc không hiểu, định bước qua hỏi rõ ngọn ngành, chợt tứ phía tiếng âm thanh kiếm rút ra khỏi bao, nỏ giương cung vọng tới, khoảng hơn mười tên mặt đằng đằng sát khí tay thương, tay cung, tay kiếm hướng đến hắn xông lên, Cơ Nguyên kinh ngạc thối lui vài bước, sống lưng dựa vào cột đình, giận giữ nhìn Chử Sư Phố quát:
- Chử Sư Phố ngươi thật to gan, dám phạm thượng mưu phản sao!
- Thần không dám, thần có tội.
Chử Sư Phố liên tục dập đầu nói:
- Thần làm như vậy, vạn lần cũng là bất đắc dĩ, thần một lòng trung quân, việc hôm nay, cũng chỉ vì muốn trừ nịnh thần, thỉnh cầu quốc quân thông cảm cho nỗi khổ của hạ thần.
Cơ Nguyên ngày thường chìm đắm trong tửu sắc, dâm ô không biết gì, lần này kiếm kề tận cổ, ngược là còn không chịu quy hàng, mà giận giữ quát lớn:
- Tặc tử, ngươi nói kẻ nào là nịnh thần? Kẻ nào bên cạnh gây bất lợi cho quả nhân?
Chử Sư Phố quỳ dưới đấy cũng không mở lời, chỉ dùng tay ra hiệu, đám lính trong phủ của hắn lĩnh mệnh, lập tức cưỡng chế bắt trói tên hôn quân vô lại Cơ Nguyên lại.
Đợi cho tiếng gầm gừ, quát mắng của Cơ Nguyên đi khỏi, cái thân hình mập mạp đang quỳ rạp dưới đất Chử Sư Phố mới đứng dậy, cái đầu tròn thấm đẫm mồ hôi, vội vàng bước đi, phủi phủi áo bào rũ cỏ, hướng về phía trước đình mà đi.
Bên trong Nguyệt Hoa cung, Nam Tử cắn cắn môi, từ từ hướng vào trong điện, rơi vào thế lựa chọn giữa hai con đường, người duy nhất nàng từng động chân tình là Tử Triều, muốn nàng mở to mắt mà nhìn người nàng thương yêu nhất chết đi, nàng làm không được. Nhưng nàng lại hận cái kẻ đã gây ra việc này, cưỡng bức nàng phục tùng mưu kế hèn hạ đó, hơn nữa, nàng cũng không đặt quá nhiều hi vọng vào sự chắc chắn thành công của công tử Triều.
Công Tử Triều lạnh nhạt nhìn nàng, đoán rằng bên ngoài cung kế hoạch đã được thực hiện , không thể kiên nhẫn được nói:
- Nàng còn do dự chuyện gì nữa? Hay là không cam lòng với vị phu quân danh thực bất phù kia (cái danh và sự thực không giống nhau), hay là lo sợ binh quyền của Công Mạnh Trập? Hắn tuy binh hùng tướng mạnh, nhưng trong Đế Khâu thành, binh mã hắn có thể điều động vô cùng bị hạn chế, nước xa khó cứu được lửa gần, đợi hắn bó tay chịu trói, binh mã các hướng còn có thể hi sinh vì hắn mà giao chiến không? Còn Cơ Nguyên, từ đầu đối với nàng cũng chỉ vì xấu hổ mà kính trọng , nàng mới có quyền uy hôm nay. Nhưng quân vương vốn là người thiếu thốn tình cảm, loại cảm tình này còn có thể duy trì được bao lâu? Thời cơ tốt thế này, sao chúng ta lại không cất mẻ lưới này chứ?
Nam Tử bỗng nhiên dừng bước, ngơ ngơ ngẩn ngẩn nhìn hắn rất lâu, rồi nói:
- Được rồi, kiếp này ta nợ huynh, hôm nay ta và huynh cùng hội cùng thuyền, về sau huynh nếu phụ ta…
Công tử Triều hớn hở đáp:
- Tử Triều xin chịu sét đánh chết.
Nam Tử cắn răng, trừng mắt quát:
- Ta sẽ tự tay giết huynh.
Nàng dừng chân nói:
- Đi với ta.
Công tử Triều hoan hỉ đi theo sau Nam Tử, rời khỏi Nguyệt Hoa Cung quay về Phụng Triều Điện.
Phụng Triều điện tổng quản là một vị đại nhân tuổi gần ngũ tuần, vào quân ngũ từ nhỏ, tên gọi là Đông Lý Hạ, một lòng trung thành đối với Vệ Hầu, phụ trách quản lí bảo khí, ấn phù quân vương của Vệ quốc.
Bảo vật của Quốc quân, ai là Vệ quốc quân phu nhân thì có một chiếc chìa khóa dự phòng, đây là quy định đề phòng những tình huống bất ngờ của Vệ quốc. Nhưng trừ phi có xác nhận Quốc quân thân vong bên ngoài, thì chìa khóa đó vẫn được lưu giữ nơi người được chỉ định, nếu vậy thì quân phu nhân không có quyền hành điều dụng bảo khí. Nam Tử cùng với công tử Triều đến trước Phụng Triều điện, Đông Lý Hạ vội vàng ra nghênh tiếp, trịnh trọng nói:
- Nô tì bái kiến quân phu nhân. Quân phu nhân giá lâm Phụng Triều điện, có điều gì chỉ dạy?
Nam Tử bình tĩnh đáp:
- Đông Lý Hạ, mau đem bản quốc bảo khí ra cho ta.
Đông Lý Hạ ngớ người, nghi ngờ hỏi:
- Quân phu nhân, quốc quân đang bình yên, theo thúc chế, nô tài không thể phụng chiếu.
Nam Tử vội đáp:
- Công Mạnh Trập tạo phản, quốc quân đã bị quản thúc, như vậy không thể phát hiệu thi lệnh sao? Mau mau đem bảo khí ra đâu, quả nhân cần điều binh đi dẹp loạn.
- Việc này… Nô tài chưa nhận được tin, khó mà chỉ nghe một mặt những lời của quân phu nhân được, thỉnh cầu quân phu nhân….
Công tử Triều bên cạnh không giữ được bình tĩnh, hỏi:
- Nơi cất giữ bảo khí, quân phu nhân biết không?
- Ta biết.
“A..hhh” Nam tử vừa gật đầu đáp ứng, Công tử Triều đã không do dự, rút kiếm chém chết Đông Lí Hạ. Vệ quân tứ phía kinh hãi, cầm vũ khí xông lên, công tử Triều cầm ngang thanh trường kiếm còn dính đầy máu, trừng mắt quát:
- Quốc quân đang bị khống chế, mọi chuyện gấp lắm rồi, hôm nay quân phu nhân cần lấy quốc ấn binh phù điều binh dẹp loạn, kẻ nào dám cản đường, giết chết không tha.
Đám thị vệ nghe thấy hoảng hốt lúng túng. Thủ lĩnh đã chết, không ai hạ lệnh. Lại nhìn thấy quân phu nhân uy nghiêm đứng trước, do dự một lát, cuối cùng thối lui. Công tử Triều thấy vậy, vội vàng cùng với Nam Tử tiến vào Phụng Triều điện, tới phía bên góc thư án mở mật thất, lộ ra một chiếc đại đỉnh tạo thành từ đồng xanh, dường như đây là một ám kỷ (két sắt), nhìn từ bên ngoài, có thể thấy chiếc ám kỷ này rất dày, nặng, sợ rằng phải đến bốn năm nhát búa cũng không thể đập vỡ được.
Nam Tử từ trong người rút ra chìa khóa, đút vào ổ khóa vặn một vòng, vang lên một tiếng “tách” nhẹ, dường như khóa đã được mở. Nam Tử đưa tay kéo ra, cánh cửa bằng đồng nặng nề kia bỗng nhiên nhẹ nhàng lắc lư.
- Để ta…
Công tử Triều không kịp đợi, cầm lấy chốt cửa, kéo mạnh, cánh cửa bằng đồng lập tức được mở ra. Bên trong không có ngọc châu, ngọc bảo, chỉ có bốn hộp tráp. Hộp lớn nhất ngay ngắn vuông vắn, không cần hỏi, cũng biết đó là ấn ngọc của nước Vệ.
- Hộp bên phải kia.
Nam Tử nói nhỏ bên cạnh hắn.
Công tử Triều nhìn chăm chăm vào quốc ấn, rồi mới đưa tay cầm lấy chiếc hộp bên phải mở ra, bên trong đặt nửa con hổ làm bằng đồng nguyên chất, nặng trịch, trên thân hổ hoa văn tinh tế, mờ ảo hiện lên màu xanh gỉ đồng.
Đây là hổ phù, hổ phù kì thực không chỉ có một loại, mà có nhiều loại có quy cách khác nhau, loại bán hổ phùn này, là loại có quyền hành cao nhất, hổ phù mà Công Mạnh Trập có trong tay, một lần nhiều nhất cũng chỉ điều động được một vạn binh mã, mà loại hổ phù này, hễ có người nắm trong tay bán hổ phù, một khi được nghiệm chứng là thật, phải phục tùng vô điều kiện đối phương, giống như yết kiến quốc quân.
Nam Tử vươn ngón thay thon dài trắng thuần ra, nhẹ nhàng sờ vào chiếc hổ phù lạnh ngắt, hạ giọng nói:
- Chính nó, bất kể thị vệ trong cung, trong thành, hay là binh lính toàn quốc, đều có thể điều động.
Công tử Triều đại hỉ, hôn lên má của Nam Tử một cái, rồi bước đi, nói:
- Thời gian rất gấp, ta phải đi khống chế vệ quân trong cung, trong thành, nàng tạm thời ở trong cung đợi tin ta.
Công tử Triều nói xong, chạy biến đi. Nam Tử sờ tay lên má, trầm tư một lát, rồi thở dài một tiếng….
Trong phủ đệ của Công Mạnh Trập, hệ thống sân vườn ba hướng, chín ngõ, thảo đình, trung đình, hậu đình đều bố trí như vậy, trú tại tiền đình đều là bọn tôi tớ nô bộc, gia nô và bọn gia quân, thực khách thấp hèn. Bắt đầu xông vào bên trong trung đình, hai bên giáp lá cà giao chiến kịch liệt, gà vịt trong sân tháo chạy toán loạn, đám tì nữ, gia nô cũng hoảng loạn tìm đường thoát thân, hai bên chỉ quản vung kiếm chém tới, mà không có thời gian tranh luận. Đại đội binh mã giết hạ những tên gia quân cản đường, dốc hết toàn lực truy sát vào bên trong.
Tam lộ binh mã do Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Khánh Kỵ chỉ huy, mỗi người dẫn đầu đại quân, thần tốc tiến lên. Khánh Kỵ dẫn quân tiến đánh lộ bên phải, thế trận thắng như chẻ tre, tiến đến trung đình sân thứ hai, thấy phía trước đã có đại quân tập kết, với hơn trăm tên lính đang xếp thành trận thế. Khánh Kỵ cũng không nhiều lời, đưa trường thương hướng tới, ra lệnh:
- Tiến lên
Khánh Kỵ vung kiếm, tiên phong xông vào trận đồ, với thanh trường thương trên tay, Khánh Kỵ như giao long xuất thủy, tiến lên phía trước mở con đường máu, binh lính phía sau Khánh Kỵ số lượng chỉ bằng một nửa, nhưng nhìn thấy Khánh Kỵ dũng mãnh như vậy, như tăng thêm động lực, đồng loạt hô hào, nhất tề xông lên.
Đại quân tiến đánh lộ bên trái của Bắc Cung Hỉ cũng gặp phải địch thủ càng ngày càng mạnh, càng ngày càng kiên cường phản kháng lại. Bắc Cung Hỉ toàn thân đẫm máu, trong tay thanh Lang Nha Bổng giống như kỳ môn binh khí, trên ngọn thanh Lang Nha dính đầy từng mảng máu thịt, trộn lẫn vào nhau, phút chốc đều chuyển sang màu đỏ. Nhưng trận chiến hôm nay, nếu ngươi không chết thì ta chết, tuyệt không có con đường thứ ba. Bắc Cung Hỉ không ngừng thúc quân xông lên, không hề tỏ vẻ sợ sệt.
Còn đạo quân tiến đánh trung lộ do Tề Báo chỉ huy, đại quân này nhiều binh mã nhất, lại có thêm đội cung tên hộ tống, từ xa thấy quân lính đối phương, chưa kịp đánh giáp lá cà, đã bắn qua một trận mưa tên, do đó thế thắng như chẻ tre, tuy nhiên trên đường vào con đường cuối cùng cũng gặp phải sự kháng cự kiên cường của đám tàn quân.
Đây là cánh cửa chính hướng vào hậu đình, mười phần rộng rãi, dưới cửa có thạch giá, trong sân là một khoảnh đất rộng, hai bên tường trồng đầy tùng, bách. Hai bên bảy tám mươi binh lính xông vào giáp lá cà tại cánh cửa này, Tề Báo tay cầm đại thiết chùy, dưới đùi dính đầy máu tươi, thở mạnh hô hào ra lệnh:
- Các ngươi, hét lớn lên cho ta.
Nghe theo lệnh của Tề Báo, đám thủ hạ gia quân môn khách đồng thanh hô lớn:
- Những kẻ chống cự ngoan cố kia, Công Mạnh Trập khi quân phạm thượng, mưu đồ tạo phản, ta thừa lệnh quốc quân thanh trừ kẻ nịnh thần này, kẻ nào hạ vũ khí quy hàng, lập tức thối lui đứng sát vào hai bên tường, sẽ không quy cho tội chết, còn kẻ nào chống đối, giết chết không tha.
Bọn họ tề thanh hô hào vài lần, khí thế phản kháng bên trong nội đình giảm dần. Vài ngày qua, Công Mạnh Trập hành động rất khả nghi, hơn nữa do người nhiều khẩu tạp, cũng không có chuyện hắn đem chuyện đại sự này đi nói với đám gia quân môn khách, lúc này nghe những lời của Tề Báo, nhiều người liên tưởng đến những hành động kỳ quái của gia chủ hai ngày qua, không tránh khỏi hồ nghi.
Bọn họ chưa hẳn đã sợ chết, nhưng chiến đấu tại trận chiến mà mình không có cửa sống, thử hỏi kẻ nào còn có dũng khí tử chiến? Đối phương đã tiến vào cửa, hơn nữa lại tuân theo mệnh lệnh của quốc quân, bọn họ chống lại mà không có viện trợ. Vừa nghĩ đến việc này, sĩ khí đã suy nhược, Tề Báo đã phát lực tấn công, đã tiến công vào bên trong, đang giao chiến với những tên gia quân đang do dự không chịu thối lui. Nhìn thấy tình hình này, đã có người chạy đến hai bên tường, Tề Báo quả nhiên không giết hại bọn họ, chỉ hạ lệnh cho quân lính tiếp tục tiến công, vì thế, xuất hiện nhiều tên chạy về một phía quy hàng, cánh cửa thứ ba tiến vào trạch viện, đã bị thất thủ.
Cũng vào lúc này, Khánh Kỵ, Bắc Cung Hỉ cũng tả hữu hai bên tiến đến, cùng với Tề Báo họp lại tiến vào cánh cửa thứ ba. Lại tiến vào phía sau, là khuôn viên cuối cùng, nơi đây tất cả những người thân tín của Công Mạnh Trập ẩn trú.
Tề Báo hớn hở ra mặt, cười lớn nói:
- Hôm nay chúng ta thành sự rồi.
Khánh Kỵ nói:
- Việc lớn mà chưa hoàn tất thì coi như chưa thành sự được, ta đừng nên cười vội.
Bắc Cung Hỉ đáp:
- Đúng, nhất cổ tác khí*, đợi đến khi cái đầu chó của Công Mạnh Trập nằm trong tay lão phu, lúc đó mới an tâm. Giết..!
Trong nhà sau, Công Mạnh Trập đứng ở trên, nghe tiếng chém giết càng lúc càng gần, lòng đau như cắt ngửa cổ dậm chân nói:
- Một lúc không cẩn thận, thua cả ván cờ! Không ngờ âm mưu bại lộ, bị họ ra tay trước, chuốc lấy hậu quả này đây. Các ngươi đều có gia đình vợ con cả, không cần chết cùng lão phu, ai nấy tự bỏ trốn đi, có lẽ còn giữ được tính mạng.
Bên dưới là mấy trăm tên gia tướng trung thành cầm gươm giáo đứng đó, đứng đầu là Ngao Thế Kỳ và Chu Bát thấy âm mưu bại lộ vội đến hộ vệ. Ngao Thế Kỳ khẳng khái nói:
- Chúa công đối với chúng ta ân trọng như núi, giờ là lúc chúng ta thề chết báo đáp chúa công, thuộc hạ và chúa công đồng sinh cộng tử, thề chết đi theo chúa công.
Mấy trăm gia tướng bên dưới cùng lúc đưa gươm giáo lên, đồng thanh hét lớn:
- Đồng sinh cộng tử, thề chết đi theo chúa công.
- Tốt, tốt...
Những lời Công Mạnh Trập nói lúc nãy vốn chỉ định kích động lòng thù địch của mọi người, nay thấy có tác dụng, trong lòng vui mừng, vội chắp tay nói:
- Trong lúc nguy nan, mới thể hiện được khí tiết anh hùng, các tráng sĩ không phụ Mạnh Trập, Mạnh Trập cũng không dám phụ các tráng sĩ. Khi thoát nạn này, vinh hoa phú quý, Mạnh Trập cùng sẽ hưởng với các tráng sĩ đây.
Chu Bát ôm quyền nói:
- Chúa công không cần hoảng loạn, thuộc hạ biết người trong thủy lao đã trốn thoát, đám người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ chắc là nhận được tin của hắn nên mới liều chết chống cự, đột nhiên tấn công ta. Bọn họ bỗng nhiên đánh tới đây chắc cũng chỉ chống cự trong tuyệt vọng, không có chuẩn bị kĩ lưỡng, chúa công nắm giữ đại quyền binh mã nước Vệ, tiếc chi một phủ đệ? Chúng thuộc hạ liều chết hộ tống chúa công phá vòng vây chạy đến cung thành hợp sức với quốc quân. Trong thành lương thảo đầy đủ, tường thành kiên cố, bọn phản tặc Tề Báo khó tấn công vào. Sau đó chúa công điều động binh sĩ thành Vệ đến dẹp tan bọn phản tặc, đợi khi năm ngàn binh mã vượt Hoàng Hà đến nơi, lúc đó mới bao vây tiêu diệt bọn chúng.
- Chu Bát nói có lí lắm, chúng ta hộ tống chúa công giết ra ngoài nào!
Ngao Thế Kỳ vừa dứt lời, chỉ nghe tiếng la hét vang dội truyền đến, tiếng binh khí va chạm nhau nghe chói tai, người ngựa của Tề Báo đã tấn công vào khu vườn thứ tám.
Chu Bát sắc mặt thay đổi, cầm cây trường mâu thanh đồng lên lớn tiếng la hét:
- Quân địch tấn công dũng mãnh, Ngao Thế Kỳ mau hộ tống chúa công lui về phía cung thành, ta đi chặn giết kẻ địch!
Nói xong giơ cao trường mâu, dẫn theo một nhóm người xông ra ngoài như cơn lốc.
- Chúa công mau đi thôi!
Ngao Thế Kỳ giơ tay ra hiệu, mấy tên lính khiêng qua một chiếc kiệu, đưa Công Mạnh Trập ngồi lên đó, rút nhanh về phía hậu viên.
- Giết giết giết!
Đám người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ hăng say chém giết, la hét tấn công vào khuôn viên khu vườn thứ tám, chém giết với đám gia tướng trung thành đang bày trận đợi sẵn ở đó. Những người của đôi bên đánh được vào đây, phòng thủ ở đây đều có võ nghệ cao cường, là dũng sĩ ngoan cường không khiếp sợ cái chết, hai bên giao chiến, kì phùng địch thủ, như hai cơn sóng mạnh đập vào nhau, bọt máu văng tung tóe cả lên.
Chính vào lúc này, Chu Bát phóng ra như cơn lốc, theo sau là một đám dũng sĩ đang hăng máu, khuôn viên khu vườn này khá rộng lớn, người của đôi bên chiếm giữ cả khu vườn, khắp nơi đều đang dằng co với đối phương, đội người của Chu Bát đến nơi, cứ như là dòng suối đổ thêm vào cơn sóng mạnh mẽ xô bờ, không làm dậy sóng thêm được bao nhiêu. Tuy nhiên quân cứu viện đến nơi lại tạo thêm không ít lòng tin nơi quân lính phe mình, các gia tướng trong phủ càng hăng say hơn chiến đấu, trong một lút đẩy lùi được đám người đang tiến vào của Tề Báo.
- Các cung thủ chuẩn bị!
Chính lúc này đại đội binh mã của Tề Báo, Bắc Cung Hỉ và Khánh Kỵ chỉ huy tụ lại giết đến nơi. Thấy tình cảnh này lập tức hét to một tiếng, các cung thủ giương cung lắp tiễn, với khoảng cách gần như vậy, người của bên kia lại đứng san sát nhau, tức thì bị tên bắn chết ngã xuống rất nhiều.
- Giết, ai lấy được đầu của Công Mạnh Trập, thưởng một ngàn lượng vàng, một trăm mẫu ruộng.
Đám người Tề Báo lại tấn công vào bít cả lối đi, Chu Bát thấy thế, trường mâu giơ ngang, lớn tiếng ra lệnh:
- Tất cả theo ta, chặn lối vào lại.
Nói xong dũng cảm xông lên trước, các dũng sĩ theo sau hùng dũng tiến lên, liều chết giữ lấy cửa vào, hai bên đánh nhau đẫm máu, cánh cửa khu vườn vốn rộng rãi nay đã chen chúc chật ních, người này ngã xuống lập tức có người khác thế vào chỗ trống. Mạng người dưới đao kiếm không đáng giá một xu, không ngừng có người ngã xuống, bị giẫm đạp như mớ thịt vô tri vô giác dưới chân kẻ khác.
Dù sao thì phía Tề Báo đông người hơn, có thể bổ sung lực lượng liên tục không ngừng, Chu Bát giết đến nỗi khắp người bê bết máu, nhìn thấy kẻ địch đông đúc, phe mình tổn thất nặng nề, người ngựa càng lúc càng ít đi, Chu Bát hét to:
- Đóng cửa, mau đóng cửa lại!
Cánh cửa này không phải là cửa thành, dù cho đóng lại thì chỉ cần đối phương dùng vật nặng tông cửa cũng chẳng cầm cự được bao lâu, hơn nữa tường ngăn cách tuy cao, cũng không phải không leo qua được, Chu Bát làm vậy chỉ muốn tranh thủ thêm ít thời gian cho chúa công trốn chạy mà thôi.
Phía sau có người nghe thấy mệnh lệnh, vội vàng đến đẩy cửa đóng lại, bậc thềm có rất nhiều xác chết, lúc này cũng không phân biệt của địch hay của ta nữa, cứ dùng chân đá qua một bên. Trường mâu của Chu Bát đã bị chém gãy, lúc này trên tay đang cầm hai thanh trường kiếm sứt mẻ, điên cuồng giữ lấy cánh cửa.
- Ây…
Chợt đùi bị trường mâu đâm xuyên, Chu Bát hét lên đau đớn, vung kiếm chém bay mất nửa cái đầu của tên cầm mâu đâm mình, múa kiếm loạng choạng lui lại vài bước, một cây trường mâu khác lại đâm vào dưới bụng hắn, người kia mừng rỡ, hai tay ra sức đâm mạnh, vừa định xoáy mâu đâm nát nội tạng của hắn, Chu Bát hét to giận dữ, thanh kiếm bên tay phải được phóng ra ngay giữa mặt tên lính, tên lính bị kiếm đâm xuyên mặt, tắt thở ngã về phía sau.
Chu Bát ha hả cười to ba tiếng, lảo đảo lui về sau hai bước, vấp vào một xác chết dưới chân, vội dùng kiếm chống đỡ quỳ xuống đất, hắn trừng trừng đôi mắt đỏ rực về phía quân địch trước mặt, khí thế đó làm mấy tên gia tướng của Tề Báo nhất thời không dám tiến gần lui lại vài bước, lộ vẻ sợ hãi.
Nửa cánh cửa đã được đóng lại, Khánh Kỵ chợt hiểu ý, to tiếng:
- Hắn đang kéo dài thời gian, Công Mạnh Trập chắc đang bỏ trốn.
Tề Báo nghe vậy vội ra lệnh:
- Mau giết vào trong đó, đừng để hắn đóng cửa lại!
Nhận được lệnh của chủ nhân, đám gia tướng của Tề Báo một lần nữa lại xông lên, bên cạnh Chu Bát còn sót lại không có bao nhiêu người nữa, chúng vừa đánh vừa lui, bị ép lui lại sau cửa. Chu Bát bị đâm trúng bụng, biết là chết chắc, các võ sĩ xung quanh la hét bảo rút lui nên hắn cũng không chịu lùi lại, một chân quỳ gối, một tay cầm kiếm chống đỡ, tay kia lượm lên cây trường mâu kẹp dưới nách tiếp tục chiến đấu, lại đâm chết thêm hai người nữa. Thấy Chu Bát dũng mãnh như thế, tuy là kẻ địch một mất một còn với nhau, Khánh Kỵ vẫn sinh lòng khâm phục. Gã nam nhi trung thành này, tiếc là hắn bảo vệ cho Công Mạnh Trập nham hiểm độc ác hơn cả bọn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, cảm thấy không đáng cho hắn, hay may cho Công Mạnh Trập có thuộc hạ trung thành thế này đây?
Chính khách dùng mưu mẹo mưu cầu phú quí, dũng sĩ dùng lòng can đảm và máu thịt mưu cầu phú quí, cách thức khác nhau, mục đích lại giống nhau, chỉ là ai nấy dựa vào khả năng của mình cuốn vào vòng xoáy danh lợi giết hoặc bị giết mà thôi, tại sao chính khách bị người khác khinh bỉ, dũng sĩ lại được người ta kính trọng? Chính là họ phải hy sinh tính mạng, vẻ hiên ngang đó tác động mạnh vào tâm lí người khác.
Tề Báo thấy thế lên cơn tức giận, giơ cây chùy lấm lem máu lên hét lớn:
- Một lũ vô dụng, lui hết ra cho ta, để lão phu giết tên điên cuồng này.
Bắc Cung Hỉ đưa tay ngăn lại, cười một cách lạnh lùng:
- Tề đại phu đâu cần thiết hạ mình như vậy chứ!
Nói xong giựt lấy cung tên trên tay thị vệ bên cạnh, giương cung lắp tên bắn về phía Chu Bát, Chu Bát hét to đau đớn, mắt phải đã bị trúng tên.
- Đóng cửa lại!
Chu Bát ngước mặt nhìn trời hét lên, nửa cánh cửa còn lại dưới sự liều mạng chống trả của hắn đã được đóng lại.
- Ha ha!
Chu Bát cười to, đưa tay cầm mũi tên nhổ mạnh, mũi tên dính con mắt hắn được rút ra, Chu Bát ném mũi tên sang một bên, khuôn mặt bê bết máu, giơ kiếm điên cuồng xông về phía đám người Tề Báo, máu tuôn đầy mặt khiến hắn không còn nhìn thấy gì, đám võ sĩ của Tề Báo cùng xông lên giơ kiếm chém xuống, giết chết Chu Bát.
Chiếc kiệu nhỏ lướt nhanh như gió trên con đường mòn nhỏ ven sông, theo sau là hơn trăm võ sĩ trung thành hộ tống, Công Mạnh Trập ngồi trên kiệu cắn răng hối thúc liên hồi:
- Nhanh lên, nhanh nữa lên, chỉ cần xông được ra ngoài, lão phu là đã thoát nạn, lúc đó lũ phản loạn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ tất cả đều bị xử tội chết, gia sản vợ con đều thưởng hết cho các ngươi hưởng dụng!
Công Mạnh Trập đang hứa hẹn ban thưởng, phía trước khu rừng chợt tiếng thét vang trời, vài chục người nhảy từ sau bóng cây ra chặn đường, đó đều là phục binh Khánh Kỵ mới vừa điều động trong khi tấn công phủ đệ của Công Mạnh Trập. Vì số lượng binh mã có hạn, lại chưa xác định được mức độ khó khăn khi tấn công vào phủ đệ Công Mạnh Trạch, Tề Báo không dám chia nhỏ lực lượng ra, làm suy yếu sức mạnh tấn công của mình, đội quân nhỏ này chỉ chuẩn bị dùng vào lúc ngăn cản kẻ địch, tuy nhiên tất cả họ đều là tử sĩ dưới trướng Tề Báo, quân số tuy ít nhưng không hề sợ sệt.
Lúc này đang lúc đúng chỗ hẹp nhất của con đường mòn, một bên là vực sâu, một bên là rừng rậm, ở giữa chỉ cần hai người đứng ngang nhau là chắn hết lối đi.
- Giết!
Ngao Thế Kỳ không chút do dự, cầm kiếm xông lên, thân pháp Ngao Thế Kỳ cực nhanh, nhưng mũi tên bắn từ sau lưng hắn còn nhanh hơn, hắn mới tiến được ba bước, một mũi tên đã xẹt qua vai từ sau lưng, cắm vào cổ họng một tên võ sĩ chặn đường. Tên võ sĩ không kịp kêu lên một tiếng, lăn ra chết tươi, Ngao Thế Kỳ lại tiến thêm hai bước, vừa giơ kiếm định đâm, lại một mũi tên bắn xẹt qua vai, giết chết thêm một tên võ sĩ nữa. Ngao Thế Kỳ như sớm biết ai là người bắn tên, cũng không hốt hoảng, lập tức vung kiếm đâm về phía các võ sĩ sau lưng hai tên vừa bị bắn hạ.
Đám võ sĩ này vốn định chặn ngay nơi chật hẹp này để đối phương không phát huy được ưu thế người đông, ai ngờ đối phương lại có một thần tiễn thủ bách phát bách trúng, trong lúc hai bên hỗn chiến lại dám bắn tên trợ giúp, Ngao Thế Kỳ vung kiếm gạt nhát kiếm của kẻ địch đâm tới, lại một mũi tên bay tới cắm phập vào tên đó, Ngao Thế Kỳ không cần suy nghĩ, lại lao vào một tên khác.
Hai người phối hợp chặt chẽ, trong một lúc đã giết được mấy tên địch, mở ra con đường máu, đám gia tướng sau lưng ùa lên, tên mới ngưng bắn ra. Đám phục binh của Tề Báo này tuy ít ỏi nhưng lòng can đảm không sợ chết lại không hề thua kém bất kì một ai, chỉ thấy chúng vung gươm múa giáo, biết là chết chắc cũng không lùi bước, cho đến khi người cuối cùng ngã xuống, trên tay vẫn nắm chặt vũ khí chắn ngang đường.
- Mau đưa chúa công đi qua!
Ngao Thế Kỳ khắp người dính máu, vừa mới ra lệnh xong, phía sau lại văng vẳng tiếng hét, Công Mạnh Trập quay đầu lại thấy xa xa một đám người giơ binh khí đuổi theo đến nơi, sợ sệt kêu lên:
- Sao lại đến nhanh như vậy, Chu Bát chắc đã chết mất rồi…
Hắn vốn định mắng chửi Chu Bát vô dụng, nhưng lúc nguy nan này là lúc dùng người, nên nói đến đó thì ngưng không nói tiếp nữa, nhằm che giấu vẻ thất vọng, hắn mở miệng khóc to, làm ra vẻ đau thương tột cùng.
Các gia tướng xung quanh không nghe ra ý đồ thật sự của câu nói, Ngao Thế Kỳ nghiến răng, nắm chặt thanh kiếm trên tay, nói:
- Trường Sinh, chúa công giao cho đệ, nhất định phải hộ tống chúa công đến cung thành an toàn.
Liễu Trường Sinh là tên võ sĩ theo sát Công Mạnh Trập, mặc áo bào màu trắng, trên tay cầm cây cung lớn, sau lưng đeo một bao tên, mắt thanh mày tú, tướng mạo như một sĩ tử. Hắn chính là người hồi nãy bắn hạ các tên chặn đường, người này vốn xuất thân một gia tộc suy tàn, đầu quân môn hạ Công Tôn Trập, cùng với Ngao Thế Kỳ, Chu Bát được xưng danh “Mạnh Trập tam kiệt”. Giữa ba người tình như anh em, trong số ba người, Chu Bát dũng mãnh can trường, Ngao Thế Kỳ kiếm thuật tuyệt diệu, còn Liễu Trường Sinh lại giỏi về bắn cung.
- Nhị ca.
Giao tình của Liễu Trường Sinh và Ngao Thế Kỳ sâu nặng, ánh mắt chạm nhau đã hiểu tâm ý của Ngao Thế Kỳ, Liễu Trường Sinh gật đầu:
- Nhị ca yên tâm, chỉ cần Liễu Trường Sinh này còn một hơi thở, quyết không để chúa công gặp nguy hiểm.
- Ha ha, tốt!
Ngao Thế Kỳ hét lớn:
- Mau đưa chúa công đi trước, ta ở lại chặn kẻ địch.
Đám võ sĩ không dám dừng bước, khiêng kiệu lướt nhanh như cơn gió, Công Mạnh Trập ngồi trên kiệu làm bộ kêu lên:
- Thế Kỳ, đừng lao vào chốn nguy hiềm, cứ đi cùng lão phu.
Ngao Thế Kỳ cầm kiếm trên tay, cũng không đáp lại, vái chào hắn một cái, từ từ quay người lại.
Khánh Kỵ, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ công phá xong cánh cửa cuối cùng của phủ đệ Công Mạnh Trập, lục xét khắp nơi một lượt, quả nhiên không thấy tung tích Công Mạnh Trập đâu cả, thấy một cánh cửa nhỏ được khóa lại, lấy búa đập cửa ra, dẫn đến con đường mòn nhỏ ven sông, lập tức đưa người đuổi theo ngay.
Men theo đường mòn truy đuổi được một lúc, đã thấy bóng dáng đoàn người của Công Mạnh Trập phía trước, họ gia tăng tốc đuổi đuổi theo đến nơi, chỉ thấy xác chết la liệt, con đường trước mặt có Ngao Thế Kỳ cầm kiếm đứng một mình chặn lối, kiếm đặt ngang ngực, nghiêm giọng hét lớn:
- Ngao Thế Kỳ ở đây, ai dám đánh với Ngao mỗ một trận?
Tề Báo dừng bước, ánh mắt giận dữ, lúc này truy đuổi Công Mạnh Trập mới là việc quan trọng nhất, ai mà còn tâm trí giao đấu với tên võ sĩ này chứ. Chỉ là thời Xuân Thu dù cho áp dụng vào trận chiến nào, cũng còn mang phong độ người quân tử, lấy thí dụ, một nước đang dốc toàn lực tấn công nước khác, quốc vương nước đó đột nhiên bệnh nặng qua đời, trong phần lớn trường hợp, phe tấn công sẽ dừng lại, cho đối phương thời gian ba ngày lo liệu việc tang lễ, thông thường còn đến bái tế quốc vương đó nữa.
Mà cũng là đội quân đó, nếu quả thực chiếm được kinh đô của đối phương rồi, giết người cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ, có thể chuyện gì cũng làm ra được. Hành vi mâu thuẫn này nghĩ ra có vẻ tức cười, thậm chí nói là giả tạo, nhưng lại là lễ tiết người thời đó tuân thủ. Ngao Thế Kỳ đơn thương độc mã khiêu chiến với họ, nếu lấy số đông xông lên giành chiến thắng, là một chuyện rất mất phong độ quân tử. Người nước Vệ chính vì thủ cựu, kiên quyết giữ lấy truyền thống Chu lễ, nhiều người nhìn vào thế này, sao làm chuyện ỷ đông hiếp yếu được? Hơn nữa nơi hắn đứng chật hẹp một bên là vực sâu, một bên là rừng cây rậm rạp, có muốn xông lên bao vây cũng không thể nào.
- Chúa công, Dịch Tuyên xin ứng chiến!
Kiếm khách môn hạ của Tề Báo là Dịch Tuyên rút kiếm ra, xin phép Tề Báo.
Tề Báo không muốn kéo dài thời gian, lập tức xua tay:
- Đi, giải quyết hắn cho nhanh vào!
Dịch Tuyên vâng một tiếng bước lên đối mặt Ngao Thế Kỳ, Ngao Thế Kỳ hướng mũi kiếm về phía trước, hai bên vừa thu gần khoảng cách, lập tức lướt tới đâm, Dịch Tuyên nhảy vút lên cao, như một con đại bàng lao về phía Ngao Thế Kỳ, Ngao Thế Kỳ chỉ chuyển động đôi chân, theo thế lao xuống của Dịch Tuyên cúi xuống tránh né, như một chú thỏ con khiếp vía dưới nanh vuốt đại bàng.
- Không hay rồi!
Khánh Kỵ kinh hãi kêu lên, Dịch Tuyên quá chủ quan khinh địch, kĩ năng chiến đấu ít có ai nhảy lên không trung như thế, trừ khi thực lực hai bên chênh lệch quá rõ ràng mới dám làm vậy, nếu không thân ở trên không trung, không cách gì xoay chuyển né tránh nữa, nếu thực lực đối phương tương đương, như thế người đứng dưới đất sẽ chiếm trọn ưu thế. Ngao Thế Kỳ nhìn có vẻ như bị Dịch Tuyên dồn ép, nhưng đôi chân di chuyển có bài bản, đôi mắt điềm tĩnh ứng phó, chưa có vẻ gì thua kém đối phương.
“Keng!” Hai thanh kiếm chạm nhau tóe lửa, Dịch Tuyên đã phóng qua bên kia, Ngao Thế Kỳ từ từ đứng thẳng lưng, phía sau Dịch Tuyên lảo đảo, rồi ngã vật xuống đất, vừa nãy hai thanh kiếm chạm nhau, Ngao Thế Kỳ lập tức nhanh chóng thay đổi thế kiếm, đưa kiếm lên kéo lê một phát, nhát kiếm đó đã rạch ngang ngực Dịch Tuyên.
Đám người Tề Báo thấy vậy huyên náo cả lên, vừa rồi hai người tiếp chiến như đại bàng vồ thỏ, nhanh như tia chớp, chỉ trong chớp mắt Dịch Tuyên đã lăn ra chết dưới kiếm của Ngao Thế Kỳ. Phía Tề Báo ồn ào tức giận, lập tức lại có một kiếm khách dưới trướng Bắc Cung Hỉ đứng ra xin ứng chiến:
- Chúa công, Cát Anh xin ứng chiến!
Đến bước đường này, đám người Tề Báo như cưỡi trên lưng cọp, không thể vừa thua một trận là tất cả cùng xông lên cho người khác chê cười, Bắc Cung Hỉ gật đầu đồng ý:
- Hãy cẩn thận, không được khinh địch.
Vừa nãy chứng kiến kiếm pháp của Ngao Thế Kỳ, Bắc Cung Hỉ và Tề Báo đều e ngại trong lòng, hắn và Tề Báo đều dùng binh khí nặng cồng kềnh, giết giặc trên chiến trường uy lực vô cùng, nhưng trên lối nhỏ chật hẹp một chọi một đánh nhau, binh khí nặng không linh hoạt khi thi triển quả là lép vế, hai người đều không có lòng tin sẽ chiến thắng thanh kiếm của Ngao Thế Kỳ, với thân phận hai người họ, tất nhiên không cần thiết đích thân ra tay. Tên Cát Anh này cũng luyện kiếm, thích hợp đối phó với kiếm thuật của Ngạo Thế Kỳ.
Cát Anh cúi người:
- Dạ!
Chỉ thấy hắn nắm chặt kiếm trong tay, từng bước từng bước áp sát Ngao Thế Kỳ, khi hai người còn cách nhau một trượng, Cát Anh đột nhiên hét lớn, tuốt kiếm lao nhanh về phía Ngao Thế Kỳ, Ngao Thế Kỳ lần này không thèm né tránh, lúc Cát Anh vung kiếm lao tới, hắn cũng múa kiếm xông theo.
Hai người múa kiếm giao đấu, hư hư thực thực, vừa thật vừa ảo, động tác chiêu thức vừa nhanh vừa mạnh. Hai người đâm qua đỡ lại, phút chốc đã giao đấu mười mấy hiệp, trong khu vực chật hẹp này né tránh, xoay người, nhảy lên, đâm tới, kiếm ảnh sáng choang nhưng chỉ nghe vài ba tiếng leng keng chạm khẽ, nhìn có vẻ hung hiểm vô cùng, thanh kiếm trên tay hai người chạm nhau không nhiều, cứ đâm không trúng lập tức thu về, chiêu thức cả hai đều cực nhanh.
“Keng keng keng!” ba tiếng lảnh lót vang lên, Cát Anh vội vàng lùi bước, dồn hết sức nhảy ngược ra sau, lui ra hơn một trượng, lảo đảo quay về đám đông, được hai võ sĩ tay chân lanh lẹ đỡ lấy, một vết thương chạy dài từ cằm trái xuống đến vai, máu tuôn như suối, vết thương tuy không đủ lấy mạng hắn, nhưng ai nhìn vào cũng ghê tởm.
Tất cả nói ra phức tạp, nhưng chỉ diễn ra trong giây lát, Khánh Kỵ đưa mắt dõi theo, lúc này Công Mạnh Trạch đã chạy xa tầm bắn cung tên, hắn không biết Công Tử Triều đã chiếm giữ cung thành được chưa, sao chịu hành động ngu ngốc lãng phí thời gian đấu kiếm ở đây chứ. Hai tên võ sĩ vừa đỡ lấy Cát Anh, ấn mạnh vết thương giùm hắn định băng bó, Khánh Kỵ đã giơ trường mâu trong tay lên, hét lớn:
- Để ta!
Môn hạ của Tề Báo và Bắc Môn Hỉ phần lớn không biết thân phận thực sự của Khánh Kỵ, nhưng bản lĩnh của hắn lúc tấn công vào phủ đệ Công Mạnh Trập vừa nãy thì ai cũng nhìn thấy, không ai là không khâm phục thân thủ của hắn. Bây giờ phe mình liên tiếp thua hai trận, ai nấy ngỡ ngàng, thấy hắn xung phong ra trận ứng chiến, mọi người lập tức tung hô ủng hộ.
Hai mươi mấy tên võ sĩ đang đứng phía trước lập tức tránh sang hai bên, mở ra một lối đi. Khánh Kỵ nắm chặt trường mâu, đi xuyên qua hai hàng võ sĩ oai vệ tiến về phía trước.
Khánh Kỵ bước nhanh, càng lúc càng nhanh về phía trước, thanh trường mâu trong tay hắn cũng từ từ hướng lên sắc nhọn, làm ra thế sẵn sàng đâm tới trước mặt, các tư thế khá uyển chuyển đẹp mắt, đến khi trường mâu trong tay lấy thế đâm ra, dưới chân vẫn không ngừng di chuyển. “Hây!” thét to một tiếng, trường mâu đâm thẳng về phía Ngao Thế Kỳ.
Nhát đâm này nhắm vào vị trí ngang hông của Ngao Thế Kỳ, sức mạnh kinh hồn, nhanh tựa tia chớp, hoàn toàn không cần kĩ xảo nào, thứ Khánh Kỵ dựa vào duy nhất chính là thần lực trời phú và cảnh giới cao nhất đạt được trong tập luyện sau này.
Nhát này đâm ra, Ngao Thế Kỳ lấy làm kinh hãi, lập tức nhận ra đối thủ đáng sợ trước mặt, điểm đáng sợ là nhát mâu của hắn không biến hóa màu mè mà chỉ cần một sức mạnh to lớn, mà nguồn sức mạnh này được hòa hợp tuyệt hảo với thế đâm, nhát đâm quá nhanh Ngao Thế Kỳ không thể né tránh kịp, chỉ còn cách hai tay nắm chặt kiếm, phán đoán góc độ vị trí thời gian cây mâu đâm tới, chém một nhát mạnh vào mũi nhọn cây trường mâu.
“Bột!” Kiếm của Ngao Thế Kỳ chém vào chỗ cán mâu cách mũi nhọn hai thước, cán mâu làm bằng gỗ cứng, được sơn đen, vừa cứng vừa dai, với tốc độ và sức mạnh kinh người của Khánh Kỵ đâm tới, càng khó chém đứt được.
Nhất là Ngao Thế Kỳ vốn dựa vào phán đoán góc độ và tốc độ đâm tới xuất kiếm chém xuống, muốn gạt nhát đâm mạnh mẽ của Khánh Kỵ ra, nhưng Khánh Kỵ cầm mâu chỉ với một tay, cây mâu vẫn còn độ dài hai thước được kẹp dưới nách, dồn sức đâm về phía trước trường mâu theo thế lướt tới, lúc này tay đang nắm phần đuôi cán trường mâu, Ngao Thế Kỳ bị trường mâu đâm xuyên bụng, nhát kiếm mới chém được vào cán mâu, “Keng” một tiếng vang lên, thanh kiếm đã gãy.
Khánh Kỵ buông tay ra, bước lùi ba bước, ôm quyền nói:
- Các hạ quả là một dũng sĩ đáng kính trọng, giao đấu trên chiến trường, không sống thì chết, thật là đáng tiếc.
Ngao Thế Kỳ sắc mặt trắng bệch, đôi môi run run, không còn sức lên tiếng hỏi danh tánh Khánh Kỵ, Ngao Thế Kỵ buông thanh kiếm gãy ra, hai tay nắm lấy cán trường mâu như muốn nhổ ra, nhưng chỉ nhổ được một nửa, máu nóng tuôn trào như suối, hơi thở hổn hển một hồi, sau đó nằm ngửa ra tắt thở.
- Mau đuổi theo Công Mạnh Trập!
Khánh Kỵ lớn tiếng ra lệnh, chạy nhanh đuổi về phía trước, đám người Tề Báo hãy còn ngớ người ra theo dõi trận chiến không kịp tung hô, được Khánh Kỵ nhắc nhở, vội vàng theo sau đuổi đến, lúc đi ngang xác chết của Ngao Thế Kỳ, vì kính trọng hắn anh dũng, không một ai dẫm đạp lên xác hắn.
Khánh Kỵ và mọi người tăng tốc đuổi theo sau Công Mạnh Trập, Công Mạnh Trập ngồi trên kiệu, tốc độ không kém người dồn sức chạy nhanh, bốn võ sĩ khiêng kiệu lúc mệt lập tức có người thay vào, Liễu Trường Sinh một tay cầm cung, một tay nâng kiệu, liên tục hối thúc tất cả tăng tốc. Đi dọc theo bờ hồ, phía trước cửa Tây cung thành đã đập vào tầm mắt, Liễu Trường Sinh mừng rơn.
Các võ sĩ càng đi nhanh hơn, điên cuồng lao đến dưới tường thành, đám người Khánh Kỵ vẫn còn một khoảng cách khá xa. Liễu Trường Sinh cất cao giọng:
- Mau mau đưa cầu treo xuống, mau đưa cầu treo xuống, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ làm loạn, Công Mạnh Trập đại nhân phải vào cung gặp quốc vương.
Ai ngờ bên kia con hào ngăn cách, bốn tên lính cầm mâu đứng canh gác cứ như bỏ ngoài tai không thèm lên tiếng. Công Mạnh Trập thấy vậy tức giận, bước xuống kiệu hét lớn:
- Mấy tên khốn này, không nhìn thấy bổn đại phu sao hả?
Hắn giơ cao ấn soái đại tướng quân ra trước mặt, tiếp lời:
- Ta là huynh trưởng của quốc vương Công Mạnh Trập, sao các ngươi còn chưa thả cầu treo xuống.
“Ha ha ha ha…” trên tường thành chợt một giọng cười vang đến, Công Mạnh Trập ngước mắt nhìn lên, chỉ thấy một kẻ đang đứng trên tường thành ung dung ngước nhìn xuống dưới, chính là Công Tử Triều. Trong lòng Công Mạnh Trập chợt cảm thấy một niềm bất an, cung thành là nơi ở của quốc vương, Công Tử Triều nếu đoạt được đại quyền chỉ huy đám vệ sĩ trong cung, trừ khi khống chế được Vệ hầu Cơ Nguyên trước, Công Mạnh Trập không tin hắn có bản lĩnh đó, vẫn ôm hy vọng hỏi lớn:
- Tử Triều sao ngươi dám leo lên tường thành hoàng cung? Mau thả cầu treo xuống, lão phu phải vào cung kiến giá.
- Kiến giá thì không cần đâu, đại nhân đã đến đây, xin để lại một món đồ rồi hãy đi.
- Món đồ gì?
Công Mạnh Trập biết có gì không ổn, thu ấn soái lại.
- Tất nhiên là…cái đầu trên cổ lão tặc nhà ngươi.
Vừa dứt lời, thân hình Công Tử Triều lui lại một chút, sao đó một mũi tên lộ ra ngoài, bắn về phía Công Mạnh Trập.
- Chúa công cẩn thận!
Liễu Trường Sinh không cứu viện kịp, trong lúc nguy cấp dùng hết sức nâng kiệu ném qua, mũi tên cắm phập xuyên qua ghế ngồi, hãy còn lắc lư không dừng. Công Mạnh Trập lồm cồm bò dậy, sắc mặt sợ hãi, hắn một chân tàn phế, ghét nhất bị người ta nhìn thấy bộ dạng đó, giờ dáng đi khập khiễng bị tất cả mọi người nhìn thấy hết, lại còn bị hất ngã ra đất nữa, thật không còn mặt mũi nào. Tức giận hét lớn:
- Giết tên tiểu tặc Công Tử Triều cho ta!
Sự thể đến nước này, dù cho là hắn hay các gia tướng dưới trướng đều biết là phen này chết chắc, nhưng trước lúc chết, Công Mạnh Trập muốn bắn chết Công Tử Triều để hả cơn oán giận này.
Đến bước đường này, Liễu Trường Sinh cũng bình tĩnh lại, với sức của hắn, đã không còn cách nào bảo vệ an toàn cho chúa công, giờ đây hắn chỉ còn cách giữ lời hứa chết cùng chúa công thôi. Nghe chúa công ra lệnh, Liễu Trường Sinh bình tĩnh giương cung lắp tên, động tác vô cùng nhanh chóng, giơ tay đã bắn mũi tên ra, Công Tử Triều thấy hắn giương cung vội bước lùi lại, nhưng Liễu Trường Sinh bắn tên rất nhanh, mũi tên xuyên qua giáp trụ trên đầu, bắn bật giáp trụ xuống đất, Công Tử Triều thất kinh hồn vía.
Công Tử Triều tức giận giương cung lắp tên, nhưng không ngờ Liễu Trường Sinh bên dưới đã lắp tên trước hắn, tốc độ nhanh hơn hắn ba phần. Công Tử Triều thấy thế lớn tiếng chửi rủa:
- Tên vô sỉ, không cho người ta bắn trả sao?
Liễu Trường Sinh nghe vậy, dừng lại không bắn mũi tên ra, thần sắc lạnh lùng:
- Mời bắn!
Công Tử Triều cười lớn, ra lệnh:
- Phóng tiễn!
Trên tường thành hàng trăm cung thủ giương cung ra, mưa tên vù vù bắn về phía dưới.
- Thật vô sỉ!
Liễu Trường Sinh tức giận hét lên, vội lao về phía Công Mạnh Trập lấy thân mình che chắn cho hắn, mưa tên qua đi, đám gia tướng của Công Mạnh Trập dưới thành đã chết hết hơn một nửa. Tề Báo, Khánh Kỵ đuổi đến nơi, chỉ thấy xác nằm la liệt, Liễu Trường Sinh nằm sấp trước kiệu, trên người bị năm sáu mũi tên bắn trúng, đã tắt thở từ lâu.
Công Mạnh Trập định thần lại mở mắt ra, thấy mình không bị suy suyễn gì, lập tức đẩy cái xác Liễu Trường Sinh che chắn cho mình ra, khập khiễng bước cao bước thấp men theo ngự hà chạy trốn. Đến lúc này rồi, hắn còn trốn được đi đâu nữa chứ, chỉ là Công Mạnh Trập nắm binh quyền trong tay bao lâu nay, nhưng lại là tên công tử sống trong nhung lụa, trước giờ chỉ có hắn giết người, chưa từng bị người khác đuổi giết. Hôm nay huyết chiến, chỉ là tinh thần cảm tử của đám thuộc hạ trung thành, còn hắn đã sớm hồn siêu phách lạc, trong lúc nguy nan, giờ chỉ mong một mình trốn đi giữ lấy tính mạng, không quan tâm mạng sống của đám thuộc hạ trung thành nữa, cũng mặc kệ bộ dạng lủi thủi ấy bị người khác nhìn thấy.
Lại một trận mưa tên bắn xuống, thấy truy binh của Tề Báo đến nơi, Công Tử Triều lập tức xuống thành, dặn dò mở cửa thành ra đón tiếp, bản thân đeo cung tên đi trước bước ra ngoài. Công Mạnh Trập đi được mười mấy bước chân, thấy một người chắn ngang trước mặt, người này ánh mắt căm giận, khinh bỉ pha chút thương hại đang lạnh lùng nhìn vào hắn, chính là tên thần bí bị nhốt vào thủy lao, Công Mạnh Trập bước lùi hai bước, giọng run rẩy:
- Lão phu…lão phu là anh của quốc vương, các ngươi không được giết ta.
- Anh của quốc vương không phải chết, người khác thì phải chết à?
Khánh Kỵ lạnh lùng cất tiếng:
- Công Mạnh Trập đại nhân, chết sớm chết trễ, đời người ai cũng phải chết, chết có chút khí tiết lên, đừng để các tráng sĩ trung thành của ngươi chết không nhắm mắt.
- Các ngươi muốn gì cứ lấy đi hết, xin đừng giết ta, xin đừng giết ta!
Công Mạnh Trập lại lao về phía cửa thành hoàng cung, hắn nghĩ thân mình tôn quý, không rẻ mạt như đám gia tướng kia, nhiều đôi mắt nhìn vào chắc chúng cũng nể nang không dám ra tay sát hại, chỉ cần bọn họ không phản cả vua, hắn vẫn còn cơ hội giữ được mạng sống.
Khánh Kỵ nhìn dáng vẻ khập khiễng của hắn, lạnh lùng lắc đầu, Công Tử Triều thả cầu treo xuống bước ra, giương cung lắp tên, hét to với Công Mạnh Trập:
- Mạnh Trập đại nhân, ngươi cậy quyền ỷ thế, định đuổi cùng giết tận người khác, có từng nghĩ đến bản thân cũng có kết cục như hôm nay.
Công Mạnh Trập cúi đầu bỏ chạy, thấy có người lên tiếng hỏi ngước mặt lên, thấy Công Tử Triều chặn ngay trước mặt, một tay cầm cung, tay kia kéo mạnh dây cung.
“Hự!” Công Mạnh Trập hai mắt lòi ra, giơ tay nắm lấy cổ họng, mũi tên đã bắn xuyên qua cổ họng hắn, trong lòng Công Mạnh Trập đã tắt hy vọng sống sót, hắn quỳ mọp dưới đất, đầu rũ xuống, tắt thở.
Công Mạnh Trập vừa chết, đám người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ như trút được tảng đá lớn trong lòng, nhưng một vấn đề khác lại lập tức nổi lên, là phải làm thế nào đi ăn nói với Vệ hầu Cơ Nguyên.
Công Tử Triều vừa quay qua định hỏi Khánh Kỵ, Khánh Kỵ đã chắp tay nói:
- Tử Triều huynh, Tề đại phu, Bắc Cung đại phu, mời phái một viên Đại tướng, mang theo ấn tín Công Mạnh Trập, theo Khánh Kỵ đi Thanh Ngõa Quan một chuyến, nếu hai bên vẫn đang giao chiến khốc liệt, có thể ngăn lại tức thì.
- Công tử nói phải lắm, Mạnh Trập đã chết, chiến sự Thanh Ngõa Quan nên lập tức bình ổn! Để lão phu phái người đi với công tử vậy.
Tề Báo dứt lời, cúi xuống nhặt ấn tín của Công Mạnh Trập lên, quay đầu lại nói:
- A Bố, ngươi cầm ấn tín đại tướng quân này, theo Khánh Kỵ công tử đến Thanh Ngõa Quan, quản thúc quân đội, chấm dứt cuộc chiến.
Tề Báo ra lệnh như thế, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều cả hai đều không vui, nhưng lần này phản kích thành công Công Mạnh Trập, Tề Báo góp sức nhiều nhất, hơn nữa bây giờ chỉ là giết được Công Mạnh Trập, vẫn còn một đống chuyện rắc rối cần xử lí tiếp theo, cần ba người hết sức hợp tác với nhau, nên hai người đều nín nhịn cơn giận trong lòng, không biểu lộ ra ngoài.
A Bố là tâm phúc của Tề Báo, Tề Báo kéo hắn sang một bên, âm thầm ặn dò, A Bố đón lấy ấn tín cầm trước ngực, chắp tay nhận lệnh. Công Tử Triều thầm cảm thấy tiếc nuối, hắn đã tiếp quản vệ sĩ trong cung và trên thành, nếu như sớm ra tay giựt lấy ấn tín của Công Mạnh Trập trước, nói không chừng năm ngàn người ngựa được Công Mạnh Trập điều động tới đã được thuộc về hắn rồi, lúc đó thực lực của hắn tăng lên nhiều, giờ đây để Tề Báo đoạt lấy trước, hắn chỉ có thể làm ra vẻ không có gì mà thôi, bèn cười với Khánh Kỵ nói:
- Công tử lo cho thuộc hạ, giờ hãy đi mau. Chúng ta đón quốc quân hồi cung xong, đợi công tử về thành mới mở tiệc mừng công.
- Như thế rất tốt, Khánh Kỵ đi đây.
Khánh Kỵ thờ ơ đứng trông thái độ đó đã nhìn ra tâm ý của họ, lúc này hắn đang lo lắng cho thuộc hạ của mình ở Thanh Ngõa Quan, nên làm như không biết gì. Công Tử Triều ra lệnh xuống dưới, không lâu sau trong thành chạy ra một chiếc chiến xa do bốn con ngựa tốt kéo, Khánh Kỵ và A Bố thêm hai thị vệ nữa nhảy lên xe, phóng như bay về phía thành Đông.
Khánh Kỵ vừa đi khỏi, ba người Tế Báo túm tụm bàn bạc làm sao ăn nói khi tiếp đón Vệ hầu hồi cung. Công Tử Triều chớp chớp đôi mắt, mỉm cười nói:
- Công Mạnh Trập đã chết, mối đe dọa của chúng ta tiêu tan, đón quốc quân hồi cung, phải ăn nói ra sao còn phải bàn bạc kĩ lưỡng, như vậy đi, chúng ta chi bằng cùng vào cung một chuyến, đi gặp quân phu nhân trước, xin ý kiến của quân phu nhân, thế nào?
Tề Báo cười cười, đáp:
- Quân phu nhân là em gái Tử Triều, Tử Triều cứ đi một mình, có những chuyện nói ra thỏa đáng hơn. Giờ đuổi giết Công Mạnh Trập gấp gáp, trong phủ hắn còn chưa thu dọn, lão phu xin đi lo liệu, tránh xảy ra chuyện gì rắc rối khác nữa.
Bắc Cung Hỉ vốn muốn vào cung, nhưng giờ được Tề Báo nhắc nhở, vội nói:
- Đúng vậy, Tử Triều cứ hỏi ý kiến quân phu nhân trước coi sao, rồi chúng ta mới bàn bạc cách làm thế nào đón tiếp quốc quân khi quay về. Mão và Tề đại phu, xin đi thu dọn bên phủ Công Mạnh Trập trước là hay nhất.
Công Tử Triều như sớm biết bọn họ sẽ trả lời như vậy, tươi cười hớn hở thần sắc bình thường nói:
- Cũng được, vậy Tử Triều xin phép vào cung hỏi ý kiến của quân phu nhân đây, hai vị đại nhân, mời.
Tề Báo và Bắc Cung Hỉ cùng chắp tay, tự dẫn theo người của mình quay về hướng phủ đệ của Công Mạnh Trập. Công Tử Triều quay lại nhìn đám gia tướng của Công Mạnh Trập bị người của mình bắt giữ, thở dài ngao ngán:
- Thu dọn xác chết đi, những người khác hãy tạm thời giam giữ lại, băng bó cho người bị thương, còn nữa, không được nhục mạ di thể của Mạnh Trập đại phu, cứ đặt yên đó đã, đợi sau này hẵng xử lí.
Đám thuộc hạ vâng dạ lo liệu ngay, Công Tử Triều phất tay áo một cái, liền đi vào cung đến gặp Nam Tử.
Nam Tử đang đi qua đi lại một mình trong tẩm cung của mình, tâm thần không yên, cuộc tranh đấu ngoài cung, không phải một cô gái như nàng có thể can dự vào được, tuy sai người không ngừng thông báo tin tức, nhưng đi lại phải mất thời gian, hơn nữa chưa chắc lên được tường thành, lấy được thông tin sát thực nhất, nàng cũng không biết Công Tử Triều giờ thắng hay thua, trong lúc lo lắng, tâm thần bất định là lẽ đương nhiên.
Chính vào lúc này, thái giám bên ngoài cao giọng thông báo:
- Tử Triều cầu kiến!
- Mau, mau gọi vào đây!
Nam Tử phấn chấn tinh thần, vừa định chạy ra tiếp đón, đi được vài bước lại do dự, quay về ghế ngồi, còn thả tấm rèm che xuống nữa.
Công Tử Triều đi vội vào điện, vừa thấy Nam Tử ngồi ngay ngắn bên trong, tấm rèm vừa được buông xuống, bất chợt hiểu ý mỉm cười. Hắn xua tay cho các thái giám cung nữ lui ra, vui mừng thông báo:
- Nam Tử, Công Mạnh Trập đã chịu chết, chúng ta thành công rồi.
Nam Tử ở phía sau tấm rèm im lặng không lên tiếng, một lúc sau mới thổn thức:
- Tranh đoạt chính trị làm nảy sinh binh đao, từ nay nước Vệ không còn ngày tháng yên ổn.
Công Tử Triều ha hả cười to:
- Thiên hạ chỗ nào cũng vậy, nước Vệ cũng không ngoại lệ đâu? Nam Tử, muội yên tâm, chỉ cần quyền lớn nằm trong tay chúng ta, mặc cho phong ba bão táp lớn thế nào đi chăng nữa, chúng ta cũng vững vàng như núi. Giờ huynh đến gặp muội, có chuyện này muốn bàn bạc với muội, hôm nay khởi binh phản kích Công Mạnh Trập, chỉ là hành động nhất thời lúc ngay ngập, rất nhiều chuyện cũng chưa suy nghĩ chu đáo chuẩn bị tỉ mỉ, Giờ đây Công Mạnh Trập đã chết, nhưng quốc quân còn đang ở phủ Chử Sư Phổ, bước tiếp theo chúng ta nên làm thế nào?
Nam Tử lạnh nhạt nói:
- Huynh xưa nay túc trí đa mưu, sao mà không nghĩ ra cách gì? Ây, chỉ là cho dù huynh làm tốt đến mấy, phen này cũng đều bị quốc quân ôm hận trong lòng rồi đó.
Công Tử Triều cười ngạo mạn:
- Nay đã khác xưa rồi, hắn cũng chỉ dám ôm hận mà thôi, còn làm được gì nào?
Nam Tử im lặng giây lát, lên tiếng:
- Công Mạnh Trập là anh ruột của quốc quân, địa vị tôn quý, giờ đây huynh chưa được lệnh vua mà giết chết, phải nói ra lí do nghe sao cho hợp lí mới được.
Công Tử Triều chăm chú lắng nghe, nói:
- Huynh hiểu rõ mà, muội không có ý kiến gì khác, huynh đi bàn bạc cách vẹn toàn với đám người Tề Báo đây, rồi mới cung thỉnh quốc quân hồi cung.
Nam Tử rầu rĩ thở dài:
- Cách vẹn toàn ư? Ở đâu ra cách vẹn toàn chứ?
Công Mạnh Triều quay lưng định bước ra ngoài, Nam Tử chợt gọi lại:
- Khoan đã, hãy còn một việc.
Công Tử Triều ngoảnh mặt lại nói:
- Muội nói đi, còn việc gì nữa?
Nam Tử cắn răng, trừng đôi mắt đen láy, hỏi:
- Giờ Công Mạnh Trập đã chết, huynh có định theo thỏa thuận giúp đỡ cho Khánh Kỵ?
Công Mạnh Triều chớp mắt, không đáp mà hỏi ngược lại:
- Muội nói như vậy là có ý gì?
- Khánh Kỵ ở Vệ quốc, một mình chiếm một thành, dẫn đội quân riêng của mình, như con hổ dữ.
Công Tử Triều cười khoan thai:
- Vậy thì đã sao? Muội và ta đang ở Vệ quốc, trên có Vệ quân, các triều thần cũng chưa chắc một lòng với chúng ta, Khánh Kỵ dũng mãnh có một không hai trên đời, hắn nếu như phục quốc, chúng ta có ơn lớn với hắn, lúc đó nước Ngô chẳng trở thành hậu thuẫn lớn cho ta sao, có gì là không tốt chứ?
Nam Tử cười lạnh lùng:
- Nếu cuộc chiến phục quốc của hắn lại thất bại lần nữa thì sao? Con người này mang nặng dã tâm, chịu suốt đời làm chức quan nhỏ ở Ngải Thành của nước Vệ ta sao? Huynh sao biết được hắn thua trận sẽ không toan tính âm mưu khác, làm chuyện gì bất lợi cho huynh?
Ánh mắt Công Tử Triều đột nhiên sắc lạnh, sắc mặt đanh lại, lấy tay che miệng, ho nhẹ vài tiếng, cười nói:
- Nam Tử, muội lo lắng thái quá rồi, nếu có ngày đó, đất trời rộng lớn không còn chỗ cho hắn dung thân, lúc đó hắn không thần phục chúng ta, còn nhờ cậy ai được? Khánh Kỵ nếu đánh thua, con mãnh hổ này sẽ thuộc về chúng ta sử dụng, lúc đó ai muốn chống lại, cũng e sợ Khánh Kỵ mấy phần. Đó là cơ hội tốt mà, muội đâu cần lo nghĩ đến vậy.
- Hây, huynh không bao giờ chịu nghe lời khuyên của muội…
Nam Tử than thở, lại nói tiếp:
- Nếu theo ý muội, giờ đại cuộc đã định, không cần dùng đến hắn nữa, chúng ta đâu cần thiết mạo hiểm, chi bằng huynh dụ hắn vào cung, mai phục binh lính giết chết hắn, làm như vậy lại đẩy hết tất cả tội danh giết Công Mạnh Trập lên người hắn, huynh lại được Vệ hầu tin tưởng trọng dụng, lúc đó thay thế vị trí của Công Mạnh Trập thì dễ dàng hơn nhiều.
Công Tử Triều nghe nói vậy không khỏi động lòng, nhưng suy nghĩ kĩ lại, liền lập tức dẹp bỏ ý định này. Giờ đây tuy Công Mạnh Trập đã chết nhưng xét về thực lực, Tề Báo và Bắc Cung Hỉ vẫn mạnh hơn hắn nhiều, hắn có gì chứ? Ngoài quan hệ với một bằng hữu liên minh và được sự chiếu cố của quân phu nhân trong cung ra, hắn không còn gì cả, vừa không có binh mã, lại không có đất đai, trước mắt tuy là nắm được vệ binh trong cung và trên thành, nhưng lực lượng trong tay quá yếu, thực sự nắm giữ đội quân này bắt chúng phục vụ còn phải mất một thời gian dài. Nếu làm theo lời Nam Tử, hắn mất đi một trợ thủ, đến lúc đó, hắn chỉ làm một tên nô lệ trước mặt Vệ hầu, đâu có con đường nào chọn lựa nữa? Chi bằng cứ theo kế hoạch riêng của mình thì hơn…
Nghĩ đến đó, Công Tử Triều bèn chắc nịch:
- Đại trượng phu đã nói ra, sao lại không giữ lời hứa được? Nam Tử, muội muốn huynh làm người bất nghĩa ư? Hơn nữa trợ giúp Khánh Kỵ, lúc huynh và Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phổ lập ước, đã từng thề trước quỷ thần, giờ mà bội ước, chẳng phải bị ông trời trách phạt sao?
Người thời đó rất là tin vào quỷ thần, lấy chuyện thề thốt ra nói bừa chẳng có mấy ai dám, Nam Tử nghe hắn nói đã thề trước quỷ thần thì không tiện khuyên nhủ nữa, hơn nữa nghe hắn nói trọng chữ tín như vậy trong lòng cũng thấy vui vui. Đối với tên đàn ông vừa yêu vừa hận này, cho dù là Nam Tử túc trí đa mưu, cũng đành chịu đầu hàng, bèn nói:
- Thôi vậy, nhưng lòng hãm hại người khác có thể không có nhưng lòng đề phòng người khác không được buông lơi. Công Mạnh Trập chính là tấm gương đó, huynh không được dung túng cho con mãnh hổ nhe nanh sắc nhọn bên cạnh mình được. Huynh muốn giúp hắn, cũng không phải không được, thế nhưng chuyện lương thảo trang bị huynh phải nắm lấy, không được tùy ý là cho người ta. Khánh Kỵ chiêu binh không phải không được, nhưng phải lấy lí do tránh thanh niên trai tráng nước Vệ tòng quân bỏ bê đồng áng, hạn chế quân số của hắn, làm vậy kiềm chế về binh lực lương thảo của hắn, thế mới an toàn.
Công tử Triều nghe xong vui mừng ra mặt, vội khen:
- Nam Tử quả nhiên thông minh, chủ ý này của muội rất hay, chỉ là…huynh lại không tiện ra mặt chủ động xin nhận lệnh này, đến lúc đó xin quân phu nhân ra mặt ủy thác mệnh lệnh thì tốt hơn.
Nam Tử hứ nhẹ một tiếng:
- Đã đến nước này, muội không giúp huynh có được không?
Công Tử Triều cười ha hả:
- Việc này không nên chậm trễ, huynh đi đến phủ Công Mạnh Trập gặp Tề Báo, Bắc Cung Hỉ bàn chuyện đón tiếp quốc quân hồi cung đây, Nam Tử…, Ây! Thật hy vọng muội và ta cứ như trước đây còn ở Tống quốc, ngắm hoa dưới ánh trăng… Hãy chờ đó, giờ đây huynh đã khống chế cung vệ, thành vệ, đợi huynh gầy dựng quyền lực vững vàng xong, cung thành này có cao đến mấy cũng không ngăn cách được chúng ta đâu.
Nam Tử ngồi trên cao, hai tay nắm chặt xúc động, bên ngoài tấm rèm tiếng bước chân từ từ đi xa, qua giây lát, Nam Tử vén nhẹ tấm rèm lên, để lộ khuôn mặt xinh xắn mịn màng, như đóa hồng hạnh thẹn thùng trước gió, lay động trên cành giữa nắng mùa xuân, đôi mắt tình tứ ngước trông theo bóng người đã đi xa.
Khánh Kỵ vội đến Thanh Ngõa Quan, cùng A Bố cầm ấn tín đại tướng quân xông vào, tiếp quản mọi thứ quân vụ, sau đó dẫn một đội quân ra khỏi quan, Lương Hổ Tử đã sắp xếp người theo dõi quan binh trong quan tiếp ứng Vương Bình, cửa quan vừa mở họ đã nhìn thấy, may là Khánh Kỵ đi ở phía trước, tướng lĩnh dẫn quân trên núi tất nhiên nhận ra công tử nhà mình, vừa thấy Khánh Kỵ, lập tức xuống núi tiếp đón, hai bên gặp mặt, Khánh Kỵ nói rõ đầu đuôi sự tình, mời A Bố tiến lên nói chuyện.
A Bố trước lúc lên đường đã nhận mật lệnh của Tề Báo, vừa có ý định tiếp quản đội quân này, nghe vậy không chút do dự, lập tức dẫn dắt quân trấn giữ trong quan tiến ra, một tay cầm kiếm, tay kia nâng cao ấn tín đại tướng quân lớn tiếng ra lệnh. Quân của Vương Bình không phát huy được sức chiến đấu, lại bị Lương Hổ Tử chiếm ưu thế địa lí, lúc này bị đẩy lùi về cốc khẩu.
Các binh sĩ mặc quân phục Vệ quốc đồng thanh hét lớn mệnh lệnh đại tướng quân, lập tức tạo cơn huyên náo trong quân của Vương Bình, rất nhiều binh sĩ nhìn mặt nhau, hoàn toàn không còn tinh thần chiến đấu, Vương Bình thấy tình thế này, biết tất cả đã được sắp đặt, ấn tín đại tướng quân rơi vào đám người này, nói rõ Công Mạnh Trập đã tiêu đời, lúc này đánh tiếp cũng không còn ý nghĩa, Vương Bình thở dài, chỉ còn cách hạ lệnh ngưng chiến.
Tên A Bố kia được Tề Báo giao phó nhiệm vụ quan trọng như vậy, quả nhiên hắn cũng là một dũng sĩ, hắn quát bảo quân sĩ bên mình ngưng lại, một mình một ngựa đi về phía đại quân của Vương Bình, trên tay cầm chặt ấn tín thanh đồng, quân của Vương Bình thấy hắn chỉ đến một mình, không ai ngăn cản, A Bố để lính dẫn đến trước mặt Vương Bình, đối mặt với vị tướng quân chức vụ lớn hơn hắn không biết bao nhiêu bậc này, cất tiếng lanh lảnh:
- Công Mạnh Trập muốn làm phản, lệnh cho tướng quân dẫn quân về Đế Khâu. Nay Công Mạnh Trập đã bị tiêu diệt, tề Báo đại phu lệnh ta đến đây thông báo tướng quân, cứ đóng quân ở đây, đợi mệnh lệnh sau!
Quân đội của Vương Bình im lặng, ánh mắt của tất cả binh lính đều nhìn về phái Vương Bình, sống hay là chết, chết để báo đền ân đức tri ngộ của Công Mạnh Trập, hay là nương theo thời thế, đầu hàng môn hạ Tề Báo, Vương Bình nhất thời phân vân không biết quyết định thế nào.
Các tướng lĩnh dưới trướng Vương Bình sắc mặt thay đổi, A Bố đang đứng giữa lòng quân Vương Bình, giờ chỉ cần Vương Bình hạ lệnh một tiếng, các thân binh lập tức ùa lên phanh thây A Bố, nhưng thấy A Bố vẻ mặt ung dung, tay cầm ấn tín không hề cử động.
Sau một lúc lâu, Vương Bình thần sắc chuyển động, từ từ thở ra một hơi dài, buông lơi thanh kiếm dưới lưng, bước về phía trước, đến trước mặt A Bố, gập người quỳ xuống, chắp tay theo nghi lễ quân đội một cách trang trọng:
- Vương Bình xin tuân lệnh Tề đại phu.
Các tướng lĩnh dưới trướng Vương Bình đều thở phào nhẹ nhỏm, vẻ mặt nghiêm nghị của A Bố giờ cũng giãn ra để lộ nụ cười:
- Tốt, A Bố sẽ bẩm báo lại đúng sự thật, Vương tướng quân cứ hạ trại gần đây, lương thảo Tề đại phu đã dặn dò phía Thanh Ngõa Quan cung cấp, tướng quân cứ phái người đến lấy, tin là chỉ hai ba ngày sau, Đế Khâu sẽ có quân lệnh ban ra đưa tới đây.
- Vương Bình tuân lệnh!
Lúc này Khánh Kỵ đã hội hợp với đám người Lương Hổ Tử, A Cừu, Tái Cừu. Vừa nhìn thấy Khánh Kỵ, Lương Hổ Tử đã tiến tới trước mặt hành lễ, Khánh Kỵ đỡ lấy vai hắn, thấy hắn mình đầy máu me, vội vàng hỏi thăm:
- Quân ta thương vong thế nào rồi?
Lương Hổ Tử cũng cùng lúc cất tiếng hỏi:
- Công tử, đại sự ở Đế Khâu thế nào?
- Công tử!
Hai anh em A Cừu, Tái Cừu tinh thần phấn chấn, sau trận đại chiến hãy còn sung sức, chạy đến bên Khánh Kỵ lớn tiếng kêu lên.
Khánh Kỵ gật đầu cười đáp lễ với họ, lại nói với Lương Hổ Tử:
- Bên Đế Khâu mọi việc đều như ý, Công Mạnh Trập đã chịu chết, ở đây thế nào rồi?
Lương Hổ Tử nghe vậy ha hả cười to:
- Ha ha, công tử yên tâm, người Vệ giỏi xa chiến, chiến đấu trong rừng không phải thế mạnh của họ, chúng ta lại chiếm lấy ưu thế địa lí, ung dung đợi quân địch đến đánh, đánh cho chúng thua chạy tan tác. Về phía chúng ta, tình hình cụ thể chưa được báo cáo, nhưng người của chúng ta tổn thất không nhiều.
Khánh Kỵ vui mừng:
- Thế thì tốt, chỗ này không phải là chỗ để nói chuyện, nào nào, mau khiêng hết các huynh đệ bị thương của chúng ta vào trong quan băng bó trị thương, tất cả huynh đệ đều nghỉ ngơi trong quan.
- Dạ! Không nghe thấy mệnh lệnh của công tử sao? Mau đi tập hợp người ngựa, tất cả vào quan nghỉ ngơi.
Lương Hổ Tử quay đầu hét lên với A Cừu, Tái Cừu, hai anh em họ nhận lệnh lui xuống. Lương Hổ Tử đứng cạnh Khánh Kỵ bên đường, nhìn người ngựa của mình đi ngang, các huynh đệ bị thương đều được khiêng vào trong quan trước, các quân sĩ tử trận thì được chôn cất ngay trong rừng.
- Ôi! Vẫn biết là “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” (để làm nên chiến công của một vị tướng có hàng vạn binh sĩ hy sinh), nhưng mỗi khi nhìn thấy các huynh đệ tốt vẫn nói cười ngày nào nay đã biến thành cái xác vô tri vô giác, trong lòng không khỏi nhói đau.
Khánh Kỵ nức nở.
Bên ngoài cốc gió mạnh thổi vù vù, làm mái tóc dài phía sau lưng của Khánh Kỵ bù xù cả lên.
Lương Hổ Tử khắp người hào khí, khẳng khái:
- Công tử không cần sầu cảm, sống trên đời ai mà không phải chết? Chết oanh liệt như thế còn mong gì hơn. Chỉ cần công tử quang phục Ngô quốc, bước lên ngôi vua, thì máu các huynh đệ đây không uổng phí. Bên Đế Khâu Công Mạnh Trập chết là tốt rồi, không uổng công các huynh đệ chiến đấu ở đây, sau này chuyện chúng ta khỏi vướng tay vướng chân rồi.
Khánh Kỵ mỉm cười:
- Vậy thì chưa chắc, nói không chừng còn phát sinh sóng gió khác.
Lương Hổ Tử ngớ mặt ra:
- Sao? Chẳng lẽ…Bọn họ nuốt lời à?
Khánh Kỵ nói:
- Nuốt lời thì chưa chắc, thế nhưng muốn họ thật lòng ra sức giúp đỡ chúng ta, thì không dễ dàng thoải mái thực hiện được đâu.
Khánh Kỵ vỗ vai Lương Hổ Tử:
- Đi nào, chúng ta vào quan trước, mua chút rượu thịt uống say thỏa thích cùng các huynh đệ, sau đó các ngươi cứ nghỉ ngơi trong đó, đợi khi ta có lệnh mới về Ngải Thành, ta còn phải quay về Đế Khâu có việc.
Khánh Kỵ hít một hơi dài, đôi mắt oai phong lẫm liệt, nói:
- Lúc này chính là lúc bọn Công Tử Triều, Tề Báo phân chia quyền lợi đây, chúng ta bỏ ra đáng nhận vào cũng phải bắt họ chi trả đầy đủ, thế mới không uổng công các huynh đệ đã hy sinh.
Khánh Kỵ nghỉ lại một đêm ở Thanh Ngõa Quan, sắp xếp yên ổn quân sĩ xong, trước mặt Lương Hổ Tử hắn lộ vẻ yếu đuối, trước mặt các quân sĩ hắn không hề bộc lộ vẻ nhân từ. Thân làm tướng lĩnh, có thể quan tâm binh lính nhưng không được mất đi vẻ nghiêm nghị, càng không được rơi nước mắt. Có câu nhân từ không thích hợp việc binh đao, một tướng lĩnh quá nhân từ trong việc dùng binh, có thề các binh sĩ tướng lĩnh dưới trướng cảm thấy hắn lương thiện, nhưng oai phong uy tín của hắn cũng theo đó tan biến, làm như vậy là một hành động nguy hiểm.
A Bố cả ngày bám theo Vương Bình nhìn hắn chỉnh đốn binh mã, hắn đương nhiên không thể vì vài câu nói phục tùng của Vương Bình mà tin theo. Vương Bình không nhận thêm lệnh mới, e cũng không chịu nán lại đợi lệnh ở Thanh Ngõa Quan lâu hơn. Đợi sau khi Vương Bình thu dọn tàn quân đến hạ trại bên bờ sông ngoài sơn cốc xong, A Bố mời Vương Bình vào trong lều nói chuyện, hai người nói hết ba nén nhang, Vương Bình vẻ mặt vốn âm u nay hớn hở bước ra, lại triệu tập các tướng cùng vào nói chuyện với A Bố. Đội quân nhận lệnh đến Đế Khâu truy sát Tề Báo, Bắc Cung Hỉ nay lại trở thành đội quân tận trung với Tề Báo. Đến hoàng hôn, hai bên đã cụng ly thân thiết như người một nhà, nói cười vui vẻ với nhau.
Hôm sau, A Bố hớn hở sau khi hoàn thành sứ mệnh cùng Khánh Kỵ đi xe về thành. Lúc này chính trị trong thành Đế Khâu chưa ổn định, vẫn còn canh phòng nghiêm ngặt, cầu treo đưa cao, tường thành lính canh qua lại không ngớt, A Bố hét to thông báo, lại treo tín vật của mình đưa lên, độ khoảng một nén nhang trôi qua, cầu treo mới từ từ hạ xuống, cổng thành rộng mở, đón hai người vào trong.
Chiến xa tiến vào trong thành, đập vào mắt là cả trăm tên lính cầm giáo mác xếp hàng chỉnh tề đứng đó, khí thế dũng mãnh như ngọn núi chắn trước mặt, A Bố hãy còn nghi hoặc, đám lính bỗng cùng lúc tách ra hai bên nhường đường, phía xa Công Tử Triều đang bước xuống từ trên tường thành, tay cầm bảo kiếm, mặt mày hớn hở.
Khánh Kỵ lần này về thành, không mang theo một binh một tốt của mình, thấy Công Tử Triều từ xa, cũng mỉm cười đáp lại rồi nhảy xuống xe, ngang nhiên bước đi giữa hai hàng lính giơ cao ngọn giáo.
- Công tử, mọi việc bên Thanh Ngõa Quan đều tốt đẹp chứ?
- Rất tốt!
Khánh Kỵ cười hô hố:
- Tướng lệnh của Tề Báo đại nhân vừa đến, tướng lĩnh Hoàng Hà Vương Bình biết mọi chuyện đã hết, ngoan ngoãn đầu hàng, giờ đã theo ý Tề đại nhân, hạ trại tại chỗ, đợi Đế Khâu sắp xếp coi sao.
- Ồ, thế thì tốt, ha ha, thế thì tốt.
Công Tử Triều thoáng chút khó chịu nhưng trở lại bình thường ngay lập tức, tay nắm kiếm lướt lên tháo dây đeo ra, hai tay nâng thanh kiếm lên nói:
- Phấn hồng tặng giai nhân, bảo kiếm dâng anh hùng, thanh bảo kiếm này là tịch thu từ phủ đệ Công Mạnh Trập, sắc bén vô cùng, là danh kiếm của Vệ quốc ta, anh hùng trên thế gian, chỉ có công tử Khánh Kỵ là xứng với thanh kiếm này, nay Tử Triều hai tay dâng tặng.
Nói xong Công Tử Triều hai tay dâng thanh bảo kiếm đến trước mặt Khánh Kỵ, Khánh Kỵ mỉm cười:
- Tử Triều đứng đợi ở đây, chỉ vì muốn tặng kiếm cho ta thôi ư?
Tử Triều cười ha hả, ánh mắt quét qua vai Khánh Kỵ, thấy A Bố đang bước tới gần, bèn nhét thanh bảo kiếm vào tay Khánh Kỵ, khoát lấy tay hắn nói:
- Công tử vừa về đến, lát nửa chúng ta lên xe nói chuyện.
Nói xong bỏ tay ra đi về phía A Bố, thăm hỏi qua loa vài câu, A Bố cám ơn xong tự đi gặp Tề Báo phục mệnh.
Hắn mới quay lưng, nét mặt hớn hở của Công Tử Triều lập tức đanh lại, hắn mời Khánh Kỵ lên xe, hai người cùng ngồi một xe quay về. Khánh Kỵ vừa nhảy vào xe đã hỏi ngay:
- Công tử, giờ làm sao giải quyết tốt tình hình Đế Khâu đây?
Công Tử Triều đáp:
- Tử Triều và Tề đại phu, Bắc Cung đại phu, Chử đại phu đã bàn xong kế sách, sáng ngày mai chúng ta sẽ đi gặp quốc quân, tâu rõ tội trạng đáng chết của Công Mạnh Trập, cung thỉnh quốc quân hồi cung chấp chính.
Khánh Kỵ biết ba người đã bước đầu thỏa thuận xong cách phân chia quyền lực, hành động này chỉ là thúc ép vua, để lấy lí do danh chính ngôn thuận cho mình, lại lên tiếng hỏi:
- Giết chết gian thần Công Mạnh Trập, Tử Triều và Tề Báo, Bắc Cung Hỉ ba vị đại nhân có công lao lớn nhất, Vệ hầu hồi cung, chắc sẽ trọng dụng, đến lúc đó, việc của Khánh Kỵ…
Công Tử Triều hiểu ý, cười hi hí đáp:
- Công tử yên tâm, quân tử đã nói ra, sao dám nuốt lời. Tử Triều và Tề đại phu cũng đã bàn bạc chuyện này, hơn nữa còn hết lời thuyết phục, cuối cùng quân phu nhân đã đồng ý, điều kiện chúng ta thỏa thuận trước đây, chắc chắn làm theo đầy đủ, tuyệt đối không đổi ý.
Khánh Kỵ vui mừng:
- Như thế rất tốt.
Công Tử Triều hơi chút do dự, sắc mặt lộ vẻ khó xử:
- Có điều…có chút thay đổi nho nhỏ, rất mong công tử đừng trách.
Trong lòng Khánh Kỵ hơi ngỡ ngàng, nhưng vẫn không để lộ ra, cười mỉm:
- Quốc gia đại sự, vốn phải tùy thời điểm điều chỉnh cho phù hợp, Khánh Kỵ đương nhiên hiểu đạo lí này, không biết có thay đổi gì, Tử Triều cứ nói ra nghe xem.
Công Tử Triều ha ha cười lớn, làm ra vẻ thoải mái nói:
- Thật ra cũng không có gì, công tử binh hùng tướng mạnh, đóng ở nước Vệ ta, quân phu nhân dù sao cũng là nữ nhân, trong lòng khó tránh không yên, ngờ vực lung tung. Tuy Tử Triều đã lựa lời nói giúp, quân phu nhân vẫn không yên lòng được, thế nên…Nàng ta đối với điều kiện của công tử đưa ra, phải thêm chút bảo đảm nho nhỏ, nàng ta mới đồng ý thực hiện.
Công Tử Triều đem chuyện viện trợ lương thảo trang bị, cần phải chia ra cung cấp, còn phái quan viên chuyên trách quản lí, Khánh Kỵ chiêu binh không được tuyển chọn số lượng lớn thanh niên trai tráng của nước Vệ để tránh bỏ hoang ruộng đồng, và các binh lính đầu quân Khánh Kỵ cũng phải được quan viên chuyên trách phê chuẩn mới được từng chuyện từng chuyện nói rõ với Khánh Kỵ.
Vừa nói hắn vừa quan sát vẻ mặt của Khánh Kỵ, ai ngờ Khánh Kỵ không lộ vẻ gì là không vui, nghe đến đâu lại gật gù đến đấy, đợi khi Công Tử Triều nói xong xuôi, Khánh Kỵ mới mỉm cười:
- Thì ra là vậy, cái này ta có thể hiểu được, nếu đổi lại Khánh Kỵ là vua của một nước, cũng không thể phó mặc hoàn toàn cho một đội quân không thuộc quản lí của ta tự do hoạt động trong lãnh thổ của ta được.
Công Tử Triều không nhìn ra thái độ thật sự của Khánh Kỵ, đành cười gượng nói:
- Công tử nói phải lắm, nhưng mà…Công tử có thể yên tâm, Tử Triều nghe sắp xếp của quân phu nhân xong đã đứng ra xin nhận trách nhiệm phụ trách hai việc này. Quân phu nhân không biết ta và công tử giao tình sâu nặng, ta là huynh trưởng nàng ta, có gì mà không tin tưởng chứ, nên đã giao hai việc này cho Tử Triều lo liệu rồi. Tử Triều đã quản lí hai việc này thì, chắc chắn tạo mọi thuận lợi cho công tử hành sự, hai điều kiện kèm theo này, có cũng như không, công tử không cần quá để tâm.
Khánh Kỵ khẽ nhướng mày lên, cười đáp:
- Như thế rất tốt, có Tử Triều huynh đứng ra lo liệu giúp, Khánh Kỵ còn lo lắng gì nữa.
Phân chia lợi ích, vốn cần công bằng, nhưng được nhiều được ít, lại phải xem thực lực. Làm thế nào lấy được phần mình đáng nhận còn phải xem thủ đoạn mỗi bên, chứ không cần nói nhiều làm chi, chỉ trong giây lát đó, trong lòng Khánh Kỵ đã nảy ra một kế hoạch.
Khánh Kỵ cười vẻ uy nghi, câu nói này bề mặt nghe có vẻ khách sáo, Công Tử Triều nghe xong lại run bật trong lòng, có hơi chút lo lắng không yên, cũng không biết tại sao lại như vậy, tuy hắn không biết nói thế nào nhưng cứ có một cảm giác hối hận mất nhiều hơn được sao sao ấy.
Khánh Kỵ nhận lời mời của Công Tử Triều, đến gặp mặt Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phổ, tất cả nâng ly uống thỏa thích, chắc là vì bốn người bọn họ đã thỏa thuận phân chia quyền lực xong, những chuyện không vui được bỏ lại phía sau hết, lại khôi phục không khí hòa thuận lúc mới liên minh, tiệc rượu vui vẻ kết thúc, đám người Tề Báo ngày mai còn phải đến thúc ép Vệ hầu hiện đang bị giam giữ ở phủ Chử Sư Phổ, do đó tiệc tàn khá sớm, Khánh Kỵ cũng được Công Tử Triều đưa lên xe chở về phủ Di Tử Hạ nghỉ ngơi.
Vừa bước vào cửa, Khánh Kỵ đã hỏi lão quản sự:
- Tử Hạ có trong phủ không? Vị cô nương ta dẫn về hôm trước thế nào rồi?
Hôm đó hắn để Di Tử Hạ về phủ trước, đã nói chuyện của Quý Tôn Tiểu Man cho Tử Hạ nghe qua, nhờ Tử Hạ chăm sóc cẩn thận Tiểu Man, chỉ là đừng cho nàng ta bỏ trốn, nhưng cô nương này ranh ma như cáo, hắn sợ Di Tử Hạ tính tình bộc trực không đối phó được nàng ta.
Lão quản sự giờ đây đã biết thân phận thật của hắn, vội khúm núm:
- Chủ nhân đang ở trong phủ, công tử quay về đi uống rượu với Tề đại phu, chủ nhân cũng đã biết, vừa nãy mới đến gặp Tiểu Ngải cô nương báo tin này ấy, lúc này chắc vẫn còn ở đó.
- Ờ, Tiểu Ngải cô nương…nàng ta không gây ra chuyện gì chứ, hay là vẫn còn trói nàng ta lại?
Lão quản sự theo sát sau lưng Khánh Kỵ, tươi cười trả lời:
- Đã là khách quý của công tử dẫn theo, sao dám trói lại ạ, đã trói hai ngày rồi, trói nữa sẽ tiêu đó. Chủ nhân vừa về đến đã cởi trói cho nàng ta rồi ạ, Tiểu Ngải cô nương thấu tình đạt lí, lại dịu dàng biết lễ nghĩa, là một cô nương hiền thục, chưa hề gây ra chuyện ạ.
- Nàng ta..thấu tình đạt lí, dịu dàng biết lễ nghĩa, là một cô nương hiền thục ư?
Khánh Kỵ sém chút cắn phải lưỡi, Quý Tôn Tiểu Man thay đổi tính tình rồi ư? Hay là…Nàng ta thấy Di Tử Hạ khôi ngô tuấn tú, động lòng yêu mến rồi, nên mới giả làm thục nữ trước mặt hắn? Tuổi tác hai người tương đương, đó cũng không phải là việc không thể xảy ra.
Khánh Kỵ suy nghĩ lung tung, đi nhanh về phòng mình, lúc đi qua khu vườn quay đầu lại nhìn thấy lão quản sự thở hổn hển theo phía sau, vội nói:
- Lão quản sự ông đi lo việc của ông đi, bổn công tử giờ không cần ai hầu hạ đâu.
- Dạ, vâng ạ.
Lão quản sự thế mới dừng bước, gật đầu lia lịa.
Khánh Kỵ bước vào đầy cửa phòng ra, gọi to:
- Tử Hạ?
Trong phòng không ai lên tiếng, Khánh Kỵ lập tức đi qua bức bình phong, chỉ thấy trên ghế một người nằm đó, tấm mền che mặt, chỉ lòi đôi chân ra, ngoài ra trong phòng không còn ai khác, đinh ninh rằng:
- Di Tử Hạ lại trói Tiểu Man lại rồi.
Hắn bước về phía ghế nằm, vén mền ra xem chợt giật mình, chỉ thấy Di Tử Hạ mặt mũi sưng vù, hai tay bị trói ngược sau lưng nằm ngây đơ, miệng thì bị nhét một nùi vải, hai mắt mở to nhìn hắn, trông rất thảm hại. Mái tóc bù xù nhìn cũng rất giống một tiểu cô nương.
Khánh Kỵ thấy vậy vừa tức giận vừa tức cười, dậm chân nói:
- Đã bảo huynh phải mang theo võ sĩ bên mình rồi, Ây, rốt cuộc cũng bị nàng ta chơi cho một vố, giờ đây khắp Đế Khâu binh hoang mã loạn, một cô nương nhỏ tuổi như nàng ta lại chạy đi đâu chứ, thật là làm người khác lo lắng.
Vừa nói, Khánh Kỵ vừa lấy nùi vải nhét trong miệng Di Tử Hạ ra, Di Tử Hạ hổn hển hít thở một hồi, la to thất thanh:
- Trên đầu!
- Cái gì?
Khánh Kỵ ngớ người, lập tức tỉnh ngộ, bước chân lùi lại, đưa tay rút kiếm, đồng thời ngước nhìn lên trần nhà, thấy một bóng đen lướt nhanh tới, chợt cảm thấy gió lạnh sau gáy, Khánh Kỵ thúc cùi trỏ về phía sau, cú đánh này không trúng ai, Khánh Kỵ vốn đang đeo hai thanh kiếm, một thanh là Hàm Quang, thanh kia là Thừa Ảnh, hắn vừa nắm được chuôi một thanh kiếm, kiếm kia đã bị bóng đen cướp lấy, tiếp sau đó thanh kiếm kề ngang ngay cổ họng Khánh Kỵ, bên tai tiếng nói đắc ý của Quý Tôn Tiểu Man vang lên:
- Khánh Kỵ ơi là Khánh Kỵ, cuối cùng ngươi cũng rơi vào tay ta, ân hộ tống Tiểu Ngải đã đền đáp, mối nhục trói ta, hôm nay phải trả, thế nào?
Nghe Quý Tôn Tiểu Man nói vậy, Khánh Kỵ không biết nên khóc hay nên cười nữa, lên tiếng:
- Nha đầu thối, vì biết là ngươi nên ta mới không xuất kiếm đả thương ngươi, nếu không ngươi cho là có thể khống chế ta dễ dàng thế ư? Còn không mau bỏ kiếm xuống.
Quý Tôn Tiểu Man dương dương đắc ý:
- Ít huênh hoang lại đi, ngươi rơi vào tay ta đó là sự thật, ai biết là có phải ngươi thật lòng nương tay không chứ?
Khánh Kỵ gầm gừ:
- Thế Tiểu Ngải cô nương muốn trả thù thế nào đây?
- Ngươi đã làm gì ta, giờ ta trả lại thế nấy.
- Ồ?
Khánh Kỵ cười ha hả, vẻ mặt gian trá:
- Giờ đã rơi vào tay nàng, tùy nàng muốn làm gì thì làm vậy, mông ta ở đây, cô nương cứ ra tay đi.
- Hứ! Ai mà thèm đánh mông của ngươi chứ!
Quý Tôn Tiểu Man đỏ mặt tía tai: “Ta muốn…ta muốn…”. Nghĩ kĩ lại, tuy là đã khống chế Khánh Kỵ, nhưng lại chưa nghĩ ra nên trừng trị tội hắn sỉ nhục mình thế nào cho phải.
Di Tử Hạ vẫn nằm trên giường, hai con mắt láo liên qua lại, trong lòng tò mò muốn biết đầu đuôi chuyện ân oán của hai người này sao lại liên quan đến mông đít, chỉ là hắn đã được lãnh giáo tính tình ngang bướng của tiểu mỹ nhân nhìn vẻ nhu mì này rồi, nên tự biết thông minh ngậm miệng không dám lên tiếng nói chen vào.
Khánh Kỵ cười ha hả:
- Nếu như nàng chưa nghĩ ra cách gì, hay là để ta trừng phạt nàng vậy nha.
Khánh Kỵ vừa dứt lời đưa tay ra sau tấn công, nắm lấy cổ tay Quý Tôn Tiểu Man một cách chuẩn xác, đoạn xoay người, tay nắm lại mạnh hơn, Quý Tôn Tiểu Man bị nắm đau, không tự chủ được ngả về trước, làm ra động tác cúi lưng ưỡn mông lên, cứ như là đang mời gọi hắn đánh mình. Khánh Kỵ không cần nể nang vỗ bôm bốp vào mông Tiểu Man, lại tận hưởng cảm giác mềm mại đàn hồi của cái mông đó.
“Bốp!” một tiếng giòn vang, mặt Quý Tôn Tiểu Man bị bàn tay quét qua một cái, đỏ chót từ chóp mũi đến tận mang tai, lần này không như lần trước, trong phòng lúc này đang có mặt người thứ ba, Tiểu Man xấu hổ tức giận hét lên:
- Ngươi…ngươi dám vô lễ với ta lần nữa ư?
Cổ tay Tiểu Man bị Khánh Kỵ nắm giữ, thân người hãy đang chúi về phía trước, Khánh Kỵ cười hô hố khoái trá:
- Đã có lần đầu, sợ gì không tiếp lần hai nào?
Hắn vừa chọc tức vừa đưa tay còn lại lấy lại thanh kiếm còn chưa tuốt vỏ ra trên tay Tiểu Man, nhe răng cười:
- Ai bảo nàng không tuốt kiếm ra khỏi vỏ, chẳng lẽ thanh kiếm kề trên cổ có tuốt vỏ ra chưa mà ta không nhận ra à?
Quý Tôn Tiểu Man tức anh ách nói:
- Nếu không phải ta không muốn giết ngươi, sao lại không tuốt kiếm ra?
Khánh Kỵ cười khảy trêu chọc:
- Không phải chứ? Ta thấy nàng không kịp tuốt kiếm ra thì có.
- Nói bậy, đồ không có lương tâm!
Quý Tôn Tiểu Man bị trêu tức giận dậm chân đùng đùng.
Khánh Kỵ khẽ nhấp vai nói tiếp:
- Ít huênh hoang lại đi, ngươi rơi vào tay ta đó là sự thật, ai biết là có phải ngươi thật lòng nương tay không chứ?
Câu nói này nói lại y chang lời Quý Tôn Tiểu Man lúc nãy, Quý Tôn Tiểu Man nghẹn lời không biết đáp trả thế nào.
Khánh Kỵ mỉm cười buông tay ra, Quý Tôn Tiểu Man tự hiểu nếu không phải đánh lén, mình tuyệt đối không phải là đối thủ của hắn, hắn đã có phòng bị, nên không muốn ra tay tiếp bị hắn trêu chọc nữa. Tiểu Man đứng yên tại chỗ trừng mắt tức giận nhìn Khánh Kỵ, xoa xoa cổ tay đau nhức, bỗng nhìn thấy Di Tử Hạ đang nằm trên giường, vẻ mặt như đang cười nhạo mình, bèn đem tức cả bực tức trút lên người hắn:
- Tên tiểu tử thối này, nhìn cái gì mà nhìn, chuyện hôm nay ngươi mà dám nói ra ngoài nửa câu, bổn cô nương thề lấy mạng chó nhà ngươi.
Di Tử Hạ hoảng sợ, vội vàng nói:
- Không dám không dám, quân tử sao lại nói xấu sau lưng người khác được. Di Tử Hạ này tuyệt nhiên không tiết lộ nửa câu với người ngoài đâu.
Quý Tôn Tiểu Man hứ một tiếng, lại quay qua Khánh Kỵ, ra lệnh:
- Trả bảo kiếm cho ta.
Khánh Kỵ cười, tra kiếm vào vỏ, xoay chuôi kiếm lại về phía Tiểu Man, Quý Tôn Tiểu Man hậm hực đón lấy, vừa định nhét vào ngang hông, bỗng nhìn thấy trên chuôi kiếm có ghi chữ, kêu lên:
- Đây không phải là kiếm của ta…Hử? Hàm Quang kiếm!
Khánh Kỵ “A!” lên một tiếng:
- Hai thanh kiếm giống y nhau, ta cũng không để ý.
Nói xong tháo thanh kiếm còn lại đưa qua cho Tiểu Man.
Quý Tôn Tiểu Man cảm thấy lạ, bèn lên tiếng hỏi:
- Hàm Quang kiếm sao lại ở trong tay ngươi? À, đúng rồi, chắc là ngươi lấy của Công Mạnh Trập.
Khánh Kỵ tươi tắn đáp:
- Đúng rồi, đây đúng là Hàm Quang kiếm, nhưng không phải là ta lấy, mà là Công Tử Triều tặng cho ta. Nào, trả kiếm kia cho ta.
Quý Tôn Tiểu Man xoay tròn đôi mắt, rút tay lại giấu sau lưng, điêu ngoa:
- Không trả, Hàm Quang Thừa Ảnh kiếm chia làm thư hùng, ngươi không giỏi kiếm pháp, lấy hùng kiếm làm gì, nếu muốn, thanh thư kiếm này thuộc về ngươi.
Thư hùng kiếm có hai loại, một là kiếm có thể chia ra đựng, cũng có thể làm một vỏ kiếm đặc biệt, cùng lúc tra được hai thanh kiếm vào. Còn loại thư hùng kiếm thứ hai, chuôi kiếm bằng, lưỡi kiếm một bên bằng phẳng, một bên có gờ, hai kiếm có thể hợp lại làm một.
Hai thanh kiếm Hàm Quang Thừa Ảnh thuộc loại một, chia nhau ra đựng trong hai vỏ kiếm khác nhau, tuy mang danh thư hùng kiếm, nhưng về chất liệu chế tạo không có gì khác biệt, Khánh Kỵ sao lại tranh giành không thôi hai thanh kiếm với một cô nương chứ, chỉ thấy hắn ha hả cười to:
- Thôi được, nàng đưa con mái (“thư kiếm”, ở đây Khánh Kỵ cố ý nói vậy để trêu chọc) cho ta vậy.
Di Tử Hạ nằm trên giường nghe Khánh Kỵ cố tình nói sai, không kiềm chế được bật ra tiếng cười, Quý Tôn Tiểu Man lập tức trợn mắt lên liếc về phía hắn:
- Cười gì đó? Có phải vừa nãy bổn cô nương đánh ngươi quá nhẹ không hả?
Di Tử Hạ vội ngậm miệng lại, làm ra vẻ biết lỗi, trong bụng lại thầm trách móc:"Chỉ giỏi dữ với ta thôi, người kia đánh vào mông nàng, lại không thấy nàng trợn mắt với hắn."
Quý Tôn Tiểu Man tự nghĩ phen này đã lời to, lập tức hết giận Khánh Kỵ, vui vẻ đưa Thừa Ảnh kiếm về phía hắn, Khánh Kỵ đón lấy nhét ngang hông, cảm thấy tức cười khẽ lẩm bẩm:
- Nữ nhân thật là khiến người ta khó hiểu, hai thanh kiếm giống hệt nhau, phân biệt thư hùng gì chứ, đeo thư kiếm ta cũng là nam nhân, còn nàng đeo hùng kiếm, cũng là nữ nhân, đâu có gì thay đổi.
Quý Tôn Tiểu Man dương dương tự đắc, hứ nhẹ một tiếng đeo kiếm lên người cứ như là bảo vật trời ban vậy, cũng không thèm tranh cãi với Khánh Kỵ. Nhưng Tiểu Man chợt nhớ ra thư hùng kiếm vốn là một cặp, giờ nàng và Khánh Kỵ mỗi người giữ một thanh…Nghĩ đến đây không hiểu sao một cảm giác khó tả dâng lên trong lòng, trái tim Quý Tôn Tiểu Man bất chợp đập mạnh liên hồi.
Thanh hùng kiếm này vốn nằm trong tay Công Mạnh Trập, khi đó cũng không thấy Tiểu Man có suy nghĩ lung tung này, giờ đây nó thuộc về Khánh Kỵ, Tiểu Man lại cảm thấy ấm ức.
- Thôi được, bổn cô nương rộng lượng, nể tình ngươi đem thanh Hàm Quang kiếm này dâng lên cho ta, ân oán chúng ta coi như xóa bỏ, ta phải đi đây.
Quý Tôn Tiểu Man ra vẻ cao thượng nói một tràng xong quay lưng định bỏ đi.
- Hãy khoan, giờ nàng không về nước Lỗ được, Công Mạnh Trập thì đã chết, nàng còn định phiêu bạt khắp nơi sao? Giống như vừa nãy ta bị nàng khống chế vậy, tuy nàng thông minh lanh lợi, lại giỏi kiếm thuật, nhưng một thân một mình hành tẩu giang hồ, hễ có chút sơ suất rơi vào tay người khác, với một cô nương mỹ miều như nàng, nên có kết cục nào nhỉ?
Quý Tôn Tiểu Man vốn định cất bước ra đi, không thèm để ý hắn có ngăn cản hay không, nhưng nghe hắn nói những lời này, đôi chân không tự chủ được dừng ngay lại, nhớ lại vừa rồi khi đang giấu mình trên trần nhà, Khánh Kỵ cũng có nói ra những lời quan tâm nàng với Di Tử Hạ, nếu là vậy thì tên Khánh Kỵ này cũng thật lòng quan tâm đến nàng, nghĩ thế Quý Tôn Tiểu Man chợt thấy ấm áp trong lòng, giọng điệu cũng theo đó mềm mỏng xuống, làm bộ trách cứ:
- Ta vốn đang yên đang lành ở phủ Công Mạnh Trập, chỉ tại ngươi đến hại hắn…
Nói đến đây, Tiểu Man chợt phát hiện ra mình đang dịu giọng, bèn ưỡn ngực ra, ra vẻ tức tối bất cần:
- Ngươi không cần lo cho ta, bổn cô nương một mình phiêu bạt giang hồ cũng không phải mới ngày đầu, cũng chưa thấy ai dám làm gì ta cả.
Khánh Kỵ ho nhẹ vài tiếng, vẫn không yên tâm cho nàng ta tự ý phiêu bạt một mình. Mấy lần tiếp xúc, hắn nhận ra Tiểu Man là một cô bé ngang bướng, nhưng lại ngây thơ đáng yêu, lại nghĩ tới nàng ta từ nhỏ đã mất mẹ, thiếu thốn tình cảm, nhỡ như nàng ta gặp phải bất trắc gì, hoặc bị giết chết hoặc bị rơi vào tay kẻ xấu hủy hoại danh tiết, lương tâm Khánh Kỵ khó tránh khỏi ray rứt. Hắn suy nghĩ chu đáo, nhớ ra Quý Tôn Tiểu Man giỏi về kiếm thuật, bỗng đấm mạnh tay một cái, mở lời:
- Có rồi, ta có ý này, cô nương kiếm thuật siêu phàm, nàng đã làm một kiếm khách trong phủ Công Mạnh Trập được, sao lại không đảm nhận chức tướng quân trong quân đội của ta được chứ?
- Hử?
Quý Tôn Tiểu Man ngạc nhiên mở to miệng, ngập ngừng hỏi lại:
- Làm…làm tướng quân? Ta hả?
- Thế nào, cô nương tự cảm thấy mình không đủ sức đảm nhận à?
- Sao lại không?
Quý Tôn Tiểu Man nảy tính hiếu thắng, lập tức vỗ ngực kiêu ngạo nói:
- Trên đời này có việc gì là ta không làm được chứ? Cho dù ngươi mời ta đến nước Ngô làm vua, ta vẫn cứ ung dung làm tốt hết.
Đôi ngực mới lớn của Tiểu Man hãy chưa nhô cao, nhưng lại tràn đầy sức sống và vẻ quyến rũ lạ thường. Khánh Kỵ nhìn không chớp mắt, quả thật muốn vỗ một cái vào ngực vị nữ binh này coi sao, bông đùa:
- Tiểu quỷ này, cơ ngực luyện săn chắc nhỉ.
Khánh Kỵ khoái chí cười to:
- Thế là tốt, nàng dù sao giờ cũng không có chỗ nào để đi, chi bằng cứ giữ một chức tướng quân trong quân ta, giúp ta truyền dạy kiếm thuật cho binh sĩ, nhưng nàng yên tâm, ta không để một cô nương ra chiến trường đâu, nàng chỉ phụ trách dạy kiếm thôi, sau này khôi phục Ngô quốc, ta sẽ ghi một công lớn cho nàng.
Thu nạp được giáo đầu võ nghệ cao cường như Quý Tôn Tiểu Man, Khánh Kỵ quá đỗi vui mừng, lúc này vội đến cởi trói cho Di Tử Hạ vẫn đang bị trói gô nằm chết cứng trên giường, tạ lỗi:
- Tiểu tướng dưới trướng Khánh Kỵ vô lễ, cúi xin Tử Hạ đại phu rộng lượng bỏ qua cho.
Quý Tôn Tiểu Man mở miệng định cãi lại, nhưng nghĩ đến mình đã đồng ý ở lại, thế tức là chấp nhận làm tướng lĩnh của hắn rồi, nên cũng không lên tiếng nữa, chỉ hậm hực liếc nhìn Di Tử Hạ, Di Tử Hạ thấy Tiểu Man trừng mắt đe dọa, sao dám nói nửa câu không chịu bỏ qua, chỉ còn cách gật gù chấp nhận.
Di Tử Hạ vươn vai đứng dậy, vừa chỉnh sửa lại áo mũ vừa hỏi:
- Hôm qua các đại phu trong thành đều đóng cửa không ai dám ra khỏi nhà, Di Tử Hạ mạo hiểm phái người dò la tin tức của công tử, nghe nói Công Mạnh Trập đã chết dưới tay Công Tử Triều, còn công tử thì đã đi Thanh Ngõa Quan, bây giờ tình hình thế nào rồi?
Về chuyện này, Quý Tôn Tiểu Man cũng tò mò muốn biết, ngước tai định nghe xem Khánh Kỵ nói gì, lại nghe Khánh Kỵ thong dong:
- Việc này nói ra dài dòng, giờ đây chuyện ở Đế Khâu đã đâu vào đó, Khánh Kỵ sẽ sớm về Ngải Thành, đêm nay sẽ uống một bữa thỏa thích với Tử Hạ đại phu, đến lúc đó ta nói chuyện với nhau hãy còn chưa muộn.
Quý Tôn Tiểu Man nghe Khánh Kỵ nói vậy, cảm thấy không vui, thầm oán trách ba tiếng:
- Thật là chán.
- Thì ra là vậy, chà! Theo tình hình này thì, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ bọn họ muốn tự bảo vệ, chỉ còn cách nắm giữ chặt binh quyền trong tay mới được, e là mai bọn họ đến gặp Vệ hầu, sẽ lấy những điều kiện này ra thúc ép đây. Từ nay về sau, Vệ hầu phải cúi đầu trước uy hiếp của họ, há chẳng phải mặc cho họ sắp đặt sao?
Di Tử Hạ tuy đần độn về quan điểm chính trị, nhưng nghe Khánh Kỵ phân tích tình hình một hồi lâu trên bàn tiệc, hắn cũng hiểu ra quan hệ lợi và hại trong đó. Hắn ở Đế Khâu, hoàn toàn phụ thuộc vào sủng ái của Vệ hầu, Vệ hầu nếu như mất đi quyền lớn trong tay, tương lai của hắn thật đáng lo âu. Hắn chưa từng quên chuyện lần trước vừa từ nước Tề quay về sém bị người khác mưu sát, đến giờ cũng chưa biết đó là chủ ý của ai, nói không chừng là quân phu nhân hận hắn chiếm lấy sự sủng ái của Vệ hầu nên phái người ra tay độc ác, bây giờ quân phu nhân nắm quyền, Vệ hầu thất thế, hắn còn có kết cục tốt được sao?
Nghĩ đến đây, Di Tử Hạ chẳng còn tâm trí nào ăn uống tiếp nữa, khuôn mặt ủ rũ như áng mây đen, lại sầu não bế tắc, hoàn toàn không nghĩ ra một chủ ý giải quyết khó khăn nào, với thân phận và trải nghiệm của hắn, ở quan trường Đế Khâu không có mấy người bạn tốt.
Khánh Kỵ ra vẻ uống say, hai má ửng đỏ, lời nói cũng không còn rõ ràng từng tiếng. Hắn nâng ly uống một ngụm rượu, tươi cười hớn hở:
- Tử Hạ huynh không cần lo lắng, huynh xưa nay luôn tốt với ta, chỉ cần có Khánh Kỵ, sẽ không ai dám ức hiếp huynh đâu.
Di Tử Hạ cười khổ tạ ơn, trong lòng nhủ thầm: “Huynh sớm muộn phải đánh về Ngô quốc, bảo vệ được ta một lúc, không bảo vệ được cho ta cả đời. Chẳng lẽ bắt ta rời bỏ quê hương, trốn sang nước Ngô theo huynh à?”
Khánh Kỵ gắp một miếng thịt, bỏ vào miệng nhai nhóp nhép, lại nói:
- Nếu không phải ta mang thù cha sâu nặng trên người, cơ nghiệp tổ tiên hiện vẫn còn rơi vào tay kẻ tiểu nhân, Khánh Kỵ cũng không đưa ra hạ sách này. Tuy ai cũng nhìn thấy dã tâm của Công Mạnh Trập, nhưng cũng không đến lượt người ngoài như ta xen vào. Nhưng nói đi thì nói lại, giờ đây nếu binh mã quyền lực của Công Mạnh Trập được phân chia đều vào tay bốn người bọn Tề Báo, thật ra lại rất có lợi cho Vệ hầu, chỉ là trong thời gian ngắn, Vệ hầu phải nhẫn nhịn chịu nhục, chờ đợi cơ hội.
Di Tử Hạ nghe hắn nói câu này, lại nghĩ tình cảnh của mình hiện giờ, trong lòng càng thêm lo lắng, Khánh Kỵ uống thêm một ngụm rượu, đôi mắt lờ đờ:
- Tử Hạ…huynh nghĩ coi, Công Mạnh Trập một mình nắm hết đại quyền, mang nặng dã tâm, còn sắp xếp thân tín khắp nơi, vốn chẳng phải trung thần nghĩa sĩ gì, chỉ là Vệ quốc vẫn tồn tại tinh thần trung quân ái quốc, các nhân sĩ trung nghĩa hãy còn đông, Công Mạnh Trập chỉ dám nhân danh vua, nắm quyền lớn trong tay, chứ không dám giết vua đoạt ngôi, hơn nữa hắn vật vả gầy dựng cơ ngơi là nhằm mục đích gì? Chỉ là học theo cách làm của các gia tộc lớn bên các nước Tấn, Tề, Lỗ thôi. Thế lực của gia tộc Công Mạnh Trập nếu tiếp tục lớn mạnh, sẽ có ngày trở thành mối họa lớn của Vệ quốc, đến lúc đó Vệ hầu muốn xoay chuyển càn khôn, khó lắm thay.
Còn như hiện giờ, đám người Công Tử Triều, Tề Báo giết chết Công Mạnh Trập, chia sẻ quyền lực của hắn, khí thế có vẻ hơn cả Công Mạnh Trập, nhưng lại kém xa hơn nhiều, thực lực đã bị suy giảm không ít. Vệ hầu nếu biết khéo léo tận dụng tình hình lúc này, chí ít có thể giành lại một nửa quyền lực về tay mình, so với quá khứ huy hoàng bề ngoài trước đây, điều đó không cần phải nói nhiều. Đám người Tề Báo, Công Tử Triều là người chiến thắng trong cuộc nổi loạn này, Vệ hầu há lại không phải ư? Hắc, chỉ là không biết Vệ hầu có suy nghĩ thấu đáo được thế này không thôi.
Di Tử Hạ nghe xong rạo rực trong lòng, vội hỏi dồn:
- Công tử Khánh Kỵ nói vậy…A, mời uống, mời, không biết là theo như những lời công tử Khánh Kỵ vừa nói, Vệ hầu nên dùng diệu kế gì để xoay chuyển càn khôn ạ?
Khánh Kỵ ngáp dài, cười đáp:
- Có gì khó đâu, chỉ cần một người trung dũng, đủ rồi.
Di Tử Hạ giật mình:
- Cái gì? Chẳng lẽ phái người đi giết đám người Tề Báo?
- Không phải, những người trung quân ở nước Vệ rất nhiều, quân quyền kiên cố, đám người Tề Báo dám giết Công Mạnh Trập, nhưng lại không dám đụng đến Vệ hầu, chính là vì lí do này, lấy thí dụ, Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Văn Tử, tất cả đều là các đại thần trung nghĩa, ở nước Vệ lại có uy tín, chỉ là lúc trước Công Mạnh Trập nắm quyền, các đại thần chỉ biết trung thành với Vệ hầu, không biết nịnh bợ tên Công Mạnh Trập nên không được trọng dụng, giờ nhàn rỗi ở nhà thôi.
Ngày mai, đám người Tề Báo, Công Tử Triều chắc chắn đi gặp Vệ hầu, vừa mềm mỏng vừa cứng rắn thúc ép Vệ hầu chấp nhận điều kiện của họ, mới chịu đón Vệ hầu hồi cung. Giờ đây ấn tín binh phù đều nằm trong tay đám người Tề Báo, cho dù là Vệ hầu cũng không điều động được một binh một tốt, nhưng các đại thần này trong nhà lại có gia tướng, có thể tổ chức thành một đạo quân bí mật, đạo quân này lại chỉ nghe lệnh của một mình chủ nhân, không bị quản thúc bởi ấn tín quân phù Vệ quốc nào cả.
Vệ hầu nếu như đủ tỉnh táo, ngày mai chi bằng cứ xuôi theo đám người Tề Báo, sau đó viết một mật chiếu, sai một kẻ trung thành đem mật chiếu đến triệu tập Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Văn Tử, sai họ tập hợp các trung thần nghĩa sĩ gia tướng thân cận tiến vào Đế Khâu hộ giá, trong thành Đế Khâu lại phái người ngầm liên lạc các đại thần trung quân khác làm nội ứng.
Đến lúc đó Vệ hầu chỉ cần tìm cách kéo dài thời gian ba đến năm ngày với bọn Tề Báo, đợi người ngựa của Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Văn Tử đến nơi, tuy chưa chắc chiếm được ưu thế áp chế bọn Tề Báo, nhưng cũng đủ chế ngự họ, lúc đó chỉ cần đừng thúc ép quá đáng bọn Tề Báo, họ cũng không dám làm liều tạo phản, làm vậy khiến họ phải e dè, sau đó Vệ hầu lại dùng kế chia rẽ bọn họ, cứ thế…
Di Tử Hạ đang chăm chú lắng nghe, vội hỏi:
- Làm sao chia rẽ?
- Ấy! Nếu ta mà là Vệ hầu, đến lúc đó ta cứ ban thưởng hậu hỉ cho họ để họ an tâm, chỉ là phong chức ban thưởng thôi mà, không được làm họ phật ý, họ chẳng phải đã tự bàn bạc chia nhau quyền lực rồi sao? Ta cứ thưởng cho người này nhiều, người kia ít, lúc này người ngựa của bọn Công Thúc Văn Tử đã có mặt, lại không phải hạ chỉ bắt bọn họ, họ đâu có dám làm quá đáng chứ? Đám người Tề Báo chẳng phải quân tử đạo đức gì, người được ban thưởng nhiều chẳng lẽ từ chối không nhận? Không sợ ít chỉ sợ không công bằng, lúc đó…ai được chia ít chắc chắn không vui, kế chia rẽ nhờ vậy mà thành công.
Ha ha, đạo làm vua không cần bắt tất cả thần dân đều trung thành, từ xưa đến nay không một vị quân vương nào làm được thế cả. Đạo làm vua chỉ là dùng quyền lực tối cao cai trị, như ngọn núi đè lên quả trứng, bắt bên dưới buộc phải tuân theo, nếu quân quyền chưa đủ mạnh, thì phải áp dụng “chia để trị”, làm cho tất cả phải dựa dẫm vào ta, lúc đó họ đấu đá nhau, còn ta thì ngồi vững trên ngai vàng, sau đó nên lôi kéo, chia rẽ, trừng trị như thế nào tùy ý, bọn họ chia rẽ rồi khó mà hình thành sức mạnh như hôm nay được nữa.
Di Tử Hạ nghe vậy đôi mắt phát sáng, trong lòng đã hiểu ra đạo lí. Trong các chư hầu khắp thiên hạ, ba nước Vệ, Tần, Sở quyền lực của vua tập trung nhất, trong triều tuy có đại thần nắm giữ quyền lớn, nhưng khắp nơi trong nước các quan lại trung thành với vua rất nhiều, đây chính là nguyên nhân vì sao đại quyền của Vệ hầu Cơ Nguyên rơi vào tay Công Mạnh Trập từ lâu, thế mà hắn vẫn cung kính với vua, không dám nảy sinh ý định giết vua đoạt ngôi. Nay đám người Tề Báo so với Công Mạnh Trập còn kém xa, cơ sở của chúng chưa vững mạnh, trước mắt chỉ khống chế được quyền lực Đế Khâu, không bằng thế lực của Công Mạnh Trập được phân bố khắp cả nước. Giờ Công Mạnh Trập bị giết, các thế lực này mất đi chỗ dựa, theo lí sớm muộn cũng bị bọn Tề Báo thu nạp, nhưng theo cách của Khánh Kỵ thì khác, Vệ hầu cũng hưởng lợi trong đó, thu nhận nhiều đại tướng có binh quyền trong tay về phe mình, thực sự quyền lực có mạnh hơn trước đây nhiều. Nếu như Vệ hầu từ nay tỉnh ngộ, siêng năng chăm lo việc nước, đó lại là một chuyện tốt.
Tiệc tàn, hai võ sĩ dìu Khánh Kỵ đã say về phòng nghỉ ngơi, Di Tử Hạ vẫn ngồi yên trầm tư trên bàn tiệc. Tên thiếu niên ngây thơ này giờ đây vì tương lai sinh tồn buộc phải suy nghĩ thấu đáo chuyện quan trường phức tạp, cho đến khi cây nến hồng cháy hết, Di Tử Hạ mới quyết định xong kế sách, phất tay áo đứng dậy, dặn dò người hầu thu dọn bàn tiệc, còn hắn đi về phía sau nhà nghỉ ngơi.
Khánh Kỵ về đến phòng mình, sờ soạng trong bóng tối định thắp nến lên, trong bóng đêm “xoạt xoạt” hai tiếng vang lên, ánh lửa thắp sáng, chỉ thấy Quý Tôn Tiểu Man đang ngồi trên ghế, kiếm đặt trên bàn, đôi mắt giận lẫy, nhìn dáng vẻ cứ như bà vợ oán trách ông chồng dám về khuya vậy.
Khánh Kỵ không nhịn được cười, Quý Tôn Tiểu Man hứ một tiếng nhẹ nhàng:
- Chưa thấy vị chúa công nào như ngươi, ta ở phủ Công Mạnh trập chỉ là một kiếm khách còn được sự tiếp đãi lễ độ của hắn, giờ làm tướng quân gì đó dưới trướng của ngươi, vậy cũng tốt, nhưng ngươi lại chỉ lo huyên thuyên với tên Di Tử Hạ không ra nam không ra nữ đó, bỏ mặc ta ở đây không thèm hỏi han, hứ! hai người ở đâu ra lắm chuyện để nói như vậy?
Khánh Kỵ khụt khịt mũi, không biết ở đâu một mùi chua chua xộc vào mũi, cười hô hố:
- Cũng chẳng có gì để nói, ta chỉ dạy Tử Hạ cách nuôi chim mà thôi.
Quý Tôn Tiểu Man ngớ người, ngạc nhiên hỏi:
- Nuôi chim? Hai người nói cả một đêm, chính là nói chuyện nuôi chim hả?
Khánh Kỵ cười hi hí:
- Đúng rồi, nếu không phải nuôi chim, cần cây cung làm gì?
Quý Tôn Tiểu Man dở khóc dở cười:
- Hai người thật là…, thôi bỏ đi, khi nào chúng ta đi Ngải thành?
- Vội gì chứ? Phía Ngải thành tất cả đâu vào đó, chúng ta về sớm hay muộn vài ngày không thành vấn đề, hơn nữa trải qua trận chiến Thanh Ngõa Quan, các tướng sĩ của ta có người thương nặng, cần dưỡng thương vài ngày mới được, nàng không muốn nán lại đây xem hắn nuôi chim thế nào à?
Quý Tôn Tiểu Man điên tiết:
- Xem chim gì chứ, không chịu lo việc chính đáng, ta đi ngủ đây.
Khánh Kỵ nghe thế cười to, Quý Tôn Tiểu Man nhìn hắn, đôi mắt chợt nham hiểm, nàng cắn môi, cầm kiếm lên toan đi ra ngoài, lúc đi qua chỗ Khánh Kỵ, đột nhiên đưa chân đá một phát, mũi giày đá đúng vào giữa hai chân Khánh Kỵ, Khánh Kỵ tuy mình đồng da sắt nhưng chỗ đó sao chịu được cú đá, lập tức đau đến nỗi la oai oái cả lên.
Quý Tôn Tiểu Man vuốt mũi một cái, cười khoái chí:
- Cười, cười nữa đi, tưởng ta không biết ngươi cười vì chuyện gì à?
Khánh Kỵ đau tái cả mặt:
- Biết rồi sao còn…
Quý Tôn Tiểu Man đỏ mặt, nói cứng:
- Vừa rồi chưa nghĩ ra.
Sáng sớm hôm sau, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều ba người ăn mặc chỉnh tề, tụ tập tại phủ Chử Sư Phổ.
Vừa thấy bọn họ đến đây, Chử Sư Phổ vội bước ra đón tiếp, vừa thấy họ đã oán trách:
- Ta nói ba vị này, cuối cùng ba vị cũng đến, hai ngày này thật khó cho lão Chử này quá, quốc quân ở trong phủ ta cứ như tù nhân, lão Chử lại không dám có gì bất kính với ngài. Hây! Sáng mỗi ngày lão Chử đều phải cùng phu nhân đi thỉnh an cho ngài, đợi lúc ngài dùng bữa, lại cùng phu nhân hầu hạ hai bên, ngài chưa ăn phu thê hai ta không dám bỏ một hạt gạo vào miệng, các vị cũng biết là lão Chử bụng bự ăn nhiều rồi, đứng nhìn quốc quân dùng bữa, ta đói cồn cào không dám lên tiếng, đến khi ngài đi ngủ, lão Chử lại phải cùng phu nhân…
- Thôi được rồi được rồi, những chuyện vặt vãnh cơm nước đi ngủ thì đừng nói nữa.
Tề Báo thấy chán những lời lải nhải xua tay cho Chử Sư Phổ im miệng, lúc này hắn đã tự cho mình là người có quyền lực nhất trong nhóm, dù cho không oai phong như Công Mạnh Trập trước đây, muốn bãi miễn ai thì tùy ý bãi miễn, nhưng về cách nói chuyện, giọng điệu cử chỉ đều đã bắt chước y chang phong thái của Công Mạnh Trập.
Tề Báo làm như hắn chính là chủ nhân của Chử gia, bước thủng thỉnh vào giữa đại sảnh, dõng dạc:
- Hôm nay chúng ta đã đến đây, một lát gặp mặt quốc quân, đừng làm ra vẻ sợ sệt, phải thúc ép quốc quân làm theo ý chúng ta mới thôi.
- Dạ dạ, tất cả chúng ta cứ nghe theo Tề đại phu là được.
Công Tử Triều cung kính chắp tay phục tùng.
Bắc Cung Hỉ trong lúc chiến đấu giết địch dũng mãnh như vậy, lúc này bảo hắn đi gặp Vệ hầu đang bị giam lỏng, trong lòng cũng thấy hơi chút sợ sệt, vội lên tiếng hùa theo, Chử Sư phổ càng không cần nói tới, Tề Báo nhìn bộ dạng bọn họ, vừa thấy mình oai vừa thấy tức giận, hắn hừ một tiếng, phất tay áo nói:
- Đi nào!
- Chúng thần tham kiến quốc quân!
Mấy người bước vào căn phòng giam lỏng Vệ hầu Cơ Nguyên, vừa vào phòng đã hành lễ quân thần trước, Vệ hầu đang nằm trên giường, mắt nhìn trần đang ngây ra suy nghĩ gì đó lập tức bật dậy, thấy là bọn họ, sắc mặt liền thay đổi:
- Các ngươi hay lắm, lại dám giam giữ quả nhân, giờ đến gặp quả nhân, muốn thế nào hả?
Hai hôm nay hắn hỏi đến dụng tâm của bọn Chử Sư Phổ, Chử Sư Phổ chỉ thỉnh tội, tuyệt nhiên không nói ra chữ nào, Đế Khâu xảy ra chuyện gì, Vệ hầu vẫn chưa biết gì cả. Nhưng Chử Sư Phổ giam lỏng hắn hai ngày, Chử phủ vẫn yên lặng như cũ, không thấy ai đến tìm hắn, Cơ Nguyên cũng đoán ra kinh thành chắc xảy ra chuyện lớn gì rồi, huynh trưởng Công Mạnh Trập của hắn e đã lành ít dữ nhiều, dù sao không biết được chi tiết sự tình, không tránh khỏi suy đoán lung tung, lúc này thấy bốn tên thần tử này, mà chúng vẫn hành lễ quân thần, Cơ Nguyên hơi yên lòng lại.
Tề Báo tiến lên ba bước, chắp tay lạy một lạy, nói:
- Xin quốc quân thứ tội, chúng thần làm vậy cũng là bất đắc dĩ, quốc quân bị gian thần Công Mạnh Trập lừa dối quá lâu, Công Mạnh Trập mang dã tâm tạo phản, lại nắm đại quyền binh mã Vệ quốc trong tay, dấy binh làm loạn sẽ nguy hại giang sơn xã tắc nước Vệ, chúng thần cực chẳng đã nghĩ cho quốc quân, nghĩ cho nước Vệ, chỉ còn cách tạm mời ngài chịu khó tránh mặt ở đây, chúng thần liều chết giết giặc, trời cao có mắt, Công Mạnh Trập đã phải chịu chết, trả lại yên lành cho nước Vệ.
“A!”Vệ hầu đã sớm có dự cảm không hay trong lòng, nhưng nghe những lời này xong, cũng không khỏi giật mình, trong lòng đau đớn, giọng run rẩy:
- Mạnh Trập…đã bị các ngươi giết chết?
- Dạ!
Tề Báo vừa nãy nói chuyện hãy còn chút sợ sệt, nay đã tan biến hết, ngẩng đầu lên, to tiếng:
- Bệ hạ, Công Mạnh Trập một mình nắm giữ quyền lớn trong tay, khuynh đảo triều chính, lộng quyền trong triều, các đại thần bị hắn đùa cợt như gia nô, các chức vụ quan trọng đều được giao cho tâm phúc của hắn, ức hiếp trung lương, sắp xếp thân tín khắp nơi, quả thật nguy hiểm tột cùng, quần thần ai cũng sợ sệt, lê dân lo lắng, quốc quân lại bị hắn dối gạt, sớm muộn cũng bị hắn hãm hại, chúng thần lục xét thấy nhiều thứ ở phủ Công Mạnh Trập, có áo giáo binh khí nhiều vô số kể, đủ chứng minh cho dã tâm của hắn, vì thế cúi xin quốc quân công cáo thiên hạ, kể rõ tội trạng của hắn.
Công Tử Triều, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phổ cùng quỳ xuống tiến về trước vài bước, quỳ ngay sau lưng Tề Báo, đồng thanh cất tiếng:
- Chúng thần xin quốc quân công cáo thiên hạ, vạch rõ tội trạng của hắn.
- Ngươi…các ngươi dám thúc ép quả nhân ư?
Cơ Nguyên tức giận tím tái mặt mày, bờ môi run rẩy, hắn đảo mắt xung quanh, vươn người cầm lấy một cái bình bông, Bắc Cung Hỉ vừa định hành động, bị Công Tử Triều kéo ngược lại, Cơ Nguyên giơ cao bình bông, do dự một lát, “Choang!” một tiếng ném vỡ chiếc bình trước mặt bọn đại thần đang quỳ trước mặt, hét lên:
- Đừng hòng quả nhân sẽ làm theo ý các ngươi, các ngươi đã giết Công Mạnh Trập, giờ giết luôn quả nhân đi vậy.
- Quốc quân!
Tề Bắc ngẩng đầu lên, ánh mắt sắc lạnh.
- Quốc quân hà tất cố chấp như thế, chỉ cần ngài nghe theo lời khuyên của chúng thần, chúng thần lập tức nghênh đón ngài về cung, nếu không thì, chúng thần xin được đắc tội.
Cơ Nguyên lạnh lùng gằn giọng:
- Trong thiên hạ có trung thần thúc ép vua như các ngươi sao hả? Tề Báo, ngươi mở miệng ra là nói huynh trưởng của quả nhân là gian thần trong triều, theo ý quả nhân, Tề Báo ngươi mới là đệ nhất gian thần đó.
Tề Báo nghe vậy liền thay đổi sắc mặt, Công Tử Triều vội can ngăn, bước lên đỡ lời:
- Quốc quân không chỉ là huynh đệ của Công Mạnh Trập, mà còn là vua của nước Vệ, đương nhiên phải lấy giang sơn xã tắc làm trọng, dã tâm của Mạnh Trập mọi người ai cũng biết, sao ngài lại vì tình riêng mà quên mất việc công? Giờ đây Mạnh Trập đã chết, muốn an lòng dân, quốc quân có thể công cáo thiên hạ tội trạng của hắn, làm thế thể hiện uy danh thiên tử, xin quốc quân nghe theo can gián của thần.
Những lời uyển chuyển của Công Tử Triều so với những lời uy hiếp của Tề Báo cao minh hơn nhiều, nhưng Cơ Nguyên tuy đam mê hưởng lạc, có phần u mê nhưng dù sao cũng có chút tính khí cao ngạo của một quân vương, đã không sợ Tề Báo uy hiếp, sao lại chịu nghe những lời ngon ngọt của Công Tử Triều. Đám người Tề Báo lại ra sức thuyết phục, Cơ Nguyên vẫn kiên quyết không nghe, hai bên càng lúc càng căng thẳng, ngoài cửa chợt có một người bước vào, vội vã đến bên Chử Sư Phổ, ghé tai nói nhỏ vài câu, Chử Sư Phổ nghe xong ngây mặt ra:
- Di Tử Hạ? Tên nhóc này đến đây làm gì?
- Bệ hạ, chúng thần đều xuất phát từ công tâm, cầu xin bệ hạ lấy việc nước làm trọng, tiếp thu ý kiến của chúng thần. Bây giờ bệ hạ vẫn chưa bình tĩnh lại, chúng thần xin phép lui ra, lát sau lại đến xin chỉ thị của bệ hạ.
Chử Sư Phổ làm liều nói một hơi xong, quay đầu nháy mắt với đám người Tề Báo, bọn Tề Báo không biết dụng ý hắn là gì, bèn hành lễ xong lục đục lui ra, ra đến hành lang bên ngoài, Tề Báo liền lên tiếng hỏi:
- Chử đại phu, ông kêu tất cả chúng ta ra đây là có dụng ý gì?
Chử Sử Phố trả lời:
- Quốc quân mới biết tin dữ, tâm thần chưa ổn định lại, giờ đây thà chết không tuân theo, chúng ta sao có cách gì ép ngài nghe theo được? Chi bằng để ngài bình tâm suy nghĩ một lát lợi hại trong chuyện này, lúc đó nói không chừng ngài sẽ hồi tâm chuyển ý.
Nói đến đây Chử Sư Phố lè lưỡi liếm đôi môi béo mập của hắn, tiếp lời:
- Vừa rồi có người thông báo, Di Tử Hạ đến thăm, e là vì quốc quân mà đến.
Tề Báo cười mỉa:
- Di Tử Hạ? bây giờ các đại thần trong triều ai mà không biết quốc quân đang trong phủ của ông, nhưng ai cũng giả câm giả điếc, không một ai dám lấy trứng chọi đá. Tên Di Tử Hạ này dám ngang nhiên đến đây, hừ, lão phu đã xem thường hắn rồi, tên nhóc này xem ra có tình có nghĩa hơn đám đại thần vô dụng kia.
Bắc Cung Hỉ chen vào:
- Vậy thì chưa chắc, chỉ sợ tên Di Tử Hạ ỷ mình đã từng giúp đỡ Khánh Kỵ, cũng là gián tiếp giúp đỡ chúng ta, nghĩ là chúng ta cũng không làm khó hắn, nên mới giả đò chạy tới đóng vai trung thần nghĩa sĩ kiếm chút danh tiếng thôi.
Chử Sư Phố gật gù:
- Quốc quân luôn sủng ái tên Di Tử Hạ này, theo ta thấy, chi bằng chúng ta cho hắn vào gặp quốc quân, lời chúng ta nói có thể quốc quân không nghe lọt tai, nhưng nói ra từ miệng tên Tử Hạ này lại khác, nếu gặp được hắn, nói không chừng quốc quân lưu luyến vinh hoa phú quý chốn nhân gian, khi đó sẽ không kiên quyết chống đối chúng ta nữa.
Công Tử Triều khẽ thay đổi sắc mặt:
- Chử đại phu nói có lí lắm, Di Tử Hạ có giao tình tốt với Khánh Kỵ, Khánh Kỵ và chúng ta là đồng mưu, chắc tên Tử Hạ này đến đây không có ác ý với chúng ta, hay là để Tử Triều đi gặp hắn, thăm dò coi ý hắn thế nào, nếu hắn chỉ muốn vào gặp quốc quân để thể hiện trách nhiệm thôi, lúc đó chúng ta sẽ nhờ hắn chuyển lời, bảo hắn làm thuyết khách giùm chúng ta, ý các đại nhân thế nào?
Tề Báo suy nghĩ giây lát, gật đầu đồng ý:
- Cũng được, vậy chúng ta qua đại sảnh bên cạnh chờ tin, để Tử Triều đi dò ý Di Tử Hạ đã rồi mới tính tiếp.
Di Tử Hạ gặp mặt Công Tử Triều, mặt đỏ tía tai ấp a ấp úng nói ra ý định muốn vào gặp quốc quân, hắn tuy cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng thần sắc vẫn rất hồi hợp, nhưng vì quan hệ của hắn và Vệ hầu vốn đã đặc biệt, nên có những điều khó nói trắng ra, Công Tử Triều chỉ nghĩ là hắn đang mắc cỡ, cũng không để ý lắm thái độ của hắn.
Công Tử Triều nói ra ý định nhờ cậy Di Tử Hạ chuyển lời thuyết phục Vệ hầu. Nói chuyện với Tử Hạ, Công Tử triều không e dè gì cả, đem những lời nếu quốc quân không đồng ý xuôi theo, sẽ chọn một người khác trong gia tộc Cơ thị thay thế ngôi vua nói cả ra. Thực ra đám người Tề Báo vẫn chưa đủ lực lượng làm được chuyện đó, những lời này chỉ là hù dọa Di Tử Hạ mà thôi, Di Tử Hạ làm sao phân biệt được thật giả, sợ đến nỗi mặt mày trắng bệch, vội vàng luôn miệng nhận lời cố gắng thuyết phục quốc quân.
Công Tử Triều thấy đạt được mục đích, bèn dẫn Di Tử Hạ đi gặp Vệ hầu, cặp đôi đồng tính này vừa gặp đã ôm nhau khóc to, còn kể lể tâm tình ra sao thì người ngoài không ai biết. Chỉ là sau khi Di Tử Hạ rời khỏi, thái độ của Vệ hầu Cơ Nguyên lập tức thay đổi, một mình hắn ở trong phòng nửa ngày trời không thấy động tĩnh gì, đám Chử Sư Phố mượn cớ hỏi thăm mấy lần cũng chỉ thấy hắn nằm im nhìn lên trần suy nghĩ gì đó, ngay cả có người đi vào cũng không nhận ra.
Chử Sư Phố đem hành vi khác lạ của Vệ hầu nói với bọn Tề Báo, bọn Tề Báo nghe xong đều cảm thấy sự việc tràn trề hy vọng, đợi đến quá trưa, bốn người lại xin vào yết kiến, lặp lại lời cũ, Vệ hầu Cơ Nguyên rơi nước mắt một hồi, cuối cùng gật đầu đồng ý, bốn người mừng rơn, lập tức chuẩn bị mọi việc đưa Vệ hầu Cơ Nguyên hồi cung.
Hôm sau, Vệ hầu Cơ Nguyên được bốn người Tề Báo cung kính đưa về hoàng cung, sau đó lập tức hạ chiếu chỉ, công bố thiên hạ mười tám tội lớn đáng phải chết của Công Mạnh Trập, trong chiếu chỉ nêu rõ các đại trung thần có công dẹp loạn là Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều, Chử Sư Phố, còn về Khánh Kỵ của Ngải thành lại tuyệt nhiên không nhắc tới.
Vệ hầu triệu tập quần thần, bàn bạc công tác sắp xếp việc triều chính sau khi Công Mạnh Trập bị giết chết, còn vấn đề ban thưởng cho các công thần đứng đầu là Tề Báo nữa. Các đại thần trong triều có ai mà không biết chuyện bọn Tề Báo giam lỏng Vệ hầu, đuổi giết Công Mạnh Trập chứ? Chỉ là nghe quốc quân ban chiếu chỉ như thế, họ cũng chỉ còn cách giả câm giả điếc, đồng thanh tán thành.
Tề Báo vì muốn ra vẻ là một trung thần diệt trừ phản loạn, đã bỏ lệnh giới nghiêm trong thành, thương lái khắp nơi lại được tự do buôn bán, dân chúng được khôi phục sinh hoạt như trước đây trong thành Đế Khâu. Cái chết của Công Mạnh Trập như cơn động đất trong triều đình, nhưng đối với dân chúng lại chẳng ai quan tâm, khắp Đế Khâu như hồi phục vẻ thanh bình thường ngày, còn trong triều sóng gió lại sắp nổi lên.
Sau khi Công Mạnh Trập chết xuất hiện khoảng trống quyền lực cần trám vào, theo lẽ thường thì sẽ do bốn người bọn Tề Báo chia nhau quyền lực, nhưng phân chia thế nào giờ lại trở thành đề tài bàn tán giữa các đại thần trong triều. Vệ hầu công bố quyết định thỏa thuận ngầm với bọn Tề Báo trên triều đình xong, Tề Báo cứ nghĩ mọi người không ai dám dị nghị, ai ngời các đại thần chức cao quyền trọng thuộc phe Công Tử Kinh, Công Thúc Phát lại đứng ra bàn cãi sôi nổi về quyết định ban thưởng.
Đám đại thần này không phải phủ nhận công lao bọn Tề Báo, mà chỉ là cãi nhau công lao của ai lớn hơn, ai nên được thưởng chức quan to hơn, được chia nhiều đất hơn mà thôi. Bọn quan lại ủng hộ khác nhau, có người đứng về phía Tề Báo, có người đứng về phía Công Tử Triều, ai nấy cãi nhau đỏ mặt tía tai, nước bọt phun phì phì cả lên.
Bọn Tề Báo đang đóng vai trung thần nghĩa sĩ, tất nhiên không thể thấy người khác có chút ý kiến thì cậy quyền trấn áp, hơn nữa đám đại thần này đâu có chống đối gì, bọn Tề Báo cũng muốn nhân cơ hội này xem xem ai đứng về phía mình nên đều mặc kệ, cứ dung túng cho đám đại thần ủng hộ mình đi cãi nhau với phe khác. Hai ngày sau, bọn Tề Báo đã mất hết kiên nhẫn, đêm đó vào hoàng hôn chợt cổng thành Đế Khâu rộng mở, đột nhiên có mấy ngàn người ngựa xông vào thành, tin tức lập tức được truyền đến phủ bọn Tề Báo, mấy người thất kinh hồn vía, vội mặc giáp đeo gươm, triệu tập thân tín phòng hờ bất trắc.
Tướng trấn giữ thành Nam Trần Long là thân tín của Công Mạnh, Công Mạnh từ sau khi Công Mạnh Trập chết luôn cung kính bọn Tề Báo, ra vẻ ngoan ngoãn phục tùng, lần này trên triều lại là người ra sức tán thành phong thưởng cho Tề Báo nhiều nhất, nên các cung vệ, thành vệ khắp nơi đều bị bọn Tề Báo đưa thân tín của mình vào giữ chức quan trọng, chỉ có tướng trấn giữ thành Nam là Trần Long, vì là thân tín của Công Mạnh, Tề Báo muốn ban ơn cho Công Mạnh lôi kéo hắn về phe mình nên chưa thay thân tín của hắn đi, ai ngờ chính tên Trần Long giờ lại mở cửa cho mấy ngàn người ngựa ùa vào thành.
Nghe tin, bọn Tề Báo lo sợ mình sẽ bị như Công Mạnh Trập, lập tức triệu tập người ngựa bày binh bố trận, nhưng mặc cho chúng cầm binh khí ngồi chờ đến sáng, cũng không thấy ai đến tấn công, mấy tên lính phái đi dò la tin tức về bẩm báo lại, đám người ngựa này là gia tướng của đại phu Công Thúc Bạt và con trai Công Thúc Tuất, còn của Cừ Viện đại phu nữa.
Bọn Tề Báo dẫn quân đột nhiên tấn công phủ Công Mạnh Trập, chỉ một số thương lái thấy xảy ra chiến sự đã nhanh chân trốn khỏi thành, do đó tin tức bị tiết lộ ra ngoài. Công Thúc Bạt và Cừ Viện chính là nghe được tin tức Đế Khâu có binh biến từ những thương nhân này, vội triệu tập người ngựa tiến vào thành hộ giá, đợi sau khi vào thành, nghe nói là quốc quân đã hạ lệnh giết Công Mạnh Trập, vì đã khuya không chỗ nghỉ chân nên cứ ở tạm xung quanh phủ Công Mạnh, đợi ngày mai vào triều yết kiến Vệ hầu tính sau.
Tề Báo nghe vậy thở phào nhẹ nhõm, hồi đó giao thông khó khăn, tin tức qua lại rất mất thời gian, xảy ra những chuyện nhầm lẫn này cũng là bình thường, nhưng nghĩ lại cảm thấy với thái độ phục tùng của bọn Công Mạnh, Trần Long mấy hôm nay, không lí nào lại tự ý mở cửa thả mấy ngàn người ngựa vào thành, sau khi vào thành lại không báo một tiếng với hắn, sự tình thật giả thế nào, quả là nghi vấn trùng trùng.
Tề Báo càng nghĩ càng thấy bất an, vội bàn bạc với Công Tử Triều và Bắc Cung Hỉ, ai cũng không đoán ra được ý định của đám người Công Thúc Bạt. May mà cung vệ giờ đây do Công Tử Triều nắm giữ, sáng ngày mai bọn Công Thúc Bạt, Cừ Viện vào cung không được mang theo quân lính, khi đó bọn Tề Báo nắm giữ phần thắng, nên thấy cũng không có gì đáng phải e sợ.
Đợi khi mặt trời lên cao, bọn Tề Báo vào cung kiến giá, tất cả đều mặc áo giáp bên trong, ngoài mới khoát áo bào, lại lén giấu binh khí trong người, được mấy trăm vệ sĩ hộ tống vào cung. Đến trước cổng hoàng cung, thấy các đại thần tất cả đều mang theo các gia tướng dũng mãnh, bên ngoài cung người ngựa chen chúc, cờ bay rợp trời, cứ như cảnh mười năm trước nước Tấn tiến đánh nước Vệ quốc, quốc quân đích thân dẫn quân xuất chinh vậy, cảnh tượng khá là náo nhiệt.
Bọn Tề Báo và Công Thúc Bạt, Cừ Viện là chỗ quen biết cũ, lúc trước khi Công Mạnh Trập còn nắm quyền, cả bọn còn hay uống rượu với nhau, thầm rủa Công Mạnh Trập lộng quyền, giờ đây gặp mặt, lại là ai nấy mang lòng riêng, Tề Báo và Bắc Cung Hỉ nháy mắt ra hiệu với nhau, cẩn thận tiến lên phía trước, còn Công Tử Triều lén chuồn ra phía sau sắp xếp binh lính phòng ngừa bất trắc.
Công Thúc Bạt đã ngoài sáu mươi, khuôn mặt vuông vức, trán nhô cao, hai mắt sáng loáng, thân hình to cao, oai phong bệ vệ, hắn đeo thanh kiếm to gấp hai lần người thường, khi bước đi hùng dũng mang dáng vẻ một đại tướng quân. Cừ Viện trẻ tuổi hơn, khuôn mặt thanh tao, thân hình cao ráo, ra vẻ quân tử nhu nhược, cũng đeo một thanh kiếm ngang lưng.
Lúc bấy giờ được phép đeo kiếm trước mặt vua, nhưng thanh kiếm phải là vật bất ly thân của người đó. Phần lớn đại thần khi yết kiến Vệ hầu đều không mang kiếm theo, hôm nay không ai bảo ai lại hầu hết đeo kiếm vào chầu, một số ít đại thần trung lập thấy cảnh này tim đập thình thịch, không biết hôm nay sẽ xảy ra chuyện xấu gì đây.
Công Thúc Bạt là cháu của Vệ Hiến Công, thuộc dòng dõi hoàng tộc, địa vị cao quý, bọn Tề Báo tươi cười bước tới hành lễ, Công Thúc Bạt mỉm cười đáp lại, không ngớt lời khen ngợi bọn họ có công dẹp yên phản loạn, con trai hắn Công Thúc Tuất đứng kế bên lại ngạo nghễ không thèm lên tiếng, có vẻ không coi ai ra gì. Bọn Tề Báo quan sát tỉ mỉ từng chi tiết nhỏ, không phát hiện có gì bất thường.
Một lúc sau, Công Tử Triều lo liệu xong mọi việc quay lại, hắn ho nhẹ một tiếng, khẽ gật đầu với bọn Tề Báo, rồi mới tiến tới hành lễ với hai cha con Công Thúc Bạt và Cừ Viện. Tề Báo biết đã sắp xếp đâu vào đó, cảm thấy an tâm, lúc này mới cung kính tươi cười mời Công Thúc Bạt và Cừ Viện:
- Bạt công, Bá Ngọc huynh, quốc quân đã thượng triều, xin mời vào cung.
- Ha ha, Tề Báo à, ngài giờ đây đã là đại công thần của Vệ quốc, sao lại khiêm tốn như thế, nào nào, ngài và lão phu cùng sánh bước vào triều.
Công Thúc Bạt cười to, đưa tay nắm lấy cổ tay Tề Báo, hướng về phía cổng hoàng cung bước tới.
“Khánh Kỵ công tử, ngày mai người trở về Ngải thành ?”
“Vâng, Vệ Hầu có thể ân chuẩn cho Khánh Kỵ chiêu binh, Khánh Kỵ cảm kích vô cùng, lần này về Ngải thành, Khánh Kỵ chiêu binh mãi mã, gấp rút chuẩn bị cho việc chinh phạt nước Ngô, tháng ba năm sau, Khánh Kỵ phải xuất binh chinh phạt nước Ngô lần nữa.”
Khánh Kỵ khuôn mặt rạng rỡ vừa nâng ly vừa nói: “Hiện nay tình hình ở Đế Khâu phức tạp, Khánh Kỵ không tiện lộ diện, đành nhờ Tử Hạ hầu hạ Vệ Hầu, được Vệ Hầu trợ giúp, Khánh Kỵ suốt đời không quên, lần này nếu có thể chinh phạt nước Ngô thành công, thì Vệ Hầu sẽ là đại ân nhân của Khánh Kỵ Khánh Kỵ nguyện kết tình giao hảo với nước Vệ, hai nước hỗ trợ lẫn nhau.”
Những lời này Khánh Kỵ nói một cách rất chân thành, đích thực là xuất phát từ trong tâm hắn, dù cho trước đây vì lợi ích của mỗi người mà ngươi gian ta trá thế nào đi nữa, nhưng trên quan trường, tình hữu nghị và hợp tác giữa chính trị và cá nhân, vốn được xuất phát từ lợi ích căn bản của mỗi người. Dẫu cho ngày hôm qua giữa hai bên còn đấu đến chết đi sống lại, nhưng một khi cùng chung lợi ích, thì có thể bắt tay làm hòa, trở thành đồng minh chính trị thân thiết, mấy trăm năm nay, vào cái thời Xuân Thu này những chuyện đại loại như thế đã được tái diễn không biết bao nhiêu lần rồi.
Huống hồ những gì hắn làm không phải đối phó với Vệ Hầu Cơ Nguyên. Là một người bình thường, Cơ Nguyên có thể căm hận hắn đã ngấm ngầm chỉ đạo, nhúng tay vào việc của nước Vệ, nhưng là Vua một nước, một lãnh tụ chính trị, dù cho Cơ Nguyên có hận hắn đến nỗi muốn ăn tươi nuốt sống, nhưng với tình hình trước mắt, Cơ Nguyên cũng không dại gì chuốc họa vào thân, tự tạo kẻ thù cho mình.
Cơ Nguyên hiểu rằng, một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, hắn sẽ trở thành vua một nước. Lúc đó cho dù Khánh Kỵ xuất phát từ cảm ơn hoặc trên đạo nghĩa hoặc sự cần thiết về mặt lợi ích, hắn chỉ có thể trở thành liên minh chính trị với một nước Vệ, hoàn toàn không có sự xung đột về lợi và hại, và không thể là đối thủ chính trị với nhau, vì vậy khi mọi việc đều trở thành hiện thực, Vệ Hầu Cơ Nguyên đành bỏ mặc sự căm ghét của mình, mà lựa chọn ủng hộ hắn.
Sự ràng buộc và liên minh ở phương diện chính trị, không hề đơn giản như giao kết bằng hữu bình thường. Chỉ đơn thuần dựa vào lời nói và sự chân thành thì đúng là một biểu hiện rất ngây thơ và ấu trĩ. Bất luận là Vệ Hầu Cơ Nguyên hay là công tử Khánh Kỵ, đều không phải là dạng người đó.
Di Tử Hạ đột nhiên vui vẻ cười và nói: “Khánh Kỵ công tử xin yên tâm, ta tin rằng Vệ hầu nhất định sẽ rất vui mừng khi nghe được những lời này của công tử.”
Hắn rất vui mừng, vì chỗ dựa của hắn là Vệ Hầu, Vệ Hầu không những không bị sụp đổ, mà quân quyền tập trung còn tăng gấp bội phần so với thời Công Mạnh Trập vẫn còn. Lúc trước Vệ Hầu cần làm gì, ở giữa đều có Công Mạnh Trập trên dưới truyền đạt, khiến Cơ Nguyên và các vị đại phu công khanh trong triều, mục thủ và thái ấp của cả nước bị chia cắt, nhưng bây giờ, có một số quyền lực đã nằm trong tay của Cơ Nguyên.
Theo những lời nói đùa của Khánh Kỵ hôm “sau khi say rượu”, Vệ hầu Cơ Nguyên đối với những quyền lực thật giả xuất hiện sau khi Công Mạnh Trập chết tiến hành điều chỉnh một cách khéo léo. Nắm được thế chủ động trong việc triều chính, hiện nay thế cục của nước Vệ đã đạt được một sự cân bằng huyền bí, sự cân bằng này theo tổng thể mà nhận xét, đối với Vệ Hầu càng thêm có lợi.
Công Thúc Bạt, Cừ Bá Ngọc và Công Mạnh nội ứng ngoại hợp, họ đột nhiên cử một toán binh lính trung thành với công thất vào Đế Khâu, như vậy, về phía Vệ Hầu vốn dĩ đã hoàn toàn rơi vào sự khống chế của loại người như Tề Báo bỗng chốc thực lực được gia tăng. Khi chỗ dựa đã vững chắc, thì có thể theo cách của Cơ Nguyên mà tiến hành những điều chỉnh thích hợp. Do cách dùng người của Vệ Hầu Cơ Nguyên đối với đám người như công tử Triều, Tề Báo là vừa đánh vừa xoa, không hề dồn họ vào đường cùng, với tình hình như thế, họ không có dũng khí để liều chết phản kháng, chỉ đành chấp nhận sự an bài của Vệ Hầu.
Vệ Hầu Cơ Nguyên vẫn thừa nhận công lao của họ, thừa nhận tội danh của Công Mạnh Trập, để vỗ về đám người đã từng nắm giữ binh mã trong thành như Tề Báo. Nhưng với sự phân chia quyền lực mới này. Vệ Hầu lại không tiến hành theo những thỏa hiệp riêng với đám người công tử Triều, mà đã giở một số thủ đoạn.
Về phía thị vệ trong cung. Từ một đội thị vệ biến thành 2 đội, thuộc quyền thống lĩnh của hai vị tướng quân, trực tiếp nhận lệnh từ Vệ Hầu, trong đó một đội sẽ do lực lượng thị vệ trong cung khống chế, đội quân này hiện do công tử Triều thống lĩnh, công tử Triều đã sắp xếp hơn mười vị tử sĩ mà chính hắn đã mang từ nước Tống sang trà trộn vào đội thị vệ trong cung làm thống lãnh, nên gần như đã nắm trọn đội quân này trong lòng bàn tay, miếng mồi ngon đã đưa đến tận miệng hắn tuyệt sẽ không nhả ra lại, Vệ Hầu Cơ Nguyên bèn lấy cớ rằng thị vệ trong cung đã bị Công Mạnh Trập khống chế, trong lúc bình loạn không phát huy được tác dụng gì, để tránh việc này, nên đã lập thêm một đội quân, để hỗ trợ và giám sát nhau.
Đội quân còn lại gồm những binh sĩ được chiêu mộ từ đội quân riêng của Công Tôn Bạt và Cừ Bá Ngọc, do con trai của Công Tôn Bạt là Công Tôn Mậu thống lĩnh. Đồng thời, đối với thị vệ trong thành, tăng cường thêm quyền thống binh vốn có của Công Mạnh đại tướng quân, như vậy hai lực lượng phòng ngự trong cung và trong thành, hình thành lực lượng cân bằng và khống chế lẫn nhau.
Đề phòng Tề Báo và Công Tử Triều nảy sinh nghi ngờ là Cơ Nguyên đang âm mưu đối phó với họ, Cơ Nguyên đồng thời vừa tiến hành ban thưởng vừa vỗ về. Đối với công tử Triều, người đang nắm giữ một nửa lực lượng thị vệ trong cung, Vệ Hầu Cơ Nguyên đã cắt ra một tòa thành và ba nghìn mẩu đất từ đất phong vốn dĩ thuộc về Công Mạnh Trập, phong cho công tử Triều làm thái ấp, và đề bạt hắn lên làm thượng khanh.
Đại quyền trong triều vốn dĩ do Công Mạnh Trập độc bá, nay được phân chia cho các vị Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Trử Sư Phố, Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc năm vị, đảm nhận những chức vụ quan trọng khác nhau. Bề ngoài, Công Tôn Bạt và Cừ Bá Ngọc chỉ có hai người, yếu thế hơn so với thế lực của ba vị đại thần Tề báo, Bắc Cung Hỉ và Trử Sư Phố, nhưng cũng không đến nỗi tạo thành uy hiếp quá lớn đối với họ.
Tề Báo được phong làm Thái Sư và Thái Bảo, hai chức vị trong Tam Công đã thuộc về Tề Báo, đây là hai chức vị vô cùng cao quý và vinh dự, và là việc chưa từng xảy ra trong lịch sử nước Vệ. Là người lập công đầu trong việc “trừng trị nghịch tặc”, hắn còn được phong tặng trước tên thụy là “Văn Tự”, vả lại còn được phân mảnh đất lớn nhất, màu mỡ nhất của Công Mạnh Trập làm Thái Ấp, trông bề ngoài thì rất vinh quang, không ai sánh bằng, nhưng trên thực tế quyền lực để hắn có thể nhúng tay vào chính trị thì rất ít.
Bắc Cung Hỉ là người có công thứ hai trong lần chu sát Công Mạnh Trập này, hắn từ chức quan Đại Tư Khấu được tấn phong lên chức Đại Tư Đồ, đây vốn là chức quan mà Tề Báo thèm muốn, Tư Đồ chấp chưởng dân chính lao dịch, đồng chức vị với Thừa Tướng, thực quyền lớn nhất trong số các cửu khanh, tuy rằng luận về quan chức và địa vị, hắn vẫn dưới Tề Báo một bậc, vinh quang không bằng người kiêm nhiệm Thái Sư, Thái Bảo như Tề Báo, nhưng lợi ích mà hắn thu được thì nhiều hơn Tề Báo gấp bội.
Bắc Cung Hỉ được phong chức vị cao, quả là tin vui bất ngờ, hắn biết Vệ Hầu phong chức như thế là muốn gây chia rẽ và nghi ngờ, nhưng vấn đề là sự nghi hoặc này thật khiến hắn hoàn toàn không có cách gì cự tuyệt. Thái độ của Tề Báo khi gặp Bắc Cung Hỉ là căm hận tới tận xương tủy, về phần Công Tôn Bạt và Cừ Bá Ngọc, khi đã vào trong thành, thì gần như mất hết ưu thế, cũng chẳng thể nào khống chế được Vệ Hầu Cơ Nguyên nữa, vào lúc này họ tuyệt không thể trở mặt với Bắc Cung Hỉ, chỉ đành ngậm đắng nuốt cay, miễn cưỡng tươi cười mà chúc mừng Bắc Cung Hỉ.
Bắc Cung Hỉ cũng được sớm phong tên thụy là: “Trinh Tử”. Nghĩa là trung thành kiên định, Bắc Cung Hỉ được phong tên thụy này, cũng giống như đã tự khoác lên mình một chiếc vòng kim cô đạo đức, tuy chỉ là hư danh cũng không hề ràng buộc được gì, nhưng vào cái thời Xuân Thu rất chú trọng vào tiếng thơm sau khi trăm tuổi này, trừ phi nguy cập đến sinh tử tồn vong của bản thân. Nếu không, từ nay về sau Bắc Cung Hỉ trước khi muốn gây bất lợi với Vệ Hầu, cũng phải suy nghĩ kỹ về cái giá phải trả sau này, càng không thể không nghĩ đến việc sau khi trăm tuổi có trở thành trò cười cho thiên hạ hay không.
Nâng đỡ Bắc Cung Hỉ để kiềm chế Tề Báo. Khiến Vệ Hầu Cơ Nguyên không tốn một công một sức nào, trở thành kẻ có lợi nhất trong màn tranh chấp này. Khánh Kỵ hiểu, sau khi các phương diện chính trị đã tạm thời được cân bằng, cái Cơ Nguyên cần là cục diện ổn định, nên vào lúc này hắn chỉ đành nhẫn nhịn sự tồn tại của bản thân, tiếp nhận điều kiện của Cơ Nguyên.
Cái mà Khánh Kỵ cần, cũng chỉ là trong mấy tháng này, nếu hắn không thể chinh phạt nước Ngô thành công. Bỏ mạng nơi chiến trường thì thôi. Còn nếu thành công, thì hắn sẽ là Vua nước Ngô, lúc đó Vệ Hầu càng phải chấp nhận hiện thực, giao kết liên minh với hắn. Tuy công tử Triều kiêm nhiệm việc hỗ trợ lương thực và sơ thẩm những người tham gia đầu quân cho Khánh Kỵ, nhưng với tình hình này, liệu công tử Triều có dám gây khó dễ cho người mà chỉ tùy tiện đứng nép một bên đã có thể thay đổi cả thế cục? Với sự kềm chế của đội thị vệ mới, hắn dám rời khỏi cung để mà cứu vãn việc của hắn à? Tất cả mọi việc đều đang xảy ra rất thuận lợi theo kết quả mà Khánh Kỵ mong muốn, nên khi hắn rời khỏi Đế Khâu, tâm trạng rất ư vui vẻ.
Khánh Kỵ đã suy nghĩ thấu đáo về lợi và hại giữa các mối quan hệ, vui sướng vén bức rèm ở cửa kiệu nhìn ra bên ngoài, hai bên đều toàn những binh sĩ tay cầm binh khí, xếp thành đội hình ngay ngắn thẳng tiến về phía trước, vì có Khánh Kỵ, nên binh sĩ hai bên không ai dám cười nói ồn ào, chỉ có tiếng bước chân lạo xạo.
Họ đều khoác trên mình hai lớp áo bào, trông thì cồng kềnh. Nhưng giữ ấm rất tốt. Chân mang giầy được làm từ da chó. Tất cả đều do Khánh Kỵ dùng hết ngân lượng mua từ Thanh Ngõa Quan về. Ngoài ra, những thứ còn lại đều do đám người Vệ Hầu Cơ Nguyên, Tề Báo và Bắc Cung Hỉ, xuất phát từ những mục đích khác nhau mà đem tặng cho Khánh Kỵ.
Đôi mắt Khánh Kỵ hơi trĩu xuống, đội quân này trải qua mấy tháng khổ luyện, kinh qua thử thách trong trận chinh phạt nước Ngô vào mùa xuân này, tinh thần và vẻ mặt so với trước đây đã có nhiều biến đổi. Trong trận chiến Thanh Ngõa Quan, sức chiến đấu và tính kỷ luật mà đội quân của hắn thể hiện, so với trước đây đã thêm phần nhuệ khí và vững vàng.
Khánh Kỵ bất giác cầm lên một quyển trúc giản, đó là danh sách công trạng của Lương Hổ Tử, khi còn ở nước Lỗ, hắn từng nói, phàm những ai lập được quân công, đều được ban thưởng, giờ là lúc hắn thực hiện lời hứa. Người không giữ chữ tín còn khó sống, hắn là thống soái , thì càng phải giữ chữ tín, thưởng phạt phân minh, như vậy mới có thể khiến sĩ khí tăng cao. Còn Đậu Kiêu Kính, và rất nhiều vị dũng sĩ đã hy sinh, Khánh Kỵ không hề quên họ, hắn sẽ lập bia để lưu danh họ. Đây không chỉ đơn thuần là tưởng niệm những dũng sĩ đã khuất, thiên hạ dũng sĩ nghe tiếng cũng sẽ đến phò trợ, tin rằng chỉ trong vòng ba đến bốn tháng, hắn có thể chiêu mộ thêm những dũng sĩ từ các nước đến đầu quân, những người này đều là những võ sĩ có tố chất cao, không cần trải qua luyện tập cũng có thể trở thành một chiến sĩ thực thụ.
Lần trở về Ngải thành này, tin rằng các sứ giả được phái đi liên lạc với Tôn Vũ, Anh Đào, Yểm Dư và Chúc Dung đều đã quay về, đại kế phản công nước Ngô cũng đã vào giai đoạn gấp rút chuẩn bị. Đội quân chinh phạt nước Ngô của Khánh Kỵ được chia ra ba nơi, vào cái thời đại chưa có vô tuyến điện này, đội quân chia nhau đóng ở ba nước rất khó liên hệ và phối hợp chặt chẽ với nhau, thế nên Khánh Kỵ đã dùng thủ đoạn cho các thương gia buôn muối ở các nơi được lợi, biến các cửa hiệu buôn muối trên hai tuyến đường trọng yếu này thành dịch trạm của hắn, như vậy tốc độ truyền tin ít nhất cũng nhanh gấp ba lần, đối với hành động thống nhất vào tháng ba năm sau rất ư có lợi.
Hắn thở dài, đôi mắt hắn hướng về Quý Tôn Tiểu Man đang đứng dựa vào chiến xa, nàng mặc võ phục, áo giáp bên ngoài, đầu đội nón da, bên hông một thanh bảo kiếm, bao kiếm dài qua đầu gối, nhìn thân hình nhỏ bé của Quý Tôn Tiểu Man trong bộ trang phục đàn ông, trông như một đứa trẻ mười ba hay mười bốn tuổi, nhưng nhìn thần sắc thì rất là nghiêm túc.
Gió thu càng thổi càng lạnh, chung quanh chiến xa không có chắn gió, khuôn mặt của Quý Tôn Tiểu Man có vẻ xanh xao, tay nàng dựa vào thanh vịn của chiến xa, các ngón tay nắm chặt vào thanh vịn, nhìn ngón tay nàng có phần trắng bệch.
“Ngải tướng quân, xin mời lên xe.”
Khánh Kỵ thấy vậy trong lòng không nỡ, bèn lên tiếng.
Quý Tôn Tiểu Man liếc hắn, chóp mũi nàng lạnh đến nỗi đỏ cả lên, không thèm lên tiếng, nàng nhảy tung lên, như một mũi tên được bắn từ chiến xa đến chiếc xe cách đó hơn một trượng. Thân thủ của nàng nhẹ như chim Yến, sau đó nàng đáp xuống càng xe, một vài binh sĩ nhìn thấy thân thủ của nàng, bất giác thốt lên kinh ngạc.
“Khinh công thật đáng nể!”, trong lòng Khánh Kỵ cũng thầm khen ngợi, ánh mắt hắn nhìn lướt qua đôi chân và mông của nàng.
Quý Tôn Tiểu Man đứng trên càng xe chắp tay cung kính, vẻ mặt nghiêm túc nói: “Công tử.”
Khánh Kỵ khẽ cười: “Mời vào!” vừa nói hắn vừa nép người qua một bên.
Quý Tôn Tiểu Man có chút do dự, sau đó xoay người bước vào trong. Khánh Kỵ buông rèm xuống. Khi đã yên vị bên trong xe. Quý Tôn Tiểu Man lập tức có chút không tự nhiên, hai má ửng hồng: “Công tử …… xin hỏi có điều chi căn dặn?”
Khánh Kỵ cười ha ha, nói: “Nàng thật hiểu phép tắc, nhưng vào lúc này tuy nàng đang trong quân ngũ, nhưng không phải là lúc có chiến sự, hà tất phải theo phép tắc lễ nghĩa, nào. Mời ngồi.”
Ngồi trong xe mà cứ khom lưng như thế thì thật là khó chịu, Quý Tôn Tiểu Man không chút do dự là theo lời của Khánh Kỵ, nàng ngồi bên phần cửa sổ còn lại. Khánh Kỵ lấy tay ôm lấy cổ áo, khẽ cười nói: “Thật ra cũng chẳng có việc gì, chỉ là thấy nàng mặc không đủ ấm, đứng trên xe hứng chịu cái lạnh của gió thu. Chi bằng ở trên xe cùng ta. Chúng ta có thể nói chuyện phiếm để không nhàm chán.
Quý Tôn Tiểu Man liếc hắn, nói: “ Công tử đối với thuộc hạ đều quan tâm như thế sao?”
Khánh Kỵ cười đáp: “Đúng, bổn công tử xem các thuộc hạ như huynh đệ vậy, huống chi lại là Quý Tôn giáo luyện do đích thân ta mời về, ha ha, ta càng phải đối đãi như thượng khách.”
Quý Tôn Tiểu Man chau mày. Nói: “Ta không phải huynh đệ của ngài. Sở dĩ tham gia quân ngũ của ngài, chỉ là muốn có thêm những trải nghiệm mới, khi nào tình hình nước Lỗ ổn định , ta sẽ rời khỏi.”
“Đương nhiên, Quý Tôn tiểu thư muốn đến muốn đi, đều tùy ý nàng, Khánh Kỵ tuyệt đối không ngăn cản.”
Quý Tôn Tiểu Man hứ một tiếng, mím môi, đôi mắt nhìn về phía rèm kiệu, ánh mắt nhấp nháy, như đang suy nghĩ điều gì đó.
“Nàng đang nghĩ gì thế?”
“Ngài đóng quân ở các thành, có phải là ý của gia chủ?”
“Thế nàng nghĩ sao?” Khánh Kỵ nhất thời chưa rõ nàng ấy đang suy nghĩ cái gì, cố ý vừa cười vừa ko đáp lại.
“Ngài ở đây bí mật chiêu binh mãi mã, đương nhiên là đang tính việc đại sự, tại sao ngài cứ phải… cứ phải…” khi nói những câu này vẻ mặt Quý Tôn Tiểu Man còn đầy chính khí, nhưng khi nói đến đoạn khúc mắc trong lòng, thì lại thấy khó mở miệng, thế nên rụt rè.
“Cứ phải thế nào”
Khánh Kỵ tươi cười nhìn Quý Tôn Tiểu Man, khiến Quý Tôn Tiểu Man càng cảm thấy quẫn bách, càng không dám hỏi tiếp.
“Sao nàng lại không nói?”
Quý Tôn Tiểu Man nghiến răng, …..: “Ngài và Thành Bích rốt cuộc là có quan hệ gì?”
Khánh Kỵ giật mình, có đôi chút do dự, hắn nói: “Ta đã nói rồi, không lẽ nàng… không hiểu ta và nàng ấy rốt cuộc là quan hệ như thế nào sao?”
Hai má của Quý Tôn Tiểu Man ứng đỏ cả lên, rụt rè nói: “Ngài chỉ là… hay là muốn… muốn…”
Khánh Kỵ nghiêm chỉnh đáp: “Đương nhiên ta không phải trêu hoa ghẹo nguyệt. Người con gái mà ta thích, ta tin rằng không có nam nhân nào lại không thích, ta không có thói quen đùa giỡn tình cảm, với Thành Bích, cho dù nàng xem thường nàng ấy, thậm chí không thừa nhận những việc nàng ấy đã làm cho dòng họ Quý Tôn, trong mắt nàng, nàng ấy chỉ là một nô tì, trên danh nghĩa mà nói thì đúng là như thế, thế nhưng ta rất tôn trọng nàng ấy, nàng ấy là một cô nương thật lòng thật dạ, chứ không phải người lẳng lơ chỉ thích chuyện chăn gối, khi ta chấp nhận đến với nàng ấy, ta đã quyết định, chỉ cần ta còn sống, chỉ cần ta giành lại nước Ngô, ta sẽ về đón nàng ấy, khiến nàng ấy danh chính ngôn thuận trở thành phu nhân bên cạnh ta.”
Quý Tôn Tiểu Man thở dài, vẻ mặt như giãn ra, nhưng trong ánh mắt nàng như có thêm một cảm giác phức tạp khó tả, là thất vọng, ngao ngán, hay là đố kỵ? Hoặc giả nàng ấy chưa từng có những tình cảm này, tóm lại, nàng ấy cũng có phần không thoải mái, và dường như có chút trống rỗng.
“Tại sao nàng lại hỏi vậy?”
Quý Tôn Tiểu Man lắc đầu, sau đó nhìn hắn, trên gương mặt thơ ngây có thêm nét nghiêm túc và trịnh trọng: “ Từ khi ta biết.. những gì mà mẫu thân đã làm với nàng ấy, ta đã không còn hận nàng ấy. Nhưng… trong ta đang chảy dòng máu của dòng họ Quý Tôn, đệ đệ còn nhỏ, ta phải gánh vác dòng họ này. Vốn dĩ, ta lo nàng ấy sẽ kết cấu với gia nô làm loạn, bán đứng Quý Tôn thị. Đến khi biết mẫu thân có lỗi với nàng ấy…”
Quý Tôn Tiểu Man ngập ngừng, nói: “Ta về Khúc Phụ, là muốn tìm một cơ hội thích hợp, lấy danh nghĩa là đại tiểu thư của Quý Tôn Tử Phi nói rõ sự việc với gia chủ, trả lại sự trong sạch cho nàng ấy, rời khỏi gia môn. Nếu người đó là ngài, nếu ngài không phải hạng trêu hoa ghẹo nguyệt, không phải tiếp cận nàng ấy vì tham số gia sản của nàng ấy, được! Ta hứa với ngài, gả nàng ấy cho Ngài!”
Quý Tôn Tiểu Man là con gái chính thất của Quý Tôn Tử Phi, thân phận cao quý, còn Thành Bích chỉ là một phần tài sản của Quý Gia. Nếu Thành Bích phu nhân không có người nối dõi, thì một khi Quý Tôn Tử Phi mất, Quý Tôn Tiểu Man sẽ là đương gia, Thành Bích chỉ là một tì thiếp, Quý Tôn Tiểu Man được quyền bán cho người khác, hoặc tặng cho người khác làm thiếp hoặc nô tì. Nếu Quý Tôn Tiểu Man là nam nhân, chỉ cần nàng ấy thích, nàng ấy thậm chí có thể giữ tì thiếp của phụ thân lại cho bản thân dùng, điều này cũng hoàn toàn hợp với lễ pháp.
Dù cho Thành Bích sinh được người nối dõi cho Quý Tôn Tử Phi, nhưng đứa con này cũng không được xem là con của nàng ấy. Trên danh nghĩa, Quý Tôn Sanh vẫn là con của Ngải thị Chánh phu nhân. Chỉ là có quan hệ huyết thống với nàng ấy, do vậy địa vị của nàng ấy ở Quý Gia có phần khác biệt, xét cho cùng, nàng ấy vẫn là một phần tài sản có thể tùy ý xử lý của Quý gia, Khi đó Quý Tôn muốn lôi kéo Khánh Kỵ tùy tiện ra chủ ý nhường Thành Bích cho hắn, là vì trong mắt Quý Tôn, ko hề xem nàng ấy là người đàn bà của Quý Tôn thị.
Tuy trong tương lai hài nhi thân sinh của nàng ấy sẽ là Quý gia gia chủ, nhưng hiện giờ trái tim nàng ấy đã thuộc về nơi khác, thì bùa hộ mệnh này cũng mất đi tác dụng, trước khi đệ đệ đến tuổi trưởng thành để đảm nhận vai trò gia chủ, thì Quý Tôn Tiểu Man có quyền xử lý nàng ấy. Quý Tôn Tiểu Man nói như vậy, trên thực tế là một biểu hiện tốt đối với Khánh Kỵ, đồng thời cũng xem như là bù đắp cho những gì mà năm xưa mẫu thân đã gây ra cho Thành Bích.
Khẩu khí của nàng, và việc xem Thành Bích như là một món hàng không có nhân cách và tôn nghiêm, khiến Khánh Kỵ nghe qua có chút không hài lòng. Nhưng hắn có thể hiểu ý tốt của Quý Tôn Tiểu Man, cũng hiểu rõ rằng những người như Quý Tôn Tiểu Man sinh trưởng vào thời đại này, muốn thay đổi cách nhìn của họ, xem Thành Bích bình đẳng với nàng ấy, thì thật khó gấp vạn lần, nàng ấy có thể có thái độ như thế, đã là đáng quý rồi.
“Hình như người… không được vui?” Quý Tôn Tiểu Man vốn cho rằng hắn sẽ vui mừng hớn hở mà cám ơn nàng, nhưng không ngờ hắn lại lặng đi, không kềm được hiếu kỳ nên hỏi.
Khánh Kỵ lắc đầu: “Không có gì, việc này… hãy để đến khi ta chinh phạt nước Ngô rồi hẵng tính, bây giờ, toàn bộ tâm ý của ta đều để ở trận chiến vào tháng ba năm sau, trận chiến này nếu thất bại, thì chẳng phải bàn gì nữa cả.”
Hắn quay mặt về phía Quý Tôn Tiểu Man, nhẹ nhàng nói: “Nàng là một cô nương tốt, tâm địa lương thiện, trông bề ngoài đanh đá chua ngoa, nhưng đó là cách mà nàng tự bảo vệ mình, nhưng bên trong nàng không kiêu ngạo, không nói lý lẽ như những tiểu thư đài các khác, Tiểu Ngải, nếu Khánh Kỵ chẳng may bỏ mạng trong trận chiến với nước Ngô, xin nàng hãy niệm tình của Khánh Kỵ, mà thiện đãi Thành Bích.”
Quý Tôn Tiểu Man mặt ửng đỏ, đôi mắt ngấn lệ, nàng cũng ko biết là do Khánh Kỵ đã nhìn thấu được bản chất của nàng, hay là vì việc Khánh Kỵ nói về những nguy hiểm của trận chiến với nước Ngô. Nghe hắn nói cứ như đang dặn dò hậu sự vậy, nhìn sự mềm yếu hiếm khi thấy trên mặt hắn…. tóm lại, trong lòng nàng ấy thấy khó chịu, chỉ muốn khóc mà thôi.
“Đừng quá lo lắng, bằng sự dũng mãnh của ngài, và sức mạnh của ba quân Lỗ, Vệ, Sở, thêm nữa ngài danh chính ngôn thuận mang thân phận thế tử, chinh phạt nước Ngô chưa chắc đã không thành. Viên Công là đệ nhất kiếm khách của nước Lỗ, cái danh đệ nhất kiếm khách này, hắn có được là do chinh chiến trên sa trường, Ta là thân nữ nhi, tuy từ nhỏ đã luyện tập võ nghệ, nhưng vì thể chất yếu ớt, nên cũng khó mà tinh thông như hắn, chứ chẳng phải ta không thường xuyên luyện tập kiếm pháp của Viên Công. Khi đã đến Ngải thành, ta sẽ truyền lại toàn bộ bí quyết kiếm thuật cho binh sĩ của ngài, giúp ngài như hổ thêm cánh.”
Quý Tôn Tiểu Man giọng nói nhỏ nhẹ, với bản năng của một cô nương, khiến nàng ấy muốn dốc hết toàn tâm toàn ý để giúp đỡ Khánh Kỵ.
“Ừm!” Khánh Kỵ liếc nhìn nàng ấy, ánh mắt dường như có vẻ đùa cợt.
Quý Tôn Tiểu Man nhìn bộ dạng nửa đùa nửa thật của hắn, toàn thân nàng lại cảm thấy không tự nhiên, Nàng nép về phía bên cửa sổ, mở to mắt nói: “Sao ngài lại nhìn ta như thế?”
Khánh Kỵ bỗng nhiên phát ra tiếng ừm vô nghĩa, vừa xoa cằm vừa nói: “Ta đang nghĩ… vậy ta nên cảm ơn nàng như thế nào đây.”
“Thật là ngốc, còn cảm ơn ta như thế nào à? Đây là do ta tự nguyện, nói không chừng, ngài sẽ cho ta bái tướng phong hầu? Thiên hạ này không có nữ nhi làm quan.” Quý Tôn Tiểu Man cười lớn, bỗng chốc tâm trạng thoải mái hơn nhiều.
Khánh Kỵ ra vẻ sầu não nói: “Đúng vậy, nếu ta có thật bái nàng làm tướng, phong nàng làm Thượng Khanh, chỉ e mọi người đều đồng ý, nàng cũng không màng.”
Quý Tôn Tiểu Man cười lớn đến híp cả mắt lại: “Người như ngài, sao lại trở nên khách sáo thế? Ta chỉ muốn giúp ngài, chứ chẳng ham gì của ngài cả.” Nàng ưỡn ngực, vui vẻ nói: “Ừm… nghĩ lại thì, Khánh Kỵ chinh phạt nước Ngô, một phần nhờ đại công của ta, vậy cũng đã mãn nguyện rồi.
Khánh Kỵ cười, nụ cười có vẻ ác ý: “Ta đang nghĩ. Nếu ta trở thành Ngô Vương, với thân phận Ngô Vương, là chư hầu một nước, ta muốn cưới Tư Không đại tiểu thư của nước Lỗ, một mình nàng ấy gả về đây thì không đúng về mặt lễ nghĩa, không biết Tam Hoàn nước Lỗ… có thể gả cả em dâu, để biểu thị tình hảo hữu không?”
Vào thời Xuân Thu. Chư hầu lập phu nhân đa số đều được tiến hành giữa các nước chư hầu có tình giao hảo với nhau, tỉ như Tề Hoàn Công từng lập tiểu nữ của Châu Thiên Tử là Vương Cơ, tiểu nữ của Từ Quốc là Từ Doanh và tiểu nữ của Thái Quốc là Thái Cơ làm phu nhân, ngoài ra còn nạp thêm tiểu nữ của các nước Vệ, Đặng, Cát, Mật và Tống làm chuẩn phu nhân. Tấn Hiến Công từng lập tiểu nữ của Giả Quốc là Giả Cơ, tiểu nữ của Tề quốc là Tề Khương, các tiểu nữ của Nhung Địch là Hồ Cơ, tiểu Nhung Tử và Ly Cơ làm Phu Nhân. Sở Thành Vương cũng từng lập tiểu nữ của Nước Tần và nước Đặng làm phu nhân, Sở Trang Vương lập tiểu nữ của nước Đặng và nước Việt làm phu nhân. Các vị phu nhân này địa vị như nhau, mỗi vị phu nhân khi xuất giá đều mang theo vài nữ nhi tôn thất cùng họ làm chuẩn phu nhân, những gì Khánh Kỵ nói có vẻ thẳng thắn, nhưng kỳ thật là rất có khả năng.
Thúc Tôn Diêu Quang không có tỷ muội, chỉ có một đứa cháu gái nhỏ hơn nàng ba tuổi. Chư Hầu lập phi tần, đối với các chư hầu mà nói, việc nước Lỗ gả tiểu nữ, đối phương là đại vương nước Ngô, mà chỉ đem theo một cháu gái thì thật thất lễ, đây là một sai lầm mà một nước trọng lễ giáo như nước Lỗ không cho phép phạm phải, vậy thì… Tam Hoàn nước Lỗ liệu có…
Quý Tôn Tiểu Man giật thót người, tim nàng bắt đầu đập “thình thịch” loạn cả lên, gần như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực nàng, nàng đỏ cả mặt, mở to mắt nói: “Ngài có ý gì?”
Khánh Kỵ khẽ cười: “Không có gì, ta chỉ là đang nghĩ, hiện giờ có người không tôn trọng Thành Bích, xem nàng ấy như là một món hàng của Quý Tôn Tử Phi có thể tùy ý xử trí, nếu sau này họ cùng chung một phu quân, có thể nào sẽ cảm thấy khó xử không nhỉ?”
Quý Tôn Tiểu Man kêu lên thất thanh: “Ngài mơ à, Quý Tôn Tiểu Man ta ngay cả ngôi vị phu nhân nước Lỗ ta cũng không màng, ta thèm gả cho ngươi sao?”
Khánh Kỵ ưỡn ngực, cười nói: “Chư Hầu lập phi tần, là truyền thống thiên hạ, có gì mà không thể chứ? Còn về việc làm phu nhân nước Lỗ, hay làm phu nhân nước Ngô, ha ha, nàng thấy Khánh Kỵ so với Cơ Tống thì thế nào?”
Khánh Kỵ nhếch nhẹ chân mày đầy mê hoặc, răng trắng môi đỏ, mắt sáng mày ngài, khôi ngô tuấn tú như Khánh Kỵ mà so sánh với tên Cơ Tống nát rượu, quả đúng là một trời một vực. Huống hồ trong lòng nàng luôn ngưỡng mộ một đại anh hùng như Khánh Kỵ, Quý Tôn Tiểu Man vốn muốn trêu đùa với hắn vài câu, nhưng khi thấy đôi mắt trong sáng của hắn, nàng bỗng cảm thấy xấu hổ. Nàng ngại ngùng quay mặt đi, tức tối nói: “Đúng là dở hơi, chưa giành lại được nước Ngô, mà đã nằm mộng giữa ban ngày.”
Khánh Kỵ cười nói: “Kỳ thực nếu nàng không thích, ta có ý này rất hay có thể giúp nàng ứng phó.”
“Sao?” Lý Tôn Tiểu Man quay về phía hắn, nhìn hắn với ánh mắt hiếu kỳ.
Khánh Kỵ nghiêm túc nói: “Kỳ thực những điều ta vừa nói rất có khả năng xảy ra, nếu một ngày nào đó gia chủ Quý Tôn thật muốn gả nàng để làm hoàng hậu nước Ngô, nếu nàng không đồng ý, nàng có thể làm như bây giờ, bỏ đi lần nữa.”
Trên mặt Quý Tôn Tiểu Man lộ nụ cười, Khánh Kỵ đang bàn việc hôn nhân đại sự của nàng ấy, nhưng dường như nàng chỉ xem việc này giống như một trò chơi thú vị, Quý Tôn Tiểu Man cười nói: “Chủ ý hay, ngài dám cưới ta, ta sẽ bỏ trốn, làm cho ngài mất hết thể diện. Ừm… nên trốn đến đâu thì được nhỉ?”
Khánh Kỵ nghiêm túc nói: “Đương nhiên là nước Ngô.”
“Hả?” Quý Tôn Tiểu Man mở to mắt há hốc mồm : “Vậy chẳng phải ta tự sa vào lưới sao?”
Khánh Kỵ thở dài, ra vẻ tự ái: “Ôi, một nam nhi anh hùng như Khánh Kỵ ta đây, thử hỏi trong thiên hạ có nữ nhi nào không muốn gả cho ta? Nàng đã không có ý gả cho ta, thì ta phải đích thân bắt nàng về cung bái đường, để cả thiên hạ đều biết nàng không phải tình nguyện gả cho ta, vậy chẳng phải là nàng rất có thể diện sao?”
“Ngài…” Quý Tôn Tiểu Man vừa tức vừa buồn cười: “ Sao ngài da mặt dày thế?”
“Lòng tự tôn của Quý Tôn Tiểu Thư sao mà dễ bị tổn thương thế”, Khánh Kỵ cười nói: “Nàng phải nhớ rằng, nếu nàng là do ta bắt về, vậy thì nhất định sẽ bị đánh một trận đòn đấy.”
Quý Tôn Tiểu Man toàn thân nóng lên, tay nắm chặt bao kiếm, giận dữ liếc nhìn hắn nói: “Ngài còn dám lấy ta ra trêu đùa nữa, ta sẽ một kiếm đâm chết ngài!”
“À…, đúng rồi,” Khánh Kỵ lập tức nói tiếp: “Ta nghe Di Hạ nói, Vệ Hầu về cung, sau khi ổn định chính sự, lập tức hạ lệnh cho những người ở phủ Công Mạnh Trập tìm kiếm một kiếm khách có tên Ngải Tử Man. Việc này đã gây nên nhiều tranh cãi, không biết diện mạo của Ngải Tử Man như thế nào, mà có thể khiến cho Vệ Hầu trong lúc đầy nguy cấp vẫn không quên được nàng ta.
Quý Tôn Tiểu Man chột dạ: “Ơ kìa… ta đến Phủ của Công Mạnh Trập không được mấy ngày, ta không hề quen người này?”
“Vậy sao?” Khánh Kỵ cười hi hi nhìn nàng ấy: “Tiểu Man cô nương nữ cải nam trang quả thực là ngọc thụ lâm phong, ngay cả ta cũng phải động lòng, thật tội cho Vệ Hầu, không tìm được ý trung nhân, chắc là đau lòng lắm, ôi! Hoạ thuỷ, đúng là hoạ thuỷ.”
Quý Tôn Tiểu Man từ e ngại chuyển sang tức giận, nói: “Ngài còn trêu đùa ta, thì khi đến Ngải thành, ta sẽ dạy cho binh sĩ của ngài mấy chiêu võ mèo quào, khiến ngài vỡ mộng phục Ngô, muốn khóc mà chẳng có nước mắt để khóc.”
Khánh Kỵ vui vẻ cười lớn: “Ha ha, được, đến Ngải thành, ta phải xem mấy chiêu võ mèo quào của Quý Tôn tướng quân đã đạt đến trình độ nào rồi.”
Quý Tôn Tiểu Man giận đến nghiến răng nghiến lợi, đột nhiên nàng giơ tay vỗ vào mông Khánh Kỵ, Khánh Kỵ vốn đã đoán trước nên nắm được cổ tay trắng trẻo của nàng, cười ha ha nói: “Quý Tôn Tiểu Man sao lại đối xử với ta vô lễ thế, bây giờ thì nàng vẫn chưa vỗ được?”
Quý Tôn Tiểu Man tức giận nói: “Thế đến khi nào ta mới được vỗ?”
Khánh Kỵ cười: “Đợi đến khi ta làm đại vương nước Ngô thì thế nào? Đến lúc đó nàng vỗ ta, ta vỗ nàng, nàng muốn vỗ bao lâu, vỗ…”
Tấm rèm cửa kiệu vừa được vén lên, Quý Tôn Tiểu Man ngại ngùng đến nỗi không dám ngửng mặt lên bèn lách mình ra khỏi kiệu, Khánh Kỵ cười lớn, trêu đùa vị tiểu cô nương này, khiến hắn cảm thấy vừa thư giãn vừa thú vị. Trên môi vẫn còn nụ cười, hắn lấy áo bào vẫn luôn để kế bên.
“Ê!” Khánh Kỵ vén tấm rèm cửa kiệu, đặt lên tay nàng ấy tấm áo bào nặng trịch của hắn: “Khoác lên đi, không thôi lạnh cóng mất.”
Quý Tôn Tiểu Man hứ một tiếng không thèm để mắt tới hắn, Khánh Kỵ cười, buông tấm rèm cửa kiệu xuống. Quý Tôn Tiểu Man nhảy phắt sang chiếc xe của nàng, liền đó, nàng tung chiếc áo bào ra và khoác lên mình, từ trên xuống dưới đều nằm trọn trong chiếc áo bào của Khánh Kỵ, một luồng hơi ấm tràn vào trong tim nàng, trên khuôn mặt nàng bỗng chốc nở ra một nụ cười ngọt ngào mà đến ngay bản thân nàng cũng chưa nhận ra. Dường như, nàng đã bắt đầu quen cái cảm giác bông đùa, mập mờ, nhưng sau đó là quan tâm chăm sóc của Khánh Kỵ….
"Các ngươi nhớ kỹ cho ta, hiện tại phải chịu khó chịu khổ một chút, đổ mồ hôi một chút, lên chiến trường cơ hội sống của các ngươi cũng sẽ lớn hơn một chút. Không cần phải nhìn ta, một ngày nào đó các ngươi sẽ chạy tới cám ơn ta đó! Tất cả đều dốc hết khí lực cho ta, đừng có giở trò mèo lúc đang luyện tập!"
Quý Tôn Tiểu Man hai tay chắp sau lưng, bước từng bước một, đi ở trong bãi luyện binh, học theo bộ dáng lớn tiếng nói chuyện của sư phó nàng khi khuyên bảo đồ đệ. Nàng mặc một thân võ phục màu trắng, tóc buộc sau lưng thành đuôi ngựa, oai hùng hiên ngang, vô cùng tuấn tú. Bộ võ phục màu trắng thuần làm nổi bật lên vẻ đẹp thanh tú duyên dáng của nàng, không biết có bao nhiêu người nhìn thấy cô nương này mà sẽ mắc phải bệnh tương tư.
Các sĩ tốt trên bãi luyện võ đều biết nàng là nữ nhi, nhưng không có ai vì nàng chỉ là một thiếu nữ tuổi bé người như hạt đậu mà khinh thị. Thân thủ kiếm kỹ cao minh của nàng cùng với phương pháp giáo huấn đồ đệ nghiêm khắc đã khiến cho những nam nhi bảy thước cũng phải có một loại kính sợ khó nói thành lời với nàng. Huống chi, một nữ hài tử xinh đẹp đáng yêu lại có thể làm giáo đầu trong quân đội, rất nhiều người cũng đã xem nàng như là nữ nhân của công tử Khánh Kỵ, càng thêm không dám đắc tội.
Ở trước mặt nàng là một đội kiếm thủ đang chia nhóm để diễn luyện, bên trái có một đội đang đổ mồ hôi như mưa luyện tập "không huy" (múa kiếm trên không). Dưới chân bọn họ là hai đốt tre, hai chân đạp lên thân tre trơn trượt, chân trước cong, chân sau thẳng, eo lưng phải thẳng tắp như núi, đã làm động tác múa kiếm cơ hồ hơn ngàn lần, một đám mệt đến nỗi lưng đều mỏi nhừ, nhưng mà giáo đầu ma quỷ đáng sợ Quý Tôn Tiểu Man này lại chưa cho phép bọn họ được dừng lại. Có người thể lực đã không chống đỡ nổi, ngồi xuống cũng không xong, đốt tre phía dưới đã bắt đầu theo động tác lóng ngóng của họ mà hơi hơi lăn qua lăn lại, một chút vô ý, chân sẽ bị trượt mà ngã xuống.
"Thẳng gối, thẳng mông, thẳng lưng, ngẩng đầu nhìn thẳng, không cúi cằm. Chú ý hô hấp, ngươi... bả vai thả lỏng, được rồi! Sau khi thu kiếm về mũi kiếm không được rủ xuống, một kiếm đánh ra xong mũi kiếm phải cách phía trước đan điền khoảng cách nửa nắm tay. Đừng có giả chết! Mỗi ngày buổi sáng 'không huy' ba ngàn kiếm, ít hơn một kiếm cũng không được nghỉ ngơi!"
Quý Tôn Tiểu Man lớn tiếng quát lớn, căn bản là không để ý tới ánh mắt cầu xin của những sĩ tốt này. Chuyển thân đi, nàng lại đi tới một đội hình ở giữa. Những người ở đội hình này đang luyện tập 'đi kiếm', một vài giáo đầu Quý Tôn Tiểu Man đã huấn luyện trước đó đang cẩn thận tỉ mỉ chỉ huy mọi người luyện tập hít thở tuần hoàn. Mỗi một binh lính ôm ở trong ngực một tảng đá lớn, trên đùi cột một bao cát, đầu gối dùng gậy trúc cố định không thể cong lại. Mấy bước hít vào, mấy bước thở ra, đều đã có quy định nghiêm ngặt. Vừa thấy vị thiếu niên tuấn tú này đi tới trước mặt bọn họ, người trong đội này vội vàng đề cao tinh thần, không có một ai dám biểu lộ ra bộ dáng mệt mỏi.
Dựa theo quy luật do Quý Tôn Tiểu Man đề ra, mệt mỏi, đại biểu rằng ngươi luyện còn chưa tới nơi, thuyết minh rằng thể lực của ngươi còn chưa được đề cao, sẽ chỉ khiến nàng đưa tới cường độ huấn luyện lớn hơn, chứ không có chuyện thương hại. Biện pháp trừng phạt của Quý Tôn Tiểu Man đúng thực là đáng sợ, những người không phục theo quân lệnh đều có chế tài nghiêm khắc. Có vài người ỷ rằng mình là lão binh vẫn đi theo Khánh Kỵ, có chút thâm niên, liền chạy tới tố khổ với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ rất kiên nhẫn lắng nghe bọn họ kể khổ, đồng tình an ủi một phen, sau đó lại phái bọn họ trở về.
Tới khi trở về, Quý Tôn Tiểu Man cô nương chính là đang trừng mắt hạnh, thần tình cười lạnh đứng ở trong bãi luyện binh chờ bọn họ. Ở phía sau nàng, là một nhánh đại quân sắp xếp chỉnh tề, khí thế ngất trời. Kết quả là, những binh lính đi tố cáo này đều bị làm thêm gấp đôi, sau khi thực hiện hình phạt xong, nhưng binh lính này phải được những huynh đệ khác nâng đỡ về doanh trại, một đám mệt mỏi cơ hồ muốn nát xương.
Tên hiệu "Tiểu Ngải ma quỷ" được lan truyền nhanh chóng, những đại hán ôm nỗi hận nằm úp sấp trên giường, một bên oán giận kêu khổ thấu trời, một bên nghiến răng nghiến lợi nguyền rủa nữ nhân của Khánh Kỵ này tốt nhất là ban đêm sẽ bị hắn "khi dễ" thật độc ác, để buổi sáng không rời nổi giường, khiến bọn họ có thể thoát khỏi khổ ải. Ai ngờ vị tiểu cô nương thích mặc nam trang này lại có thể lực tốt phi thường, mỗi ngày trời còn chưa sáng, nàng đã tinh thần dồi dào đứng ở một chỗ trong doanh trại, dùng thanh âm thanh thúy dễ nghe của nàng gọi mọi người rời giường luyện kiếm, ở phía sau nàng, chính là hai đại hán vung vẩy cây roi. Những binh lính bưu hãn dũng mãnh dưới tiếng quát của Quý Tôn Tiểu Man cùng với tiếng roi da uy hiếp đành phải ngoan ngoãn đứng lên chạy ra bãi luyện binh, ngoan như một bầy cừu non vậy.
Đội binh lính số ba cũng đã sống sót qua giai đoạn ' Đi kiếm' cùng 'Không huy', đang cầm trường kiếm trong tay chiến đấu lẫn nhau, tiến hành luyện tập thực chiến. Quý Tôn Tiểu Man chắp tay sau lưng đứng ở một bên, rất nghiêm túc nhìn những binh sĩ cao hơn nàng cả cái đầu vung kiếm đối chiến, một bên cao giọng chỉ điểm cho họ: "Tốt! Cứ như vậy, một chém một đâm, dùng lực cả người; chân bước liên tục, thân mình tiến lui theo kiếm; từng bước tiến lên, lúc nào cũng phải thủ thắng; địch vội vàng thì ta đợi, chờ cho lực cũ của hắn vừa phát ra, lực mới còn chưa phát kịp thì toàn lực đánh tới. Địch muốn lui, chớ mau chóng đuổi theo; địch gấp rút tiến lên, chớ hoảng loạn mất cự ly..."
Trên bãi thao luyện truyền ra từng đợt "keng keng keng" của kiếm kích. Kiếm thuật của Trung Quốc cổ là cầm kiếm bằng cả hai tay, hơi giống như kiếm đạo hậu thế của Nhật Bản. Kiếm chiêu hoa mỹ không nhiều lắm, kiếm thức sắc bén, chiêu chiêu tàn nhẫn, đó là những chiêu thức giết người không hề màu mè, động tác nhìn cũng không đẹp, nhưng mà sát khí lăng nhân, đúng là kiếm thuật thực chiến chiêu chiêu thấy huyết.
"Đúng thực là không tồi, kiếm thuật thực chiến của nàng rất mạnh mẽ, chỉ trong thời gian ngắn ngủi, khả năng đánh giáp lá cà của binh sĩ đã được đề cao lên rất nhiều!" Khánh Kỵ khoanh tay đứng ở xa xa, nhìn những binh sĩ như đất rừng đang vung kiếm trong diễn võ trường, vui vẻ nói. Đứng phía sau hắn là Kinh Lâm, Lương Hổ Tử, A Cừu, Tái Cừu và vài vị tướng lãnh.
Kiếm thuật của chính Khánh Kỵ cũng không phải cao minh, nhưng hắn lấy chính mình làm một quân địch giả tưởng (quân xanh) cầm kiếm, so sánh lúc trước và bây giờ, đương nhiên có thể thấy được chiến lực của bọn họ có tăng lên hay không.
"Đúng vậy, đáng tiếc thời gian lại hơi ngắn, nếu để cho nàng dốc lòng truyền thụ ba năm, kiếm sĩ dưới trướng công tử, chiến đấu trên bộ sẽ là vô đối thủ." Lương Hổ Tử tiếc nuối nói.
"Ừm!" Khánh Kỵ gật gật đầu: "Đó chính là chỗ mâu thuẫn. Thời hạn phạt Ngô càng sớm, đối với quân tâm sĩ khí của chúng ta càng có lợi, lại càng bất lợi đối với Cơ Quang vừa mới khống chế được toàn cảnh Ngô quốc, còn chưa thể dễ dàng sai khiến. Nhưng mà cùng lúc đó, đối với chúng ta cũng chứa nhiều bất lợi, một là hữu hạn trong việc thu nạp binh lính, hai là hữu hạn trong việc thao luyện tân binh. Ưu khuyết là thế, chỉ có chính chúng ta mới có thể lựa chọn.”
Hắn ngừng lại một, bỗng cười nói: "Có điều đối với lợi hại trong đó, kỳ thật phạt Ngô lúc này nên càng sớm càng tốt. Sau khi phạt Ngô thành công, chúng ta cũng sẽ không phải giấu kiếm trong kho, ngựa thả trong núi nữa, hôm nay để cho bọn họ học một chút kiếm kỹ, sớm muộn gì cũng sẽ có lúc phải dùng đến."
Kinh Lâm hiểu ý cười nói: "Công tử nói đúng. Công tử nhà ta là anh hùng thiên hạ, sao có thể chịu giới hạn ở một cái xó ở Đông Nam mà làm đại vương. Đợi công tử phục quốc thành công, chúng ta còn có cả thiên hạ rộng lớn để đánh mà."
Khánh Kỵ cười cười: "Những lời này phải lén nói một chút, không thể nói ra ngoài được. Không nên nói, toàn bộ lực chú ý trước mắt của chúng ta còn phải đặt lên việc phạt Ngô phục quốc, không thể tính toán xa xôi."
Hắn bước lên một gò đất cao, phóng mắt nhìn quanh toàn bộ bãi luyện binh, hỏi: "Tin tức của Ngải thành, Phi Hồ cốc cùng với Sở quốc còn chưa được truyền về, tiếp tục phái người tăng cường liên lạc, một khi có tin tức phải lập tức nói cho ta biết."
Kinh Lâm nói: "Vâng, công tử xin yên tâm, về phương diện này kẻ hèn đã an bài những người chuyên trách chịu trách nhiệm."
"Báo công tử, có một nhóm dũng sĩ Tấn quốc xin đầu nhập." Xa xa một gã chiến sĩ chạy tới, đứng ở dưới gò đất bẩm báo với Khánh Kỵ.
Lương Hổ Tử vui vẻ cười nói: "Ha ha, hay lắm. Công tử, trận chiến Thanh Ngõa Quan của chúng ta quả là không uổng phí công phu, Tề Báo lão tiểu tử này quả thực là ' bánh ít đi, bánh quy lại', hiện giờ Vệ quốc quả nhiên không hạn chế dũng sĩ các nước khác tới đầu nhập. Đây đã là nhóm thứ sáu... Không đúng, là nhóm tráng sĩ thứ bảy từ Tần Tấn mấy nước tới đầu nhập phải không?"
Kinh Lâm mỉm cười: "Là nhóm thứ chín. Những người trong vùng của Vệ quốc tới đầu nhập cũng nối liền không dứt, có điều phải nói là những dũng sĩ tới từ nước khác, vô luận là tài nghệ hay là khí lực đều lợi hại hơn một chút, chỉ cần huấn luyện một ít là có thể tham gia chiến đấu. Kẻ hèn đi nghênh đón bọn họ."
Khánh Kỵ mỉm cười nói: "Được, ngươi đi đi, tối muộn, ta sẽ đích thân tiếp kiến hai nhóm dũng sĩ mới tới này."
"Ta cũng đi, ta cũng đi. Binh ở dưới trướng của ta phần lớn đều là nông phu hạ cuốc, ta phải chọn lấy vài người đắc lực để đảm nhiệm ngũ trưởng, thập trưởng (quản lí nhóm 5 hay 10 người)." A Cừu vừa mới tấn chức lên làm thiên tướng vội vàng reo lên.
Khánh Kỵ mỉm cười: "Các ngươi đều đi đi, nên tiếp đãi thì tiếp đãi, muốn chọn người thì chọn người, tất cả mọi người vội chuyện của mình đi, ta tùy ý đi một chút."
"Rõ!" Chúng tướng nhất tề chắp tay, đều tự tản đi.
Khánh Kỵ bước đi về phía bãi luyện binh.
"Công tử! Công tử!" Rất nhiều người tới tấp dừng chân, hạ trường kiếm thi lễ với Khánh Kỵ. Kỳ thật trên bãi luyện binh cũng không có nhiều quy củ như vậy, bọn họ phần lớn chỉ là kiếm cớ để được nghỉ ngơi một chút mà thôi. Khánh Kỵ trong lòng biết rõ ràng, cũng không nói ra.
"Này! Ta đang luyện binh, ngài tới đây làm loạn cái gì đấy?" Quý Tôn Tiểu Man oán hận đi tới, những binh lính này ngưng kiếm thi lễ với chủ soái, cũng không tính là lỗi, nàng không tiện trừng phạt, đành phải giận cá chém thớt sang Khánh Kỵ.
"Tiếp tục luyện, luyện binh trường, như chiến trường. Ở trên chiến trường, không phải ngươi chết, thì là ta sống, ai cho ngươi có thời gian mà cúi chào chủ soái? Tiếp tục luyện cho ta, ai dám giờ trò mèo, buổi tối múa kiếm sáu ngàn lần!" Quý Tôn Tiểu Man răn đe xong Khánh Kỵ, quay đầu hét lớn một tiếng, y như sư tử Hà Đông.
Những binh lính này thấy bị nàng nhìn xuyên chân tướng, lập tức lè lưỡi, cầm lấy kiếm tiếp tục khoa tay múa chân, vung kiếm thì vung kiếm, ôm đá thì ôm đá, đối luyện thì đối luyện, một đám nghiến răng nghiến lợi nguyền rủa ở trong lòng một nguyện vọng vẫn chưa được thực hiện: "Ông trời phù hộ, để cho ả ngày mai bị công tử làm cho không rời nổi giường..."
"Ha ha, tốt lắm, thực có vài phần phong phạm Đại tướng quân." Khánh Kỵ mỉm cười, ánh mắt đảo qua khắp nơi, vui vẻ nói: "Như vậy là ta an tâm, vốn còn lo lắng nàng giấu bí mật không truyền dạy, thực sự chỉ dạy cho người của ta mấy kiếm pháp sứt sẹo, nhưng hiện giờ nhìn thấy Tiểu Ngải tướng quân tận tâm tận lực như vậy, Khánh Kỵ thực đúng là vô cùng cảm kích."
Khánh Kỵ cười đến mức bộ dáng có chút hơi quỷ dị, Quý Tôn Tiểu Man tâm tư mẫn cảm nhất thời cảm thấy vô cùng xấu hổ: "Lời này là có ý tứ gì? Bảo bổn cô nương tận tâm hết sức, có vẻ bất thường, hắn ý là bảo ta nhanh chóng gả cho hắn à?" Quý Tôn Tiểu Man đỏ mặt sẵng giọng : "Ai bảo ta ra sức dạy cho bọn hắn, cái ta hiện giờ đang dạy, chính là kiếm pháp sứt sẹo nhất!"
"Chậc chậc chậc, kiếm pháp sứt sẹo nhất mà đã là kiếm pháp giết người hữu hiệu như vậy? Ta hẳn là nên sớm cưới nàng... A, không phải, mời nàng về mới đúng."
Khánh Kỵ cố ý nói sai, sau đó hài lòng nhìn Quý Tôn Tiểu Man, quả nhiên là đỏ mặt, ngay cả cổ trắng nõn cũng nổi lên ráng đỏ, cặp mắt hạnh quyến rũ tận lực mở lớn ra trừng hắn, nhưng mà phối hợp với dung nhan của nàng, lại hoàn toàn chẳng sinh ra được chút lực uy hiếp nào.
"Công tử, công tử.." Xa xa có một người chạy tới, khi tới trước mặt thở không ra hơi nói: "Công tử, tín sứ từ nước Sở đưa tin tới rồi."
"Ồ?" Khánh Kỵ mừng rỡ, không đùa với Tiểu Ngải nữa, bước nhanh vài bước theo sĩ tốt kia, bỗng nhiên ngừng lại, quay đầu cười nói: "Đêm nay bản công tử thiết yến, là đón gió tẩy trần cho hai nhóm huynh đệ mới đầu nhập, nàng cũng tới đi."
"Không đi có được không?"
"Đây là quân lệnh!"
"Ta khinh!"
"Ách..., Khánh Kỵ thành tâm mời Ngải tướng quân dự tiệc, không biết tướng quân có chịu vui lòng đến dự không?"
"Hừ, nếu như vậy, bổn cô nương còn xem xét một chút."
Quý Tôn Tiểu Man chắp tay sau lưng, nhìn thân ảnh nhanh chóng rời đi của hắn, bỗng nhiên 'phì' một tiếng nở nụ cười.
"Chỉ cần dũng cảm tác chiến, lập nhiều chiến công, bản công tử không hỏi xuất thân, mỗi người đều có cơ hội lên chức tướng quân. Khánh Kỵ một khi phục quốc, khi đó các huynh đệ sẽ được phong thê ấm tử (công thần thời phong kiến, vợ được ban tước hiệu, con được tập ấm làm quan), tiền đồ vô lượng. Có điều, đây đều là chuyện để sau nói, hiển nhiên những ngày tới, các vị huynh đệ sẽ là sĩ tốt trong quân, phải chịu sự ước thúc của quân pháp quân kỷ. Mọi người phải quý trọng cơ hội, đêm nay hãy tận tình uống cho thống khoái, nếu muốn sảng khoái một chút, đêm nay nữ lư trong quân cũng sẽ miễn phí cho các vị, nhưng chỉ giới hạn đến tối muộn! Tới, chúng ta cạn chén này."
Khánh Kỵ nói xong, giơ cao một bát rượu, uống một hơi cạn sạch thứ rượu cao lương mà quân phòng thủ Ngải thành tự ủ, chùi chùi miệng, rồi chắp tay với những dũng sĩ mới đầu nhập đang ngả ngốn hướng về phía hắn kính rượu, nói: "Mọi người hãy tận tình uống cho thống khoái, bản công tử kém tửu lực, xin về phòng nghỉ tạm..." Khánh Kỵ làm ra bộ dáng say rượu, rung rung lắc lắc tiến vào đại sảnh, xuyên qua phòng lớn, tiến vào một cái phòng khách riêng, cước bộ lập tức trở nên vững vàng. Đã ở sẵn trong phòng, Lương Hổ Tử, Kinh Lâm, A Cừu hai huynh đệ, cùng một vài thân tín gần đây nhờ tác chiến dũng cảm được tấn chức làm tướng lĩnh vừa thấy hắn tới, lập tức đồng loạt đứng dậy: "Công tử!"
"Đến đến đến, ngồi xuống nói chuyện." Khánh Kỵ đi tới ngồi xuống cái chiếu phía trước, mọi người lần lượt ngồi xuống theo hình vuông.
Khánh Kỵ thần sắc trang nghiêm, nói: "Buổi chiều nay nghe ngóng được một chút tin tức từ Sở quốc đưa tới, ta đã nghiêm túc suy xét hồi lâu, có một số việc, quyết định cùng mọi người thương nghị một chút."
Lần này phạt Ngô sắp đến, có một số việc phải làm cho trong lòng các tướng lĩnh thủ hạ được biết rõ ràng. Khánh Kỵ buổi chiều từ tín sứ do Yểm Dư, Chúc Dung phái tới biết được một ít tình hình hiện giờ ở Sở quốc, cảm giác rất rõ tình thế gấp gáp. Hắn mặc dù muốn ở lại Ngải thành, thẳng tới khi phát binh phạt Ngô, nhưng mà giờ phút này xem ra, hắn phải rời khỏi Ngải thành tự mình đi tới Sở quốc một chuyến, nói như vậy, hắn vẫn phải để cho các tướng lĩnh hoàn toàn hiểu được phương hướng của hắn, để tránh ảnh hưởng đến quân tâm sĩ khí.
Trong những người đang ngồi, Kinh Lâm chính là phụ trách công việc chiêu binh. Đêm nay khoản đãi những dũng sĩ mới đầu nhập, hắn cũng đã uống được vài chén. Kinh Lâm vốn không giỏi uống rượu, lúc này khuôn mặt đỏ bừng cả lên, hai mắt có chút cụp xuống, ngồi ở một chỗ thân mình lay động. Khánh Kỵ thấy vậy cười nói: "Đều là huynh đệ một nhà, chúng ta bí mật thương nghị sự tình, không cần phải giữ lễ tiết. Kinh Lâm, nước trà này có thể giải rượu, ngươi uống đi, cho hết mệt mỏi."
Kinh Lâm ngại ngùng nói: "Đa tạ công tử, Kinh Lâm vốn không giỏi uống rượu, mà mấy dũng sĩ Tấn Tần kia lại giỏi uống, Kinh Lâm kiên trì uống được mấy chén, thực có chút không chống đỡ được."
Khánh Kỵ cười, nghiêm nghị nói: "Chư vị, hôm nay Khánh Kỵ thu được tin tức từ nước Sở, Cơ Quang sai Bá lãnh binh, đuổi giết không ngừng hai vị Vương thúc Yểm Dư, Chúc Dung. Mà Sở Vương lại cố ý lợi dụng Yểm Dư, Chúc Dung hai vị Vương thúc làm tiêu hao binh lực Cơ Quang, cho nên luôn đặt họ vào những địa phương tiếp xúc chính diện với binh mã của Cơ Quang, hiện giờ binh mã của Yểm Dư, Chúc Dung hai vị Vương thúc đã tiêu hao gần như không còn.”
Mọi người vừa nghe thấy vậy, tất cả đều nghiêm nghị. Khánh Kỵ phạt Ngô, sớm đã định ra kế hoạch, phải nhờ Sở quốc Yểm Dư, Chúc Dung hấp dẫn sự chú ý của Ngô quân, tác dụng là để phân rã làm suy yếu binh lực Ngô quân. Nếu binh lực của bọn họ tiêu hao gần như không còn, không khác nào thuyết minh tháng ba năm sau cuộc chiến phạt Ngô, Khánh Kỵ chỉ có thể một mình chiến đấu, hắn không thể đạt được mục đích chia thành ba đường, đồng loạt xuất kích. Lương Hổ Tử đám người là những tướng lãnh tâm phúc của hắn, đối với toàn bộ kế hoạch của hắn thì biết rất rõ, vừa nghe thấy lời này, nhất thời kinh sợ xúc động, ngay cả Kinh Lâm say rượu cũng có vài phần tỉnh táo trở lại.
"Công tử không nên lo lắng quá, tháng ba năm nay khi phạt Ngô, không có sự tương trợ của Yểm Dư Chúc Dung hai vị công tử, chúng ta không phải là vẫn công đâu thắng đó, bách chiến bách thắng sao? Nếu không phải Cơ Quang sai Yêu Ly ám sát, chúng ta hiện giờ sớm đã đóng quân ở đô thành Ngô quốc. Cho dù hiện tại không có sự tương trợ của hai vị công tử Yểm Dư, Chúc Dung ở Sở quốc, chúng ta vẫn có thể đánh trở lại Ngô quốc!"
Lương Hổ Tử hiện giờ tuy là bị cụt một tay, nhưng sự vũ dũng hung hãn không giảm đi chút nào, mắt thấy mọi người trầm mặc, sĩ khí có chút giảm xuống, lập tức chau mày nói. Khánh Kỵ cười cười: "Đương nhiên, Ngô quốc đúng là vô luận thế nào cũng phải đánh, hơn nữa còn phải càng sớm càng tốt. Nhưng mà bây giờ với ngày xưa khác nhau, Cơ Quang ngày trước quân tâm chưa ổn định, hơn nữa lúc ấy hắn còn chưa hoàn toàn nắm giữ Ngô quốc, còn phải dùng nhiều lực để phòng bị phản loạn bên trong, cho nên chúng ta mới có thể có thế thắng như chẻ tre. Hiện giờ đã qua hơn một năm khổ công chuẩn bị, chúng ta giao thủ cùng với Ngô quân, cho dù binh lực của đối phương vẫn chưa gia tăng, cũng tuyệt đối không có dễ dàng như lần trước."
Hắn im lặng một lát, rồi lại từ từ nói: "Tháng ba năm sau, là thời điểm chúng ta phạt Ngô. Nếu lần này lại bại, thế lực của Cơ Quang tại Ngô quốc sẽ ổn định như Thái sơn, không bao giờ chúng ta có thể lay động được nữa. Có lẽ, ta phải chờ tới vài thập niên sau, tới khi trong lòng Ngô quốc xuất hiện rung chuyển kịch liệt, khi đó mới có thể lại có cơ hội. Nhưng mà, cơ hội đó thực rất xa vời, vài thập niên sau... Ai còn nhớ tới Khánh Kỵ công tử nữa?”
Ánh mắt của hắn lướt qua khuôn mặt các tướng lĩnh, trầm giọng nói: "Ta đã cẩn thận suy xét tình hình địch ta khi phạt Ngô, cùng với tất cả các điều kiện mà chúng ta có thể lợi dụng, hiện tại sẽ mang những gì ta đã phân tích ra để bàn bạc với mọi người."
Chúng tướng yên lặng lắng nghe, ngọn đèn chiếu lên khuôn mặt Khánh Kỵ, một bên rõ ràng, một bên lại trong bóng tối: "Về phương diện chúng ta mà nói, mấu chốt của việc phạt Ngô, một bên là binh lực, một bên là thời cơ. Chúng ta muốn phạt Ngô phục quốc, binh lực đương nhiên là càng nhiều càng tốt. Nhưng mà thời gian phạt Ngô lại phải càng sớm càng tốt, phạt Ngô càng chậm thì toàn bộ thế cục càng biến hóa có lợi cho Cơ Quang, lại càng bất lợi cho chúng ta. Nhưng mà muốn nhanh chóng phạt Ngô, lại mâu thuẫn với việc phát triển binh lực cường đại. Chúng ta chiêu binh cần rất nhiều thời gian, luyện binh cũng giống vậy cần thời gian rất lâu, cơ hội phạt Ngô lại là càng sớm càng tốt, mâu thuẫn bên trong như vậy thì phải giải quyết thế nào?"
Các tướng lĩnh hai mặt nhìn nhau, không biết nói sao cho phải.
Khánh Kỵ cười: "Bởi vậy, sự thật là chúng ta không có khả năng chỉ dựa vào lực lượng của chính mình mà quyết chiến với Cơ Quang. Cơ Quang hiện giờ đã có toàn bộ tài lực của Ngô quốc để chống đỡ cho chiến tranh, đã có toàn bộ dân cư Ngô quốc để bổ sung làm binh lính. Nếu ta chỉ tăng cường mở rộng và lớn mạnh quân bị của mình, chỉ dựa vào lực lượng của chúng ta muốn tới tháng ba năm sau khởi binh phạt Ngô, tỉ lệ thành công là hết sức nhỏ bé. Chính xác mà nói, đó là chuyện căn bản không có khả năng!"
Kinh Lâm tuy rằng say rượu, nhưng mà trong mọi người vẫn là người có suy nghĩ linh hoạt nhất, ánh mắt hắn chợt lóe, hỏi: "Ý tứ của công tử, chẳng lẽ là... mượn binh?"
Khánh Kỵ bước đi về phía bãi luyện binh.
Khánh Kỵ thản nhiên nói: "Chim đại bàng nhờ gió mới có thể bay lên, trời đất tương hợp mới có mưa rơi, vì lẽ đó kẻ thiện chiến, phải biết dựa vào tình thế, không phụ thuộc vào số đông, biết chọn người thích hợp giao phó trách nhiệm, tay trắng gầy dựng cơ đồ, lấy ít thắng nhiều, lấy tứ lạng đấu thiên cân. Nếu tự cao tự đại, không hiểu cách sử dụng những lực lượng bên ngoài, chỉ khoe khoang cái gì mà 'tay không tấc sắt', dùng tự lực để đối đầu thiên hạ, nhất định sẽ thất bại. Con đường tắt để thành công trong đời người, chính là lấy sở trường của người khác để cho mình dùng. Kẻ trí giả phải biết mượn lực mà đi, đó chính là tinh túy của mượn lực phát lực.
Ta vốn chính là Ngô quốc công tử, nếu không phải do Đại ca Nhị ca bị Cơ Quang giết chết, còn không tới phiên ta có thể nhận danh phận thế tử này, trong chính trường Ngô quốc, căn cơ của ta vô cùng nông cạn, có thể nói căn bản là không có căn cơ, đây là một trong những nhược điểm của ta. Trong lòng quân Ngô, Khánh Kỵ thật ra cũng có một chút uy vọng, nhưng mà đã hơn một năm rồi, Cơ Quang cũng không phải là kẻ ngu, chỉ sợ tất cả những tướng lãnh không đáng tin, sớm đã bị hắn bỏ cũ thay mới mà cải biến. Bởi vậy quân đội Ngô quốc đã không còn là lực lượng mà ta có thể cậy vào. Nếu không có thế lực bên ngoài trợ giúp, dựa vào chính chúng ta, căn bản không có khả năng đánh lại để phục quốc. Tuy rằng, mượn dùng ngoại lực, không phải là trợ lực số một để ta có thể phục quốc, nhưng trong điều kiện trước mắt, chính là là lực lượng chính yếu nếu ta muốn phục quốc thành công. Mấy ngày vừa qua, ta hối hả ngược xuôi, vòng qua các nước chính là vì nguyên nhân như vậy."
Mọi người trầm mặc một lát, Lương Hổ Tử khẽ thở dài: "Chỉ có điều... công tử chuẩn bị mượn binh của ai? Tấn quốc lục khanh đang nội loạn, Tề quốc ngũ tộc với Yến Anh quản chế lẫn nhau, người Tần đóng cửa tự thủ, người Sở thể hiện là muốn tọa sơn quan hổ đấu, những chư quốc khác cũng không có dã tâm bá chủ, cũng không có đủ lực lượng để trợ giúp chúng ta."
Khánh Kỵ cười nói: "Vì cái gì phải giúp chúng ta ư? Nếu địch nhân của mọi người đều giống nhau, như vậy bọn họ chỉ cần giúp chính mình, cũng chính là trợ giúp cho chúng ta."
Mọi người vẫn mơ hồ không hiểu, Khánh Kỵ liền giải thích: "Hiện giờ do lợi hại của chính mình mà phải tác chiến với Ngô, chỉ có hai nước Sở Việt. Bởi vậy, ta phải mau chóng đến Sở Việt, gặp hai vị quốc quân, thuyết phục bọn họ phát binh, sau đó trước tháng ba năm sau sẽ gấp rút trở về, chủ trì đại kế phạt Ngô."
Kinh Lâm lắp bắp kinh hãi: "Công tử, ngài là chủ tướng quân ta, phạt Ngô ai không có cũng được, duy chỉ không thiếu được công tử . Nếu không có công tử chủ trì đại cục, quân tâm Ngải thành tất sẽ loạn đó. Huống chi, Sở Việt không thể so với Lỗ Vệ, ngày xưa Sở Việt tác chiến với Ngô, công tử từng tiêu diệt không ít nhân mã của bọn họ, những công khanh hai nước này mang ác ý với công tử không phải là ít. Người Sở không giết Yểm Dư, Chúc Dung hai vị công tử, là bởi vì bọn họ cảm thấy hai vị công tử đó còn có chỗ lợi dụng, mà công tử ngài..., trong lòng người nước Sở, uy hiếp từ phía ngài cũng không nhỏ hơn so với Cơ Quang đâu."
"Muốn làm đại sự, há có thể không mạo hiểm phiêu lưu?"
Khánh Kỵ trầm giọng nói: "Ta vừa nói qua rồi, phạt Ngô, cuối cùng vẫn phải do chính chúng ta thực hiện, nhưng mà trong quá trình đó, lại cần phải có ngoại lực thúc đẩy, hơn nữa ngoại lực này, chắc chắn phải có tác dụng. Dựa vào chính chúng ta một đám người phải đi ăn nhờ ở đậu, một mình đối đầu với Cơ Quang đã dần ổn định được Ngô quốc, đó là chuyện không có khả năng thành công. Chúng ta phải mượn dùng lực lượng hai nước Sở Việt, mới có thể cam đoan phạt Ngô thành công. Đợi tín sứ bên phía Phí thành tới nơi, ta cùng Tôn Vũ, Anh Đào ước định cụ thể kế hoạch và ngày lên đường xong, sẽ lập tức khởi hành sang Sở Việt.
Kinh Lâm đứng bật lên, nói: "Nếu như vậy, kẻ hèn sẽ thay công tử đi tới Sở Việt một chuyến, công tử vẫn nên ở Ngải thành đi."
"Ngươi không được." Khánh Kỵ quả quyết nói: "Sở Việt, không phải ta tự mình tới thì không được. Nguyên nhân có ba, thứ nhất, ta lúc trước từ trong quân Ngô sang nước Sở dẫn theo một nhánh quân đội, mấy ngày nay, chiêu binh mãi mã, tất cả cũng đều là quân nhân, trong quân của ta không có những sĩ tử có tài ăn nói dùng được. Ngươi có thể lĩnh quân, lại không giỏi giao thiệp. Tục ngữ bảo: nói có ba cách, khéo nói là tuyệt vời nhất, một câu nói có thể khiến cho người khác cười, một câu khác lại khiến người ta nhảy lên. Muốn thuyết phục người khác, không phải là chuyện dễ dàng; thứ hai, lần này đi Sở Việt, đường xá xa xôi, thời gian cấp bách, ngươi không có khả năng hoàn toàn đại biểu cho ta. Quân chủ hai nước Sở Việt nếu đưa ra điều kiện gì, ta căn bản là không thể chờ ngươi chậm chạp truyền tin tức về, hơn nữa đàm phán với hai nước Sở Việt, cuối cùng cũng phải kí kết hiệp ước; ba là, với địa vị và thực lực hiện giờ của ta, căn bản không có khả năng chỉ phái đi một sứ giả là có thể thuyết phục hai quốc quân Sở Việt liên thủ tấn công Cơ Quang. Nếu không phải tự mình ta đi, chỉ sợ sẽ khó sinh ra hiệu quả."
Hắn thở dài, bất đắc dĩ cười khổ, nói: "Từ khi phạt Ngô gặp chuyện, binh bại trở về, ta đã biết, thời cơ tốt nhất lấy vũ lực của chính mình để phạt Ngô đã mất đi. Muốn lại phạt Ngô, muốn phạt Ngô được thành công, phải mượn được ngoại lực cường đại. Hiện giờ ta ở Lỗ quốc đã mượn Phí thành Phi Hồ cốc bí mật chiêu mộ một nhánh kì binh. Ở Vệ quốc, lớn mạnh thực lực quân ta, tạo ra một trụ cột cho việc phục quốc. Kế tiếp, điều chúng ta cần chính là một lực lượng có thể trực tiếp xuất chiến để trợ giúp chúng ta.
Ta cũng hy vọng chính ta có thể ở lại Ngải thành, tự mình thao luyện đội quân này. Nhưng biết làm sao được, khi không có ta, các ngươi vẫn làm rất thành công. Tất cả sự tình nơi này, chiêu binh, luyện binh, tích trữ lương thảo, chế tạo quân bị, đủ loại sự tình đều được làm đâu ra đấy, cho nên ta mới có thể yên tâm rời đi.
Ta đi Sở Việt lần này, cũng không phải là chỉ động mồm động mép, mưu cầu một sự trợ giúp cho chính nghĩa, mà là muốn tìm kiếm một đại quân được huấn luyện có kinh nghiệm tham gia cùng, ý nghĩa vô cùng trọng đại. Hiện giờ sắp tới tháng mười một, cách lần phạt Ngô tiếp theo của chúng ta bốn tháng thời gian. Bốn tháng này, chúng ta có thể chiêu được bao nhiêu binh? Có thể luyện ra được bao nhiêu binh có thể chiến đấu? Mà hành trình Sở Việt của ta một khi thành công, lập tức chẳng khác nào có thêm ít nhất hơn mười vạn đại quân đã được huấn luyện sẵn, làm sao để bọn họ có thể tham gia vào cuộc chiến phạt Ngô. Các ngươi nói xem, sự kiện nào quan trọng hơn?"
Mọi người nghe vậy, thấy khó mà ngăn cản được. Kinh Lâm xấu hổ nói: "Công tử, là do kẻ hèn vô năng, không thể khiến công tử vô lo (không phải lo nghĩ gì cả). Lỗ Vệ mượn thành chiêu binh, Sở Việt mượn binh phạt Ngô, đều phải để công tử lấy thân vào chỗ hiểm, tự mình bôn ba."
Khánh Kỵ vỗ vỗ vai hắn, mỉm cười nói: "Các ngươi cũng đã làm rất khá, nếu không có các ngươi làm hậu thuẫn cho ta, ta ở Lỗ Vệ hai nước, đúng là không có khả năng thể hiện bản lĩnh, có thể mượn thành để chiêu binh. Nếu không phải có các ngươi ở chỗ này khổ tâm gầy dựng, thậm chí còn làm tốt hơn cả ta, thì ta làm sao có thể yên tâm đặt căn cơ ở mình phía sau, hợp tung liên hoành các nước khác?
Ta, Khánh Kỵ, một công tử mất nước, có thể có khả năng kết minh với chư hầu, chính là phải dựa vào các ngươi."
" Công tử..." Khánh Kỵ nói một hồi thành thật như vậy, làm cho những tướng lĩnh này đều trở nên kích động, Kinh Lâm nói: "Công tử, ngài là anh hùng đương thời, chúng ta cam tâm tình nguyện đi theo dốc sức, mong chờ đi theo công tử phạt Ngô phục quốc, kiến công lập nghiệp. Cái chúng ta có thể đền đáp cho công tử, chỉ có một bầu nhiệt huyết, chỉ cần có thể phạt Ngô phục quốc, giúp công tử hoàn thành nghiệp lớn thiên thu, cho dù có thịt nát xương tan, chúng ta cũng không luyến tiếc thân này."
Khánh Kỵ nghe thấy lời ấy, nhiệt huyết trong lòng cũng sôi trào lên. Hắn biết tiền đồ phía trước như bụi cây có gai, rất nhiều khó khăn; hắn biết, hiện giờ không giống như cái thời đại mơ mộng năm đó khi Tấn công tử Trùng Nhĩ lưu vong các nước, hiện giờ cũng chẳng có ai nguyện ý làm một bá chủ trượng nghĩa đi giúp hắn phục quốc. Lúc này tất cả chỉ nói ích lợi, là thời đại cá lớn nuốt cá bé, bước đi vô cùng khó khăn. Các bộ hạ của hắn đem hắn trở thành trụ cột tinh thần, với hắn mà nói, phải làm sao để luôn có được sự hỗ trợ của những nam nhi tâm huyết này, mới có thể tiếp tục giữ vững niềm tin.
"Chư vị tướng quân, Khánh Kỵ lần này đi Sở Việt, vô luận là sứ mệnh thành công hay là thất bại, cũng sẽ trước tháng ba băng tan hoa nở quay trở về nơi này, chủ trì đại kế phạt Ngô. Khi ta đi tới Sở Việt, nơi này, đành kính nhờ chư vị tướng quân. Chư vị tướng quân dành cho Khánh Kỵ một bầu nhiệt huyết, không tiếc sinh tử, Khánh Kỵ không có cách nào báo đáp, xin nhận một bái của Khánh Kỵ."
Khánh Kỵ dứt lời, đứng dậy lui về phía sau, sau đó vén ống tay áo, trịnh trọng bái một lần.
"Công tử không thể!" Lương Hổ Tử, Kinh Lâm đám người thấy thế, sợ hãi bước lên phía trước nâng, vừa thấy hai đầu gối của Khánh Kỵ đã quỳ xuống đất, khấu đầu bái lễ với bọn họ, vội cũng xoay mình quỳ xuống, bái trở lại Khánh Kỵ.
"Chúng tướng quân xin đứng lên, lộ tuyến cùng kế hoạch phạt Ngô, ngày mai ta sẽ thương nghị tỉ mỉ với chư vị tướng quân, sau đó đưa ra quyết định. Hiện tại ta sẽ nói trước tính toán của ta đối với Sở quốc, về phía Sở quốc, ta đã viết một phong mật tín, để Yểm Dư, Chúc Dung hai vị Vương thúc dẫn tai họa vào bên trong, bức cho Sở phải tác chiến. Như vậy, trước khi ta tới Sở quốc, cũng đã xây dựng cho ta được một cục diện có lợi, phương pháp cụ thể là..."
Khánh Kỵ lặng lẽ bước ra ngoài, đứng vào góc khuất hành lang. Trong vườn, các dũng sĩ mới đến đầu quân vẫn to tiếng cười đùa với nhau, uống rượu chén lớn. Trong số họ rất nhiều người vốn chẳng hề quen biết, nay lại dường như đã trở thành bạn bè thân thiết từ lâu, nói cười vui vẻ. Khánh Kỵ đứng yên lặng ở hành lang ngắm nhìn giây lát, máu nóng dâng trào trong tim, đám nam nhi nhiệt huyết này tập hợp lại vì hắn, chiến đấu vì hắn, đấy chính là vốn liếng của hắn, con người sống trên đời không cần biết kết quả cuối cùng sẽ như thế nào, có được nhiều dũng sĩ đi theo như vậy, được hiên ngang chiến đấu một phen, đó đã là một chuyện xứng đáng thỏa chí nam nhi trên cõi đời này rồi.
Một cơn gió thoảng qua, Khánh Kỵ hít một hơi dài, đi dọc theo hành lang bước đến một căn phòng nằm sau cùng bên trái.
“Công tử!” Cửa bật mở ra, một đại hán ngoài ba mươi tuổi có vết sẹo trên mặt lập tức đứng dậy cung kính hành lễ.
Khánh Kỵ vội tiến lên hai bước đỡ lấy tay hắn: “Miễn lễ miễn lễ, Mục tướng quân, ta có một lá thư, vì thời gian cấp bách, làm phiền ngài lập tức quay về Sở quốc, đích thân giao cho hai vị hoàng thúc Yểm Dư, Chúc Dung.”
“Thuộc hạ tuân lệnh!”
Lá thư đó là một bức bạch thư (thư viết trên mảnh vải lụa), chữ viết trong thư là chữ Điểu Toản chuyên dùng của Ngô quốc, cho dù là người biết đọc loại chữ này, nhìn vào cũng chỉ thấy đây đơn thuần là một bức thư thăm hỏi bình thường thôi, nhưng nội dung trong thư lại ghi theo một loại mật mã được hẹn trước giữa Khánh Kỵ và Yểm Dư, Chúc Dung lúc đánh Sở, Khánh Kỵ tin chắc Yểm Dư, Chúc Dung không thể nào quên cách thức đọc bức thư này.
Khánh Kỵ đích thân đưa tiễn Mục tướng quân dưới trướng Yểm Dư rời khỏi phủ đệ trong đêm, trong lúc phủ đệ vẫn ngập tràn tiếng cười đùa, Mục tướng quân đã cưỡi chiến mã do Khánh Kỵ chuẩn bị sẵn, phi ngựa như bay dưới ánh trăng rời khỏi.
Khánh Kỵ lặng lẽ quay vào trong vườn, phát hiện Quý Tôn Tiểu Man đang ngồi cô đơn một mình sau chiếc bàn đá dưới bóng cây cổ thụ sát chân tường phía bên phải, mắt nhìn vào các dũng sĩ đang quây quần uống rượu ở giữa khu vườn. Tiểu Man rót rượu chầm chậm vào cái ly trước mặt, giữa khu vườn có một nhóm lửa to, ánh lửa lúc mờ lúc tỏ, chiếu lên khuôn mặt Tiểu Man làm ánh lên đôi mắt long lanh rực sáng.
Khánh Kỵ không gây ra tiếng động nào, bước nhẹ nhàng về phía Tiểu Man.
“Sao không uống cùng bọn họ?” Khánh Kỵ đến bên Tiểu Man, mỉm cười lên tiếng.
Quý Tôn Tiểu Man bĩu môi, hờ hững trả lời: “Một bọn đàn ông thối, ai mà thèm uống rượu với họ chứ.”
Tiểu Man tuy làm ra vẻ cao ngạo bất cần, nhưng Khánh Kỵ nhìn vào khuôn mặt không biết cách nói dối của nàng ta, thấy toát lên vẻ thèm thuồng ngưỡng mộ. Khánh Kỵ nghĩ đến thân thế và trải nghiệm của Tiểu Man, thoáng chốc đã thấu hiểu tâm lí phức tạp của cô nương Tiểu Man này, hắn nhẹ nhàng mỉm cười, ngồi xuống bên cạnh Quý Tôn Tiểu Man, đề nghị: “Được, vậy để ta uống với nàng.”
Chiếc bàn đá chỉ có một chiếc ghế dài để ngồi, Khánh Kỵ vừa ngồi xuống kế bên, Quý Tôn Tiểu Man cảm thấy không được tự nhiên lắm muốn tránh xa ra nhưng lại không muốn tỏ ra yếu thế, một chút do dự qua đi, Khánh Kỵ lúc này đã ngồi yên, Tiểu Man cũng không tiện có phản ứng gì nữa.
Trên bàn đá đặt một cái khay, trong khay có ly, Khánh Kỵ tự rót cho mình một ly rượu, xong quay qua rót đầy vào ly của Tiểu Man, tươi cười hớn hở: “Nào, ta kính nàng một ly.”
“Sao vậy? Cảm ơn ta luyện binh giúp ngài?”
“Không, là chúc mừng chúng ta giờ đây trở thành bằng hữu.”
Quý Tôn Tiểu Man nâng ly uống cạn, ánh mắt Khánh Kỵ lộ vẻ vui mừng: “Tiểu nha đầu bị mất nơi nương tựa từ nhỏ này thật ra rất dễ kết giao, cái nàng ta cần chẳng qua là tình thân, tình bạn, chỉ cần tạo cho nàng ta cảm giác thân thiết như người nhà, nàng ta cũng sẽ xem mình như thân thích ruột thịt vậy.”
Khánh Kỵ ngồi đó, vừa uống rượu vừa kể chuyện phiếm cho Quý Tôn Tiểu Man nghe, nào là chuyện Ngưu Lang Chức Nữ trên trời, nào là chuyện tình yêu thắm thiết của các tài tử giai nhân xưa kia, lúc cao hứng lại ngân nga vài câu thơ lãng mạn, chỉ thấy Quý Tôn Tiểu Man ngồi yên lặng say sưa lắng nghe, đôi mắt đen láy mở to, long lanh như các ngôi sao đang lấp lánh trên bầu trời đêm nay vậy.
Đêm khuya vắng lặng, ngay cả côn trùng cũng ngưng tiếng gáy đi vào giấc ngủ, nhóm lửa giữa vườn tắt ngúm, một số người dìu nhau về phòng nghỉ ngơi, số khác không sợ sương đêm gió lạnh, nằm ngay ra ngáy khò khò tại chỗ.
Khánh Kỵ dịu giọng: “Thôi, khuya lắm rồi, mau đi ngủ thôi. Những ngày này phải đốc thúc toàn quân luyện kiếm, nàng cũng vất vả rồi, đi ngủ sớm đi.”
“Không, ngồi thêm một lúc đi có được không!” Quý Tôn Tiểu Man ngà ngà say, nũng nịu kéo áo Khánh Kỵ: “Ta chưa từng được nghe kể chuyện thú vị như thế này, chúng ta uống thêm một lát nữa đi.”
Khánh Kỵ không nỡ từ chối, chỉ còn cách dỗ dành Tiểu Man: “Thôi được, chúng ta uống thêm ba ly, sau đó ta đưa nàng về phòng.”
Trăng đã lên cao, ánh trăng mờ ảo tỏa khắp khu vườn, gió thu thoang thoảng mát dịu, mái tóc dài bóng mượt của Tiểu Man như trôi bồng bềnh theo gió, đôi mắt xinh xắn đang say đắm ngắm nhìn Khánh Kỵ rót rượu, lúc rực sáng lúc lung linh, cứ như các ngôi sao lấp lánh trên bầu trời.
“Ta…chỉ muốn nghe kể chuyện, không muốn…không muốn uống rượu nữa.” Quý Tôn Tiểu Man đột nhiên đặt tay lên tay Khánh Kỵ ngăn cản hắn tiếp tục rót rượu vào ly: “Người ta…người ta chưa từng uống nhiều rượu như hôm nay, đã say lắm rồi.”
“Hử?” Khánh Kỵ trông vẻ mặt Tiểu Man, bóng trăng mờ ảo, hắn đưa mặt vào gần hơn, Tiểu Man đúng là đã say, hai má ửng hồng xinh xắn.
Quý Tôn Tiểu Man cảm nhận được hơi thở của Khánh Kỵ phà vào mặt, thoáng chốc thấy khuôn mặt nóng bừng, tim đập thình thịch: “Ư…say mất rồi, thấy toàn thân như đang bay bổng, bồng bềnh trên mây, tim đập nhanh, đầu óc quay cuồng, hư…ư…ư…”
Khánh Kỵ cười ha hả: “Chưa say đâu, đó là cảm giác như lần đầu ta gặp được người con gái ta thích vậy đó mà.”
Câu nói này của Khánh Kỵ như ném hòn đá vào mặt nước đang phẳng lặng, bóng trăng trên đó lập tức bị đánh tan thành trăm ngàn mảnh, hai người đột nhiên im lặng. Khánh Kỵ ngẩng đầu lên, nhìn về ánh trăng vành vạnh trên đầu, nhớ về kí ức thời niên thiếu xa xưa, nàng thướt tha đi ngang qua người hắn, khăn choàng đỏ trên cổ và khuôn mặt hồng hào, nàng khẽ mỉm cười, cái cảm giác lâng lâng vui sướng ấy trong một lúc ập đến làm hắn ngất ngây, đợi khi hắn bình tĩnh trở lại, nàng đã khuất bóng nơi cuối đường.
Khánh Kỵ cảm thấy chua chát trong lòng, hai dòng lệ từ từ buông rơi, quá khứ của hắn, giờ đây đã trôi về chốn xa xăm, con người hắn thuở trước, đã được chôn chặt vào góc khuất tối tăm trong miền kí ức, giờ đây mọi cảm xúc bất chợt ùa về, Khánh Kỵ không sao thoát khỏi nỗi chua xót đang dậy sóng trong tim.
“Tình yêu đầu tiên đáng quý là thế, chính vì nó có tác dụng khiến con người ta không thể nào quên được, nó nằm sâu trong kí ức, khi người ta nhớ lại, nó hoàn hảo biết bao. Chính vì không có kết cục, nên mới suy diễn ra rất nhiều khả năng xảy đến trong tương lai.”
Khánh Kỵ nói những lời mông lung, Quý Tôn Tiểu Man ngớ mặt ra không hiểu hắn đang lảm nhảm gì, hồi lâu sau Khánh Kỵ thở dài: “Nàng say rồi, để ta đưa nàng về phòng nghỉ ngơi!”
Nến trong phòng được thắp sáng, Quý Tôn Tiểu Man uống một ngụm trà nóng, ngước mặt nhìn Khánh Kỵ: “Sao ngài còn chưa đi?”
“Nàng không sao chứ? Tiếc là…trong phủ của ta không có tì nữ, không có ai hầu hạ nàng…”
Quý Tôn Tiểu Man nghe vậy mỉm cười: “Ta trước giờ không cần ai hầu hạ, chỉ là uống quá chén thôi mà, không việc gì đâu.”
Tiểu Man nói chuyện nhạt nhẽo, Khánh Kỵ nghe xong có vẻ không vui, hắn ngập ngừng giây lát, khẽ gật đầu: “Ừ, nàng nghỉ ngơi sớm đi, ta ra ngoài đây.”
Khánh Kỵ bước ra đến cửa, Tiểu Man đột nhiên lên tiếng hỏi: “Nàng ta…là ai vậy? Thúc Tôn Diêu Quang?”
Khánh Kỵ quay người lại, lắc đầu.
Tiểu Man lại dò thám: “Vậy…là Thành Bích?”
Khánh Kỵ hiểu ý cười to: “Đã là tình yêu đầu tiên, chỉ là cảm giác xao xuyến giữa nam và nữ mới gặp nhau, nó không chứng minh được gì cả, cũng không mang ý nghĩa nào hết, càng không cần đem lại kết quả, nên không nhất thiết phải khắc cốt ghi tâm. Bây giờ ta phải rất cố gắng nhớ lại mới nghĩ ra cô gái đó tên là gì, từng gặp nàng ta một lần thôi, cái cảm giác ngất ngây như say rượu khi đó giờ đây nhớ lại thấy đã phai nhạt, chỉ là chút vấn vương còn sót lại. Hoài niệm quá khứ chi bằng đấu tranh cho tương lai.”
Khánh Kỵ bước ra khỏi phòng, Tiểu Man vịn bàn từ từ ngồi xuống, ánh nến kế bên lay lắt theo cơn gió nhẹ. Đầu óc quay cuồng của Tiểu Man vẫn đang cố suy ngẫm những lời Khánh Kỵ vừa nói: “Tình yêu đầu tiên, chính là cái cảm giác như hắn nói sao? Chỉ đơn giản là lần đầu tiên cảm thấy yêu thích một người, ngoài ra không còn ý nghĩa nào nữa?”
--------------------------
“Hắn là người đầu tiên ta yêu, cũng là người duy nhất ta yêu, trong trái tim ta chỉ từng mang hình bóng hắn, ta không chút nghi ngờ về một tình yêu thiên trường địa cửu, nhưng giờ đây, khi phát hiện tất cả đã đổi thay, mới nhận ra vết nứt này đã sớm tồn tại, trên đời này…rốt cuộc là có tình yêu vĩnh hằng hay không?…”
Nam Tử đứng ngây ra trong vườn, xung quanh cây lá um tùm, một cơn gió thoảng qua, những chiếc lá khô rơi xào xạc khắp mặt đất, vài chiếc lá bám lại trên vai nàng. Nam Tử thở dài ngao ngán, nỗi niềm chất chứa bấy lâu nay không biết bày tỏ cùng ai.
Thời gian Công Tử Triều đến Vệ quốc quá ngắn, đám người Tề Báo và Bắc Cung Hỉ đã bị Công Mạnh Trập ức hiếp hai nươi năm, bọn họ dưới sự giúp sức của Khánh Kỵ quả nhiên đã dẹp yên thế lực thống trị của Công Mạnh Trập một cách khó tin, thế nhưng bọn họ muốn tiếp nhận trọn vẹn thế lực này, chỉ với căn cơ và sức người của họ chắc chắn không thể nào làm được.
Hơn nữa, Vệ hầu Cơ Nguyên lợi dụng ưu thế tuyệt đối về thân phận quốc quân Vệ quốc, dưới sự ủng hộ của các công khanh trung thành với quốc quân như Công Tôn Bạt, Công Mạnh, Cừ Bá Ngọc, đang là người hưởng lợi lớn nhất từ sau cái chết của Công Mạnh Trập. Đám người Tề Báo vì thế suốt ngày không yên, lo lắng quốc quân sau này sẽ tính sổ với họ. Còn Công Tử Triều, ngày nào cũng như bước đi trên tấm băng mỏng, trước khi tai họa lớn giáng xuống phải suy tính mưu lược làm sao nắm giữ sức mạnh cung vệ trong tay, lôi kéo tướng sĩ, sắp xếp thân tín, còn những chuyện yêu đương chắc không có thời gian nghĩ đến đâu.
Nam Tử đang tìm lí do giải thích thay cho thái độ của Công Tử Triều, cũng là để tự an ủi bản thân. Khi Nam Tử được gả đến Vệ quốc, nàng ta cứ nghĩ từ nay xa cách với Công Tử Triều, hai người không còn cơ hội gặp mặt nhau nữa, khi Công Tử Triều tranh quyền thất bại ở Tống quốc phải chạy sang Vệ quốc lánh nạn, nàng chỉ nghĩ với khả năng của mình sẽ cố hết sức giúp đỡ Công Tử Triều, giúp người tình cũ tìm lại vẻ tôn nghiêm của nam nhi. Chính Công Tử Triều dùng tình xưa nghĩa cũ đánh động lòng nàng, khiến trái tim nàng đang héo úa như được sống lại dưới ánh mặt trời, ngờ đâu Công Tử Triều đem tất cả tâm tư bỏ vào chuyện tranh quyền đoạt lợi, có bao giờ yêu nàng thật lòng đâu chứ?
Nam Tử thông minh như vậy, trước kia cũng đã nhận ra ý đồ thật sự của Công Tử Triều khi tiếp cận mình rồi, thế nhưng nàng không muốn tin vào phán đoán của mình, cho dù nghi ngờ nhưng cuối cùng vẫn lựa chọn đứng về phía Công Tử Triều, giúp hắn đoạt lấy hổ phù khống chế cung vệ, nhờ vậy mới dễ dàng giết chết được Công Mạnh Trập. Chính vì chuyện này, nay Vệ hầu Cơ Nguyên xem nàng như kẻ thù, trước kia không có tình yêu thì hãy còn lòng tôn trọng, giờ thì không còn gì cả. Công Tử Triều thì mỗi khi gặp mặt chỉ nhắc chuyện ban thưởng, vệ sĩ của hắn, sau đó lại hối thúc Nam Tử dùng thân phận quân phu nhân của nàng giúp hắn chiếm lấy quyền lực to hơn. Một lần, hai lần, lần nào cũng như lần nào, trái tim Nam Tử mong mỏi Công Tử Triều biết bao, chỉ muốn nhìn thấy hắn, nghe giọng nói của hắn, thế mà…
Công Tử Triều hôm nay hẹn gặp, lại không biết đưa ra yêu cầu gì đây?
Nam Tử nhíu mày suy tư, ánh mắt vô hồn hướng về phía các nhánh cây trơ trụi lá vàng khô, phút chốc lại thở dài ngao ngán, trong một lúc nàng cảm thấy hối hận, Công Tử Triều là một người mang nặng dã tâm mưu cầu quyền lợi, muốn giữ hắn ở bên mình, không phải là ban cho hắn quyền lực, mà là tước đi quyền lực của hắn, nếu không làm vậy, một con đại bàng khi đã khôi phục lông cánh, nó sẽ tìm đến tự do, chứ sao chịu an phận sống trong chiếc lồng chứ? Mình đã sai, mình đã làm sai rồi…
------------------------
Vệ hầu Cơ Nguyên được Tả quân vệ trong cung Công Tôn Tuất tháp tùng bảo vệ đang đi dạo trong vườn thượng uyển. Công Tôn Tuất năm nay mới ba mươi, cao lớn lực lưỡng, ba lọn râu bệ vệ dưới cằm, người này văn võ song toàn, từ sau khi phân chia quyền lực với Công Tử Triều giữ chức Tả quân vệ quản lí một phần cấm vệ trong cung, nhanh chóng trở thành nhân vật nắm quyền lực quan trọng trong hoàng cung, do hắn là con trai của Hiền đại phu Công Tôn Bạt, cũng là danh gia vọng tộc ở Vệ quốc, về thân phận địa vị được các binh lính chấp nhận hơn Công Tử Triều nên ngả về hắn nhiều hơn, vì thế hắn không chỉ xây dựng được thế lực từ các cấm quân do một tay mình tuyển chọn, thậm chí còn qua lại mật thiết lôi kéo được một số tướng sĩ thuộc phe Công Tử Triều về phía mình.
“Tham kiến bệ hạ!”
Ba tên đội trưởng quỳ mọp xuống hành đại lễ với Vệ hầu Cơ Nguyên. Cơ Nguyên liếc mắt nhìn về phía họ, làm bộ hiền từ: “Ba vị mời đứng lên, ba vị ái khanh đây tên là gì vậy?”
“Hồi bẩm bệ hạ, tiểu nhân là Huyền Cao - tiểu nhân là Vô Khuy - tiểu nhân là Thải Tiêu” Ba tên đội trưởng lần lượt cung kính bẩm báo.
Vệ hầu Cơ Nguyên nghe thế biết là ba người này có tên mà không có họ, bèn vuốt râu cười khảy: “Ba vị tráng sĩ đây trung quân báo quốc, quả nhân trong lòng rất biết ơn, các ngươi nếu đã không có họ, giờ quả nhân ban họ cho các ngươi, ba người đều là tráng sĩ trong cấm vệ của quả nhân, lại tình như thủ túc, kể từ hôm nay, tất cả đều họ Vệ đi, lấy quốc hiệu của ta làm họ, thế nào?”
Ba tên đội trưởng ngớ mặt ra, Công Tôn Tuất đứng cạnh Cơ Nguyên vội nở nụ cười hối thúc: “Vệ Huyền Cao, Vệ Vô Khuy, Vệ Thải Tiêu, được lấy quốc hiệu làm họ, vinh quang biết bao, các ngươi còn không mau tạ ơn bệ hạ đi!”
Ba người kia thế mới tin đây là sự thật, vội vui mừng ra mặt khấu đầu tạ ơn: “Chúng tiểu nhân đội ơn bệ hạ.”
Công Tôn Tuất tiếp lời: “Các ngươi đứng dậy đi, hôm nay bệ hạ lo xong quốc sự, muốn đi dạo chơi vườn thượng uyển, ta tiện thể gọi các ngươi ra đây gặp mặt bệ hạ, để ngài thấy rõ lòng trung thành của các ngươi, sau này một lòng một dạ làm việc cho bệ hạ, vinh hoa phú quý không thiếu phần các ngươi đâu. Các ngươi đều là tướng lĩnh thống lãnh cấm vệ dưới trướng Công Tử Triều, không nên dây dưa ở đây nữa, mau quay về vị trí đi, tránh làm hỏng việc lớn.”
“Dạ, chúng tiểu nhân nhận ơn vua, vốn phải tận trung đền đáp ân đức của bệ hạ, đó là niềm vinh hạnh lớn lao của tiểu nhân ạ.” Ba tên đội trưởng lại bày tỏ lòng trung thành một lần nữa, Vệ hầu Cơ Nguyên hớn hở khen thưởng đôi lời, lại hứa hẹn phong chức ban thưởng gì đó, ba người cảm tạ xong lui ra.
“Công Tôn Tuất, ngươi làm tốt lắm, sau này phải ra sức lôi kéo đám người nhất thời hồ đồ đi theo Công Tử Triều này về phía quả nhân. Hừ! Giờ quả nhân muốn ra tay ngay phần thắng cũng nắm chắc rồi, nhưng Tấn quốc luôn lăm le xâm lược Vệ quốc của ta, đấy mới là lí do quả nhân chưa muốn hấp tấp ra tay vội vàng, chứ không phải quả nhân e sợ đám người Tề Báo, Vệ quốc…lúc này không được xảy ra nội loạn, nếu không sẽ bị kẻ địch bên ngoài lợi dụng cơ hội, nhưng mà…”
Ánh mắt Cơ Nguyên trở nên sắc lạnh: “Chỉ cần quả nhân sắp xếp đâu vào đó, mấy tên loạn thần tặc tử này, quả nhân nhất định trừng trị bọn chúng.”
“Dạ, nhưng trước mắt xin bệ hạ vẫn phải cố nhẫn nhịn, Công Tử Triều cơ trí hơn người, nếu không chắc chắn vi thần cũng không dám nói rõ ý định ra với thuộc hạ dưới trướng của hắn, tránh đánh rắn động cỏ, lúc đó chúng sẽ đề phòng trước. Nhưng bệ hạ cứ yên tâm, có vi thần trong cung bảo vệ, Công Tử Triều không dám ngông cuồng đâu ạ, còn trong triều thì có hơi rắc rối, Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố hiện giờ khí thế đang thịnh…”
“Quả nhân hiểu!” Cơ Nguyên ngắt lời Công Tôn Tuất, đưa tay vạch cành cây giăng ngang trước mặt, sải bước đi về phía ngọn đồi trong vườn, một con hươu đang chạy nhảy quanh đó bị tiếng bước chân làm kinh động, phóng nhanh vào lùm cây biến mất.
Cơ Nguyên vừa đi vừa nói: “Đây chính là lí do quả nhân trọng dụng Bắc Cung Hỉ, hạ bệ Tề Báo. Thực lực của Tề Báo mạnh hơn Bắc Cung Hỉ, bây giờ lại bị Bắc Cung Hỉ nắm giữ quyền lực lớn hơn, nếu Tề Báo cam lòng khuất phục đứng dưới Bắc Cung Hỉ, bọn họ liên kết lại quả nhân còn có chút e ngại, giờ quả nhân cố tình làm ra vẻ yếu thế, không động đến bọn họ, Tề Báo đã không chịu đựng được nữa, bắt đầu từng bước tranh quyền với Bắc Cung Hỉ. Ha! Đợi đến khi Bắc Cung Hỉ không chịu nhường bước, đó là ngày bọn họ trở mặt với nhau, lúc đó…quả nhân sẽ nhân cơ hội này…”
“A, bệ hạ dạo gần đây cứ hay ban thưởng cho Bắc Cung Hỉ, thì ra là…bệ hạ muốn Tề Báo nổi lòng đố kị?”
“Đúng vậy!” Cơ Nguyên đứng trên ngọn đồi dõi mắt khắp nơi, Công Tôn Tuất xua tay lệnh cho đám thị vệ lui hết ra xa, mình thì bám sát ngay sau lưng Cơ Nguyên.
“Đúng vậy!” Cơ Nguyên đứng trên ngọn đồi dõi mắt khắp nơi, Công Tôn Tuất xua tay lệnh cho đám thị vệ lui hết ra xa, mình thì bám sát ngay sau lưng Cơ Nguyên.
Cơ Nguyên ngước nhìn cây sam xanh tươi cao chót vót đằng xa, thở dài mệt nhọc, hai mắt ngấn lệ, hai nắm tay từ từ nắm chặt lại, uất hận lên tiếng: “Huynh ấy…huynh ấy thật là tội nghiệp, đám nghịch tặc này dám nhẫn tâm giết chết huynh ấy, tên Tề Báo này là tên cầm đầu, dù bất cứ giá nào quả nhân cũng phải chặt đầu Tề Báo trả thù cho huynh trưởng.”
Ánh mắt ngấn lệ, cây sam lắc lư theo gió, tiếng lá cây xào xạc, bóng cây in bóng trên mặt đất như vẽ nên một hình bóng trong tâm trí Cơ Nguyên, hình ảnh chàng võ sĩ mặc áo bào trắng toát, hai má hồng hào, thân hình yểu điệu, đôi mắt long lanh, thanh tu mỹ miều, lưỡi kiếm vun vút như rồng bay phượng múa, ánh sáng lấp lánh từ lưỡi kiếm phản chiếu lên khuôn mặt nõn nà mềm mại. Ôi, kiếm đồng Ngải Tử Man khắp người không một nơi không khiến người khác động lòng nay đang ở đâu… (Thế là thương huynh hay thương ai?)
Cơ Nguyên thổn thức đưa tay áo lên lau nước mắt, Công Tôn Tuất khẳng khái an ủi: “Tình nghĩa huynh đệ của bệ hạ và Công Mạnh Trập đại nhân khiến vi thần cảm động muôn phần, chỉ là hiện giờ bệ hạ vẫn phải cố gắng chịu đựng, đợi khi Tề Báo và Bắc Cung Hỉ trở mặt đấu đá với nhau, lúc đó mới là thời cơ tốt nhất cho bệ hạ hành động.”
“Ờ…đúng vậy, đúng vậy, ngươi nói phải lắm.” Sắc mặt Cơ Nguyên hơi chút khác lạ, hắn không muốn để Công Tôn Tuất nhìn thấu hắn thật sự đang suy ngẫm chuyện gì, vội vàng quay mặt đi nơi khác, ánh mắt đột nhiên nhìn thấy một nam một nữ đang đứng đối mặt với nhau, dường như đang to nhỏ với nhau gì đó, tên nam nhân đó trong lúc nói chuyện lại còn đặt tay lên bờ vai thon thả của nữ nhân kia, cứ như muốn kéo nàng vào vòng tay của hắn.
Cơ Nguyên giật nảy mình, ánh mắt tức giận đỏ rực, nghiến răng: “Gian phu dâm phụ! Gặp mặt nhau ở đâu không được, lại chạy đến chỗ này dan díu với nhau, thì ra lời đồn không sai, bọn họ quả nhiên có gian tình.”
Công Tôn Tuất nhìn theo hướng Vệ hầu Cơ Nguyên, phút chốc cũng giật nảy mình, với ánh mắt tinh tường, hắn đã trông thấy từ xa hai người kia chính là quân phu nhân Nam Tử và Hữu quân vệ Công Tử Triều.
Cơ Nguyên nghiến răng răng rắc, đưa mắt về phía một tên vệ sĩ đang đứng gần đó ra lệnh: “Ngươi, đưa cung tên đây cho quả nhân.”
Công Tôn Tuất thất kinh hồn vía, vội bước lên ngăn cản: “Không được đâu bệ hạ, nếu giết chết Công Tử Triều vào lúc này, đám người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ sẽ cho rằng bệ hạ trả thù, bắt đầu ra tay với bọn họ, chắc chắn sẽ liều chết nổi loạn. Bệ hạ, chúng ta vẫn chưa có được sự chuẩn bị kĩ lưỡng cần thiết, không nên mạo hiểm, bệ hạ, lúc này vẫn là lúc nên nhẫn nhịn, không thì hỏng việc lớn đó.”
Lúc này Cơ Nguyên đã đoạt lấy cung tên của tên vệ sĩ, giương cung lắp tên hướng về phía Công Tử Triều, nghe Công Tôn Tuất khuyên can, mũi tên sắp bắn ra chợt ngưng lại, hai tay tức giận đến nỗi run bần bật, cứ giữ lấy tư thế bắn tên không chịu bỏ xuống, Công Tôn Tuất tim đập thình thịch đứng đó, hắn không dám bước tới đoạt lấy cung tên, lại sợ Cơ Nguyên trong lúc tức giận bất chấp tất cả bắn chết Công Tử Triều, lúc đó nội loạn ắt sẽ lập tức xảy ra.
Sắc mặt Cơ Nguyên từ từ dịu lại, từ trắng bệch chuyển dần sang hồng hào, giây lát sau bỗng nhiên cười to buông cung tên xuống, Công Tôn Tuất thở phào nhẹ nhõm, vội bước tới đón lấy cung tên từ tay Cơ Nguyên, mở lời khuyên nhủ: “Bệ hạ tạm thời cố nén cơn giận, sau này chúng ta thiếu gì cơ hội trừng trị họ.”
Cơ Nguyên vẫn nắm lấy mũi tên chưa chịu thả ra, đôi mắt uất hận hướng về phía Nam Tử và Công Tử Triều đang đứng nói chuyện, càng nghĩ càng thấy giận, Cơ Nguyên đột nhiên rút kiếm ra, đặt mũi tên xuống đất, chém gãy đầu nhọn, sau đó lại cầm tên lên, giựt lấy cây cung trên tay Công Tôn Tuất, giương cung ngắm bắn Công Tử Triều, lạnh lùng nói: “Giờ ta không giết được hắn, cũng không để cho đôi cẩu nam nữ này tưởng rằng quả nhân là một tên câm điếc, hừ!”
Cơ Nguyên sải bước đi nhanh xuống đồi, Công Tôn Tuất không biết phải làm sao đành vội vàng theo sát sau lưng bảo vệ…
Khánh Kỵ chuẩn bị chu đáo xong xuôi cho chuyến đi Sở, còn chọn ra bốn dũng sĩ hiểu rõ tình hình Sở quốc, biết nói thổ ngữ bản địa làm tùy tùng, giờ chỉ còn đợi tin tức từ Lỗ quốc và Phi Hồ cốc truyền về, mọi thứ sắp xếp thỏa đáng xong sẽ lên đường đi Sở. Những ngày này Khánh Kỵ ngày nào cũng triệu tập tướng lĩnh thuộc hạ bàn bạc kĩ lưỡng kế hoạch phạt Ngô sắp tới.
Không có bản đồ chi tiết, không cách nào tiến hành đưa tin kịp lúc, tình hình chiến sự thay đổi liên tục, tất cả đều không được quy định cứng nhắc, theo bản vẽ sơ sài thì chỉ có vài ngọn núi lớn, vài tòa thành và mấy con sông tương đối lớn, Khánh Kỵ và đám tướng lĩnh thuộc hạ chỉ dựa vào đó quyết định một số kế hoạch tác chiến chung mà thôi.
Căn cứ theo lộ trình và thời gian hành quân, Khánh Kỵ định ngày khởi binh vào mười lăm tháng hai năm sau, đại khái đầu tháng ba sẽ vào biên giới Ngô quốc giao tranh với quân Ngô, đường tiến công của quân đội Ngải thành chia làm hai ngả, một ngả men theo Hoàng Hà đi vào Trịnh quốc, mượn đường vượt sông Trường Giang, sau đó xuôi theo Trường Giang đánh vào Ngô quốc, con đường hành quân này là chuẩn bị phòng khi kế hoạch liên kết Sở, Việt thất bại. Ngũ Tử Tư từng ý đồ mưu sát quốc quân Trịnh quốc, giờ đây hắn giữ chức tướng quốc của Ngô, Khánh Kỵ muốn đánh Ngô, mượn đường ngang qua Trịnh quốc, chắc chắn sẽ được chấp thuận.
Con đường hành quân thứ hai tức là trường hợp kế hoạch liên kết Sở, Việt thành công, lúc đó phải sát cánh chiến đấu bên quân Sở, vậy con đường hành quân này chính là đi trực tiếp vào lãnh thổ Sở quốc, tấn công theo đường bộ với quân Ngô, từ núi Trì Ki vượt Trường Giang tiến vào biên giới Ngô quốc, con đường này vừa có thể đi đường bộ vừa có thể đi đường thủy, thuận lợi tác chiến biến hóa tùy theo địa hình. Mặt khác, lại khá gần với Việt quốc nên dễ dàng phối hợp với quân Việt, lại còn thu hút phần lớn lực lượng quân Ngô về phía Nam, lúc đó phía Bắc Ngô quốc bố trí ít quân canh giữ, tạo điều kiện cho Tôn Vũ, Anh Đào từ Lỗ quốc tập kích bất ngờ vào kinh đô Ngô quốc.
Đội quân mới huấn luyện ở Phi Hồ cốc sẽ theo đường bộ xuôi về phía Nam, qua Trường Giang, lên bờ tập kết tại Hàn Ấp, tiến đánh Cô Tô thành, cũng có thể mượn nhiều thuyền lớn của Thành Bích lấy danh nghĩa vận chuyển muối ngụy trang, đi đường thủy vòng qua Nam Vũ thành gần đó tiến sát Cô Tô thành, tập kích bất ngờ đoạt lấy kinh đô Ngô quốc. Do lộ trình hành quân khác nhau, đội quân Phí thành phải khởi hành vào ngày hai mươi tháng hai, còn về đường tiến quân và kế hoạch tác chiến cụ thể tất cả giao cho Tôn Vũ và Anh Đào toàn quyền quyết định. Lúc ấy Khánh Kỵ đang tác chiến ở mặt trận phía Nam, với lại cũng không muốn can thiệp vào cách chỉ huy chiến đấu của vị đại tướng tài ba Tôn Vũ làm gì.
Còn hai vị công tử Yểm Dư, Chúc Dung nếu thuận lợi đến được Vệ quốc, lúc đó sẽ bố trí hai người ở lại trấn giữ Ngải thành và Phí thành, đảm bảo tiếp viện từ hậu phương. Kế hoạch này do thiếu thốn thông tin chi tiết nên Khánh Kỵ phải vắt óc ra suy tính, ba ngày sau mới xác định xong, khi đó tín sứ của Tôn Vũ cũng vừa đến nơi, báo cáo tình hình bên Lỗ quốc tiến hành rất thuận lợi, đến giờ đã chiêu nạp được hơn một vạn quân. Thời hạn phạt Ngô đến gần, đội quân của Tôn Vũ lại dùng vào việc tập kích, vì muốn giữ tính bất ngờ nên đã ngưng thu nhận thêm quân mới, nay phong tỏa sơn cốc, ra sức thao luyện binh lính ngày đêm, hy vọng tạo ra đội quân thiện chiến trong thời gian ngắn nhất.
Khánh Kỵ rất tán đồng cách làm này của Tôn Vũ, hắn ghi rõ ràng tỉ mỉ từng chi tiết về lộ trình hành quân và thời gian hành động trong lá thư gửi Tôn Vũ, sau khi suy ngẫm kĩ càng, lại ghi thêm một dòng chữ lớn cuối lá thư: “Tình hình chiến sự thay đổi không lường trước được, tướng tại ngoại quân lệnh có thể không theo, Trưởng Khanh có quyền tùy cơ ứng biến mà hành động.”
Khánh Kỵ dùng nến niêm phong bức bạch thư xong giao cho tên tín sứ của Tôn Vũ, lại cẩn thận phái thêm vài tên võ sĩ hộ tống đưa thư về Phí thành, sau đó lập tức sửa soạn cho chuyến đi Sở. Khánh Kỵ ăn mặc chỉnh tề, được các gia tướng thuộc hạ đưa tiễn ra cổng, đang định rời đi, đột nhiên có mấy tên lính đang kéo theo một người bị trói đưa đến trước mặt Khánh Kỵ
Khánh Kỵ dừng bước, chau mày hỏi: “Xảy ra chuyện gì?” Ánh mắt quét qua người bị trói đó, lúc đầu Khánh Kỵ nghĩ rằng chắc người này vi phạm quân luật gì đó, nhưng nhìn kĩ thấy hắn không giống binh lính của mình, ba mươi mấy tuổi, nước da trắng nõn, nhìn cứ như là một thương nhân.
“Đứng ngay ngắn vào, đây chính là công tử Khánh Kỵ.” Tên lính đi đầu quát vào mặt hắn, bước lên phía trước chắp tay bẩm báo: “Bẩm công tử, người này lén la lén lút trà trộn vào thành, bị chúng thuộc hạ bắt được, hắn nói chỉ khi nào gặp mặt công tử mới nói rõ thân phận.”
“Hử?” Khánh Kỵ kinh ngạc nhìn vào người này, đoạn chầm chậm bước lại gần hắn, hỏi: “Ngươi là ai?”
Người này đang bị trói hai tay sau lưng, cúi người hành lễ xong khúm núm trả lời: “Công tử Khánh Kỵ, ngài có thể cho các thuộc hạ lui ra không ạ?”
Khánh Kỵ xua tay, các thị vệ hai bên lập tức lui xuống, người đó tiến lên một bước, hạ giọng: “Công tử, tiểu nhân phụng mệnh của…đến mời…”
Giọng hắn càng lúc càng nhỏ, Khánh Kỵ nghe xong thoáng biến sắc, lộ vẻ ngạc nhiên: “Ngươi nói gì? Nàng ta…mời ta đến để làm gì?”
Khánh Kỵ sau khi rời khỏi hơn nửa tháng nay lại về đến Đế Khâu. Chỉ mới nửa tháng trôi qua, dưới cơn gió thu buồn tẻ, dung mạo Đế Khâu đã thay đổi lớn, diện mạo cứ như trong triều đường Vệ quốc hiện nay vậy, khắp Đế Khâu đều bao phủ một không khí u ám lạ thường. Xe ngựa của Khánh Kỵ đơn độc lăn bánh trên con đường thưa thớt bóng người qua lại, gió cuốn bay vài chiếc lá khô ven đường vào bánh xe ngựa, xe ngựa vẫn vô tình lướt đi cán nát những chiếc lá.
Khánh Kỵ đưa tay kéo rèm cửa sổ lại chặt hơn, gió lạnh không lùa vào trong xe được. Hắn bắt đầu chau mày suy nghĩ, Vệ phu nhân Nam Tử bí mật hẹn hắn đến Đế Khâu gặp mặt, rốt cuộc là có dụng ý gì? Khi hắn đang định khởi hành đi Sở quốc, tín sứ của Nam Tử đột nhiên mang đến một câu nói của Vệ quốc phu nhân Nam Tử: “Nam Tử muốn gặp mặt công tử một lần, thiếp thân tại cung cấm, không tiện ra ngoài, phiền công tử đến Đế Khâu một chuyến, đến gấp!”
Những lời này nghe qua có vẻ như là một cô nương đang hẹn hò với tình lang, nhưng Khánh Kỵ đâu có ngốc đến nỗi cho rằng chỉ với một lần gặp gỡ, vị Vệ quốc phu nhân cao ngạo như chim công ấy lại thầm thương trộm nhớ hắn, ngày đêm ăn không ngon ngủ không yên, để rồi cuối cùng không chế ngự được tình cảm phải phái người đến mời hắn đến gặp mặt cho thỏa niềm nhớ mong.
Phân tích kĩ tình hình chính trị Vệ quốc hiện nay, Khánh Kỵ đoan chắc không có lí do gì khiến Nam Tử gây bất lợi cho hắn, ít ra tình hình bây giờ không thể tìm ra lí do phải gây bất lợi cho hắn, Vệ hầu Cơ Nguyên cũng không lí do gì làm vậy, mọi thế lực khắp Vệ quốc, giờ đây đều mang thái độ phức tạp vừa kính nể vừa khiếp sợ, vừa muốn lôi kéo vừa có chút chán ghét với hắn, nhưng cũng không ai có ý đồ gây bất lợi cho hắn cả. Không có một nhân vật quyền thế nào đang bận đối phó với đối thủ hung hăng lăm le trước mắt mà đột nhiên điên tiết lên đi gây hấn với một thế lực thứ ba không liên can với quyền lợi của họ là Khánh Kỵ vào lúc này. Do đó, chuyến đi Đế Khâu này không phải là một cái bẫy, nghĩ vậy nên Khánh Kỵ mới nhận lời gặp mặt Nam Tử.
Thế nhưng Khánh Kỵ không hỏi thêm được chút tin tức gì từ tên tín sứ đó cả, điều này khiến hắn không sao đoán ra ý đồ thật sự của Nam Tử muốn gặp mặt hắn là gì, trên suốt chặng đường quay về Đế Khâu hắn luôn giữ lấy tâm trạng hiếu kì, dù với bất cứ lí do gì đi chăng nữa, có thể là thỏa thuận quan hệ hợp tác nào đó với hắn, Nam Tử cũng đâu cần thiết phải giấu giếm đám người Tề Báo và Công Tử Triều bí mật hẹn gặp một người ngoài như hắn. Tên tín sứ kia dặn dò cẩn thận đến mấy lần là hành tung lần này của Khánh Kỵ phải tuyệt đối giữ bí mật, không được cho bất cứ ai phát hiện kể cả Công Tử Triều và Tề Báo, nói như vậy có nghĩa là lần gặp mặt này ngay cả các nhân vật chủ chốt Công Tử Triều và Tề Báo thuộc phe thế lực Nam Tử cũng không được thông báo.
“Nữ nhân này, rốt cuộc đang tính toán chuyện gì?” Khánh Kỵ vuốt cằm suy tư, nghĩ mãi không ra dụng ý của Nam Tử.
Theo tính toán lộ trình và thời gian đi lại của Khánh Kỵ, tín sứ của Yểm Dư là Mục tướng quân phi ngựa ngày đêm không nghỉ quay về Sở quốc, sau đó Yểm Dư, Chúc Dung theo kế hoạch của hắn hành động thì cũng cần mất một khoảng thời gian, trước khi họ cố ý thua trận, dụ quân địch tiến sâu, bắt quân Sở và quân Ngô buộc phải giao chiến với nhau, Khánh Kỵ cũng không vội gì phải đến Sở, vả lại chuyến đi Đế Khâu này cũng không mất bao nhiêu thời gian, mặc kệ Nam Tử đang tính toán chuyện gì, hắn dự định cứ đi gặp mặt Nam Tử trước, xong mới lên đường đến Sở quốc hãy còn chưa muộn.
“Đây là đâu?” Xe ngựa rẽ vào một khu vườn trống, bốn thị vệ thân tín của Khánh Kỵ cảnh giác nhảy xuống xe, tuốt kiếm canh giữ bốn góc xe ngựa. Khánh Kỵ vén rèm cửa sổ nhìn ra ngoài, khu vườn này không lớn lắm, khắp mặt sân phủ đầy lá vàng khô, chỉ có một bà lão mặc áo bào đen đang cầm chổi quét nhè nhẹ xác lá dưới gió thu lạnh lẽo.
Bà lão này tuổi tác đã cao, đầu tóc bạc râm, nếp nhăn hằn cả lên khuôn mặt. Khi xe ngựa dừng lại giữa vườn, bà ta còn phải dụi dụi mắt mới nhìn thấy rõ, lúc này Khánh Kỵ đã bước xuống xe, bà lão quay mặt đi không thèm nhìn đám người mới xuất hiện này nữa, cũng đúng, sống bao nhiêu năm trên cõi đời rồi, đã không còn gì có thể khơi dậy tính hiếu kì và niềm hứng thú của bà lão quét lá khô đơn độc này nữa.
Tên tín sứ kia vội bước đến trước mặt Khánh Kỵ, cung kính thưa chuyện: “Mời công tử, nơi đây…là hậu hoa viên của phủ đệ một vị đại phu, ở đây rất yên tĩnh, công tử ở đây sẽ rất an toàn.”
Khánh Kỵ thầm suy ngẫm: “Hậu hoa viên của phủ đệ một vị đại phu, không phải là đám người Công Tử Triều, Tề Báo và Bắc Cung Hỉ, cô nương Nam Tử này quả không đơn giản, thì ra nàng ta còn xây dựng thế lực ngầm cho riêng mình ở Vệ quốc nữa.”
Khánh Kỵ mỉm cười gật đầu, quay qua tên tín sứ hỏi: “Ừ, ta đã đến đây rồi, tiếp theo làm gì nữa?”
Tên tín sứ khúm núm thưa chuyện: “Công tử cứ thong thả nghỉ lại nơi đây, tiểu nhân sẽ đi bẩm báo quân phu nhân, quân phu nhân sẽ tìm cơ hội đến đây gặp mặt công tử.”
Khánh Kỵ đã sớm nhận ra tên tín sứ này là một tên thái giám, giọng nói của hắn nghe không giống người nước Vệ, Khánh Kỵ suy đoán chắc hắn là thân tín Nam Tử mang theo từ Tống quốc khi được gả sang đây, Nam Tử che giấu bọn người Công Tử Triều, Tề Báo phái tên tín sứ này bí mật hẹn gặp Khánh Kỵ, ẩn tình bên trong chuyện này thế nào làm cho Khánh Kỵ ngày càng cảm thấy hiếu kì hơn.
“Hử? Quân phu nhân ra ngoài cấm cung được sao?”
Tên tín sứ do dự một lát mới trả lời: “Công tử cứ yên tâm, trong tẩm cung của quân phu nhân đều có thân tín đáng tin cậy, Vệ hầu lại không bao giờ ngủ lại trong tẩm cung của quân phu nhân, phu nhân muốn ra ngoài cung cấm cũng không phải là chuyện không làm được.”
Dứt lời, tên tín sứ tươi cười cung kính: “Dạ, mời công tử.”
“Nếu đã đến đây thì đành chịu vậy, cứ nán ở đây chờ mỹ nhân tự tìm đến thôi…” Khánh Kỵ hít một hơi dài, sải bước đi vào căn phòng nằm bên trong khu vườn yên tĩnh.
Dưới ánh nến, Khánh Kỵ đang chăm chú ngắm nhìn cô nương Nam Tử từng mắng chửi hắn té tát trong cấm cung Vệ quốc đang đứng trước mặt. Nam Tử khi đó, tuy trong cơn tức giận cùng cực nhưng thần sắc vẫn ung dung, đôi mắt chớp chớp quyến rũ, dù đang lúc nóng giận cũng toát lên vẻ đẹp kiêu sa của nàng, lúc đó Nam Tử như một cành hoa hồng đang khoe sắc, xung quanh lại tua tủa gai nhọn, kiều diễm mê hoặc đầy nguy hiểm.
Nhưng giờ đây, Nam Tử đang mặc áo đen đứng đó, mặc đồ đen có lẽ để tiện cho trốn ra khỏi cung cấm, nhưng nhìn kĩ trên khuôn mặt nàng lúc này trắng bệch, không có chút khí sắc nào cả, đôi mắt cũng không mang cơn giận, thay vào đó là một nỗi buồn thăm thẳm, sắc lạnh như băng, khiến ai nhìn vào đó đều nổi cơn ớn lạnh.
“Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì với nàng ta?” Khánh Kỵ nổi lòng hiếu kì, nhưng hắn lập tức ho lên một tiếng, câu hỏi sắp bật ra miệng được giữ lại, lên tiếng thăm dò: “Quân phu nhân, người bí mật sai thân tín triệu kiến, không biết có việc gì quan trọng cần bàn bạc?”
Đôi tay mềm mại của Nam Tử đan chặt lại với nhau, Khánh Kỵ nhìn vào đôi tay ấy, làn da trắng mịn, lấp lánh dưới ánh nến mờ ảo, Khánh Kỵ lo lắng Nam Tử siết chặt hơn chút nữa, các ngón tay búp măng nõn nà ấy sẽ bị nàng ta bẻ gãy mất.
“Ta…mời công tử đến đây là muốn công tử giết một người giúp ta.”
Khi nói ra câu này giọng nói của Nam Tử có hơi run rẩy, nhưng khi nói xong lại thấy nàng bình tĩnh trở lại, đôi tay đang đan chặt vào nhau được buông xuống, ngực từ từ ưỡn ra phía trước.
Khánh Kỵ chú ý thấy trên khuôn mặt xinh xắn của Nam Tử sau khi nói ra chuyện giết người xong, lập tức từ trắng bệch chuyển sang hồng hào, cộng thêm đôi mắt sắc lạnh ấy, kiều diễm mê hoặc, lại mang chút tà ác, đủ sức khơi dậy cảm xúc ham muốn nằm sâu tận đáy lòng người khác.
“Giết người?” Khánh Kỵ chau mày ngạc nhiên.
“Đúng vậy, giết người! Muốn nhờ công tử giết một người giúp ta, Nam Tử không nghĩ ra người nào khác thích hợp hơn để làm việc này.”
Khánh Kỵ vê vê mũi, cười to: “Hình như Khánh Kỵ này…không phải là một thích khách…”
Ánh mắt của Nam Tử từ đầu đến giờ chưa rời khỏi khuôn mặt Khánh Kỵ: “Ngao Thế Kỳ là một trong tam kiệt dưới trướng Công Mạnh Trập, có tiếng là kiếm thuật cao siêu, ta nghe nói…nghe nói công tử chỉ với một chiêu đã giết chết hắn. Người mà ta muốn giết, kiếm thuật cũng rất cao siêu, chắc cũng…tương đương với Ngao Thế Kỳ, ra vào cũng phòng vệ kĩ lưỡng, muốn giết hắn không phải chuyện dễ, nhưng nếu người ra tay là công tử, ta nghĩ chắc không khó khăn gì, nên ta mới đến cầu xin công tử giúp ta.”
Khánh Kỵ cười khổ: “Nếu trong thành Đế Khâu này có một người mà quân phu nhân Nam Tử đây không giết được mà phải nhờ cậy người khác, ta nghĩ…người này chắc mang lại rắc rối lớn, đúng vậy không?”
Nam Tử tươi cười ủy mị, dịu giọng thuyết phục: “Chuyện đó thì có quan hệ gì chứ, vả lại cũng sẽ không ai biết là công tử ra tay.”
Khánh Kỵ lè lưỡi liếm môi, ngập ngừng: “Ta có thể biết…người đó là ai không?”
“Công tử nhận lời ta trước đã.”
Khánh Kỵ nghiêm mặt: “Quân phu nhân, yêu cầu này của phu nhân xem ra…không hợp lí cho lắm.”
“Đúng là không được hợp lí, nhưng ta sẽ trả giá xứng đáng cho việc này.”
“Giá gì nào?”
Nam Tử từ từ đứng thẳng người lên, ưỡn ngực ra đầy khêu gợi, dưới mái tóc đen bóng mượt là khuôn mặt hồng hào toát ra vẻ đầy tự tin: “Cho dù công tử muốn thứ gì, chỉ cần ta có đều sẽ dâng lên công tử, ngay cả…ta cũng có thể thuộc về công tử.”
Khánh Kỵ lộ vẻ kinh ngạc: Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì với nàng ta rồi? Vì muốn giết ai mà cô nương cao ngạo không xem ai ra gì này nay không tiếc đem thân mình ra làm vật trao đổi nhờ cậy mình ra tay, nàng ta…rốt cuộc muốn giết ai?
“Thế nào? Công tử chấp nhận chứ?” Nam Tử cười say đắm, nụ cười như một bông hoa nở rộ dưới ánh ban mai, thân thể nàng mềm mại, đường cong quyến rũ, tuy là mặc chiếc áo đen không được nổi bật, nhưng khắp thân thể toát ra một luồng sức mạnh mê hoặc thần bí, tựa như đóa hoa quỳnh lặng lẽ trổ bông trong đêm trăng thanh vắng tĩnh mịch vậy.
Khánh Kỵ không ngừng quan sát mọi cử chỉ của Nam Tử, ánh mắt lướt từ hàng mi cong vút, đôi mắt đen láy, bờ môi đỏ thắm đến làn da nõn nà sau lớp vải đen nơi cổ Nam Tử, cất tiếng khe khẽ: “Thế này…thế này đúng là một cái giá rất lớn…”
Lúc này Nam Tử cũng đang quan sát Khánh Kỵ, cô nam quả nữ trong phòng kín giữa đêm khuya thế này đúng là khó kiềm chế nổi dục vọng, tất cả phản ứng của Khánh Kỵ đều không thoát khỏi tầm mắt Nam Tử, giọng nói dịu dàng mê hoặc ấy lại cất lên: “Khánh Kỵ, chỉ cần công tử giết chết hắn, tất cả mọi thứ đều thuộc về công tử, thân thể của ta, mọi thứ của ta…”
Khánh Kỵ thèm thuồng nhìn không chớp mắt vào tuyệt sắc giai nhân trước mặt, hồi lâu sau hắn mỉm cười lắc đầu: “Không, ta từ chối, chuyện nam nữ yêu đương phải là hai bên thật lòng đến với nhau, nếu biến thành một cuộc giao dịch, như thế đâu còn gì là thú vị, Khánh Kỵ yêu thích mỹ nhân, nhưng cũng không đến nỗi phải làm vậy. Rất xin lỗi, quân phu nhân, nếu phu nhân muốn giết Vệ hầu, điều duy nhất Khánh Kỵ làm được là xem như không biết gì cả, phu nhân…cứ xem như ta chưa từng đến đây gặp mặt. Khánh Kỵ thề với trời đất, tuyệt đối không tiết lộ bí mật này ra ngoài, cũng xin phu nhân đừng nảy sinh ý định gây bất lợi cho ta.”
Nói xong Khánh Kỵ từ từ đứng dậy, nắm chặt kiếm trong tay, cảnh giác lui từng bước về phía cánh cửa.
“Sao công tử lại cho là ta muốn giết Vệ hầu? Người mà ta nhờ công tử giết không phải là hắn.”
Khánh Kỵ ngớ người dừng bước, nhưng không dám buông lơi cảnh giác: “Vệ quốc ngoài Vệ hầu ra, còn có ai mà cả phu nhân, Công Tử Triều, Tề Báo không giết được? Còn có ai, khiến cho phu nhân phải lấy thân mình ra mặc cả nhờ cậy ta ra tay.”
“Còn một người chứ.” Đôi mắt Nam Tử lúc này đã ngấn lệ, nức nở từng tiếng một: “Người đó chính là… Công - Tử - Triều.”
Khánh Kỵ trong một lúc ngây ra không biết phản ứng gì nữa, hắn vốn đang cảnh giác Nam Tử vì không thỏa thuận được sẽ mai phục sát thủ giết hắn, nhưng nay nghe thấy người mà Nam Tử muốn giết chính là Công Tử Triều, Khánh Kỵ bất ngờ đến nỗi đứng chôn chân tại chỗ, miệng há hốc kinh ngạc, nếu lúc này mà có sát thủ mai phục sẵn nhảy ra đánh lén chắc Khánh Kỵ không thoát khỏi số phận phải bỏ mạng nơi đây.
“Phu nhân…phu nhân muốn giết Công Tử Triều sao?” Khánh Kỵ cứ ngỡ là mình nghe nhầm, hắn biết rõ quan hệ của Công Tử Triều và nàng ta, sao giờ hai người này lại…?
Nam Tử lại nở nụ cười quyến rũ, đôi mắt toát ra vẻ ưu sầu tội nghiệp, nàng khẽ nhắm mắt lại, đợi khi mở ra, từ đôi mắt đen láy ấy nước mắt tuôn ra như suối…
Nam Tử nhớ lại. Hôm đó trong vườn thượng uyển, nàng và Công Tử Triều đang đứng giữa hai cây sâm to lớn tranh cãi kịch liệt với nhau.
“Tử Triều, huynh bình tĩnh lại đi có được không? Chúng ta đã mất thời cơ, bây giờ là lúc nên nhẫn nhịn chờ đợi cơ hội, huynh bắt muội giả bộ bị Công Tôn Tuất cưỡng bức, sau đó huynh xông vào ra tay giết hắn, làm vậy chẳng khác nào đối đầu trực tiếp với Vệ hầu. Không sai, lấy cớ này huynh đúng là giết được Công Tôn Tuất, Vệ hầu cũng không làm gì huynh được, nhưng sau đó thì sao? Cái huynh cần là quyền lực, chứ không phải là gây hấn với Vệ hầu, một khi Vệ hầu tức giận lên, với sức của huynh và mấy người Tề Báo hiện nay cũng không chiếm được ưu thế gì. Tử Triều, huynh ở Tống quốc sao lại thất bại thê thảm? Chỉ vì huynh làm chuyện gì cũng nôn nóng, tính khí này của huynh sẽ hại huynh đó, huynh không thể sửa đổi được ư?”
Công Tử Triều lạnh lùng: “Muội biết cái gì? Nhẫn nhịn? Nhịn đến lúc Cơ Nguyên từng chút từng chút thu lại hết quyền lực vào trong tay hắn, lúc đó chúng ta muốn chống lại cũng không còn khả năng nữa à? Nam Tử, giờ huynh ăn không ngon miệng, ngủ không yên giấc, không biết đến bao giờ lại như Công Mạnh Trập bị một đội quân ập đến phanh thây xẻ thịt, sống những ngày tháng lo sợ như thế huynh không chịu được. Không sai, Cơ Nguyên nắm quyền cả Vệ quốc, nhưng hắn lại ở trong cung cấm, chỉ cần huynh tiếp quản toàn bộ lực lượng thị vệ trong cung, cũng đồng nghĩa với việc Cơ Nguyên chịu sự khống chế của huynh, mặc cho hắn cai quản thiên hạ, huynh thì cai quản hắn, lúc đó sợ gì hắn mưu toan làm hại huynh được nữa?”
Nam Tử cười khẩy: “E là làm vậy không chỉ vì muốn tự bảo vệ đâu, huynh muốn khống chế Vệ hầu, từ đó có được quyền lực lớn hơn, phải vậy không?”
Công Tử Triều bị Nam Tử nhìn thấu ý đồ, nổi giận gầm lên: “Thế thì có gì là không được nào?”
Chính vào lúc này, tiếng thét của Vệ hầu Cơ Nguyên vang lên bên tai: “Tử Triều!”
Công Tử Triều giật nảy mình hốt hoảng, vội đưa mắt về phía phát ra tiếng thét, chỉ thấy Vệ hầu Cơ Nguyên đang hầm hầm tiến ra từ bóng cây, tay lăm lăm cung tên, hét to một tiếng: “Đỡ lấy!” Dây cung được Cơ Nguyên kéo căng, một mũi tên bay vù vù hướng về phía hắn.
Công Tử Triều hồn xiêu phách lạc, hắn không biết là chuyện hắn và Nam Tử lén lút gặp nhau ở đây làm Vệ hầu nổi cơn ghen tuông, hay là Vệ hầu đã nghe thấy những gì hắn vừa nói với Nam Tử, lúc này cũng chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ đến nữa. Hai bên là hai cây sam to cao sừng sững, không còn chỗ trống nào để né tránh, mũi tên bắn đến trước mặt, chỉ trong khoảnh khắc mong manh ấy, Công Tử Triều không thèm nghĩ ngợi nhiều nữa, một tay tóm lấy Nam Tử theo bản năng, đẩy nàng ta che chắn trước thân mình.
Mũi tên chạm ngay giữa ngực, cảm thấy nhói đau, Nam Tử tuyệt vọng nhắm nghiền đôi mắt chờ chết, khoảnh khắc ấy, một nỗi đau xót xa lan tỏa trong tim nàng, nỗi đau đó không đến từ vết thương, mà là niềm chua xót tận đáy lòng Nam Tử, nàng không bao giờ nghĩ rằng trong thời khắc nguy nan, Công Tử Triều luôn miệng hứa hẹn yêu nàng còn hơn cả sinh mạng của hắn lại không chút do dự đem nàng ra làm lá chắn cản tên như bây giờ.
Cũng trong khoảnh khắc ấy, những lời Khánh Kỵ đã từng nói với nàng hiện ra rõ ràng trong kí ức: “Ai mà uy hiếp tới sinh mạng và lợi ích của ta, ta sẽ không ngồi yên chờ chết. Bây giờ có ai đó bắn mũi tên qua đây, ta không kịp né tránh, nếu người đứng kế bên ta là thân nhân bằng hữu ta kính trọng yêu mến nhất, ta thà chịu mũi tên đó cắm phập vào tim, cũng không bắt người kia đỡ tên cho ta, nhưng nếu đó là người dưng không hề thân thiết, ta sẽ không do dự kéo hắn qua cản giùm ta mũi tên, nếu người đó vốn không có ý tốt gì với ta thì lúc đó ta càng không cần thiết do dự, nếu kế bên là người già trẻ nhỏ vô tội, có lẽ ta cũng động lòng từ bi nhưng làm vậy là cho lương tâm được thanh thản chứ không vì nhân nghĩa lớn lao gì…”
Nam Tử chợt cười đau khổ, tim nàng đang bị tổn thương: “Thì ra, trong tim huynh ấy, ta chỉ là một người dưng không hề thân thiết, thứ huynh ấy theo đuổi chỉ có quyền lực, người huynh ấy yêu chỉ là bản thân huynh ấy mà thôi…”
Công Tử Triều cũng ngạc nhiên ngớ người ra, khi mũi tên của Cơ Nguyên bắn trúng Nam Tử, hắn đã muốn đẩy xác của Nam Tử ra, xông lên giết chết Cơ Nguyên hòng tìm đường sống, nhưng vừa thấy sau lưng Cơ Nguyên có thêm Công Tôn Tuất cầm kiếm theo sau bảo vệ, xa xa lại có mấy tên thị vệ đang chạy tới, hắn nghĩ lần này thế là tiêu đời, lúc này Công Tử Triều nảy ý định bỏ chạy, mũi tên trên ngực Nam Tử bỗng nhiên “Bạch!” một tiếng rơi xuống đất, đầu mũi tên không hề dính máu, Công Tử Triều kinh ngạc đứng chôn chân tại chỗ, nhất thời không biết nên phản ứng thế nào.
Cơ Nguyên được Công Tôn Tuất nhắc nhở, hiểu ra hôm nay không thể nào giết chết Công Tử Triều, bằng không đám người Tề Báo lập tức cảm thấy bị dồn vào đường cùng, lúc đó dấy binh làm phản thì nguy, do vậy mũi tên Cơ Nguyên bắn ra đã được chặt đi đầu nhọn, làm như vậy chỉ là cảnh cáo bọn họ mà thôi. Không ngờ mũi tên bắn tới, Công Tử Triều lại kéo Nam Tử làm vật thế mạng che tên, Cơ Nguyên ngớ ra một hồi liền thấy mừng rơn: Đôi cẩu nam nữ này, sau này hậu cung và đại thần khó mà cấu kết với nhau đối địch với ta nữa rồi.
Cơ Nguyên ha hả cười to, ném cung tên đi, bước tới giả đò ung dung: “Tử Triều, quả nhân đang đi dạo trong vườn, thấy ngươi đang đứng đây, vốn chỉ định đùa cợt với ngươi một chút, sao ngươi lại dám đem phu nhân ra cản tên hả?”
Công Tử Triều “rầm!” một tiếng quỳ xuống, cũng không cần phí thời gian suy nghĩ, vừa dập đầu xuống đất lia lịa vừa sợ hãi không thốt nên lời: “Bệ hạ, vi thần…vi thần…”
Hắn thấy Cơ Nguyên bước lại gần cúi xuống nhìn hắn, trên khuôn mặt Cơ Nguyên lúc đó nở nụ cười khoái chí, ánh mắt lộ vẻ khinh miệt pha chút đắc ý, Cơ Nguyên mở miệng ra đang nói gì đó, nhưng hắn chỉ nghe tiếng ong ong bên tai, dù cố gắng lắng nghe cũng không sao nghe rõ được. Công Tử Triều đang run lên bần bật, đắc tội với Vệ hầu, nay lại đắc tội với cả Nam Tử, thiên hạ rộng lớn, nhưng hắn còn trốn đi đâu được đây?
Nam Tử đứng thất thần sang một bên, khuôn mặt lạnh tanh không cười cũng không khóc, nàng lui lại vài bước tựa vào gốc cây, có như vậy thân nàng mới không bị ngã quỵ xuống, giây phút ấy nàng cảm thấy mình như đã chết, giờ trong tim nàng không còn chút cảm xúc nào nữa.
Hai ngày đã trôi qua, Nam Tử nhốt mình trong tẩm cung từ từ khôi phục lại ý thức, nàng bắt đầu suy nghĩ lí do giải thích giùm cho Công Tử Triều: Trong lúc nguy nan, ai cũng làm theo bản năng cả, huynh ấy không phải không yêu mình, chỉ là huynh ấy yêu bản thân hơn thôi, nhưng ngoài bản thân ra, mình vẫn là người quan trọng nhất trong lòng huynh ấy, huynh ấy sẽ đến gặp mình, chỉ cần huynh ấy thành tâm nhận lỗi, chỉ cần huynh ấy chịu cúi đầu nhận lỗi với mình…, mình…mình sẽ tha thứ cho huynh ấy phen này vậy…
Thế nhưng Nam Tử không đợi được Công Tử Triều đến thành tâm nhận lỗi, nàng một lòng nghĩ cho hắn, nhưng Công Tử Triều lại nghĩ khác, hắn ích kỉ kéo Nam Tử đỡ tên giùm hắn, giờ sao dám tin Nam Tử xưa nay cao ngạo lại vì tình yêu mà tự dối lòng tìm lí do tha thứ cho hắn? Hắn sao có thể tin Nam Tử bị hắn đưa ra thế mạng nay lại tha thứ cho hắn? Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố đều có thực lực hơn hắn, hắn đến Vệ quốc được bao lâu rồi chứ? Căn cơ của hắn như được xây dựng trên đống cát, chỉ dựa vào Nam Tử ở chốn hậu cung chống lưng nên hắn mới có chỗ đứng trong triều đình Vệ quốc. Nếu Nam Tử trở mặt với hắn, Vệ hầu Cơ Nguyên muốn giết chết hắn thì dễ dàng như dẫm chết một con kiến vậy, còn ba người Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, Chử Sư Phố được Nam Tử gợi ý chỉ lăm le chia sẻ quyền lực của hắn mà thôi, chứ không hành động bảo vệ hắn đâu.
Nam Tử càng giữ im lặng, Công Tử Triều càng lo lắng, cứ nghĩ nàng ta đang toan tính âm mưu thâm độc gì để hãm hại hắn, Công Tử Triều càng nghĩ càng sợ, trong lúc không còn cách nào khác, hắn đã chọn một con đường hắn cho là khôn ngoan nhất vào lúc này: Thỉnh tội với Vệ hầu Cơ Nguyên.
Công Tử Triều tâm ý đã quyết, bèn vào điện thỉnh tội với Cơ Nguyên. Nam Tử tuy không hề ra khỏi tẩm cung, nhưng nàng cai quản khắp chốn hậu cung, với quyền lực và cơ trí của nàng, đã sớm mua chuộc hầu hết tì nữ và thái giám trong cung làm tai mắt, ngay cả người hầu kề cận Cơ Nguyên cũng bị nàng mua chuộc, hành động này của Công Tử Triều đương nhiên được báo cáo về cho Nam Tử biết.
Nam Tử nghe xong tin này chết lặng trong lòng, lúc nguy nan bán đứng nàng, lúc khốn khó không tin tưởng nàng, người này có còn là Công Tử Triều nàng từng yêu không? Tên thái giám ngập ngừng kể lại lúc đó Vệ hầu Cơ Nguyên đang uống rượu giải sầu, Công Tử Triều bước vào dập đầu thỉnh tội, Cơ Nguyên hù dọa hắn một hồi lại mở lời an ủi, xong thu nạp hắn dưới trướng. Tiếp đó Cơ Nguyên thấy Công Tử Triều mắt thanh mày tú, lại dẫn hắn vào tẩm cung tâm sự, hơn nửa ngày trời mới cùng nhau dắt tay bước ra. Nam Tử nghe đến đó ngửa mặt lên trời cười to điên dại, cười đến nỗi nước mắt giàn giụa.
Đó chính là nam nhân nàng một lòng yêu mến, một đại anh hùng chí khí ngút trời, một nam tử hán đại trượng phu? Chỉ vì muốn giữ lấy mạng sống, lại bằng lòng bắt chước phận nữ nhi, dâng hiến cơ thể cho người khác, chấp nhận làm man đồng cho Cơ Nguyên giải trí. Nực cười, ghê tởm! Đúng là Vệ hầu thích nam nhân, nhưng dắt Công Tử Triều vào tẩm cung có thật là thích nhan sắc của hắn? Hay chỉ là dùng cách đó sỉ nhục Công Tử Triều một phen, từ nay về sau, Công Tử Triều còn ra thứ gì đây?
Yêu quá hóa hận, Nam Tử đã quá thất vọng về tên nam nhân này, trong tim nàng giờ chỉ nung nấu thù hận, nàng chỉ muốn làm một việc duy nhất: Giết chết Công Tử Triều.
Nam Tử bất chấp tất cả muốn giết chết Công Tử Triều, nàng giết hắn không chỉ vì uất hận, nàng muốn giết cả Công Tử Triều và quá khứ của hắn, cái quá khứ bỉ ổi đó làm nàng chán ghét, chỉ khi nào giết chết được hắn, nàng mới xóa bỏ được quá khứ mà tiếp tục sống.
“Đúng, là Công Tử Triều, là tên Công Tử Triều không bằng một con chó đó, bây giờ công tử chấp nhận rồi chứ? Khánh Kỵ công tử.”
“Rất tiếc, quân phu nhân, việc phạt Ngô sắp phải tiến hành, Khánh Kỵ không muốn sinh ra nhiều chuyện phiền toái. Ta…”
Hắn đột nhiên ngưng bặt, đôi mắt mở to, chỉ thấy Nam Tử tươi cười quyến rũ, kéo nhẹ dây lưng, dây lưng rơi nhẹ xuống đất, sau đó nàng dùng đôi bàn tay ngọc ngà từ từ cởi áo ra, bờ vai thon thả khẽ run run, tấm áo bào đen rơi phịch xuống đất, nàng không còn mặc gì nữa, tấm thân trần truồng ấy đang đứng trước mặt Khánh Kỵ, tấm thân như hoa như ngọc, Khánh Kỵ cứ như lạc vào tiên giới, đầu óc quay cuồng.
Nam Tử không hẳn đã cởi đồ ra hết, đôi chân nàng vẫn mang đôi ủng da hươu xinh xắn, làn da trắng nõn, Khánh Kỵ không dám nhìn vào chỗ kín của nàng, dù là vậy nhưng lúc này hắn cảm thấy tim đập thình thịch, hơi thở gấp gáp, Nam Tử khẽ cử động, bầu ngực căng tròn tràn đầy sức sống đưa ra trước như mời gọi, Nam Tử lại cúi người xuống để lộ vòng eo thon thả, cặp mông vút cao trông càng khêu gợi…
“Đối với công tử chỉ là chuyện dễ như trở bàn tay, công tử sẽ có được ta, công tử quả thật muốn từ chối sao?”
Khánh Kỵ mở to đôi mắt, nhìn một hồi lâu, từ từ bước lại gần Nam Tử. Nam Tử để lộ nụ cười đắc ý, bờ môi xinh xắn của nàng khẽ kéo giãn ra đôi chút, cặp mắt mê hồn ấy từ từ nhắm lại, nàng đang cố gắng nén giữ cho cơ thể không run bật lên, chiếc cổ dài của nàng ngước lên, thân người hơi ưỡn về phía trước, nàng đang làm ra tư thế mời gọi Khánh Kỵ…
Nam Tử nghe thấy tiếng bước chân của Khánh Kỵ dừng lại kế bên nàng, nàng không biết lúc này Khánh Kỵ đang ngắm nhìn bộ phận nào trên cơ thể nàng nữa, nàng cảm thấy nhột nhạt nóng ran khắp người, Nam Tử không biết rằng dù cố gắng chế ngự cảm xúc, nàng cũng không ngăn được cơn e thẹn thoáng qua, làn da trắng mềm mại của nàng giờ đây chuyển sang hồng hào, đôi chân dài thon thả của nàng đang run lên, tiếp đó…
Nam Tử cảm thấy một vật gì đó khoác lên trên vai mình, là một chiếc áo, nàng ngạc nhiên mở mắt ra, chỉ thấy Khánh Kỵ đang đứng kế bên, thân hình hắn cao lớn vạm vỡ, nàng thì chiều cao cũng không thua kém bao nhiêu, nhưng vì lúc này đang không một mảnh vải che thân, đứng bên Khánh Kỵ cứ như đứa trẻ đứng trước mặt người lớn vậy.
“Nào, dang tay ra…”
Nam Tử ngờ nghệch làm theo, đưa một tay ra, Khánh Kỵ luồn tay áo vào tay nàng.
“Tay kia.”
Nam Tử lại đưa tay kia ra, tay áo còn lại được luồn vào.
Sau đó áo của Nam Tử được kéo lại che lấy tấm thân yểu điệu mỹ miều, Khánh Kỵ đưa tay ra sau lưng nàng, lại luồn tay ra trước, cột chặt dây lưng trước bụng, khi tay Khánh Kỵ chạm vào tấm bụng phẳng lì mềm mại sau lớp vải áo mỏng tang, mùi hương thoang thoảng tỏa ra đầy mê hoặc.
“Trời đã sang thu rồi, nói không chừng mấy ngày nữa sẽ có một trận bão tuyết lớn, trời lạnh thế này, trong phòng lại không nhóm lửa, cẩn thận kẻo bị cảm lạnh…”
Nam Tử chợt thấy tức giận, thế nghĩa là sao? Hắn xem nàng như một đứa trẻ chưa trưởng thành ư? Nàng đã để lộ thân thể chưa từng cho người khác thấy trước mặt hắn, thế mà hắn…hắn xem như không có chuyện gì xảy ra, lại còn lên giọng bề trên như một bà lão lẩm cẩm dạy dỗ nàng nữa chứ.
Nam Tử tức giận đến nỗi toàn thân run lên bần bật, không nhận ra Khánh Kỵ phải cố gắng thế nào mới ức chế được dục vọng dưới ma lực cuốn hút của nàng, hắn lảm nhảm nói chuyện này chuyện kia không phải là nói cho nàng nghe, mà chỉ nhằm phân tán sự chú ý của hắn, từ đó che giấu đi phản ứng thèm thuồng.
Chính vì Khánh Kỵ, Công Tử Triều mới có được quyền lực hắn ngày đêm mong mỏi, cũng chỉ vì quyền lực mà Công Tử Triều sa đọa đến bước đường ngày hôm nay, thành một kẻ bỉ ổi vô liêm sỉ chấp nhận làm man đồng của Cơ Nguyên. Nam Tử hận hai tên nam nhân này, nàng vốn định dùng nhan sắc mê hoặc Khánh Kỵ, dụ hắn đi giết chết Công Tử Triều, sau đó lại tiết lộ thân phận thích khách của hắn, giết luôn tên tiểu nhân này, dù cho lúc đó nàng có thân bại danh liệt, mất luôn mạng sống vào kế hoạch này cũng mặc kệ.
Nàng không tiếc hy sinh thân mình, đích thân đến đây quyến rũ Khánh Kỵ, đã mang theo ý niệm tất cả cùng ôm nhau chết chung. Ai biết nay lại xảy ra một tình huống nàng không ngờ tới, dù cho Nam Tử thông minh mưu trí, lúc này đây cũng không biết phải làm sao. Một cô nương chưa từng cởi áo trước mặt nam nhân nay trần như nhộng lại còn bị từ chối, nàng còn nghĩ ra được mưu kế nào nữa.
Một lát sau, Nam Tử đã mặc xong chiếc áo, nàng định thần lại, tức giận đẩy Khánh Kỵ ra, đôi mắt đen láy của nàng như đang bùng cháy: “Công tử từ chối, có đúng không?”
“Ta không từ chối sắc đẹp, nhưng trong trái tim nam tử hán, nữ nhân mãi mãi không bao giờ nằm ở vị trí số một, có người mưu cầu quyền lợi, có người mưu cầu danh tiếng, Khánh Kỵ ta không phải là quân tử đạo mạo gì, nhưng ta cũng có niềm kiêu hãnh của ta, ta đúng là một nam nhi, nhưng ta không vì sắc đẹp mà khuất phục một nữ nhân, biến mình thành công cụ phục vụ cho nàng ta.”
“Ta không từ chối sắc đẹp, nhưng trong trái tim nam tử hán, nữ nhân mãi mãi không bao giờ nằm ở vị trí số một, có người mưu cầu quyền lợi, có người mưu cầu danh tiếng, Khánh Kỵ ta không phải là quân tử đạo mạo gì, nhưng ta cũng có niềm kiêu hãnh của ta, ta đúng là một nam nhi, nhưng ta không vì sắc đẹp mà khuất phục một nữ nhân, biến mình thành công cụ phục vụ cho nàng ta.”
Khánh Kỵ nói giọng đều đều chắc nịch, khi nói đến đoạn ta đúng là một nam nhi, lông mày cong lên lộ vẻ tự tin ngạo mạn. Nam Tử chua chát trong lòng, đột nhiên nhớ đến tên Công Tử Triều cũng từng vỗ ngực tự tin cao ngạo như hắn nay lại chấp nhận làm man đồng mua vui cho Cơ Nguyên, cái tư thế nằm xuống cho Cơ Nguyên đè lên đáng kinh tởm đó.
Nam Tử bình tĩnh lại, nói: “Ta từng coi thường công tử, cũng từng hận công tử, nhưng không biết tại sao, giờ công tử từ chối yêu cầu của ta, tất cả cảm giác hổ thẹn khi bị từ chối của ta lại tan biến hết, là bản thân ta bị thù hận làm mờ mắt mất rồi. Công tử đi đi, lập tức rời khỏi đây, ta xem như công tử chưa từng đến đây bao giờ.”
Nam Tử từ từ ngẩng đầu lên, ngước nhìn cây đà ngang trên nóc căn phòng, bàn tay xoa nhè nhẹ vào nút thắt của chiếc dây lưng Khánh Kỵ vừa cột lại giúp nàng, Khánh Kỵ vì e dè nên cột không chặt lắm, lại còn lệch sang một bên nữa chứ.
“Nàng muốn tự sát?”
Khánh Kỵ quan sát thái độ của Nam Tử đã đọc được ý định của nàng. Nam Tử chau mày, ánh mắt sắc lạnh quét vào Khánh Kỵ: “Liên quan gì đến ngươi?”
Khánh Kỵ cười khổ xòe tay ra: “Sao lại không liên quan? Nàng lén trốn ra khỏi cung cấm đến gặp ta, sau đó thì treo cổ tự sát, ai biết được là nàng vì cởi đồ quyến rũ bị cự tuyệt nên xấu hổ tự sát? Người khác không biết sự tình còn tưởng là bổn công tử đây trêu hoa ghẹo nguyệt, nàng tự sát vì tình ấy chứ.”
“Vì tình cái đầu ngươi!” Nam Tử tức tối sôi gan, ý định tự sát chợt tan biến hết, nàng uất hận đến nỗi muốn lao lên cấu xé tên Khánh Kỵ đáng ghét đứng trước mặt: “Cút, mau cút đi, đừng để quả nhân nhìn thấy mặt ngươi nữa!”
“Trước mặt nam nhân, nữ nhân nên tự xưng là thiếp mới phải, thế mới đáng yêu, dù nàng có đẹp như tiên nữ giáng trần, nếu suốt ngày cứ nói những lời cay độc thì cũng không một nam nhân nào thấy thích nàng đâu.” Khánh Kỵ không chịu rời khỏi, cười mím chi khoái trá, lại quay về ngồi vào bàn, lát sau lại thích thú buông ra một câu: “Thật ra…ta rất tôn trọng nữ nhân, nhưng đã là nữ nhân, thì nên ra dáng nữ nhân đúng không nào?”
Nam Tử hậm hực nhìn vào Khánh Kỵ: “Ngươi còn muốn gì nữa đây? Còn không biến đi là ta thay đổi ý định đó, ngươi chỉ mang theo bốn người, ở trong thành Đế Khâu này ta muốn ra tay giết ngươi thật dễ như trở bàn tay.”
Khánh Kỵ đanh mặt lại, lên tiếng: “Ta không hỏi nàng lí do vì sao trở mặt muốn giết Công Tử Triều, đó là chuyện riêng của nàng. Nhưng…nàng lén lút đến gặp ta mà không thông qua triều đường, cũng không thông qua đám người Tề Báo, Công Tử Triều, xem ra tình cảnh của nàng rất không ổn.”
Nam Tử lạnh lùng: “Thế thì đã sao? Cho dù Nam Tử này trở thành cô gia quả nhân, thì liên quan gì đến Khánh Kỵ nhà ngươi chứ?”
“Nàng không phải là cô gia quả nhân.” Khánh Kỵ vừa cười vừa phân tích: “Nàng là công chúa Tống quốc, Vệ quốc phu nhân, thật ra nàng có rất nhiều nguồn lực có thể lợi dụng, chỉ là nàng chưa bao giờ nghĩ tới mà thôi, dùng thân thể của mình ra để trao đổi, đó mới là cách ngu ngốc nhất.”
Nam Tử xấu hổ đỏ chót cả khuôn mặt, khi một nữ nhân trần như nhộng trước mặt một nam nhân, nếu nam nhân này lao tới “ức hiếp” nàng ta, vậy kẻ chiến thắng chính là nữ nhân đó, nhưng nếu nam nhân kia không thèm đếm xỉa tới nữ nhân trước mặt, như vậy dù cho đối phương có khinh miệt thế nào, nàng cũng không cách gì mở lời phản bác được.
Khánh Kỵ thấy mỹ nhân Nam Tử vì xấu hổ tức giận đến tím tái mặt mày, xem ra sắp nổi cơn thịnh nộ đến nơi, lập tức ngưng trêu chọc đi vào vấn đề chính: “Ta có một kiến nghị, có thể giúp nàng tận dụng nguồn lực của mình làm những chuyện nàng muốn, thế nào, có muốn nghe không?”
Nam Tử lấy lại bình tĩnh, ánh mắt nghi hoặc quan sát Khánh Kỵ giây lát, nàng cất tiếng êm ái: “Sao ngươi lại có lòng tốt muốn giúp ta? Ngươi sẽ có được lợi ích gì từ chuyện này?”
Khánh Kỵ cười toe toét, đưa tay vỗ vỗ chiếc ghế kế bên, nói: “Nào, lại đây ngồi xuống hẵng nói, thật ra thứ ta muốn không nhiều lắm. Con người ta xưa nay luôn công bằng, cho dù làm bất cứ chuyện gì, đều phải hai bên cùng đạt được lợi ích mới được. Vì chỉ khi nào làm được điều này quan hệ hợp tác của đôi bên mới duy trì lâu dài được, nàng nói đúng không?”
Nam Tử ngơ ngác dán mắt vào Khánh Kỵ, nàng đã không phân biệt được tên nam nhân kia có còn là công tử quý tộc Ngô quốc từ nhỏ được giáo dục tốt không nữa, Vệ quốc có rất nhiều thương buôn, Nam Tử thấy dáng vẻ của bọn thương buôn rất giống với vẻ mặt Khánh Kỵ lúc này, phải nói là Khánh Kỵ giờ đã trở thành một tên thương buôn gian xảo biết ngả giá chốn chợ trời mới đúng.
Nam Tử đột nhiên cảm thấy ớn lạnh, nàng vốn định đem thân mình ra trả giá với tên khốn Khánh Kỵ này, nhưng bây giờ…nàng lại có cảm giác như món hàng bị hắn bán đi. Nhưng…nàng vẫn bước về phía hắn ngồi xuống kế bên. Khi Công Tử Triều bị dồn vào đường cùng, hắn đã chọn một con đường sống nhục nhã nhơ nhuốc cho mình, còn nàng thì sao? Chẳng phải nàng cũng như hắn đó ư?
Tiềm Sơn Sở quốc, trong doanh trại quân đội.
Vài túp lều lưa thưa, vài tốp binh sĩ ủ rũ đang cầm kích đi tuần tra dưới gió thu lạnh lẽo, cúi đầu uể oải bước đi, vài tên lính đang bị thương vẫn phải đi xiên vẹo tuần tra, dáng vẻ của kẻ bại trận thật là thê thảm.
Phía sau những túp lều là dãy núi đồ sộ, nơi đây chính là Đại Biệt sơn nổi tiếng sau này, chính vì dựa vào địa hình hiểm trở ở đây, số quân ít ỏi tàn tạ của Yểm Dư mới thoát được truy kích của Bá, hiện đang lánh nạn tạm vào hẻm núi heo hút này.
“Hí…” mấy tiếng ngựa hí vang lên trong đêm tối, một chiếc chiến xa đang lao như bay men theo khe núi tiến vào quân doanh, tiếng xe chạy làm kinh động chim chóc đang say ngủ trong rừng làm chúng hoảng hốt bay tứ tung. Trên xe ngựa hai ngọn đuốc rực sáng lên hai bên trái phải, ở giữa một người đứng đó nắm chặt dây cương, tay kia cầm kiếm dáng vẻ oai vệ, bóng đêm bao phủ không nhìn rõ được khuôn mặt hắn ta. Xe chạy đến trước cửa quân doanh dừng lại, đám binh sĩ canh gác chạy lại hỏi han một hồi sau đó mở cổng nhường lối, chiếc xe ngựa lại phi nhanh vào doanh trại, hướng về túp lều to nhất còn đốt đuốc sáng rực đằng xa. Xe dừng lại trước túp lều, người trên xe nhảy phóc xuống đất, tà áo sau lưng bay phấp phới cứ như một con chim ưng sà xuống vồ mồi.
“Tứ ca!” Người này gọi to, sải bước về hướng túp lều, đưa tay vén màn cửa lên bước vào trong: “Tứ ca, huynh gọi đệ đến đây gấp vậy có việc gì quan trọng thế?”
Ở giữa lều đang trải một tấm thảm dơ bẩn dưới đất, một nam tử tầm hai mươi bảy hai mươi tám tuổi đang ngồi bó gối trên đó. Dáng vẻ hắn không được cao lắm nhưng cũng khá là oai vệ, giờ đã cởi bỏ áo giáp, bên trong là chiếc áo bào dành cho công tử, búi tóc bằng tấm vải trắng, hai mắt nhắm nghiền, không chút động đậy, xem mặt mũi hắn lông mày sắc nhọn, mũi cao miệng rộng, thêm ba lọn râu dưới cằm, thần sắc uy nghi.
Người gọi hắn là tứ ca mới bước vào nhỏ tuổi hơn, chắc chỉ hai mươi mốt hai mươi hai tuổi, dưới cằm cũng đang bắt đầu để râu, dung mạo trông giống người kia đến bảy tám phần, đang mặc một bộ giáp trụ, trên bộ giáp cũ nát này chi chít vết chém đao kiếm, cũng không biết là đã cùng hắn trải qua bao nhiêu trận huyết chiến sinh tử, khắp thân hình rắn chắc của hắn toát ra sát khí ngùn ngụt.
“Ngồi đi!” Người đang ngồi không hề ngẩng đầu mở mắt ra, chỉ cất tiếng ngắn gọn.
Người kia nghi hoặc nhìn vào mặt hắn một hồi, y lời bước tới ngồi xuống trước mặt hắn.
Người nam tử ngồi bó gối im lặng hồi lâu, đợi khi chàng thanh niên mới bước vào không còn kiên nhẫn nữa, lại cất tiếng lên hỏi có việc gì quan trọng, hắn mới từ từ mở mắt ra, thở dài ngao ngán, ảm đạm nói: “Chúc Dung, đêm nay, ta suy nghĩ rất lâu rồi, từ lúc tin tức Cơ Quang giết chết hoàng huynh, chiếm đoạt vương vị truyền đến quân Ngô quân Sở, ba quân hỗn loạn, cho đến ngày hôm nay, hây…, chúng ta đã sai mất rồi.”
Thì ra người này chính là vương tử Ngô quốc Yểm Dư, chàng thanh niên trẻ ngồi đối diện chính là huynh đệ của hắn Chúc Dung. Nghe Yểm Dư nói ra những lời này, Chúc Dung ngạc nhiên hỏi: “Tứ ca, huynh nói chúng ta sai rồi, rốt cuộc là sai chuyện gì?”
Yểm Dư lắc đầu ngao ngán, cười khổ tiếp lời: “Khi tin tức Cơ Quang soán ngôi được truyền đến, lòng quân đại loạn, đệ và ta đều biết thế cuộc đã được an bài, lúc đó quả quyết dẫn quân mở con đường máu xông ra ngoài, trốn vào núi non gần đó. Khi ấy đệ và ta từng phái người liên lạc với Khánh Kỵ, muốn tập hợp binh lực lại, lợi dụng thù oán của Sở quốc với Ngô quốc ta, mượn tay quân Sở đối phó với Cơ Quang, nhưng Khánh Kỵ không tin tưởng Sở vương, quyết chí chạy sang Vệ quốc chiêu binh mãi mã, tính kế lâu dài. Bây giờ nghĩ lại, chọn lựa của hắn mới là khôn ngoan, còn đệ và ta thì đã sai mất rồi.”
Chúc Dung nghe vậy cũng không thốt nên lời, lát sau mới lên tiếng: “Đúng, Sở vương tính khí hẹp hòi, muốn thâu tóm tất cả quyền lực trong tay, cho dù là các công khanh đại phu Sở quốc, hễ ai có sức mạnh lăm le đủ uy hiếp đến vương quyền của hắn đều bị hắn tìm đủ lí do tiêu diệt từng người một, Bá gia, Ngũ gia, bao nhiêu trung thần cũng không thoát khỏi số phận, nói gì đến đám người ngoài như chúng ta? Hắn chỉ lợi dụng huynh đệ chúng ta mà thôi, không bao giờ muốn thật lòng giúp đỡ. Việc này…trước kia chúng ta cũng có nghĩ đến, kẻ thù hôm qua, sao hôm nay lại trở thành bằng hữu được chứ? Đương nhiên là không thể, chỉ là…ta không nghĩ đến Sở vương lại tàn ác nhưng vậy, chỉ cung cấp lương thảo, không phái một binh một tốt chi viện, cứ tận dụng quân chủ lực của chúng ta, cộng thêm binh lực của vài nước nhỏ phụ thuộc Sở quốc đối kháng với Cơ Quang, giờ đây…giờ đây binh mã của chúng ta chỉ còn sót lại không quá ba ngàn, lại bị vây khốn ở Đại Biệt sơn này…”
Hắn ngẩng đầu nhìn về phía cửa sổ nhỏ của túp lều, sầu não lo lắng: “Cho dù Bá không xua quân tấn công, chỉ bao vây chúng ta ở đây, e rằng mùa đông lạnh giá này chúng ta cũng khó chống đỡ.”
Yểm Dư càng sầu não hơn: “Chúng ta có mấy vạn đại quân, nay chỉ còn sót lại không quá ba ngàn tàn quân bại tướng, chẳng lẽ tất cả đều phải bỏ mạng ở đây sao? Dù cho tất cả chúng ta liều mạng chiến đấu chết ở đây thì có ý nghĩa gì chứ?”
Yểm Dư thở dài, ngoài kia gió rít qua khe núi, phát ra tiếng u u buồn thảm, như tiếc thương cho kẻ anh hùng sa cơ.
Chúc Dung nhíu mày, lại một tiếng thở dài phát ra, vỗ đùi cái đét, hạ giọng: “Tứ ca, vậy huynh kêu đệ đến đây là có dự tính gì?”
“Khánh Kỵ đưa thư đến rồi.”
“Hử?”
Yểm Dư thò tay vào giữa ngực, lấy ra một cuộn vải lụa, nhét vào tay Chúc Dung, Chúc Dung trải tấm bạch thư ra, nghiêng người cho ánh nến rọi vào, xem tỉ mỉ một hồi, hắn thất thanh kêu lên: “Khánh Kỵ đã biết huynh đệ ta thua trận, mời chúng ta đến Vệ quốc?”
“Ừ!” Yểm Dư vuốt râu, tiếp: “Trong lá thư ta viết cho Khánh Kỵ, đã nói rõ tình cảnh của chúng ta cho hắn biết.”
“Tứ ca, một khi đã cậy nhờ Khánh Kỵ, vậy huynh sẽ…”
Yểm Dư cười nhạt nhẽo: “Bây giờ có giữ được tính mạng hay không còn là vấn đề, còn nghĩ gì đến chuyện tranh đoạt vương vị nữa? Vương vị đã không còn hy vọng rồi, ta chỉ theo đuổi mục tiêu thứ hai thôi, đó là đánh về Ngô quốc, chặt cái đầu chó của tên Cơ Quang, tế vong hồn của già trẻ lớn bé gia tộc ta…, được vậy Yểm Dư này đã mãn nguyện.”
Ánh mắt Chúc Dung dán chặt vào Yểm Dư, rồi lại cúi xuống tiếp tục đọc thư, đột nhiên hắn giật nảy người, lại thất thanh kêu lên: “Hắn muốn chúng ta chia nhau ra trấn giữ Ngải thành Vệ quốc, Phí thành Lỗ quốc, tháng ba năm sau khởi binh phạt Ngô sao? Ở Phí thành Lỗ quốc hắn đã xây dựng được một đội quân ở đó ư?”
Yểm Dư nở một nụ cười khâm phục, nói: “Đúng vậy, tên tiểu tử Khánh Kỵ này, thật làm ta khâm phục sát đất. Hắn tuy là điệt nhi (cháu họ) của huynh đệ ta, nhưng xét về tuổi tác chúng ta cũng không lớn hơn hắn bao nhiêu, từ nhỏ đã chơi chung với nhau, tới khi trưởng thành danh tiếng của hắn vang khắp bốn bể, còn đệ và ta thì không ai biết đến, không chỉ có đệ, trong lòng ta có lúc cũng không phục, giờ nghĩ lại hắn quả thật tài giỏi hơn huynh đệ chúng ta nhiều.”
Yểm Dư ngưng một hồi lại nói tiếp: “Sức mạnh kinh người, sánh với ba quân, với công phu sức mạnh cá nhân, đi lại trên giang hồ còn được ai nấy khâm phục, nhưng trước thiên binh vạn mã, có ai đủ sức địch lại vạn người chứ, sức mạnh cá nhân lúc đó không có tác dụng gì cả. Nhưng Khánh Kỵ nhỏ tuổi là thế, lại cơ mưu túc trí suy tính sâu xa, không chỉ tạo dựng được cơ sở vững chắc ở Vệ quốc, mà mới trải qua trận thua phạt Ngô lần trước, giờ chỉ trong thời gian ngắn lại xây dựng được đội quân đông đảo mấy vạn người, hơn nữa…lại có thể thần không biết quỷ không hay bí mật chiêu mộ một cánh quân ở Lỗ quốc, Yểm Dư này hôm nay đúng là tâm phục khẩu phục hắn rồi đó.”
“Tứ ca…”
“Hử?”
“Huynh đã thay đổi nhiều.”
Yểm Dư im lặng giây lát, cười cười: “Mỗi một người, đều như một miếng đá sắc cạnh trong dòng suối, chỉ khi nào được dòng nước mài dũa mới trở nên bóng loáng. Ta cũng có chí hướng của riêng mình, nhưng trải qua nhiều thất bại, ta nhận ra ta chỉ có hùng tâm tráng chí, chứ không có khả năng mưu lược làm chuyện lớn. Xét về mưu trí, tầm nhìn, sức mạnh, hết thảy mọi thứ Khánh Kỵ đều giỏi hơn ta, người làm thúc thúc này thua một cách tâm phục khẩu phục, nếu đã là vận mệnh an bài ta không làm vua một nước được, vậy ta sẽ làm một công thần tướng tài phò trợ vị vua hùng tài thao lược vậy.”
Nói đến đây Yểm Dư vênh mặt, ngạo mạn: “Yểm Dư tin là với chút bản lĩnh này ta còn làm nên chuyện. Huynh đệ chúng ta, có ai là vô dụng không nào?”
Chúc Dung quan sát huynh trưởng hồi lâu, thở dài: “Tứ ca nếu đã nghĩ vậy, Chúc Dung còn gì để nói nữa? Được, chúng ta sẽ đến Ngải thành nhờ cậy Khánh Kỵ điệt nhi, xua quân phạt Ngô giết chết Cơ Quang trả mối thù gia tộc.”
Hai người tay nắm chặt tay, nhìn nhau hạ quyết tâm lần nữa, Yểm Dư lên tiếng hỏi: “Thư của Khánh Kỵ điệt nhi đệ đã xem xong rồi đúng không? Chúng ta phải nhanh chóng lên đường đến Vệ quốc, còn hắn sẽ khởi hành sang Sở, hối thúc Sở vương khởi binh, hẹn tháng ba năm sau cùng nhau phạt Ngô, nếu lần này thành công thì cơ hội phục quốc của chúng ta có hy vọng rồi. Việc này nhất định chúng ta phải làm cho tốt, khi xưa mấy vạn hùng binh, thực lực chúng ta mạnh hơn điệt nhi, nay như chó nhà có tang đến nhờ cậy ngược lại, nếu ngay cả việc này cũng làm không xong, còn mặt mũi nào gặp anh hùng trong thiên hạ nữa đây?”
“Tứ ca nói phải lắm, chỉ là dụ quân của Bá tấn công quân Sở, ép quân Sở buộc phải giao chiến với Bá thôi mà.”
Chúc Dung vừa nói vừa nghiến răng ken két, cố gắng chế ngự cơn giận nổi lên trong lòng, hậm hực nói: “Tên Sở vương tầm nhìn thiển cận, tâm địa hẹp hòi, không biết lợi dụng thời cơ liên kết với chúng ta đánh trả Cơ Quang, lại ngồi yên định tọa sơn quan hổ đấu, nhìn chúng ta giao chiến với binh mã của Cơ Quang, mong cho chúng ta lưỡng bại câu thương, thật là ngu dốt hết chỗ nói. Trên dưới Sở quốc chẳng lẽ không ai nhìn rõ tình thế hiện giờ sao? Sở quốc ngoài mạnh trong yếu, tuy có hai mươi mấy vạn đại quân, nhưng lại bố trí rải rác trên khắp lãnh thổ rộng lớn, Cơ Quang xua quân đến đánh, như lấy mũi dùi sắt đâm xuyên tấm vải, Sở quốc nhìn vào hùng mạnh là thế nhưng không chịu nổi một trận đánh, đợi khi huynh đệ ta bại trận bỏ mạng, khi đó quân đội của Cơ Quang sẽ nhằm vào hắn.”
Yểm Dư tán đồng: “Bởi vậy mới nói, khi lòng riêng làm người ta mờ mắt, ai còn thần trí nào mà nghĩ đến lợi hại sâu xa nữa đâu, chúng ta chẳng phải cũng như thế ư? Trước kia nếu không phải ta rắp tâm tự lập môn hộ, tranh giành với Khánh Kỵ, thì sao lại bị người Sở lợi dụng, để rồi hôm nay rơi vào tình cảnh thê thảm này? Nếu khi xưa chúng ta hợp sức với Khánh Kỵ, với thực lực lúc đó đâu cần Khánh Kỵ điệt nhi phải bôn ba đến khắp nơi nhờ cậy giúp đỡ của các nước. Thôi, không nói nữa, đều là chuyện đã qua, không cần nhắc lại làm gì. Đệ và ta bàn bạc kế hoạch làm sao dẫn dụ quân Ngô đến đánh Sở vương mới là việc chính nên làm lúc này.”
Hắn vuốt vuốt mũi, trầm ngâm: “Vừa nãy ta đã suy nghĩ kĩ càng rồi, hiện giờ Bá đóng quân tại vùng đất Sào, Thư, mỗi lần xua quân tấn công, chúng ta đều lui vào cố thủ ở Đại Biệt sơn, bọn chúng không dám mạo hiểm tấn công, sợ quân Sở đánh lén chặn đường rút lui. Ta cho rằng lần này ta có thể tập hợp tất cả tàn quân, liều chết mở đường máu xông ra, rồi giả vờ thua trận không lui về Đại Biệt sơn, mà chạy sang các thành trì phía Tây và phía Bắc của Sở quốc.
Giờ sắp bước vào mùa đông, chúng ta không chịu lui vào hẻm núi cũng là lí do chính đáng, Bá sẽ không nghi ngờ, mục đích của Bá là lấy đầu của huynh đệ ta, thấy chúng ta bại trận rút lui, hắn chắc chắn xua quân đuổi theo, chúng ta dẫn dụ chúng đến Đồng Thành, Hoang Phổ, Long Thư, Nam Cang, những nơi này có rất ít quân Sở trú đóng, Bá sẽ không e ngại, chúng ta dụ Bá đến đó chiếm thành đoạt đất, chém giết người Sở, sau đó chúng ta rút chạy về hướng Anh Thị, Kê Phụ, Vũ Thanh, mượn đường từ Trịnh quốc đến Ngải thành Vệ quốc.
Bá xua quân đuổi theo là tốt nhất, nếu không thèm đuổi theo, cứ chém giết cướp bóc ở mấy tòa thành trì kia, trừ khi Sở vương là người chết, bằng không hắn buộc phải hành động bảo vệ lãnh thổ chứ, chỉ cần hắn xua quân giao tranh với Bá, khi đó Khánh Kỵ điệt nhi đến Sở thuyết phục Sở vương cùng khởi binh phạt Ngô, đó đã là chuyện buộc phải làm theo, không có lí do gì để từ chối.”
Chúc Dung nghe Yểm Dư nói xong nhắm mắt suy ngẫm hồi lâu, đột nhiên mở to đôi mắt, ánh nhìn toát ra một vẻ gì đó nham hiểm: “Tứ ca, chúng ta bị người Sở hại đến nỗi thê thảm thế này, bỏ đi như vậy đệ không cam lòng.”
Yểm Dư lườm hắn, nghiêm nghị: “Chúc Dung, đại sự làm trọng, không được vì thù riêng làm hỏng việc lớn, mối thù với Sở vương đợi sau khi chúng ta phạt Ngô thành công rồi hẵng tính, bây giờ tuyệt đối không được phá hỏng kế hoạch của Khánh Kỵ điệt nhi.”
“Tứ ca, đệ không phải muốn phá hỏng kế hoạch của Khánh Kỵ điệt nhi, đệ chỉ định…nếu mục đích của chúng ta là dẫn mồi lửa đến đốt cháy người Sở, tại sao không đốt cho cháy to hơn? Không đốt chết tên tiểu súc sinh Sở vương cũng cháy cho hắn trụi sạch lông, thế mới hả cơn giận của hai huynh đệ chúng ta.”
Yểm Dư ngớ người, vội hỏi: “Chúc Dung, đệ có diệu kế gì?”
Chúc Dung cười một cách nham hiểm, ghé tai Yểm Dư nói nhỏ vài câu, ánh nến phản chiếu bóng dáng hai người lên túp lều vải, như hai con sói đói nhe nanh chuẩn bị cắn xé con mồi tội nghiệp đang giãy giụa chờ chết.
Sào thành Sở quốc.
Nơi đây đã bị quân Ngô chiếm cứ, Bá chiếm cứ được tòa thành này, bèn lấy đó làm cứ điểm dừng chân, truy quét quân của Yểm Dư, Chúc Dung. Bá lúc này mới chỉ hơn ba mươi tuổi, đang vào lúc tráng kiện nhất của nam nhân, dẫn quân đánh trận cũng là hảo thủ số một, do Sở vương một lòng mặc cho họ tiêu diệt lẫn nhau, nên toàn bộ quân chủ lực của Sở đã nhận được lệnh rút lui về hậu phương, chỉ để lại tàn quân của Yểm Dư, Chúc Dung cùng với một số nước nhỏ nương nhờ vào Sở quốc ở lại tiếp chiến, đám quân yếu đuối này vốn chẳng thể nào đối chọi được với quân đội hùng mạnh như cọp dữ của Ngô quốc, vì thế quân Ngô đánh trận nào thắng trận đó, đến nay vẫn chưa vấp phải trận chiến khó khăn nào.
Dưới ánh nến, Bá đang cầm một tấm bản đồ da dê xem xét tỉ mỉ, đôi lông mày rậm rạp căng thẳng nhíu chặt lại, chốc chốc lại đấm mạnh tay một cái, hình như có vấn đề khó khăn gì không sao nghĩ ra cách giải quyết.
“Tướng quân, tướng quân.” Tấm màn cửa hé mở, một cơn gió lạnh lùa vào trong phòng, Bá đưa tay giữ chặt tấm áo khoác trên vai, đưa mắt về phía cửa, một tên lính mặc áo giáp bước vào bẩm báo: “Tướng quân, Ngũ tướng quốc đã đến trước ba quân.”
“Hử?” Bá giật mình, hai vai vươn thẳng, cởi tấm áo khoác trên vai xuống, truyền lệnh: “Tướng quốc đã đến đây ư? Mau, mau mau bày đội nghi thức ra đón tiếp, đánh trống lên, triệu tập tất cả tướng lĩnh.”
“Tuân lệnh!” Tên lính mặc áo giáp nhận lệnh xong gấp rút lui ra.
Bá vội vàng nhấc bộ giáp trụ để trên bàn lên, vừa cố gắng mặc nhanh vào người vừa nghĩ thầm trong đầu: “Ngũ Tử Tư sao lại đột nhiên đến đây? Chẳng lẽ đến tranh giành công lao với mình sao? Không lí nào, lão già đầu bạc này là một người khẳng khái chân thành, vậy chắc là đại vương có mệnh lệnh gì rồi? Nhưng cũng đâu cần thiết phải bắt một người đường đường là tướng quốc đi truyền đạt quân lệnh.” Tình cảnh của Bá cũng giống như Ngũ Viên, cũng vì thế lực gia tộc ngày càng lớn mạnh, uy hiếp đến quyền lực Sở vương, bị Sở vương mượn tay Lệnh Doãn Nang Ngõa diệt cả gia tộc. Ngũ gia bị tiêu diệt trước tiên, Ngũ Tử Tư may mắn trốn thoát sang Ngô quốc, được Ngô vương Hạp Lư trọng dụng và trở thành trọng thần trong triều, Bá sau khi nhà tan cửa nát cũng trốn sang Ngô quốc, hai người vốn đều xuất thân từ danh gia vọng tộc ở Sở, là chỗ quen biết cũ, nay lại cùng cảnh ngộ với nhau, Ngũ Tử Tư bèn tiến cử Bá với Ngô vương Hạp Lư, để Bá giữ chức đại phu ở Ngô quốc.
Cơ Quang mưu triều tán vị mới ngồi vào được ngôi báu, hắn không dám trọng dụng các đại thần tướng lĩnh của Ngô quốc, lại sợ các thành viên hoàng tộc nắm được binh quyền bắt chước hắn giở trò cướp ngôi một lần nữa, nên hắn chỉ còn cách trọng dụng những người đến từ bên ngoài Ngô quốc, thêm vào đó Ngũ Viên và Bá quả thật tài cán hơn người, họ nhanh chóng trở thành trọng thần của Ngô quốc dưới sự cai trị của Ngô vương Cơ Quang.
Thật ra, Bá đối với Ngũ Viên mới đầu chỉ là cảm thấy mang ơn, nhưng khi địa vị của hắn chỉ đứng sau Ngũ Viên, trở thành nhân vật số hai ở Ngô quốc, giữa hai người khó tránh khỏi xung đột ở một số chuyện liên quan đến vấn đề quyền lực. Một là địa vị thấp hơn đối phương, hai là Ngũ Viên có ơn với hắn, vì thế nên khi xảy ra những việc dính dáng đến lợi ích giữa hai người thì Bá luôn là người nhường nhịn.
Nhưng dấn thân vào chốn quan trường, cũng như câu “Nhân tại giang hồ, thân bất do kỉ.”, giờ Bá đâu phải chỉ có một mình, còn có một đám đại thần và tướng lĩnh cậy nhờ vào hắn nữa, nếu cứ thế mà nhường nhịn không mưu cầu lợi ích cho người của phe hắn, thế thì ai chịu tiếp tục ủng hộ hắn đây? Thêm vào đó con người Ngũ Tử Tư cương trực ngay thẳng, công chính liêm minh, nhưng lại tính tình nóng nảy, tự cho mình là phải, khi hắn cảm thấy mình đúng, lúc đó chắc chắn kiên trì đến cùng, quyết không chịu nhường nhịn nửa bước, với lại cách hành xử của hắn cũng khá đơn giản, khi nổi giận lên thì không cần biết thân phận người ta là gì, dù là trước mặt đám đông, vẫn chỉ vào mặt người khác mắng cho một trận té tát, chính vì tính khí này mà Ngũ Tử Tư đắc tội với không ít người, không chỉ rất nhiều công khanh đại thần Ngô quốc từng bị hắn chỉ trích, ngay cả Bá vừa là chỗ thân thiết lại từng chịu ơn của hắn cũng không tránh khỏi có chút oán hận.
Bá một mặt suy đoán dụng ý đến đây của Ngũ Tử Tư, một mặt vội vàng mặc áo giáp chỉnh tề, đeo kiếm ngang hông, sau đó dưới sự hộ tống của đội thân binh bước ra ngoài doanh trại. Ngô quốc so sánh với Sở quốc đất rộng người đông thật ra chỉ là một nước nhỏ lạc hậu nghèo nàn bên cạnh, nhưng chính vì đất nước nhỏ bé này quanh năm suốt tháng chiến sự liên miên, lại khiến toàn dân đều chiến đấu được như quân sĩ, chất lượng chiến đấu của quân Ngô rất tốt, sức mạnh quân sự vượt xa quân Sở. Khi Bá bước ra ngoài doanh trại, tướng sĩ ba quân đã nghe được hồi trống triệu tập đến tập hợp đầy đủ, bày đội hình chỉnh tề đứng đó, sát khí ngùn ngụt, khí thế đủ để trấn áp bất kì đối thủ hùng mạnh nào.
Bá hài lòng cười đắc ý, dẫn theo các tướng lĩnh tiến ra ngoài Viên môn đón tiếp Ngũ Tử Tư.
“Mời tướng quốc đại nhân thượng tọa, đại vương dạo này có khỏe không ạ?”
Ngũ Tử Tư được đón vào túp lều chỉ huy, Bá và các tướng lĩnh dưới trướng lần lượt bước lên hành lễ, hỏi han tình hình của Hạp Lư.
Ngũ Tử Tư toàn thân mặc một chiếc áo màu đen u ám, trên có thêu sáu loại hoa văn Tảo, Hỏa, Phấn, Mễ, Phũ, Phất, tay áo bào còn có thêm hoa văn Vân màu vàng sậm, trên đầu đội chiếc mũ cao, đầu tóc bạc phơ, nét mặt nghiêm nghị.
“Đại vương sức khỏe rất tốt, mọi thứ ở Ngô quốc đều ổn.” Ngũ Tử Tư ngửa mặt trả lời một câu, sau đó bước tới chiếc ghế chính giữa dành cho chủ soái ngồi xuống, phất tay một cái, nói: “Mời các tướng ngồi.”
Các tướng lĩnh theo chức vụ lớn nhỏ lần lượt ngồi xếp gối trước mặt, Ngũ Tử Tư đợi mọi người yên vị xong, sắc mặt chợt đanh lại: “Bá.”
“Có mạc tướng!” Bá vừa mới ngồi yên lập tức đứng bật dậy, chắp tay đợi lệnh.
“Bá, đại vương lệnh cho ông thống lĩnh toàn quân truy quét hai tên phản đồ Yểm Dư, Chúc Dung, chiến sự liên miên, đến nay đã nửa năm trôi qua, tiêu tốn lương thảo nhân lực không ít, người Sở rõ ràng là giữ thái độ tọa sơn quan hổ đấu, không chịu xuất quân giúp đỡ bọn chúng, sao ông còn chưa chịu xuất quân tiêu diệt bọn phản nghịch hả?”
Bá cười khổ giải thích: “Xin tướng quốc minh giám, không phải là mạc tướng không nghe theo lệnh, chỉ là muốn đánh bại bọn Yểm Dư, Chúc Dung thì dễ, muốn giết được bọn chúng thì khó, Sở quốc bao la rộng lớn, sông ngòi kênh rạch chằng chịt, địa hình núi non hiểm trở phức tạp, Yểm Dư Chúc Dung mỗi lần chiến bại đều rút lui, dựa vào ưu thế địa hình ẩn náu cố thủ, mạc tướng hôm qua vừa mới san bằng sào huyệt ở Đại Biệt sơn của bọn chúng, nay chúng lại lui về phía Cư Sào, mạc tướng đang định tập hợp các lộ binh mã, sáng sớm ngày mai sẽ xuất quân truy đuổi bọn chúng.”
Ngũ Tử Tư nghe xong nổi giận lôi đình, đập bàn cái rầm hét lên: “Khốn kiếp, bọn Yểm Dư Chúc Dung hôm qua đã bỏ chạy, ngày mai ông mới dẫn quân đuổi theo, cứ đánh trận thế này đến bao giờ mới bắt được hai tên nghịch tặc đó hả?”
Bá nhăn mày định cãi lại nhưng kiềm chế được, nhẫn nhịn nói: “Xin tướng quốc minh giám, ở đây là lãnh thổ Sở quốc, kẻ địch của mạc tướng tuy chỉ có Yểm Dư, Chúc Dung, nhưng đại quân Sở quốc hiện đang tập trung ở vùng Bá Cử, Anh Thị, Hạ Thái, chỉ ngăn cách bởi Đại Biệt sơn và Dĩnh Thủy, vẫn lăm le dòm ngó quân ta, Bá dẫn quân viễn chinh, không thận trọng sao được? Vì thế nên một khi ba quân chưa tập hợp đầy đủ không dám mạo hiểm tiến công, bọn Yểm Dư Chúc Dung giờ chỉ còn không quá ba ngàn binh mã, đương nhiên bỏ chạy nhanh chóng, còn Bá phải thống lĩnh đại quân, buộc phải suy tính kĩ càng cẩn thận, với lại lương thảo vận chuyển tiếp tế khó khăn…”
“Hứ!” Ngũ Tử Tư bực bội ngắt lời: “Người khác thì có thể không biết tình hình Sở quốc, còn ông chẳng lẽ cũng không biết? Sở vương u mê, gian thần hoành hành, đám gian thần ấy suốt ngày chỉ biết tranh quyền đoạt lợi, mưu hại trung lương, nếu không cũng đâu ngồi đó không chịu làm gì, bỏ qua cơ hội tốt đánh lén chúng ta, giờ bọn Yểm Dư Chúc Dung bị thua tan tác phải bỏ chạy như chó mất nhà, quân Sở cũng không xuất quân cứu viện. Nếu quân Sở mà có ý đối đầu với quân ta thì đã không rút về hậu phương rồi, còn việc tiếp tế lương thảo thì…”
Ngũ Tử Tư trầm ngâm giây lát, sát khí ngùn ngụt nói tiếp: “Lần này đuổi theo đến Cư Sào, dọc đường có nhiều thành trì nhỏ, hơn nữa quân số trấn giữ không nhiều, tuyệt đối không phải là đối thủ của ông, chỉ cần ông công phá thành trì, còn không có cách kiếm cho ra lương thảo ư? Đối phó với đám tàn quân bại khấu, nên tức tốc đuổi theo đánh cho chúng không kịp thở, chứ như cách đánh e dè của ông, đúng là ngồi nhìn cơ hội trôi qua.”
Bá và Ngũ Tử Tư có cách dụng binh khác nhau, bị hắn trách mắng như vậy trước mặt bao nhiêu thuộc hạ đương nhiên Bá cảm thấy uất hận trong lòng, chỉ là Ngũ Tử Tư quyền cao chức trọng, lại là người được Hạp Lư tin cậy nhất, nếu giờ tranh cãi với hắn, e với tính khí ngang ngạnh hắn sẽ không chịu lùi bước, lúc đó há chẳng trở thành trò cười cho ba quân tướng sĩ có mặt ở đây sao?
Nghĩ vậy nên một lần nữa Bá lại nuốt trôi cơn giận, lên tiếng nhận lỗi: “Dạ, tướng quốc dạy phải lắm, mạc tướng hôm qua tập kích bất ngờ vào doanh trại của bọn Yểm Dư, Chúc Dung, bọn chúng thua chạy tan tác, rất nhiều đồ đạc còn chưa kịp lấy đi, cho nên Bá thu được một món đồ cực kì quan trọng của chúng, vừa nãy đang nghiên cứu trong doanh trại, vì sự thể trọng đại, mạc tướng không quyết định được nên làm thế nào. Vừa đúng lúc tướng quốc đến đây, đúng là trời giúp Ngô quốc ta, mạc tướng xin tướng quốc quyết định giùm cho ạ.”
Ngũ Tử Tư nghe vậy vội hỏi: “Hử? Là vật gì mà quan trọng thế?”
Ngũ Tử Tư nghe vậy vội hỏi: “Hử? Là vật gì mà quan trọng thế?”
Bá định trả lời nhưng lại thôi, Ngũ Tử Tư chợt hiểu ý, quay xuống truyền lệnh: “Các tướng về trấn giữ doanh trại, bổn tướng quốc cần nghị sự quan trọng với Bá tướng quân.”
Các tướng lĩnh đứng bật dậy, nhận lệnh lui hết cả ra, Bá đưa tay mời Ngũ Tử Tư: “Tướng quốc đại nhân, mời đến lều của mạc tướng xem thử vật này.”
Ngũ Tử Tư không biết Bá đang giữ vật gì mà quan trọng vậy, lại cẩn thận đến thế này, nổi lòng hiếu kì theo Bá bước ra khỏi lều chỉ huy, đến trước túp lều nơi Bá ở, trước lều có bốn tên lính cầm kích đứng canh gác, thấy chủ soái và tướng quốc bước đến, vội đưa tay vén cửa lều lên cho hai người bước vào trong.
Trên bàn, một tấm bản đồ da dê đang được trải rộng ra, Bá bước nhanh về phía ấy, cầm tấm bản đồ da dê lên, nói với giọng bí hiểm: “Mời tướng quốc xem qua!”
Ngủ Tử Tư đưa tay đón lấy tấm bản đồ da dê, mở ra xem sơ qua đã vui mừng ra mặt, không dám tin vào những gì mắt mình đang nhìn thấy, hắn kêu lên phấn khích: “Ông lại có được tấm bản đồ quan trọng này ư?”
Ngũ Tử Tư bước tới bên chiếc bàn ngồi xuống, trải tấm bản đồ ra, ngón tay chỉ chỉ lên trên đó, lại xem tỉ mỉ một hồi lâu. “Rầm!” một tiếng vỗ mạnh xuống mặt bàn, mạnh đến nỗi chùm râu dưới cằm cũng run lên, hớn hở: “Tốt, tốt lắm, Bá, ông đã lập được một công lớn cho Ngô quốc, có tấm bản đồ địa lí và phân bố binh lực của Sở quốc này, quân ta tiến vào Sở cứ như là vào chốn không người thôi.”
Vào thời Xuân Thu, ở một số nước lớn, dù cho là người dân bản địa cũng không thể nào nắm rõ chi tiết tình hình địa lí của đất nước, thêm vào đó thời kì này giao thông không thuận tiện, tin tức truyền đi chậm, dù cho có trăm vạn đại quân, bố trí phòng thủ khắp nơi, cũng khó tránh có những lỗ hỏng, chỉ cần một đội quân nhỏ của nước này nắm được tình hình địa lí và cách phân bố binh lực của một nước khác, thì có thể đi lại tự do trên lãnh thổ nước đó, tập kích bất ngờ chiếm ưu thế quân sự, có được tấm bản đồ quý báu này thử hỏi Ngũ Tử Tư không phấn khích như điên sao được?
Con người Ngũ Tử Tư tính tình nóng nảy, hay la mắng người khác, nhưng lại không mang lòng riêng ích kỉ, thấy Bá đoạt được tấm bản đồ quan trọng thế này, lập tức quyết định ghi nhận công lớn cho Bá.
Bá chưa lộ vẻ gì vui mừng, ngược lại nhíu mày nghi hoặc: “Tướng quốc đại nhân, mạc tướng biết tấm bản đồ da dê này có ý nghĩa quan trọng, nhưng mà…vật quan trọng như thế này, tuy là lúc vội vàng rút chạy, đáng lí ra Yểm Dư Chúc Dung cũng không thể nào bỏ lại không mang theo, nghĩ vậy nên sau khi Bá có được tấm bản đồ từng suy nghĩ lí do giải thích, theo tướng quốc đại nhân, đây có phải là một cái bẫy dẫn dụ quân ta?”
Ngũ Tử Tư chớp mắt, lập tức cầm tấm bản đồ lên xem xét tỉ mỉ cẩn thận thêm một lần nữa, sau đó gật gù: “Xem nét mực lại không giống là vừa mới vẽ, thế nhưng…”
Hắn đứng thẳng, đi qua đi lại trong lều suy tư một hồi, hồi lâu sau lạnh lùng cười to: “Nếu nói tấm bản đồ quan trọng này là do Yểm Dư, Chúc Dung cố tình bỏ lại, thậm chí là cố ý vẽ tặng chúng ta, thế cũng chưa chắc… chưa chắc là giả.
Yểm Dư, Chúc Dung chạy sang nương nhờ Sở quốc, nhưng Sở vương lại xem chúng như hai con chó giữ cửa, mặc cho chúng giao chiến với quân Ngô, không thèm xuất quân trợ giúp, làm cho hai người hao binh tổn tướng gần hết, giờ đây nỗi hận của Yểm Dư, Chúc Dung đối với người Sở, e là không kém mối thù Cơ Quang giết cả gia tộc họ, chúng không cách nào chống đỡ Cơ Quang, nếu người Sở xem chúng là vật hy sinh, thế thì trước khi thua chúng chơi cho bọn quân Sở một vố này, mượn tay quân Ngô đâm cho quân Sở một nhát kiếm, trả mối thù bị Sở vương bỡn cợt cũng không phải là không thể xảy ra, đó cũng là lẽ thường tình của con người thôi.”
Ngũ Tử Tư và Bá hai mắt nhìn nhau, tâm ý hai người cũng đều nghĩ đến lí do trên. Bá vuốt râu tán đồng: “Tướng quốc nói phải lắm, đám tàn quân của Yểm Dư, Chúc Dung đã không còn nguy hiểm gì với quân ta, còn quân thần Sở quốc, ai nấy đều lo toan riêng cho lợi ích của mình, nếu cách phân bố binh lực trên tấm bản đồ này là giả, chúng cũng không cách gì đoan chắc chúng ta sẽ trúng kế, cũng không biết chúng ta sẽ tiến đánh vị trí nào, thế nên không thể nào bố trí quân mai phục dụ quân ta vào bẫy được, xem ra…khả năng tấm bản đồ da dê này là thật rất lớn.”
Ngũ Tử Tư đầu tóc bạc phơ, hai má hồng hào, ánh mắt lóe lên tia sáng nham hiểm: “Ngày mai ta cứ vờ như tiếp tục truy đuổi Yểm Dư, Chúc Dung, đồng thời phái các binh sĩ lanh lợi biết nói Sở ngữ giả làm thương buôn, căn cứ theo tấm bản đồ này đi dò thám tình hình phân bố binh lực của quân Sở coi thực hư thế nào.”
“Ý của tướng quốc đại nhân là…?”
Ngũ Tử Tư quay mặt lại, đôi mắt ngấn lệ nhìn vào Bá: “Bá, mối thù mấy trăm thân nhân chết thảm của ông và ta, có lẽ…dựa vào tấm bản đồ này, giờ trả thù được rồi.”
Bá cũng biết là tác dụng của tấm bản đồ rất lớn, nhưng hắn không hề nghĩ đến là dùng nó tập kích quân Sở, nghe Ngũ Tử Tư nói vậy, Bá kinh ngạc kêu lên: “Tướng quốc đại nhân, ngài định…định…”
Ngũ Tử Tư nắm chặt tấm bản đồ da dê trong tay, gằn giọng: “Không sai, đây là cơ hội ngàn năm có một, giờ đang là mùa đông, mùa này không cần canh tác, ta có thể triệu tập nhiều quân lính tham gia chiến đấu, hơn nữa nơi đây không lạnh căm như phương Bắc đến nỗi đại quân hành quân khó khăn, chúng ta phải tận dụng cơ hội trời cho này, cầu xin đại vương xuất quân, đánh thẳng vào Dĩnh Đô, giết chết Sở vương, báo mối thù gia tộc.”
Bá vẫn lo lắng: “Tướng quốc, làm vậy có chắc chắn không?”
Hai mắt Ngũ Tử Tư lúc này đỏ rực ngọn lửa thù hận, cười một cách nham hiểm, sát khí dâng cao ngùn ngụt, quả quyết: “Hành quân đánh trận là phải mạo hiểm, nếu không sao thành việc lớn được? Tuy nhìn vào có vẻ nguy hiểm, nhưng chúng ta có tấm bản đồ phân bố binh lực này, quân ta cứ như tiến vào chỗ không người, thắng thua đã rõ.”
Ngũ Tử Tư càng nói càng kích động, hắn thở hổn hển, nắm tay cầm chặt tấm bản đồ áp sát vào ngực: “Cả nhà Ngũ Viên, hết thảy là ba trăm sáu mươi lăm nhân mạng, gia phụ, gia mẫu, huynh trưởng, phu nhân…, còn có đứa con mới đầy tháng của ta…”
Nước mắt tuôn trào trên khuôn mặt Ngũ Tử Tư, nước mắt đỏ rực như máu: “Bọn chúng giam cầm gia phụ, dụ ta quay về Dĩnh Đô nộp mạng, gia huynh biết chắc là sẽ chết, nhưng cũng quay về, chỉ có ta là trốn chạy sang Ngô. Ngũ Viên không phải là kẻ tham sống sợ chết, ta giữ lấy tính mạng, hứng chịu bao lời nhục mạ chỉ trích, chính vì muốn trả mối thù máu sâu tựa biển này. Bao năm qua ta tuy làm tướng quốc Ngô quốc, quyền cao chức trọng, trong lòng lại không hề cảm thấy vui mừng, mỗi ngày cứ nhắm mắt lại, những xác chết máu me của thân nhân luôn ẩn hiện trong đầu ta…Ta chịu dày vò bao lâu nay, chỉ có dùng máu của kẻ thù, mới là liều thuốc hữu hiệu trị được vết thương lòng của ta.”
Bá cũng nghĩ về phụ mẫu huynh đệ của mình, bao nhiêu thân nhân đã chết thảm, đôi mắt hắn cũng ngấn lệ: “Tướng quốc, Bá cũng mang mối thù lớn nặng như núi sâu tựa biển với Sở quốc, sao lại không muốn đánh về Sở trả mối thù này chứ? Nhưng giờ với thực lực của chúng ta, liệu…có thành công không?”
“Sao lại không thành công?” Ngũ Tử Tư ngẩng đầu lên, đưa tay lau sạch nước mắt, đanh mặt lại: “Nếu không có tấm bản đồ này, e là mười năm, hai mươi năm trôi qua mối thù của chúng ta cũng không trả được. Nếu tên tân quân Sở quốc này không giống với tên hôn quân hồi trước, cai trị tốt Sở quốc làm Sở quốc hùng mạnh lên, chúng ta càng không có cơ hội trả thù, vì thế nếu tấm bản đồ này là thật, chúng ta nhất định phải nắm bắt lấy cơ hội này mới được.”
Hắn hít một hơi dài, lấy lại bình tĩnh, nói tiếp: “Còn về phía đại vương, không cần lo lắng, đại vương hùng tài thao lược, quyết chí xưng bá chư hầu, Ngô quốc nằm ở nơi xa xôi hẻo lánh phương Nam, thực lực không đủ lớn mạnh, muốn xưng bá chư hầu, không có chiến công hiển hách không khiến chư hầu thiên hạ khiếp sợ phục tùng được. Sở quốc là một nước lớn, nếu đại vương công phá Dĩnh Đô thành công, lúc đó chư hầu khắp thiên hạ đều thần phục. Có được kì công cái thế này, chỉ cần chúng ta hoạch định kế hoạch chu toàn, nghĩ chắc đại vương sẽ chấp thuận làm theo.”
Bá hớn hở ra mặt: “Tướng quốc nói phải lắm, mối thù máu của chúng ta xem ra lần này phải nhờ cậy vào tấm bản đồ này đây.”
Ngũ Tử Tư khoái trá vuốt cằm, ánh mắt lộ vẻ nham hiểm: “Ngũ Viên lần này đến đây là chính xác, trước tiên chúng ta phải xác định tấm bản đồ này là thật hay giả trước đã, một khi chứng thực xong, Ngũ Tử Tư này lập tức về Cô Tô, xin đại vương xuất binh phạt Sở.”
Trong lòng Ngũ Tử Tư, mối thù gia tộc quan trọng hơn gấp vạn lần Ngô quốc mà hắn đang phục vụ, vì thù hận mà hắn khuynh đảo các quốc gia khác, giết chết các ân nhân từng cưu mang hắn, từ khi Ngũ gia bị họa diệt môn hắn chỉ biết sống trong thù hận, vì trả thù hắn có thể làm bất cứ chuyện gì, bằng bất cứ thủ đoạn gì, hắn giờ đây đã mất hết lí trí, chỉ nghĩ đến mỗi việc là trả thù mà thôi.
Ngũ Tử Tư và Bá, hai người đều hận thấu xương Sở quốc, quyền thần số một và số hai Ngô quốc giờ đây chung một lòng trả thù chuốc hận, trên họ lại có một Ngô vương Hạp Lư mang dã tâm xưng bá chư hầu. Sở quốc sắp gặp phải tai ương nào đây? …
Bên ngoài hoàng cung Vệ quốc đang dừng đậu một đội xe ngựa, tổng cổng có hơn ba mươi chiến xa, ba trăm tên võ sĩ áo giáp chỉnh tề tay lăm lăm gươm giáo đang đứng ngay ngắn ở đó. Trời nổi gió lạnh vù vù, gió cuốn bay cát bụi mù mịt, đám võ sĩ đều nhắm nghiền mắt, còn các tướng lĩnh thì đội chặt chiếc mũ giáp trên đầu hơn để tránh gió cát lùa vào, tiết trời âm u, xem ra hôm nay sẽ có một trận bão tuyết ập đến.
Cổng hoàng cung rộng mở, Vệ hầu Cơ Nguyên và Quân phu nhân Nam Tử đi đầu bước ra, theo sau là một đám công khanh đại thần và các thị vệ trong cung. Cơ Nguyên mặc một chiếc áo bào dành cho chư hầu, còn Nam Tử ăn mặc có hơi đặc biệt, bên ngoài là chiếc áo lông chồn, tráng lệ cao sang, chiếc đuôi chồn trắng phau giờ trở thành khăn choàng cổ khoác trên cổ nàng, lông chồn êm ái tô điểm thêm cho nét mặt trắng hồng như đóa sen của nàng, đôi mắt đen láy dưới gió rét căm căm vẫn kiều diễm mê hồn.
“Phu nhân đi đường cẩn thận, tiết trời lạnh lẽo, phu nhân nhớ phải giữ gìn sức khỏe.” Cơ Nguyên làm ra vẻ âu yếm quan tâm dặn dò Nam Tử.
Khi cuộc tranh quyền đoạt lợi giữa Vệ hầu và đám người Tề Báo diễn ra ngày càng gay gắt, quân phu nhân Nam Tử đứng đầu phe Tề Báo lại đột nhiên đưa ra yêu cầu về Tống quốc thăm phụ mẫu. Nàng về nước thăm thân nhân chẳng qua chỉ là một chuyện bình thường, nhưng vào lúc căng thẳng thế này mà nàng nảy ra ý định về Tống, làm không ít người đoán già đoán non.
Hai nước Vệ, Tống như môi với răng, liên kết với nhau cùng chống Tấn quốc hùng mạnh, xưa nay luôn giữ quan hệ khăng khít mật thiết. Cơ Nguyên tuy rất hận Nam Tử hợp mưu với đám người Công Tử Triều, Tề Báo, giúp chúng đoạt lấy hổ phù khống chế cung vệ giết chết Công Mạnh Trập, nhưng với thân phận đặc thù của Nam Tử, trừ khi nàng rắp tâm mưu hại mình, bằng không thì không thể nào trở mặt với nàng ta được, vì vậy lần này Nam Tử về Tống, Cơ Nguyên cũng không dồn ép thái quá bọn Tề Báo nữa. Bọn Tề Báo đúng là muốn đoạt quyền, nhưng lại không có dã tâm soán ngôi, Cơ Nguyên không thể mạo hiểm đắc tội với Tống quốc, lần này chưa nắm rõ ý đồ về nước thật sự của Nam Tử là gì, hắn vẫn cần tiếp tục nhẫn nhịn.
“Đa tạ bệ hạ, Tiểu đồng (Nam Tử tự xưng) xin phép lên đường, quốc sự bận rộn, xin bệ hạ và các vị đại thần hãy quay về, không cần đưa tiễn đâu.” Nam Tử cười dịu dàng đáp lại vị phu quân Vệ hầu đang giả lả ra vẻ quan tâm thê tử.
“Thôi được, khi nào phu nhân gặp Tống quân và quân phu nhân, hãy nói thay ta vài lời hỏi thăm.” Cơ Nguyên bước đến cạnh, nắm lấy tay Nam Tử đỡ nàng bước lên xe.
Nam Tử một tay nắm lấy Cơ Nguyên, một tay giữ chặt chiếc áo lông chồn, ung dung bước lên xe ngựa.
Một bông tuyết phất phơ rơi xuống, Nam Tử xòe bàn tay ngọc ngà ra đón lấy, bông tuyết rơi vào lòng bàn tay ấm áp của nàng, tan ra thành giọt nước long lanh.
“Tuyết rơi rồi.” Nam Tử thở nhẹ, xoay tròn đôi mắt: “Xin bệ hạ quay về, các vị đại thần cũng quay về đi, Nam Tử đi đây.”
“Phu nhân đi đường cẩn thận.”
“Quân phu nhân đi đường cẩn thận.”
Cơ Nguyên và đám công khanh đại thần dừng bước vẫy tay đưa tiễn, đoàn xe ngựa rầm rập rời đi, bất chấp gió tuyết lạnh lẽo khởi hành đi sang Tống quốc.
Trong đám đông đưa tiễn có mặt Công Tử Triều đứng đó, Nam Tử từ đầu đến cuối không hề liếc nhìn hắn, trong lòng Công Tử Triều cảm thấy hơi chút nhói đau.
Khúc Phụ Lỗ quốc, phủ Thúc Tôn thị, ngoài cửa gió lạnh thét gào, cây cối trụi lá, trong sảnh lại ấm áp như mùa xuân, ngay cả cây cỏ đặt trang trí ở đó cũng cành lá sum suê.
Thúc Tôn Ngọc đang ngồi trong sảnh uống rượu với Mạnh Tôn Tử Uyên, hai bên đặt hai chiếc bồn lửa đỏ rực để sưởi ấm.
“Hừ, ta ra sức đưa Cơ Tống lên ngôi, xem ra lại làm chuyện có lợi cho lão Quý Vũ Tử kia rồi, quốc quân Lỗ quốc của chúng ta không biết phân biệt tốt xấu, hôm trước ta tiến cử con trai vào triều làm quan, vốn là chuyện nhỏ thôi, thế mà hắn lấy lí do con ta còn trẻ, cần có thời gian rèn luyện thêm mà cự tuyệt, giờ nhớ lại ta còn thấy tức anh ách trong lòng.”
Mạnh Tôn Tử Uyên nghe xong, trong lòng cũng bực bội không kém, đập bàn cái rầm: “Thì đó, con ta cũng bị hắn dùng lí do tương tự khước từ, nghĩ lại lúc trước nếu không phải ông và ta ra sức ủng hộ, hắn có leo lên ngôi báu được không? Hứ, thật không ngờ hắn lại ngả về phía Quý Tôn Ý Như, lão thất phu ấy không biết đã giở thủ đoạn gì nữa. Nghe nói…quốc quân muốn nạp tiểu nữ của Quý Tôn Tử Phi là Quý Tôn Tiểu Man làm phu nhân, con nha đầu Quý Tôn Tiểu Man lại không chịu nghe theo, giờ bỏ nhà ra đi không rõ tung tích, lạ nhỉ, tiểu tử Cơ Tống này không những không nổi giận với Quý Tôn Ý Như, ngược lại càng thân thiết hơn với hắn là sao?”
Thúc Tôn Ngọc cười lạnh nhạt: “Còn không phải vì tên thất phu Khổng Khâu gây ra đó ư? Cơ Tống đâu biết suy nghĩ cơ mưu gì, tất cả đều do đại nho sĩ Khổng Trọng Ni của Lỗ quốc ta bày cho hắn. Ha ha, ông không cần lo lắng, Cơ Tống không có ý tốt gì với Quý Tôn Ý Như đâu, hắn biết rõ ta và ông liên kết với nhau, cộng thêm hắn vào mới đủ sức đối phó Quý Tôn Ý Như, sợ chúng ta gây bất lợi cho hắn nên mới có ý trấn áp chúng ta, không muốn ngay lập tức thỏa mãn tất cả yêu cầu của ta thôi, ông cứ đợi xem, chậm nhất là vào mùa xuân năm sau, con của ông và ta chắc chắn sẽ được vào triều làm quan.”
Mạnh Tôn Tử Uyên suy nghĩ sâu xa một hồi, nhíu mày hỏi: “Cơ Tống muốn Tam hoàn chúng ta chế ngự lẫn nhau, thừa cơ ngồi vững ngai vàng?”
Thúc Tôn Ngọc uống một hớp rượu, vênh mặt: “Đương nhiên, hắn có lòng ấy ta không thấy lạ, Khổng Khâu nghĩ ra cách này ta cũng không thấy lạ. Duy nhất chỉ có một mối lo…chúng ta vốn định nhân cơ hội này hạ bệ Quý Tôn Ý Như, nay nếu Cơ Tống có ý định cho Tam hoàn chế ngự lẫn nhau, e là sẽ không dễ dàng mặc cho Quý Tôn Ý Như sụp đổ, hơn nữa lão già ấy có cơ sở vững vàng, để lão ấy có thời gian chuẩn bị thêm, ta sợ sau này…, tiểu tử Cơ Tống, mi đang đùa với lửa đây…”
Mạnh Tôn Tử Uyên xoay xoay chum rượu trên tay, trầm ngâm: “Tử Ngọc, cứ tưởng là bắt lão ấy thôi không chấp chính nữa thì đã đạt được mục đích của chúng ta, nhưng đợi khi lão thôi không chấp chính rồi chúng ta mới phát hiện trong mấy năm qua lão đã xây dựng lực lượng lớn thế nào trong triều, giờ nếu ông và ta tiếp tục chia rẽ với quốc quân Cơ Tống, nghi kỵ lẫn nhau, sớm muộn gì Quý Tôn Ý Như cũng chớp lấy cơ hội, cưỡi lên đầu chúng ta lần nữa. Ông và ta vốn chẳng có dã tâm gì, chỉ mong trấn áp lão già Quý Tôn Ý Như, tránh gia tộc lão tiếp tục lớn mạnh, hay là chúng ta nói rõ với Cơ Tống, chỉ có liên kết với hắn mới đối chọi với lão già ấy được.”
Thúc Tôn Ngọc cười chua chát: “Nói thì dễ lắm, Cơ Tống có tấm gương tiên quân ngay ra đó, hắn coi Tam hoàn chúng ta như hổ dữ nhe nanh dòm ngó, chúng ta sao chiếm lấy niềm tin của hắn đây chứ?”
Mạnh Tôn Tử Uyên mỉm cười khoái trá, tự tin lên tiếng: “Kết thân!”
“Kết thân?” Thúc Tôn Ngọc ngạc nhiên hỏi lại: “Ông muốn gả con gái cho Cơ Tống? Ta nhớ…hai cô con gái của ông đều là con vợ lẻ, tuy nhan sắc cũng mặn mà nhưng xuất thân thấp hèn, sợ không xứng làm quân phu nhân…”
Mạnh Tôn Tử Uyên có chút tức tối kêu lên: “Còn cần ông nhắc nhở lão phu sao? Ta đâu có nói là con gái của ta, mà là con gái của ông kìa.”
Thúc Tôn Ngọc lại ngạc nhiên há hốc miệng: “Con gái ta? Ông nói Diêu Quang? Nhưng nó đã được hứa gả cho Khánh Kỵ…”
Mạnh Tôn Tử Uyên bực bội lên: “Khánh Kỵ? Bây giờ Cơ Quang nắm giữ cả Ngô quốc, ngay cả Sở quốc hùng mạnh cũng không dám tiếp chiến, quân Ngô lớn mạnh thế nào ai đều nhìn thấy, Khánh Kỵ có phục quốc thành công hay không ai cũng không nói trước được, hơn nữa dù hắn có phục quốc thành công cũng là chủ của Ngô quốc, cơ nghiệp của ông và ta thì ở Lỗ quốc, chẳng lẽ chúng ta đem cả gia tộc dọn sang Ngô à? Con gái ông làm phu nhân Ngô quốc hay làm phu nhân Lỗ quốc, cái nào có lợi cho Thúc Tôn thị của ông hơn nào?”
Thúc Tôn Ngọc hơi chút do dự, lắc đầu: “Không ổn, ta đã hứa với Khánh Kỵ, giờ sao nuốt lời được?”
Mạnh Tôn Tử Uyên gian xảo nói: “Chuyện ông hứa hôn với hắn chỉ có vài người biết, giờ chúng ta cho phép hắn trú quân ở Phí thành, đối với hắn đã tận nhân nghĩa lắm rồi, chỉ vì một nữ nhân, hắn không trở mặt đâu, hơn nữa…”
Hắn ngập ngừng giây lát, ánh mắt chợt trở nên sắc lạnh: “Khánh Kỵ và Quý Tôn Ý Như đang qua lại mật thiết, quân doanh của hắn nằm trên đất của lão già ấy, lại được Thành Bích của Quý Tôn thị ra sức giúp đỡ, nếu Khánh Kỵ phục quốc thành công, lợi ích từ sự giúp đỡ của Quý Tôn thị với hắn vượt xa cô con gái của ông, đến lúc đó e Khánh Kỵ cũng ngả về phía lão Quý Tôn Ý Như, nếu bây giờ ông và ta không sớm nắm chặt tiểu tử Cơ Tống trong tay, đến lúc đó thì trễ mất, có hối hận cũng không kịp nữa.”
Thúc Tôn Ngọc không ngờ tên Mạnh Tôn Tử Uyên thô lỗ này hôm nay lại đưa ra lí lẽ hợp tình hợp lí như thế, nghe xong những lời này hắn thấy dao động, Mạnh Tôn Tử Uyên lên tiếng thuyết phục tiếp: “Tử Ngọc, ông chỉ có một cô con gái, chắc không muốn nó được gả tới nơi xa xôi hẻo lánh phương Nam chứ? Hơn nữa con gái của danh gia vọng tộc trước giờ luôn phải gánh lấy trọng trách vì gia tộc hy sinh, kết thân với Cơ Tống, lúc đó ông trở thành hoàng thân quốc thích, lấy được niềm tin của Cơ Tống rồi, chúng ta liên kết lại với nhau, Thúc Tôn thị của ông lập tức thay thế vị trí của lão già Quý Tôn Ý Như ấy.”
Thúc Tôn Ngọc chỉ lo cắm cúi uống rượu, lát sau mới cất tiếng: “Việc này…, tháng ba năm sau Khánh Kỵ sẽ xua quân phạt Ngô, hay là chúng ta đợi đến lúc đó coi sao.”
Mạnh Tôn Tử Uyên gầm gừ: “Ta thì đợi được, nhưng giờ quốc quân đã có, việc chọn quân phu nhân là chuyện lớn nên làm ngay, nghe nói tên Khổng Khâu đang lựa chọn phu nhân giùm cho Cơ Tống trong các công khanh đại thần kìa, không biết hắn khi nào sẽ chọn được, hơn nữa…dù Khánh Kỵ có phục quốc thành công, dựa vào chút ân tình lão già Quý Tôn Ý Như từng giúp đỡ, cũng đủ ngang bằng với quan hệ lấy con gái ông rồi.”
Thúc Tôn Ngọc thở dài, chậm rãi nói: “Nhưng tính khí của con gái ta…Thôi vậy, chúng ta uống rượu đã, đợi ngày mai ta tìm cơ hội thăm dò nó coi sao.”
Mạnh Tôn Tử Uyên cười toe toét: “Thế mới phải chứ! Lệnh ái nhan sắc kiều diễm, đâu có thua kém gì con nha đầu Quý Tôn Tiểu Man, chỉ là Cơ Tống chưa gặp mặt nó, đợi khi nhìn thấy nhan sắc của con gái ông, sao lại không động lòng được nào? Hô hô, nếu Diêu Quang trở thành quân phu nhân của Lỗ quốc ta, lão phu đây sẽ đem luôn hai cô con gái… À, Thy Trúc năm nay mới mười hai, vẫn còn nhỏ…nhưng thôi, mặc kệ, đưa hai tỉ muội nó cùng vào cung theo hầu con ông. Ha ha ha, nào nào, uống rượu tiếp nào.”
Ngoài kia, hai tâm phúc gia tướng đang đứng đó. Lí Hàn đứng thẳng người, gió lạnh rít bên tai, gió đã lạnh, lòng càng lạnh căm, đứng yên hồi lâu, vẻ oán hận từ từ hằn lên trong đôi mắt hắn…
Bến thuyền Thanh Khâu ở Hoàng Hà đang bị phong tỏa, chờ đợi Vệ phu nhân Nam Tử qua sông. Các thương buôn hành khách phương xa chỉ còn cách chờ đợi quanh đó, xung quanh bến thuyền được dọn trống một khoảng đất rộng, vệ binh đứng canh gác nghiêm ngặt, các xe buôn đến đây không chỗ dừng đậu, người ngựa xe cộ chen chúc rối rắm lẫn nhau, buộc phải dừng xe xa xa hứng chịu cơn gió rét lạnh căm, ngồi tán dóc cho thời gian mau trôi.
Trong đám đông, một thiếu niên ngó mắt láo liên tứ phía, sau đó mỉm cười hỏi thăm một thương buôn ngoài bốn mươi đứng bên cạnh: “Đại thúc, sao bến thuyền lại bị phong tỏa vậy? Đã xảy ra chuyện gì thế?”
Tên thương buôn này đang hớn hở kể chuyện gặp được mỹ nhân trong thành Khuyển Khâu hôm qua với đám bạn đường, bị người khác chen vào làm mất hứng nên cảm thấy hơi chút bực bội, nhưng hắn cũng quay đầu qua nhìn vào chàng thiếu niên, thấy chàng ta tuy toàn thân mặc chiếc áo vải thô, nhưng mắt thanh mày tú khá là khôi ngô, khí khái bất phàm, thoáng chốc hắn thu lại vẻ mặt hậm hực, trả lời: “Tiểu huynh đệ không biết ư? Vệ quốc phu nhân Nam Tử muốn qua sông tại bến thuyền này, về Tống quốc thăm thân nhân, người ta là quý nhân mà, đợi quân phu nhân qua sông rồi chúng ta mới được đi tiếp.”
Chàng thiếu niên như mới hiểu ra: “Thì ra là vậy, đa tạ đại thúc.”
Biết không phải xảy ra chuyện gì nghiêm trọng mới phong tỏa bến thuyền, chàng thiếu niên mới hết lo lắng, hắn len lỏi vào đám đông chen chúc gần bến thuyền, nhìn vào dòng sông Hoàng Hà sóng nước cuồn cuộn đằng xa, thở một hơi dài ngao ngán. Chỉ nghe thấy bên cạnh hai tên thuyền phu đang nói chuyện với nhau: “Này, huynh nghe nói gì chưa? Quân Ngô đánh vào Sở quốc rồi đó.”
Tên còn lại hứ một tiếng rõ to: “Thế có gì lạ đâu chứ? Quân Ngô đánh Sở đã hơn nửa năm nay rồi, chiếm cứ được rất nhiều thành trì, cũng không thấy Sở đưa quân ra ứng chiến. Hừ! Tân quân mới có mười một tuổi, chẳng làm nên trò trống gì đâu, đường đường là Sở quốc có mấy mươi vạn hùng binh, bị người khác ức hiếp tới tận cửa nhà cũng không dám kháng cự, lại kêu Yểm Dư, Chúc Dung của Ngô ra chống đỡ giúp, thật là làm trò cười cho thiên hạ.”
Gã kia cười chế giễu: “Tin tức của huynh là từ lúc nào rồi? Ta mới đi thuyền từ hạ du lên đây, nghe các thương buôn dọc đường nói, Yểm Dư, Chúc Dung đã thua trận tan tác giờ không biết biến đi đâu mất, quân Ngô thừa thắng truy kích, giờ đã chiếm được Bá Cử, đang tiến quân về phía Mộng Trạch rồi.”
Chàng thiếu niên nghe vậy lộ vẻ lo lắng trên khuôn mặt thanh tú, hắn đưa mắt về bờ bên kia Hoàng Hà, bỗng khóe miệng nở ra một nụ cười vui mừng: “Chàng ấy dẫn quân từ Ngô quốc xuất chiến, đâu giống tên Cơ Quang chỉ dám dùng thích khách giành thắng lợi, Yểm Dư Chúc Dung càng không thể so sánh với chàng, lang quân của ta là anh hùng cái thế, tuy nói là Yểm Dư Chúc Dung bại trận không có lợi cho chàng, nhưng với bản lĩnh của chàng, tháng ba năm sau chắc chắn sẽ đánh về Ngô quốc.”
Bến sông gió rít lạnh căm, tấm áo bào của chàng thiếu niên bị thổi tung phấp phới, nhưng nghĩ về lang quân trong lòng, hắn lại cảm thấy ấm áp hơn bao giờ hết, như không hề cảm nhận được tiết trời đang lạnh đến nỗi cắt da cắt thịt. Ánh mắt không ngừng trông theo bờ bên kia, chốc chốc trên môi lại nở một nụ cười đắm đuối, trong lòng đang phấn khởi: “Thiếp vượt đường xa vạn dặm đến gặp chàng, cô nương nhà Quý Tôn không chịu lấy quốc quân dám bỏ nhà ra đi, Diêu Quang của chàng có lang quân yêu quý, chẳng lẽ lại không làm được như vậy, không dám bỏ đi gặp chàng sao? Sau này, thiếp cứ ở bên chàng, cùng nhau xông pha trận mạc, cùng nhau phạt Ngô phục quốc, chàng có vui khi thiếp vì chàng dám làm vậy không?”
Chàng thiếu niên đó chính là Thúc Tôn Diêu Quang đang cải nam trang lén bỏ nhà đi tìm Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ dẫn theo bốn thị vệ, cải trang làm thương buôn đi xuống phương Nam, qua Hoàng Hà, vượt Hán Thủy, Trường Giang vào lãnh thổ Sở quốc. Khi hắn đi ngang lãnh thổ Vệ quốc, gió rét lạnh căm, tuyết phủ khắp nơi, nhưng càng đi về phương Nam thì thời tiết càng ấm áp, sau khi vào Sở đã không phải mặc áo lông dày cộm giữ ấm nữa. Sông nước phong cảnh nơi đây cũng khác xa với phương Bắc, sông hồ ở Vệ quốc giờ đã đóng băng nhưng nơi đây dòng nước lại trong veo róc rách, cây lá xanh tươi mơn mởn.
Sở quốc nằm ở lưu vực Trường Giang khác với các nước chư hầu, dù cho là cách bố trí quan lại, đặc điểm văn hóa hay lịch sử phát triển, đã sớm bắt nguồn từ nền văn minh lưu vực Trường Giang vào thời thượng cổ, thời đại của Tam hoàng Ngũ đế. Bọn họ còn là người đầu tiên phát minh ra thuật luyện kim, trong trận chiến xa xưa, Hoàng đế Diêm đế liên kết với nhau đánh bại bộ lạc hùng mạnh nhất lúc bấy giờ là bộ lạc Xi Vưu, kẻ bại trận buộc phải rút lui về phương Nam là vùng đất của Sở hiện nay, họ chính là Nam Man mà người Chu từng nói đến.
Tất nhiên với người Sở thì coi đám thổ dân sống phía Nam của họ mới là Nam Man. Man nhân cũng có phân biệt giai cấp, người Sở tôn thờ hỏa thần Chúc Dung (Không phải là Chúc Dung của Ngô đâu, ở đây là từ hán việt đồng âm), cúng bái Đông Nghi Đại Vũ, lấy phượng hoàng làm biểu tượng, ngay cả cách ăn mặc, tập tục lễ hội cũng khác với người Chu, người Chu xem bên trái là thấp hèn, người Sở ngược lại kính trọng bề trên ngồi vào bên trái. Chức tể tướng ở Sở gọi là Lệnh doãn, các chức quan khác cũng có tên gọi khác với người Chu.
Vì thế người Sở bị người Chu coi là Nam man dị tộc, các gì mà mua viên ngọc trả lại hộp gấm, khắc lên thuyền tìm lại thanh gươm, vẽ rắn thêm chân, lấy mâu của mình đâm thuẫn mình bán, tất cả những chuyện ngu ngốc này đều gán lên trên đầu người Sở, người Sở bị người Chu khinh miệt như một bọn người chưa tiếp cận nền văn minh vậy.
Người Sở bị kì thị đủ mọi mặt, quân chủ đầu tiên khai sinh nước Sở là Hùng Dịch, khi nhận sắc phong thành một nước chư hầu lúc đó chỉ là tử tước, không như nước Tống mới lập quốc đã là nhất đẳng công tước, hơn nữa lãnh thổ được phong tặng phần lớn là vùng đất hoang sơ chưa được khai phá, khắp nơi lại là thổ dân không dễ thuần phục, địa bàn thật sự kiểm soát được trong tay chỉ có vỏn vẹn vài trăm dặm, vùng đất ấy nghèo nàn đến độ lễ vật cống nạp lên cho Chu thiên tử chỉ là vài búp măng và mấy con nhím săn bắn được. So với các chư hầu trung nguyên, Hùng Dịch chả có địa vị gì cả, mỗi khi vào triều cống yết kiến Chu thiên tử, cùng là chư hầu được sắc phong nhưng Hùng Dịch bị cho ngồi ngoài điện, phải làm tạp dịch trông lò lửa, chẳng khác nào một tên nô lệ.
Nhưng từ một vùng đất nhỏ bé bị khinh thường, Hùng Dịch không ngừng mở mang bờ cõi, lãnh thổ Sở quốc ngày càng trở nên rộng lớn, trở thành mối đe dọa cho các chư hầu trung nguyên, Sở vương đến đời Hùng Thông đã bắt đầu được xưng là Vũ Vương, từ một chức tử tước nhỏ nhoi thăng lên vương tước ngang hàng cả với Chu thiên tử, chỉ vì Sở quốc lúc đó binh mã hùng mạnh, chư hầu thiên hạ thấy tức giận nhưng chả dám làm gì cả. Thứ mà các chư hầu làm được chỉ là liên kết với nhau không công nhận chức vương tước của Sở vương, vẫn gọi Sở vương là Sở tử (cách gọi khinh miệt, “tử” mang nghĩa là thằng nhóc con).
Người Sở có rất nhiều thành tựu đáng khen ngợi, chính họ phát minh ra nỏ, kiếm đồng mà họ đúc dài hơn gấp đôi kiếm đồng của người trung nguyên, thuật luyện kim của người trung nguyên kém xa người Sở. Người Sở còn sáng lập ra bộ máy nhà nước hành chánh chia theo quận huyện mà Trung Quốc còn sử dụng đến ngày nay, đe dọa chế độ sắc phong chư hầu của người Chu, tạo ra một mô hình chính trị mới cho người đời sau tham khảo. Từ đời Sở Vũ Vương trở về sau, người Sở đã tiêu diệt ba bốn mươi nước nhỏ xung quanh, nhiều hơn cả các nước bị nước Tề phương Đông tiêu diệt, mỗi khi diệt được một nước lại thiết lập một huyện, phái một viên quan đến cai quản, đến nay đã hơn hai trăm năm trôi qua.
Sau đó, quá khứ huy hoàng của người Sở trượt dài xuống dốc vì các đời Sở vương cai trị ngu ngốc. Lúc Sở Bình Vương tại vị, vì muốn thâu tóm quyền lực, lại ra tay diệt trừ các gia tộc trung thành có thế lực đời đời làm quan ở Sở như Ngũ gia, Bá gia, đám nịnh thần Nang Ngõa, Phí Vô Cực, Yên Tương Sư lại được trọng dụng, triều chính Sở quốc bị chúng làm cho rối tung cả lên, cách cai trị hủ bại của triều đình khiến nước Sở giờ đây ngày càng suy yếu.
Đợi đến khi tân quân đăng cơ, gian thần hoành hành, quốc vương nhỏ tuổi chưa thể làm gì, triều chính Sở quốc càng thêm phức tạp, nếu không cũng không làm ra chuyện mặc cho quân Ngô và Yểm Dư, Chúc Dung giao chiến trên lãnh thổ của mình rồi. Nhưng chính vì vậy, với quốc gia hủ bại này cần cho một liều thuốc mạnh mới ép họ buộc phải hợp tác với mình, cùng nhau tác chiến được.
Khánh Kỵ dọc đường đi cứ suy ngẫm về tình hình Sở quốc hiện nay: “Thời này đưa tin qua lại khó như lên trời, không biết hai vị hoàng thúc có theo kế hoạch dẫn dụ quân Ngô đến cướp thành trì của người Sở không, nếu không gây chút đau thương cho người Sở, e khó thuyết phục được họ xuất quân phạt Ngô cùng ta.”
Phía trước người ngựa qua lại đông đúc, Khánh Kỵ buông rèm cửa xuống, không nhìn ra ngoài nữa. Hắn nhắm mắt nghỉ ngơi giây lát, nghe bên ngoài huyên náo không ngớt, đột nhiên thấy rạo rực trong lòng, hình như có gì đó không ổn. Bây giờ là mùa đông, tuy phía lưu vực Trường Giang này không lạnh lắm, nhưng do phương Bắc lạnh giá, thương buôn đi lại vào mùa đông vì thế giảm đi không ít, sao bây giờ ở đây lại náo nhiệt thế này?
Khánh Kỵ vén rèm cửa lên nhìn ra bên ngoài, người ngựa qua lại tấp nập, già trẻ lớn bé, tay xách nách mang, ai nấy đều vội vội vàng vàng, Khánh Kỵ gõ vào xe ngựa, hét tên phu xe: “Dừng xe, dừng xe.”
Đợi khi xe ngựa dừng hẳn lại, Khánh Kỵ nhảy phóc xuống xe, một ông lão vai đeo tay nải chạy khập khiểng đụng vào người hắn, Khánh Kỵ đỡ lấy ông ta hỏi: “Lão nhân gia, tại hạ là thương buôn đến từ Tấn quốc, mọi năm qua đây thấy không nhiều người thế này, sao bây giờ lại huyên náo vậy?”
Ông lão có chút nặng tai, ngửa tai lên hét lớn: “Ngươi nói gì?”
Khánh Kỵ ngao ngán, muốn tìm người khác để hỏi, nhưng cảm thấy làm vậy không hay cho lắm, chỉ còn cách gào to lên hỏi thêm một lần nữa, ông lão đó nghe xong vội xua tay lắc đầu: “Quay về đi, quay về đi, đừng đi về hướng đó nữa, bọn ta không phải là thương buôn, bọn ta đang chạy nạn đó.”
Khánh Kỵ lại phải gào to: “Chạy nạn? Sao mà phải chạy nạn? Đã xảy ra chuyện gì?”
Khánh Kỵ lại phải gào to: “Chạy nạn? Sao mà phải chạy nạn? Đã xảy ra chuyện gì?”
Ông lão to tiếng trả lời: “Quân Ngô đánh đến nơi rồi, dọc đường giết người cướp của, hãm hiếp phụ nữ, thật là một bọn cường tặc, Dĩnh Đô e là không giữ được rồi, các công khanh đại phu chạy còn nhanh hơn bọn ta nữa, ngươi qua đó muốn chết hay sao? Chạy đi, mau rời khỏi đây, chạy càng xa càng tốt.” Nói xong ông lão vội vàng hòa vào dòng người chạy nạn mất hút, Khánh Kỵ nghe tin chết lặng, binh mã của Cơ Quang đã tiến đánh vào tận Dĩnh Đô rồi à? Sao lại thế này được?
Một thiếu phụ đang ôm con nhỏ chạy ngang kế bên nhìn thấy Khánh Kỵ trẻ tuổi tuấn tú, trong lòng không nỡ, lên tiếng khuyên nhủ: “Tiểu huynh đệ, đừng đi về phía trước nữa, khắp nơi hoang tàn, quân Ngô sắp đánh vào Dĩnh Đô rồi, tạm thời trốn đi đâu lánh nạn đi đã.”
“Quân Ngô đánh tận Dĩnh Đô ư? Với sức của Ngô quốc, sao mà chống chọi được với mấy mươi vạn đại quân của Sở? Rốt cuộc ở đây đã xảy ra chuyện gì rồi?” Khánh Kỵ nghĩ mãi không ra, có hỏi tiếp đám dân chạy nạn này chắc cũng không hỏi thêm được gì, vì bọn dân đen chưa chắc nhìn thấy bóng dáng quân Ngô, có lẽ chỉ là đồn nhau người Ngô đánh đến tận đây, giết người cướp của hãm hiếp khắp nơi nên dắt díu nhau rời bỏ quê hương chạy nạn.
Khánh Kỵ mặc kệ đám người chạy nạn tiếp tục đi về phía trước, cho đến giữa trưa trước mặt xuất hiện một thành trì nhỏ, ngoài cửa thành đang có mười mấy tên lính đứng đó, một nam tử mặc áo bào rộng đội mũ cao đeo trường kiếm đang gào to, ra sức trấn an đám dân đen chạy nạn đang chen chúc ùa ra ngoài cổng thành: “Các hương thân phụ lão nghe đây, quân Ngô số lượng có hạn, cho dù tấn công vào Dĩnh Đô cũng không đủ sức chia quân đánh khắp Sở quốc rộng lớn, triều đình đang điều động quân đội phản công, mọi người không cần hoảng loạn lên đâu, cứ ở lại trong thành đi, một khi nhận được tin, ta sẽ dẫn mọi người trốn vào ngọn núi gần đây, quân Ngô không làm hại chúng ta được đâu.”
Tiếc là dù hắn có gào to đến mấy cũng không ai đoái hoài gì tới hắn, đám dân chạy nạn càng chạy nhanh hơn. Khánh Kỵ nhìn gã nam tử này, khoảng hai mươi bốn hai mươi năm tuổi, thân hình cân đối, mắt sáng mũi cao, khuôn mặt thanh tao, có vẻ là người có chức quan gì đấy, bèn bước xuống xe đi về phía hắn hỏi chuyện.
Người đó nghe Khánh Kỵ tự giới thiệu là thương buôn Tấn quốc, cười khổ: “Thì ra là thương buôn từ phương xa đến, tại hạ họ Phạm tên Lãi, tự Thiếu Bá, chính là huyện đại phu ở đây, quân Ngô tiến vào lãnh thổ, lòng dân hoang mang, tình hình cụ thể như thế nào thật ra bổn đại phu cũng không được rõ lắm, khách quý chi bằng cứ ở lại trong thành đã, đợi khi có tin chính xác hẵng tính tiếp.”
Dịch giả nói thêm: Thế là Phạm Lãi đã xuất hiện (âm hán việt là Lễ, nhưng thấy người Việt mình quen gọi là Phạm Lãi rồi), chỗ này tác giả đã cho Phạm Lãi sinh ra trước mấy chục năm, thật ra trong lịch sử đợi khi Hạp Lư chết, con trai hắn là Phù Sai kế vị chiếm nước Việt, lúc đó Phạm Lãi mới xuất hiện dâng kế cứu nước. Hix…nghĩ mà khâm phục cho tấm lòng hy sinh của Phạm Lãi, dám hy sinh hiến người yêu là Tây Thi cho Phù Sai để cứu quốc, giai thoại này là có thật, chắc rất nhiều đọc giả cũng đã biết qua phim truyện. Chà! Không biết mấy chương tới một trong tứ đại mỹ nhân của Trung Hoa là Tây Thi (Tương truyền Tây Thi đẹp đến độ ra suối rửa mặt, mấy con cá lo ngắm nhìn nàng quên cả bơi lội bị chìm xuống đáy hồ, câu “Chim sa cá lặn” xuất phát từ đấy.) có xuất hiện không nhỉ?...
“Nếu đã vậy, xin đa tạ Phạm đại phu!” Khánh Kỵ chắp tay hành lễ, chưa kịp đứng thẳng người lên đột nhiên nhớ ra điều gì, thất thanh kêu lên: “Huynh…huynh vừa mới nói gì? Huynh tên là gì?”
Vị đại phu kia có chút kinh ngạc, vội đưa tay lên vuốt mặt xem mình có chỗ nào không ổn không. Lát sau mới trả lời: “Bổn đại phu là Phạm Lãi, gì vậy, vị khách này quen biết tại hạ sao?”
Khánh Kỵ mừng rơn: “Phạm Lãi, huynh chính là Phạm Lãi?”
“Thì là bổn đại phu đây, có gì không đúng à?”
Khánh Kỵ hít một hơi dài, cố chế ngự nỗi ngạc nhiên trong lòng, theo như lịch sử mà hắn biết, Phạm Lãi trở thành nhân vật lịch sử nổi tiếng là vì công trạng ở Việt quốc, còn về chi tiết hắn làm quan ở Sở thì không được biết, hắn cứ ngỡ giờ này Phạm Lãi đang ở Việt quốc mới phải, đâu biết rằng Phạm Lãi vì sau khi quân Ngô công phá Dĩnh Đô của Sở quốc, triều đình hủ bại, quân vương vô dụng, hắn nản lòng mới chạy sang Việt quốc. Khánh Kỵ không biết người tên là Phạm Lãi đứng trước mặt là Phạm Lãi hắn biết qua sử sách hay chỉ là trùng tên, để tránh nhận lầm người, Khánh Kỵ vội hỏi: “Nếu vậy, huynh có quen biết với Văn Chủng đại phu không?”
Phạm Lãi nghe xong, nét nghi ngờ cảnh giác trên mặt liền tan biến, hòa nhã nói: “Thì ra huynh là bằng hữu của Tử Cầm, là huynh ấy đã kể về ta đúng không? Tử Cầm là bằng hữu tốt của Phạm Lãi, hiện đang làm quan ở Dĩnh Đô…”
Nói đến đây Phạm Lãi lộ vẻ lo lắng, thở nhẹ: “Hiện giờ lời đồn khắp nơi, người của bổn đại phu phái đi vẫn chưa quay về, ta cũng không biết tình hình ở Dĩnh Đô thế nào rồi, không biết Tử Cầm có an toàn không?”
Khánh Kỵ lần này đến Sở là vì muốn gặp mặt Sở vương, nhưng giờ nước Sở hỗn loạn như thế, e không thể đi đến Dĩnh Đô được rồi. Giờ gặp được vị đại phu Sở quốc này, Khánh Kỵ không che giấu thân phận của mình nữa, Khánh Kỵ nghiêm mặt nói: “Thật không dám giấu, bổn công tử không quen biết Văn Chủng đại phu, chỉ là hai vị tuổi trẻ tài cao, danh tiếng đồn xa, bổn công tử đã ngưỡng mộ đại danh từ lâu.”
Sở quốc rộng lớn, chức quan nhỏ như Phạm Lãi, Văn Chủng ai mà biết đến chứ? Vả lại nếu nói về danh tiếng, lúc này Phạm Lãi, Văn Chủng vẫn chưa sang Việt quốc, giờ này hai người chưa có công trạng hiển hách gì cả, Khánh Kỵ nói nghe danh tiếng của họ ở Tấn quốc, vậy đó là lời nói dối. Hơn nữa hắn tự xưng là công tử, càng làm cho Phạm Lãi thêm nghi hoặc, Phạm Lãi ngập ngừng hỏi: “Không biết các hạ…các hạ rốt cuộc là có thân phận gì?”
Khánh Kỵ đảo mắt nhìn xung quanh, thấy chỉ còn vệ sĩ của mình và binh lính của Phạm Lãi đứng đó, không sợ bị người khác nghe trộm, mới nghiêm nghị đáp lời: “Bổn công tử chính là Khánh Kỵ, vương tử của tiên vương Ngô quốc, lần này đến Sở mong được gặp mặt Sở vương điện hạ, cùng bàn đại kế thảo phạt Cơ Quang.”
“Này, lễ độ với ta chút đi, đừng có xô đẩy chứ.”
“Đừng nhiều lời, Kinh tướng quân, Ngải tướng quân đã dặn dò kĩ, quân doanh trọng địa, người ngoài ai cũng không được lại gần, ngươi lén la lén lút chui vào đây làm gì, có gì cứ đợi khi gặp mặt tướng quân rồi nói.”
Thúc Tôn Diêu Quang tức tối la lên: “Cái gì mà Kinh tướng quân, Ngải tướng quân, ngươi kêu Khánh Kỵ đến gặp ta, hứ, chàng gặp ta tự khắc biết ta là ai.”
Thúc Tôn Diêu Quang ra vẻ ngạo mạn, lập tức bị tên lính thô lỗ đẩy cho một cái chúi nhủi, nàng vừa tức giận vừa thấy tức cười, nhưng thấy quân lính dưới trướng Khánh Kỵ tận trung như thế, trong lòng nàng cảm thấy vui nhiều hơn giận.
Từ khi Quý Tôn Tiểu Man bỏ nhà ra đi, Cơ Tống tức giận sôi gan, chuyện này quả thật làm hắn mất mặt trước bá quan văn võ, nhưng hắn ý thức được ngôi báu của mình không danh chính ngôn thuận, Quý Tôn Ý Như cũng tức giận không kém, định tìm một cô gái khác trong gia tộc kết thân với Cơ Tống, nhằm đảm bảo quan hệ mật thiết của hắn và quốc quân.
Khổng Khâu giờ đây là người được tin cậy nhất bên cạnh Cơ Tống, hắn tuân thủ Chu lễ, sao lại ngồi yên nhìn quốc quân kết thân cùng dòng họ, làm ra chuyện mất lễ nghi được? Nhưng Khổng Khâu cũng nhìn ra tâm địa của Tam hoàn, nên bề ngoài vẫn cứ giả bộ chọn phu nhân giùm quốc quân trong nhà các công khanh đại thần Lỗ quốc, mặt khác lại bí mật phái sứ giả đi liên lạc các nước chư hầu, hy vọng tìm được một công chúa thích hợp từ nước khác làm phu nhân của Cơ Tống, làm vậy có thể nâng cao thực lực của quốc quân, giúp Cơ Tống chiếm ưu thế trong chế ngự tam giác quyền lực của Tam hoàn.
Tam hoàn không biết được dụng ý sâu xa của Khổng Khâu, Thúc Tôn Ngọc nghe Mạnh Tôn Tử Uyên khuyên nhủ, lại cảm thấy gả con gái cho Cơ Tống làm Lỗ quốc phu nhân, dù là đối với con gái hay cả gia tộc Thúc Tôn thị đều có thích hợp hơn cả, hơn nữa việc Khánh Kỵ có phục quốc thành công hay không còn chưa biết chắc được. Điều không ngờ là Thúc Tôn Ngọc vừa trình bày ý định với con gái, Thúc Tôn Diêu Quang đã kịch liệt phản đối, hai cha con cãi nhau một trận nảy lửa, Thúc Tôn Ngọc nổi giận nhốt con gái lại định từ từ khuyên nhủ, ai ngờ Thúc Tôn Diêu Quang lại học theo Quý Tôn Tiểu Man, cũng bỏ nhà ra đi tìm Khánh Kỵ.
“Này, ngươi đừng thô lỗ thế, nói không chừng là người quen biết với công tử đó.”
Thúc Tôn Diêu Quang bước đi chậm rãi, phía sau là mấy tên lính áp giải nàng đang to nhỏ nói chuyện với nhau.
“Ta thấy giống gian tế hơn.”
“Hi hi, vậy thì chưa chắc, ta vừa mới để ý thấy người này không có hạch ở cổ, hắn chắc là một cô gái.”
“Ta thì nói ở đâu ra mà lắm mỹ nam tử thế này. Cô gái ư? … hay là công tử nhà ta dính món nợ phong lưu nào đó ở bên ngoài, giờ người ta tìm đến tận đây không nhỉ?”
Một tên lính khác lo lắng nói nhỏ: “Nếu để Ngải tướng quân nhìn thấy thì nguy to, hí hí, cả hai người đều quen biết với công tử, gặp nhau có mà ghen tuông đánh nhau…” Mấy tên lính nói cười sau lưng Thúc Tôn Diêu Quang bị nàng nghe thấy, trong lòng tức tối: “Nữ nhân? Mới rời khỏi có mấy tháng, chàng đã không chịu được cô đơn, tìm một nữ nhân khác rồi ư?”
Tuy sớm biết Khánh Kỵ không chỉ có một mình nàng, nhưng nghĩ lại Thúc Tôn Diêu Quang cũng cảm thấy ấm ức trong lòng. Nhất là…Ngải tướng quân gì đó? Chẳng lẽ đó là một nam nhân? Người Lỗ ít ai đồng tính như người Vệ, Thúc Tôn Diêu Quang thử tưởng tượng cảnh ân ái giữa Khánh Kỵ và một tên nam nhân, thấy ghê tởm trong đầu.
Đi dọc theo con đường lớn trong Ngải thành hồi lâu, phía trước một tướng quân đeo kiếm dẫn theo hai tên lính đang bước tới trước mặt, nhìn thấy mấy tên lính đang áp giải một thiếu niên đi qua, vị tướng quân đó dừng bước hét lên hỏi: “Hắn là ai?”
Tên lính đứng kế bên Thúc Tôn Diêu Quang vội bước lên hành lễ trả lời: “Hồi bẩm Ngải tướng quân, theo lệnh tướng quân khắp quân doanh đã được canh phòng nghiêm ngặt, người này lén la lén lút lại gần Ngải thành, bị chúng thuộc hạ phát hiện bắt giữ lại không chịu nói rõ thân phận, chỉ là luôn miệng đòi gặp công tử, thuộc hạ thấy khả nghi nên dẫn tới cho tướng quân tra hỏi.”
“Hử?” Quý Tôn Tiểu Man nhìn khắp người Thúc Tôn Diêu Quang một lượt, cảm thấy người này rất là quen thuộc, nhưng nhất thời không nhớ ra hắn là ai. Thúc Tôn Diêu Quang thì nghe nói người này chính là Ngải tướng quân, nhìn dáng vẻ đúng là nhu mì, nếu thay đồ nữ nhi lên chắc đẹp hơn rất nhiều nữ nhân, e là Khánh Kỵ đúng như lời của bọn lính đã … với hắn, nghĩ vậy Diêu Quang tức giận tím mặt.
“Hắn là nữ nhân!” Quý Tôn Tiểu Man chỉ gặp qua Thúc Tôn Diêu Quang mấy lần, vả lại chỉ nhìn thấy từ xa, lúc đó Diêu Quang mặc đồ nữ nhi, vì thế thấy quen thuộc chứ không nghĩ ra người này chính là Thúc Tôn Diêu Quang, nhưng chỉ nhìn thoáng qua là Tiểu Man lập tức nhận ra Diêu Quang đang cải nam trang, hơn nữa còn là một cô nương nhan sắc mặn mà.
Một ngọn lửa ghen tuông nổi lên đốt cháy lồng ngực Tiểu Man, còn về phía Diêu Quang, nhìn thấy một tướng quân nhu mì xinh đẹp hơn cả nữ nhân, nhớ lại những lời mấy tên lính vừa nãy, ngọn lửa ghen tuông đỏ rực gấp mười lần như sắp phun trào ra từ ánh mắt nàng…
Một cơn gió thoảng qua, tên lính đứng gần nhất với hai cô nương này thấy ớn lạnh vội vàng lùi lại mấy bước.
“Có sát khí! Sát khí ngùn ngụt!” Những tên lính quanh đó đều cảm nhận được bầu không khí căng thẳng khi hai người gườm nhau, trong lòng len lỏi một cảm giác lo âu…
Lúc này Khánh Kỵ còn chưa biết ở hậu phương đã xảy ra chuyện lớn, hai cô nương điêu ngoa Quý Tôn Tiểu Man và Thúc Tôn Diêu Quang đã chạm mặt, một trận chiến ghen tuông giữa hai nàng khó tránh khỏi, hắn cứ tưởng ở hậu phương có đám tướng sĩ trung thành Lương Hổ Tử, Kinh Lâm, Tôn Vũ, Anh Đào là đã vững tựa Thái Sơn. Giờ đây Khánh Kỵ quá đỗi vui mừng, vì hắn lại gặp được một nhân vật nổi danh trong lịch sử, đó chính là Phạm Lãi.
Phạm Lãi và Văn Chủng lúc này chỉ là hai thanh niên trẻ tuổi trên quan trường Sở quốc, chức quan cũng là chức hạ đại phu nhỏ nhoi, khả năng trị quốc chắc chưa được lão luyện như sau này họ sang Việt quốc, tuy nhiên, khả năng chính trị là do trải qua ngày thánh trui rèn mà nên, tiềm năng của hai người này là không thể phủ nhận, tuyệt đối là hai nhân vật cần giao du thân thiết, biết đâu chừng sau này khi họ có thành tựu huy hoàng, Khánh Kỵ lại nhờ vả được gì đó thì sao.
Khánh Kỵ giờ đang cần nhiều người tài giúp sức, thấy nhân vật kiệt xuất này xuất hiện trước mặt, sao mà không nổi lòng chiêu nạp cho được? Vì chiêu nạp được người tài chính là gia tăng thực lực của bản thân, người ta không tham vinh hoa phú quý, công danh lợi lộc, cũng mong được thỏa chí trổ tài một phen, người tài ai cũng nghĩ vậy cả, với điều kiện của Khánh Kỵ hiện giờ, vẫn chưa đủ sức lôi kéo quan viên của Sở quốc.
Nhưng nghĩ lại Khánh Kỵ lại thấy không đúng, trong lịch sử hai nhân vật Phạm Lãi và Văn Chủng bỏ chức quan đại phu ở Sở chạy sang Việt quốc, đi theo phục vụ tên vua Câu Tiễn sắp vong quốc, chắc chắn là có lí do gì đó không thể nào không rời bỏ Sở quốc. Khánh Kỵ giờ đây hân hạnh gặp được hai người này, chi bằng cứ cư xử cho tốt, xây dựng giao tình với họ, sau này khi họ không làm quan ở Sở nữa muốn đến nơi khác phát triển, người bằng hữu này chắc chắn là chọn lựa đầu tiên họ nghĩ đến, nghĩ như vậy nên Khánh Kỵ càng cung kính lễ độ với Phạm Lãi hơn, Phạm Lãi được đối xử vậy thấy kinh ngạc không kém.
Nên nhớ Khánh Kỵ thân phận là vương tử, mà chức vụ của Phạm Lãi hiện nay chỉ tương đương với chức tri huyện sau này, với lại còn không phải là công khanh xuất thân quý tộc, cha truyền con nối tiếp nhận chức quan này, Khánh Kỵ tuy đang phải lưu vong, nhưng với tư cách tôn nghiêm của một vương tử lại lễ độ như thế với một huyện đại phu nhỏ nhoi Phạm Lãi, cũng đủ cho Phạm Lãi cảm thấy lạ.
Biết được mục đích chuyến đi của Khánh Kỵ, Phạm Lãi vui mừng ra mặt. Vì xung đột biên giới Ngô và Sở nên hai nước chiến sự xảy ra liên miên quanh năm suốt tháng, năm ngoái Khánh Kỵ và Yểm Dư, Chúc Dung còn dẫn đại quân chia làm ba ngả tiến đánh Sở quốc, hai bên vốn là thù địch, nhưng nay Cơ Quang khởi binh phạt Sở, chém giết cướp bóc, hãm hiếp phụ nữ khắp nơi, lại trở thành kẻ thù chung của Sở và Khánh Kỵ, đôi bên có chung kẻ thù tự nhiên sẽ biến thành chiến hữu.
Khánh Kỵ là người thừa kế ngôi báu danh chính ngôn thuận ở Ngô, nếu giờ Sở khai chiến với Ngô, người thừa kế hợp tình hợp lí nhất của Ngô đứng về phía họ, vậy xét về mặt đạo nghĩa, đội quân của họ là đội quân chính nghĩa, giúp người Ngô đòi lại công bằng, còn xét về tình hình thực tế thì có thêm người giúp sức giải vây cho Sở quốc, lại hạn chế được phần lớn sức chiến đấu của quân Ngô.
Chỉ cần nhân danh giúp đỡ Khánh Kỵ phục quốc, ít nhiều ảnh hưởng đến lòng quân của quân Ngô. Một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, Sở quốc có ơn với hắn, hai bên còn có thể thông qua đàm phán giải quyết vấn đề biên giới bằng con đường hòa bình, như thế Sở quốc lại có thể rút phần lớn quân Sở sang đối phó với Tấn quốc hùng mạnh phương Bắc đang lăm le xâm chiếm xuống phương Nam, chí ít ngưng chiến với Ngô quốc, có lợi lớn cho Sở quốc nghỉ ngơi dưỡng sức tính kế lâu dài.
Vì thế Phạm Lãi tiếp đãi Khánh Kỵ vô cùng chu đáo, mời hắn vào ở huyện đại phu phủ, đối xử hắn như thượng khách, bảo phu nhân đích thân lo việc ăn uống thết đãi Khánh Kỵ, đồng thời phái thêm người đi dò la tin tức về Dĩnh Đô, để tiện cho việc dẫn Khánh Kỵ đi gặp Sở vương.
Ba ngày liền Khánh Kỵ ở trong phủ đệ của Phạm Lãi, ngày nào hai người cũng bàn chuyện thiên hạ đại thế, sách lược cai trị quốc gia, ai cũng đưa ra kiến giải độc đáo, ai cũng có chỗ hơn người, do đó hai người càng lúc càng khâm phục đối phương hơn. Xét về tuổi tác, vốn đã không có khoảng cách nào, Khánh Kỵ lại có lòng kết giao, chỉ hai ba ngày trôi qua, hai người từ chỗ mới quen đã trở thành bằng hữu thân thiết không có gì là không dám đem ra bàn luận.
Bữa trưa hôm ấy, Phạm Lãi chạy vội vào mời Khánh Kỵ, Khánh Kỵ theo hắn đến ngoài tiền sảnh ngồi yên, chỉ thấy bên ngoài đã có hai hán tử mặc áo vải thô chờ sẵn, một tên thân hình thấp bé, khuôn mặt đen nhẻm, ánh mắt láo liên như kẻ trộm, tên kia cao lớn mặt chữ điền, thần sắc ung dung, hai người hình dáng trái ngược, ngay cả màu áo cũng là một trắng một đen, cứ như là hắc bạch vô thường, Khánh Kỵ thấy lạ nhìn chăm chăm vào họ.
“À, hai người này là ta phái đi dò la tin tức, vừa có tin tức về Dĩnh Đô, nên ta mới mời điện hạ ra đây, cùng nghe xem họ mang về tin gì.”
Phạm Lãi nhíu mày sầu não, hiển nhiên là đã nghe được chút tin gì từ thám tử này rồi, hắn mời Khánh Kỵ thượng tọa, quay qua bảo tên hán tử nhỏ con: “Ngươi mau nói tin tức ngươi dò la được với điện hạ, cố gắng nói tường tận vào.”
“Dạ, đại nhân!” Tên hán tử nhỏ con tuân lệnh, sau đó lần lượt kể với Khánh Kỵ những gì hắn đã dò la.
Hai mươi mấy ngày trước, Yểm Dư, Chúc Dung của Ngô quốc thua trận rút lui, tướng quốc Ngũ Tử Tư dẫn theo năm ngàn binh mã đến tiền tuyến hợp sức với Bá xua quân truy đuổi, dọc đường đánh phá được vài thành trì nhỏ, vì các thành trì này đều thuộc những nước nhỏ phụ thuộc Sở quốc, không phải lãnh thổ của Sở, người Sở khoanh tay đứng nhìn, không hề phái binh mã chống cự.
Mấy ngày sau, Ngô vương Cơ Quang đột nhiên dẫn theo ba vạn đại quân đến Sở quốc, hội quân với Ngũ Tử Tư và Bá, số quân tập hợp lại được năm vạn năm ngàn quân, ngoại trừ để lại một phần nhỏ trấn giữ những nơi quan trọng, đây đã là toàn bộ quân số cả Ngô quốc, đội quân này không đuổi theo Yểm Dư, Chúc Dung nữa mà tự nhiên không rõ tung tích. Khi Sở quốc nhận được tin báo, quân đội của Ngô như từ trên trời rơi xuống, đột nhiên xuất hiện ngay tại Bá Cử.
Tin quân Ngô tập kích lập tức được đưa về Dĩnh Đô, người Sở thất kinh, lập tức hạ lệnh cho sáu nước phụ thuộc là Thuấn, Hồ, Trần, Thẩm, Hứa, Thái phát binh trợ chiến, đồng thời điều động quân chủ lực của Sở tăng viện cho Bá Cử, sáu nước chưa kịp phát binh, quân Sở chưa tiến đến Bá Cử, người Ngô trải qua một ngày hai đêm huyết chiến đã chiếm được Bá Cử, liền sau đó lại tiến công Vân Mộng Trạch, đường tấn công rõ ràng là hướng về Dĩnh Đô.
Quân Ngô tiến quân thần tốc, hơn nữa như nắm rõ trong lòng bàn tay các cứ điểm đóng quân và binh lực của Sở, đánh cho quân Sở không kịp trở tay, quân Sở xưa nay luôn hung hăng ức hiếp người ngoài nay không ngờ lại bị người khác đánh vào tận cửa nhà, xuất hiện tại kinh đô của họ, trong một lúc hoảng loạn cả lên, hiệu lệnh mất linh, dù có mấy mươi vạn đại quân phòng thủ biên giới, lại bị quân Ngô đánh xộc vào kinh đô, phá một trận tưng bừng.
Đến lúc này người Sở mới phát hiện hai nước Đường và Thái xưa nay thần phục đã ngả sang phía quân Ngô, quay ngược lại giúp Ngô đánh Sở. Tất cả cũng chỉ tại Lệnh Doãn Nang Ngõa của Sở quốc, khi quốc quân hai nước Đường, Thái đến Sở triều cống, Nang Ngõa đòi quà hối lộ từ quốc quân hai nước quá nặng, hai quốc quân Đường, Thái không cách nào thỏa mãn lòng tham của Nang Ngõa, bị hắn nhốt vào ngục hết ba năm, sau khi sứ thần hai nước mang lễ vật hậu hĩ dâng lên, họ mới được thả cho về nước.
Uất hận trong lòng, bề ngoài hai nước Đường, Thái vẫn ra vẻ thần phục Sở quốc, nhưng họ lại thề với trời đất, trong khắp thiên hạ, bất kể là ai, chỉ cần xuất binh phạt Sở, họ nhất định nghe theo. Tin tức này sớm bị tướng quốc Ngô quốc Ngũ Tử Tư biết được, khi nghe nói Cơ Quang có được tấm bản đồ địa lí và cách phân bố binh lực của Sở quốc, bản thân Cơ Quang lại rất giỏi dùng binh, hai nước Đường, Thái lập tức nghe theo.
Địa lí sẽ không thay đổi, nhưng nếu để quá lâu khó bảo đảm quân đội của Sở có thay đổi vị trí bố phòng hoặc gia tăng quân số hay không. Cơ Quang quyết tâm đánh nhanh thắng nhanh, lập tức khởi binh phạt Sở, đánh thẳng vào đoạt lấy kinh đô Sở quốc, lập uy với chư hầu thiên hạ, kiến lập bá nghiệp thiên thu.
Kinh đô Ngô quốc Cô Tô thành cách quá xa Dĩnh Đô của Sở, khó khăn lớn nhất của quân Ngô chính là việc tiếp tế lương thảo, quân Ngô tuy phiêu dũng thiện chiến, nhưng quân số lại kém xa so với người Sở, do đó muốn chiếm được Dĩnh Đô, chỉ còn cách đánh úp bất ngờ vào chỗ hiểm yếu, nay được hai nước Đường, Thái quy thuận giúp đỡ, phụ trách việc cung cấp lương thảo, giải quyết được khó khăn này rồi quân Ngô không còn e dè gì nữa.
Cho dù là vậy, hai nước Đường, Thái muốn vận chuyển số lượng lương thảo lớn tiếp tế quân Ngô cũng cần có thời gian, quân Ngô lại tiến quân thần tốc, Cơ Quang vì muốn khích lệ lòng quân, nên lần này Cơ Quang ban ra một quân lệnh, trên đường tiến quân, quân đội Ngô quốc ăn của người Sở, mặc của người Sở, dùng đất của Sở, ngay cả nữ nhân để giải trí cũng dùng của Sở, cứ thế đánh phá cướp bóc hãm hiếp khắp nơi, thử hỏi người dân Sở quốc ai mà không hoảng sợ chạy nạn chứ?
Chỉ trừ bọn ăn mày không nhà cửa, không của cải, ngoài ra từ các công khanh đại thần đến lê dân bá tánh, hễ nghe thấy quân Ngô đánh đến nơi, ai cũng bỏ chạy lánh nạn càng xa càng tốt, thế nên Khánh Kỵ mới gặp phải cảnh chạy nạn hỗn tạp hôm đó. Trên thực tế lãnh thổ Sở quốc quá ư rộng lớn, chỉ có mấy vạn quân Ngô thật ra không đủ chia ra tiến đánh nhiều nơi, mục đích chính của quân Ngô chỉ là tiến đánh kinh đô Dĩnh Đô của Sở mà thôi.
Tất nhiên, người Sở không biết được rằng quân Ngô tiến quân thần tốc như thế là vì có được tấm bản đồ da dê mà Yểm Dư, Chúc Dung cố tình bỏ lại, họ cứ nghĩ là vì tướng quốc Ngô quốc Ngũ Tử Tư và đại tướng Bá vốn là người Sở, nên họ nắm rõ địa lí của Sở quốc cũng không có gì lạ.
Khánh Kỵ nghe xong nín thở, hồi lâu sau mới cất tiếng hỏi chuyện hắn quan tâm nhất vào lúc này: “Cơ Quang đã chiếm được Dĩnh Đô chưa?”
Tên hán tử mặc đồ trắng giờ mới lên tiếng trả lời: “Quân Ngô tiến quân thần tốc, nghe nói họ đã chiếm cứ Bá Cử, Lệnh Doãn Nang Ngõa đại nhân lập tức dẫn quân kháng cự, thiết lập phòng tuyến tại Vân Mộng Trạch, lúc này năm nước Thuấn, Hồ, Thẩm, Trần, Hứa cũng đã dẫn quân đến giúp, hội quân với Nang Ngõa đại nhân, binh lực nhiều hơn quân Ngô gấp bội. Quân Ngô do Ngô vương Cơ Quang đích thân làm chủ soái, Ngũ Tử Tư làm hữu tướng quân, Bá làm tả tướng quân, chia quân ba ngả, tiến đánh Vân Mộng Trạch, kết quả là…”
“Kết quả thế nào?”
Khánh Kỵ vội hỏi dồn, ánh mắt Phạm Lãi toát lên vẻ u sầu, lắc đầu ngao ngán nói: “Kết quả là…, đã đến lúc này rồi mà Nang Ngõa vẫn giữ lòng riêng, lệnh cho liên quân năm nước làm tiên phong, hắn dẫn quân tinh nhuệ chủ lực của quân Sở đứng nhìn từ xa, mong cho hai bên lưỡng bại câu thương.”
Nói đến đây Phạm Lãi tức giận đập bàn một cái, nói tiếp: “Quốc nạn ập đến, lại nhờ cậy người ngoài chiến đấu giùm, mình thì đứng nhìn từ xa, chung chiến tuyến nhưng không chung một lòng, dù cho quân số đông hơn gấp mười lần, thì làm sao mà giành được thắng lợi?”
Tên hán tử to cao cười chua chát, bậm môi: “Đại nhân nói đúng lắm, quân Ngô dùng tù nhân và tân binh làm tiên phong, giả vờ bại trận, dụ liên quân năm nước đuổi theo rơi vào bẫy mai phục, sau đó ba cánh quân chủ lực hợp lại bao vây, đánh cho liên quân một trận tơi bời. Liên quân năm nước thua trận rút chạy về phía sau, quân Ngô thừa thắng xông lên, liên quân bỏ chạy dẫm đạp lên trận địa quân Sở của ta, quân Sở rối loạn không còn chống đỡ quân Ngô được nữa, ba quân tháo chạy tán loạn, rơi vào đầm lầy dẫm đạp lên nhau chết vô số kể, tiểu nhân quay về đây báo tin, quân Ngô vẫn không ngừng tiến quân, chắc giờ đã đánh thẳng vào Dĩnh Đô rồi.”
Khánh Kỵ nghe xong toát mồ hôi lạnh, hắn chưa biết là quân Ngô hung hăng được thế này chính là do hắn viết thư bảo Yểm Dư, Chúc Dung dẫn dụ cho quân Ngô giao chiến với quân Sở, hai người kia vì ôm hận trong lòng, vẽ ra một bức bản đồ da dê cố tình bỏ lại cho quân Ngô lợi dụng, Khánh Kỵ tức tối mắng chửi quân Sở sao mà vô dụng, người Sở bị thua trận, đúng là có lợi cho việc thuyết phục họ liên minh với hắn, vấn đề là…nếu Dĩnh Đô bị công phá, Sở vương bị giết thì phải làm sao đây?
Tên Ngũ Tử Tư một lòng muốn trả thù, hắn hận Sở vương đến tận xương tủy, Sở Bình Vương tuy đã mất, nhưng nếu để hắn bắt được con trai của Sở Bình Vương, tên nhóc Sở vương mới mười một tuổi đó, e là Cơ Quang có ngăn cản đi chăng nữa, hắn cũng mặc kệ tuốt kiếm ra chém bay đầu thằng nhóc xong mới thôi, nếu giờ Sở vương mà chết, người Sở như rắn mất đầu, các vương tử lo tranh đoạt vương vị, khi đó Khánh Kỵ dấy binh phạt Ngô, vừa hay giải vây cho Sở quốc, e là tân quân mới lên ngôi của Sở quốc chỉ lo gầy dựng thế lực chưa vững của hắn, tuyệt đối không phái quân trợ giúp Khánh Kỵ phạt Ngô đâu.
“Điện hạ giờ có dự tính gì?” Phạm Lãi nhìn vào Khánh Kỵ hỏi.
Khánh Kỵ hít một hơi dài, sắc mặt nghiêm nghị: “Không thể chậm trễ được nữa, Khánh Kỵ lập tức lên đường tới Dĩnh Đô, Dĩnh Đô tường cao quân nhiều, Cơ Quang chưa chắc đã công phá được, cho dù là tấn công vào được, nghĩ chắc Sở vương điện hạ có đủ thời gian để rời khỏi đó. Sở quốc thực lực hùng hậu, binh mã hùng mạnh, thất bại nhất thời không nói lên gì cả, ta tin việc hợp tác của chúng ta vẫn có thể tiếp tục tiến hành.”
Phạm Lãi lộ vẻ khâm phục: “Tại hạ cứ tưởng điện hạ sẽ thất vọng quay về Vệ quốc, ý chí của điện hạ quả nhiên kiên định, dám một mình dấn thân vào chốn hiểm nguy, tại hạ vô cùng khâm phục, được, bổn đại phu sẽ đi cùng điện hạ đến Dĩnh Đô.”
Khánh Kỵ ngớ người: “Đại phu cũng muốn đi?”
Phạm Lãi từ tốn nói: “Ta là đại phu Sở quốc, tất nhiên phải góp sức cho nước nhà, giờ Dĩnh Đô gặp nạn, Sở vương lâm nguy, Phạm Lãi tuy chỉ là một viên quan nhỏ, binh mã cũng chỉ vài trăm, nhưng giờ biết tin cũng phải mặc giáp ra trận cần vương, tận trung báo quốc.”
“Nếu tất cả đại thần của Sở đều trung nghĩa như Phạm đại phu, Sở quốc chắc chắn trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thiên hạ.” Khánh Kỵ gật gù khen ngợi: “Sau này nếu như Khánh Kỵ phạt Ngô phục quốc thành công, mong cho có đại thần trung nghĩa tài trí tuyệt đỉnh như Phạm đại phu đây phò trợ, nếu ta mà có được một nhân tài kiệt xuất thế này, chắc chắn sẽ mời làm tướng quốc, cùng mưu tính đại nghiệp thiên thu.”
Phạm Lãi chớp mắt, mỉm cười khiêm tốn: “Điện hạ quá khen rồi, Phạm Lãi chẳng qua chỉ là một huyện lệnh nhỏ nhoi, sao xứng để điện hạ coi trọng như vậy chứ?”
Khánh Kỵ mỉm cười xua tay: “Thiếu Bá không cần quá khiêm tốn, những kẻ quyền cao chức trọng ba nước Ngô, Lỗ, Vệ, Khánh Kỵ đã gặp nhiều, trong mắt của ta, đám công khanh đại thần ấy có hợp lại với nhau, cũng không bằng một mình Phạm Lãi.”
Phạm Lãi nghe khen, biết là gặp được tri kỉ, thần sắc xúc động thấy rõ, ánh mắt cảm kích nhìn vào Khánh Kỵ, sau đó thở một hơi dài, thế mới giữ được bình tĩnh: “Được điện hạ coi trọng như vậy, Phạm Lãi quả thực tự thấy hổ thẹn. Không còn sớm nữa, Phạm Lãi giờ lập tức đi triệu tập người ngựa, cùng điện hạ khởi hành đi Dĩnh Đô.”
Dĩnh Đô, khói lửa mịt mù, cổng thành mở toang, quân lính Ngô quốc sát khí đằng đằng hộ tống ba chiếc chiến xa tiến vào thành.
Chiếc chiến xa ở giữa dừng lại, Ngô vương Hạp Lư toàn thân giáp trụ, tay cầm bảo kiếm dõi mắt xung quanh, cứ như mơ vậy, trước kia Ngõa Thích thái sư với ba vạn tinh binh đánh bại năm mươi vạn đại quân, bất ngờ bắt giữ hoàng đế chính thống đại Minh, Hạp Lư giờ cũng đang sống trong cảm giác lâng lâng vui sướng ấy, ngay cả bản thân hắn cũng không tin có kết quả như hôm nay, quân Ngô nhanh chóng chiếm được Dĩnh Đô, thì ra Sở quốc bề ngoài tưởng như hùng mạnh bên trong thật ra lại yếu đuối đến thế này.
“Sở vương giờ đang ở đâu?” Ngũ Tử Tư cũng toàn thân áo giáp, tay nắm trường mâu, hai mắt rực lửa hét lên, cái bộ dạng sát khí ngùn ngụt đáng sợ ấy làm người khác khiếp sợ.
Một tên lính giữ thành bị quân Ngô áp giải đến trước mặt, đứng yên bất động, bị Ngũ Tử Tư hét lên tra hỏi, hắn sợ hãi quỳ mọp xuống run lẩy bẩy: “Khi…khi cửa thành bị phá, thái tử thiếu phó Phí Vô Cực đại nhân đã dẫn theo đại vương trốn khỏi thành rồi ạ, giờ đây…giờ đây không biết đã chạy đi đâu.”
Lúc này đã xế chiều, bầu trời đỏ rực màu máu, khi đêm xuống không thể phái quân ra ngoài đuổi theo, Ngũ Tử Tư nghe tên lính giữ thành trả lời xong lộ vẻ thất vọng.
Bá hiểu ý, nhìn bộ dạng của Ngũ Tử Tư làm sao mà không hiểu nỗi lòng của ông ta chứ? Bản thân Bá cũng đang mang mối thù sâu tựa biển, bèn lên tiếng an ủi: “Tướng quốc đại nhân, bây giờ chúng ta đã đánh vào Dĩnh Đô, công phá hoàng cung, tên gian tặc Nang Ngõa đã chịu chết dưới mũi kích của đại nhân, cũng coi như là trả được mối thù gia tộc rồi. Giờ Sở vương chẳng qua chỉ là một đứa nhóc bị người khác sắp đặt, mặc kệ hắn đi, đại nghiệp của đại vương quan trọng hơn, giữ được Dĩnh Đô mới làm việc quan trọng cần làm trước mắt, chỉ cần chúng ta bám chặt Sở quốc, sau này tính sổ với tên nhóc Sở vương đang lẩn trốn, còn không dễ như trở bàn tay sao?”
“Đúng vậy, Tử Tư à, bây giờ đã chiếm cứ Dĩnh Đô, thù lớn của ông coi như đã trả được rồi, quả nhân đã thực hiện lời hứa với ông rồi nhé, ha ha ha…”
Cơ Quang đã ngoài bốn mươi tuổi, dõi mắt trông theo khắp kinh đô Sở quốc, dù là trải qua chiến tranh khói lửa vẫn nguy nga tráng lệ, trong lòng nổi lòng ham muốn, vuốt râu hí hửng: “Sở quốc trải qua mấy trăm năm tích góp, tất cả tài sản cả nước đều tập trung cất ở Dĩnh Đô, Sở vương chắc không ngờ quả nhân nhanh chóng đánh vào tận đây, các cánh quân cần vương của hắn không kịp cứu viện, trong lúc hoảng loạn trốn chạy chắc là không kịp mang theo thứ gì, bây giờ tất cả đều thuộc về quả nhân. Kể từ bây giờ, phái người lục xét toàn bộ của cải trong Dĩnh Đô, vận chuyển hết về Ngô quốc cho ta, để Ngô quốc ta sau này sử dụng.”
“Tuân lệnh đại vương!” Viên đại tướng gần đó chắp tay nhận lệnh.
Ngay lúc này, một cánh cửa nhà dân bật mở, một cô gái hấp tấp chạy ra, phía sau một gã đại hán cởi trần đuổi theo túm lấy cô gái, gã đại hán vẫn còn khoác nửa mảnh áo giáp trên mình, xem ra là binh sĩ của Ngô quốc, hắn thấy xa giá của đại vương tiến đến, ngây người ra, vội vàng hành lễ với Ngô vương Hạp Lư và hai vị trọng thần Ngũ Tử Tư, Bá.
Tên lính cúi người hành lễ, tay vẫn ôm chặt eo của cô gái kia, cô nương Sở quốc eo thon mềm mại, cô gái kia mới mười tám, nhan sắc cũng khá, tấm thân như cành liễu phất phơ trước gió, chỉ là nước mắt giàn giụa, trông có vẻ tội nghiệp.
Cơ Quang chỉ vào cô gái hỏi: “Nàng ta là con gái nhà ai, còn ngươi là binh lính thuộc bộ phận nào?”
Tên lính vội vàng cung kính đáp lời: “Bẩm đại vương, cô gái này là con gái của viên quan giữ thành, tiểu nhân là binh sĩ thuộc đội quân tiên phong, chính là đội quân đầu tiên phá cửa thành xông vào, đội của tiểu nhân thuộc quyền chỉ huy của Ngũ tướng quốc đại nhân ạ.”
Cơ Quang cười ha hả khoái trá: “Nếu đã lập công, đương nhiên phải được ban thưởng, hừm… cô gái này nhìn cũng khá đấy chứ?”
Tên lính nghe đại vương nói vậy, vội đẩy cô gái về phía trước, cô gái sém chút bị hắn đẩy ngã ra đất, to tiếng: “Còn không quỳ lạy đại vương của ta!” sau đó quay qua khúm núm nói với Cơ Quang: “Nếu đại vương thấy ưng ý, đó là vinh hạnh của nàng ta.”
Cơ Quang cười lớn: “Chỉ là con gái của một viên quan giữ thành, ngươi cứ tận hưởng đi.”
Tên lính mừng rơn, vội tạ ơn với Cơ Quang, sau đó kéo cô gái vào nhà đóng sập cửa. Vừa vào nhà cô gái toan bỏ chạy, liền bị hắn tát cho một cái ngã lăn ra, đoạn hắn vồ lên xé áo nàng, để lộ tấm thân trắng nõn hơ hớ.
Các thị vệ xung quanh Cơ Quang thấy vậy nhốn nháo cả lên, chỉ là họ đang có nhiệm vụ bảo vệ đại vương, không dám tự tiện hành động. Cơ Quang nhìn thấy đám thuộc hạ người nào người nấy vẻ mặt háo hức, cười ha hả trách mắng: “Thật là vô tích sự, một con dân nữ có gì đáng yêu chứ? Nào, các ngươi theo quả nhân vào hoàng cung, phi tần của Sở vương giờ thuộc về quả nhân, còn các cung nữ ta thưởng hết cho các ngươi khuây khỏa.”
Đám thị vệ nghe vậy vui mừng hớn hở, hoan hô hò hét vang trời.
Cơ Quang lại quay sang Ngũ Tử Tư, Bá: “Quả nhân hưởng dụng phi tần của Sở vương, tướng quốc cứ hưởng dụng Lệnh Doãn phu nhân của Sở, Bá là tư mã Ngô quốc ta, có thể vào ở trong phủ đại tư mã của Sở, hưởng dụng phu nhân tì thiếp của thượng khanh Sở quốc, ha ha, kể từ hôm nay quân thần trên dười Ngô quốc ta, tùy theo chức vụ lớn nhỏ, cứ theo thứ tự vào ở trong phủ đệ các đại thần Sở quốc, thả sức hưởng lạc.”
“Đa tạ đại vương!” Bá cúi người đáp tạ, rồi quay qua nhìn thấy Ngũ Tử Tư vẫn đang hậm hực vì Sở vương trốn thoát, đưa tay kéo áo hắn một cái, Ngũ Tử Tư không thèm cúi người, hờ hững nói: “Đa tạ đại vương!”
Cơ Quang biết tâm ý của hắn nên cũng mặc kệ thái độ đó, xua tay: “Uất đại phu đâu, dẫn quân trú đóng khắp Dĩnh Đô, giết những tên dám chống cự cho ta, ha ha, các ngươi cứ đi hưởng lạc nào, khởi giá vào hoàng cung!”
Đám thị vệ như một lũ sói đói thèm thuồng mỹ nhân và của cải trong hoàng cung Sở quốc, vội vàng đi theo Cơ Quang tiến vào hoàng cung.
Uất Bình Nhiên cảm thấy có gì đó không ổn, xưa nay phàm những ai chiếm cứ kinh thành một nước, ít khi không chiếm đóng được cả một quốc gia. Sở vương nhỏ tuổi, gian thần hoành hành, lê dân bá tánh Sở quốc đã mất hết niềm tin vào triều đình, hơn nữa Sở vương thâu tóm mọi quyền lực, cai trị quốc gia chia theo huyện, các công khanh đại thần nhận được rất ít lợi lộc.
Nếu Hạp Lư vào thành không xâm phạm dân chúng, ra sức lôi kéo các đại thần Sở quốc, lấy chức quan tiền tài ra chiêu dụ, chưa chắc bọn họ không nghe theo, lúc đó muốn chiếm cả Sở quốc, mở mang bờ cõi Ngô quốc ra gấp mấy lần chỉ là chuyện nhỏ, nhưng giờ đây Cơ Quang lại…
Cơ Quang ban lệnh cướp bóc hãm hiếp, đẩy dân Sở vào đường cùng buộc phải chống trả, Uất Bình Nhiên có ý khuyên can, nhưng thấy dáng vẻ đắc thắng của Cơ Quang cùng lòng ham muốn sắc dục ấy, cũng biết là với mấy lời của mình khó mà làm đại vương thay đổi ý định. Còn về phía Ngũ Tử Tư và Bá, hai nhân vật quyền lực chỉ đứng sau Hạp Lư, họ thù hận Sở quốc tận xương tủy, chỉ mong sao đốt trụi cả kinh thành Dĩnh Đô, e là cũng khó thuyết phục được họ.
Uất Bình Nhiên thở dài ngao ngán, lắc đầu vô phương, dẫn theo binh lính theo lệnh Hạp Lư chia nhau canh giữ khắp thành.
Trong thành khắp nơi đều vang lên tiếng khóc thảm thương, ngoài đường xác nằm la liệt, rất nhiều nhà dân hoang tàn mở rộng cửa, được lệnh Ngô vương ban xuống, các binh sĩ mặc sức cướp của hãm hiếp phụ nữ, Dĩnh Đô giờ chẳng khác nào chốn địa ngục trần gian.
Ngũ Tử Tư dẫn theo thị vệ của mình, đánh xe tiến về phủ đệ Ngũ gia trước kia của hắn, dọc đường khói lửa khắp nơi, xác chết la liệt, vô số nhà dân vọng ra tiếng kêu khóc van xin của nữ nhi bị lính Ngô lăng nhục, nỗi hận trong lòng hắn có hơi chút nguôi ngoai, đợi khi hắn đến trước phủ đệ, chỉ thấy một phủ đệ rộng lớn trước đây giờ đã bị san bằng thành đất trống, xung quanh hãy còn vết tích gạch ngói hoang tàn, nằm trơ trọi giữa đêm trăng âm u.
Cơn lửa giận trong tim Ngũ Tử Tư lại bùng cháy lên mãnh liệt, hắn nhảy xuống xe, lao về phía trước quỳ mọp xuống đất gào khóc thảm thiết: “Phụ thân…”, sau đó uất hận không kêu ra thành tiếng được nữa, hai bàn tay gân guốc của hắn nắm chặt hai nhúm đất, toàn thân run rẩy tím tái vì tức giận.
“Tên gian tặc Nang Ngõa, đã bị hài nhi băm nát như tương, còn tên lão tặc Sở vương…” Ngũ Tử Tư cắn răng bật máu, dưới ánh trăng mờ ảo hắn nghiêm mặt đáng sợ: “Tên lão tặc tuy đã chết, ta quyết không tha cho hắn, ngày mai…ngày mai ta sẽ đến đào mộ hắn lên, phanh thây xẻ thịt, trả mối thù máu này.”
Người xưa kính trọng quỷ thần, rất tôn trọng người đã khuất, tướng sĩ xung quanh Ngũ Tử Tư nghe nói phải đào mộ Sở vương lên sỉ nhục di hài của hắn, ai nấy nổi cơn ớn lạnh.
Ngũ Tử Tư lau nước mắt, cúng tế gia tộc của hắn xong, đứng thẳng người nghiêm giọng: “Đến Lệnh Doãn phủ cho ta!”
Lệnh Doãn Sở quốc hiện đang là đại gian thần Nang Ngõa, Nang Ngõa trong trận hỗn chiến ở Vân Mộng Trạch, vì dùng liên quân năm nước làm tiên phong, bị đám bại quân rút chạy về giẫm đạp trận địa quân Sở, trong lúc thua chạy tan tác xe ngựa của hắn bị mắc kẹt trong lầm lầy không kéo ra được. Vừa rồi Bá nói hắn chết dưới tay Ngũ Tử Tư chỉ là an ủi xoa dịu tướng quốc, thực tế trên chiến trường hỗn loạn, thấy kẻ địch là quân sĩ xông lên chém giết, còn ai để ý chức quan lớn nhỏ của đối thủ, để chừa cho người khác ra tay đâu? Cho nên Nang Ngõa bị quân sĩ Ngô quốc giết chết hay là bị quân Sở hận hắn chèn ép giết chết cũng không ai rõ, lúc Ngũ Tử Tư đến đó thấy xác hắn, tức giận băm nát xác hắn ra, sau đó đem bỏ ngoài rừng cho chó hoang tha đi coi như là đã trả thù rồi.
Nang Ngõa là quyền thần số một Sở quốc, phủ đệ nguy nga lộng lẫy, số mỹ nữ tuyệt sắc hắn giấu trong phủ nhiều vô số. Ngũ Tử Tư ngồi vào chiếc ghế phủ tấm lông cọp trắng của Nang Ngõa, nhìn vào dưới sảnh, vô số mỹ nhân sợ sệt đang lố nhố đứng đầy ra đó, Ngũ Tử Tư nghĩ lại mối thù khi Nang Ngõa dẫn quân sang bằng giết hại gia tộc, trong lòng giờ cảm thấy hả hê vô cùng.
Nang Ngõa là quyền thần số một Sở quốc, phủ đệ nguy nga lộng lẫy, số mỹ nữ tuyệt sắc hắn giấu trong phủ nhiều vô số. Ngũ Tử Tư ngồi vào chiếc ghế phủ tấm lông cọp trắng của Nang Ngõa, nhìn vào dưới sảnh, vô số mỹ nhân sợ sệt đang lố nhố đứng đầy ra đó, Ngũ Tử Tư nghĩ lại mối thù khi Nang Ngõa dẫn quân sang bằng giết hại gia tộc, trong lòng giờ cảm thấy hả hê vô cùng.
“Lệnh Doãn phu nhân đâu?”
Lệnh Doãn phu nhân là vợ cả của Nang Ngõa, năm nay đã ngoài bốn mươi, nhan sắc tất nhiên không bằng đám tì thiếp trẻ trung xinh đẹp, nhưng Ngũ Tử Tư chỉ vì trả thù chuốc hận, không phải ham mê nữ sắc, nên muốn sỉ nhục phu nhân của Nang Ngõa một phen, đâu cần biết bà ta xấu đẹp thế nào. Một cô tì thiếp run lẩy bẩy bước lên trả lời: “Phu nhân…phu nhân nghe nói kinh thành thất thủ, Lệnh Doãn đại nhân tử chiến trên sa trường, đã… đã thắt cổ tự vẫn rồi ạ.”
Ngũ Tử Tư lộ vẻ thất vọng, hắn trợn mắt, lại hét lên: “Vậy tắc phu nhân (vợ kế) của tên cẩu tặc đó đâu?”
Đám tì thiếp sợ hãi nhìn nhau, hướng vào một cô gái đang sợ sệt trong đám đông, cô gái này mặc một bộ đồ trắng, thân hình mảnh mai, eo thon quyến rũ say đắm lòng người. Nàng sợ đến nỗi trắng bệch cả mặt bước lên quỳ xuống, dập đầu bái kiến: “Tiện thiếp…tiện thiếp xin ra mắt Ngũ tướng quân.”
Ngũ Tử Tư sáng mắt, nhìn nàng ta chỉ ngoài hai mươi, nhan sắc tuyệt trần, cười lạnh nhạt một tiếng: “Nang Ngõa đúng là biết hưởng phúc nhỉ? Nào lại đây, nàng tên là gì?”
“Tiện thiếp là Ngọc Lạc.”
“Ngọc Lạc à? Ha ha, hay lắm, đêm nay nàng sẽ hầu hạ bổn tướng quốc…” Ngũ Tử Tư đưa tay túm lấy người đẹp ôm vào lòng, bàn tay đưa vào ngực nàng mò mẫm, mở miệng cười to khoái trá.
Bên ngoài gió lạnh vù vù, tiếng than khóc văng vẳng trong đêm…
Trong một khe núi hiểm trở, một đoàn người ngựa men theo lối nhỏ tiến từ từ vào phía trước, trong sơn cốc một thanh niên mặc áo bào trắng khoác nửa mảnh áo giáp hét lên từ xa xa: “Thiếu Bá có ở đó không?”
Nghe tiếng gọi, Phạm Lãi bước nhanh về phía trước to tiếng đáp lời: “Có phải là Tử Cầm không? Thiếu Bá đang ở đây.”
“Quả nhiên là huynh!” Chàng thanh niên áo bào trắng vội chạy đến đón, hai người vui mừng ôm lấy nhau, Khánh Kỵ quan sát người mới xuất hiện, thấy hắn tuổi tác cũng như Phạm Lãi, cao hơn Phạm Lãi nửa cái đầu, mặt mày thanh tú, tuy là đang mặc giáp đeo kiếm nhưng vẫn mang nét nho nhã thư sinh.
“Thì ra người này chính là Văn Chủng, ông trời để ta gặp được hai người họ ở đây, chẳng lẽ đó là ý trời?” Khánh Kỵ nhủ thầm trong lòng.
Lúc này Văn Chủng đã nghe Phạm Lãi giới thiệu về Khánh Kỵ, kinh ngạc bước đến trước mặt hành lễ: “Hạ tướng quân Sở quốc Văn Chủng, bái kiến Khánh Kỵ vương tử!”
Khánh Kỵ là con trai của Ngô vương, theo lí phải tự xưng là vương tử, nhưng các nước chư hầu phía Bắc Trường Giang chỉ thừa nhận Chu thiên tử là chính thống, không ai được phép xưng “Vương” mà chỉ được xưng “Hầu”, nên khi gặp Khánh Kỵ đều xưng hắn là công tử, không gọi vương tử. Nhưng ba nước Sở, Ngô, Việt nằm phía Nam Trường Giang, xưa nay đã quen cách xưng vương cho oai, do đó gặp Khánh Kỵ lại xưng hắn là vương tử.
“Văn tướng quân không cần đa lễ!” Khánh Kỵ vội đáp lễ, hỏi tiếp: “Văn tướng quân, dụng ý lần này Khánh Kỵ đến đây chắc là Thiếu Bá đã kể với ông, không biết tình hình Dĩnh Đô giờ thế nào rồi? Sở vương hiện nay đang ở đâu?”
“Điện hạ, Thiếu Bá, mời vào sơn động phía trước nói chuyện.” Văn Chủng lộ thần sắc ảm đạm, lắc đầu xua tay, dẫn hai người đi vào một sơn động gần đó, trong sơn động đang nhóm một đống lửa, Văn Chủng thở dài: “Văn Chủng liệu chắc sẽ có trung thần nghĩa sĩ nghe tin Dĩnh Đô gặp nạn, dẫn quân đến cần vương, nên mới phái người đón chặn ở các ngả, không ngờ…người đầu tiên đợi được đến đây, lại là Thiếu Bá.”
Hắn nhìn Phạm Lãi khẽ mỉm cười, hai người này đã là tri kỉ nên hiểu ý nhau, tiếp tục: “Không cần đi Dĩnh Đô nữa, Dĩnh Đô giờ đã…đã bị quân Ngô chiếm đóng rồi.”
Câu này vừa nói ra, Phạm Lãi và Khánh Kỵ thất kinh hồn vía, buột miệng cùng hỏi: “Vậy đại vương (Sở vương) có an toàn không?”
Văn Chủng vội trấn an: “Điện hạ và Thiếu Bá không cần lo lắng, đại vương đã rời khỏi Dĩnh Đô, theo tình hình ta biết được, chắc là được Phí Vô Cực hộ tống đi về hướng Tùy quốc rồi, lúc đó khắp thành hỗn loạn, đợi khi Văn Chủng triệu tập người ngựa đuổi theo, đường đi đã bị quân Ngô chặn mất, không còn cách nào khác đành phải rút vào khe núi này rồi tính sau.”
Phạm Lãi và Khánh Kỵ cùng thở phào nhẹ nhõm, Văn Chủng căm hận nói tiếp: “Quân Ngô chiếm đóng Dĩnh Đô ta, tên Hạp Lư hạ lệnh cho binh sĩ mặc sức chém giết, hãm hiếp phụ nữ. Đám tướng lĩnh Ngũ Tử Tư và Bá đều chiếm cứ phủ đệ của công khanh đại thần Sở quốc ta, bắt phu nhân tì thiếp của họ hầu hạ, còn vơ vét hết của cải Sở quốc vận chuyển về Ngô, thân là đại phu Sở quốc, một trang nam tử hán, Văn Chủng mỗi khi nhớ tới những điều này đều cảm thấy ô nhục.”
Tội ác này là do Cơ Quang và Ngũ Tử Tư gây ra, nhưng Khánh Kỵ cũng là người Ngô, nghe Văn Chủng nói vậy có chút bất an, Phạm Lãi hiểu ý lập tức nói sang chuyện khác: “Bây giờ quân Ngô chiếm đóng Dĩnh Đô được mấy ngày rồi?”
“Ba ngày.” Văn Chủng đau lòng trả lời: “Hạp Lư vào ở trong hoàng cung, chiếm hết phi tần trong cung cho mình hắn hưởng dụng, các cung nữ thì ban thưởng cho tướng sĩ dưới trướng, hắn còn định lăng nhục hoàng hậu, hoàng hậu khóa chặt cửa phòng, cầm kiếm tự vệ, chửi cho hắn một trận te tua, tên tặc tử này xem ra vẫn còn biết xấu hổ, không xâm phạm hoàng hậu nương nương. Hừ! Giờ trong hoàng cung Sở quốc, duy chỉ có hoàng hậu là giữ được tấm thân trong sạch.”
Hoàng hậu của Sở vương tên là Mạnh Doanh, năm nay chưa tới ba mươi tuổi, vốn là công chúa nước Tần, là em gái của Tần vương hiện giờ, trước đây vốn định gả cho thái tử Hùng Kiện của Sở, Sở vương lúc đó là Hùng Cư thấy nàng xinh đẹp, là một giai nhân tuyệt sắc nên si mê, lập nàng làm phu nhân, hạ sinh được một đứa con trai, chính là đương kim Sở vương hiện giờ.
Sau này đám người Phí Vô Cực, Nang Ngõa thành công hãm hại Ngũ gia, lấy lí do là Ngũ gia cấu kết với thái tử Kiện mưu phản, Ngũ gia bị diệt vong, Ngũ Tử Tư cùng thái tử Kiện chạy sang Trịnh quốc cầu xin Trịnh quốc xuất binh trả thù, rồi lại cổ vũ quyền thần của Trịnh tạo phản, thái tử Kiện bị giết, Ngũ Tử Tư lại chạy sang Ngô, hại chết Ngô vương Cơ Liêu từng thu nhận hắn, liên minh với Cơ Quang mang nặng dã tâm giúp hắn ngồi vào ngôi báu.
Cơ Quang đã nghe tiếng mỹ nhân tuyệt sắc này, nên vừa vào hoàng cung đã muốn thưởng thức hoàng hậu Sở quốc coi sao, ai ngờ cô nương này rất trung liệt, nàng bảo người hầu đóng chặt cửa, cầm kiếm trong tay đe dọa Cơ Quang: “Thiếp nghe nói thiên tử một nước là người cao quý, ăn không chung mâm, ngủ không chung giường với người khác, nay Ngô vương định phá bỏ phép tắc, quyết xông vào đây cưỡng ép ta, ta vì giữ danh tiết chỉ còn cách tìm đến cái chết.”
Hạp Lư không vì mấy câu chửi của hoàng hậu này mà khơi dậy lương tri, chỉ có điều Mạnh Doanh là em gái của Tần vương hiện giờ, Cơ Quang không muốn ép chết nàng kết oán với nước Tần, vả lại trong cung đâu đâu cũng là mỹ nhân, đâu cần thiết vì một hoàng hậu mà gây thù chuốc oán với Tần quốc hùng mạnh làm chi, nghĩ vậy Cơ Quang mới không làm liều. Những chuyện này xảy ra trong cung cấm Dĩnh Đô, chi tiết thế nào người của Văn Chủng phái đi dò la cũng không được rõ lắm.
“Nếu đã vậy, chúng ta chỉ còn cách đi Tùy quốc gặp đại vương, Phạm Lãi thông thạo địa hình Tùy quốc, bằng lòng đi cùng Khánh Kỵ vương tử, không biết ý điện hạ thế nào?” Phạm Lãi đề nghị.
Sở vương lánh nạn chạy sang Tùy quốc, mà người hộ tống lại là Phí Vô Cực, đại gian thần số hai của Sở quốc, hắn nắm giữ Sở vương chiếm trọn quyền lớn, Sở vương nhỏ tuổi e không đủ sức triệu tập các đội binh mã cần vương đánh về Dĩnh Đô. Khánh Kỵ vốn chỉ qua Sở xin trợ giúp, nay Phạm Lãi lại xem Khánh Kỵ như người cứu nước Sở thoát khỏi tai họa này, hy vọng sự xuất hiện của Khánh Kỵ khơi dậy niềm tin của Sở vương, để cho tên Phí Vô Cực chết nhát có đủ dũng khí đồng ý liên minh cùng đánh về Dĩnh Đô.
Khánh Kỵ nghe xong tình hình Sở quốc hiện nay thấm thỏm mừng thầm, hắn đến Sở xin giúp đỡ, vốn định chịu hy sinh một chút, cắt một vài mảnh đất đang tranh chấp ở biên giới hai nước làm thù lao cho Sở, nay người Sở bị Cơ Quang đánh cho thê thảm, giờ có chung kẻ thù với hắn, hắn đưa ra đề nghị liên minh, chắc người Sở mừng còn không kịp, còn bàn điều kiện chia đất gì ở đây nữa, nếu có điều kiện gì chắc cũng không đến nỗi nào.
Tiếc là thời đó tin tức không cách gì truyền đi nhanh chóng, Khánh Kỵ có thể nhân lúc chủ lực của Ngô đang tập trung đánh Sở, lập tức dẫn quân đánh về nước nhanh chóng chiếm lấy Cô Tô thành Ngô quốc, nhưng cách này không ổn, hai cánh quân của Khánh Kỵ một ở Vệ quốc, một ở Lỗ quốc, truyền mệnh lệnh về rồi chọn ngày khởi binh, không biết phải tốn bao nhiêu thời gian, ai biết được trong khoảng thời gian này chiến sự ở Sở có gì thay đổi không? Nếu đại quân của Cơ Quang bất ngờ rút về thì Khánh Kỵ không những không tận dụng được thời cơ, mà kế hoạch phạt Ngô khổ tâm gầy dựng bao lâu nay sẽ tan theo mây khói.
Hơn nữa Khánh Kỵ quá hiểu con người Cơ Quang, hắn tuy đem theo cả hai trọng thần Ngũ Tử Tư và Bá tiến đánh Sở quốc, như đã dốc toàn lực ở Ngô, nhưng theo Khánh Kỵ biết, phía Bắc có một Khánh Kỵ đại nạn không chết, phía Nam có một Việt quốc lăm le dòm ngó, Cơ Quang tuyệt đối không bỏ mặc Ngô quốc không ai canh giữ đâu.
Em trai của Cơ Quang là Phù Khái, võ dũng không thua gì Khánh Kỵ, lần này không theo huynh trưởng xuất chinh, mà ở lại trấn giữ biên giới Ngô, Việt, còn con trai của Cơ Quang là Phù Sai nữa, hắn chỉ nhỏ hơn Khánh Kỵ một tuổi, lần này Cơ Quang phạt Sở, thái tử Phù Sai trấn giữ Cô Tô thành, hai người này chắc giữ liên lạc mật thiết với Cơ Quang, cảnh giác cao độ về phía Vệ quốc, nếu giờ Khánh Kỵ xuất binh tập kích, mấy vạn đại quân vừa khởi hành, Cơ Quang chắc chắn nhận được tin báo rút đại quân về tiếp chiến. Vì thế việc liên minh với Sở là điều nên làm, với lại Cơ Quang gây nhiều tội ác tại Dĩnh Đô, cơ hội liên minh thành công là rất lớn.
Khánh Kỵ mỉm cười đắc ý: “Thiếu Bá, Khánh Kỵ nhất định phải đi Tùy quốc, nhưng Cơ Quang giờ chiếm đóng Dĩnh Đô, tướng sĩ Sở quốc mất hết sĩ khí chiến đấu, Sở vương nhỏ tuổi, e khó ra lệnh cho các công khanh khắp nơi cần vương hộ giá. Khánh Kỵ mạo muội cho rằng chuyến đi Tùy quốc là bắt buộc, nhưng đánh về Dĩnh Đô cần nhiều phía giúp sức, hai vị là đại phu của Sở, chẳng lẽ chỉ biết dựa vào mấy trăm binh lính bên mình thôi sao?”
Phạm Lãi và Văn Chủng đều một lòng báo quốc, nhưng thân phận thấp hèn, chức quan nhỏ bé, đâu đủ uy danh hiệu triệu lê dân, cũng không thể ra lệnh các công khanh giúp sức, ngoại trừ dẫn theo mấy trăm binh sĩ huyết chiến sa trường còn làm được gì nữa?
Hai người ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu tâm ý của Khánh Kỵ, cũng là Phạm Lãi phản ứng lanh lẹ, ánh mắt chớp nhẹ, quay sang Khánh Kỵ hỏi: “Thế điện hạ có cao kiến gì? Xin được nghe chỉ giáo.”
Nước Tùy vốn là nước chư hầu mang họ Cơ, từ ban đầu khi Chu Vũ Vương (Cơ Phát) lật đổ vua Trụ diệt nhà Thương lập ra triều Tây Chu, vương triều Tây Chu vì muốn trấn thủ và mở mang ranh giới, khống chế hậu duệ của nhà Ân Thương, liền phong thân tộc đi khắp thiên hạ, lúc đó từ thượng du sông Hoài đến trung du sông Hán những nước chư hầu được phong đất mang họ Cơ có tới hơn mười nước, tạo thành một tập đoàn phong quốc khổng lồ họ Cơ, tạo thành hình tam giác, phụ trách giám thị và ngăn chặn liên minh của Kinh Sở, Hoài Di và Bách Việt.
Nước Tùy vốn đất phong rộng lớn, quốc lực cường thịnh, từng nhiều lần tranh phong với Sở quốc mà không chịu thua kém. Nhưng mà nhiều năm qua đi, những nước họ Cơ năm đó thụ phong nhận trách nhiệm giám thị Kinh Sở càng ngày càng yếu đi, những chư hầu vốn là có quyền giám thị giờ lại trở thành nước phụ thuộc vào Sở. Nước Tùy cũng không phải ngoại lệ, hiện giờ đã hoàn toàn bị Sở khống chế.
Tiểu Sở Vương chạy trốn sang nước Tùy, đang lúc hoảng sợ, bên người lại chỉ mang theo hơn hai ngàn giáp sĩ, nhưng mà nước Tùy cũng không dám có chút bất kính với hắn. Ở trong mắt người nước Tùy, quân Ngô mặc dù đánh vào Dĩnh Đô, cũng không thể chiếm lĩnh được cả lãnh thổ Sở quốc rộng lớn, không bao lâu sau, bọn họ chắc chắn phải lui về Ngô quốc. Dĩnh Đô mặc dù bị phá, nhưng mà thực lực nước Sở lại căn bản chẳng bị hao tổn gì cả, đến lúc đó khống chế cả một vùng rộng lớn vẫn là Sở Vương.
Cho nên mặc kệ là trong lòng suy nghĩ thế nào, ở mặt ngoài bọn họ vẫn y theo lễ bề tôi mà đối đãi Sở Vương. Vì sự an toàn của Sở Vương, còn giúp bọn hắn trốn trong một khe cốc bí ẩn gần sông sâu núi cao. Nếu không phải Văn Chủng là một vị hạ tướng quân đóng ở Dĩnh Đô, Sở Vương cùng Phí Vô Cực lại bỏ chạy từ cổng thành nơi hắn đóng chạy về phía Tùy quốc, thì hắn cũng không thể nào biết được vị trí trú ẩn chuẩn xác của Sở Vương.
Sơn cốc ở đây tên là Cửu Phượng cốc, ở bên bờ một dòng sông lớn, núi chập trùng vây quanh, hiểm trở hùng vĩ. Nước sông xanh biếc uốn lượn theo chân núi, cây rừng trùng điệp quanh chân núi phản chiếu xuống lòng sông, phong cảnh tuyệt đẹp, hoàn toàn không nhìn thấy một chút không khí khẩn cấp nào của chiến tranh.
Khánh Kỵ cùng Phạm Lãi mang theo mấy trăm binh sĩ, tránh đi đạo nhân mã cảnh giới của quân Ngô quanh Dĩnh Đô, đi đường vòng chạy tới Tùy quốc, sau đó dưới sự dẫn đường của người Tùy đi vào Cửu Phượng cốc. Ở chân núi còn có thể nhìn thấy ba thiếu nữ Miêu ngồi dưới dòng sông trong vắt cười nói, các nàng cả đời ở đây, tựa hồ từ bé tới giờ chưa từng nhìn thấy đội quân hơn trăm người như vậy, khi thấy bọn họ đi qua, đều dùng ánh mắt kinh ngạc nhìn bọn họ.
Ánh mắt của các nàng vô cùng ngây thơ chất phác, không hề có tâm cơ, nhìn thấy một đội quân xa lạ, nhìn thấy nhiều nam nhân như vậy, lại hoàn toàn không có ý tứ đề phòng cùng sợ hãi, giống như những chú chim sống trong rừng lâu năm chưa từng nhìn thấy nhân loại, cũng không hề có tâm sợ con người, khiến cho Khánh Kỵ nhìn thấy mà dâng lên cảm xúc trong lòng, hắn không hy vọng chiến hỏa sẽ lan đến nơi này, thương tổn đến bầu không khí tinh thuần cùng những con người trong vắt như nước suối nơi đây.
Mọi người đi tới bên ngoài một khe núi sâu cỏ cây xanh ngắt, cửa khe núi liền xuất hiện những sĩ tốt thần sắc khẩn trương cảnh giác ngăn lại dò hỏi. Tuy rằng nhìn thấy đạo nhân mã này đều mặc quân phục nước Sở, nhưng mà bọn họ bây giờ như chim sợ cành cong không dám sơ suất, tới khi Phạm Lãi xuất ra ấn tín chứng minh thân phận của mình, những binh lính này mới buông lỏng cảnh giác, nhưng vẫn cưỡng chế mấy trăm sĩ tốt Phạm Lãi mang đến cần vương đứng chờ ở ngoài sơn khẩu, chỉ cho phép mấy người Phạm Lãi đi vào.
Khánh Kỵ vẫn chưa biểu lộ thân phận của mình, chỉ đi theo sau Phạm Lãi vào trong núi, trước sau bọn họ có hơn mười thị vệ Sở Vương áp giải. Tiến vào sơn khẩu, Khánh Kỵ liền phát hiện ra địa hình bên trong cốc còn hiểm trở hơn cả bên ngoài, mọi người chỉ có thể xếp thành hình rắn, dọc theo đường núi gập ghềnh mà leo lên phía trước. Ở phía sau sơn cốc lại là những dãy núi um tùm, trốn ở đây đúng là rất an toàn. Cho dù quân Ngô có nghe được tin tức phái đại quân tới công, cũng chắc gì đã công tới được, mà cho dù có công tới được, Sở Vương cũng có thể trốn vào trong rừng cây, không thể nào tìm ra được.
Thế núi dốc đứng, vách đá cao ngất, đỉnh núi trùng điệp, vách núi như gọt, ở hai bên núi đá có nhiều cây dây leo rối rắm vô cùng khó gỡ. Chim chóc hót vang, trong bụi cỏ thi thoảng có thỏ hoang, gà lôi kinh hoảng chạy xẹt qua, thỉnh thoảng còn có mấy con rắn độc quấn lấy thân cây, lè lè lưỡi ra với bọn họ.
Mọi người vô cùng cẩn thận, qua hơn nửa canh giờ mới đi qua được sơn cốc, đi tới một vùng bằng phẳng ở lưng chừng núi, phía trước có người tới chào đón, hỏi rõ thân phận lập tức chạy về báo tin. Chỉ một lát sau, một vị đại phu hông đeo trường kiếm, tuổi chừng năm mươi dẫn theo vài tên binh lính chạy tới, nhìn thấy Phạm Lãi, liền kiêu căng đứng lại, hỏi: "Bốc doãn Quan Tòng ở đây, là ai tới cần vương?"
Bốc doãn, là chức quan quản lí việc bói toán cát hung, chức vị trên Phạm Lãi, Phạm Lãi vội vàng tiến nhanh tới bái kiến: "Huyện tư mã Phạm Lãi, bái kiến Bốc doãn đại nhân. Hạ quan nghe nói quân Ngô công phá Dĩnh Đô, Đại vương phải di chuyển đi, cho nên dẫn theo ba trăm binh sĩ bản bộ tới cần vương hộ giá."
"Chỉ có ba trăm người thôi sao?" Nghe nói chỉ là một vị Huyện tư mã, so với Huyện doãn còn kém hơn một bậc, hơn nữa chỉ dẫn theo có ba trăm người, không khỏi thất vọng, xua tay nói: "Biết rồi, Đại vương dọc đường kinh hoảng, thân thể không khỏe, không gặp ngươi được, mang theo nhân mã bản bộ của ngươi đóng cùng trong sơn khẩu, chốc nữa Tử Tây tướng quân sẽ tới tiếp kiến ngươi, an bài nhiệm vụ cho ngươi. Chúng ta đi vội, lương thực người Tùy cho lại có hạn, quân nhu của quân ngươi, nên tự mình tìm biện pháp, cũng may núi này có rau rừng quả dại, chim bay cá nhảy..."
Vẻ mặt Phạm Lãi hơi ngây ra có chút bất đắc dĩ: "Bốc Doãn đại phu không cần lo lắng, việc cấp dưỡng hạ quan sẽ tự lo liệu. Hạ quan đến lần này, còn mang theo một nhân vật trọng yếu, cần phải Đại vương tự mình tiếp kiến."
"Ồ? Là nhân vật trọng yếu nào, còn cần Đại vương tự mình tiếp kiến nữa?" Vị quan đại phu kia kì quái hỏi, giống như lúc này hắn không phải là kẻ hoảng sợ chạy nạn tới vùng thâm sơn hoang dã này, mà dưới chân vẫn còn đang dẫm lên bậc thềm của Sở Vương cung vậy.
"Hồi bẩm Bốc doãn đại nhân, người đó là... Ngô quốc vương tử... Khánh Kỵ."
"Cái gì?" Quan Tòng chấn động, thần sắc kiêu căng trên khuôn mặt liền trở thành hư không: "Ngô quốc Khánh Kỵ, hắn đến đây làm gì? Ách... hắn đang ở đâu?"
Khánh Kỵ thầm than trong lòng, cận thần bên người Sở Vương dù đang trong lúc chạy nạn, thế mà đối với quân đội cần vương vẫn còn kiêu căng như vậy, chẳng biết mời chào chút nào, bề tôi nước Sở há có thể không sinh oán thán? Hắn từ phía sau Phạm Lãi bước lên một bước, hơi chắp tay nói: "Quan đại phu, Khánh Kỵ ở đây."
"A..., Khánh... Khánh Kỵ..., Quan mỗ không biết điện hạ giá lâm, thất lễ, thất lễ, điện hạ mau mau xin mời." Quan Tòng nói năng lộn xộn, đồng thời bên dưới tay áo dùng tay ra hiệu, thị vệ thủ hạ của hắn nhanh trí thấy vậy thì quay người, vội vàng chạy về báo tin. Quan Tòng đối với vị vương tử từng là địch nhân, địch quốc, giờ lại trở thành cùng chung kẻ thù cũng không biết nên dùng thái độ nào đối đãi, cho nên khách khí vài câu, liền dẫn hắn đi tới một hang động bên trên sườn núi. Phạm Lãi chức vị thấp kém, chưa nhận mệnh lệnh cũng không tiện đi theo, đành phải đứng tại chỗ chờ. Khánh Kỵ đi theo Quan Tòng một đoạn về phía trước, còn chưa kịp tới cửa động giống như hình con dơi kia, bên trong đã có hai vị tướng quân ra nghênh đón. Hai người này đều trên dưới bốn mươi, dáng người cao gầy, khuôn mặt hẹp dài, lông mi thô ngắn, thân không mặc bì giáp, dưới sườn đeo kiếm, bộ dáng nghiêm túc vẻ mặt trang trọng.
Quan Tòng vừa thấy, vội vàng nghênh đón, nói: "Tử Tây tướng quân, Tử Kỳ tướng quân, vị này chính là Ngô quốc Khánh Kỵ vương tử."
Hai người kia nhướng mi lên, hai mắt sáng ngời hữu thần đồng thời chú ý lên người Khánh Kỵ, hơi hơi chắp tay với hắn.
Hai vị này đều là con cháu trong Vương thất Sở quốc, vốn là tướng lãnh đảm nhiệm hai đội binh mã cung, thành. Phí Vô Cực thấy Nang Ngõa binh bại, liền về thành ép Sở Vương đi, hai vị tướng quân trung thành tận tâm này cũng dẫn thân binh theo hộ tống bọn họ một đường tới nơi này.
Khánh Kỵ đã nghe nói qua về danh tự của hai vị tướng quân này, song phương hàn huyên đôi câu, khi biết được mục đích đến của Khánh Kỵ, trên khuôn mặt hai người liền hiện lên vài phần ý cười, vẻ mặt cũng nhu hòa đi một chút. Khánh Kỵ theo hai vị tướng quân vào trong sơn động, chỉ thấy bốn vách tường cắm mấy ngọn đuốc, một phía trong động có một tảng đá nhô ra, bên trên lót vải lụa mỏng, một vị thiếu niên đầu đội vương miện ngồi ngay ngắn trên đó, đang mở to đôi mắt tò mò nhìn hắn. Đứng ở trái phải bên cạnh thiếu niên đó là hai người, người bên trái là một vị đại phu áng chừng năm mươi tuổi, đội mũ quan cao, thân hình cao lớn, sắc mặt âm trầm, bên môi là hai chòm ria ngắn, đang dùng một ánh mắt âm lãnh đánh giá hắn.
Khánh Kỵ nhìn hắn một cái, thầm nghĩ: "Người Sở xem trọng bên trái, hiện giờ Nang Ngõa đã chết, vị đứng ở bên trái Sở vương đích thị là đệ nhị đại gian thần nước Sở Phí Vô Cực. Về phần vị bên phải... chắc chắn là đệ tam đại gian thần nước Sở Yên Tương Sư không thể nghi ngờ." Ánh mắt Khánh Kỵ đảo qua, thấy người bên phải mặc giáp trụ sáng choang, khoảng gần bốn mươi, làn da hơi tái nhợt, khuôn mặt tuấn lãng, chỉ có điều hai mắt dài nhỏ nửa đóng nửa mở, tựa hồ như một khe mắt chuyên dùng để nhìn trộm động tĩnh người khác, khiến cho người ta có chút không được thoải mái.
"Ngô quốc Khánh Kỵ tham kiến Đại vương!" Khánh Kỵ chỉ nhìn lướt qua, liền thu hồi ánh mắt, thi lễ với thiếu niên kia.
Tiểu Sở Vương tò mò nhìn hắn, trên khuôn mặt trắng hơi hơi hiện lên một chút kích động đỏ ửng: "Ngươi chính là vị lực nắm bò tót, tay bắt phi điểu Ngô quốc đệ nhất dũng sĩ Khánh Kỵ vương tử sao?"
"Khụ...!" Phí Vô Cực bên cạnh hơi hơi ho lên một tiếng, Sở Vương thần sắc sợ hãi, vội hỏi: "Khánh Kỵ vương tử mời bình thân." Tuổi tác hắn dù còn nhỏ, nhưng mà cũng đã thành thục lễ pháp, có điều nhìn khí chất trên khuôn mặt, rõ ràng chỉ là bộ dáng của một hài đồng chưa rõ thế sự.
"Điện hạ từ xa tới gặp quả nhân, không biết là có dụng ý gì?" Sở Vương hỏi, không cầm lòng nổi lại liếc nhìn sang Phí Vô Cực bên cạnh vẻ mặt có vẻ thờ ơ không quan tâm, Phí Vô Cực khóe miệng nhếch lên, giống như có ý khen ngợi khẽ gật đầu.
Khánh Kỵ nói: "Ngô quốc Cơ Quang, hành thích vua rồi tự lập, đi ngược lại đạo quân thần. Khánh Kỵ ở Vệ quốc chiêu binh mãi mã, quyết chí thề giết Cơ Quang báo thù cho cha. Nay Cơ Quang phát binh đánh Sở, phá Dĩnh Đô, hủy xã tắc, bốn phía đốt giết đánh cướp, khiến cho Sở Vương điện hạ phải bỏ cung mà tị nạn đến tận đây. Đại vương cùng Khánh Kỵ chính là cùng chung mối thù, Khánh Kỵ lần này đến, là muốn cùng Sở vương điện hạ thương lượng đại kế chống Cơ Quang."
"Ồ, Khánh Kỵ vương tử muốn cùng quả nhân chống lại quân Ngô?"
"Ồ, Khánh Kỵ vương tử muốn cùng quả nhân chống lại quân Ngô?"
Tiểu hài tử đối với nhân vật anh hùng đều có một loại sùng bái cùng tín nhiệm không giải thích được, Sở Vương nghe nói Khánh Kỵ tới là để giúp hắn đối kháng với Cơ Quang, dường như thoáng cái có người tâm phúc, không khỏi hơi quá mừng rỡ. Hắn lập tức ngẩng đầu nhìn sang Phí Vô Cực, môi mấp máy, nếu không nhìn thấy sắc mặt hắn có gì bất thường, thì sẽ lập tức đáp ứng luôn.
Ánh mắt Phí Vô Cực ép xuống, làm ngừng động tác của Sở Vương, ngoài cười nhưng trong không cười, nói: "Sở quốc ta hùng binh hơn mười vạn, đất đai mấy ngàn dặm, một Ngô quốc nho nhỏ, mặc dù dùng quỷ kế đánh vào Dĩnh Đô, lại há có thể lâu dài, sớm muộn gì cũng sẽ bị chúng ta đánh trở về Ngô quốc, vốn không cần phải mượn dùng ngoại lực. Khánh Kỵ vương tử năm trước còn từng lãnh binh phạt Sở ta, Cơ Quang hiện giờ là đại địch của nước Sở ta, điện hạ chẳng phải cũng là như thế sao? Điện hạ hiện giờ có mối thù tranh vương vị với Cơ Quang, muốn mượn lực Lỗ quốc ta để phạt Ngô phục quốc, chỉ có điều điện hạ dũng mãnh phi thường còn hơn cả Cơ Quang, ngày sau một khi phục quốc, Sở Quốc ta không phải còn tự tay tạo ra địch nhân cường đại hơn sao?
Hang động rộng rãi lạnh lẽo, thanh âm Phí Vô Cực to khác thường, hắn vừa nói, trong hang động âm thanh vang vọng khắp nơi, nghe âm vang hữu lực. Tử Tây, Tử Kỳ, Quan Tòng mấy vị đại phu bên cạnh nhe thấy vậy không khỏi hướng ánh mắt về phía Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ ung dung cười, hỏi: "Vị này, chắc hẳn chính là thái tử thiếu phó Phí Vô Cực Phí đại phu. Nước Sở thực lực hùng hậu, kiêu ngạo đóng ở Kinh Sở, các nước đều run sợ, Khánh Kỵ cũng tin rằng, với thực lực của Cơ Quang, không nuốt nổi giang sơn nước Sở, hắn sớm muộn gì cũng sẽ phải lui về Ngô quốc. Nhưng mà, bằng lực lượng của chính Sở quốc, tới khi nào mới có thể bức cho Cơ Quang lui binh?
Không sai, Sở quốc có hùng binh hơn mười vạn, nhưng mà các vị có thể đem toàn bộ binh lực này vào trong chiến trận được sao? Mấy vạn đại quân giáp mặt đối chiến với quân Ngô đã thương vong thảm hại, tổn thất quá lớn. Hiện giờ không thể hợp thành quân, cần bổ sung quân số, chỉnh biên lại, muốn cho quân đầu nhập vào chiến trận sợ rằng cũng phải mất mấy tháng.
Phía Nam, có gần bảy vạn đại quân, trấn thủ các nước nhỏ Man Di phía Nam. Các quốc gia này trước nay nhanh nhẹn dũng mãnh, không cam lòng chịu phục tùng. Sở Vương tuổi nhỏ, bọn họ đã sớm rục rịch, gần đây lại nghe nói nước Sở đại bại, làm sao có thể không nảy sinh dã tâm? Nếu quân Sở rút lui để đánh đuổi quân Ngô, chỉ sợ sẽ là 'cửa trước hổ đến, cửa sau sói vào', các dân tộc Man Di phía nam sẽ đều dựng cờ tạo phản, ngày sau không biết phải tốn bao nhiêu binh mã, tiêu phí bao nhiêu thời gian mới có thể bình ổn lại.
Hơn nữa về phía Bắc, biên giới Tây Bắc nước Sở có mười vạn đại quân, lại càng không thể điều động. Man Di phía Nam, muốn tự lập, bằng lực lượng hùng hậu của Sở quốc sớm muộn gì cũng có thể chinh phục; Ngô quốc Cơ Quang, hành động này cũng chỉ là cường đạo muốn đốt giết đánh cướp, sớm muộn gì cũng phải lui về Ngô, cũng không có họa lớn như ở phương Bắc... đó là Tấn quốc dã tâm bừng bừng, thèm khát thiên hạ. Mưu đồ của Tấn quốc, chính là giang sơn ngàn dặm, thống trị thiên hạ. Hơn nữa, một khi cho nó cơ hội, Tấn quốc hoàn toàn có năng lực có thể chiếm giữ Sở quốc, quân biên phòng một khi lui đi, Tấn quốc thừa dịp thành trống mà vào, thì ngay cả giang sơn cũng không bảo toàn nổi. Về phần Khánh Kỵ, lúc trước chỉ là phụng mệnh mà hành sự, nay nếu kết minh cùng với nước Sở, là minh hữu với nhau, chuyện biên giới cũng không phải buông binh đao, cùng nhau bàn bạc giải quyết..."
Phí Vô Cực cười lạnh một tiếng, chặn lời hắn lại, nói: "Khánh Kỵ vương tử sao phải nói giật gân như vậy? Ngài cũng bảo Cơ Quang không phải là họa lớn với Sở quốc ta, Cơ Quang thân là quốc vương Ngô quốc, há có thể xa trung tâm lâu ngày? Cho dù chúng ta không phát đi người nào, Cơ Quang đương nhiên cũng sẽ phải thối lui..."
"Ha ha ha ha..." Khánh Kỵ bất ngờ cười ra tiếng, thanh âm của hắn còn vang dội hơn cả Phí Vô Cực, âm vang thật lâu trong hang động, lại bởi vì hang động khá sâu, tiếng cười của hắn như kéo dài liên tục, như tiếng sấm rền vang, Phí Vô Cực biến sắc quát to: "Ngươi cười cái gì?"
Khánh Kỵ khinh thường nói: "Ta cười các vị, co đầu rụt cổ như thế, hóa ra là có chủ ý như vậy. Không sai, Cơ Quang sớm muộn gì cũng sẽ đi, chờ cho hắn cướp sạch của cải Dĩnh Đô, chơi hết nữ nhân Dĩnh Đô, sẽ rời khỏi nơi đó, để lại một vùng phế tích cho các vị. Các vị lúc đó có thể vẻ vang trở về, tiếp tục quang vinh làm Đại vương các vị, làm công khanh đại phu các vị, thật sự là vô cùng vẻ vang!"
"Lớn mật!" Tử Tây, Tử Kỳ nghe vậy thì giận dữ, nắm lấy chuôi kiếm, trừng mắt căm tức. "Ngươi lại dám làm nhục quân thần ta như vậy!" Yên Tương Sư đôi mắt nghiêm nghị, cũng đã nổi lên sát khí.
Khánh Kỵ cười to nói: "Ta cũng chỉ là kể lại sự thực mà thôi, tại sao lại bảo là ô nhục? Ngay cả khi Khánh Kỵ có không nói, thì chẳng lẽ những nỗi nhục nhã mà Cơ Quang ném lên đầu các vị, có thể không bị người trong thiên hạ biết được sao?"
Tử Tây kinh nghi hỏi: "Ngươi rốt cuộc đang nói cái gì?"
Khánh Kỵ hừ lạnh một tiếng, lớn tiếng nói: "Các vị có biết, Cơ Quang tiến vào Dĩnh Đô, lệnh cho các tướng lãnh đại phu thủ hạ, theo đúng chức vị tôn ti, vào ở các công khanh phủ đệ Sở quốc, đem các kiều thê mỹ thiếp của chư vị công khanh đại phu làm đồ chơi cho mình? Các vị có biết, Cơ Quang đang đem tài phú tích lũy mấy trăm năm của Dĩnh Đô vận chuyển về nước Ngô? Các vị có biết, Sở quốc tông miếu, xã tắc đều đã bị hắn phá hủy, khiến cho thần linh của người Sở, tổ tông của Sở Vương không thể được hưởng cúng tế? Các vị có biết, Ngũ Tử Tư đã cho đào phần mộ của Sở quốc tiên vương, quất ba trăm roi vào xác của Bình Vương, đánh cho nát vụn, rải dưới ánh mặt trời? Các vị có biết những tướng sĩ Sở quốc chết trận, tất cả đều bị ném ra đồng hoang không được chôn cất, đều bị chó hoang cắn chim ưng mổ?
Nếu Sở Vương điện hạ dừng chân ở đây, lề mà lề mề kêu gọi các lộ binh lính trong nước cần vương để phạt Cơ Quang, thì khi nào mới có thể thành công? Thân là quân vương của một quốc gia, cũng là người che chở cho con dân của một quốc gia, chẳng lẽ Đại vương lúc này vẫn có thể nhàn nhã ở Cửu Phượng cốc, không để ý tới Cơ Quang đang hung ác bạo tàn ở Dĩnh Đô? Nếu không phát binh đánh đuổi Cơ Quang, uy phong của Sở quốc từ nay về sau sẽ bị quét sạch, ở trong thiên hạ, sẽ còn có chư hầu nào để các vị vào trong mắt? Hơn mười chư hầu phụ thuộc Sở quốc, sợ rằng đều sẽ đầu nhập vào Cơ Quang đó."
Khánh Kỵ nói một phen, khiến cho những người nghe trong động ngây ra như phỗng, ngay cả sắc mặt Phí Vô Cực cũng đã tái nhợt, khóe mắt Tử Kỳ như muốn nứt ra, nói: "Ngươi... ngươi nói cái gì? Những điều ngươi nói, là... là thật sự?"
Những điều này, có một vài là Khánh Kỵ nghe từ Văn Chủng nói cho khi ẩn thân ở trong sơn cốc kia, một vài là nghe nói trên đường tới nước Tùy tìm Sở Vương, lại kết hợp với hiểu biết về lịch sử của hắn, đương nhiên biết những lời đồn này là thật. Khánh Kỵ nặng nề gật đầu một cái, cất cao giọng, nói: "Đương nhiên, theo ta đi cùng đến đây, có một vị Huyện tư mã đại phu Phạm Lãi, hắn cũng có thể chứng thực lời đó của Khánh Kỵ."
Tử Kỳ hai mắt đỏ sậm, run giọng kêu lên: "Hạp Lư... Hạp Lư hủy tông miếu ta, hủy xã tắc ta, nhục tiên vương ta, ức hiếp gia thất ta, thù này không báo, bất cộng đái thiên! Đại vương, Đại vương, chúng ta muốn đánh về Dĩnh Đô, báo thù nỗi nhục này, nếu không ta còn mặt mũi nào mà sống ở đây nữa?"
Tử Kỳ 'bịch' một tiếng quỳ rạp xuống trước mặt Sở Vương, Tử Tây, Quan Tòng mấy tướng lãnh tất cả cũng đều quỳ xuống, thần sắc bi phẫn dâng trào. Sở Vương mặc dù tuổi nhỏ, cũng biết chính mình đã bị nhục nhã đến như thế nào, mắt hắn rưng rưng, khóc lóc hỏi: "Khánh Kỵ vương tử, mẫu hậu của quả nhân... Mẫu hậu vẫn khỏe chứ?"
Khánh Kỵ chắp tay vái hắn, cung kính nói: "Mạnh Doanh vương hậu tự thủ trinh tiết, cầm kiếm đóng cửa cung lấy cái chết đe dọa, Cơ Quang ngại gây thù kết oán với Tần quốc, không ám vào cung ép buộc, cho nên vương hậu vẫn bình yên vô sự."
Khóe mắt hắn hơi hơi nhìn thoáng qua những quần thần nước Sở đang quỳ xuống, nhẹ nhàng thở dài nói: "Trên dưới Dĩnh Đô, cũng chỉ còn một mình vương hậu là bảo vệ được trong sạch..."
Mọi người nghe thấy vậy, tim như bị đao cắt. Văn hóa nước Sở, hết lòng tin rằng người chết vì quỷ, thi hài xuống đất là bình an. Nhục nhã thi thể, chính là tội đại bất kính. Mà Cơ Quang đám người còn y theo chức vị vương hầu công khanh, vào ở trong phủ đệ Sở quốc quân thần, vào trong tận nhà, ngủ với thê thiếp. Những vị công khanh đại phu hoảng loạn bỏ trốn chưa kịp mang theo gia quyến giờ nhớ tới tình hình trong nhà ở Dĩnh Đô, đều tức giận chỉ muốn xông lên.
"Đại vương, nhanh chóng triệu đội quân cần vương, đánh về Dĩnh Đô đi, nếu cứ chờ cho quân Ngô tự thối lui, thì quân thần chúng ta còn mặt mũi nào mà trở về Dĩnh Đô?"
Sở Vương bị quần thần kêu gọi, nhất thời không có chủ ý gì, đôi mắt trông mong nhìn về phía Phí Vô Cực, Yên Tương Sư bên cạnh ho nhẹ một tiếng, chắp tay nói: "Đại vương, người nước Ngô hủy hoại xã tắc tông miếu của ta, thù này bất cộng đái thiên. Đại vương nên phái đi tín sức, triệu tập các lộ quân đội cần vương đến cùng bàn đại kế. Về phần kết minh với Khánh Kỵ vương tử, thần nghĩ Đại vương nên mệnh cho thái tử thiếu phó Phí đại phu bàn bạc chi tiết thêm với Khánh Kỵ vương tử, rồi bẩm tấu cho Đại vương định đoạt."
Sở Vương vừa nghe thấy vội nói: "Không sai, Khánh Kỵ vương tử, Dĩnh Đô, quả nhân nhất định phải đánh trở về, không rửa sạch nỗi nhục này, quả nhân sẽ thẹn với thiên hạ. Về phần kết minh song phương giữa chúng ta, vương tử có thể thương nghị tỉ mỉ với Phí thiếu phó, rồi nói lại với quả nhân để quân thần nghị luận."
"Khánh Kỵ tuân mệnh!" Khánh Kỵ vái chào thật sâu, chuyển mắt nhìn sang Phí Vô Cực...
Trên sườn núi, Khánh Kỵ sóng vai đứng cạnh Phí Vô Cực, trong sơn cốc ẩn hiện có lá cờ phiêu động, đó chính là địa phương mà quân Sở đóng quân.
"Phí thiếu phó, đã ở trước mặt rồi thì không nói lời giả, nơi này cũng chỉ có ta và ngài, Khánh Kỵ muốn thẳng thắn thành thật, có vài lời muốn nói cho thiếu phó biết."
"Điện hạ mời nói." Phí Vô Cực sắc mặt âm trầm, vui buồn không hiện lên trên mặt, nhìn không ra tâm ý đích thực của hắn.
"Phí thiếu phó, chúng ta có cùng địch nhân, trong tay Khánh Kỵ hiện tại có ba vạn tinh binh, hơn nữa nếu đối địch với quân Ngô, dựa vào thân phận của Khánh Kỵ cùng uy vọng trong quân Ngô lúc xưa, thiếu phó nên biết Khánh Kỵ sẽ có tác dụng lớn đến thế nào. Nước Sở hiện giờ thật sự không cần hợp tác với Khánh Kỵ sao?
Phí thiếu phó, Nang Ngõa nắm giữ quân sự và chính trị nước Sở hơn mười năm, gây ra rất nhiều thù oán, hiện giờ quân Ngô đánh vào Dĩnh Đô, quân Sở đại bại, ngay cả Sở Vương cũng phải chạy sang nước Tùy tị nạn. Nhìn khắp các nước lớn trong thiên hạ, còn chưa từng có quốc gia nào xảy ra chuyện thủ đô bị đánh phá, quốc quân phải bỏ chạy thảm hại như vậy. Chưa nói tới việc nước Sở sau này làm sao tìm được chỗ đứng trong thiên hạ chư hầu, bây giờ ngay cả những quần thần bên trong nước Sở phải làm sao để ổn định được sự phẫn nộ của quần chúng còn chưa biết. Hết thảy những điều này, hiện giờ còn chưa có thời gian để phân tích kĩ, sau khi Cơ Quang lui binh, đương nhiên sẽ phải tính toán rành mạch.
Nang Ngõa đã chết, thiếu phó nghĩ rằng có thể đổ hết mọi tội lỗi lên đầu Nang Ngõa sao? Đừng quên, thiếu phó cùng Yên Tương Sư, ngày xưa qua lại thân mật với Nang Ngõa, cùng tiến cùng lui, trên dưới nước Sở ai mà chẳng biết? Nếu như thiếu phó không lập được công trong trận chiến đuổi Ngô này, thiếu phó nghĩ rằng sau khi trở về Dĩnh Đô, địa vị của ngài sẽ còn vững chắc như thế này sao? Nhưng mà thiếu phó nếu trong trận chiến này lập công lớn, khi đó mọi người sẽ đều trọng vọng ngài, cũng thay thế vị trí Nang Ngõa, trở thành Sở quốc Lệnh Duẫn, đó là chuyện rất hợp lí lẽ. Khánh Kỵ muốn kết minh với Sở Vương, tất nhiên là cũng có tư tâm, với Sở quốc, với thiếu phó ngài, không phải cũng là một cơ hội hay sao?"
Phí Vô Cực ánh mắt chợt lóe, hồi lâu mới nói: "Nếu muốn kết minh, không phải không thể. Lão phu có năm vấn đề, nếu điện hạ có thể khiến cho lão phu hài lòng, lão phu liền sẽ dốc sức thúc đẩy nước Sở kết minh với điện hạ, cùng chiến đấu với quân Ngô!"
Phí Vô Cực nói: "Cơ Quang ở Dĩnh Đô ta gây nhiều việc ác, phàm là người nước Sở, ai cũng nghiến răng thống hận, các đội quân cần vương từ các nơi đang lần lượt tới rồi, chờ đại quân tập hợp, tất sẽ thề sống chết một trận chiến, đuổi bọn giặc Ngô. Điện hạ cùng người Sở ta cùng chung mối thù, cũng có đại cừu hận với Hạp Lư, có một số việc, ta cũng không cần phải giấu diếm ngài. Thái hậu của quốc vương nước Sở ta là trưởng công chúa của nước Tần, trước khi lão phu bảo hộ Đại vương tới tránh ở Cửu Phượng cốc, đã điều đại phu Thân Bao Tư sang nước Tần cầu viện, nếu nước Tần chịu xuất binh tương trợ, hợp với lực lượng quân Sở, cũng đủ để đuổi đi quân Ngô. Nay lại kết minh với công tử, lại càng thêm nhiều viện trợ, chỉ có điều không biết đại quân của công tử khi nào thì có thể tới Sở quốc?"
Khánh Kỵ thầm nghĩ, Phí Vô Cực nói tin tức hắn sai sứ sang Tần cầu viện binh, là muốn tăng thêm cân lượng, tranh thủ thêm được nhiều lợi ích, chỉ có điều không biết hắn muốn nhiều ít bao nhiêu. Nang Ngõa, Phí Vô Cực, Yên Tương Sư ba người, đều nổi danh lòng tham không đáy, nếu là đòi ưu đãi cho cá nhân thì chẳng sao cả, chỉ sợ là có thêm yêu cầu về đất đai lãnh thổ, thì đó là vô cùng khó xử.
Khánh Kỵ đề khởi tinh thần, cẩn thận nói: "Không dối gạt Phí thiếu phó, Khánh Kỵ trước khi tới đây, cũng đã có chuẩn bị, sớm ấn định cho dù có tương trợ cho nước Sở hay không, đều phải tháng ba năm sau xuất binh phạt Ngô. Nay đã kết minh với nước Sở, ngày xuất binh đương nhiên càng sớm càng tốt, chỉ cần chính thức kí kết minh ước với Sở vương, có được ấn tỷ (đóng dấu) của Sở vương, Khánh Kỵ lập tức sẽ sai người điều binh, trong vòng hai mươi ngày, đại quân tiên phong của ta sẽ tới trước mặt thiếu phó."
" Tốt!" Phí Vô Cực ánh mắt sáng ngời, người Tần có chịu xuất binh hay không, trong lòng hắn thực không nắm chắc, hiện giờ đã có Khánh Kỵ tự mình đưa đến cửa, hắn cũng sẽ không nguyện ý cự tuyệt sự giúp đỡ cường đại này ngoài cửa, hai người đều có mưu mô, hắn lại hỏi: "Hai quân kết minh, kề vai chiến đấu, cũng cần phải có một vài hiệu lệnh thống nhất, cùng tiến cùng lui, thống nhất quản lí. Nếu không có sự chi phối, sẽ không khác gì năm bè bảy mảng. Tới khi... đại quân song phương hội hợp, ai sẽ là chủ soái thống lãnh toàn quân?"
Khánh Kỵ mỉm cười, thong dong đáp: "Khánh Kỵ mang danh vũ dũng, có điều do thân là vương tử Ngô quốc, nên những thủ hạ cứ cố tình thổi phồng ra mà thôi. Còn nữa, một kẻ vũ dũng cũng không nhất định có thể làm Thống soái ba quân, đã tác chiến ở nước Sở, đương nhiên phải lấy quân Sở làm chính. Về phần chọn người nào làm Thống soái ba quân, Khánh Kỵ nghe theo an bài của Sở Vương điện hạ."
Phí Vô Cực âm thầm thở phào nhẹ nhõm, danh vũ dũng của Khánh Kỵ truyền khắp thiên hạ, chính mình xưa nay cũng không sở trường về chính trị, nếu để Khánh Kỵ đảm nhận Thống soái toàn quân, đó cũng là điều mọi người hướng tới, có điều công lao của mình lại vơi đi phân nửa. Hắn muốn nghe theo an bài của Sở Vương, he he... Về phía Sở Vương còn không phải do tự ta định đoạt hay sao.
Nghĩ đến đó, trên khuôn mặt Phí Vô Cực lộ ra vẻ vui vẻ, trước tiên giải quyết ích lợi cá nhân, sau đó hắn mới bắt đầu suy nghĩ chỗ tốt cho nước Sở, trầm ngâm một lát rồi nói: "Đã kết minh, đương nhiên phải cùng tiến cùng lui, trợ giúp lẫn nhau. Chỉ có điều... Một khi đuổi quân Ngô ra khỏi biên giới, quân Sở ta có còn phải nhận nghĩa vụ trợ giúp điện hạ phục quốc không?"
Khánh Kỵ xúc động nói: "Điều này cũng không nhất định, có thể đánh bại quân Ngô, khiến cho danh vọng của Cơ Quang bị đè xuống, mất đi quân uy, đối với Khánh Kỵ mà nói, đã là một sự trợ giúp rất lớn. Nếu có một đội quân nhân nghĩa của nước Sở tương trợ phục quốc, đương nhiên là chuyện tốt cầu còn không được. Có điều trong lòng Khánh Kỵ cũng hiểu được, Ngô Sở bởi vì những năm qua tranh giành đất đai, lẫn nhau có nhiều khúc mắc, trên chiến trường chém giết giữa các sĩ tốt khó tránh khỏi kết thù kết oán, nếu cưỡng ép quân Sở giúp ta phạt Ngô, chỉ sợ các tướng sĩ cũng sẽ không hết mình. Còn nữa, phía Sở nếu chịu cắt quân trợ giúp, chỉ sợ các tiểu quốc phụ thuộc cũng sẽ rục rịch, lại cần đại quân trấn áp, mượn quân Sở mà phục nước Ngô... Khánh Kỵ sẽ không đề ra yêu cầu quá mức này."
"Ồ..." Một khi đuổi được Cơ Quang khỏi biên giới, điều Phí Vô Cực để ý chỉ là giúp Sở Vương về Dĩnh Đô, mượn danh Sở Vương phong thưởng bốn phương, khiến cho những thân tín của mình đều thay thế cho người của Nang Ngõa, từ lão Nhị nhảy lên thành lão Đại, nếm thử hương vị nở mày nở mặt. Giúp Khánh Kỵ phạt Ngô, cũng không có chỗ tốt nào, hắn cũng không muốn bị chuyện này ước thúc, nhỡ đâu chiến trận phạt Ngô kéo dài, chẳng phải cũng sẽ kéo theo mình mắc cùng một chỗ sao. Nếu Khánh Kỵ chỉ cần hắn ở trong biên giới Sở quốc mạnh mẽ đả kích lực lượng của Cơ Quang, vậy thì dễ dàng đồng ý rồi.
Khóe miệng Phí Vô Cực lộ ra một tia cười giả dối, nói: "Bốn đáp án này của điện hạ, rất hợp ý Phí mỗ, vẫn còn một chuyện cuối cùng muốn nói với điện hạ. Ngô Sở hai nước, mỗi bên chiếm cứ một phương, vốn bình an vô sự, chỉ có điều dân cư gia tăng, thành quách mở rộng, đồng ruộng rừng dâu cũng phải theo đó mà mở rộng, vốn ở giữa hai nước có những vùng hoang dã mênh mông không người ở, hiện giờ lại trở thành nơi bị tranh đoạt, thường xuyên xảy ra khiêu khích tranh chấp, chiến sự Ngô Sở hai nước, vốn là từ đó mà ra. Điện hạ nếu phục Ngô quốc, làm quân chủ Ngô quốc, sau này khi thứ dân hai nước lại nổi lên tranh chấp, thân là Ngô quốc Đại vương, điện hạ đương nhiên sẽ vì người nước Ngô mà phân xử, không thể để giữa Ngô và Sở lại nổi lên phân tranh. Hiện giờ điện hạ đã muốn kết minh với Sở quốc ta, chúng ta có nên nhân cơ hội này, phân chia rõ ràng vùng biên giới đang vướng mắc giữa hai nước hay không? Từ nay về sau hai nước hữu hảo, bình an vô sự, chẳng phải tốt sao?"
Khánh Kỵ hơi hơi trầm ngâm, hỏi: "Lời của thiếu phó rất đúng, chỉ có điều... Phân tranh biên giới hai nước đã tồn tại rất lâu, đúng đúng sai sai khó phân biệt, không biết theo thiếu phó thấy, những rừng núi ruộng đất vốn không rõ sở hữu bên nào, phải phân chia như thế nào đây?"
Phí Vô Cực cười nói: "Đang muốn thương lượng với điện hạ."
Hắn rút kiếm ra, lưỡi kiếm chống xuống đất, hơi hơi suy tư một lát, liền nhanh chóng vẽ ra trên mặt đất một bản đồ xen kẽ, Khánh Kỵ thấy bản đồ đó, không khỏi thầm cả kinh, trong ấn tượng của hắn vẫn nghĩ rằng Phí Vô Cực đại gian thần này hoàn toàn là vuốt mông ngựa của Sở Vương và Lệnh Duẫn Nang Ngõa mới có thể có được quyền vị hôm nay, không thể tưởng được người này hóa ra cũng không phải chỉ là một thần tử a dua, hắn nếu không có chí lớn, quyết không thể nhớ được rõ ràng tỉ mỉ địa hình phức tạp của biên giới Ngô Sở như vậy ở trong đầu, Phí Vô Cực này, hóa ra cũng có chút bản lĩnh.
"Điện hạ mời xem, Hà Điền, Đào Hoa Trùng, Vụ Nguyên, Bình Hương..., những khu này, từ trước khi Vũ Vương điện hạ Sở quốc ta xưng vương, vào thời điểm tổ tiên họ Hùng vẫn còn là tử tước, đã có những người dân nước Sở đầu tiên của chúng ta khai hoang làm ruộng nơi đây, thành lập thành trấn, cách nay đã gần năm trăm năm lịch sử. Những địa phương đó, từ xưa đã có người Sở ta sinh sống, cư trú, là một bộ phận không thể phân tách khỏi ranh giới nước Sở, có điều nước Sở ta đối với khu vực này lại không thể tranh cãi được chủ quyền, hy vọng điện hạ sau khi phục quốc, có thể trả những lãnh thổ mà nước Ngô đang giữ lại cho quốc gia của ta, giải quyết những phân tranh nọ kia, Ngô Sở hai nước mới có thể thành hai nước huynh đệ, thiên thu muôn đời, vĩnh viễn kết tình hữu hảo."
Chuyện khác đều có thể đáp ứng, chỉ có chuyện cắt đất chia đất, mặc kệ là lí do đường hoàng đến đâu, cũng tuyệt đối là một kẻ bại gia tử trong mắt tổ tông, kẻ bất lực trong mắt người đương thời. Khánh Kỵ nếu vừa mới phục quốc đã đem những vùng đất phì nhiêu này cho nước Sở, ở trong mắt người Ngô mình chẳng phải là một kẻ tiểu nhân vô sỉ bán đứng giang sơn tổ tông để đổi lấy vinh hoa bản thân hay sao, hắn sao có thể đáp ứng yêu cầu của Phí Vô Cực.
Khánh Kỵ khi đến Sở tranh thủ kết minh, cũng không tránh khỏi có nghĩ qua phải làm một chút hi sinh nhượng bộ, bởi vì có vài nơi, vốn quả thật không thể nói rõ là ranh giới của ai, mặc kệ là khảo chứng kĩ càng đến đâu, cùng lắm cũng chỉ chiếm được một chút thanh danh đạo nghĩa, còn thực tế nắm quyền những nơi đó, vĩnh viễn đều phải dựa vào thực lực quân sự để nói chuyện.
Những khu này trong những năm gần đây song phương tranh đoạt, ngươi tới ta đi, ta tiến ngươi lui, dần dần hình thành một thế lực phân bố kiểu cài răng lược, rất nhiều khu vốn dĩ là do người Sở nắm giữ. Khánh Kỵ hiện giờ không có tấc đất nào thuộc về mình, thực lực hữu hạn, càng thêm lo lắng tình huống thực tế. Muốn trở thành một chính trị gia thành thục, phải suy xét đánh giá về thực lực chân chính của địch thủ, cân nhắc về lâu dài giữa hai bên, toàn bộ ích lợi được mất, mà sẽ không bởi vì một vài câu khẩu hiệu hay hô hào của dân chúng mà đưa ra quyết định trên chính trị. Những tiểu dân này đứng trên góc độ của bọn họ, cũng không biết chân tướng đứng sau màn, chỉ biết dựa vào một bụng khí phách mà nói ba hoa chích choè thôi, cũng chẳng có khả năng làm nên cái gì thực tế. Nhưng mà hiện giờ Sở quốc Dĩnh Đô đã bị quân Ngô chiếm lĩnh, hành động của Cơ Quang gây nên ở Dĩnh Đô, đã kết một mối thù khó giải với người nước Sở, người Sở nhất định phải có một trận chiến với Cơ Quang, dưới tình hình như vậy, Khánh Kỵ đương nhiên sẽ không nhượng bộ quá mức.
Khánh Kỵ lập tức chỉ vào những mảnh đất trên bản đồ mà hai bên vẫn đang đan xen nhau, nói: "Lời ấy của Phí thiếu phó sai rồi, từ cuối triều nhà Thương, Tây Kỳ Chu Thái Vương có con trai cả là Thái Bá, con thứ là Trọng Ung cùng con thứ ba Quý Lịch. Con của Quý Lịch là Cơ Xương, cũng chính là Chu Văn Vương sau này, sớm thông minh trí tuệ, rất được Thái Vương sủng ái. Chu Thái Vương muốn truyền ngôi cho Xương, nhưng mà theo lễ pháp phải truyền ngôi cho con cả, Thái Vương bởi vậy mà buồn bực không vui. Thái Bá sau khi hiểu được ý tứ của phụ thân, liền cùng nhị đệ Trọng Ung lấy cớ đi hái thuốc cho cha cùng nhau đi vào Ngô quốc hiện nay, tự lập cơ nghiệp, thành lập nước cổ Câu Ngô. Sau khi nhà Thương diệt vong, Chu triều thành lập, Vũ Vương phong cháu thứ ba của Thái Bá là Chu Chương làm hầu, sửa quốc hiệu lại thành Ngô.
Mà Sở quốc tiên quân Hùng Dịch, lại là sau khi Chu triều thiên hạ thành lập, sau khi con của Vũ Vương lên kế vị, mới lấy thân phận tử tước tới Kinh Sở lập quốc. Lúc ban đầu lãnh thổ Sở có được không quá trăm dặm, cho đến sau này, mới dần dần lớn mạnh, có được quốc thổ rộng lớn hiện giờ. Ngô quốc ta thời gian thành lập còn sớm hơn Chu triều, dấu chân của người Ngô đã sớm bước qua những khu vực theo như lời Phí thiếu phó vừa nói, nếu truy theo nguồn gốc, những địa phương này toàn bộ đều vốn là của Ngô quốc ta."
Phí Vô Cực không vui nói: "Lời đó của điện hạ không khỏi cưỡng từ đoạt lý, Ngô quốc lập quốc mặc dù sớm, nhưng lúc đó người nước Ngô còn thưa thớt, không có lấy một tòa thành lớn, cái gọi là quốc gia, vào lúc đó cũng chỉ là một vài bộ lạc lớn quần cư trên bình nguyên mà thôi."
"Phí thiếu phó nói thế là sai rồi, nếu đã không được lấy thời gian làm chuẩn, vậy vì vùng đất cổ Tam Miêu này cũng là một vùng hoang dã chưa được khai phá, có phải là nếu Khánh Kỵ mang binh tới đó làm vài cái ruộng núi, chặt mấy cây đại thụ, là có thể cho rằng nó thuộc về Ngô quốc được luôn không?"
Hai người giương thương múa kiếm, tranh tới tranh đi, đều tự rút kiếm chỉ chỉ vẽ vẽ trên bản đồ, đến khi bản đồ đó bị vẽ đến mức bị phá thành mảnh nhỏ khó mà phân biệt, hai người liền đổi sang địa phương khác, Phí Vô Cực lại vẽ ra một bản đồ, hai người liền tiến hành tranh luận kịch liệt về mỗi một khoảng rừng dâu, mỗi một mảnh ruộng tốt, mỗi một tòa thành trấn.
Mặt trời chiều ngả về Tây, những đám mây đỏ hồng lơ lửng nơi chân trời, ánh tịch dương nhàn nhạt chiếu lên hai người trên sườn núi, vẽ ra hai cái bóng trên mặt đất, hai người còn đang bận tranh luận kịch liệt từng tấc đất, chỉ có điều thanh âm cả hai đã có chút khàn khàn.
Hôm sau, thời điểm mặt trời mới mọc, tiếng chim hót chào bình minh mới cất lên, Sở Vương lại tiếp kiến Khánh Kỵ, chính thức ký kết văn kiện kết minh với hắn. Văn kiện này một kiểu hai bản, viết lên lụa trắng, được hai người tự tay kí tên, đóng ấn tỉ của Sở Vương lên. Trong văn kiện viết vô cùng tường tận, những chữ nhỏ chi chít chẳng những viết rõ những quyền lợi, nghĩa vụ, lệ thuộc của song phương khi hợp binh phạt Ngô, cuối cùng còn tỉ mỉ viết rõ Khánh Kỵ một khi phục quốc, sẽ phải phân chia rõ ràng lãnh thổ với nước Sở.
Hôm qua, hai người Khánh Kỵ cùng Phí Vô Cực đối với từng khu đất mà hai nước đang tranh giành, biện luận phản bác về nguồn gốc sâu xa, văn hóa địa phương, kết cấu dân cư, bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh địa lý cùng nhiều phương diện khác, nói đến mức yết hầu khô cong, cuối cùng đạt được ý kiến nhất trí. Đối với những khu này phải tiến hành rõ ràng, theo sự phân chia của hai nước thì khu vực mà hai bên nhận được trên cơ bản là chia đều. Có điều thực tế nước Sở đoạt được nhiều rừng dâu và đồng ruộng hơn, xem như là bồi thường, Phí Vô Cực cũng cắt một vùng lãnh thổ ở phía Tây Nam ráp gianh nước Việt cắt nhường cho nước Ngô.
Khu vực này còn chưa được khai phá, là một vùng rừng rậm nguyên thủy, mà những khu vực rừng dâu, ruộng tốt, theo cách phân chia thì phần lớn đều đem cho nước Sở. Bởi vậy mặc dù diện tích mà hai bên đoạt được là ngang nhau, nhưng mà bên phía Khánh Kỵ đoạt được không phải núi cao thì cũng là hồ nước, những mảnh núi rừng trùng trùng điệp điệp trải dài phía Tây Nam chưa được khai phá, hiển nhiên là rất thiệt thòi, cho nên Phí Vô Cực đắc ý dào dạt, đã liệt việc này vào một đại công trạng sau khi đuổi Cơ Quang đi sẽ xin Sở Vương ban thưởng.
Sau khi song phương kí kết minh ước, Khánh Kỵ lập tức phái người phi ngựa chạy về Vệ quốc điều binh, đồng thời lập ra kế hoạch quân sự tỉ mỉ với Sở Vương, sau đó trở về biên giới nước Sở tiếp ứng cho nhân mã của mình, Sở Vương cũng lập tức ban hạ hơn mười chiếu thư, phái bí sứ phân phó các nơi điều binh.
Khánh Kỵ cũng không vì có được liên hệ với thượng tầng nước Sở mà lạnh nhạt với Phạm Lãi, thậm chí hai ngày này cứ rảnh rỗi là đều ở một chỗ với hắn. Sau yến hội đơn sơ mừng minh ước song phương, Khánh Kỵ quay trở về doanh của Phạm Lãi, nói với hắn về chuyện kết minh với nước Sở hôm nay. Dẫn binh tới cần vương, cho tới nay cũng chưa được Sở Vương tuyên chiếu tiếp kiến nên Phạm Lãi cũng không có tư cách tham gia những hội nghị trọng yếu như vậy, mãi tới khi Khánh Kỵ nói ra, Phạm Lãi mới biết được Sở Vương đã kết minh với Khánh Kỵ, không khỏi vui mừng khôn xiết. Nhưng mà khi nghe Khánh Kỵ nói đến chi tiết minh ước, Phạm Lãi lại trầm xuống trong lòng, có một chút suy nghĩ nổi lên.
Đối với minh ước hợp binh ở phần trước, Phạm Lãi cũng không có ý kiến, nhưng mà đối với một đoạn cuối cùng, song phương phân chia rõ ràng biên giới, lại khiến cho Phạm Lãi âm thầm cảnh tỉnh. Những khu vực Ngô quốc tiếp nhận, đều là những cửa ải hiểm yếu thủy bộ, lại chẳng chiếm một chút tiện nghi nào về canh nông, nhưng mà trên mặt quân sự, một khi hai nước phát sinh xung đột, cũng là những khu vực hiểm yếu mà một ngàn binh có thể ngăn cản cả vạn binh.
Và mảnh đất cằn cỗi sỏi đá mà Sở quốc cắt ra cho Ngô quốc nhìn thì như hẻo lánh, cũng không có nhiều giá trị trồng trọt khai phá, nhưng đó lại là một thông đạo trọng yếu nối liền Sở Việt, về mặt quân sự có ý nghĩa trọng đại, thế lực Ngô quốc một khi mở rộng đến tận đây, sẽ có thể nắm gần như một nửa Việt quốc trong lòng bàn tay, mặc dù vẫn lưu lại cho Sở Việt một con đường eo hẹp, nhưng lúc nào cũng có thể phái binh phong kín.
Khánh Kỵ chính là bị Phí Vô Cực uy hiếp bức bách mới phải nhận, hay là còn có dụng ý gì khác? Dụng ý khác đó, là tính cho Ngô quốc hay Sở quốc? Hiện giờ hắn vẫn còn là một công tử lưu vong, Ngô quốc còn chưa nắm giữ trong tay, hắn đã tính toán lâu dài như vậy sao?
Phạm Lãi càng nghĩ càng cảm thấy kinh hãi, đến lúc Khánh Kỵ nói xong cảm giác không chịu nổi chếnh choáng, ngã luôn vào cái giường được làm bằng gỗ tùng của hắn, hơi hơi phát ra tiếng ngáy, Phạm Lãi mới khiếp hãi thanh tỉnh, bàn tay hơi nắm chặt lại, chạy ra ngoài hướng chỗ núi cao đi tới.
Tiếng ngáy của Khánh Kỵ hơi hơi ngưng lại, con mắt nhẹ nhàng mở ra, hơi hơi lóe sáng, sau đó tiếng ngáy lại càng trở nên vang dội.
"Là Khánh Kỵ chính mồm nói cho ngươi nghe?"
"Vâng!"
"Lão phu nghe nói, Khánh Kỵ sau khi gặp được Văn Chủng, bàn về tình thế nước Sở ta hiện giờ, từng đề nghị các ngươi sang các nước khác mượn binh, Văn Chủng đã đi nước Tống mượn binh rồi à?"
"Vâng!"
"Hắc, Phạm Lãi à, Khánh Kỵ mặc dù là vương tử tôn quý, lão phu lại thấy hắn đối đãi đặc biệt với ngươi, không bởi vì chức vị ngươi thấp kém mà khinh mạn, ngươi và hắn ở một chỗ rất hòa hợp a."
"Vâng, nhưng thần dù sao cũng là thần tử nước Sở, mặc dù quan hệ cá nhân có chút thân cận, nhưng đề cập đến đại sự nước Sở, hạ quan cũng có chút suy nghĩ, không dám không nói."
"Ha ha ha ha..." Phí Vô Cực ngửa mặt lên trời cười to: "Phạm Lãi à Phạm Lãi, Văn Chủng lần này đi nước Tống, nếu có thể cầu được cứu binh, đó là một công lao to lớn. Ngươi vốn gặp Khánh Kỵ trước, là oán hận hắn đưa công lớn này cho Văn Chủng, không cho ngươi thu hoạch được gì sao?"
Phạm Lãi ngẩn ra, lập tức vẻ giận dữ đầy mặt: "Thiếu phó đại nhân sao lại nói thế, Phạm Lãi một mảnh công tâm, Khánh Kỵ dù rằng chưa có ý gây bất lợi cho nước Sở, nhưng vẫn phải có đề phòng."
Phí Vô Cực cười lạnh một tiếng, tay vuốt chòm râu trách mắng: "Như vậy theo ý của ngươi, lão phu nên đem rừng dâu ruộng tốt cắt cho Khánh Kỵ, lưu lại cho nước Sở ta một mảnh đất hoang núi vắng phải không? Thật sự là vớ vẩn! Ngô Việt ngay cả khi có phát sinh chiến sự thì đã làm sao? Hắc, bọn họ chinh chiến lẫn nhau, tiêu hao thực lực lẫn nhau, có lợi vô cùng lớn với nước Sở ta, những nơi hiểm yếu này cắt đi, nước Ngô ngay cả có muốn dựa vào, cũng chỉ có thể dùng để phòng thủ, chứ sao gây được trở ngại cho nước Sở ta? Quân tử lòng dạ rộng rãi, người trẻ tuổi, ngươi giỏi tâm kế như vậy, sợ rằng cũng không phải là chuyện tốt."
Phạm Lãi bị hắn nói một hồi đến mức tức giận sắc mặt tái mét đi, hắn chắp tay còn muốn nói nữa, Phí Vô Cực đã phất tay áo nói: "Tốt lắm, ngươi lui ra đi, việc này lão phu đương nhiên đã biết rồi, lão phu trong lòng đều đã lập kế hoạch, chớ nói nhiều lời nữa."
Phạm Lãi một câu lại bị nghẹn trở lại, hắn nhẫn nại đáp ứng, chắp tay rời khỏi trướng đi ra, ở ngoài trướng ngây ngốc đứng một lúc lâu, yếu ớt thở dài, lúc này mới bước rời đi.
Lúc này, ở trong thành Dĩnh Đô tình hình của Ngô Vương Hạp Lư cũng không có dễ chịu. Cơ Quang đối với nước Sở từ đáy lòng cũng không có sinh ra dã tâm, hắn chỉ nghĩ ở Dĩnh Đô làm mưa làm gió một phen, làm cho các thiên hạ chư hầu phải kinh sợ, đặt ra nền móng vững chắc cho hắn. Nhưng mà hai đại trọng thần Ngũ Tử Tư và Bá bên cạnh hắn, đều có mối thù diệt môn diệt gia với Sở Vương, Ngũ Tử Tư một lòng báo thù, cơ hồ vì báo thù mà phát cuồng, bình thường là một người rất khôn khéo, một khi nói đến báo thù, liền mất đi lí trí, như điên như cuồng. Bá lí trí hơn hắn một chút, nhưng Bá lại quá lí trí, tất cả hành vi đều lấy động cơ từ ích lợi cá nhân, chỉ biết lấy lòng, thuận theo Hạp Lư, lại càng không dám làm điều gì trái với quan điểm của hắn, cho nên ba người quân thần, những chuyện gây ra ở Dĩnh Đô có chút không hợp lòng người.
Lúc trước khi bọn họ đánh vào Dĩnh Đô, một đường thế như chẻ tre, quân đội nước Sở buông lỏng, dân chúng khoanh tay đứng nhìn, nhưng khi bọn hắn ở Dĩnh Đô gần nửa tháng, bất tri bất giác đã gây ra cho chính mình vô số địch nhân. Toàn bộ dân chúng Dĩnh Đô đều trở thành binh lính, quân Ngô rơi vào một trận chiến cuồn cuộn của nhân dân nước Sở.
Quân Ngô hành vi tàn bạo, sự phản kháng của người Sở lại càng mãnh liệt. Thậm chí có dũng sĩ nước Sở lợi dụng quen thuộc địa hình, tìm kiếm chỗ ở của Hạp Lư, muốn ám sát Hạp Lư, đến nỗi có một buổi chiều Hạp Lư tới mấy lần bị thích khách quấy rối, một đêm phải thay đổi chỗ ở an toàn tới năm lần. Sáng sớm hôm sau, Hạp Lư phái người đem tất cả những người Sở hắn cho rằng khả nghi ra xử tử cả đám, cuộc hành quyết đầy máu tanh khiến cho người nước Sở càng thêm mãnh liệt trả thù.
Người nước Sở nổi lên tranh đấu với quân Ngô, không có tướng lĩnh chỉ huy, liền tự đưa một người phụ trách thao luyện lên làm chỉ huy, ở chung quanh Dĩnh Đô thành lập một nhóm dân binh vũ trang quy mô nhỏ, công bố "Liều chết đánh lùi quân Ngô, khôi phục nước Sở." Đến nỗi người Ngô từ lớn nhỏ đến cả con ngựa cũng không dám ra ngoài đi lại.
Đúng vào lúc này, quân Ngô bố phòng ở chỗ hiểm yếu ngoài Dĩnh Đô lại bắt được một bí sứ được Sở Vương phái đi để triệu tập đội quân cần vương, biết được hành động triệu tập đội quân cần vương của Sở Vương, cùng với việc người Sở kết minh với Khánh Kỵ, lại thêm tin tức Sở Vương phái người sang nước Tần, nước Tống mượn binh, Ngũ Tử Tư lập tức ý thức được nguy cơ trong đó, lập tức vội vàng vào cung gặp Hạp Lư.
Hạp Lư đang ở trong Sở Vương cung ôm eo nhỏ của Sở nữ thưởng thức ca múa, Sở Vương cung vốn nguy nga tráng lệ giờ thành một đống bừa bãi, trong Sở Vương cung từ vàng bạc đồng cho đến tơ lụa tinh mỹ, ngay cả tài vật của công khanh đại phu, phú thương cường hào, thậm chí cả cành gai để làm tên, có thể cướp đều cướp, có thể chặt đều chặt, đóng gói cho vào trong xe chở về nước Ngô.
Những xe vận chuyển tài phú của nước Sở nối liền không dứt, hơn mười mấy ngày gần đây không ngày nào dừng, thậm chí trưng dụng cả xa mã của những người trong Dĩnh Đô mà cho đến giờ vẫn vận chuyển chưa xong. Những thứ chưa được vận chuyển, đều được gỡ ra đóng gói lại, tất cả chất đống một chỗ cho người trông giữ, chờ đợi áp tải về Ngô.
Vừa thấy Ngũ Tử Tư vào cung, Hạp Lư cười to nói: "Tướng quốc tới thật đúng lúc, mỹ nữ nước Sở xinh đẹp muôn vẻ, cũng không xinh đẹp hơn trong Sở Vương cung. Vài mỹ nữ này kỹ thuật nhảy quá duyên dáng, quả nhân ban thưởng các nàng cho tướng quốc, lát nữa mang theo hồi phủ mà tận tình hưởng dụng.
Ngũ Tử Tư nghiêm nghị nói: "Thần có chuyện quan trọng muốn bẩm tấu, xin Đại vương cho lui tả hữu."
Hạp Lư nao nao, thấy thần sắc của hắn nghiêm túc, liền theo lời khoát tay, cho lui cung nữ, nhạc công, trên đại điện nhất thời trở nên yên tĩnh, trong cung điện Sở Vương đã bị cướp chẳng còn gì lập tức có một vẻ trống trải.
Ngũ Tử Tư mang những tin tức tình báo hắn nhận được vội nói cho Hạp Lư, Hạp Lư nghe thấy vậy thì cũng không khỏi biến sắc, cả kinh nói: "Không thể tưởng được người Sở phản ứng nhanh chóng như vậy, Khánh Kỵ lại thừa dịp này nhảy vào, kẻ này, đúng là họa lớn trong lòng quả nhân, Ngũ tướng quốc, theo như ngươi thấy, quả nhân hiện giờ nên làm thế nào?"
Ngũ Tử Tư nghiêm nghị nói: "Trên đường đến đây, Ngũ Viên đã cẩn thận suy xét qua, theo như thần thấy, có hai lựa chọn."
"Mau nói."
"Một, quân Ngô ta lập tức lui về nước, thì Tần chắc chắn sẽ không phát binh, mà kết minh của nước Sở với Khánh Kỵ tám chín phần mười sẽ thất bại. Nước Sở bại trận, tuy hận nước Ngô ta đến tận xương tủy, nhưng cũng sẽ không tùy tiện phát binh phạt Ngô. Hai, nước Ngô ta cũng phái đi tín sứ, liên lạc với những quốc gia hữu hảo có cùng lợi ích, khắc chế viện binh của người Sở."
Hạp Lư trầm ngâm nói: "Biện pháp thứ nhất tuy rằng ổn thỏa, tuy nhiên vừa nghe thấy người Sở cầu cứu binh, quân Ngô ta đã lập tức lui về nước, như thế sao có thể gây uy danh với các nước khác, ngày sau sao có thể tranh hùng với các chư hầu? Theo biện pháp thứ hai của ngươi... nếu người Tần, người Tống, hơn nữa còn có cả Khánh Kỵ ký kết liên minh với người Sở, làm gì còn quốc gia nào có năng lực mà chống lại nữa?"
Ngũ Tử Tư thản nhiên cười, nói: "Việc này cũng không khó, người Tần muốn xuất quan tranh đoạt thiên hạ, lại bị người Tấn cản trở lối đi, người Tấn muốn Đông tiến tranh đoạt Trung Nguyên, lại vì sợ bị người Tần đâm vào lưng mà không dám vọng động. Hiện giờ người Tần muốn giúp người Sở, một khi thành công, thì sẽ mở ra một con đường thứ hai ven lưu vực Trường Giang, nếu kết minh với Sở, ký kết hữu hảo, hành động này sẽ gây ra bất lợi to lớn cho nước Tấn. Nếu cho một người có khả năng ăn nói tốt sang nước Tấn giải thích lợi hại, người Tấn đương nhiên sẽ đáp ứng xuất binh trợ chiến. Nước Tấn là nước lớn ở phương Tây, những tiểu quốc phụ thuộc có vô số, một khi tham chiến, trợ lực này không phải là nhỏ.
Ngoài ra, còn có đại quốc Tề quốc ở phương Đông, người nước Tề dã tâm bừng bừng, cũng có tâm muốn khuếch trương, tuy nhiên tiến về phía Bắc là vùng biên cương hoang vu, về phía Tây là một nước Vệ nho nhỏ làm trung gian, sau đó là nước Tấn, hai bên kiêng kị lẫn nhau, lấy nước Vệ làm hòa hoãn, cũng không có phát sinh xung đột. Nếu muốn tiến về phương Nam thì lại có cơ hội, phía Nam nước Tề ngoại trừ nước Ngô ta, thì còn có một bộ lạc Đông Di. Bộ lạc này vẫn chưa lập quốc, khu vực rộng lớn, vẫn là một khối thịt béo trong mắt người Tề, chỉ có điều người Tề sợ khi quân Tề đi xuống phía Nam, thì nước Lỗ, Từ, cùng nước Ngô ta sẽ kết minh phản kháng, cho nên chậm trễ không đưa ra hành động. Nếu chúng ta đáp ứng trợ giúp nước Tề thu hoạch vùng đất của Đông Di, người Tề tham lợi, cũng sẽ xuất binh. Nước Tề là nước lớn ở phương Đông, nếu như vậy, sẽ có Tề Tấn hai nước tương trợ, đủ để triệt tiêu lực lượng liên bang của người nước Sở."
Hạp Lư hai hàng lông mày nhíu lại, nói: "Tề Tấn đều là nước lớn, đều có vô số nước nhỏ phụ thuộc, bọn họ một khi tham chiến, toàn bộ thiên hạ sợ rằng đều sẽ chiến hỏa hừng hực."
Ngũ Tử Tư mỉm cười nói: "Vậy thì có sao? Nước Ngô ta chếch về Đông Nam, thiên hạ chư hầu đều là tranh đoạt vùng đất phì nhiêu ở Trung Nguyên, sẽ không đem nước Ngô ta làm mục tiêu. Nước Ngô ta hiện giờ cũng chưa có đủ thực lực để lên tới đỉnh thiên hạ, Trung Nguyên không loạn, Đại vương muốn mưu đồ trở thành bá chủ thiên hạ, vậy thì phải mất hơn mười năm khôi phục nguyên khí. Có điều, nếu chư hầu Trung Nguyên hỗn chiến không ngớt, đó chính là lúc cơ hội của nước Ngô ta tới."
Hạp Lư nhướng hai hàng lông mày, lập tức giãn mặt ra cười to: "Tướng quốc quả có diệu kế, thiên hạ chiến hỏa hừng hực, chính là cơ hội cho nước Ngô ta, ha ha... Tốt! Cứ theo lời tướng quốc nói, lập tức sai sứ, kết minh với Tề Tấn, mời phát binh trợ chiến."
Ngũ Tử Tư mỉm cười nói: "Vậy thì có sao? Nước Ngô ta chếch về Đông Nam, thiên hạ chư hầu đều là tranh đoạt vùng đất phì nhiêu ở Trung Nguyên, sẽ không đem nước Ngô ta làm mục tiêu. Nước Ngô ta hiện giờ cũng chưa có đủ thực lực để lên tới đỉnh thiên hạ, Trung Nguyên không loạn, Đại vương muốn mưu đồ trở thành bá chủ thiên hạ, vậy thì phải mất hơn mười năm khôi phục nguyên khí. Có điều, nếu chư hầu Trung Nguyên hỗn chiến không ngớt, đó chính là lúc cơ hội của nước Ngô ta tới."
Hạp Lư nhướng hai hàng lông mày, lập tức giãn mặt ra cười to: "Tướng quốc quả có diệu kế, thiên hạ chiến hỏa hừng hực, chính là cơ hội cho nước Ngô ta, ha ha... Tốt! Cứ theo lời tướng quốc nói, lập tức sai sứ, kết minh với Tề Tấn, mời phát binh trợ chiến."
Ở trên vọng gác Bách Thành, Khánh Kỵ đứng hiên ngang một chỗ, nheo mắt nhìn về phía xa. Gió từ hướng Bắc tới, cuốn theo những bông tuyết bay đầy trời, cơn gió mạnh thổi chiếc áo khoác tung bay phần phật. Theo đúng như lộ trình đã dự tính thì nhân mã của hắn sẽ tới đây sau mấy ngày nữa.
- Chắc Tần quốc sẽ xuất binh...
Dù cho gió bên ngoài thổi lạnh thấu xương, nhưng Khánh Kỵ cũng không một chút bận tâm tới, hắn đứng ở trên thành, mang theo những suy nghĩ đang trôi bồng bềnh trên không. Đứng từ chỗ cao nhất quan sát sự biến động chính cục của toàn bộ Xuân Thu đại địa, đã đưa ra phán đoán này.
Từ khi Khuyển Nhung công phá Hạo Kinh, Chu U Vương Cơ Cung Tinh bị giết, Chu Bình Vương Cơ Nghi Cữu dời đô tới Lạc Ấp đến nay, cục diện thiên hạ trước đây nằm trong sự kiểm soát của Chu thiên tử đã dần dần được thay đổi, dẫn đến ngày này hai trăm năm sau - tức là hôm nay, từ từ hình thành nên hai tập đoàn thế lực: Tập đoàn Trường Giang và tập đoàn Hoàng Hà.
Tập đoàn Trường Giang do Sở Quốc đứng đầu, tập đoàn Hoàng Hà do Tấn quốc đứng đầu. Sở quốc tự lập vương hiệu, khinh rẻ sự thống trị của Chu thiên tử, Sở Trang Vương từng hỏi qua Chu thiên tử về Cửu Đỉnh*, thực sự dã tâm đã rõ rành rành. Còn Tấn quốc tuy có ý đồ tranh bá, là một chư hầu dòng giống họ Cơ, ngoài mặt thì vẫn duy trì Chu triều chính thống, đồng thời, do sự kỳ thị giữa các địa vực và xung đột về lợi ích với nhau, bọn họ đã nâng cao ngọn cờ bảo vệ Vương quyền, tự coi mình là những người hộ vệ cho Chu thiên tử.
(Chú thích: Cửu Đỉnh: tượng trưng cho quyền lực bá chủ)
Kỳ thực từ khi Tề Hoàn Công tạo khối liên minh chư hầu, tôn vương nhương di (tôn sùng giai cấp thống trị, bài xích ngoại bang), các nước ở phương Nam do nước Sở cầm đầu đã cùng với các nước bảo vệ thiên hạ Chu thị ở phương Bắc bắt đầu tiến hành liên tiếp các cuộc chinh phạt lẫn nhau, đến nay chỉ là Tấn thay thế Tề mà thôi.
Khi thiên hạ đang dồn hết sự chú ý vào cuộc chiến tranh tàn khốc giữa hai tập đoàn thế lực đó, thì Tần quốc ở Quan Trung đang lớn mạnh từng ngày. Thời gian từ khi thành lập Tần quốc rất ngắn, vị quốc quân đương nhiệm đầu tiên của họ vốn chỉ là một thủ lĩnh của bộ lạc nhỏ, do có công trong việc hộ tống Chu Bình Vương dời đô, được thụ phong làm chư hầu, cai trị một dải đất màu mỡ ở Quan Trung mà trước đây Vương đô của Chu thất đã tọa lạc, tính cho đến nay thì thời gian lập quốc vẫn chưa vượt quá hai trăm năm.
Thế nhưng trong suốt hai trăm năm nay, Tần quốc với lợi thế đất đai phì nhiêu màu mỡ vốn có của mình, chiến tranh ở Trung Nguyên hầu như không hề gây tổn hại tới thực lực của Tần quốc, dần dần họ trở thành một lực lượng lớn mạnh không dễ coi thường. Chỉ có điều, lực lượng hiện tại của họ vẫn chưa đủ lớn mạnh để có thể khiêu chiến với một nước lớn như Tấn quốc, cho nên họ cần phải duy trì sự cân bằng về thế lực giữa hai miền Nam Bắc, có như vậy thì Tần quốc mới có thể thu được lợi từ tình hình như vậy, tiếp tục trau dồi tích lũy lực lượng.
Trong những kiến thức lịch sử có hạn của Khánh Kỵ, hắn không nhớ được rằng khi Ngô quốc phạt Sở thì Tần quốc có phát binh đi tương trợ hay không. Hắn chỉ là kết hợp kiến thức hiểu biết của hai con người trong hắn, dựa theo tình hình thiên hạ hiện tại để đưa ra phán đoán như vậy. Hắn tin rằng, những lợi hại được mất trong đó, người Tần không thể nào không có một kẻ sĩ có tri thức không nhận ra được điều đó. Cho nên cuối cùng người Tần xuất binh cũng là điều tất nhiên.
Tần quốc Ung thành, cửa chính cung thành, các đại phu đang nối gót nhau đi vào trong.
Khi bọn họ bước qua cửa cung, đôi mắt đều không tự chủ được mà nhìn về bức tường cung phía bên cạnh, sát bức tường là một người tầm tuổi trung niên tóc tai rối bù, quần áo rách nát, trên đầu của hắn vẫn còn đeo một chiếc mũ quan của đại biểu sĩ đại phu, thế nhưng chiếc mũ đó cũng chẳng còn nguyên vẹn.
Thân hình hắn lảo đảo như muốn ngã, sắc mặt tiều tụy, mặt mũi tím tái, đôi môi nứt nẻ, hơi rơm rớm vết máu. Cặp mắt kia của hắn tăm tối vô cùng, không chút linh hoạt, thế nhưng hắn vẫn đang dùng âm điệu khàn khàn lẩm bẩm gì đó, không ai nghe thấy rõ điều hắn nói là gì.
Trông thấy hắn như vậy, ai ai cũng không khỏi động lòng trắc ẩn, dưới bức tường cung thành của Tần quân đương nhiên không cho phép ăn mày đứng, thế nhưng tên ăn mày này có đôi chút khác biệt, thứ hắn cầu xin không phải là lúa gạo, mà là viện trợ quân sự, điều đó đương nhiên là không giống với ăn mày bình thường. Người này chính là Thân Bao Tư, người được phụng lệnh đến Tần quốc cầu xin viện binh.
Lúc đầu khi mới đến Tần quốc, hắn cứ nghĩ rằng chắc chắn sẽ xin được viện binh từ Tần quốc, lúc bước lên Tần cung đại điện, trước mặt đông đảo công khanh triều đình vội vã nói rõ lý do đến Tần lần này của hắn cho Tần quân nghe, hắn nói:
- Ngô quốc Hạp Lư công phá Dĩnh đô, Sở vương tị nạn ở Tùy quốc. Hai nước Tần Sở vốn có quan hệ tốt đẹp với nhau, đương kim Sở thái hậu là bào muội (em ruột) của Tần quân, đương kim Sở vương là cháu ngoại của Tần quân, Tần Sở vốn là người cùng một nhà, bây giờ Sở quốc gặp nạn, vội đến Tần quốc cầu xin viện binh, khấn thỉnh Tần quân cứu Sở trong lúc nguy nan.
Nào ngờ Tần quân có dã tâm của hắn, thầm nghĩ rằng với sức mạnh của Ngô quốc, cho dù diệt được Sở quốc, cũng không thể đủ binh lực chiếm lĩnh lãnh thổ Sở quốc rộng lớn, đến lúc đó phát binh báo thù cho bào muội, vừa hay có thể thừa cơ bành trướng về Đông, chiếm lĩnh vùng đất Sở quốc núi cao sông dài. Một nữ tử nhỏ bé, dù là bào muội, nhưng hy sinh cho lợi ích của cả một quốc gia là Tần quốc thì cũng đáng, cho nên Tần quân không vội ra quyết định, lấy lệ bảo Thân Bao Tư tạm thời nghỉ ngơi ở dịch quán, để cho quân thần Tần quốc thương nghị một phen.
Thân Bao Tư luôn miệng khẩn cầu, Tần quốc quân chỉ đáp cho có lệ, Thân Bao Tư bất đắc dĩ, không muốn về dịch quán nghỉ ngơi, mà đứng bên ngoài dựa vào bức tường cung điện Tần quốc, không ăn không uống, tuyệt thực để tỏ rõ ý chí, từ sáng đến tối than khóc cầu xin, thời đó cung điện để cho chư hầu nghị triều không lớn lắm, Thân Bao Tư ở bên ngoài cung vừa khóc vừa la hét, ở trong đại điện nghe rõ mồn một, rên la van nài đến nỗi chẳng ai được yên ổn.
Thân Bao Tư và Ngũ Tử Tư đều là những người bạn tri giao hồi còn là thần Sở, hai người đều có một loại tính cách cứng cỏi, đó là không đạt được mục đích thì quyết không bỏ cuộc. Cứ như vậy suốt ba ngày, Thân Bao Tư không ăn không uống, đã khàn cả giọng, nhưng vẫn đứng trước bức tường cung điện Tần quốc, dường như có ý muốn tuyệt thực mà chết, động thái này của hắn khiến cho rất nhiều đại phu Tần quốc động lòng trắc ẩn, thầm đồng tình với hắn.
Tần quân thấy hắn không biết điều như vậy, trong lòng cảm thấy rất bực bội, gần như đã mất hết kiên nhẫn. Vào thời đó công khanh cứ mười ngày thì được miễn thượng triều một ngày, Tần quân vì muốn tránh mặt Thân Bao Tư, cho công khanh đại thần nghỉ một mạch ba ngày liền, mong chờ đến khi Thân Bao Tư chết bên ngoài cung mới thôi. Không ngờ được rằng tính mạng của Thân Bao Tư lại dai dẳng thần kỳ như thế, hôm nay, ba ngày nghỉ phép đã qua, quần thần thượng triều, đến lúc này Thân Bao Tư đã đứng bên ngoài cung ròng rã bảy ngày bảy đêm, không ăn không uống, không ngủ không nghỉ, thế mà vẫn chưa chết. Toàn bộ thần tử Tần quốc ai cũng phải cảm động, rất nhiều đại thần đã quyết định trong buổi thượng triều hôm nay sẽ nói đỡ cho Thân Bao Tư, khấn thỉnh Tần quốc xuất binh giúp Sở.
Không ngờ, chúng thần vào điện, Tần quân ngồi xuống đã mở miệng nói luôn:
- Ngô vương phạt Sở, vốn không phải là chiến tranh chính nghĩa. Tần Sở vốn là anh em, đương nhiên cần phải tương trợ lẫn nhau. Quả nhân thấy Thân Bao Tư trung nghĩa mà cảm động, quyết định phát binh cứu Sở, điều động chiến xa năm trăm chiếc, tinh binh bốn vạn người, do Tử Bồ, Tử Hổ làm tướng dẫn đầu, ra khỏi Vũ Quan, tới Sở quốc, thảo phạt quân Ngô.
Quần thần nghe vậy thì bàn tán xôn xao, sau đó nhất tề tiến lên lạy dài, cao giọng tán thán:
- Quốc quân nhân đức, chúng thần ủng hộ!
Tần quân và đại tướng Tử Bồ liếc nhìn nhau, vuốt râu mỉm cười không thôi. Tần quân cuối cùng đưa ra quyết định xuất binh, tuyệt đối không phải là do cảm động với những hành động trung nghĩa của Thân Bao Tư, mà đó là kết quả của việc cân nhắc lợi hại trong buổi thương nghị suốt mấy ngày của mấy vị quần thần tâm phúc với Tần quân.
Hơn ba mươi năm trước, hai nước Tấn Sở và một số nước chư hầu khác tiến hành "Chấm dứt binh đao, tụ hội kết minh" tại Tống quốc. Tấn Sở đại diện cho tập đoàn thế lực của hai miền Nam Bắc ký kết hiệp ước thành lập liên minh, đưa ra quyết định rằng ngoại trừ hai nước lớn là Tề, Tần ra thì toàn bộ các nước khác đều phải đồng thời triều cống cho hai nước Tấn Sở.
Từ đó đã nâng hai nước Tấn Sở lên vị trí đỉnh cao trong các chư hầu thiên hạ, trở thành bá chủ thiên hạ. Thực lực của Tần quốc và Tề quốc chỉ kém hơn đôi chút so với Tấn Sở, không bị hệ lụy bởi những hư danh kia, suốt ba mươi năm nay bế quan phát triển, quốc gia thái bình, sức mạnh đất nước ngày càng mạnh mẽ. Quân thần Tần quốc đã được nếm trải những mùi vị ngọt ngào như vậy.
Trải qua nhiều lần cân nhắc kỹ lưỡng, các vị trọng thần trong Tần triều cho rằng, quân Ngô tuy mạnh, nhưng sức mạnh tổng hợp của quốc gia suy cho cùng thì vẫn chưa đủ hùng hậu. Ngô Sở cùng tồn tại so với Ngô tồn Sở vong sẽ có lợi hơn trong việc tiết chế trục hoành ngăn không cho thế lực Tấn quốc ở phương Bắc Nam hạ (đi về phía Nam). Nếu như Sở quốc bị diệt vong mà dẫn đến việc lực lượng Bắc Nam mất hoành, như vậy thì Tấn quốc sẽ mạnh lên rất nhiều. Điều này đối với một quốc gia mong muốn lực lượng Nam Bắc cân bằng để có thêm thời gian và cơ hội tích lũy phát triển như Tần quốc mà nói thì cực kỳ bất lợi.
Hiện tại nếu như chiếm lĩnh một phần lãnh thổ của người Sở, thì kết quả sẽ là việc đơn độc phải gánh chịu sự bức bách của cường quốc tới từ phương Bắc là Tấn quốc, như vậy đối với lợi ích lâu dài của Tần mà nói, còn lâu mới bằng việc đưa Sở quốc lên trước làm lá chắn, còn bản thân Tần quốc thì bế quan tự thủ, nghỉ ngơi lấy sức, tích lũy quốc lực. Tần quân biết nghe lời phải, nghe mấy vị đại thần phân tích một hồi thì rất hài lòng, thế là cuối cùng đã đưa ra mệnh lệnh xuất binh cứu Sở.
Thân Bao Tư lúc này còn thoi thóp chút hơi tàn được đưa vào Tần cung, nghe được tin tức đó thì vô cùng mừng rỡ, liền dùng lễ trọng, khấu đầu ba lượt, Thân Bao Tư như quên hết tất cả, vùng vẫy lăn lộn quỳ mọp xuống dưới đất, khấu đầu tiếp chín lần để tạ ơn Tần quân, sau đó cơ thể rã rời, chìm vào hôn mê, được cấp tốc đưa vào dịch quán nghỉ ngơi tĩnh dưỡng lấy lại sức.
Tần quốc Ung Thành, hai vị đại tướng quân Tử Bồ, Từ Hổ bắt đầu điều phối lương thực, chiêu mộ quân sĩ, chuẩn bị xuất binh cứu Sở. Động tĩnh lớn như vậy đương nhiên khó có thể che được tai mắt của người khác, vùng Ung Thành đang gõ trống khua chiêng để chuẩn bị, những gian tế của Tấn quốc được cài cắm ở kinh đô nước Tần đều đã nhận được thông tin, thám báo không quản ngày đêm chạy về Dực Thành Tấn quốc báo tin, mặc cho ngoài trời đầy mưa giông bão tuyết cũng phải đem tin tức giao tới tận tay Tấn hầu Cơ Khí Tật...
Thiên hạ, lại sắp rơi vào cuộc đại loạn...
Cơn gió lạnh cuốn theo những bông hoa tuyết, thổi mạnh đến nỗi những chiếc đại kỳ trong thành đều không ngừng tung bay. Khánh Kỵ nhìn về phía Tây Bắc, từ đây nhìn về nơi đó trải dài cả vạn dặm, đang có hơn mười vạn đại quân Sở quốc đóng quân, đạo quân này dùng để phòng bị Tấn quốc xâm lược, thế nhưng người Tấn Nam hạ, chưa hẳn đã chỉ có duy nhất con đường này, chỉ có điều nếu chọn việc đi đường lớn, bắt buộc sẽ phải đi xuyên qua rất nhiều nước chư hầu, nếu vậy thì đám nước chư hầu kia sẽ đương nhiên phải đưa ra quyết định, lập trường, cuối cùng đem càng ngày càng nhiều các quốc gia bị cuốn vào trong vòng chiến loạn.
Nghĩ tới đây, khóe miệng Khánh Kỵ bỗng nở nụ cười.
Để cổ vũ sĩ khí quân tâm, Phí Vô Cực đã công bố ra bên ngoài chuyện sứ giả đi tới Tần quốc xin viện binh, còn có cả việc Văn Chủng đi Tống quốc cầu viện, chỉ có điều là hắn trơ trẽn nói rằng những việc đó đều xuất phát từ chủ ý của hắn mà ra, lấy đó để cho thấy sự sáng suốt biết rõ tiên cơ của hắn.
Điều này đem lại cơ hội cho Khánh Kỵ, một thủ hạ tâm phúc của hắn theo đuôi một vị tín sứ nước Sở, rồi giả mạo làm một tiều phu mật báo lĩnh thưởng, tố giác vị tín sứ kia, khiến hắn bị người nước Ngô bắt được, từ đó Ngũ Tử Tư đã nắm được tin tức này, làm cho Cơ Quang cũng có sự phòng bị từ trước.
Khánh Kỵ hiểu rõ tính khí của vị vương thúc đó của mình, càng hiểu rõ rằng Ngũ Tử Tư quyết không chấp nhận tỏ ra yếu thế trước mặt người Sở, lựa chọn của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư chỉ còn là lấy "gậy ông đập lưng ông", cũng mượn binh của các nước chư hầu khác, chỉ có như vậy thì mới có thể đạt được mục đích của hắn.
Nếu không, đợi đến khi quân đội Sở quốc cần vương tụ hội, xông thẳng tới Dĩnh Đô, Cơ Quang nghe được tin bất ngờ, lại hai ba vạn tinh binh của hắn cũng tham gia vào quân Sở, thêm cả việc Tần quốc cũng phát binh tương trợ, trong lúc cấp bách không có cách nào kháng cự, chỉ còn cách lui về Ngô quốc, nếu như vậy, người Sở đương nhiên đạt được mục đích, đối với hắn mà nói thì sẽ vô cùng bất lợi. Hắn buộc phải ngăn chặn Cơ Quang và quân Ngô lại, cố sống cố chết mà ngăn chặn tại Sở quốc, như vậy, đám kỳ binh mà hắn giữ ở Tề quốc mới phát huy tác dụng được.
Ngũ Tử Tư...
Khánh Kỵ cười lạnh:
- Vị thiên cổ danh nhân này, chẳng phải cũng bị ta đùa giỡn trong lòng bàn tay đó sao.
"Xuân Thu không có chiến tranh chính nghĩa", từ lúc Khánh Kỵ từ một linh hồn xuyên Việt với gốc gác là một thành viên trong đoàn làm phim phổ thông, dần dần trở thành một vị lãnh tụ của một đoàn thể chính trị, càng ngày hắn càng thấm hiểu sâu sắc ý nghĩa của câu nói này. Đâu chỉ có Xuân Thu không chiến tranh chính nghĩa, tự cổ chí kim, có cuộc chiến tranh nào với cờ hiệu đẹp đẽ, đường đường chính chính mà không phải là hướng về lợi ích của một vài cá nhân?
Mặc kệ là dùng loại cờ hiệu nào, mục tiêu cuối cùng cũng là một chữ "lợi". Giữa các nước với nhau chẳng bao giờ có tình hữu nghị mãi mãi, chỉ có quyền lợi mãi mãi mà thôi. Một lợi ích của giai cấp, đoàn thể, đương nhiên sẽ phải tổn hại đến lợi ích của một đoàn thể, một giai cấp khác để làm tiền đề. Cho dù là sử dụng thủ đoạn nào, chỉ cần khiến cho người của mình giảm thiểu những hy sinh đổ máu, giảm thiểu những cái giá phải trả là được, Khánh Kỵ bây giờ cũng đã bình chân như vại rồi. Hắn đã không còn nói những lời ba hoa bốc phét như ước mộng tuổi thiếu niên nữa.
Gió đã yếu bớt, tuyết lại càng thêm dày đặc. Khánh Kỵ một ngày mấy lần đi lên trên thành quan sát, chờ đợi đại quân của hắn mau đến. Lúc này đã là lần thứ ba trong buổi chiều hắn đi lên thành rồi, tuy nhiên phía xa vẫn là một màu trắng ảm đạm và lặng lẽ. Hắn vung vẫy những bông hoa tuyết trên vai, chà xát hai tay đã đông cứng vào nhau, đang định trở xuống dưới chân thành, ánh mắt bỗng tập trung vào một chỗ, nhìn về phía xa trong đám tuyết trắng xóa xuất hiện một đường đen uốn lượn.
Thần sắc Khánh Kỵ khẽ động, vội vàng nheo mắt che tay nhìn về phương xa, đường đen đang di động kia rõ ràng là một đoàn quân. Bọn họ đang tiến tới đây với vận tốc chậm rãi, làn gió tuyết khiến ngọn cờ tung cao phần phật, trên ngọn cờ xuất hiện hai chữ. Nhìn từ xa, lại thêm việc tuyết phủ trắng xóa che kín tầm mắt, chưa thể nhìn rõ chữ trên cờ hiệu là gì. Nhưng trông thấy cờ xí quen thuộc kia, Khánh Kỵ đã nhận ra đó là quân đội của mình.
Hắn mừng rỡ kêu lên một tiếng, rồi chạy một mạch xuống dưới cổng thành. Chỉ trong thoáng chốc, sĩ tốt người Sở đã đẩy cửa thành ra, Khánh Kỵ ngồi trên một chiếc chiến xa lao nhanh ra bên ngoài, bánh xe đi trên con đường đầy tuyết tạo nên hai hàng dấu vết thẳng tắp.
- Công tử!
Khi Khánh Kỵ thúc xe tới gần, thì đoàn quân kia bỗng đột nhiên dừng lại, đợi đến khi Khánh Kỵ đi tới trước mặt, trên chiếc chiến xa ở hàng trên nhất lập tức bước xuống một người, vẻ mặt vui mừng tiến tới.
Trên chiếc nón trụ của hắn tích đầy bông tuyết, thân hình cao lớn, râu ria xồm xoàm. Tà áo tung bay trong cơn bão tuyết, đúng là tả hữu luôn theo gót trung thành với hắn Lương Hổ Tử.
- Bái kiến công tử!
Đám sĩ tốt ở tiền phương đồng loạt thi hành quân lễ với Khánh Kỵ, tin tức nhanh chóng được truyền tới trận tuyến phía sau, toàn bộ đội ngũ xôn xao rầm rĩ.
- Các tướng sĩ suốt dọc hành trình đều phải đối mặt với mưa gió bão tuyết, vất vả rồi!
Khánh Kỵ chắp tay vái chào về mọi người xung quanh, sau đó ôm một cái thân mật với Lương Hổ Tử:
- Lương tướng quân, ta đoán được tính nóng vội của tướng quân, nhất định sẽ cầm đầu đoàn quân đi tiên phong, ha ha... Tọa chấn trung quân hẳn là Kinh tướng quân rồi.
Khắp mặt Lương Hổ Tử đầy vẻ phong sương, nhưng lại lộ rõ vẻ vui mừng trông thấy. Nghe Khánh Kỵ nói như vậy, không khỏi ha hả cười nói:
- Lần này thì công tử đoán sai rồi, tọa chấn trung quân là Yểm Dư công tử, Kinh Lâm tiểu tử lần này áp hậu trận phía sau.
Khánh Kỵ nghe vậy thì sững sờ:
- Yểm Dư vương thúc? Chẳng phải ta đã bảo vương thúc tọa chấn Ngải Thành sao? Tại sao người lại tới đây?
Lương Hổ Tử gượng cười nói:
- Yểm Dư công tử là vương thúc của công tử, ngài nhất định đòi đến đây, thuộc hạ cũng chẳng biết làm sao. Thuộc hạ cũng theo quân lệnh của công tử ngăn cản Yểm Dư công tử, thế nhưng ngài đã quát mắng té tát vào mặt thuộc hạ, ngài nói: "Cái gì mà tọa chấn Ngải Thành, ba quân đều đã xuất phát đi thảo phạt Cơ Quang rồi, để ta canh giữ một tòa thành trống để làm gì? Tên tiểu tử mất nết Khánh Kỵ, chẳng qua là muốn phòng khi hắn chẳng may thất bại, thậm chí chết nơi sa trường, để ta lại phải báo thù cho hắn mà thôi. Lúc này đây hắn đã gây dựng được cơ đồ như vậy, nếu như hắn đánh không lại Cơ Quang, thì cho dù ta có dốc hết chút hơi tàn của cái mạng này cũng chẳng thể nào mà đi báo thù cho hắn được. Chi bằng đi cùng nhau, cùng lắm là chú cháu ta kề vai sát cánh chiến đấu, chết trận oanh liệt nơi sa trường thôi.”
Khánh Kỵ nghe xong dậm chân nói:
- Ài, nếu nói như vậy, Chúc Dung vương thúc lần này đi Phí Thành Phi Hồ cốc chắc cũng theo đoàn quân xuất chinh rồi.
Lương Hổ Tử cười hắc hắc:
- Công tử đoán đúng rồi, Chúc Dung công tử trước khi đi tới Lỗ quốc quả đã nói như vậy. Công tử nói, thắng bại vinh nhục đều được quyết định trong trận chiến này, đại quân của công tử là hy vọng phục quốc cuối cùng, nếu như lại bại nữa, chỉ còn con đường chết theo mà thôi. Ngài đường đường là Ngô quốc công tử, nam nhi chí lớn, làm sao chịu để cho người khác ở nơi trận tiền liều mạng, còn mình tọa thủ ở một tòa thành bỏ trống như một kẻ ham sống sợ chết.
Khánh Kỵ nghe hắn nói vậy cũng không khỏi gượng cười, Lương Hổ Tử quay lại đưa mắt nhìn những sĩ binh lặn lội suốt một hành trình dai dẳng, nhưng tinh thần ai nấy đều tươi tỉnh, ý chí chiến đấu sục sôi, liền trầm giọng nói với Khánh Kỵ:
- Công tử cũng không cần hối tiếc, hai vị công tử nghĩ vậy, đám binh lính sĩ tốt trong ba quân của chúng ta cũng nghĩ vậy, Cơ Quang đã chiếm đoạt ngôi vị Ngô quốc đại vương hơn một năm nay, nếu cứ để tiếp diễn như vậy nữa thì chúng ta sẽ không còn cơ hội hạ bệ hắn, thắng bại vinh nhục, thật sự được quyết định trong trận đánh này. Ngay cả những người đầu bếp cũng nghĩ vậy, chịu đi theo công tử, ai nấy đều mang theo vũ khí tòng quân, Ngải Thành đã trở thành một tòa thành trống, tất cả chúng thuộc hạ đều tình nguyện vào sinh ra tử cùng công tử! Công tử chính là linh hồn của anh em tướng sĩ, bất luận là nguy hiểm thế nào, bất luận là kẻ địch thế nào, anh em ba quân tướng sĩ đều sẽ kề vai sát cánh, cùng sống cùng chết với công tử, quyết không nhụt chí!
Lời nói này thật có khí phách, được phát ra một cách dõng dạc giữa cơn gió tuyết rít gào, Khánh Kỵ nghe vậy mà cảm động trong lòng, nhịn không được cầm lấy bàn tay của hắn, nam chi ý chí kiên cường, lòng dạ bất khuất, hai bên cùng nhìn nhau rồi cười, tất cả đều không bộc lộ ra được trong lời nói.
Hắn thở một hơi thật dài, đón nhận những bông tuyết đang lao tới trước mặt, nhìn về phía đội ngũ đang xếp thành hàng nghiêm chỉnh trước mắt mình. Đôi mắt quét qua những khuôn mặt thanh niên, quen thuộc có, không quen thuộc có, có vài nét mặt còn thể hiện sự rầu rĩ tang thương khi phải xa nhà, bỗng nhiên, ánh mắt của hắn dừng lại trên người một chiến sĩ thân hình thấp bé.
Hắn khoác áo giáp nửa người, bên trong giáp là một bộ võ phục, một thanh trường kiếm vác trên vai, dải tua trên thanh kiếm bị gió thổi lên, quét qua mặt của hắn, nhưng dù bị che bởi những tua kiếm kia, thì khuôn mặt thanh tú, mỹ lệ như đào hoa kia vẫn không thể che giấu được, đích thị là Quý Tôn Tiểu Man. Nàng đứng bên cạnh một chiếc chiến xa, đang mỉm cười nhìn về phía mình.
Khánh Kỵ bất giác đi về phía nàng, Lương Hổ Tử đứng phía sau bỗng gọi:
- Công tử, thuộc hạ có chuyện này.... công tử...
Khánh Kỵ bỏ mặc không để ý, đi thẳng tới chỗ Quý Tôn Tiểu Man, kinh ngạc nói:
- Nàng... chiến trường là nơi nguy hiểm, nàng đến đây làm gì, chẳng phải ta đã nói nàng phải ở lại Ngải Thành sao?
Quý Tôn Tiểu Man liếc nhìn hắn, sẵng giọng nói:
- Ngải Thành đã là một tòa thành trống, ta ở lại đó làm gì? Đã không có nơi nào đi, vậy thì chỉ còn biết theo đến đây thôi.
Khánh Kỵ biết đó chỉ là lời nói biện cớ, thiên hạ lớn như vậy, nàng đi đâu chả được? Lúc trước bảo nàng ở lại bên cạnh chăm sóc thì nàng còn không chịu cơ mà. Bây giờ lại chịu kham chịu khổ theo tới Sở quốc, tấm lòng thiếu nữ lẽ nào hắn lại không biết?
Trong lúc xúc động, Khánh Kỵ vụt chốc nắm chặt lấy đôi tay nàng, đôi bàn tay nhỏ bé được ấp chặt trong bàn tay to lớn của hắn, cảm giác lành lạnh, Khánh Kỵ trông thấy khuôn mặt của nàng hơi tím tái, đôi bàn tay đông lạnh đến đỏ bừng, không khỏi có chút tức giận:
- Ngải Thành một năm nay tích lũy rất nhiều lương thực quân nhu, lẽ nào lại không thể chuẩn bị được cho nàng vài bộ quần áo dày dặn ấm áp ư? Nàng ăn mặc phong phanh như vậy, cơ thể thì lạnh cứng, nếu chẳng may sinh bệnh thì biết làm sao đây? Lương Hổ Tử!
Trong ánh mắt của Quý Tôn Tiểu Man hiện lên một ý cười ôn nhu, thanh âm cũng trở nên dịu dàng:
- Đừng trách Lương tướng quân, là do người ta không chịu mặc, những bộ quân phục đó mặc lên trông phì nộn cả người ra, khó coi chết đi được.
Khánh Kỵ nghe xong không biết nên khóc hay nên cười:
- Điều này quả đúng như câu xinh đẹp đến run người, muốn đẹp không muốn sống hay sao?
Quý Tôn Tiểu Man câng mặt lên:
- Vậy thì đã làm sao, dù sao thì càng đi về Nam càng ấm áp, đợi khi qua được sông thì đến cả bông tuyết cũng chẳng nhìn thấy nữa đâu.
Khánh Kỵ lắc lắc đầu, cởi áo khoác của mình xuống, chẳng nói chẳng rằng khoác lên trên vai nàng, buộc dây áo cho nàng, rồi nói:
- Thật chẳng thể hiểu được nàng nữa, được rồi, cứ mặc tạm áo khoác của ta đã, đợi đến Bách Thành...
Lương Hổ Tử chạy tới, vội nói:
- Công tử, thuộc hạ có...
Khánh Kỵ quay đầu sang, hừ một tiếng nói:
- Chuyện ta căn dặn ngươi, chẳng có chuyện nào là làm cho tốt cả, còn muốn... hả?
Hắn nhìn thấy Lương Hổ Tử hướng về phía mình nháy mắt ra hiệu vài cái, thần tình có chút quỷ dị, không khỏi khẽ chút giật mình, thuận theo ánh nhìn của Lương Hổ Tử nghiêng mắt ra xem, dùng khóe mắt kín đáo liếc về phía đó. Lúc này mới bị khiếp vía hồn bay phách lạc, nhìn lại lần nữa, quả nhiên là thật, người kia tuy rằng mặc một bộ giáp, chiều cao cũng chỉ tương đương với sĩ tốt bình thường, nhưng khuôn mặt rõ ràng là Thúc Tôn Diêu Quang.
Trong khoảnh khắc Khánh Kỵ dường như đang mơ hồ trong giấc mộng: "Diêu Quang... tại sao nàng ấy lại ở đây được chứ?"
Sau đó, ánh mắt của hắn khẽ chùng xuống, tâm tình cũng cụt ngủn không còn hứng thú. Hỏng rồi, hai tay của hắn vẫn đang dừng trước ngực của Quý Tôn Tiểu Man, ngón tay khẽ chạm vào chiếc cằm mỹ lệ lành lạnh của nàng, chiếc dây trên cổ áo khoác mới chỉ cài được một nửa, động tác này, nhìn thế nào cũng có chút ám muội.
Dường như gió tuyết có chút lạnh, vì Khánh Kỵ phát hiện da mặt của mình cũng hơi đanh lại. Khóe miệng của hắn hơi co lại, khẽ mấp máy, đón lấy cái nhìn từ cặp mắt trong trẻo của Quý Tôn Tiểu Man, cặp mắt to đẹp đó vẫn đang mang một sự vui vẻ hiền dịu, thế nhưng.... Khánh Kỵ bất giác cảm thấy trong đôi mắt đó hiện lên một chút gì đó của sự đắc ý.
Khánh Kỵ bỗng nhiên tự hận mình, tiểu cô nương đóng giả tiểu tử kia đã bao giờ có mùi vị nữ nhân đâu, lúc nãy làm sao nàng ta có thể vì sự quan tâm hỏi han của mình mà bộc lộ ra tình cảm như vậy? Động tác này của mình, lúc thường thì phản ứng của nàng ta phải là ngượng nghịu bất an, cảm giác không thoải mái mới phải. Nàng ta... rõ ràng là cố ý châm chọc ta.
Khánh Kỵ hung hăng trừng mắt nhìn nàng, Quý Tôn Tiểu Man đáp lại bằng ánh mắt thờ ơ, nụ cười trên vẻ mặt đóng kịch lại càng dương dương đắc ý hơn.
- Nàng đã đến đây rồi, ta cũng không thể đuổi nàng về được!
Ánh mắt của Khánh Kỵ không liếc nhìn về phía Thúc Tôn Diêu Quang nữa, cứ như thể hắn chưa từng nhìn thấy Thúc Tôn Diêu Quang vậy, giọng nói bỗng nhiên sang sảng vang vọng, thần thái nghiêm nghị, đường hoàng nghiêm trang nói với Quý Tôn Tiểu Man:
- Ta cùng Tam Hoàn thế gia quan hệ sâu sắc, Thúc Tôn Thị, Mạnh Tôn Thị, đều có cội nguồn chặt chẽ với ta, nàng là người của Quý Thị thế gia, một thân nữ tử lưu lạc bên ngoài, ta làm sao có thể nhìn mà không để ý chứ? Nên mới thu giữ nàng ở lại, nếu như nàng sinh bệnh ở chỗ của ta, há chẳng phải là do ta chăm sóc không chu đáo sao? Đợi khi vào Bách Thành, lập tức sẽ thay bằng quần áo dày ấm. Hừ, cái gì mà quân phục dày cộm phì nộn bất kham chứ, căn bản thì vẫn là một tiểu hài tử chưa trưởng thành, ai thèm để ý tới dung nhan đẹp xấu của nàng?
Quý Tôn Tiểu Man quay lưng về phía Thúc Tôn Diêu Quang, làm động tác dí dỏm thè lưỡi với hắn, mũi hơi nhăn nhăn trêu tức, đắc ý nói:
- Lêu lêu lêu, phản ứng của công tử Khánh Kỵ nhanh đấy nhỉ, lại lừa được ngay cô nương người ta rồi đấy nhỉ? Hi hi...
Khánh Kỵ toát mồ hôi, ngoài trời rất lạnh, gió thổi rất lớn, thế nhưng hắn lại cảm thấy trong người có cảm giác rất nóng rất nóng. Bản thân phải làm sao vừa tự nhiên vừa ngạc nhiên mà phát hiện ra Thúc Tôn Diêu Quang đang ở trong đội ngũ kia đây, còn phải làm ra một bộ mặt kinh ngạc, vui mừng, nếu không thì màn kịch lúc nãy chỉ phí công vô ích thôi...
Ánh mắt sát nhân đáng sợ của nàng... chết tiệt thật, Lương Hổ Tử đâu? Lúc nãy nhìn thấy ta, tại sao hắn không nói luôn là Diêu Quang cũng có ở đây...
Khánh Kỵ quay đầu lại tìm Lương Hổ Tử với ánh mắt cầu cứu, bỗng thấy nơi lúc nãy Lương Hổ Tử đứng đã không còn thấy ai. Ở phía xa truyền đến một tiếng nói như sấm sét ngang trời, cứ như thể sợ hắn không nghe thấy vậy. Khánh Kỵ nhìn về nơi phát ra tiếng nói, chỉ thấy tên Lương Hổ Tử lúc nãy còn đang nói vì hắn mà vào sinh ra tử, đổ máu nơi sa trường, bất luận thế nào cũng không chịu thoái bước kia đang dùng cánh tay còn lại vung vẩy, tay áo bồng bềnh, gân cuống họng lên cao hứng bừng bừng nói:
- Các huynh đệ, công tử đến đón chúng ta rồi, các huynh đệ, đã gặp được công tử nhà ta rồi!
Chỉ là, bước chân của hắn rất nhanh, dường như phía sau đít có con chó đang đuổi theo vậy, tình hình đó nhất định không phải là đang cổ vũ sĩ khí toàn quân, mà giống như là... bỏ chạy mất dạng vậy.
Bên tai vang đến tiếng cười khúc khích khe khẽ của Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ hung dữ trừng mắt nhìn về phía tên Lương Hổ Tử không biết nói lời nghĩa khí kia, đã tức đến nỗi không nói được gì...
Khánh Kỵ quay đầu lại tìm Lương Hổ Tử với ánh mắt cầu cứu, bỗng thấy nơi lúc nãy Lương Hổ Tử đứng đã không còn thấy ai. Ở phía xa truyền đến một tiếng nói như sấm sét ngang trời, cứ như thể sợ hắn không nghe thấy vậy. Khánh Kỵ nhìn về nơi phát ra tiếng nói, chỉ thấy tên Lương Hổ Tử lúc nãy còn đang nói vì hắn mà vào sinh ra tử, đổ máu nơi sa trường, bất luận thế nào cũng không chịu thoái bước kia đang dùng cánh tay còn lại vung vẩy, tay áo bồng bềnh, gân cuống họng lên cao hứng bừng bừng nói:
- Các huynh đệ, công tử đến đón chúng ta rồi, các huynh đệ, đã gặp được công tử nhà ta rồi!
Chỉ là, bước chân của hắn rất nhanh, dường như phía sau đít có con chó đang đuổi theo vậy, tình hình đó nhất định không phải là đang cổ vũ sĩ khí toàn quân, mà giống như là... bỏ chạy mất dạng vậy.
Bên tai vang đến tiếng cười khúc khích khe khẽ của Thúc Tôn Diêu Quang, Khánh Kỵ hung dữ trừng mắt nhìn về phía tên Lương Hổ Tử không biết nói lời nghĩa khí kia, đã tức đến nỗi không nói được gì...
Hán Thủy, cứ điểm quan trọng bến sông Ngư Phản , tiếng chém giết rung trời.
Quân Ngô đang tấn công mạnh mẽ vào bến sông Ngư Phản, nơi đây, hiện tại vẫn là quân Sở chiếm giữ.
Đại tướng quân Ngô Vương Tôn Hùng chống mâu đứng trước trận tiền, hờ hững nhìn về phía doanh trại trước mặt, binh lính của hắn giống như một bầy kiến liều mạng, đang công kích về phía tòa doanh trại kia. Chòi quan sát, thành lũy trên doanh trại đều hướng ra phía ngoài để chống địch đến từ trước mặt, bây giờ kẻ địch lại đánh xốc ở phía sau lưng, thế địa lợi đã bị hạn chế. Lại thêm cả việc thành lũy doanh trại đều chủ yếu được xây dựng bằng gỗ, dưới những làn mưa tên xối xả công kích liên hồi, hiện tại đã có mấy khu vực lửa cháy phừng phừng, chuyện thất thủ đã không còn phải bàn cãi.
Cung nỏ của người Sở sắc bén lợi hại, tuy nhiên hiện tại tên đã bắn gần hết, hai bên đành phải bắt đầu áp vào nhau dùng vũ khí ngắn đánh giáp lá cà, kiếm thuẫn của người Ngô bắt đầu phát huy uy lực của mình. Kiếm quang lấp lánh, vung vẫy còn khiến người ta phải ớn rét thấu xương, vô số những thanh đoản kiếm chạm vào những chiếc thuẫn thủ, phát ra những tiếng "keng keng" ầm trời, chiến xa của người Ngô giống như một đám mây đen mù mịt, nuốt chửng trận địa của người Sở, những tiếng gầm rú háo hức rít lên đinh tai nhức óc.
Sở đại phu Khuất Vô Trần cầm kiếm đứng ở trên thành trại, lửa bốc cháy ngùn ngụt, bóng dáng cao gầy tựa cành cây khô đứng lẻ loi trong gió. Toàn thân ông khoác trên mình một bộ đồ trắng toát, đeo dây lưng bên hông, đầu quấn khăn trắng, cách ăn mặc như đang để tang vậy.
Ông mặc như vậy, chính là để tang cho mình, để tang cho thân nhân trong gia đình mình, để tang cho hàng nghìn hàng vạn binh sĩ trong doanh trại của mình. Khi quân Ngô phát binh đánh úp Ngư Phản, ông đã biết rằng tòa thành này nhất định sẽ không thể cầm cự được bao lâu. Khi ông đánh lui đợt tấn công lần thứ tư của quân địch, tận dụng thời gian quân sĩ đôi bên chỉnh đốn lại chiến trận, liền quay trở về nhà, cưỡng ép ra lệnh cho thê thiếp già trẻ lớn bé trong nhà, tổng cộng là mười bảy người, tất cả đều phải thắt cổ tự tử để tỏ lòng hy sinh vì tổ quốc. Sau đó mặc bộ đồ tang trở lại trận địa, ông đã quyết tâm chiến đấu tới người lính cuối cùng, cùng sống cùng chết với cứ điểm Ngư Phản.
Một dải hàng rào lay động vài cái, rồi sụp đổ ầm ầm. Doanh trại này tuy làm bằng gỗ, nhưng hàng rào đều được xây dựng bằng những khối gỗ to lớn chôn sâu xuống đất. Người Ngô khi công trại đã dùng dây thừng ngựa kéo nhưng cũng không làm cách nào đổ hàng rào cho được. Thế nhưng dưới những làn hỏa công mạnh mẽ, chẳng bao lâu sau chúng đã bị cháy rụi điêu tàn, cuối cùng những hàng rào kia cũng đã hoàn thành sứ mệnh của mình.
Khóe miệng Vương Tôn Hùng lộ ra một tia cười thỏa mãn, bàn tay của hắn nắm chặt dần thanh trường mâu, chậm rãi giơ nó lên không trung. Đầu mâu sắc bén lấp lánh phát ánh sáng chói lòa khi được ánh mặt trời chiếu sáng. Thanh trường mâu huơ trong không trung trong chốc lát, rồi sau đó dưới sự điều khiển của cánh tay vâm đô của Vương Tôn Hùng dũng mãnh lao lên phía trước.
- Giết!
Đội quân dự bị sau lưng Vương Tôn Hùng đồng loạt giơ trường mâu lên, giống như một rừng binh khí sắt thép, nhất tề chĩa về phía trước. Cả rừng trường mâu giống như dòng thủy triều ào ạt lao lên phía trước, toàn bộ đội ngũ xếp thành hình thế, thần tốc lao vào lỗ hổng vừa được tạo ra, tiến thẳng vào doanh trại.
Đôi mắt Khuất Vô Trần đỏ ngầu, giơ trường kiếm lên, khàn giọng hét lớn:
- Toàn quân xông lên, cùng chết với địch!
- Toàn quân xông lên, cùng chết với địch!
Những binh sĩ Sở đôi mắt cũng ngầu máu rời khỏi những lỗ châu mai phía trên doanh trại, lao xuống phía dưới vật lộn với đoàn quân Ngô. Kiếm thuẫn, trường mâu kết hợp , tạo thành một tiểu đội hoàn mỹ hợp tác tác chiến với nhau. Quân Sở còn lâu mới là đối thủ của đội quân Ngô quen dùng vũ khí ngắn này, máu tươi, chết chóc cứ không ngừng tăng lên...
Khuất Vô Trần thề sống mái với quân thù giống như kẻ điên, tay cầm trường kiếm của người Sở lao thẳng vào trong trận địa của quân Ngô, không màng sống chết đâm chém lung tung. Lưỡi kiếm gạt bỏ hết được những thanh trường mâu tạt tới, vận hết sức bình sinh, nhưng chỉ là phí công vô ích, đâm bổ mãi cũng chỉ chạm được vào những trận địa thuẫn được bố trí nghiêm mật.
- A!
Khuất Vô Trần ngửa mặt lên trời thét dài một tiếng, rồi khuỵu gối xuống vung kiếm quét một vòng, trong khoảnh khắc hàng thuẫn của quân Ngô có chút lơi lỏng, đã chặt đứt một chân của một viên binh sĩ, sau đó ông dùng chân đá bay tấm thuẫn kia, đạp ngã tên lính đã cụt một chân đang kêu rú thảm thiết ngã sóng xoài, lợi dụng lỗ hổng lao lên phía trước.
"Keng" một tiếng, một thanh trường mâu đột nhiên xuất hiện trước mặt, mũi mâu giao kích với trường kiếm, thanh kiếm vốn đã sứt mẻ nhiều chỗ giờ đây lại xuất hiện một vết nứt rỗ lớn, Khuất Vô Trần loạng choạng lùi lại, trước mặt là một vị tướng quân đang đứng ngạo nghễ.
Giáp nhẹ, trường mâu, đứng sừng sững hiên ngang, sát khí hầm hầm ngưng tụ trên đôi mắt của hắn.
- Sở nhân Khuất Vô Trần ở đây, ngươi là kẻ nào?
Người kia nhẹ nhàng nhấc trường mâu lên, đạo mạo nói:
- Ngô nhân Vương Tôn Hùng.
"Được!" Khuất Vô Trần cười khó khăn, trường kiếm dựng thẳng, đôi mắt đỏ ngầu chằm chằm nhìn đối phương.
Vương Tôn Hùng đứng nghiêng người, một tay cầm mâu, tay kia khẽ phẩy, sĩ tốt quân Ngô bốn bề lập tức dạt về phía sau, hình thành một bức tường vòng tròn, trong vòng tròn là Khuất Vô Trần và Vương Tôn Hùng người cầm kiếm kẻ cầm mâu, ngoài vòng tròn, là những binh sĩ Sở quốc và những tướng sĩ Ngô quốc giống như bầy hổ lang đang ngã xuống, số lượng càng ngày càng ít dần.
- Tướng quân xin hãy xuất chiêu đi!
Vương Tôn Hùng một tay cầm mâu, hướng mũi mâu về phía trước, quát giọng lanh lảnh.
- Ya!
Khuất Vô Trần xoay người lao tới, mượn tốc độ di chuyển nhanh chóng của bước chân và sức lực của cơ vai, liên tiếp bổ xuống mười mấy kiếm, giống như cuồng phong đâm bổ về phía Vương Tôn Hùng.
Vương Tôn Hùng cầm trường mâu, vung vẫy khiêu khích, lui dần về phía sau, binh khí hai bên va đụng vào nhau, tiếng va đập vang lên không ngớt, liên tiếp mười mấy kích, "Keng" một tiếng, thanh kiếm của Khuất Vô Trần không chịu nổi những đợt phản kích dữ dội uy lực, đã bị gãy ra thành hai đoạn, trường mâu của Vương Tôn Hùng chĩa về ngực ông, mũi mâu sắc bén đã tiếp giáp với áo bào, áp sát vào trước ngực, Vương Tôn Hùng cười nhạt, quát lớn:
- Hàng hay chết?
Sau tiếng "keng", một nửa thanh trường kiếm rơi xuống bãi cát, Khuất Vô Trần cười bi phẫn, cầm lấy nửa thanh kiếm còn lại trong tay, gọt một đường thẳng tắp trên cổ mình, máu tươi phun ra liên hồi, ứa ra chảy tràn khắp áo bào như hoa mai nở. Vương Tôn Hùng khẽ thở dài:
- Biết rõ là không địch lại được, tại sao còn cố chấp như vậy?
Hắn lắc tay, thu trường mâu lại, thân hình Khuất Vô Trần khẽ lảo đảo, thần thái trong mắt tiêu tan dần, khóe môi khẽ động đậy, dường như còn muốn nói điều gì, nhưng sau một hơi thở hắt ra, ông đã đổ người xuống đất.
Binh sĩ bốn bề quan sát trông thấy vậy thì giương cao binh khí trong tay, hoan hô hưởng ứng, có người đã cao giọng nói to:
- Tướng thủ thành Ngư Phản Khuất Vô Trần đã chết! Tướng thủ thành Ngư Phản Khuất Vô Trần đã chết!
Tiếng kêu truyền ra khắp doanh trại, lúc này đã là biển lửa, những tốp binh sĩ Sở tụm lại thành nhóm ba, năm người bị quân Ngô chia cách, từng hàng trường mâu và kiếm thuẫn bao bọc lấy những tướng sĩ Sở quốc còn lại, bọn họ giống như những chiếc lá héo tàn giữa phong ba bão tố, bị gió bão giày xéo, bảy nổi ba chìm. Cho dù bọn họ đã ôm lòng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, nhưng nghe được thông tin này, quyết tâm thề chết đã bị dao động, những chiếc "lá rụng" kia đã bị cuồng phong dập nát.
Vương Tôn Hùng bước qua những tử thi và máu tươi lênh láng trên đường, trong tiếng chém giết sang sảng quát lớn:
- Kẻ nào không chịu đầu hàng thì giết chết không tha, nhanh chóng thu dọn chiến trường, thu nạp toàn bộ chiến thuyền lớn nhỏ, giữ lại ba mươi chiếc dự trữ, số còn lại gom lại rồi đốt hết!
Dĩnh Đô, một đội kéo dài nhìn mãi không thấy điểm tận. Những đội xe ngựa của các công khanh, thân sĩ từ Sở quốc lập thành một đội, được binh sĩ tinh nhuệ hộ tống, hành trình thẳng tới Ngô quốc. Một đội nhân mã tạm thời được điều về Ngư Phản, đem những vật trang tư dụng cướp bóc được theo đường thủy trở về nước.
Hạp Lư dường như muốn mang theo cả toàn bộ Sở quốc vậy, tất cả vật tư quân nhu, công cụ sinh hoạt, vàng bạc châu báu, binh khí sắt thép, bất kể là dùng được hay là không đều được vận chuyển cho bằng hết. Bây giờ hắn không lo là không có xe ngựa, mà hắn lo là không đủ người đi theo hộ tống hết chỗ xe ngựa chở đồ này. Tất cả những của cải vật chất của Sở quốc tích lũy suốt hơn năm trăm năm nay sắp bị Hạp Lư vơ vét thu vào túi riêng sạch sẽ.
- Tránh ra! Tránh ra!
Hơn mười viên đại hán cưỡi khoái mã, trên vai cắm lá cờ nhỏ, hẳn là tín sứ trong quân, một tay quất roi thúc ngựa, một tay soải ra đuổi tránh những đoàn quân đang chở của cải sang hai bên, khiến cho đoàn quân ngũ xiêu vẹo méo mó phải nhường ra một con đường, đoàn người tức tốc vọt lên thoát khỏi đám đông.
Bọn họ chính là những tín sứ được Cơ Quang phái đi, Cơ Quang có ý muốn cầm cự thêm ở Dĩnh Đô một thời gian nữa, chống đỡ những đợt tấn công của liên quân Khánh Kỵ với người Sở. Đợi đến khi Tề Tấn có phản ứng, đại cục thiên hạ xoay vần, nhưng thực sự thì hắn vẫn chưa thể yên tâm với Ngô quốc, liền phái người cưỡi khoái mã quay về, bàn mưu tính kế hợp mưu hành động với bào đệ Phu Khái và thái tử Phù Sai.
Cơ Quang lệnh cho bào đệ Phu Khái đề phòng nghiêm ngặt Việt quốc, nước trước nay luôn câu kết với Sở quốc làm điều gian "nhân lúc cháy nhà mà đi hôi của", lệnh cho thái tử Phù Sai phái thám mã, cùng với những trinh sát được mình phái đi giám sát nghiêm ngặt mọi con đường yếu đạo đi tới Ngô quốc, để đề phòng Khánh Kỵ chỉ Nam đánh Bắc, giả ý liên minh với Sở quốc, kỳ thực ngấm ngầm tập kích Ngô quốc.
Cùng lúc đó, hắn phái vài lộ đại quân chia ra cát cứ chiếm đóng ở những cửa ải hiểm yếu xung quanh Dĩnh Đô, định bụng thừa lúc quân đội cần vương của người Sở chưa kịp hội quân chiếm cứ toàn bộ những vùng yếu địa chiến lược, chiếm lấy ưu thế về địa lý.
Xung quanh Dĩnh Đô, tất cả những cửa ải hiểm yếu, nơi nào cũng có quân Ngô canh giữ, chiến hỏa phừng phừng...
- Nằm giữa hai ngọn núi, tòa thành lũy kia là nơi nào vậy?
Khánh Kỵ ẩn mình trong rừng rậm, phóng mắt quan sát trận địa, hỏi một binh sĩ Sở dẫn đường.
- À, tướng quân, tòa thành nhỏ kia chính là Na Xứ (dịch sang tiếng Việt là "chỗ đó")
- Đúng vậy, chính là tòa thành đó, nó tên là gì vậy?
- Ách... tướng quân, tòa thành nhỏ đó, tên gọi của nó chính là "Na Xứ"
- Gì cơ?
Khánh Kỵ khẽ ngẩn người ra, sau đó cười khẩy nói:
- Cái tên này thật khiến người ta cảm thấy kỳ lạ.
Hắn ngẩng đầu nhìn tiết trời, bóng tịch dương đã buông xuống, bầu trời còn hơi chút ửng đỏ, nhưng khí lạnh đã bắt đầu lan tỏa. Tuy rằng đây là vùng Giang Nam, mùa đông cũng chả được coi là lạnh lẽo cắt da cắt thịt, nhưng màu sắc của bầu trời lẫn mặt đất, vẫn khiến cho người ta cảm nhận được một sự ảm đạm thê lương, sầu não đến vô cùng.
- Căn dặn ba quân tướng sĩ tất cả ẩn vào trong rừng nghỉ ngơi, không được nhóm lửa, không được gây ra tiếng động lớn, coi chừng lũ ngựa thật tốt.
- Rõ.
A Cừu chắp tay vâng lệnh, vội vã lui ra.
- Diêu Quang...
Nhìn thấy viên lính dẫn đường cũng theo đó lui ra ngoài, Khánh Kỵ liền cười ôn hòa nói với Thúc Tôn Diêu Quang đang đứng kế bên:
- Đêm nay khi phát động cuộc tập kích với tòa thành đó, nàng chỉ được ở trận địa phía sau, tuyệt đối không được xung phung lên trước, khiến ta bị phân tâm.
- Dạ! Biết rồi, đánh trận, là chuyện của đàn ông mà...
Thúc Tôn Diêu Quang cười ngọt ngào, thái độ rất hòa nhã:
- Nhưng... chàng... chàng phải cẩn thận, nếu như chàng gặp phải một chút thương tổn nào, thì lần sau thiếp nhất định phải được sát cánh chiến đấu bên cạnh chàng.
- Được!
Khánh Kỵ mỉm cười.
Hôm đó khi phát hiện ra Thúc Tôn Diêu Quang ở trong đoàn quân, cho dù hắn cảm giác được rằng hành động "mừng rỡ bất ngờ ngoài ý muốn" của mình có chút vụng về, nhưng dường như Thúc Tôn Diêu Quang vẫn cho là thật, nàng trước sau chẳng thèm dò hỏi nghi ngờ lấy một câu, cũng không có một lời than vãn trách móc, điều này khiến cho Quý Tôn Tiểu Man vốn đang nghĩ sẽ được xem kịch hay có đôi chút thất vọng.
Còn Khánh Kỵ thì như đi guốc trong bụng với những biểu hiện của Thúc Tôn Diêu Quang, nàng không phải là không nhận ra điều gì, mà là bởi vì lúc này là lúc Khánh Kỵ đang lĩnh binh phạt Ngô phục quốc, là một thời khắc vô cùng vô cùng quan trọng, cho dù nàng chất chứa một bụng nghi ngờ, nhưng cũng không thể hiện ra ngoài, đề cập đến khiến Khánh Kỵ phân tâm trong thời khắc như vậy.
Việc khéo hiểu lòng người cùng phong độ biết rõ thời cuộc, công tư phân minh của Thúc Tôn Diêu Quang khiến cho Khánh Kỵ đã kính giờ còn càng thêm yêu nàng. Những ngày qua hai người sát cánh hành quân, bàn bạc việc quân, mặc dù đã không còn nhiều thời gian bàn chuyện phong hoa tuyết nguyệt như hồi ở Phí thành, nhưng tình cảm của hai người ngược lại càng thêm bền chặt keo sơn.
Chỉ là... sau trận đại chiến thì sao? Khánh Kỵ không hề quên, có một đêm hắn đưa Diêu Quang về trướng, muốn thừa cơ vui đùa với nàng một tí, không ngờ nàng nha đầu này đột nhiên nổi cơn ghen tuông nói:
- Đi đi đi, người ta bây giờ đang giúp chàng đánh trận vẫn chưa đủ sao? Muốn tìm nữ nhân à, đi mà tìm Ngải tướng quân của chàng ấy. Hứ, còn định già mồm cãi chối ư? Chàng dám nói việc cởi bào tặng áo hôm bão tuyết đó không có chút tình cảm nam nữ nào, chỉ là quân tâm thuộc hạ mà thôi sao? Hừ! Đợi khi chàng làm xong đại sự, thiếp sẽ lại tính sổ với chàng!
Đừng tưởng nàng ôn nhu hiền hòa như nước, sự đanh đá chua ngoa của nàng so với sự điêu toa giả dối của Tiểu Ngải còn trên một bậc, bây giờ nàng giấu đi nanh vuốt sắc bén, đợi khi đại cục đã định sẽ bắt đầu phát tác trở lại. E rằng sẽ khiến người ta phải kinh hãi muôn phần. "Đi một bước nhìn một bước, trước mắt hai a đầu này đang thầm tranh đấu gầm ghè lẫn nhau, toàn bộ công phu cao thấp đều dồn vào trong chiến sự, chưa hẳn đã là chuyện không tốt." Khánh Kỵ khẽ nhìn trộm dung nhan giảo mỹ của nàng, thầm nghĩ như vậy trong lòng.
Bóng tịch dương vàng vọt, nhuốm lên trên dung mạo đẹp đẽ của Thúc Tôn Diêu Quang một đường viền vàng vọt, tựa hồ như cảm thấy Khánh Kỵ đang nhìn mình, nàng liền liếc nhìn sang phía Khánh Kỵ. Khánh Kỵ vội thu lại ánh nhìn, nhìn thẳng về phía trước, hai người chầm chậm bước xuống bãi cỏ dưới sườn núi, đang muốn vượt qua một con suối, một chân Khánh Kỵ choạng vạng, suýt tí nữa thì chạm nước.
- Địa hình của tòa thành này thật hiểm trở.
Khánh Kỵ nén giọng nói xuống rất thấp.
Yểm Dư, Lương Hổ Tử, Kinh Lâm, còn cả A Cừu Tái Cừu, các tướng lĩnh thân thuộc chúm chụm lại thành vòng tròn, không có đống lửa nổi lên ở giữa. Màn đêm tối tăm, ánh trăng ảm đạm, nhìn không rõ mặt mũi mọi người, chỉ có thể nhờ vào ánh trăng sao lấp lánh chiếu lờ mờ, trong giọng nói và thân hình của mỗi người để nhận ra thân phận của họ.
Trong bóng tối, ngũ quan Khánh Kỵ khó nhìn rõ được, chỉ có đôi mắt sáng lóe phát ra ánh sáng rạng rỡ.
- Theo tình hình suốt chặng đường chúng ta dò la xem xét, vị trí địa lý của tòa thành này cực kỳ có lợi cho những hành động tiếp theo của chúng ta, vì vậy, ta muốn chiếm cho bằng được tòa thành này, biến nó thành đại bản doanh của chúng ta.
Yểm Dư công tử lên tiếng nói:
- Tòa Na Xử thành này không lớn lắm, là nơi trú chân cho ba vạn đại quân của ta e rằng hơi chật chội, bức bối, còn về ưu thế địa lý..., Khánh Kỵ, cháu hãy nói cho mọi người biết lý do và dự định tại sao lại chọn tòa thành này, cho mọi người thương nghị xem sao.
- Dự định của ta, mọi người đều biết rõ. Cơ Quang phạt Sở, điều động đại bộ phận quân tinh nhuệ Ngô quốc, mục đích của chúng ta chính là dẫn dụ hắn vướng vào trong cuộc chiến tranh với Sở quốc, nhân lúc trong nước không có vua quân coi giữ, chiếm lại quyền kiểm soát Ngô quốc. Hiện tại, những tuyến đường giao thông huyết mạch từ Ngô quốc sang Sở quốc đều nằm trong tay của Cơ Quang. Hàng vạn đại quân của ta hành quân, tuyệt đối không thể lọt qua được tai mắt của hắn, vì vậy, những con đường yếu đạo cả trên thủy lẫn trên bộ từ hướng Đông sang Ngô quốc chắc mẩm đã được bố phòng dày đặc mật thám của Cơ Quang, nếu chúng ta vứt bỏ Cơ Quang sang một bên, trực tiếp tập kích thẳng tới Ngô quốc, như vậy thì Cơ Quang có thể quay về nước nhanh hơn chúng ta một bước, đó là điều chắc chắn.
Cho dù chúng ta có thể tiến tới Ngô quốc đồng thời với hắn, hoặc thậm chí đi trước một bước, cũng chắc chắn phải đối mặt với sự chống cự quyết liệt từ phía quân thủ thành mà Cơ Quang để lại trong nước, bất kể chúng ta có công thành phá trại thế nào, đại quân chủ lực của Cơ Quang cũng sẽ trở về kịp, như vậy thì đại kế sách của chúng ta sẽ tan thành mây khói. Vì vậy, chúng ta phải dàn dựng như thể sẽ tạo ra một trận quyết tử với Cơ Quang tại Sở quốc, khiến hắn mơ hồ, đưa ra cái nhìn sai lầm về bố cục. Lợi dụng cơ hội đang kết minh với Sở quốc mà vây chặt hắn tại đây, nếu chuyện không thành, thì cũng phải tận lực tiêu hao binh lực của hắn, tạo điều kiện tiền đề thuận lợi cho chúng ta trong các cuộc đại chiến sau này trên lãnh thổ đất Ngô. Lực lượng mà ta dùng để tấn công thực sự vào Ngô quốc nằm ở Lỗ quốc, đó là đội quân hiện tại do Chúc Dung vương thúc, Tôn Vũ, cùng Anh Đào thống lĩnh, đó chính là đội kì binh phạt Ngô phục quốc của chúng ta.
Địa thế của tòa thành Na Xử kia rất hiểm yếu, là một trong ba tuyến đường bộ mà Cơ Quang lựa chọn để rút quân, hơn nữa lại là con đường ngắn, nhanh và tiện lợi nhất, là vùng đất mà trong binh gia buộc phải có được, đây chính là lý do quan trọng thứ nhất mà ta chọn nó. Thứ hai, nơi này nếu tiến về Nam, có thể công phá Dĩnh Đô, một khi đội quân cần vương của Sở quốc tề tụ đông đủ, chúng ta có thể mượn nơi này làm bàn đạp để tạo thành thế gọng kìm với Sở quân kẹp Cơ Quang lại; Nơi này nếu tiến về Bắc, chỉ hai mươi dặm xa đã đi tới Hán Thủy, chúng ta thủ tại nơi này, dựa vào địa lợi, khi thời cơ thích hợp, có thể rút lui quân đội bất cứ lúc nào, men theo dòng Hán Thủy Đông tiến, từ vùng nước Trường Giang giết trở lại Ngô quốc, rồi lại đi đường bộ, đây cũng là đoạn đường ngắn nhất.
- À...,
Yểm Dư trầm ngâm trong chốc lát, rồi vuốt cằm nói:
- Không sai, suy nghĩ của cháu thật thấu đáo, ta đồng ý với quyết định của cháu, có điều ta còn có một vài ý kiến nữa. Gần ba vạn đại quân của ta, tất cả dồn tụ đồn trú tại nơi này là không hợp lý, huống hồ tuy bảo nơi này là hiểm địa, nhưng nó cũng là tuyệt địa, đội quân cần vương của người Sở hiện tại đang lục tục đi về Tùy quốc, nhất thời không thể tới đây, nếu như chúng ta chiếm đóng tòa thành đó vào thời điểm này, Cơ Quang nhất định sẽ phái trọng binh đánh ngược trở lại, chẳng may để chúng bao vây trong tòa thành đó, đội quân cô độc của chúng ta sẽ trở nên "khéo quá hóa vụng" mất thôi.
Ta chinh chiến ở Sở quốc suốt một năm, có hiểu biết nhất định về địa hình địa lý ở nơi này. Ta còn nhớ từ nơi này hướng về phía Tây Bắc, khoảng chừng ba mươi dặm, có một chiếc hồ lớn dựa vào núi, hồ tên gọi là Bách Tân. Hồ Bách Tân thông sông Hán, nối sông Chương, chu vi vài trăm dặm, dựa núi tựa hồ, dễ thủ khó công. Theo ý kiến của ta, sau khi chúng ta hạ xong tòa thành này sẽ chia binh đồn trú ở hồ Bách Tân, tạo thành thế ỷ giốc với tòa thành này, tương trợ lẫn nhau. Như vậy sẽ tránh bị rơi vào tình thế hiểm nghèo cô lập.
Kinh Lâm khen ngợi:
- Lời công tử Yểm Dư nói quả là chí lý. Chuyện binh không thể khinh suất, nên dùng kế sách vẹn toàn này. Hơn nữa, chúng ta phạt Ngô sẽ có khả năng phải dùng tới đường thủy. Con đường đó đến từ Vệ quốc, chúng ta lại không có lấy nổi một còn thuyền. Hồ Bách Tân khuôn viên mấy trăm dặm, lại thông tới Hán Thủy, nhân mã của chúng ta đồn trú tại hồ Bách Tân có thể nhân tiện thu gom thuyền bè lại phòng khi sử dụng tới, một khi đến lúc sử dụng là có thể tùy ý huy động được ngay.
Mọi người bàn tán sôi nổi, ai nấy đều phát biểu bổ sung ý kiến, cho đến khi ánh trăng đã lên cao vời vợi, chiếu sáng mọi nơi, khiến cho bóng dáng của họ in trên nền đất che lấp khuôn mặt người đối diện, đám đông mới thôi bàn tán. Mọi người thống nhất, trước tiên đoạt lấy tòa thành này, chiếm đóng con đường bộ chính yếu để lui binh của Cơ Quang. Sau đó chia binh ra hồ Bách Tân, kết hợp với nhau chặt chẽ, đồng thời thu gom thuyền bè để sử dụng lúc về Ngô tác chiến. Trong màn đêm, tòa thành kia bốn bề yên ắng, đại đội nhân mã nấp sau cánh rừng rậm rạp, Khánh Kỵ chỉ cầm ba ngàn binh sĩ già dặn có kinh nghiệm tác chiến lâu năm, trườn sấp đi về phía trước, từ từ tiếp cận tòa thành. Tại một nơi trên sườn núi, Khánh Kỵ ra lệnh quân sĩ dừng lại, ngẩng đầu xem xét tỉ mỉ động tĩnh trong thành, tòa thành kia trong bóng đêm giống như một con quái thú cô hồn dạ quỷ, lẳng lặng thủ phục ở đằng kia.
Ghé tai nghe ngóng động tĩnh trong thành, Khánh Kỵ lặng lẽ đứng lên, nắm chặt thanh trường mâu trong tay:
- Xung trận đoạt thành! Ai lên thành trước được tấn thêm một bậc, giết tên đầu sỏ được tấn hai bậc, xuất phát!
Trong màn đêm yên tĩnh, phát ra một tiếng động, đó chính là âm thanh phát ra do ma sát từ những bộ giáp trụ của binh sĩ khi nhất tề đứng dậy. Sườn núi bỗng nhiên cao thêm một đoạn, kiếm kích sắc bén dưới ánh trăng tỏa sáng phát ra những ánh quang mang ớn lạnh. Những công cụ công thành thô sơ được các võ sĩ nhấc lên, bọn họ giống như dòng thủy triều đổ xuống sườn núi, tiếng bước chân rầm rập từ từ phát lớn, như voi dữ dậm chân, đất đai rung chuyển.
- Giết!
Khi bọn họ tiến tới dưới chân thành, có người phát ra một tiếng thét gầm giận dữ, giống như thể dòng đại hồng thủy tìm được lỗ hổng để xối xả, ba nghìn sĩ binh cùng lúc hô gào, một tiếng gầm đáng sợ phát ra trong đêm đen, quây lấy tòa thành trì nhỏ bé kia.
Chiến kiếm huy vũ, những công cụ đầu nhọn thô kệch công thành va đập vào chiếc cổng thành mỏng manh, một làn hỏa tiễn trong đêm như cơn mưa sao băng rót xuống tòa thành, ánh lửa và sắc máu tóe ra không ngừng.
Dưới sự công kích không ngừng, chiếc cổng thành không được dày dặn cho lắm đã bị đánh phá cho bầm dập gãy nát, trong ngoài thành ánh lửa bốn bề, quân trên thành và quân thủ thành của Ngô quốc bắt đầu triển khai chiến trận, hơn trăm chiếc thang gỗ thô sơ được gác lên tòa thành thấp nhỏ, binh sĩ trườn bò lên như bầy kiến, không ngừng có người kêu thảm rớt xuống dưới, không ngừng có người tiếp tục leo lên, quan binh thủ thành vội vã ứng chiến rất nhanh chóng bước vào giai đoạn giao chiến bằng binh khí ngắn.
- Quân địch không phải người Sở!
Có người nhìn thấy qua ánh lửa lập lòe, phát ra câu nói kinh hãi.
- Ngô quốc Khánh Kỵ, thảo phạt nghịch tặc Cơ Quang, kẻ nào hàng thì sống, chống cự thì chết!
Nhân mã của Khánh Kỵ thuận đà la lớn.
Khánh Kỵ rời nước mới được hơn một năm, trong đám sĩ binh người Ngô vẫn còn uy danh là "kẻ không thể đánh bại", vừa nghe tới đây là nhân mã của Khánh Kỵ, những quan binh Ngô quốc vốn đã trở tay không kịp nay lại càng thêm hoảng loạn.
Khánh Kỵ ngạo nghễ đứng trên trận tiền, có chút nhíu mày, Yểm Dư cầm mâu đứng kế bên, bèn hỏi:
- Đang nghĩ gì vậy?
Khánh Kỵ khẽ lắc đầu, hạ giọng nói:
- Sự phản kháng của quân Ngô mạnh mẽ hơn là ta tưởng.
Yểm Dư cũng thoáng gật đầu:
- Đúng vậy, hơn một năm nay, quân Ngô với ta đã nhiều lần đại chiến ở Sở quốc, ngu thúc (chỉ Yểm Dư) bất tài, nhiều lần bại trận, sự sợ hãi trong lòng của quân Ngô đã rất nhỏ nhoi.
Khánh Kỵ lắc đầu nói:
- Vương thúc cố nhiên binh bại tại Sở quốc, Khánh Kỵ lần trước phạt Ngô không thành, bại trận trở về, cũng khiến cho sự lo sợ của đám sĩ tốt giảm đi nhiều. Huống hồ, nguyên nhân quan trọng nhất chính là, trong thời gian hơn một năm qua, e là Cơ Quang đã thay thế toàn bộ tướng lĩnh trong quân đội rồi.
Hắn im lặng trong chốc lát, rồi bỗng nhiên cười nói:
- Cơ Quang thay thế tướng lĩnh quân đội, nhưng mới chỉ được có một năm có lẻ, trẻ con của Ngô quốc vẫn chưa trưởng thành, hắn không thể nào thay thế toàn bộ binh sĩ tướng lĩnh trong quân được. Binh lính Ngô quốc đã quên mất võ dũng của hai ta, vậy chúng ta hãy dùng sự thực, khiến bọn chúng lại lần nữa phải sợ hãi e dè!
Câu nói của Khánh Kỵ nhen nhóm ý chí chiến đấu trong lòng Yểm Dư, hắn nắm chặt trường mâu, cao giọng cười lớn:
- Chính xác, chúng ta hãy dùng sự thực bằng máu nóng, khiến cho chúng sợ hãi lần nữa.
Hai chú cháu nhìn nhau cười ha hả, tiếng trống trận kinh động lòng người vang lên dồn dập, xóa sạch tàn vết của những âm thanh khác trên chiến trường.
- Theo bản công tử công thành, trong thời gian ba nén hương phải chiếm cho được tòa thành này!
Khánh Kỵ và Yểm Dư cầm mâu xung phong, tám trăm binh sĩ tay cầm kiếm mâu theo sát phía sau, bọn họ đạp mạnh từng bước về phía trước, mỗi lần đi một bước, liền dùng sống kiếm đập lên bì thuẫn thật mạnh, phát ra tiếng "Coong" thật mạnh. Tám trăm người đồng thời dùng kiếm gõ thuẫn, tiếng động này giống như tiếng rít gào, còn đáng sợ hơn cả tiếng trống trận.
- Coong! Coong! Coong!
Khánh Kỵ và Yểm Dư soái lĩnh binh lính, đích thân xông lên phía trước.
Đôi bên đã bước vào giáp chiến, điều Khánh Kỵ không ngờ tới là, binh sĩ Ngô quốc cố sống cố chết kháng cự, thề chết không lui. Hắn điên tiết lên, sát ý nảy sinh. Binh sĩ Ngô quốc chết trong trường mâu của hắn đã đếm không xuể, toàn thân chiến bào đều nhuốm đỏ sắc máu. Toàn bộ tòa thành đã không còn những tiếng chỉ huy (đúng hơn là thét gào chỉ huy thế nào cũng chả ai nghe thấy), ai ai cũng chỉ lo chiến đấu vì bản thân mình. Đám hộ binh quây kín xung quanh Khánh Kỵ chuyển vào một hẻm nhỏ, trong căn hẻm tối tăm đột nhiên vang lên một hồi thanh âm.
- Cẩn thận đề phòng!
Khánh Kỵ hét lớn, đồng thời vứt bỏ thanh trường mâu lúc này đã không còn thích hợp khi chiến đấu trong ngõ hẹp, rút ra Thừa Ảnh kiếm của hắn. Hắn đã ý thức được rằng mình đang lâm vào một trận địa phục kích của địch. Một bóng đen trước mặt mang theo một luồng sát khí lao tới, Khánh Kỵ nghiêng người xoay chuyển, Thừa Ảnh kiếm linh hoạt quét một đường nửa hình tròn, chém đứt ngọt xớt đầu lâu của đối thủ, cùng lúc mũi kiếm chỉ về phía trước, khi tên địch thứ hai còn chưa kịp phản ứng, thì lưỡi kiếm đã xuyên thẳng qua ngực hắn.
"Cạch cạch cạch", tiếng bước chân phía sau vang lên dị thường, Khánh Kỵ không chút nghĩ ngợi, vặn người lại, kiếm quang bổ xuống, "keng" một tiếng, song kiếm giao thoa, đoản kiếm của người kia bị hắn một kiếm chém đứt, lưỡi kiếm của Khánh Kỵ bổ xuống chính giữa mặt hắn, từ mũi xuống cổ, rạch một đường máu thẳng tắp, găm lại tại vùng xương đòn trước ngực, Khánh Kỵ thu kiếm, phía sau vang lên một tiếng bình bịch của thân thể đổ xuống, toán quân Ngô đó đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
"Phừng!" Một cây đuốc được thắp lên, Khánh Kỵ một tay cầm đuốc, một tay cầm Thừa Ảnh kiếm, đằng đằng sát khí soi rõ khuôn mặt tên quân Ngô vừa đánh lén hắn, tuy rằng tên đó nằm trong vũng máu, nhưng hắn vẫn chưa chết.
Ánh lửa lờ mờ, dường như có chút thân thuộc, có điều máu me khắp mặt, không dám khẳng định chính xác, Khánh Kỵ nguôi ngoai sát khí, quát rằng:
- Ta là vương tử Khánh Kỵ, ngươi là kẻ nào?
Người kia sửng sốt, sau đó cười buồn bã nói:
- Khánh Kỵ? Thì ra là ngươi...
Khánh Kỵ nghe thấy giọng nói đó, thân thể không khỏi chấn động, nghẹn ngào kêu lên:
- Sư phó?
- Cát Hoa sư phó!
Khánh Kỵ vội vàng quăng kiếm, ngồi xổm xuống đỡ ông vào trong lòng. Đám lính đứng vây quanh cầm đuốc soi sáng, để bọn họ ở chính giữa, cây đuốc vang lên tiếng rít gào trong gió lạnh, nghe mà sởn hết gai ốc.
- Vương tử...
Cát Hoa muốn cười lắm, nhưng hắn bị một kiếm của Khánh Kỵ bổ từ trên trán xuống dưới hàm, đôi môi đều nứt cả ra, nụ cười trông vô cùng kỳ dị, lại thêm khuôn mặt máu me be bét, trông giống như quỷ dạ xoa hiển linh vậy.
- Hồi vương tử còn nhỏ, Cát Hoa luôn đau đầu nghĩ cách để thua vương tử, đến khi công tử trưởng thành, Cát Hoa muốn không thua cũng chẳng được nữa. Vương tử từ nhỏ chí lớn, Cát Hoa thua giả thua thật với người, trước sau đã có cả vài nghìn lần rồi, lần này... lần này có lẽ là lần cuối cùng rồi.
- Sư phó!
Khánh Kỵ không cầm được lòng bật khóc, nước mắt chảy ròng ròng, hai người động thủ trong bóng đêm, Cát Hoa không biết rằng người mà mình đợi sẵn ở đây mai phục chính là Khánh Kỵ, Khánh Kỵ cũng không hề biết rằng người mà hắn phản kích lại là ân sư dạy võ, võ công của Cát Hoa hiện tại đã không bằng hắn, nhưng cũng không thể một chiêu hạ thủ như vậy được, trừ phi kiếm của Khánh Kỵ quá sắc bén, nếu không thì Cát Hoa đã không dễ dàng táng mạng như vậy.
Từ thuở nhỏ, Khánh Kỵ đã được cha là Ngô Vương Liêu chọn lựa cho hắn bốn vị sư phó võ nghệ cao cường truyền dạy võ công, trong bốn người đó Cát Hoa là người truyền thụ kiếm thuật cho hắn, tính tình của ông là hiền hòa nhất, cũng bởi Khánh Kỵ là con cưng của Ngô Vương, nên Cát Hoa không khỏi có phần nuông chiều hắn. Khánh Kỵ hoặc là ham chơi, hoặc là lười biếng, Cát Hoa đều cố tình che giấu hộ hắn. Ông không phải là người thầy nghiêm khắc, nhưng trong lòng Khánh Kỵ thuở còn ấu thơ, luôn cảm thấy rằng ông là người sư phó tuyệt vời nhất. Giờ đây ông chết thảm dưới lưỡi kiếm vô tình của Khánh Kỵ, khiến hắn không cầm được lòng mình, kêu khóc thống thiết.
Cát Hoa thở dốc liên hồi, giọng nói yếu ớt:
- Vương tử, xin dung thứ... xin dung thứ cho tội kháng cự tập kích của Cát Hoa. Cát Hoa... Cát Hoa cũng là do bất đắc dĩ...
- Con không trách thầy, không trách thầy, sư phó, người đừng nói gì nữa, con lập tức đi tìm y sĩ...
Đôi mắt của Cát Hoa đã được che phủ bởi một tầng máu tươi, những gì ông trông thấy chỉ là một dải dài sắc máu, không còn nhìn thấy hình hài của Khánh Kỵ nữa. Cơ thể ông khẽ run rẩy, cảm giác càng lúc càng lạnh lẽo. Biết rằng mình đã không thể qua khỏi, liền nắm chặt lấy tay của Khánh Kỵ, gắng hết sức nói:
- Vương tử, Cát Hoa... đã không trụ nổi thêm được nữa rồi. Xin đừng oán hận Cát Hoa, cũng xin đừng... oán hận những sĩ tốt kia...
Thanh âm của ông ngày càng yếu ớt, cố gắng cầm hơi nói nhỏ:
- Đại vương... đại vương nghe nói vương tử đến Sở quốc, đã... đã hạ lệnh xuống ba quân tướng sĩ: Phàm là Ngô quân, chỉ cần đụng độ Khánh Kỵ, kẻ nào không đánh, tự ý rút lui... Giết! Vứt bỏ binh khí đầu hàng, giết... giết hết cả nhà. Cát Hoa... Cát Hoa bất đắc dĩ...
Khánh Kỵ phải hơi nghiêng tai mới có thể nghe rõ những tiếng thì thào yếu ớt của ông, Cát Hoa nói tới đây bỗng nhiên ngừng lại, Khánh Kỵ từ từ nâng đầu lên, chỉ thấy đầu của ông đã rủ xuống khuỷu tay của mình, bàn tay kia vẫn nắm chặt lấy cánh tay mình, chặt tới mức mảnh giáp che tay hơi lõm xuống.
Khánh Kỵ ngồi quỳ trên mặt đất rất lâu, cho đến khi thân thể đã cứng đờ, mới dùng tay gạt từng ngón tay của ông ra, từ từ đặt ông nằm ngay ngắn trên đất, cơ thể của hắn đã nhuốm đầy những giọt máu đã khô lại của Cát Hoa, từng cơn gió thổi qua, khiến cho da thịt trên cơ thể hắn khẽ rùng mình.
Tiếng chém giết bốn bề đã ngừng lại, nhiều đội sĩ tốt thắp đuốc tuần tra lùng sục khắp thành. Có người nhìn thấy Khánh Kỵ đang ở nơi này, Lương Hổ Tử cụt tay cầm theo thanh trường kiếm đang rỏ máu ròng ròng rảo bước về phía hắn.
- Thu liễm thi thể của ông, rồi chôn cất ông cho tử tế, để ông được yên nghỉ.
Khánh Kỵ khe khẽ căn dặn cho sĩ tốt đứng bên.
- Công tử!
Lương Hổ Tử chạy tới gần, chắp tay nói:
- Tòa thành đã hoàn toàn nằm trong quyền kiểm soát của chúng ta, thật kỳ lạ, lần này quân Ngô chống cự quyết liệt khác thường, biết rõ không địch nổi vậy mà có rất ít kẻ đào tẩu, gây tổn thất không ít cho các huynh đệ của chúng ta. Không biết trong thành có nhân vật quan trọng gì không, A Cừu và Tái Cừu đang thẩm vấn một số tù binh ít ỏi bắt được.
- Chẳng có nhân vật quan trọng nào ở đây hết.
Khóe môi Khánh Kỵ khẽ nhếch lên:
- Phân phó xuống dưới, thu dọn chiến trường, tiếp quản thành trì, đón đại quân vào thành. Phái hai nghìn người đêm nay phòng thủ thành trì, thám mã tỏa ra cách ngoài thành hai mươi dặm. Bố trí ổn thỏa cho những người thương vong, những người khác an bài nơi nghỉ ngơi, sáng sớm ngày mai tu sửa thành trì, dựa vào địa thế hiểm yếu nằm kẹp giữa hai dãy núi, biến nó thành một cứ điểm trọng yếu phong tỏa Dĩnh Đô.
- Rõ!
Lương Hổ Tử trông thấy Khánh Kỵ vẻ mặt đau thương, không khỏi nhìn xuống dưới lòng đất xem thi thể, rồi sau đó mới chắp tay bỏ đi.
- Cơ Quang..., thật là tên cáo già! Ngươi cứ cẩn thận... chơi với lửa có ngày chết cháy!
Trong mắt Khánh Kỵ ánh lên một tia nhìn dữ dằn, hai bàn tay dính máu nắm thật chặt, các khớp xương phát ra tiếng kêu răng rắc.
Trời sáng, trong thành ai nấy cũng đều tất bật, những cổng thành, tường thành bị hủy hoại đều được sửa chữa, gia cố lại. Trên thành chất đầy gỗ đá, hai đội nhân mã do A Cừu, Tái Cừu thống lĩnh, chia nhau ra đồn trú tại hai bên núi, giống như hai cái gọng kìm, hô ứng cho tòa thành Na Xử ở chính giữa.
Yểm Dư và Kinh Lâm lãnh một nửa quân, đi về vùng hồ Bách Tân ở phía Tây Bắc, đồng thời thu gom thuyền bè, rồi tận dụng các khu rừng nguyên sơ được hình thành từ hồi thượng cổ đến bây giờ để lấy gỗ xây dựng các chiến hạm to lớn.
Lương Hổ Tử ở lại cùng Khánh Kỵ coi giữ thành Na Xử, đôn đốc tu sửa thành trì, gia cố phòng ngự. Khánh Kỵ một mặt phái thám mã đi dò la tin tức Dĩnh Đô, một mặt sai người đi liên lạc với Sở vương và Phí Vô Cực, để xác định kế hoạch hành động, đồng thời nghe ngóng tin tức từ phía Lỗ quốc. Theo tính toán về lộ trình và thời gian, tín sứ của hắn chắc đã đến Lỗ quốc Phi Hồ cốc, Chúc Dung và Tôn Vũ chắc đã có động thái tiếp theo rồi.
Đồng thời, hắn còn điều động thêm vài đội nhân mã đi bố cáo từ trong thành Na Xử cho đến vùng dân dã xung quanh rằng "Na Xử thành" hiện đã nằm trong tay hắn, hơn nữa Khánh Kỵ đã ký kết hiệp ước đồng minh với người Sở, vì vậy nên người dân Sở quốc hãy ở nguyên tại nhà, không cần phải bôn ba tứ phía chạy nạn, đồng thời khuyên nhủ những cư dân trong thành Na Xử chui lủi trốn tránh trong rừng rậm trở lại thành trì.
Các đội quân nhận được chiếu thư cần vương của Sở vương đang lũ lượt hành quân tới Tùy quốc để hội quân cùng Sở vương, còn phía Dĩnh Đô không hề có bất cứ phản ứng nào trước việc Khánh Kỵ chiếm lĩnh được "Na Xử thành", khiến người ta bàn tán về những tính toán của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư. Thám mã báo tin về, chỉ biết được rằng quân Ngô đã đẩy nhanh tốc độ vận chuyển của cải từ Sở quốc về, điều đáng chú ý là, đại tướng số hai thủ hạ của Cơ Quang là Bá không có động tĩnh gì trong thời gian này, không hề thấy bất cứ hành động nào của hắn ở Dĩnh Đô, Khánh Kỵ rất để tâm tới hành tung của hắn, chỉ tiếc là đã tìm đủ mọi cách nhưng vẫn không thể tìm ra được tăm hơi nào của hắn. Đại chiến sắp nổi lên, thành Na Xử tạm thời khôi phục lại vẻ yên bình. Rất nhiều người Sở trong thành Na Xử trở về gia viên, trong đó có một vài thương nhân, còn nhận được tiền đặt cọc của Khánh Kỵ, giúp hắn thu mua lương thảo. Những người bình dân dễ thỏa mãn chỉ biết được rằng mình đang có người bảo vệ, giống như một người bạn đáng tin cậy vậy. Ngô quốc Khánh Kỵ một năm trước là nỗi khiếp sợ của họ, giờ đây trở thành vị thần hộ mệnh trong mắt họ.
Tòa thành Na Xử sau khi đã dọn dẹp vết máu và lửa xém giờ đây như được hồi sinh trở lại, mang một sức sống hoàn toàn mới, bước chân của mọi người không còn thất thểu vội vã, phụ nữ và trẻ em cũng bắt đầu xuất hiện trên phố, rảo bước trên đường. Thỉnh thoảng còn nghe thấy từng trận cười rộ lên.
Chậm bước trên con phố trong thành, trong lòng Khánh Kỵ có một cảm giác rất kỳ lạ. Gian khổ từ việc sát phạt mà ra, hạnh phúc cũng từ việc sát phạt mà ra. Trường mâu và lợi kiếm của hắn đã giết hại không biết bao nhiêu người, khiến cho rất nhiều gia đình bị tan nát trong chiến tranh, người vợ thành góa phụ, người con mất đi người cha, gia đình vốn đang hạnh phúc trở thành tang thương. Ngược lại, cũng là trường mâu và lợi kiếm của hắn, lại có thể bảo vệ che chở cho một số phu quân của những người khác, gia đình hạnh phúc ngập tràn, tiếng khóc xưa kia nay đã thành tiếng cười rạng rỡ.
Giữa thị với phi, đúng với sai, vốn dĩ không hề có một ranh giới rõ ràng, càng không thể đúng với tất cả mọi người.
Khánh Kỵ đưa mắt nhìn về phía Đông, tuy là Giang Nam, nhưng trên đồng ruộng lại không thấy ai làm việc đồng áng, các chị em phụ nữ ngồi dưới mái hiên đan sọt, dệt vải, phía sau lưng là căn nhà được đắp bùn vừa mới xây xong còn tanh mùi bùn, mái hiên làm bằng cỏ tranh vẫn còn chút màu xanh tươi mới, bọn họ cười đùa trò chuyện, thản nhiên đón nhận những ánh mắt của nam nhân cầm giáo mác đi qua, nếu nhìn thấy một vài sĩ binh tướng mạo anh tuấn trẻ trung, họ còn mạnh bạo ngẩng đầu lên nhìn rồi cùng chị em bàn tán một phen suốt từ đầu đến chân anh chàng đó.
Trông thấy những cô nương dễ thương mạnh bạo kia, khóe môi Khánh Kỵ không giấu nổi một nụ cười vui vẻ.
- Mấy cô nương người Sở kia ngoại trừ eo ót cũng tạm được ra, còn có cái gì hấp dẫn nữa?
Quý Tôn Tiểu Man đứng ở cách đó không xa bất bình nói, nàng õng ẹo cái eo nhỏ của mình, khôi phục lại vài phần tự tin:
- Nếu không phải là mặc bộ áo giáp này, thì eo của ta cũng thon nhỏ như họ.
Thúc Tôn Diêu Quang đứng bên cạnh cũng mặc một bộ giáp y như nàng khẽ gườm nàng một cái, rồi hừ giọng:
- Nhìn cái gì mà nhìn? Ta còn chưa nổi cơn ghen đây, ngươi ngoa ngoắt như thế làm cái gì? Đợi khi chàng trở thành Ngô vương, khắp cung đều là nữ nhân, lúc đó ngươi sẽ phải ghen tức đến xịt máu mà chết mất.
- Xấc, ngươi không ghen, thế sao lông mày lại vểnh hết lên thế kia? Chẳng lẽ là vui quá hóa cuồng à?
- Ngươi...
Thúc Tôn Diêu Quang nắm lấy bảo kiếm bên hông:
- Quý Tôn Tiểu Man, ngươi đừng có quên ước định giữa hai chúng ta, khi nói chuyện với ta không được sấc láo.
- Hừ! Là ngươi lên mặt với ta đấy chứ.
Quý Tôn Tiểu Man cười chế giễu:
- Chàng còn chưa được làm đại vương Ngô quốc, vậy mà ngươi lại nói chuyện ngôi vị vương hậu rồi đấy.
Thúc Tôn Diêu Quang khẽ nhảy dựng lông mày lên, cố ý chọc giận nàng nói:
- Ngươi đừng có mơ hão, ta à, chắc chắn là sẽ được ngồi vào chiếc ghế Ngô quốc vương hậu, nếu ngươi còn biết khôn, thì từ bây giờ hãy bớt chọc giận ta đi, nếu không thì sau này sẽ không có tương lai tốt đẹp đâu.
Lương Hổ Tử đứng một bên mồ hôi vã ra như tắm, cười cười khuyên nhủ:
- Hai vị cô nương, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng.
Quý Tôn Tiểu Man hừ lạnh một tiếng, vỗ bảo kiếm bên hông:
- Đừng có uy hiếp ta, bản cô nương ăn mềm không ăn cứng, nếu ngươi còn không phục, thì chúng ta dùng kiếm giải quyết, tìm cơ hội để múa máy tay chân. A.... đúng rồi, nói cho nhà ngươi biết, thanh Hàn Quang bảo kiếm của ta là do chàng đích thân tặng cho đấy.
Quý Tôn Tiểu Man cố ý cười e thẹn, quay người bỏ đi, cố ý bước đi như kiểu nam nhân, ưỡn ngực ưỡn bụng giống như một chú gà trống cao ngạo.
- Ngươi quay lại!
Quý Tôn Tiểu Man giả vờ không nghe thấy, Thúc Tôn Diêu Quang giận lắm, thân thể điên tiết đến phát run, Lương Hổ Từ mồ hôi mồ kê nhễ nhại khuyên bảo:
- Diêu Quang cô nương không nên tức giận, đại nghiệp của công tử quan trọng hơn, lúc này không thể để cho công tử phân tâm, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng, a... nếu như cô nương thích, mạt tướng sẽ đi nói với công tử một tiếng, đem Thừa Ảnh kiếm đến dâng tặng cho cô nương...
- Bỏ đi!
Thúc Tôn Diêu Quang giận dỗi dậm chân:
- Chàng đang chinh chiến quyết liệt ngoài sa trường, đang vào lúc cần đến vũ khí sắc bén phòng thân...
- Đúng quá đúng quá, Diêu Quang cô nương nói thật chí lý, đại cục làm trọng, đại cục làm trọng.
- Hừ...
Thúc Tôn Diêu Quang khẽ hừ một tiếng từ trong lỗ mũi, cố nguýt dài giọng ra:
- Đúng vậy, đại cục làm trọng. Đợi khi đại cục hoàn thành, ta sẽ lại đi tính nợ với chàng!
Thúc Tôn Diêu Quang nói xong, hất mạnh tay áo, nhấc cằm lên, như chú chim khổng tước kiêu ngạo đi theo hướng ngược lại với Quý Tôn Tiểu Man...
Tấn quốc Dực Thành, quốc vương Cơ Khí Tật nhìn sáu mỹ nữ Ngô Việt đang đứng trước mặt, mặt mày hớn hở cười nói với Ngô quốc sứ tiết Úc Bình Nhiên Úc đại phu, khen rằng:
- Ngô oa Việt diễm, thanh thủy phù dung, quả nhiên không phải nói ngoa, ha ha, được, được, được.
Úc Bình Nhiên mỉm cười, khom người nói:
- Đây là tấm tâm ý của quốc quân tệ quốc đối với đại vương, chỉ cần đại vương yêu thích là được rồi.
Nói đến đây, hắn khẽ thở dài rồi nói:
- Tấn quốc là bá chủ trong thiên hạ, Ngô quốc chúng tôi hàng năm đi sứ, đời đời tấn cống, kính sợ Tấn quốc, coi như huynh đệ. Vậy mà, người Sở lại muốn mưu đồ chiếm đoạt Ngô quốc, cấu kết với bọn phản tặc trong nước Yểm Dư, Chúc Dung chờ thời phạt Ngô. Quân thượng chúng tôi bất đắc dĩ, đành phải xuất binh truy bắt đám phản nghịch Yểm Dư, Chúc Dung, thế nhưng bây giờ người Sở lại cầu cạnh sự giúp đỡ từ phía người Tần, Ngô quốc chúng tôi đang có nguy cơ bại vong, ài... lần này e sẽ là lần cuối cùng triều cống đại vương, ngày này năm sau... quân thần Ngô quốc chúng tôi không biết thân xác đã trôi dạt về nơi nào rồi.
Tấn hầu Cơ Khí Tật nghe xong ha hả cười nói:
- Úc đại phu không cần lo lắng như thế, Tấn quốc ta chính là Bá trưởng của chư hầu trong thiên hạ, theo lý phải chủ trì chuyện bất bình trong thiên hạ. Ừ... ngươi cứ tạm về dịch quán nghỉ ngơi, đợi quả nhân... quả nhân triệu tập quần thần, bàn bạc chuyện xuất binh tương trợ quý quốc.
Úc Bình Nhiên nghe xong, mặt mày rạng rỡ, vội vàng cung kính lễ độ quỳ rạp xuống, dập trán xuống đất, dùng đại lễ yết kiến:
- Ngoại thần Úc Bình Nhiên, tạ ơn đại vương.
Tấn quốc là nước hùng mạnh nhất trong các nước chư hầu, thế nhưng vị quốc quân của quốc gia lớn mạnh nhất trong thiên hạ này lại chỉ là một vị nguyên thủ trên danh nghĩa, cũng giống như Lỗ quốc quốc quân, khanh sĩ phân quyền, quốc quân không có quyền hành thực sự. Cơ Khí Tật vốn cũng muốn làm nên điều gì đó, hai năm trước, trước khi Sở quốc Thái Tử Kiến chạy trốn khỏi Trịnh quốc lập mưu làm phản với quyền thần Trịnh quốc, đã từng đến bái phỏng Tấn quốc, thăm dò thái độ của quốc quân Tấn hầu nước láng giềng, lúc đó hắn cũng thầm bày tỏ sự ủng hộ đối với hành động của Thái Tử Kiến, hy vọng Trịnh quốc đại loạn, thừa cơ xuất binh, mượn quân công gia tăng quân quyền của mình. Nào ngờ, hiền tướng Trịnh quốc Tử Sản quả thực là vô cùng lợi hại, đám Ngũ Tử Tư, Thái Tử Kiến còn chưa kịp hình thành kế sách tạo phản hoàn thiện, đã bị Tử Sản nắm được một vài tin tức hạ thủ trước, giải trừ mối họa, âm mưu tạo phản bị phá sản nhanh chóng, khiến quốc quân Tấn quốc buồn bực vô cùng.
Bây giờ lục khanh đã lớn mạnh, năm nay Triệu Giản Tử cấu kết với Tri thị, Hàn thị, Ngụy thị, Phạm thị, Trung Hành thị tiêu diệt lão công tộc Kỳ thị và Dương Thiệt thị. Thế lực của lục khanh lại càng lớn mạnh hơn nữa. Triệu Giản Tử càng được thể khí thế ngút trời, Cơ Khí Tật tự biết việc đã không thể thành được nữa, hùng tâm tráng chí thời niên thiếu đều triệt để hóa thành ảo mộng, sa đọa hoàn toàn vào tửu sắc. Người Ngô biết ý, dâng tặng những mỹ nhân Ngô oa, Bách Việt. Tấn hầu nhìn thấy mà không khỏi khấp khởi hưng phấn trong lòng.
Nơi người Tấn sinh sống nằm ở vùng đất Sơn Tây ngày nay, sát nách với Nhung Địch, dân tộc Nhung Địch nổi tiếng với việc sản sinh ra mỹ nữ, mỹ nhân trong thiên hạ nếu luận về sự gợi cảm yêu kiều, thì mỹ nhân Nhung Địch xếp hạng nhất. Những mỹ nhân vong quốc trong lịch sử, như Đát Kỷ, Bao Tự, Ly Cơ đều mang dòng máu Nhung Địch.
Tấn hầu là quân chủ của Tấn quốc, trong cung tuyệt đối không thiếu tuyệt sắc giai nhân, lại càng có nhiều mỹ nhân Nhung Địch, nhưng lòng tham của người này không biết bao nhiêu là đủ, mỹ nhân Ngô Việt có vẻ đẹp duyên dáng thùy mị của vùng đất quê hương mình, phong tình lại khác biệt với nữ tử Nhung Địch, hôm nay người Ngô biết ý dâng tặng, trong lòng Cơ Khí Tật mừng rỡ lắm lắm, quyết định triệu tập lục khanh, hắn lấy danh nghĩa là quân chủ một nước mà điều phái lục khanh phát binh tương trợ người Ngô.
Ban đêm, trong phủ thủ lĩnh lục khanh Tấn quốc, không miện chi vương (vị vua không đeo vương miện), Triệu Giản Tử.
Dưới ánh đèn, Triệu Giản Tử đang nâng niu thanh bảo kiếm trong tay.
Thanh kiếm có chuôi đen hoàn toàn, không một chút sứt sát, làm cho người ta cảm nhận được sự sắc bén của nó, tuy nhiên, thanh kiếm cầm trong tay, uy nghiêm tự sản sinh, nó giống như một vị trưởng giả hiền từ nhưng không mất đi vẻ uy nghiêm, khiến người ta không dám khinh thường. Ngón tay của Triệu Giản Tử khẽ mân mê thanh kiếm, một luồng lãnh ý từ đầu ngón tay xâm nhập vào trong lòng, thanh kiếm ẩn chứa thần vận mê người, giống như một đôi mắt thâm thúy, tinh thông quảng đại đang chăm chú quan sát vạn vật chúng sinh.
- Thần vật ắt có điều dạy bảo a...
Triệu Giản Tử nâng niu vuốt ve thanh bảo kiếm từng tí một, lẩm bẩm nói:
- Lấy ngũ kim chi anh, thái dương chi tinh để rèn đúc nên thanh kiếm này. Xuất ra có thần, thu vào có uy, sức mạnh vô địch, thần vận tiềm tàng, chính là Trạm Lư... Nhân đạo chi kiếm, nhân giả vô địch...
Hắn hơi nhắm hờ đôi mắt, ngón tay đặt lên trên thân kiếm, nghĩ tới lời nói của Úc Bình Nhiên khi tới gặp hắn.
- Đại phu lấy danh nghĩa sứ tiết đến Tấn quốc chúng ta, theo lý phải bái kiến quốc quân của chúng ta trước, tại sao lại đến gặp ta?
- Bởi vì người có thể cứu giúp được Ngô quốc chúng tôi, không phải Tấn hầu, dưới gầm trời này chỉ có đại phu.
- Hử? Nghe nói ngài mang đến sáu mỹ nữ Ngô Việt, muốn kính tặng cho quốc quân của chúng ta, tại sao lại tặng ta một thanh bảo kiếm?
- Bảo kiếm tặng anh hùng!
Triệu Giản Tử khục khặc cười, đôi mắt hắn đanh lại, tra kiếm lại vào vỏ, lẩm bẩm:
- Tần Sở kết minh, người Tần sẽ không còn phải lo lắng về sau, sau này xuất binh ra Hàm Cốc quan, Đông tiến mà giành thiên hạ, Tấn quốc ta chỉ còn biết đứng mũi chịu sào. Giúp đỡ Ngô quốc cũng chính là giúp đỡ chúng ta. Sáng mai, ta sẽ xin quốc quân xuất chỉ, mời thêm các nước Tào, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân, Trịnh cùng xuất binh, cứu trợ Ngô quốc, phạt Tần Sở!
Yểm Dư và Kinh Lâm đóng quân tại hồ Bách Tân, đốn phạt cây rừng, tìm kiếm thợ thuyền, một mặt tích lũy quân lương, một mặt gia cố thành trì, đề phòng quân Ngô tấn công, đồng thời điều phái thám mã, liên tục giữ liên hệ với Sở vương, Phí Vô Cực, nghe ngóng tin tức quân Ngô, truyền đạt động thái các nước, thám mã đi đông như trảy hội, bên ngoài thì tòa thành giống như một vùng đất bình lặng, nhưng nhìn những chiến mã suốt cả ngày qua qua lại lại, đến cả người dân bình thường cũng có thể cảm thấy được một không khí vô cùng khẩn trương.
Mấy ngày này, vài vị khách thương mệt mỏi tới đây sau một hành trình mệt nhọc, sau khi quân thủ thành tra hỏi xong thì được cấp tốc đưa vào thành ở nhờ trong phủ đệ của Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ nghe nói người đến là Văn Chủng, vội vàng hạ giá nghênh đón, đón hắn vào trong phủ, mừng rỡ ra mặt gọi người lập tức đi chuẩn bị tiệc. Khánh Kỵ đối đãi với những người có địa vị thấp hèn hơn mình một cách trọng đãi như vậy khiến cho Văn Chủng vô cùng cảm kích, chỉ có điều bản tính của hắn vốn là người thâm trầm kỹ tính, trước mắt tuy Sở quốc và Khánh Kỵ hòa hợp như người một nhà, sau này là bạn là thù còn khó đoán định, là một vị đại phu Sở quốc, hắn không dám tỏ ra quá thành thật.
An tọa trên chiếc ghế dưới sảnh, Khánh Kỵ liền hỏi:
- Tử Cầm huynh, huynh vừa từ Tống quốc trở về có phải không?
Văn Chủng chắp tay nói:
- Dạ, được điện hạ nhắc nhở, Văn Chủng ngày đêm gấp rút đi tới Tống quốc, diện kiến Vệ quốc quân phu nhân Nam Tử, có thư tín của điện hạ trong tay, Nam Tử phu nhân tiếp kiến tại hạ, nghe tại hạ phân tích Sở quốc một khi bị diệt vong, thế lực Tấn quốc sẽ chắc chắn xuôi xuống miền Nam, vậy thì Vệ, Tống sẽ phải đứng mũi chịu sào, gánh chịu hậu quả khôn lường, Nam Tử phu nhân biết thế nên lập tức dẫn tại hạ đi gặp Tống công.
Tống quốc tuy nhỏ, nhưng lại là công tước nhất đẳng được Chu thiên tử lệnh phong, xưng công cho Tống quốc quốc quân. Văn Chủng uống một ngụm nước, cười rồi nói:
- Kỳ thực suốt mấy năm nay Tấn quốc luôn cố gắng xâm nhập sang miền Nam, lấn chiếm Vệ Tống, Tống quốc quốc quân đương nhiên đi guốc trong bụng. Sau khi tại hạ phân tích lợi hại, Tống công liền đồng ý tương trợ cho Sở quốc. Tống Vệ máu chảy ruột mềm, như môi với răng, xưa nay cùng tiến cùng thoái, Vệ quốc chịu áp bức của Tấn quốc sâu sắc hơn, một khi Tống quốc đã đứng về bên Sở quốc chúng ta, Vệ quốc đương nhiên không còn cần bàn cãi gì thêm nữa. Khi ta trở về, Tống công liền viết một lá thư, sai người cưỡi khoái mã mang sang Vệ quốc.
Văn Chủng nói đến đây, có chút tự mãn cười nói:
- Có được sự trợ giúp của hai nước Vệ Tống, Trịnh quốc nằm giữa Vệ, Tống, Tấn, Sở ắt hẳn sẽ không nằm ngoài cuộc. Vì vậy khi Văn Chủng quay về liền thuận đường bái phỏng Trịnh quốc quốc quân và thừa tướng Tử Sản đại nhân. Hai năm trước Công Tử Kiến, Ngũ Tử Tư âm mưu sát hại Trịnh quân và Tử Sản, hai bên vốn đã có mối thù không đội trời chung, bây giờ Ngũ Tử Tư được phong làm Ngô quốc tướng quốc, lại cộng thêm dã tâm nham hiểm của Tấn quốc cũng là không nhỏ. Trịnh quân và Tử Sản đại nhân xem xét thời cục, cũng đã đồng ý liên minh với Sở, Bắc chống Tấn quốc, Nam phạt Ngô quân. Trong mấy hôm nay chắc hẳn sứ thần của ba nước đã tới nơi rồi.
Khánh Kỵ nghe xong không khỏi lộ vẻ kinh ngạc, hắn vốn có ý định đưa Văn Chủng sang tấn kiến Tống quốc, là bởi vì giữa hắn và Nam Tử đã từng có một cuộc mật đàm, hắn từng đồng ý rằng nếu như có cơ hội, dưới tiền đề hai bên giúp đỡ nhau cùng có lợi, sẽ giúp đỡ Nam Tử phu nhân củng cố địa vị, khuếch trương thế lực của nàng, để nàng tự tay giết chết Công Tử Triều, xóa giải nỗi hận trong lòng.
Trong bức mật tín kia, hắn đã trình bày tỉ mỉ những điều lợi khi tận dụng thời cục đại loạn, tận dụng liên hệ với Nam Tử liên minh hai nước Vệ Tống tạo sự ràng buộc để hóa giải tình thế. Liệu đoán rằng sau khi Nam Tử gặp sẽ cố hết khả năng để giúp đỡ Văn Chủng, dựa vào trí thông minh cùng thân phận và ảnh hưởng đặc thù của nàng tại hai nước Vệ Tống thì đại sự gần như chắc chắn thành công. Chỉ không ngờ được rằng Văn Chủng, một viên tiểu tướng quân nhỏ bé, lại dám bạo gan đi tới Trịnh quốc diện kiến Trịnh quân và hiền tướng Tử Sản, cầu cạnh Trịnh quốc xuất binh.
Khánh Kỵ nghe được tin tức tốt lành như vậy không khỏi mừng ra mặt, khen tấm tắc:
- Tử Cầm huynh trong chuyến đi này đã nhìn rõ được đại cục thiên hạ, đạp gió cưỡi mây, cầu viện ba nước xuất binh cứu giúp, lập nên công lao to lớn không kể xiết, khi gặp Sở vương chắc chắn sẽ được trọng dụng, tấn phong làm thượng khanh, cấp phong thế hầu, chỉ còn là chuyện dễ như trở bàn tay thôi, chúc mừng, chúc mừng.
Văn Chủng như mở cờ trong bụng, lại khiêm tốn chắp tay nói:
- Văn Chủng có được công lao này, đều là được điện hạ ban tặng, Văn Chủng phải tạ ơn điện hạ mới đúng.
Hai người nói xong nhìn nhau cười khoái trá.
Vệ quốc Đế Khâu, Vệ hầu Cơ Nguyên đang cầm thư tín do nhạc phụ Tống quốc quốc quân gửi tới, cùng các cận thần thân tín Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Bạt, Công Mạnh, Công Tử Kinh, Công Thúc Phát đang mật bàn với nhau. Bắc Cung Hỉ cũng ngồi đó, từ sau khi hắn được Vệ hầu đưa lên địa vị cao quý, giành lấy đại quyền của Tề Báo, Tề Báo với hắn đã nảy sinh hiềm khích với nhau. Bắc Cung Hỉ cô độc đơn côi, đành phải dần dựa dẫm vào Vệ hầu.
Tuy rằng hiện tại hắn không thể hoàn toàn tin tưởng vào Cơ Nguyên, và Cơ Nguyên cũng không thể nào tin tưởng hắn giống như tin tưởng Cừ Bá Ngọc, Công Thúc Bạt, Công Mạnh được, thế nhưng quan hệ qua lại giữa đôi bên vẫn êm dịu hơn rất nhiều, hôm nay hắn có thể được ngồi ở đây đã đủ thấy rằng sự coi trọng hắn như người một nhà của Cơ Nguyên. Đương nhiên, trong đó ẩn giấu những dụng ý thử lòng tin đối với hắn, dù sao thì hắn cũng đang nắm giữ lực lượng quân đội chủ lực của Vệ quốc, chỉ là mục đích này không đủ để nói cho người ngoài biết.
- Các ái khanh, bức thư của Tống công các ngươi đều đã xem qua rồi, chư vị cảm thấy thế nào?
Cừ Bá Ngọc nghiêm nghị nói:
- Quốc quân, Vệ quốc ta tiếp giáp với Tấn quốc, vị "láng giềng" khổng lồ này luôn có dã tâm chiếm đoạt thôn tính Vệ quốc chúng ta, bây giờ Ngô Sở tranh hùng, người Tần tham chiến, Tấn quốc dấy binh xuống miền Nam tiếp viện Ngô quốc, không kể đến chuyện hắn liệu có ý định giữa đường dẫn quân tấn công ngược trở lại, thừa cơ diệt Vệ quốc chúng ta, cho dù hiện tại mục tiêu của chúng là Sở quốc, đến khi Sở quốc bại vong, người Tần mất đi lá chắn, ắt phải lui quân quay lại Quan Trung, lúc đó Vệ quốc chúng ta khó lòng bàn tay xâm lược của người Tấn. Cho nên, thần nghĩ rằng trước mắt liên thủ với Tống, liên minh với Sở, ngăn cản người Tống tiến xuống phía Nam, chỉ cần Sở quốc ổn định, Tấn Sở tạo thế cân bằng, bên nào cũng không dám tự tiện manh động, thì Vệ quốc chúng ta sẽ được an toàn.
Công Tử Kinh nhíu mày nói: "Nói là vậy, nhưng... Vệ quốc ta cận kề với Tấn quốc, Tống quốc lại nằm sau lưng chúng ta, nếu như tuyên chiến với người Tấn, Vệ quốc chúng ta sẽ rơi vào cảnh đứng mũi chịu sào. Đạo lý môi hở răng lạnh đương nhiên ai ai cũng hiểu, thế nhưng một khi giao chiến với Tấn, người Tống sẽ chịu xuất ra bao nhiêu binh mã, chi ra bao nhiêu lương thực tiền bạc giúp đỡ còn chưa nói chắc được, ngộ nhỡ chiến cục Ngô Sở nảy sinh biến động, Tống quốc tính toán thế nào cũng rất khó dự liệu cho chính xác được. Chư hầu với nhau, lợi ích mới là điều kiện hợp tác duy nhất, một tờ minh ước, nói lập thì lập được, nói hủy thì cũng hủy được, chúng ta làm sao có thể dám chắc Tống quốc sẽ đồng tâm đồng lòng với Vệ quốc chứ.
Công Tôn Bạt trầm ngâm trong chốc lát rồi nói:
- Quân thượng, thần cho rằng, theo thế của Vệ quốc, việc dấy binh kháng Tấn là điều bắt buộc phải làm. Về liên minh Vệ Tống, mấy trăm năm nay hai nước luôn giao hỏa với nhau, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, đến thời khắc nguy hiểm này, người Tống chưa chắc đã có lòng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình. Đương nhiên, đưa cả giang sơn xã tắc, nghìn vạn lê dân chỉ để trông chờ vào một lời cam kết của một kẻ quân tử quả thật là quá mạo hiểm. Thần nghĩ, tại sao quân thượng không thúc gọi quân phu nhân hồi quốc? Quân phu nhân là ái nữ của Tống công, giờ đây lại là phu nhân của Vệ quốc chúng ta, thân phận khác thường. Nếu như quân phu nhân trở về, có người bên cạnh, thì có thể đẩy mạnh mối liên hệ giữa hai nước Vệ Tống. Hơn nữa, quân thượng có thể bí mật gửi thư cho quân phu nhân, mời phu nhân quay về, rồi xin Tống công điều một đội đại quân hộ tống theo nàng trở về, tin chắc rằng với mối ràng buộc từ quân phu nhân, Tống công sẽ không dễ dàng ruồng rẫy Vệ quốc đâu.
Công Mạnh tán thưởng:
- Công Tôn đại phu nói chí phải, quân phu nhân là phu nhân của Vệ quốc chúng ta, vinh nhục sống còn của Vệ quốc có mối liên hệ mật thiết với quân phu nhân, Vệ Tống liên thủ cự địch, nếu như có quân phu nhân liên kết ở giữa, thì sẽ không còn gì phải lo lắng nữa.
Vệ hầu trầm ngâm nửa ngày, rồi khẽ gật đầu.
Đợi đến khi mọi người tản đi, con của Công Tôn Bạt là Công Tôn Mậu hộ tống Vệ hầu về cung, đi tới bên hồ Thanh Thủy, Vệ hầu dừng lại, nhìn xuống mặt hồ. Mặt hồ đóng băng, phía trên phủ một lớp tuyết trắng, phát ra ánh sáng chói lòa dưới ánh mặt trời. Những cành cây bên hồ đã héo khô, khẽ đong đưa trong gió, bốn bề tiêu điều u ám.
Vệ hầu bùi ngùi thở dài, từ từ khép đôi mắt lại, thầm nghĩ:
- Chẳng lẽ quả nhân lại phải cúi đầu trước ả tiện nhân đó sao?
Hắn suy tư thật lâu, nói khe khẽ:
- Chuyện nghị sự trong triều lúc nãy, ngươi đều đã nghe thấy cả, vậy ngươi có quan điểm thế nào?
Công Tôn Mậu khẽ phập phồng chiếc mũi, rồi nói:
- Quân thượng, người coi thần như kẻ tâm phúc, thần sẽ nói những lời của một kẻ tâm phúc cho người, nếu như có chỗ nào mạo phạm, dám mong quân thượng thứ tội. Thần cho rằng, lời của gia phụ là có lý. Tuy rằng quân phu nhân không được hòa hợp với quân thượng cho lắm, nhưng đây dù sao cũng là việc trong nhà, quân phu nhân lưu lạc tại Tống quốc, cũng không quá để ý tới chuyện tại Vệ quốc. Quân phu nhân trẻ đẹp mỹ miều, thân phận cao quý, lại không có tình ý gì với quân thượng, nếu như Vệ quốc đại bại thậm chí là vong quốc, đối với Tống quốc mà nói thì bất cứ lúc nào cũng có thể bám lấy Tề quốc hoặc Sở, Tần quốc. Đối với Nam Tử phu nhân, thì nàng có thể tái giá tùy ý, vẫn mang thân phận cao quý tôn nghiêm như cũ. Nếu như gả cho quân hầu trẻ tuổi, nói không chừng lại càng hợp ý của nàng hơn.
Vệ hầu Cơ Nguyên hừ lạnh một tiếng trong lòng, nhưng hắn biết rằng Công Tôn Mậu nói lời khó nghe như vậy thì quả đúng là một tâm phúc thành thực với hắn. Hơn nữa, tiểu tiện nhân kia chẳng có chút cảm tình nào với hắn, nếu thật sự muốn ả tái giá, nói không chừng ả lại thích quá ấy chứ.
Công Tôn Mậu thấy Vệ hầu không mở miệng trách mắng, tiếp tục nói:
- Tuy nhiên, quân phu nhân nếu như ở tại Vệ quốc, thì vinh nhục được mất của nàng lại hòa chung vào với Vệ quốc, với quân thượng. Tống công có ái nữ ở đây, cũng tuyệt đối không dám dễ dàng vứt bỏ đồng minh. Quân thượng vì giang sơn xã tắc, vì lê dân trăm họ tại Vệ quốc, cung thỉnh quân phu nhân trở về, điều đó thì đã làm sao? Huống chi nội tình bên trong, có mấy ai biết rõ thực hư đâu?
Vệ hầu khẽ thở dài, nói:
- Thôi được rồi, để quả nhân viết một bức thư, ngươi phái một kẻ thân tín đi làm tín sứ, mau chóng đi tới Tống quốc, giao cho phu nhân.
Tống quốc đô thành Thương Khâu, Nam Tử đứng dưới một gốc mai, khoác trên mình tấm áo lông chồn, đẹp đẽ kiêu sa, hoa nhường nguyệt thẹn.
Vị tín sứ kia vốn là gia tướng trong phủ Công Tôn Bạt, sau khi Công Tôn Bạt dẫn người vào Đế Khâu, được tuyển chọn vào cung làm thị vệ, là thân tín của con Công Tôn Bạt Công Tôn Mậu, đây là lần đầu tiên hắn được gặp quân phu nhân Nam Tử, tuy từ lâu đã biết tiếng mỹ miều của nàng, hôm nay được gặp tận mắt, không khỏi hơi hoa mắt choáng váng trước vẻ đẹp kiêu sa kia.
Hắn sợ thất lễ nên không dám nhìn nhiều, vội vã cúi thấp đầu, hai tay nâng cao bức thư tín của Vệ hầu gửi sang, đôi mắt chỉ dán xuống đất, nhưng trông thấy đôi giầy da hươu của Nam Tử thôi cũng đã thấy đẹp đẽ lạ thường, hít hà hương vị mê ly lạ thường của phụ nữ, không biết mùi vị của cặp giò kia tuyệt với tới mức độ nào, không khỏi khô rát cổ họng, nuốt nước bọt ừng ực không thôi.
Tuy rằng Nam Tử phải đi tới Tống quốc, trong khoảng thời gian này nàng không còn được ở bên cạnh cha mẹ, nhưng dù sao không còn phải nhìn thấy mấy bộ mặt đáng ghét của Vệ hầu và Công Tử Triều, những kẻ luôn khiến nàng phát ngán, cuộc sống trở nên tươi vui vô cùng. Dung mạo trước kia có chút tiều tụy, giờ đây đã khôi phục lại vẻ lung linh kiều diễm.
Nàng nhận lấy bức thư, bóc ra xem dưới ánh hoa mai, không khỏi bật nụ cười khanh khách.
Tiếng cười kinh động lũ chim khách trên cây, lũ chim vội bay tán loạn, khiến một vài bọt tuyết rơi xuống, những đám bọt tuyết phiêu bồng dưới ánh mắt trời, khẽ thoảng qua khuôn mặt với nụ cười hơi có phần thô lỗ của nàng, vị tín sứ kia nghe vậy ngẩng đầu nhìn cũng không khỏi sững sờ, tham lam cố níu kéo nhìn thêm chút nữa, rồi mới chịu cúi đầu xuống tiếp.
Nam Tử dứt nụ cười, rồi sau đó lại trầm ngâm trở lại:
- Cha ta mong được kết minh với Vệ, đây là chuyện quốc gia đại sự, đâu phải trò đùa trẻ con, đường đường là Tống công, nói xuất binh thì nhất định sẽ xuất binh, quốc quân lại không chịu tin, còn lén lút phái ngươi tới gặp ta? Nếu để cha ta biết được sẽ nổi trận lôi đình.
Vị tín sứ thấp thỏm không yên chắp tay nói:
- Quân phu nhân, việc này có mối liên hệ trọng đại, quốc quân không thể không cẩn thận cho được, kính mong quân phu nhân thông cảm cho.
Nam Tử hừ một tiếng, những bọt tuyết trắng xóa bám lên trên mặt lúc này đã hóa thành mấy giọt nước nho nhỏ, nàng lấy từ trong tay áo ra một chiếc khăn lụa, khẽ lau những bọt nước trên mặt, chậm rãi nói:
- Muốn xuất binh cần phải điều binh trước, điều binh phải có khiển tướng, rất nhiều chuyện cần phải chuẩn bị tới. Trong thời gian ngắn ngủi, lẽ nào người Vệ nhất định phải muốn binh mã của người Tống đến tận nơi thì mới chịu có gan đi đối địch với quân Tấn? Muốn ta trở về nước cũng không phải chuyện khó, chỉ có điều, không phải là vào lúc này, ngươi quay về đi, cứ nói với quốc quân rằng Nam Tử ở cung thành Vệ quốc toàn phải gặp mặt những kẻ đáng ghét, trong lòng không thấy thoải mái, hơn nữa, ta hiếm khi có dịp được quay về nước, bây giờ tiết trời đang rất lạnh, tuyết rơi đầy trời, làm sao có thể quay về đây? Ta phải ở Tống quốc thêm một thời gian nữa, đợi đến tháng ba năm sau, tết đến xuân về, trăm hoa đua nở, băng tuyết tan hẳn thì ta mới trở về.
Vị tín sứ cung kính nói:
- Quân phu nhân, tiểu nhân phụng mệnh đến đây, quốc quân có lời này muốn tiểu nhân bẩm báo cho phu nhân.
- Ồ? - Đôi mắt long lanh của Nam Tử khẽ xoay chuyển, khóe môi nhếch lên lộ ra hàm răng trắng tinh:
- Chuyện gì vậy?
- Quốc quân nói, đại địch trước mắt, lòng người lo lắng, phu nhân về nước có thể ổn định nhân tâm, dám mong phu nhân không ngại cực khổ, mau chóng về nước. Còn về điều mà phu nhân nói... quốc quân đã dặn rằng: nếu như phu nhân quay lại, quả nhân nhất định sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của nàng, để nàng vui lòng quay về.
- Vui lòng quay về?
Đôi mắt to tròn như đào hoa của Nam Tử khẽ hấp háy, ẩn chứa trong đó sát khí uy vũ:
- Rất tốt, vậy ngươi cứ về trước đi, nói với quốc quân rằng, hai ngày nữa Nam Tử sẽ dẫn binh khởi hành, quốc quân để ta vui lòng quay về, ta cũng sẽ để quốc quân vui lòng nghênh đón.
Vệ quốc, Đế Khâu, phủ đệ Tề Báo.
Bên ngoài căn phòng tuyết rơi lạnh lẽo, trong căn phòng ấm áp sắc xuân.
Tề Báo, Trử Sư Phố, Bắc Cung Hỉ, Công Tử Triều cùng một số đại thần trong triều theo phe cánh của họ đang tề tựu đông đủ trong phòng.
Ghế trên có bốn người ngồi, rất nhiều vũ kỹ mặc y phục rực rỡ hoa lệ, bộ ngực trắng trẻo nõn nà, đang ấp vào trong lòng họ, gắp thức ăn rót rượu mời, tiếng cười rộn giã.
Tuy Bắc Cung Hỉ không hợp với Tề Báo, nhưng dù sao cũng là đồng phạm tru sát Công Mạnh Trập, tuy rằng hai người họ tranh đấu quyền lực rất gay gắt, nhưng Bắc cũng lo là một khi Tề Báo bị đổ, Vệ hầu sớm muộn gì cũng sờ gáy khai đao với hắn, vì vậy cho nên tuy Vệ hầu liên tục bày thiện ý, dụ dỗ lấy lòng, nhưng đại sự lớn đến như vậy, hắn vẫn phải thương nghị cùng Tề Báo.
Công Tử Triều chẳng hề quan tâm tới mỹ nhân đang khiêu khích nghịch ngợm trong lòng, nói nhanh với Tề Báo:
- Tề đại phu, cơ hội trời ban đó, đại phu cần phải nắm chặt lấy cơ hội này, xin quốc quân được dẫn binh xuất chinh, tóm lấy binh mã của bọn Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc trong tay, bất luận kết quả liên minh với Sở, chống hoành với Tấn thế nào đi chăng nữa, có đại quân trong tay thì chúng ta cũng được bảo đảm.
Hắn lại chắp tay về phía Bắc Cung Hỉ nói:
- Bắc Cung đại phu, chúng ta đều là những kẻ ngồi chung thuyền, được cùng được, mất cùng mất. Ngài nắm giữ quân đội trong triều, quân đội ngoài triều do Tề đại phu nắm giữ, như vậy thì chúng ta có thể nói là vững như bàn thạch rồi. Tề đại phu, Bắc Cung đại phu hết đời này sang đời khác đều là đại tướng của Vệ quốc, giờ đây Công Mạnh Trập đã chết, phóng tầm mắt về Vệ quốc, ngoại trừ hai vị ra thì còn có kẻ nào đủ tư cách dẫn binh xuất chinh đây? Chuyện này Bắc Cung đại phu cũng nên nói một tiếng tốt trước mặt quốc quân. Còn bản công tử cũng sẽ nói tốt cho Tề đại phu trước mặt quốc quân.
Mỹ nhân trong lòng nâng chén rượu, hồn nhiên đưa tới trước môi của hắn, bị Công Tử Triều bất nhẫn đẩy ra, tuy hắn có danh vị, nhưng rất nhiều chuyện đại sự Vệ hầu Cơ Nguyên đều không khiến hắn tham dự, sự tin tưởng còn lâu mới bằng Công Tôn Mậu. Tiềm lực của Tề Báo to lớn khủng khiếp, Bắc Cung Hỉ đang nắm giữ đại quyền, Trử Sư Phố tuy lực lượng thua kém hơn một chút, nhưng hắn lại là công khanh thế gia suốt mấy trăm năm nay của Vệ quốc, có những mối quan hệ dây mơ rễ má nhằng nhịt với rất nhiều thế tộc, lại thêm cả việc hắn đối với ai cũng vui vẻ hòa nhã, không đắc tội với bất kỳ ai cả, nhân duyên cũng khá tốt, tính ra thì căn cơ của hắn là yếu nhất, làm sao mà hắn không căng thẳng lo lắng vạn phần cho được.
Tề Báo có chút dao động trước chủ trương của hắn, hắn khẽ đưa mắt liếc nhìn Công Tử Triều, mỹ nhân ngồi trong lòng Công Tử Triều tuy rằng bị hắn lạnh nhạt thờ ơ, nhưng những vị đại nhân trên đại đường kia duy chỉ có mình Công Tử Triều là anh dũng đạo mạo, những vũ kỹ trong phủ Tề Báo lấy sắc đẹp để dâng tặng cho khách nhân, khi tiếp đãi khách nhân vốn không quan trọng chuyện già xấu ra sao, có điều nhìn thấy mỹ nam tử thì cũng nhiệt tình hơn một chút, lúc đó thấy Công Tử Triều không muốn uống rượu, liền nắm lấy cổ hắn, hôn nhẹ lên những chỗ nhạy cảm, đến cả áo bào cũng được nới lỏng ra, Tề Báo thoáng nhìn qua, thấy lấp ló qua cổ áo của hắn là một chiếc áo lót của nữ tử, nghĩ lại tin đồn về mối quan hệ của hắn với Vệ hầu Cơ Nguyên, Tề Báo không khỏi cảm thấy hậm hực, ngoảnh đầu nhìn về phía Bắc Cung Hỉ.
Bắc Cung Hỉ cầm lấy chén rượu, đang cúi đầu trầm ngâm. Tuy rằng bản thân hắn hiện tại đang nắm giữ quyền lực lớn nhất, thế nhưng căn cơ của tên Tề Báo với chức danh hiếm có là cả thái sư và thái phó còn thâm hậu hơn cả hắn, tiềm lực cũng vô cùng khủng khiếp, nếu thật sự phải đấu một trận, thì cũng chưa biết ai thắng ai thua đâu, đó chính là nguyên nhân vì sao Tề Báo dám tranh quyền cùng hắn. Hơn nữa, cho dù thế lực của hắn mạnh hơn Tề Báo, cũng không thể tru sát Tề Báo được, tự chặt tay của mình, tạo điều kiện cho Vệ hầu trừ khử hắn.
Nếu để cho Tề Báo nắm giữ bên ngoài, thế lực của hắn sẽ càng thêm lớn mạnh, thế nhưng quyền lực đó đã phải trải qua tay của đám Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc, Công Mạnh, giống như một thanh kiếm sắc bén treo lơ lửng trên đầu, khiến người ta cứ suốt ngày phải nơm nớp lo sợ. Vả lại, Tề Báo có được thực quyền chính trị của mình, những mâu thuẫn giữa hai người cũng sẽ không kịch liệt đến như vậy.
Nghĩ tới điều này, Bắc Cung Hỉ khẽ gật đầu nói:
- Tử Triều nói phải lắm, lão phu nắm nội quân, Tề đại phu nắm ngoại quân, Trử đại phu nắm quốc khố, sẽ không có ai chống lại chúng ta nữa. Chỉ có điều việc này cần phải thương thảo cho kỹ, quốc quân chưa chắc đã giao đại quân cho Tề đại phu, nhưng bất luận thế nào thì chúng ta cũng phải giúp đỡ Tề đại phu có một phần quyền lực trong đó. Đúng rồi, Tử Triều có kế hoạch gì chưa?
- Ta?
Công Tử Triều lúc này mới phát hiện ra mỹ nữ nằm trong lòng đã nới lỏng áo choàng của hắn, hắn vội nắm chặt vạt áo, che đi nội y của mình, thuận tay vỗ mông mỹ nhân kia một cái, bảo nàng tránh ra xa một chút, lúc này mới cười nói:
- Ta ở trong cung đấu pháp với Công Tôn Mậu, nhất thời chưa thể bỏ đi được. Vả lại, ta còn phụ trách việc điều phối quân nhu cho Khánh Kỵ, đến nay Vệ quốc chúng ta cũng muốn chiến tranh, việc này có chút rắc rối, ta cũng cần phải cân nhắc thật kỹ mới được.
Trử Sư Phố không đồng tình nói:
- Bây giờ là lúc nào rồi mà còn để ý đến tên Khánh Kỵ làm chi?
Công Tử Triều mỉm cười nói:
- Chuyện đã chấp thuận với người ta, thì phải làm cho xong. Hơn nữa Khánh Kỵ giờ đây cũng là quân đồng minh của chúng ta, hắn đánh bại được Cơ Quang, thì Tấn quốc mới từ bỏ dã tâm tiến xuống phía Nam của hắn. Một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, nhận được sự giúp đỡ của chúng ta từ trước, chẳng phải lúc đó sẽ trở thành một trợ lực to lớn cho chúng ta sao?
Trử Sư Phố lộ ra một nụ cười khinh khỉnh châm biếm trên khuôn mặt mập mạp, hắn đang định nói gì đó, bất chợt nhìn thấy trong ánh mắt Công Tử Triều có thần sắc kỳ lạ nào đó xuất hiện rồi vụt biến mất, trong lòng không khỏi chột dạ: "Tên Tử Triều này khuôn mặt chất chứa dã tâm, không biết hắn đang suy nghĩ gì vậy nhỉ?
Trử Sư Phố là người cẩn trọng chu đáo, trước nay không dễ dàng để đắc tội với người khác, hắn vô tình nhìn thấy thần tình quỷ dị của Công Tử Triều, lời nói giễu cợt đang định thốt ra bỗng không dám nói ra nữa, trong lòng dâng lên vài phần phòng bị.
Khánh Kỵ giữ Văn Chủng ở lại nghỉ ngơi một ngày, Văn Chủng vội vàng đem tin tức bẩm báo cho Sở vương. Ngày hôm sau liền cáo từ lên đường, Khánh Kỵ đích thân tiễn hắn ra khỏi thành, đến tận con đường mòn qua núi để tới Tùy quốc mới chịu thúc ngựa trở về thành.
Khi hắn vừa vào trong phủ, Quý Tôn Tiểu Man liền luống cuống chạy đến, vẻ mặt rạng rỡ nói:
- Mau lại đây mau lại đây, Lỗ quốc gửi thư tới rồi.
Khánh Kỵ mừng rỡ, vội vàng bước lên bậc, Quý Tôn Tiểu Man kéo một tay hắn dắt đi trong đại sảnh, Khánh Kỵ ngượng cười nói:
- Này này, bình tĩnh nào, không cần phải sốt sắng đến như vậy chứ.
Vào trong sảnh, Thúc Tôn Diêu Quang nhìn thấy Quý Tôn Tiểu Man nắm tay Khánh Kỵ, không khỏi đưa ánh mắt hình dao găm phóng về phía nàng, nếu như đôi mắt là con dao, e rằng con dao này đã cắt cụt cánh tay kia của họ. Khánh Kỵ khi bước vào phòng chỉ để ý tới vị tín sứ Lỗ quốc, không chú ý tới thần sắc của nàng. Quý Tôn Tiểu Man cứ như là oan gia mà ông trời sinh ra để đối nghịch với nàng, đôi mắt nhỏ nhắn nhìn thấy rõ biểu lộ của nàng. Quý Tôn Tiểu Man cười khúc khích đắc chí, lòe mặt quỷ dọa trước mặt nàng, dường như vô cùng vui vẻ.
Vị tín sứ kia chính là một thân binh Khánh Kỵ để lại tại Lỗ quốc Phí Thành Phi Hồ cốc, vừa thấy Khánh Kỵ hắn vội vàng bước lên trước quỳ gối nói:
- Nô tài bái kiến công tử.
- Mau đứng dậy đi, mau đứng dậy đi, tình hình Lỗ quốc thế nào rồi?
- Bẩm công tử, sau khi công tử đi, Phi Hồ cốc không thu nạp thêm tân binh nữa, Tôn Vũ tướng quân, Anh Đào tướng quân ngày đêm thao luyện, tổng cộng đã đào tạo được tám nghìn tinh binh. Khi Chúc Dung công tử đến, lại mang theo một nghìn nhân mã, vài ngày trước nghe tin công tử phát binh Sở quốc, Tôn tướng quân và Anh tướng quân lập tức chuẩn bị tập kích Ngô, khi nô tài khởi hành, bọn họ cũng đang nhổ trại, xé nhỏ ra từng tốp đi tới biên giới Ngô quốc rồi tập hợp tại nơi đã định, lúc này chắc là đã đến nơi rồi. Đây là thư của Tôn tướng quân, xin công tử xem qua.
Khánh Kỵ nhận lấy bức thư, khoát tay nói:
- Ngươi ngồi xuống đi.
Dứt lời đi tới ngồi xuống trước ghế thượng tọa giở thư ra xem, căn phòng trở nên yên tĩnh, lặng lẽ dõi theo những thay đổi trên nét mặt của Khánh Kỵ, Quý Tôn Tiểu Man không có việc gì, cũng không chịu ngồi im một chỗ, liền đứng đằng sau lưng Khánh Kỵ, kiễng người lên nhìn bức thư trong tay Khánh Kỵ.
- Hm...!
Thúc Tôn Diêu Quang đằng hắng một tiếng, hung hăng trừng mắt nhìn Quý Tôn Tiểu Man.
Quý Tôn Tiểu Man đưa lại cái nhìn tinh nghịch, ngượng ngùng chắp tay đi ra, gằn giọng lầm bầm nói:
- Ta xem thì đã làm sao? Có phải là thư tình ngươi viết cho chàng đâu, nếu là mấy thứ vớ vẩn ngươi viết cho chàng, thì cầu xin ta ta cũng không thèm xem.
Khánh Kỵ đọc xong, không nhịn được cười lớn.
Lương Hổ Tử, Thúc Tôn Diêu Quang mắt nghếch như chuông đồng, đồng thanh hỏi:
- Thế nào rồi, có tin tức gì chưa?
Quý Tôn Tiểu Man lúc nãy bị Thúc Tôn Diêu Quang hục hặc, bây giờ giả bộ ngẩng mặt nhìn trời, ra vẻ ta đây không thèm nghe, nhưng đôi tai thì lại dỏng lên, nghe ngóng thanh âm của Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ vỗ bàn rầm một cái, cười khoái trá nói:
- Hay, hay lắm. Ha ha ha..., Tề quốc xuất binh rồi, ha ha ha...
- Thật ư?
Quý Tôn Tiểu Man đang giả ngơ không biết gì là người đầu tiên nhảy cẫng lên, chạy tới bên cạnh hắn, cầm lấy tay đưa đẩy, phấn khích đến nỗi khuôn mặt đỏ gay:
- Tề quốc xuất binh rồi? Hay quá là hay, nước lớn nhất ở phía Đông xuất binh tương trợ, Cơ Quang bị kẹp ở giữa, khó bề chống đỡ, hy vọng phục quốc của ngài đã thành công rồi.
Khánh Kỵ cười nói:
- Chưa hẳn, chưa hẳn, Tề quốc xuất binh là xuất binh, nhưng chưa hẳn đã là giúp ta, mà là nhận lời mời của Cơ Quang mà xuất binh, định xuống phía Nam tham chiến.
- Ách!
Quý Tôn Tiểu Man đẩy mạnh bả vai hắn, tức tối nói:
- Ngài bị ấm đầu sao? Người ta đến đánh ngài mà ngài còn vui mừng được?
Khánh Kỵ cười nói:
- Sao mà không vui cho được, hắn muốn tham chiến, cũng cần phải đến đó mới được. Tôn Vũ có mối quan hệ với Tôn thị gia tộc bên Tề quốc, thu được một số thông tin tình báo quan trọng, Cơ Quang muốn mua chuộc các tộc Đông Di cho Tề quốc hòng đổi lấy việc Tề quốc xuất binh, hai phe trong triều đình Tề quốc tranh luận kịch liệt, Điền Khất chủ trương xuất binh, Yến Anh phản đối xuất binh, hai bên tranh cãi loạn xị ngậu, cuối cùng phe xuất binh chiếm thế thượng phong, phe phản chiến uất ức lắm lắm, liền có người đem tin tức về điều kiện trao đổi để kết minh giữa Cơ Quang với Tề quốc rêu rao ra bên ngoài.
Trần quốc, Tào quốc, Lỗ quốc sát vách Đông Di lo lắng thế lực Tề quốc xâm phạm phía Nam, sẽ gây bất lợi cho họ, đã kết thành liên minh, cùng nhau chống lại Tề binh. Cả người Đông Di cũng tham chiến, quân Tề dù có mạnh cũng nhất thời không thể chiếm thế thượng phong dễ dàng được, hơn nữa những nước đó phát binh chính là sự che chắn tốt nhất cho những hành động của đám người Tôn Vũ. Thủy quân Ngô cho dù biết được, cũng nhất thời không thể đoán ra hướng đi và mục đích của họ, làm sao mà ta không vui được? Ha ha ha...
Giữa Tề và Ngô còn có một vùng đất rộng lớn, không có chính quyền nhà nước, lại có rất nhiều bộ lạc sinh sống, dân cư chủ yếu là do hai bộ lạc Hoài Di và Di Hổ . Người Đông Di vốn là chủ nhân của Tề quốc hiện tại, nhưng bọn họ giống như người Anh-điêng ở khu vực Bắc Mĩ, vùng đất này bị người Chu phong hầu xua đuổi ra khỏi vùng đất cố xưa, mấy trăm năm nay đã lui ra khỏi toàn bộ khu vực Sơn Đông, sau đó cùng với sự mở rộng của ranh giới Tề quốc, tiếp tục lui về hướng Đông Nam, cuối cùng bị đẩy về dưới hạ du sông Hoài, trở thành khu vực đệm giữa ba nước Tề Lỗ Ngô.
Nếu như tiếp tục bị Tề quốc lấn chiếm xuống phía dưới nữa thì vùng đất của con cháu người Đông Di sau này đến cả một khoảnh nhỏ cũng chẳng còn, bọn họ chỉ có thể đi xuôi theo thượng nguồn sông Hoài, chạy đến biển Hoàng Hải, chiếm cứ vài ngôi đảo nhỏ để sinh sống mà thôi.
Giờ đây ý đồ bành trướng xuống phía Nam của người Tề bại lộ, các nước xung quanh vô cùng bất an, đã ký kết đồng minh cùng nhau kháng Tề, đồng thời, các bộ lạc trong vùng Đông Di như Doanh, Tần, Từ, Hoàng, Giang, Lý cũng triệu tập cuộc họp liên minh các bộ lạc, uống máu ăn thề, tạo thành liên quân, quyết một trận sinh tử với Tề quốc vì vùng đất sinh tồn cuối cùng của họ. Binh mã Tề quốc đã bắt đầu điều động, vốn muốn phò Ngô phạt Sở, lấy lý do đường đường chính chính xuôi xuống phía Nam, nhân lúc họ không phòng bị mà khuếch trương xuống lưu vực Hoàng giang, lúc đó mới chính thức trở thành trợ Ngô phạt Sở, lúc đó sẽ ký kết liên minh với Ngô, vùng duyên hải nối thành một dải, các nước xung quanh nếu muốn phản kháng sẽ phải mạo hiểm giáp công Nam Bắc, nhưng bây giờ tin tức đã sớm bị tiết lộ, các nước phản ứng mãnh liệt, Tề quốc há miệng mắc quai, đành phải cắn răng tiếp tục tiến tới.
Nghe Khánh Kỵ nói nhân quả bên trong, Quý Tôn Tiểu Man và Thúc Tôn Diêu Quang mới hiểu rõ sự tình, không giấu nổi vẻ vui mừng. Sau đó Khánh Kỵ tiết lộ một phần về kế hoạch tập kích Ngô của Tôn Vũ, mọi người đang vui vẻ, bỗng tiếng bước chân rầm rập của một người bước vào điện, chắp tay nói:
- Báo! Công tử, nhận được tin tức từ Sở quốc, Sở vương bị ám sát tại Cửu Phượng cốc.
Khánh Kỵ nghe xong, sắc mặt bỗng trắng bệch, hắn muốn đứng dậy, nhưng tâm trí khiếp đảm nhất thời không thể nhấc nổi thân mình. Tình hình Sở quốc bây giờ, nếu như Sở vương bị ám sát, lập tức sẽ trở thành đống cát vụn, các công tử tranh đoạt vương vị, chưa biết liệu có ai toàn tâm toàn ý quyết chiến với Ngô không, và liệu có ai đủ năng lực hiệu triệu quân đội Sở quốc? Tất cả khổ tâm của mình đều tan theo dòng nước mất.
- Sở vương thế nào rồi, ngươi nói mau đi!
Trông thấy vẻ mặt Khánh Kỵ kinh hãi thất thần, Lương Hổ Tử vội bước tới dò hỏi thám tử.
- Sở vương không sao, tên thích khách đó đơn thương độc mã thâm nhập vào trong núi, lúc ra tay hành thích bị tướng quân Tử Kỳ của Sở quốc lao lên đỡ thay một kiếm cho Sở vương, Tử Kỳ tướng quân chết ngay tại chỗ, tên thích khách kia cũng tự vẫn mà chết.
Khánh Kỵ nghe được thì sững sờ, hắn chậm rãi hắt ra một hơi nhẹ nhõm, cơ thể đang đứng khom lưng dần dần ngồi xuống trở lại. Cảm giác vào lúc này... hắn rất muốn một tay bóp chết cái tên thám tử chết tiệt kia.
Lương Hổ Tử nghe xong cũng bốc giận trong người, hắn tung chân lên đá một cước vào đít của tên thám tử, quát lớn:
- Cút! Lần sau khi báo tin phải nói cho rành mạch rõ ràng, con bà nhà ngươi chứ.
Thám tử kia chẳng hiểu làm sao, lủi thủi lui ra ngoài.
Khánh Kỵ và Lương Hổ Tử nhìn nhau, trong mắt đối phương đều là sự phấn khởi đến cuồng nộ:
- Cơ Quang hành thích, Sở vương gặp nạn mà không chết, lần này mối thù càng lúc càng lớn thêm.
Đáng tiếc, bọn họ đoán đúng kết quả, nhưng lại không đoán đúng quá trình. Kẻ hành thích Sở vương không phải Cơ Quang, mà là một kẻ đã rơi vào quên lãng từ lâu trong con mắt bàn dân thiên hạ. Chỉ là, Ngô Vương Hạp Lư nổi tiếng với thủ đoạn sử dụng thích khách, trong thiên hạ không ai không biết, vụ này không đổ vào đầu hắn thì vào đầu ai?
Trên đại điện trơ trọi tại hoàng cung Sở vương ở Dĩnh Đô, phát ra tiếng gào thét giận dữ của Ngô vương Cơ Quang: “Bá vô dụng! Dùng thích khách không thể thiếu một trong ba yếu tố thời cơ, địa điểm, cơ hội, thế mà hắn lại hành động sơ suất, quả nhân đem trọng trách này giao phó cho hắn, hắn lại chỉ phái có một tử sĩ lén vào núi động thủ, thật là ngu ngốc hết sức, Sở vương giờ đây chắc là cẩn thận đề phòng hơn, sau này có còn xuất hiện cơ hội nữa không?”
Các tướng đứng dưới điện sắc mặt nghiêm nghị, đều im lặng không thốt lời nào. Tướng quốc Ngũ Tử Tư quét mắt khắp một lượt quần thần đứng đó, bước ra khải tấu: “Đại vương nguôi giận, Bá hành sự xưa nay luôn cẩn trọng kĩ càng, nếu không có kế sách vẹn toàn, tuyệt đối không ra tay bừa bãi. Cái thủ đoạn dùng thích khách này, xem ra không giống hành vi của Bá, hay là đợi tín sứ của Bá về báo tin rồi tính sau.”
Cơ Quang tím tái mặt mày, phất tay áo mạnh một cái, gằn giọng: “Không phải hắn thì còn ai vào đây nữa, nôn nóng muốn giết Sở vương như vậy, ngoại trừ chúng ta, chỉ còn Tề và Tấn, mà hai nước Tề, Tấn không thể nào hành động nhanh chóng như thế được. Hơn nữa, Tề, Tấn mưu đồ thôn tính thiên hạ, nếu chiến sự ở Sở quốc sớm chấm dứt, bọn họ lấy đâu ra cớ để xuất binh? Họ còn mong ở đây càng loạn lên càng tốt ấy, ngoại trừ họ ra, thiên hạ còn ai muốn giết Sở vương?”
Ngũ Tử Tư lắc đầu nhè nhẹ, mái tóc bạc phất phơ, nói: “Thần cũng nghĩ không ra, chỉ là cảm thấy với tính cách của Bá, đây không giống hành vi của hắn.”
Đúng vào lúc này, có người chạy vội vào điện bẩm báo: “Bẩm đại vương, tín sứ của Bá tướng quân đến.”
Ngũ Tử Tư mừng rỡ: “Mau mau đưa hắn vào điện!”
Cơ Quang đang tức tối đi qua đi lại trên đại điện hứ một tiếng rõ to, quay về chiếc ghế vương vị giữa điện ngồi xuống. Một tên tín sứ vội vàng bước vào, dập đầu hành lễ: “Tiểu nhân phụng lệnh Bá tướng quân, bái kiến đại vương.”
Cơ Quang lại gằn giọng, lạnh lùng chất vấn: “Quả nhân giao ba ngàn quân tinh nhuệ cho hắn, bảo hắn đi Tùy quốc thưởng thức phong cảnh đó hả? Bá sao lại chỉ phái có một thích khách vào Cửu Phụng cốc ở Tùy quốc hành thích, hắn phái ngươi về đây là để thỉnh tội với quả nhân đúng không?”
Tên tín sứ sợ hãi quỳ đó, lên tiếng phân bua: “Hồi bẩm đại vương, tên thích khách đó không phải do Bá tướng quân phái đi. Bá tướng quân phái người lén trà trộn vào Tùy quốc dò thám động tĩnh, mới phát hiện có người hành thích Sở vương.”
Cơ Quang ngớ người ngạc nhiên: “Quả nhiên không phải là hắn động thủ ư?”
Ánh mắt Cơ Quang hướng về Ngũ Tử Tư như muốn hỏi gì. Ngũ Tử Tư bước tới hỏi tên tín sứ: “Bá hiện giờ đang ở đâu?”
Tên tín sứ trả lời: “Hồi bẩm tướng quốc, Bá tướng quân nghe được tin Sở vương bị hành thích, biết là Sở vương sẽ đề cao cảnh giác, kế hoạch trước đây khó mà tiến hành được nữa, hơn nữa các lộ binh mã cần vương của quân Sở mỗi ngày đi sang Tùy quốc vô số. Bá tướng quân sợ bị người Sở phát hiện hành tung, đã tránh khỏi đường lớn, dẫn quân mai phục tại các cánh rừng dọc đường từ Tùy quốc đến Dĩnh Đô, ngoài ra còn phái binh sĩ giả làm tiều phu đi dò thám tin tức liên tục.”
Ngũ Tử Tư nghe xong khen ngợi: “Bá quả nhiên hành sự cẩn trọng, suy nghĩ thấu đáo, biết tùy cơ ứng biến, quả là tài giỏi, hắn phái ngươi về đây gặp đại vương, còn có gì dặn dò không?”
Cơ Quang nghe Ngũ Tử Tư nói vậy, thử nghĩ nếu quả thật thích khách không phải do Bá phái đi, Bá xử lí như thế đương nhiên đáng được khen ngợi, cơn giận trong lòng tiêu tan, cất tiếng hỏi lớn: “Nói mau, Bá phái ngươi về đây còn gì nữa không?”
Tên tín sứ khúm núm: “Đại vương, Bá tướng quân nói các lộ binh mã cần vương không ngừng tập kết về Tùy quốc, chắc không lâu nữa quân Sở sẽ rời khỏi Tùy quốc đánh về Dĩnh Đô. Tướng quân vốn nhận lệnh chờ Sở vương tiến về Dĩnh Đô, tập kích vào trung quân chém vua Sở, nhưng giờ Sở vương bị hành thích, đánh rắn động cỏ, bên mình chắc chắn tăng thêm nhiều thị vệ hộ tống, nếu theo kế hoạch cũ, e khó đạt hiệu quả, nên tướng quân phái tiểu nhân về đây, nghe lệnh tiếp theo của đại vương có gì thay đổi không ạ.”
Ngũ Tử Tư lại hỏi han một hồi về tình hình của Bá như thế nào, xong quay qua chắp tay bẩm báo: “Đại vương, nếu như đại vương không định về nước Ngô ngay, như vậy theo ý kiến của thần, cánh quân của Bá không cần triệu tập về đây gấp, kế hoạch thích sát Sở vương tuy là thất bại, nhưng chúng ta phái đi một cánh quân mai phục, sau này ắt vô cùng hữu dụng. Theo ý thần đại vương không vội triệu Bá về, cứ ra lệnh cho Bá phục quân ở xung quanh, lúc cần thiết nói không chừng ta có thể tập kích bất ngờ quân Sở.”
Cơ Quang xưa nay luôn nghe theo Ngũ Tử Tư răm rắp, thấy tướng quốc đã có ý vậy, bèn ra lệnh: “Tướng quốc nói phải lắm. Ngươi tức tốc quay về, lệnh cho Bá mai phục quanh đó, giữ liên lạc với quả nhân, chờ mệnh lệnh tiếp hẵng tính sau.”
Tên tín sứ dập đầu nhận lệnh xong lui ra. Cơ Quang vuốt râu suy ngẫm: “Kì lạ nhỉ, là ai muốn giết Sở vương chứ? Chẳng lẽ…trong số các hoàng thân quốc thích của Sở có kẻ thấy Sở vương gặp nạn, muốn thừa nước đục thả câu, nhân cơ hội giết hắn hòng cướp ngôi? Thật là khốn kiếp, làm hỏng cả chuyện lớn của quả nhân.”
Ngũ tử tư lên tiếng: “Đại vương, kẻ đứng sau lưng vụ này e nhất thời không dễ gì lộ diện đâu ạ. Quân Sở mấy ngày tới chắc xua quân đánh trả, mà…Khánh Kỵ lại sớm chiếm giữ thành trì bên kia, chặn đường rút lui của đại quân ta, dụng tâm của hắn không nói ra thì ai cũng biết, bây giờ chúng ta kéo dài thêm ít ngày tháng, một là có thời gian vận chuyển của cải từ Sở về nước để Ngô quốc ta sử dụng sau này, hai là tạo cơ hội xuất quân tham chiến cho hai nước Tề, Tấn, nhưng quân Ngô ta tiến sâu vào đất địch, cố thủ Dĩnh Đô không phải là cách hay, chúng ta cần bàn bạc kĩ kế hoạch hành động tiếp theo, cứ ngồi đây cố thủ chi bằng chủ động xuất kích, gây cho quân Sở chút thương vong, ngăn cản chúng bao vây phản kích chúng ta, đồng thời việc bố phòng ở Dĩnh Đô cũng phải tăng cường…”
Cơ Quang ngạo mạn cười mỉm: “Về phía Khánh Kỵ, phái thêm nhiều thám mã, chỉ cần hắn có ý đồ bỏ đi quay về tập kích Ngô quốc, chúng ta lập tức men theo con đường như kế hoạch đề ra về Ngô chặn đánh hắn, còn nếu hắn cứ giao chiến với quân ta ở Sở… Hừ! Đợi khi các chư hầu xuất quân, thiên hạ đại loạn, chúng ta mới quay về Ngô quốc, cứ cho đội quân ô hợp của hắn ở lại đây thu xếp tàn cục này đi, ha ha…
Còn về quân đội của người Sở, giống như là trăm vạn con cừu non, tuy đông mà vô dụng, đâu phải là đối thủ quân Ngô hùng mạnh của ta. Hơn nữa số quân người Sở triệu tập được sẽ không quá mười vạn, nếu nhiều hơn thì không cần chúng ta ra tay, trong có các nước phụ thuộc nổi lên làm phản, ngoài có các nước chư hầu thừa cơ xâm lấn, Sở quốc lập tức sẽ tiêu đời. Mười vạn quân Sở, cộng thêm hơn hai vạn quân của Khánh Kỵ, cùng lắm là mười ba vạn quân, còn binh mã của ta có bốn vạn, giờ có thêm tù nhân được thả ra của Sở, quân mới chiêu nạp từ đám nô lệ, cộng lại cũng hơn hai vạn. Sáu vạn quân Ngô chống với mười ba vạn liên quân, nếu đối khánh trước mặt thì chúng chiếm ưu thế, nhưng nếu ta cố thủ thì chúng muốn bao vây, với số quân đó cũng không làm được, ta còn sợ gì bọn chúng nào?”
Ngũ Tử Tư khẽ nhíu mày, khuyên can: “Đại vương, kiêu binh tất bại! Quân Sở bị chúng ta đánh cho một trận tơi bời, nhưng người Sở tuyệt đối không phải là hoàn toàn vô dụng, số quân Sở dũng cảm tử chiến không thiếu, hơn nữa lần này Khánh Kỵ lại dấy binh khởi sự, càng không thể xem thường, ở đây dù sao cũng là Sở quốc, là thiên hạ của người Sở, đại vương sao lại khinh suất như thế này?”
Ngũ Tử Tư nặng lời chỉ trích, Cơ Quang ngược lại mỉm cười không trách phạt, trong số các đại thần cũng chỉ có Ngũ Tử Tư dám lên tiếng can gián Ngô vương Hạp Lư hung bạo này, mà Cơ Quang lại thích tính cách này của hắn. Cơ Quang vuốt râu: “Tướng quốc dạy phải lắm, quả nhân biết sai rồi. Giờ các tướng đều ở đây, tướng quốc sẽ nói kế hoạch chúng ta đã nghị định ra cho các tướng nghe xem sao, nếu có gì không ổn, mọi người có thể bàn bạc cho thỏa đáng ngay tại đây.”
“Dạ, xin tuân ý chỉ của đại vương.” Ngũ Tử Tư chắp tay cúi chào, ung dung đứng thẳng người, vẫy tay một cái, bên ngoài đại điện lập tức có hai võ sĩ bước vào, một tên cầm theo một cuộn tranh to, khi đứng yên trong điện, hai tên võ sĩ mỗi người cầm một đầu cuộn tranh, từ từ kéo cuộn tranh ra hai hướng, Cơ Quang chăm chú nhìn vào, thấy đó là một tấm bản đồ chi tiết.
Ngũ Tử Tư nói: “Tấm bản đồ này là do thần tìm được trong hoàng cung, thần căn cứ theo tình hình điều động binh mã của đôi bên gần đây thêm vào chú thích, vẽ ra tấm bản đồ như mọi người đã thấy. Trên bản đồ có vẽ những điểm và đường màu đỏ, là lực lượng quân ta đang chiếm giữ, còn điểm và đường màu xanh là binh mã của Sở, còn cái tam giác màu xanh lá chính là binh mã của Khánh Kỵ.”
Tấm bản đồ khá lớn, núi non sông ngòi nhìn vào rất rõ ràng, chỉ là trên đó giờ có thêm ba màu đỏ, xanh, xanh lá khiến các tướng nhìn chả hiểu gì cả, lúc này nghe Ngũ Tử Tử giải thích, mọi người so sánh với tình hình phân bố binh lực của các bên trong kí ức của mình, thấy quả nhiên chính xác như trong bản đồ.
Theo như bản đồ có thể nhận ra, khu vực xung quanh Dĩnh Đô tập trung nhiều màu đỏ và xanh nhất, trung tâm của màu xanh chính là Cửu Phụng cốc ở Tùy quốc, các tuyến đường hành quân của quân Sở đều đổ về hướng ấy, sau đó hợp lại thành một màu xanh đậm, từ từ di chuyển về hướng Dĩnh Đô. Tòa thành trì phía Đông Nam của Dĩnh Đô, có một tam giác màu xanh lá, chính là nơi quân Khánh Kỵ trú đóng. Cứ điểm của Khánh Kỵ rất nhỏ, vị trí này chính là yếu đạo hai ngả thủy lục từ Ngô quốc đi sang, Khánh Kỵ đóng quân ở đấy rõ ràng có ý tạo thế gọng kiềm cùng quân Sở bao vây Dĩnh Đô, còn muốn rút quân không tham gia trận chiến, xua quân lui sang phía Đông vòng lại tiến đánh thẳng vào Ngô quốc cũng rất thuận tiện.
Trên bản đồ một màu đỏ tụ tập lại tại vị trí Dĩnh Đô, mấy con đường trọng yếu xung quanh và một số thành trì nhỏ gần Dĩnh Đô cũng có vài chấm đỏ, như các ngôi sao bao bọc xung quanh mặt trăng ở giữa là Dĩnh Đô vậy. Các tướng có mặt trên đại điện đều là tướng lĩnh thân thuộc của Cơ Quang, họ vừa nhìn thấy tuyến đường đỏ chót vẽ từ Dĩnh Đô ra ngoài thì đã hiểu đó chính là đường rút quân về Ngô mà Ngô vương Hạp Lư quyết định.
Ngũ Tử Tử cất cao giọng: “Các tướng xem cho rõ, đám quân cần vương của Sở vương một khi tập hợp lại, chắc chắn từ Tùy quốc tiến thẳng sang phía Đông, chủ soái mười phần có tám chín là Phí Vô Cực, cách đánh của hắn chẳng qua chỉ có hai cách là tấn công thành hoặc bao vây, theo tình hình trước mắt, quân số người Sở huy động được có hạn, hơn nữa quân Sở mới bại trận, lòng quân hoang mang, Phí Vô Cực chưa chắc dám chia quân ra bao vây, sợ bị chúng ta tiêu diệt từng cánh quân, vì thế cho dù gặp trường hợp xấu nhất, chúng ta muốn phá vòng vây về nước cũng dễ như trở bàn tay, đấy chính là lí do đại vương muốn mạo hiểm ở lại Dĩnh Đô, Ngũ Viên không ra sức ngăn cản.
Điều duy nhất đáng lo là tâm ý của Khánh Kỵ, hắn định phối hợp với quân Sở giao tranh với quân ta ở đây hay là thừa lúc quân ta chiến đấu với quân Sở lén xua quân về Ngô đánh chiếm Cô Tô thành? Ta phải cẩn trọng chú ý động thái bên Khánh Kỵ, nhưng…mấy vạn binh mã của hắn, muốn điều động cũng không phải chuyện dễ, cho dù muốn xua quân Đông tiến, dọc đường núi non hiểm trở, sông ngòi chằng chịt, chúng chỉ có hai con đường để chọn lựa, trèo đèo vượt suối, san rừng lấp biển, tốc độ hành quân không quá nhanh, nếu như hắn chọn cách đi thuyền men theo Trường Giang, tuy là thuận theo con nước, nhưng Trường Giang quanh co uốn khúc, tính theo tốc độ của thuyền, hắn không thể đi nhanh hơn chúng ta quay về Ngô quốc, hơn nữa ở Ngô có hai vị công tử Phù Khái và Phù Sai chặn địch, chỉ cần chúng ta cẩn thận hành sự, không có gì đáng phải lo ngại.
Trong thành Dĩnh Đô, quân ta đang đóng chủ lực một vạn năm ngàn quân ở đây, ngoài ra tăng cường thêm ba ngàn quân được trang bị nỏ Sở, khoảng tám ngàn quân tù nhân và nô lệ, họ chủ yếu phụ trách việc gia cố thành trì, đào hào sâu và chế tạo cơ giới phòng thủ. Quân số chia ra trấn giữ các con đường trọng yếu là hai vạn quân, các thành trì nhỏ xung quanh Dĩnh Đô có một vạn bốn ngàn quân trấn giữ, Bá dẫn theo ba ngàn quân, tuy quân số ít nhưng đều là quân tinh nhuệ chinh chiến lâu năm trên sa trường, vũ khí sắc bén, giáp trụ đầy đủ, ai cũng được trang bị nỏ mạnh của người Sở, cánh quân mai phục này có tác dụng gây bất ngờ, đợi quân Sở tiến về phía Đông, cánh quân này chính là nhát dao nhọn đâm thẳng vào trái tim người Sở.
Bố phòng như thế, đảm bảo cho quân ta an tâm ở lại đất Sở, trừ khi có gì sơ suất, bằng không quân ta không gì phải lo ngại. Nhưng đại vương thân phận cao quý, liên hệ đến an nguy xã tắc toàn Ngô quốc, giờ đại vương thân tại Sở quốc, tuy mang bên mình mấy vạn hùng sư, cũng nên đề phòng bất trắc. Nhỡ Khánh Kỵ và quân Sở có mưu kế thâm sâu nào ta không đoán ra được, công phá phòng tuyến vững chắc của quân ta, cũng giống như ta thừa lúc người Sở không để ý tiến đánh Dĩnh Đô vậy, lúc đó quân ta phải quyết đoán lập tức rút chạy về nước…”
Nói đến đây, Ngũ Tử Tư ngập ngừng giây lát, Cơ Quang ngắt lời hắn: “Chưa tính đường chiến thắng đã tính đường thất bại, đấy chính là tính thận trọng của tướng quốc. Các tướng đừng nghĩ Khánh Kỵ và quân Sở liên minh hung hăng tiến đánh mà e sợ, số quân địch gấp đôi này không vây khốn quả nhân được đâu. Ngộ nhỡ bọn chúng tấn công bất ngờ, đột kích vào thành, quân ta chưa kịp rút đi, lúc đó cứ làm theo kế của tướng quốc, tập hợp quân tinh nhuệ chạy ra thành Đông, đốt lửa khắp thành ngăn cản quân địch, sau khi ra thành ta lấy chiến xa mở đường, bộ binh theo sau, ở giữa áp giải mười vạn dân đen hiện giờ bị quả nhân bắt chuyển sang ở thành Đông, làm vậy dù là Khánh Kỵ hay quân Sở cũng không dám bỏ mặc đám dân đen này phát động tấn công vào quân ta, phía trước chắc chắn không còn vật cản…”
Các tướng lĩnh thân tại Sở quốc, quả thật có hơi chút lo lắng con đường rút quân, giờ nghe mưu kế độc ác này của Cơ Quang và Ngũ Tử Tư xong, ai nấy vui mừng hớn hở, trong lòng yên tâm phần nào. Ngũ Tử Tư lại chỉ tay lên tấm bản đồ, dừng lại ngay vị trí phía Nam Vân Mộng Trạch, nghiêm nghị: “Tất nhiên, đây chỉ là đề phòng bất trắc thôi, quân Sở và Khánh Kỵ chưa chắc làm gì được quân ta.”
Hắn xua tay cho lính thu tấm bản đồ lại, quay người lại nói tiếp: “Bây giờ lại nói đến trường hợp quân ta đánh bại liên quân Khánh Kỵ và quân Sở, bước tiếp theo nên làm thế nào. Giờ này Tề quốc và Tấn quốc đều đã xuất quân, còn lệnh cho các nước phụ thuộc tham chiến, phía ta có Tề, Tấn, Thái, Đường, Đài, Chu, Đằng, Tiết, Kỷ, Huân mười nước giúp sức, còn phía Sở có Tần, Tào, Lỗ, Trần, Vệ, Tống, Trịnh, Thuấn, Hồ, Thẩm, Trần, Hứa và Khánh Kỵ mười ba lộ binh mã tương trợ, các nước như Lữ, Lưu, Phí, Cam, Đơn, Thiệu, Dương, Việt chưa rõ thái độ ngả về phe nào, vẫn đang nghe ngóng chờ thời.
Tề, Tấn là hai nước lớn, quân đội hùng mạnh, nếu hai nước thuận lợi xua quân nam hạ, lúc đó thiên hạ nghe theo, tình thế lập tức thay đổi, các nước chư hầu phe ta chắc chắn làm chủ trung nguyên, chúng ta ở nước Ngô chớp lấy thời cơ mở rộng bờ cõi ra gấp mấy lần, nếu tình hình quả thật phát triển theo hướng ấy, cách bố trí của ta cũng cần kịp thời điều chỉnh…”
Ngũ Tử Tư huyên thuyên không ngớt, chốc chốc Cơ Quang và các tướng lại hỏi hắn vài vấn đề, mọi người bàn luận hết cả buổi sáng, các tướng mới ra khỏi đại điện rời đi, Ngũ Tử Tư theo sau Cơ Quang đi vào hậu cung, lại bàn chi tiết thêm về kế hoạch vạch ra hôm nay hồi lâu, hai người cùng dùng ngự thiện xong, Ngũ Tử Tư cáo lui về phủ.
Một lão thái giám hầu hạ bên cạnh Ngô vương Hạp Lư đi theo hắn định cất tiếng nói gì đó nhưng lại thôi, không ngừng đưa mắt liếc nhìn Ngũ Tử Tư.
Ngũ Tử Tư tuy là mái đầu bạc râm, nhìn có vẻ già hơn tên thái giám kia nhiều, nhưng thật ra hắn chỉ ngoài ba mươi tuổi, tai thính mắt tinh, hành vi của tên thái giám lập tức bị hắn phát hiện, Ngũ Tử Tư giả đò không nhận thấy, cứ bước đến trước tiền điện, lúc này phía trước đã có thị vệ quân Ngô canh giữ, theo quy định thái giám cung nữ trong hoàng cung không được bước vào đó, Ngũ Tử Tư dừng bước, quay đầu lại nhìn tên thái giám già mặt đầy nết nhăn hỏi: “Nhạn, ngươi có gì muốn nói với ta ư?”
Thì ra tên thái giám này vốn là chỗ quen biết với Ngũ Tử Tư, khi xưa Ngũ Tử Tư còn làm quan ở Sở, Ngũ gia là trọng thần Sở quốc, phụ thân hắn hay ra vào hoàng cung, dẫn theo Ngũ Tử Tư nên hắn và tên thái giám hầu hạ Sở vương này đã quen biết nhau từ đó.
“Tướng quốc đại nhân…” Tên thái giám già này khom lưng nói giọng ồ ồ: “Nhạn có mấy câu muốn nói với đại nhân.”
“Chuyện gì thế?”
“Đại nhân vốn là người Sở, tổ tiên của đại nhân mấy đời ra sức vì nước Sở, trong thành Dĩnh Đô có bao nhiêu gia đình từng là bằng hữu của Ngũ gia. Đại nhân…đại nhân sao lại có thể nghĩ ra mưu kế độc ác này, lấy thường dân vô tội của Sở quốc làm lá chắn thoát thân, bắt họ làm vật thế mạng trên chiến trường chứ?”
Ngũ Tử Tư trừng mắt, bước lên một bước, tức giận hét lên: “To gan, ngươi dám nghe lén kế hoạch của ta và đại vương hả?”
Tên thái giám già tên Nhạn cười khổ, lọm khọm nói nhỏ: “Nhạn…không dám, Nhạn ở trong cung chỉ là tên thái giám nhỏ hầu hạ người khác, có ai xem Nhạn là con người đâu? Đại nhân và Ngô vương uống rượu nói chuyện to tiếng với nhau, Nhạn đứng bên dưới hầu hạ, không hề nghe Ngô vương và đại nhân bảo lui ra. Nếu đại nhân sợ Nhạn để lộ tin tức, bây giờ xin cứ giết Nhạn đi là xong.”
Ngũ Tử Tử nắm chặt bảo kiếm, lạnh lùng: “Giết ngươi thì có ích gì? Ngươi ra khỏi hoàng cung được sao? Nếu có ngày cần dùng đến kế sách ấy, Ngũ Tử Tư ta sợ gì người khắp thiên hạ biết đó là mưu kế do ta bày ra.”
Nhạn lắc đầu nguầy nguậy: “Đại nhân vì muốn trả mối thù gia tộc, dẫn quân đánh về Sở quốc, đuổi Sở vương, hãm hiếp Sở nữ, cướp bóc của cải Sở quốc, giết tướng sĩ của Sở, quất roi vào xác tiên vương, làm bao nhiêu chuyện, cho dù là có thù sâu tựa biển cũng phải nguôi giận rồi chứ… Đốt trụi Dĩnh Đô, đem mười vạn dân thường vô tội ra làm lá chắn, đại nhân có biết…đó đều là người già trẻ nhỏ? Hành động tàn ác như thế, đại nhân quả thật nhẫn tâm thế này sao?”
Ngũ Tử Tư im lặng giây lát, ngửa mặt lên trời cười to ba tiếng, hai mắt rực lửa, lạnh lùng trừng mắt nhìn vào thái giám Nhạn: “Ngũ Viên lúc làm người Sở, nhà tan cửa nát, người Sở có ơn gì với ta nào? Bây giờ Ngũ Viên chỉ còn một thân một mình, đều do Sở quốc mang đến cho ta! Ta ra sức giúp Ngô vương, chinh chiến thảo phạt Sở quốc sao lại cho phép có tình riêng ở đây? Ta không có gì phải day dứt trong lòng cả!”
“Ông…” Thái giám Nhạn tức giận sôi gan, Ngũ Tử Tư phất tay một cái, quay lưng bỏ đi.
Thái giám Nhạn đuổi theo hai bước, dõi theo bóng dáng Ngũ Tử Tư từ từ đi khỏi, dậm chân mấy cái, rầu rĩ: “Ta đã sớm biết có nói ra cũng không ích gì, Ngũ tướng quốc giờ đây đã khác xa nhị công tử nhiệt tình đôn hậu ngày trước. Ngươi nếu hãy còn nhân tính, sao lại giết chết gã ngư phu chở ngươi qua sông và cô gái tiếp tế cơm nước cho ngươi để diệt khẩu, còn nói họ là tự vẫn mà chết, ngươi giấu được cả thiên hạ, không qua mắt được người Sở, không qua mắt được lão già này đâu, khi xưa ngươi chỉ là một tiểu tử ở Ngũ gia, một công tử chỉ biết ăn chơi, có ân đức gì mà bắt gã ngư phu và cô thôn nữ phải hy sinh vì ngươi…”
Hắn quay đầu bước chầm chậm, nhủ thầm: “Làm nhiều điều ác, Ngũ Viên ơi là Ngũ Viên, trời cao có mắt, ngươi sẽ không có kết cục tốt đẹp gì đâu!”
Tàn dương như máu, soi rọi xuống mặt đất bao la, một màu nắng đỏ rực ảm đạm.
Một thiếu niên mặc áo lông trắng, đứng trên bức tường thành cũ kĩ, ánh mắt dõi về phương Nam, im lặng như một bức tượng, hồi lâu không thốt lên lời nào.
Những bậc thang cao cao trải dài từ trên tường thành xuống tận mặt đất, khắp nơi phủ một lớp tuyết dày cộm không bị ai quét dọn, hai viên quan dẫn theo mấy tên cung bộc mặc áo ấm đứng hầu ở đó dưới cơn gió lạnh cắt da cắt thịt.
Một viên quan già mặc lễ phục cũ xưa chốc chốc lại dậm chân hít hà phà hơi ấm vào hai lòng bàn tay, quay qua nói nhỏ với viên quan kia xem ra tuổi tác còn già hơn hắn: “Thiếu Doãn đại nhân, mặt trời xuống núi rồi, thời tiết càng ngày càng lạnh, hay là…khuyên thiên tử về cung thôi, nếu ngài vì cái lạnh ngã bệnh thì nguy, chúng ta sao gánh vác trách nhiệm?”
Lão quan già nua kế bên thở dài một tiếng, hắn đúng là quá già rồi, đến nỗi phải nhờ một cung bộc dìu lấy mới đứng cho vững được, khi hắn thở dài, những nết nhăn trên mặt trơ ra như đá, không hề động đậy.
“Bá Tư đại nhân, cứ để thiên tử yên tĩnh thêm chút nữa. Tin tức hôm nay khiến ngài vô cùng thất vọng, trong lòng ngài khó chịu lắm đây. Hừ, những ngày này thiên tử cứ trông ngóng phía bên Sở quốc có tin tốt truyền về, không ngờ lại đợi được tin này, thiên tử còn nhỏ tuổi, sao chịu được cú sốc lớn này chứ?”
Hai lão quan già lại thở dài chán nản, ngẩng đầu lên trông theo Chu thiên tử Cơ đang đứng cô đơn một mình trên tường thành cao chót vót, phía sau lưng họ là hoàng cung xưa cũ lâu ngày không được chỉnh trang, nay đã u ám tàn tạ. Lâu lâu mới có một vài cung nữ và thái giám đi lại trên con đường vắng vẻ trong cung, cứ như hai lão già đang đứng dưới chân tường, khắp nơi đây nhuốm một màu vắng lặng buồn tẻ.
Chu thiên tử Cơ đứng trên tường thành hoàng cung Lạc Ấp, nhìn xuống tòa thành Lạc Ấp không còn chút sinh khí này, sau đó ánh mắt từ từ dõi xuống phương Nam, nhìn vào phía chân trời xa xa, cũng thở dài ngao ngán. Những ngày này hắn cứ mong chờ được một tin tốt gì đó, chờ đợi tin báo thích sát Sở vương thành công truyền về, kết quả lại là tướng quân Sở quốc Tử Kỳ thế mạng, Cơ cảm thấy vô cùng thất vọng.
Sở vương khinh thường quyền uy của Chu thiên tử, tự lập lấy vương hiệu, làm tấm gương xấu cho những nước Ngô, Việt noi theo, đồng thời liên kết các nước chư hầu phía nam Trường Giang, thế lực không ngừng mở rộng sang phương Bắc, nanh vuốt của Sở quốc nay đã giương tới những địa phương cách Lạc Ấp không quá hai trăm dặm, thành mối họa lớn đe dọa thiên tử. Ngô quốc tiến đánh vào Dĩnh Đô, đánh cho Sở quốc ngạo mạn một trận tơi bời hoa lá, nếu bây giờ Sở vương mà chết, Sở quốc quần long vô thủ, chư hầu phương nam tranh đoạt lãnh thổ của Sở, cứ thế chinh chiến tiêu hao lực lượng lẫn nhau, sẽ không còn quan tâm việc xâm lấn về phương Bắc nữa. Các nước chư hầu Chu thất phương Bắc lại còn thừa dịp đánh trả về phương Nam, diệt trừ mối họa lớn này triệt để, thế mà giờ đây tất cả tan theo mây khói rồi.
Chu thiên tử lại thở dài, ánh mắt quay sang hướng Tây Bắc, hai bàn tay lạnh cóng xoa xoa vào nhau tìm chút hơi ấm. Hướng Tây Bắc, là lãnh thổ Tấn quốc, giờ chỉ còn đặt hết hy vọng vào Tấn quốc thôi, mong sao Tấn quốc nhân cơ hội này xuất quân chinh phạt, bình định tên chư hầu man di Sở quốc không chịu thần phục hoàng thất họ Chu này.
Lúc này, đại quân của Tấn quốc đã xua quân nam hạ, nhưng vừa mới đi được một ngày đường, liền bị Triệu Giản Tử phái tín sứ đuổi kịp, thay đổi mệnh lệnh. Từ nam hạ đổi thành đông chinh, vì đại quân hai nước Vệ và Tống đã áp sát biên giới Tấn, Vệ. Phía biên giới Tấn, Trịnh cũng thấy quân Trịnh không ngừng điều động gia tăng quân số, hình như đang mưu toan xâm lược. Lúc này Triệu Giản Tử không dám mạo hiểm xua quân nam hạ, đề phòng Vệ, Tống thừa cơ đánh lén, chỉ còn cách phái người ngăn cản cánh quân nam hạ, quyết định chuyển qua đánh bại liên quân Vệ, Tống trước, đồng thời trấn áp Trịnh quốc rồi tính sau.
Mạnh môn. Liên quân Tống, Vệ đang gấp rút xây chiến hào, đặt doanh trại. Liên quân hai nước chia làm thế gọng kiềm hạ trại hai bên, cách nhau chỉ có vài dặm, chiến kì hai nước phấp phới dưới cơn gió lạnh, các đội binh sĩ hấp tấp qua lại không ngớt, một bầu không khí khẩn trương khi chiến sự sắp nổ ra.
Cách đó một con sông nhỏ, đội quân tiên phong của Tấn và quân đội của Vệ Tống nhìn rõ mặt nhau, doanh trại của quân Tấn cũng đang vội vàng dựng lên, ba đạo quân chỉ cách nhau có mấy dặm. Đại quân của Vệ do Tề Báo làm chủ soái, Công Tôn Bạt làm phó soái, Công Tử Triều làm tiên phong, ba người gấp gáp thị sát quân doanh, đứng ở nơi cao quan sát doanh trại quân Tấn đằng xa.
Cánh quân Tấn tiên phong này doanh trại chen chúc, nhìn vào không thấy giới hạn, ước chừng ít nhất cũng có một vạn năm ngàn quân, ba người chỉ tay về hướng đại doanh quân Tấn, thảo luận phương án tấn công, quyết định được một phương án rồi, sau đó Tề Báo dẫn theo hai người đi về phía doanh trại quân Tống, cùng đại soái thống quân Tống quốc Hiên Viên Hành bàn bạc kế hoạch ứng chiến.
Hiên Viên Hành cũng vừa mới đi thị sát xong doanh trại về, còn chưa kịp cởi áo giáp, nghe báo là chủ soái của quân Vệ đến đây, vội vàng ra đón tiếp ba người vào trong lều bàn chuyện.
Tề Báo giữ chức chủ soái quân Vệ, Công Tôn Bạt làm phó soái, Công Tử Triều làm tiên phong, việc này cũng từng xảy ra tranh chấp kịch liệt trên đại điện Vệ quốc. Mới đầu tuy đám đại thần có quyền lực như Bắc Cung Hỉ hô hào ủng hộ Tề Báo làm chủ soái, nhưng Vệ hầu Cơ Nguyên rốt cuộc không chịu giao binh quyền cho Tề Báo, vì chuyện này các phe cánh cãi nhau nảy lửa, việc xuất quân sém chút tan thành bọt nước.
Lúc này đại quân Tống quốc đã đến, Vệ phu nhân Nam Tử đích thân dẫn đại quân về Đế Khâu, Vệ hầu Cơ Nguyên nghe tin vội dẫn theo văn võ bá quan ra nghênh đón phu nhân, đưa nàng và đại quân Tống quốc đón vào Đế Khâu, lần này dẫn quân về giúp đỡ, Vệ phu nhân Nam Tử có công to lớn, vì thân phận đặc thù của nàng, và địa vị đặc thù trong mối liên minh Tống, Vệ, nên tiếng nói của nàng có ý nghĩa quyết định.
Vệ hầu Cơ Nguyên và Nam Tử bàn bạc riêng một hồi, lại truyền lệnh thượng triều, đồng ý kiến nghị cho Tề Báo làm chủ soái thống lĩnh quân Vệ, nhưng lại kèm theo một điều kiện: đưa Công Tử Triều lên giữ chức tiên phong, tất cả cấm quân thuộc hữu quân dưới trướng Công Tử Triều toàn bộ được đưa cả vào cánh quân tiên phong, điều sang chiến đấu ở biên giới Vệ, Tấn.
Tề Báo quá đỗi vui mừng vì được nắm giữ binh quyền, mà Bắc Cung Hỉ có nghĩ đến tuy làm vậy họ sẽ mất đi lực lượng cấm vệ có thể trực tiếp khống chế Vệ hầu, nhưng giờ đây toàn bộ binh quyền đã nằm trong tay, đối với họ mà nói mức độ an toàn cao hơn việc nắm giữ một nửa lực lượng cung vệ, cho nên mặc kệ Công Tử Triều ra sức phản đối, cứ nhận lời thay hắn luôn. Không ngờ Vệ hầu lại ra lệnh cho Công Tôn Bạt làm phó soái, cánh quân chủ lực của đại quân Vệ quốc lại được xây dựng bằng người ngựa của Công Tôn Bạt, Cừ Bá Ngọc dẫn vào Đế Khâu hồi trước, làm vậy chẳng khác nào giám sát chặt bọn Tề Báo, sợ hắn chiếm dụng quân đội mưu đồ phản loạn.
Giờ đây chủ soái, phó soái, tướng quân tiên phong của quân Vệ bề ngoài ra vẻ đoàn kết một lòng, sau lưng lại không tránh khỏi mưu tính quyền lợi riêng, chỉ là kẻ địch trước mắt, họ đều là người thông minh, chưa ngốc đến nỗi tàn sát lẫn nhau trước sự đe dọa của quân Tấn mà thôi.
Tề Báo nói: “Nguyên soái Hiên Viên, chúng ta vừa quan sát xong tình hình quân Tấn, nghĩ ra một cách phối hợp tấn công quân địch, nay định bàn bạc với nguyên soái coi sao.”
“Hô hô, thế thì tốt quá, Hành cũng định qua mời ba vị tướng quân đến đây cùng bàn đại sự, nào nào, thời tiết lạnh lẽo, chúng ta vào lều ngồi cho ấm rồi hãy từ từ bàn bạc.”
Hiên Viên Hành nói xong liếc mắt về phía Công Tử Triều, hai người là chỗ quen biết khi Tử Triều còn ở Tống, tuy quan hệ giữa họ không được thân thiết lắm, nhưng cũng không phải kẻ thù của nhau, nhưng giờ đây Công Tử Triều đang tối sầm mặt, ánh mắt láo liên không biết đang suy tính việc gì, không thèm chào hỏi người quen cũ một câu.
Hiên Viên Hành chớp chớp mắt, trong đầu vang lên những lời dặn dò bí mật của Nam Tử trước lúc hắn dẫn đại quân lên đường: “Lần này đi sang biên giới Vệ, Tấn, tướng soái quân Vệ bất hòa, đây chính là kết quả tranh đoạt quyền lợi giữa hai phe cánh trong triều đình Vệ quốc, biết chắc là bất lợi cho chiến sự, nhưng cũng không thể không sắp xếp thế này, trận đầu tiên có thể quân ta sẽ gặp bất lợi, nhưng nội loạn đáng lo hơn kẻ địch bên ngoài, một khi thua trận, Vệ hầu có thể nhân cơ hội trị tội Tề Báo, diệt trừ mối đe dọa này, cái này là mượn tay kẻ địch bình định nội loạn, lúc đó Vệ hầu sẽ hạ lệnh cho ngươi thống lĩnh hết liên quân hai nước tái chiến với quân Tấn, ngươi hành sự phải cẩn thận, giữ gìn lực lượng sau này dùng đến.”
“Mạc tướng tuân lệnh.”
“Còn việc này…”
“Mời công chúa cứ nói.”
“Hiên Viên tướng quân, Tử Triều mang nặng dã tâm, lúc ở Tống quốc của ta đã lôi kéo phe cánh, lập mưu nắm giữ triều cương, sau đó trốn sang Vệ quốc, lại nói ngon nói ngọt lấy lòng thương hại của bổn công chúa, lừa lấy lòng tin của ta, giờ có chốn dung thân ở Vệ, hắn cấu kết với bọn gian thần Tề Báo, Bắc Cung Hỉ, mưu đồ khống chế chính sự Vệ quốc, có người này ở đây, hai nước Vệ, Tống không có tháng ngày yên ổn, hắn lấy thân phận là công tử Tống quốc, nếu gây ra chuyện gì bất lợi cho Vệ hầu, không chỉ hại đến uy tín của bổn công chúa, còn gây bất lợi cho mối liên minh mấy trăm năm của hai nước Vệ, Tống. Ý của quốc quân Vệ hầu và ta là…, tìm cơ hội nào đó, ngươi diệt tên Tử Triều này đi, khi Tề Báo, Tử Triều chết đi, Công Tôn Bạt không còn bị hai tên này chế ngự, sẽ thống lĩnh đại quân Vệ quốc, sát cánh cùng tướng quân chống lại kẻ địch quân Tấn.”
“Công chúa yên tâm, mạc tướng đã ghi nhớ rồi ạ.”
Nghĩ đến đây, Hiên Viên Hành khoái chí mỉm cười, lại đưa mắt liếc nhìn Công Tử Triều một cái.
Công Tử Triều lòng đầy tâm sự, từ khi hắn bị điều ra tiền tuyến, hắn đã biết ý Nam Tử muốn ra tay với hắn rồi. Hồi trước đắc tội với Nam Tử, hắn không thể nào không chịu nhục đưa thân ra mua vui cho Vệ hầu, hy vọng được Vệ hầu giữ cho tính mạng, củng cố địa vị ở Vệ quốc. Không ngờ Vệ hầu Cơ Nguyên hận hắn bắn chết huynh trưởng Công Mạnh Trập, giờ lại nghe theo lời Nam Tử, đem hắn ra làm vật hy sinh nơi trận tiền.
Suốt dọc đường hành quân Công Tử Triều ray rứt không yên, hắn không biết Nam Tử đã nhờ cậy Hiên Viên Hành hay là Công Tôn Bạt, cũng có thể là một tên lính nào đó trong quân đội làm thích khách, càng không biết bọn Tề Báo, Bắc Cung Hỉ có bán đứng hắn hùa theo Nam Tử và Vệ hầu âm mưu hại hắn không? Giờ đây Công Tử Triều ăn không ngon ngủ không yên, ngay cả gió rít chim kêu cũng giật mình sợ hãi, tâm thần hoảng loạn.
Công Tử Triều cúi đầu rầu rĩ theo sau mọi người bước vào trong lều, ngồi xuống mơ mơ màng màng trầm tư một mình, đột nhiên nghe tiếng đập bàn cái rầm, hắn giật mình hoảng hốt, chỉ nghe Viên Hiên Hành nói lớn: “Tốt! Quân ta chia làm hai cánh trái phải, thừa lúc quân chủ lực của Tấn chưa đến đánh phủ đầu cho chúng mất hết nhuệ khí. Tử Triều tướng quân, ngài có ý kiến gì?”
“Hả? À được đấy, rất hay! Tử Triều đồng ý…cứ nghe theo ý kiến của các tướng quân.” Công Tử Triều như bừng tỉnh sau giấc mộng, lắp bắp trả lời.
Hiên Viên Hành vuốt râu, nhướng mày: “Tốt, nếu tất cả mọi người đều đồng ý làm vậy, chúng ta cứ tiến hành thôi. Người đâu, mang bản đồ lại đây, chúng ta bàn chi tiết hơn về kế hoạch tác chiến sắp tới nào!”
Lều chỉ huy của Hiên Viên Hành vừa mới dựng xong, bản đồ chưa được treo lên, hai tên lính cung kính bước vào trải tấm bản đồ rộng ra, các tướng đều bước về phía tấm bản đồ bàn bạc, Công Tử Triều cũng ngơ ngác theo sau, tâm trí hắn lại nhớ về quá khứ trong hoàng cung Đế Khâu…
Hắn mặc một chiếc áo bào trắng, khí khái ung dung, tay cầm cây tiêu bằng tre, đi qua đi lại ở khu vườn thượng uyển, Nam Tử mặt mày tươi tắn, mỉm cười quyến rũ xuất hiện, ánh mắt nàng là tình yêu say đắm và niềm vui kinh ngạc, đó chính là cảnh hắn vừa chạy từ Tống quốc sang Vệ. Bên tai Tử Triều ong ong, các tướng lĩnh đang luận bàn kế hoạch tấn công quân Tấn, âm thanh hỗn tạp lao xao, bọn họ đang nói gì Tử Triều không nghe thấy câu nào cả.
“Ta…rốt cuộc muốn có được gì chứ?” Công Tử Triều tự hỏi trong lòng, nhớ về quá khứ sâu thẳm trong tim, nhớ về Nam Tử, trong lòng trống trải…
“Thùng thùng thùng……” một hồi trống vang lên lanh lảnh, mây lửng lờ trôi, gió rít mạnh từng cơn. Phía trận địa của Khánh Kỵ bày ra năm mươi chiến xa, một ngàn cung thủ, hai ngàn kiếm thủ, hai ngàn trường mâu thủ, sau lưng là núi cao và sơn cốc hiểm trở, dàn trận chuẩn bị nghênh chiến.
Phía bên kia trên một chiếc chiến xa, cắm cây cờ ghi chữ “Hùng” to tướng, Vương Tôn Hùng râu ria khắp mặt đang uy nghi cầm kích đeo kiếm đứng trên đó.
Khánh Kỵ khẽ nhíu mày, tự nhủ: “Lạ nhỉ? Vương Tôn Hùng dẫn quân đến đây lại không tấn công thành trì, chỉ bày trận ra ngoài sơn cốc, ý hắn muốn thế nào đây?”
A Cừu ngồi trên xe, chỉ mặc áo giáp thân trên, bên dưới chỉ là tấm áo vải thô, đeo kiếm ngang hông, trong tay không cầm vũ khí, đang nắm lấy dây cương của bốn con chiến mã phía trước, cười ha hả: “Công tử, còn phải hỏi sao? Tên cẩu tặc Cơ Quang khiếp sợ uy danh của công tử, đâu dám bén mảng tới thành trì của ta chuốc lấy thất bại.”
A Cừu là người điều khiển chiến xa, đừng xem thường hắn chỉ lái chiến xa, thật ra hắn mới là người quan trọng nhất trên đó, một khi đại chiến bắt đầu, hắn phải điều khiển cho tốt cùng lúc mấy con chiến mã, tai phải nghe rõ hiệu lệnh tiến quân rút quân, mắt luôn quan sát diễn biến tình hình trên chiến trường, tránh việc chiến xa đi sâu vào trận địa quân địch không trở ra được, hơn nữa lại không cầm được vũ khí dài hộ thân, vừa vất vả vừa nguy hiểm vô cùng.
Hai phía trái phải Khánh Kỵ đang đứng hai người, bên trái là một thần tiễn thủ, toàn thân mặc giáp, chỉ chừa vai phải ra, tay cầm cung, vai đeo một túi đựng đầy tên, bên phải là Tái Cừu, mặc giáp cầm song kích, phía sau chiến xa không chở theo trống bự, chiếc chiến xa này là để xông pha giết giặc chứ không phải dùng chỉ huy toàn quân.
Khánh Kỵ lắc đầu nguầy nguậy: “Đừng nói bậy, Vương Tôn Hùng trung thành tuyệt đối với Cơ Quang, hơn nữa phiêu dũng thiện chiến, nếu chỉ xét vũ lực cá nhân, hắn không là đối thủ của ta, nhưng chỉ huy quân đội tác chiến, hắn chưa chắc kém ta phần nào đâu. Vương Tôn Hùng dẫn quân đến đây chắc có dụng ý nào đó.”
Tái Cừu kế bên ngạo mạn lên tiếng: “Mặc kệ hắn có dụng ý gì, hắn không tấn công thì chúng ta đánh qua đó, đánh cho hắn tan tác, lúc đó dụng ý gì cũng tiêu tùng.”
Khánh Kỵ cười ha hả, nhíu mày nói: “Tái Cừu à, con người ngươi suy nghĩ đơn giản, nhưng lại là một ý kiến hay. Nếu đã không đoán ra hắn đang có dụng ý gì, chúng ta không đoán nữa, cứ đánh bại hắn rồi tính. Cơ Quang đã ban lệnh xuống, ai giao chiến với Khánh Kỵ ta mà rút lui bỏ chạy, chém! Buông vũ khí đầu hàng, giết cả nhà, nên trận chiến này sẽ ác liệt lắm đây, các ngươi hãy cẩn thận.”
A Cừu nắm chặt dây cương trong tay, lớn tiếng: “Công tử yên tâm, ra lệnh tấn công đi!”
Khánh Kỵ phất tấm áo khoác ra sau lưng, hét lớn: “Tấn công!”
Trên một ngọn núi, Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đang đứng sát vai nhau theo dõi trận chiến dưới kia, sau lưng hai nàng là hai tì nữ mới tuyển lựa trong tòa thành chiếm được, hai tì nữ cùng ôm một chiếc đàn, cũng dõi mắt về phía dưới núi. Tuy gió lạnh rít mạnh bên người, Thúc Tôn Diêu Quang lại nắm chặt bàn tay đang không ngừng tuôn chảy mồ hôi, miệng lải nhải oán trách: “Thân là chủ tướng, lại đích thân ra trận, bắt chúng ta gảy đàn thổi sáo ở đây, nhìn chàng giết giặc. Thật là tức chết đi được, người ta đang lo lắng, tâm trí nào mà gảy đàn chứ?”
Quý Tôn Tiểu Man đang xoay xoay một cây tiêu bằng ngọc xanh trên tay, lại đang háo hức theo dõi trận chiến, xem ra có vẻ thích thú lắm. Động tác Khánh Kỵ phất áo choàng về phía sau bị nàng nhìn thấy, cất tiếng khen ngợi: “Oa! Động tác này oai phong lẫm liệt, thật là mê người.”
Thúc Tôn Diêu Quang trừng mắt nhìn Tiểu Man, hét lên: “Đừng làm ồn, sắp tấn công rồi đó, chàng thân làm chủ soái lại đích thân dẫn quân ra trận, thật khiến người ta lo lắng.”
Quý Tôn Tiểu Man liếc Diêu Quang một cái, châm chọc: “Chuyện này cũng không biết sao? Đây là trận đầu tiên Khánh Kỵ giao chiến chính diện với quân Ngô, năm ngoái Khánh Kỵ bại trận ở Đại Giang, uy danh bị tổn hại, một năm trôi qua, tướng sĩ quân Ngô càng lúc càng ít sợ hắn hơn, người Ngô không còn e sợ, sau này hắn xua quân phạt Ngô không biết phải phí bao nhiêu sức lực, chết thêm bao nhiêu tướng sĩ, trận chiến này hắn đích thân dẫn quân ra trận, nếu đánh cho quân địch thua chạy tan tác, có thể gầy dựng lại uy danh bất khả chiến bại của hắn trong mắt người Ngô, rất có lợi cho chiến sự sau này.”
“Hứ, công nhận là cô cũng có chút hiểu biết đó.”
Quý Tôn Tiểu Man cười đắc ý, chắp tay: “Quá khen, quá khen, không dám nhận, không dám nhận, ta cũng chỉ nghe Kinh tướng quân nói lại thế thôi.”
Thúc Tôn Diêu Quang nghe xong cảm thấy tức tối, nàng hứ một tiếng rõ to: “Cũng không tệ, cô không chiếm lấy công lao về phía mình.”
Lúc này dưới núi tiếng hò hét vang lên, đại quân của Khánh Kỵ bắt đầu lao lên phía trước, chiếc xa lướt đi băng băng, bụi bay mịt mù, đứng trên núi nhìn xa xa xuống dưới, cứ như một đội thiên binh đang cưỡi mây lướt gió tiến lên.
Thúc Tôn Diêu Quang hồi hộp bấu chặt cánh tay của Quý Tôn Tiểu Man, toàn thân run lên, la lên liên hồi: “Giao chiến rồi, giao chiến rồi, ối, cẩn thận chứ! Sao lại phải lao ra tận phía trước, nguy hiểm quá, sợ quá, cái tên A Cừu đáng chết này, sao lại lao nhanh thế không biết, chiến xa hai bên không theo kịp rồi kìa.”
Quý Tôn Tiểu Man bị bấu vào tay đau điếng, hét lên: “Này, cô bấu ta đau quá, có gì mà phải lo lắng, cô lần đầu thấy người ta đánh trận à, sao sợ đến nỗi trắng bệch ra rồi?”
Thúc Tôn Diêu Quang giờ mới phát hiện ra mình đang bấu chặt tay Tiểu Man, vội hất tay Tiểu Man ra trách cứ: “Cô không có tình cảm gì cả, lúc ở Ngải thành chúng ta đã nói gì nào? Đuổi cô đi thì không chịu đi, còn tưởng là cô thích chàng lắm, bây giờ chàng xông pha trận mạc, sao không thấy cô có chút lo lắng nào hết vậy? Hứ, ta hiểu rồi, dù sao cô và chàng cũng đâu có hôn ước, nếu chàng có mệnh hệ nào, cô mặc kệ cứ đi lấy người khác đúng vậy không?”
Quý Tôn Tiểu Man thương hại nhìn vào Diêu Quang, lắc đầu nguầy nguậy: “Thật không hiểu cô lo lắng cái gì, hắn là ai kia chứ? Đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc đấy! Hắn là Khánh Kỵ chạy nhanh hơn ngựa, nhảy lên túm được chim bay, sức mạnh quật ngã bò tót, hắn ra chiến trường giết giặc có gì mà phải lo lắng, ai chết cũng không đến lượt hắn đâu, hứ bậy quá, không nói đến chết chóc ở đây. Cô đó, làm ta rối cả lên, ta có…lòng tin với hắn.”
Thúc Tôn Diêu Quang trợn tròn đôi mắt, nhìn vào cô bé Tiểu Man đang ngưỡng mộ sùng bái Khánh Kỵ, sau đó lại dõi mắt theo dõi trận chiến dưới kia, tiếng thét vang trời, bụi bay mù mịt, tên bắn như mưa.
Tiểu Man hét lên: “Hứ, điên thật, tên Vương Tôn Hùng đó dám chạy xe lên đơn đả độc đấu với Khánh Kỵ à?”
Ánh mắt của Thúc Tôn Diêu Quang không hề muốn rời khỏi bóng dáng Khánh Kỵ, nhưng nàng quay đầu nhìn theo hướng của Quý Tôn Tiểu Man, chỉ thấy Vương Tôn Hùng đang cầm mâu xông thẳng về phía Khánh Kỵ…
Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng uy nghi đứng trên chiến xa, trừng mắt nhìn nhau, hai người đều mặc giáp da, trên đầu đội mũ giáp bằng đồng, tay cầm trường mâu sắc nhọn, sau lưng hai người bụi bay mịt mù, từng hàng chiến xa điên tiết lao vào nhau.
Chiến xa hai bên tuy lao nhanh về trước, nhưng cũng lấy chiến xa của chủ soái làm trung tâm, tạo thành một đội hình tấn công hình chóp, khoảng cách được thu ngắn lại, khi hai bên chỉ còn cách nhau không quá mười trượng, một trận mưa tên vù vù xé gió bắn vào nhau.
Quân của Khánh Kỵ chiếm giữ vị trí phía Bắc, giờ đang thuận gió, thêm vào đó giữa khe núi sức gió thổi mạnh, tất cả tên bắn ra đều bay xa hơn mạnh hơn phía quân Ngô, sau một trận mưa tên, rất nhiều binh sĩ ngã xuống tử trận.
“Đỡ khiên!” Khánh Kỵ hét lớn ra lệnh, sau chiến xa của hắn các kiếm thủ đồng loạt giơ khiên lên, các tấm khiên được bọc bằng da, tạo thành tấm chắn vững chắc đỡ lấy tên từ phía quân Ngô bắn qua, phía trước đội chiến xa dàn hàng ngang tăng tốc lao nhanh, đồng thời các binh sĩ trên đó dùng binh khí trên tay gạt tên bắn tới.
Chiến xa càng lúc càng gần, chiến mã hí vang, hai bên ập vào nhau…
“Đỡ!” Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng hét lên gần như cùng lúc, tay lăm lăm trường mâu.
A Cừu vận sức vào hai vai, cầm cương quất mạnh vào mông bốn con ngựa chiến, ngựa chiến lồng lên lướt qua chiến xa phe địch, Tái Cừu nhổ lấy một cây trường mâu cắm trên xe, quét thành một vòng tròn lấy thế, chém về phía tên lính Ngô đang điều khiển chiến xa bên kia. Khi hai chiếc chiến xa lướt qua nhau, Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng cùng lúc giơ trường mâu lên, hét to một tiếng, đâm một nhát mạnh về phía đối phương…
“Keng! Chát!” Hai tiếng khô khốc vang dội, hai thanh trường mâu chạm nhau tóe lửa, hai chiếc chiến xa đã xẹt qua, tuy mới giao chiến có một hiệp, Vương Tôn Hùng hai chân run rẩy, lảo đảo đứng không vững trên xe, vội đưa tay bấu chặt thanh gỗ thế mới đứng thẳng được, cánh tay tê tái đau nhói từng chập.
“Lao nhọn!”
Khánh Kỵ và Vương Tôn Hùng lại cùng lúc hét lớn, Tái Cừu cắm lại thanh trường mâu trên tay lên xe, nhổ ra một cây lao dài gần sáu thước, cán tròn như trứng, chĩa từ phía sau hướng về trước, đầu mũi lao sắc nhọn chỉ thẳng vào hàng binh sĩ cầm đoản kiếm đang đỡ khiên theo sau sát chiến xa quân Ngô.
Từ trên đồi cao nhìn xuống, chiến xa hai bên cuốn tung một lớp bụi mù mịt, nhìn như một cơn sóng khổng lồ, gầm thét dữ tợn ập vào phía đối phương, khi chiến xa hai bên từng chiếc từng chiếc lướt qua nhau, cứ như hai luồng sóng lớn đập mạnh vào nhau, bọt sóng bật tung tóe lên cao, trong con sóng mờ mờ ảo ảo ẩn hiện từng lớp chiến xa, từng hàng chiến sĩ, như một dãy đá ngầm nhô lên giữa sóng biển mênh mông.
Hai con sóng va mạnh vào nhau, máu tươi bắn ra nhuộm đỏ cả mặt đất, các binh sĩ đứng trên chiến xa không đâm trúng đối phương bị dính đòn rú lên đau đớn ngã lăn ra, bị chiến xa kéo lê, bị bánh xe nghiền nát, hóa thành mớ thịt bầy nhầy máu me hòa chung với đất đỏ…
Tiếp theo hàng kiếm thủ đụng phải lao nhọn từ chiến xa của đối phương đâm tới, liền bị bật lùi lại mấy mét, dù cho tấm khiên kiên cố thế nào đi nữa, dưới sức công phá từ tốc độ lao nhanh của chiến xa cộng với độ sắc nhọn của cây lao dài, hàng chiến xa va vào hàng kiếm thủ che khiên như cây kim đâm thủng mảnh giấy, các binh sĩ che khiên không phải bị chiến xa hất tung lên trời, thì cả thân người bị lao nhọn đâm xuyên qua ngực lôi theo, rồi sau đó là tên thứ hai, tên thứ ba…, cứ như xiên kẹo hồ lô vậy.
Khi lao nhọn bị chém gãy hoặc chiến xa hết thế lao nhanh không còn tiếp tục đâm tới được nữa, lúc này chiến xa đã lọt vào giữa vòng vây quân địch, bánh xe vẽ theo một vệt máu dài từ từ chạy chậm lại, binh lính trên xe vứt bỏ lao dài, rút kiếm, kích, mâu ra chiến đấu, Khánh Kỵ và Tái Cừu đứng trên xe đâm chém quyết liệt với đám quân Ngô cầm kiếm và trường mâu vây lấy chiến xa. Hàng kiếm thủ và trường mâu thủ bên quân Ngô xông lên huyết chiến với quân chủng cùng loại bên quân của Khánh Kỵ. Khắp chiến trường đều là vang vọng tiếng hò hét xung trận, tiếng giẫm đạp lên nhau, tiếng binh khí va chạm chan chát, tiếng rú lên đau đớn…
A Cừu tập trung điều khiển chiến xa, không ngừng thúc ngựa thay đổi vị trí, chiến xa vừa di chuyển vừa chiến đấu, tránh cho bị bộ binh kẻ địch vây khốn không thoát ra được, đồng thời dáo dác nhìn xung quanh trong thiên binh vạn mã, truy tìm chiến xa của chủ tướng phe địch. Các chiến xa khác bên quân Khánh Kỵ cũng đang cố gắng tiếp cận chủ soái, một mặt chiến đấu với quân địch, một mặt thu ngắn khoảng cách từ từ, tiếp ứng lẫn nhau, tránh bị quân địch tấn công cả trước mặt sau lưng.
Mặc dù là vậy, tấm giáp da dày bốn lớp trên người Khánh Kỵ đã có vài chỗ bị đâm thủng, nhiều vết trầy xướt, may mà có chiến xa hai bên trợ chiến, cung thủ trên xe và Tái Cừu đang điên tiết bắn giết, Khánh Kỵ mới không bị thụ thương. Còn A Cừu điều khiển chiến xa lúc này đã đổi tư thế từ ngồi thành đứng thẳng, một tay giữ chặt dây cương buộc bốn con chiến mã, một tay cầm đoản kiếm, không ngừng “leng keng leng keng” đỡ gạt binh khí của quân địch đâm tới, hai mắt trợn tròn giận dữ, hơi thở phập phù tung cả lọn râu dưới cằm, nhìn bộ dạng còn đáng sợ hơn cả Khánh Kỵ. (Nói thêm: Khi giáp chiến, muốn vô hiệu hóa chiến xa phe địch cách tốt nhất là tiêu diệt người điều khiển xe, vì người điều khiển xe bận đốc thúc ngựa chiến kéo xe, lại không cầm binh khí dài để chiến đấu được, chỉ còn cách cầm đoản kiếm chống đỡ, do đó quân Ngô chủ yếu tập trung tấn công A Cừu, chỉ cần người điều khiển xe bị tiêu diệt, chiến xa không thể chạy tiếp, lúc đó mới bao vây tiêu diệt binh lính trên xe cũng chưa muộn.)
“Phục binh của Lương Hổ Tử đâu rồi, sao giờ này còn chưa xuất hiện?” Thúc Tôn Diêu Quang đứng trên đồi theo dõi trận chiến, dậm chân liên hồi: “Ta phải xuống dưới kia!”
Quý Tôn Tiểu Man điệu đà xoay xoay cây ngọc tiêu trong tay, quay qua hỏi: “Khánh Kỵ dặn chúng ta đứng ở đây xem náo nhiệt, cô xuống núi chẳng lẽ nhìn rõ hơn khi đứng ở đây à?”
Thúc Tôn Diêu Quang nguýt dài: “Đứng xem ở đây, có bằng trực tiếp xuống đó tham chiến rõ hơn không?” Nói xong không chờ Tiểu Man trả lời quay phắt người bỏ đi.
Quý Tôn Tiểu Man chìa môi nhủ thầm: “Hình như cũng có lí, cô cũng không sợ nguy hiểm, chẳng lẽ ta lại sợ?”
Nghĩ vậy Tiểu Man cũng sải bước đuổi theo, hai tì nữ vội ôm đàn bám theo sau.
Khánh Kỵ đứng trên chiến xa, một mặt cầm trường mâu chiến đấu, một mặt đưa mắt quan sát tình hình chiến sự xung quanh. Lúc này binh sĩ hai bên đã lao vào hỗn chiến loạn xạ, tiếng thét của tướng lĩnh không còn nghe rõ được nữa, chỉ dựa vào tiếng trống tiếng chiêng truyền quân lệnh chỉ huy chiến đấu, đám quân Ngô dám liều chết xông vào Khánh Kỵ ít đi thấy rõ, dù sao Khánh Kỵ cũng từng là tướng quân trẻ tuổi oai danh nhất trong quân đội Ngô quốc, với lại hắn có biệt danh “Muôn người khó địch”, binh lính của Ngô vừa kính nể vừa sợ hãi trước Khánh Kỵ, giờ không có tướng lĩnh đốc chiến, đều cố tránh chiến xa của Khánh Kỵ ra càng xa càng tốt, chỉ quay sang chém giết với đám binh lính bình thường, nhờ thế Khánh Kỵ được lơi tay quan sát tình hình trên chiến trường.
Binh sĩ đôi bên hỗn chiến loạn xạ, bộ binh còn giữ được đội hình, chiến xa một khi lao thẳng về phía quân địch đều xông vào trận địa bộ binh đối phương, dàn chiến xa trước quân địch đông đúc không thể quay đầu lại, cứ thế mà tiến lên giết địch, lúc này Vương Tôn Hùng đã dẫn đội chiến xa và bộ binh quân Ngô xông vào đến tận hậu trận của Khánh Kỵ, tương tự Khánh Kỵ và chiến xa của mình cũng đang ở hậu trận quân Ngô, ở giữa là bộ binh của hai bên đang giao chiến ác liệt.
“Thời cơ này tốt lắm. Lương Hổ Tử từ trên cao đánh ập xuống, chắc sẽ chiếm trọn ưu thế.”
Khánh Kỵ vừa nghĩ đến đấy, phía ngang hông chiến trường vang lên tiếng hò hét xung trận. Hai cánh quân đang giao chiến y như hai con sóng mạnh đập vào nhau, bọt sóng tung tóe, ngay bên bìa rừng bên hông đột nhiên có một cánh quân xông thẳng ra lao vào chỗ tiếp giáp giữa hai ngọn sóng, người đi đầu là độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử, tay vung thanh kiếm sáng loáng, hai bên trái phải có hai dũng sĩ cầm mâu theo sát, sau lưng Lương Hổ Tử tiếng gào như sấm, đã có mấy trăm người điên cuồng lao ra từ trong rừng, phía sau còn nhiều người liên tiếp ùa ra không ngớt, chẳng biết được hắn có bao nhiêu binh sĩ mai phục tại đây.
Những binh sĩ này đều dùng binh khí thô sơ, xem giống như một thanh gỗ bự, một đầu được bọc bằng đồng, nhưng binh khí này lạ ở chỗ đầu thanh gỗ bự còn tua tủa những chiếc gai nhọn, không dài lắm, chỉ độ nửa thước, những chiếc gai cũng không sắc lắm, vì quá sắc chạm phải áo giáp sẽ bị gãy, những chiếc gai to bè như ngón tay cái, nếu đập vào người thì chắc lủng một lỗ to, sức sát thương không cần nói cũng hiểu.
Đấy chính là lí do Khánh Kỵ trang bị vũ khí do hắn phát minh riêng này cho đám lính mới tuyển mộ, vì sử dụng vũ khí này không cần tập luyện nhiều, chỉ cần có sức khỏe là được, đại đội lang nha bổng được phát huy tối đa sức chiến đấu nhờ vũ khí, đám tân binh mới tuyển lựa là bọn nông dân khỏe mạnh, nếu không thì là bọn lưu manh vô lại hung hăng, tính kỉ luật, tinh thần hợp tác, kĩ năng chiến đấu đều yếu kém, nhưng nếu lựa chọn binh khí phù hợp, thêm vào tính bất ngờ xông ra khi hai bên đang hỗn chiến, trên tay lại cầm binh khí quái lạ có tác dụng uy hiếp tinh thần địch, mỗi khi lang nha bổng to bự được giơ lên đập xuống, những chiếc gai đồng khoan từng lỗ to trên tấm thân tội nghiệp của quân Ngô, máu thịt văng tung tóe, quân Ngô lập tức hoảng loạn.
Cánh quân này phóng chạy như bay, không ngừng phang lang nha bổng túi bụi vào quân Ngô chắn trước mặt, theo chân Lương Hổ Tử điên cuồng lao lên, chỉ một lúc đã chia tách được người ngựa hai bên đang hỗn chiến ra, sau đó quay sang đám quân Ngô bị sót lại không kịp rút lui, phang tới tấp vào đầu vào cổ của chúng, có cánh quân này nhảy vào tham chiến, quân Ngô bị chia cắt ra làm hai, một trăm chiếc chiến xa và số ít bộ binh theo sau của Vương Tôn Hùng bị kẹt lại ở phía hậu quân của Khánh Kỵ, lúc này bị quân Khánh Kỵ bao vây mấy lớp không thoát ra được, cung tên bắn ào ạt về phía ấy, lính Ngô dính tên lăn ra chết như rạ, xong quân Khánh Kỵ lại đồng loạt đâm trường mâu, hoặc đâm người, hoặc nhằm vào ngựa, ngựa chết chiến xa không di chuyển được thành ra vật cản trở, cục diện trận chiến thay đổi rõ rệt, ưu thế lúc này hoàn toàn thuộc về quân của Khánh Kỵ.
Còn bên kia chiến tuyến, mấy chục chiến xa của Khánh Kỵ vẫn giữ được đội hình phối hợp, xông pha vào hậu quân của Vương Tôn Hùng, theo sau là kiếm thủ bám sát chiến xa, tiếp cận đại đội trường mâu của quân Ngô, khi giao chiến gần ưu thế về vũ khí lập tức hiện rõ, nhất là đám lính cầm lang nha bổng do Lương Hổ Tử chỉ huy, cứ giơ lên phang vào đầu lính Ngô, dù cho có đội mũ sắt cũng trào óc ra, đám lính thường đâu được đội mũ sắt bảo vệ, bị đập trúng đầu nát cả sọ, bị đánh trúng thân thì rú lên thảm thiết, trong một lúc tiếng kêu la làm binh sĩ quân Ngô hoảng loạn cả lên, không còn ý chí chiến đấu. Đúng lúc này người bên Khánh Kỵ lại la to danh hiệu của hắn, khơi lại kí ức bị lãng quên về chàng trai đệ nhất dũng sĩ Ngô quốc của binh lính Ngô.
Quân Ngô bại trận như núi đổ!
Thời hiện đại đã không còn cảnh tác chiến tập hợp mấy vạn người chen chúc chém giết nhau trên chiến trường chật hẹp, trong điện ảnh cũng hiếm khi lột tả được cảnh chân thật của chiến trận, nên khó mà tưởng tượng được cảnh bại trận như núi đổ của quân Ngô lúc này là như thế nào?
Binh sĩ là lá gan của tướng, tướng là linh hồn của binh sĩ, một khi chia cắt binh sĩ và tướng chỉ huy ra, binh sĩ có đông cũng như một nhúm cát rời rạc, nếu thống soái phe địch vốn là người mà binh sĩ e sợ tận đáy lòng, bị tấn công mạnh mẽ sẽ khiếp sợ hơn gấp bội, trong trận chiến hôm nay, không biết là ai dẫn đầu bỏ chạy, chỉ thấy quân Ngô như gặp cơn đại dịch lan tỏa, rất nhanh, binh sĩ phía Ngô mất hết ý chí chiến đấu quay đầu cắm cổ chạy như điên.
Khánh Kỵ cầm mâu oai vệ đứng trên xe, ra lệnh nổi hồi chiêng dừng truy đuổi, cho dù là vậy, đám lính mới của Lương Hổ Tử xưa nay quen thói hung hăng, lại không có ý thức gì về kỉ luật quân đội vẫn điên cuồng truy sát quân Ngô, phải mất hồi lâu mới chịu dừng lại. Khánh Kỵ quay đầu lại nhìn về hậu quân của mình, một trăm chiếc chiến xa của Vương Tôn Hùng bị bao vây túm tụm lại một chỗ, ra sức chống đỡ một cách tuyệt vọng từng lớp từng lớp binh sĩ không ngừng lao lên của Khánh Kỵ. Nhìn cảnh tượng ấy, như một tảng đá ngầm nhô lên giữa biển khơi, bị từng đợt sóng trắng xóa vỗ ập vào, lúc ẩn lúc hiện.
Khánh Kỵ không nhịn được nỗi vui mừng, trên môi nở một nụ cười mãn nguyện.
Vào thời này, muốn phân biệt thành phần trong quân đội là rất dễ. Lúc đầu, những người có tư cách mặc áo giáp lên chiến trường chiến đấu, chỉ có quốc dân và quý tộc, quốc dân chính là người ở trong thành thị, còn bọn nông dân chân đất quê mùa, gọi là dã nhân, họ không có tư cách đi đánh trận. Sau này, quy mô chiến tranh ngày càng mở rộng, dân nông thôn cũng bị triệu tập vào quân đội trở thành binh sĩ, nhưng quý tộc, quốc dân, dã nhân có sự phân chia giai cấp rõ ràng, binh lính có tư cách cưỡi chiến xa ra trận, đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc, binh lính theo sau chiến xa hỗ trợ tác chiến thì là quốc dân có khả năng chiến đấu cao, có nghĩa là bây giờ quân Ngô bị cắt làm đôi, đám quân Ngô đang bị vây khốn ở hậu quân Khánh Kỵ mới chính là cánh quân chủ lực tinh nhuệ thật sự.
Đám lính mới cầm lang nha bổng đang truy đuổi quân Ngô bỏ chạy không nghe theo hiệu lệnh lui quân, nhưng cũng không dám chống lại đội chiến xa của Khánh Kỵ, đợi khi mấy chục chiếc chiến xa của Khánh Kỵ chạy tới trước mặt quát tháo, đám lưu manh vô lại đang hăng máu này mới chịu dừng lại, kéo lê lang nha bổng dính bê bết máu thịt quay về, trên đường đi tiện thể cúi xuống thu lụm của cải trên xác chết nằm la liệt trên chiến trường.
Đám lính chịu rời bỏ quê hương tòng quân này, cho dù là nông dân chân đất, hay là dũng sĩ các nước chư hầu đến đầu quân, tất cả đều là bọn hung hăng, nếu ở thành thị thì trong mắt dân lành họ chẳng qua chỉ là một đám lưu manh vô lại, nhưng trên chiến trường khốc liệt, họ lại trở thành những chiến sĩ trời sinh, thắng lợi trong trận chiến hôm nay, phần lớn được quyết định bởi tính hung bạo của đại đội lang nha bổng này.
Đại đội lang nha bổng từ từ tập hợp lại, dán mắt vào chiến xa quân Ngô đang vất vả chống trả giữa vòng vây, hai mắt chúng lộ rõ tia sáng tham lam. Họ biết những binh lính Ngô đang cưỡi chiến xa kia xuất thân tầng lớp quý tộc, đó mới là người giàu thật sự, tuy khi ra trận không ai mang theo của cải bên mình, nhưng bao nhiêu binh khí, áo giáp, ngọc bội, tất cả đều rất có giá trị, đám lính hung hăng này thèm thuồng nắm chặt lang nha bổng trong tay, ánh mắt háo hức trông theo thống soái của họ - Độc thủ tướng quân Lương Hổ Tử.
Khánh Kỵ đã đánh xe quay về, lúc này Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man vừa từ trên núi đi xuống. Nhìn thấy hai người, Khánh Kỵ chau mày nói: “Hai nàng sao lại xuống đây? Cứ đứng phía sau chờ đợi, đừng lại gần.”
Dứt lời Khánh Kỵ quay đầu trở lại chiến trường, đứng trên xe hắn nhìn rất rõ, phía không xa đằng kia là chiến xa của Vương Tôn Hùng. Chiến xa đó sắp xông qua hậu quân quay đầu lại, nhưng nay bị đại đội lang nha bổng của Lương Hổ Tử chặn mất đường lui, không nhận được tiếp viện bị bao vây ở giữa, tiến không được lùi cũng không xong, hình như bánh xe của hắn đã bị phá hỏng, lọt thỏm vào hố cát không nhúc nhích được.
Vương Tôn Hùng xem ra cũng có tài chỉ huy, trong lúc lòng quân hoang mang vẫn ra lệnh cho mười mấy chiến xa lại gần, sau đó liên kết đống chiến xa lại với nhau, tạo thành một lá chắn, tất cả binh sĩ đều nhảy xuống xe, trong cùng là cung thủ, bên ngoài là kiếm thủ trường mâu phối hợp với nhau, tạo thành một đội hình phòng thủ liên hoàn chặt chẽ, bọn chúng không ai hò hét, chỉ cắn rắn im lặng tập trung chống trả.
“La to lên, bảo chúng đầu hàng, sẽ được tha mạng!” Khánh Kỵ chăm chú nhìn trong giây lát, hạ giọng ra lệnh.
Tái Cừu lập tức dẫn theo mấy mươi binh sĩ la to mệnh lệnh của Khánh Kỵ, nhưng câu trả lời chỉ là tiếng binh khí leng keng chống cự, một vòng tròn lớn đang vây lấy một vòng tròn nhỏ bên trong, xen giữ hai vòng tròn là một khoảng không hẹp cho binh khí chạm nhau, binh sĩ hai bên đột nhiên im bặt chăm chú chiến đấu, giờ chỉ còn nghe thấy tiếng binh khí va nhau, máu văng tung tóe, người bị đâm trúng nhanh chóng đổ rạp xuống, trở thành miếng giẻ bị xung quanh xông vào giẫm đạp lên để lấp vị trí, ngoại trừ tiếng binh khí, hơi thở hổn hển như trâu của các binh sĩ vang tận bên tai Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ nhắm nghiền mắt, thở dài một hơi.
“Công tử, bọn chúng đã quyết tâm chống cự đến cùng, hơn nữa, lão tặc Cơ Quang đã có lệnh, họ cũng không thoát được đâu, tuyệt đối không dám buông vũ khí đầu hàng. Xin công tử đừng mềm lòng.”
Tái Cừu sợ Khánh Kỵ thương hại quân Ngô, sẽ mở một con đường sống cho đám quân địch hung hăng này. Nghe Khánh Kỵ thở dài, vội lên tiếng nhắc nhở.
“Ta biết.”
Khánh Kỵ nhảy phóc xuống xe, đến bên Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man, âu yếm hỏi: “Chiến trường máu me thế này, không sợ à?”
Thúc Tôn Diêu Quang mỉm cười dịu dàng, nhẹ giọng nói: “Không sợ, còn nhớ thiếp từng nói gì với chàng không?”
“Gì vậy?”
“Chàng nếu đi giết người, thiếp sẽ theo chàng đi giết người!”
Khánh Kỵ ngớ người, sau đó nở một nụ cười mãn nguyện. Hắn đương nhiên còn nhớ, lúc đó hắn thắng được Thúc Tôn Diêu Quang làm tì nữ của hắn, sau đó sứ giả của Ngô quốc đến Lỗ, Quý Tôn Ý Như có ý e dè, muốn đuổi hắn ra khỏi Lỗ quốc, trong hoàn cảnh nguy nan, nàng đã bày tỏ tấm lòng với một vương tử lưu vong như hắn.
Tiếng binh khí va nhau văng vẳng không ngớt, gió lạnh rít vào trong khe núi, mang theo hơi lạnh từ phương Bắc, tà áo nhuốm máu đỏ của Khánh Kỵ bị gió thổi phất phơ. Khánh Kỵ nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Thúc Tôn Diêu Quang, quay qua ra lệnh: “Không chịu đầu hàng thì giết sạch, chỉ để lại một mình Vương Tôn Hùng.”
Hai huynh đệ A Cừu, Tái Cừu mở to mắt ra đợi lệnh, khi Khánh Kỵ vừa dứt lời, hai người vội mở miệng hô tuân lệnh rồi chạy đi sắp xếp.
“Ta từng nghe nàng đánh đàn chưa nhỉ?”
“Chàng nói thử xem?”
“Ừm…Hình như là chưa, ta chỉ mới nghe nàng hát.”
Thúc Tôn Diêu Quang cảm thấy lạ: “Có chuyện này ư? Thiếp từng hát cho chàng nghe rồi à?”
Khánh Kỵ nhướn người về phía trước, đặt cằm vào bờ vai thon thả của Diêu Quang, nói nhỏ bên chiếc tai nhỏ nhắn xinh xinh của nàng: “Tất nhiên là có, lúc ở Phí thành, trong tẩm thất của nàng, nàng ứ a ứ a…”
“Bốp!” Lưng Khánh Kỵ bị Diêu Quang vỗ mạnh, nàng đỏ mặt nhìn hắn, đôi mắt e thẹn, chớp chớp liên hồi.
Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, đứng thẳng người ung dung nói: “Ra đại sảnh, vào tẩm thất, lên chiến trường, nữ nhân thế này biết tìm đâu ra? Ha ha, còn nhớ khúc nhạc Bạch thủy thao thao không? Đàn cho ta nghe, thế nào?”
“Được!” Thúc Tôn Diêu Quang nở một nụ cười dịu dàng với Khánh Kỵ.
Tiếng đàn thánh thót vang lên trên chiến trường tràn ngập sát khí, len lỏi giữa ngàn vạn binh sĩ đang hăng say chiến đấu, trong một lúc như át đi mùi tanh của máu, át cả tiếng leng keng khô khốc khi binh khí va nhau.
“Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu. Thao thao bạch thủy, bạch thủy thao thao, nam nhi chí khí, vút cao trời xanh, tráng chí chưa thành, khó mà tiêu diêu…”
Khánh Kỵ ngẩng đầu lên nhìn vào bầu trời bao la trên chiến trường, khúc nhạc như một dòng sông nhỏ róc rách len lỏi trong tim hắn, tâm trí vượt qua thiên sơn vạn thủy, giờ đã bay cao bay xa tận bầu trời Ngô quốc: Tôn Vũ, Anh Đào, các ngươi hiện giờ…đã tấn công vào Ngô hay chưa?
Quý Tôn Tiểu Man hai mắt ngấn lệ lầm lủi bước sang một bên, nàng không chịu thừa nhận thấy cảnh Diêu Quang và Khánh Kỵ âu yếm, trong lòng cảm thấy không vui. “Vì gió ở đây thổi mạnh, nên cát bay vào mắt, nhất định là vì lí do này.” Tiểu Man đang tự an ủi trong lòng.
Nàng đưa tay vuốt ve cây tiêu ngọc giắt ở dây lưng , tuy nàng muốn lập tức chứng minh cho Khánh Kỵ thấy, thật ra tài thổi sáo của nàng hay hơn gấp vạn lần tài đánh đàn của Thúc Tôn Diêu Quang, nhưng hiện giờ Tiểu Man lại không muốn cùng hòa tấu với tiếng đàn của Diêu Quang chút nào.
Đưa mắt dáo dác nhìn xung quanh, Tiểu Man phát hiện trên một chiếc chiến xa ngã chổng bánh có treo mớ bùi nhùi gì đó, thì ra là một tấm lưới. Nàng lại gần thu tấm lưới trong tay, nhón gót nhìn Vương Tôn Hùng thọ thương ở vai, đang điên cuồng chống cự như một con hổ bị dồn vào đường cùng, nắm chặt Hàm Quang kiếm trong tay, Tiểu Man đột nhiên nhảy vút lên không trung, nhẹ tựa chim én, lao về phía ấy…
“Vương Tôn Hùng.”
“Tam vương tử.”
“Hô hô, ngươi còn nhận ra ta là vương tử à?”
“Thân phận vương tử khắp thiên hạ đều biết, thần sao dám không nhận?”
Sắc mặt Khánh Kỵ trầm xuống, hét hỏi: “Nếu ngươi đã nhận ta là vương tử, sao còn giúp tên nghịch tặc Cơ Quang?”
Vương Tôn Hùng tuy áo giáp rách bươm, trên người vẫn còn bị tấm lưới chụp lấy, dáng vẻ thảm hại, nhưng lại hiên ngang ngẩng cao đầu, lạnh nhạt: “Tiên vương Thọ Mộng có bốn vương tử, Chư Phàn, Dư Tế, Di, Quý Trát. Tiên vương có ý truyền ngôi cho Quý Trát, vì Quý Trát từ chối nên ba vị vương tử lần lượt nối ngôi, cho đến khi tổ phụ của ngài lên ngôi, Quý Tử vẫn chưa chịu kế thừa vương vị, ngôi vị theo thứ tự trưởng thứ, phải nên do đương kim đại vương con trai của Chư Phàn kế thừa, nhưng tổ phụ ngài lại truyền ngôi cho phụ vương ngài, chủ ta chỉ lấy lại ngôi vị vốn thuộc về mình, sao có thể gọi là nghịch tặc?”
“To gan!” A Cừu đá vào sau gối Vương Tôn Hùng, hắn vừa bị đá quỳ xuống lập tức đứng bật dậy, ngạo mạn nhìn vào Khánh Kỵ, không hề sợ sệt.
Khánh Kỵ cười khẩy, phản bác: “Thứ tự trưởng thứ ư? Ngươi cũng đã nói tiên vương Thọ Mộng có bốn vương tử lại có ý truyền ngôi cho tứ vương tử Quý Trát, thế thì đâu có thứ tự trưởng thứ gì ở đây, lúc đó ngôi báu có phải là chắc chắn thuộc về con trưởng đâu? Quý Tử không chịu lên ngôi, ba vương tử còn lại lần lượt kế thừa vương vị, đó đều là ý của tiên vương, phù hợp lễ pháp. Phụ vương ta kế vị, là nghe theo di mệnh của tiên vương, giao phó quốc gia vào tay người nào, đó phải là di mệnh của tiên vương hợp pháp đời trước, không phải là món hàng tùy ý chuyển nhượng, sao lại nói vốn thuộc về Cơ Quang hả? Tiên vương đã lập thái tử, danh phận quân thần đã định, Cơ Quang sai thích khách giết vua, ngươi có nói cho trời đổ ập xuống, cũng không che đậy được sự thật giết vua đoạt ngôi này.”
Vương Tôn Hùng hứ một tiếng rõ to, ngẩng cao đầu nói: “Vương vị Ngô quốc, vốn là chuyện của Cơ thị Ngô quốc, ai đúng ai sai không liên quan đến Vương Tôn Hùng. Vương Tôn Hùng là tướng lĩnh dưới trướng Ngô vương Hạp Lư, bổn phận phải ra sức vì đại vương, đến chết mới thôi.”
Khánh Kỵ cười to: “Ha ha, ngươi đuối lí rồi phải không? Nên mới nói ra những lời đứng về phía thân thuộc chứ không đứng về phía lí lẽ. Vương Tôn Hùng, hôm nay ngươi dẫn quân tiến về thành Na Xứ của ta, Cơ Quang phái ngươi đến là có ý gì? Chỉ với số binh mã của ngươi, nếu ta thủ thành, ngươi khó tiến thêm bước nào, giờ ta chủ động ra thành ứng chiến, vẫn cứ đánh cho ngươi bại trận tan tác. Ta cứ cho rằng ngươi có quân mai phục, để đề phòng bất trắc, còn sai Kinh Lâm dẫn quân phòng bị, không ngờ quân của ngươi chạy mất dạng, không hề thấy một binh một tốt tới cứu viện, Cơ Quang bảo ngươi tới nộp mạng đó hả?”
Vương Tôn Hùng lại hứ một tiếng, uất hận mà nói: “Vương Tôn Hùng tưởng điện hạ không biết thực hư quân ta, trong một lúc không dám ra thành ứng chiến, nên mới không hề chuẩn bị, nếu không sao để ngài dễ dàng chiến thắng? Thôi vậy, việc đã đến nước này, nói nhiều vô ích, điện hạ muốn giết thì cứ giết, Vương Tôn Hùng mà chau mày thì không là hảo hán.”
Khánh Kỵ cười khoái trá: “Ta giết ngươi có ích gì? Cơ Quang tàn bạo, dùng quân luật hà khắc trị quân còn sợ chưa đủ, còn dùng cả nhà lớn bé thân thuộc vô tội của quân sĩ ra làm con tin, đấy không phải là chủ nhân tốt. Nếu đã phạt Sở chiếm cứ Dĩnh Đô thành công, có được kỳ công này lại không biết xuôi theo thời thế, chiêu dụ người Sở, tầm nhìn hạn hẹp, chỉ biết làm cường đạo giết người cướp của, hãm hiếp nữ nhân, đấy không phải là đấng minh quân. Tướng quân thần dũng, Khánh Kỵ xưa nay kính phục, sao cứ phải theo hầu hôn quân tàn bạo này chứ? Tướng quân nếu chịu quy thuận Khánh Kỵ, không những giữ được tính mạng, sau này vinh hoa phú quý, phong hầu bái tước, dễ như trở bàn tay, tướng quân có đồng ý không?”
Vương Tôn Hùng hít một hơi dài, mái tóc rối tung phấp phơ trong gió, hai mắt bắn ra tia nhìn kiên quyết, hiên ngang nói: “Đa tạ ý tốt của điện hạ, Vương Tôn Hùng đã bái đại vương làm chủ nhân, sao lại có thể tham sống sợ chết đầu hàng người khác? Nếu giờ ta làm vậy, điện hạ không sợ sau này ta lại vì muốn được tính mạng đầu hàng kẻ khác ư? Điện hạ không cần nhiều lời, xin hãy cho Vương Tôn Hùng được toại nguyện.”
Khánh Kỵ trừng mắt nghiêm nghị: “Ngươi không chịu đầu hàng thật ư?”
“Xoạt, xoạt!” Hai tiếng gỏn lọn vang lên, hai thanh đao sáng choang lập tức được kề vào cổ Vương Tôn Hùng, hắn không hề tỏ ra sợ hãi, ngước cổ lên nhắm nghiền mắt, ảm đạm cất tiếng: “Không cần nhiều lời, muốn giết cứ giết!”
“Ha ha, quả nhiên là một trang hảo hán!” Khánh Kỵ khen xong, lắc đầu than thở: “Ta có thể không giết Yêu Ly, sao lại nỡ giết ngươi chứ? Hây! Chỉ là tiếc cho một trang nam tử hán nhà ngươi, lại ra sức cho tên nghịch tặc Cơ Quang tàn bạo, tiếc thay, tiếc thay…”
Vương Tôn Hùng nổi giận đùng đùng: “Điện hạ muốn giết ta thì cứ việc ra lệnh, hà tất sỉ nhục đại vương.”
Khánh Kỵ nhìn chăm chú vào hắn hồi lâu, Vương Tôn Hùng không hề né tránh tia nhìn của Khánh Kỵ, Khánh Kỵ lại mỉm cười, xua tay: “Khá lắm, quả nhiên là anh hùng, thả hắn ra!”
“Cái gì?” Tướng lĩnh xung quanh đồng loạt kêu lên.
Khánh Kỵ không hề chớp mắt, nói giọng đều đều: “Ta nói, thả hắn ra, đây là quân lệnh!”
“…Tuân lệnh!” A Cừu, Tái Cừu cố chế ngự cơn giận, xua tay cho hai tên lính kề đao vào cổ Vương Tôn Hùng lui xuống, Vương Tôn Hùng ngớ người ra giây lát, vẻ mặt nghi ngờ hỏi: “Điện hạ…muốn thả ta đi?”
Khánh Kỵ hứ một tiếng: “Ngươi không chịu đầu hàng, giữ lại trong quân ta để tốn cơm gạo à? Biến, mau biến cho ta!”
Vương Tôn Hùng bước lùi hai bước, ánh mắt dò xét một lượt, sau đó đứng thẳng người, chắp tay vái lạy Khánh Kỵ một cái, quay sang phía Quý Tôn Tiểu Man đang đứng gần đó, lên tiếng hỏi: “Xin hỏi cao danh quý tánh của cô nương là gì?”
Vừa nãy giao chiến, hắn tuy bị Quý Tôn Tiểu Man chụp lưới bắt giữ, nhưng cũng đâm một mâu hất tung mũ sắt của Tiểu Man, nhìn thấy búi tóc của nàng đã biết đây không phải là một thiếu niên, mà là một cô nương chưa được hứa gả cho ai.
Quý Tôn Tiểu Man vênh mặt khoái chí, đáp lời: “Lỗ nhân Quý Tôn Tiểu Man, thế nào, ngươi không phục kiếm pháp của ta hử?”
Vương Tôn Hùng mỉm cười: “Kiếm thuật của cô nương kỳ lạ, Vương Tôn Hùng mới gặp lần đầu, trong lòng rất là khâm phục, hôm nay bị cô nương bắt giữ, hy vọng sau này trên sa trường, Vương Tôn Hùng lại có cơ hội tiếp chiến cô nương. Xin phép cáo từ!”
Dứt lời, Vương Tôn Hùng quay phắt người bước đi, cũng không nói thêm lời nào với Khánh Kỵ. Khánh Kỵ quả nhiên không sai người ngăn cản, nhìn trừng trừng dõi theo Vương Tôn Hùng đi xuyên qua từng lớp từng lớp binh sĩ đội ngũ chỉnh tề, hiên ngang bỏ đi.
“Này!” Quý Tôn Tiểu Man quay sang Khánh Kỵ, mở to đôi mắt đen láy, vẻ hậm hực: “Ngài hay nhỉ, người ta phí bao nhiêu công sức, còn sém bị hắn đâm chết mới bắt được hắn, ngài sao lại thả cho hắn đi? Người này cứng đầu như trâu, sau này chắc chắn sẽ lại đối địch với ngài đó.”
Khánh Kỵ dõi theo bóng dáng Vương Tôn Hùng giờ đã đi xa, ánh mắt sáng lên, nói: “Ta biết, nhưng giết một mình hắn có ích gì? Chi bằng thả cho hắn về, lại làm nguôi ngoai cơn giận của người Ngô, đập tan sĩ khí chiến đấu của chúng. Cơ Quang đã có lệnh, ai rút lui bỏ chạy, giết! Ai buông vũ khí đầu hàng, giết cả nhà! Vừa nãy các binh sĩ bỏ chạy, không biết hắn có giết hay không? Vương Tôn Hùng là ái tướng của Cơ Quang, lần này đại bại, tổn thất nghiêm trọng, không biết hắn có giết hay không?
Lần này thảm bại, không phải tướng sĩ của Vương Tôn Hùng không nghe lệnh liều chết, nếu giết cả sẽ làm tướng sĩ quân Ngô sợ hãi, một khi nắm bắt thời cơ không đúng, còn có thể ép quân Ngô tạo phản, còn nếu không giết, quân lệnh của hắn nói ra không thực hiện, sau này quân Ngô giao chiến với ta, chắc sẽ không ngoan cường chống cự như hôm nay nữa.”
“Ơ…” Quý Tôn Tiểu Man kể ra cũng hiểu chuyện, nghe lời Khánh Kỵ giải thích, lập tức hóa giận thành vui: “Không ngờ chỉ một tên tù binh mà có tác dụng lớn thế này, ngài lợi hại quá!”
Khánh Kỵ mỉm cười khoái trá: “Ha ha, điều đó đương nhiên, cho dù là một hòn đá, ta cũng bắt nó chảy dầu ra… (1) À phải rồi, nàng đừng lái sang chuyện khác!”
Khánh Kỵ làm mặt giận, hỏi: “Ai cho nàng ra tay hả? Nếu không may nàng bị thương thì ta sao ăn nói với Quý thị Lỗ quốc? Còn nữa, Vương Tôn Hùng hỏi tên nàng, sao nàng lại nói cho hắn biết?”
Quý Tôn Tiểu Man bị Khánh Kỵ trách mắng giữa chốn đông người, khuôn mặt đỏ chít vì xấu hổ, phụng phịu: “Lại là ta không đúng ư? Tên của bổn cô nương đây xấu lắm hay sao mà không nói cho người khác biết được chứ?”
“Đương nhiên là không nói ra được rồi! Hừ, bây giờ khắp thiên hạ không ai không chú ý chiến sự ở Sở quốc, Vương Tôn Hùng quay về nói ra, lúc đó khắp thiên hạ đều biết Lỗ nhân Quý Tôn Tiểu Man đang ở trong quân Khánh Kỵ ta, Lỗ quân và Quý Tôn Ý Như mà nghe nói thì…”
“Chết rồi!” Quý Tôn Tiểu Man nhảy dựng lên hốt hoảng, sau đó xoạt một cái rút kiếm ra, nhón chân nhìn dáo dác xung quanh, Khánh Kỵ thấy bộ dạng của nàng ta, cảm thấy kỳ lạ hỏi: “Nàng làm gì vậy?”
“Mau tìm cho ta một chiếc chiến xa.”
“Nàng muốn bỏ trốn? Trốn đi đâu chứ?”
“Hứ! Đã trốn đến tận Sở quốc rồi, còn trốn được đi đâu nữa? Chẳng lẽ trốn vào bộ lạc của người Tây Địch à? Ta phải đuổi theo tên Vương Tôn Hùng mới được ngài thả ra, giết người diệt khẩu.”
“Thì ra Cơ Quang muốn nhân lúc các cánh quân cần vương của Sở chưa ổn định, tấn công Quyền Ấp, lại lo lắng chúng ta và người Sở đưa tin lẫn nhau, sợ ta xuất binh cứu viện, nên mới phái Vương Tôn Hùng dẫn quân từ Ngư Phản đến đây, khống chế quân ta hành động. Chỉ là hắn không ngờ tới ta đang định mượn trận chiến này lập uy, lại chủ động xuất kích, đánh cho Vương Tôn Hùng không kịp trở tay. Thế nhưng…Quyền Ấp bị quân Ngô chiếm giữ, sẽ gây bất lợi lớn cho quân ta đấy.”
Khánh Kỵ nhíu chặt mày nghiêm nghị: “Từ mục đích này mà nói, quân Ngô tuy bại trận, thật ra chúng vẫn chiếm phần thắng.” Khánh Kỵ bước đến bức bản đồ chỉ lên đó, nói: “Các ngươi xem, phía trước mặt chúng ta là Dĩnh Đô, mặt phải là Quyền Ấp, mặt trái là Ngư Phản. Hai cánh quân từ Quyền Ấp và Ngư Phản của Cơ Quang kẹp chặt chúng ta ở giữa, chúng ta muốn tấn công Dĩnh Đô, lúc nào cũng phải phòng bị hai bên hông, sợ quân Ngô tập kích, còn nếu chúng ta tấn công một phía, cánh quân khác của chúng sẽ chặn hướng rút lui của ta, nếu ta chia quân hai ngả cùng lúc tấn công quân địch hai cánh, binh lực có đủ hay không còn chưa biết, với lại quân Ngô ở Dĩnh Đô lúc nào cũng có thể tăng viện, khó lắm đây.”
Yểm Dư công tử gật gù: “Đúng vậy, quân địch ở Quyền Ấp, đóng gần con sông Bá Tân của chúng ta, sau này chúng ta phải cẩn thận đề phòng bọn chúng. Theo tình hình này ta không khinh suất hành động được rồi, tiên phong của quân Sở bị xơi mất một nửa, tàn quân của họ hiện đang đóng tại sông Dư La, đợi đại quân của tướng quân Tử Tây đến phối hợp, chúng ta cũng phải chờ đợi, chỉ cần đợi đại quân của người Sở đánh đến chiếm giữ nơi trọng yếu, đánh lủng một chỗ trong lá chắn phòng ngự của Cơ Quang, chúng ta mới có thể hành động.”
Khánh Kỵ gật đầu đồng ý: “Ừ, giờ thứ quan trọng nhất chính là tin tức, nhưng giờ đây nước Sở hỗn loạn khắp nơi, tin tức truyền đưa khó khăn, quân đội của phe địch và phe ta lại phân bố đan xen lẫn nhau, trong lúc này khó thiết lập một nơi đưa nhận tin cố định, chỉ có thể phái ra thám mã ước lượng vị trí và quân số của kẻ địch, khó nắm được thông tin tình báo có giá trị hơn thế.”
Lương Hổ Tử ngao ngán góp lời: “Thế cũng hết cách, quan lại cai quản của người Sở xung quanh đây người thì bỏ trốn, người thì chết mất tiêu, cơ sở cai trị của người Sở ở khu vực này đã bị tê liệt, muốn kịp lúc thu nhặt thông tin tình báo, e là ngay cả quân Sở cũng không làm được, nói gì đến đám người ngoài như chúng ta đây.”
Khánh Kỵ khẽ gật đầu: “Đúng vậy, muốn kịp thời truyền tin và thu nhặt thông tin tình báo cần đặt một địa điểm thỏa thuận cố định, hiện nay chúng ta không làm được chuyện này, nhưng người của Cơ Quang cũng không làm được giống ta, thế mới nói, về mặt này, ta và địch không ai chiếm ưu thế.”
Khánh Kỵ bước về chỗ ngồi xuống, nói tiếp: “Nếu đã là vậy, đối địch với Cơ Quang, ta vẫn có lòng tin, giờ điều ta lo lắng chính là phía bên Ngô quốc kìa.”
Hắn ngẩng đầu lên, tầm mắt như nhìn xuyên qua bức vách, hướng về nơi xa xăm ngoài kia: “Truyền đưa tin tức là một vấn đề khó khăn, không thể kịp thời biết được tình hình bên Chúc Dung hoàng thúc và Tôn Vũ, Anh Đào thế nào, chúng ta không phối hợp nhịp nhàng tác chiến với họ được. Bây giờ quân trấn giữ ở Ngô quốc tuy không nhiều, nhưng dù sao chúng cũng chiếm trọn ưu thế địa lợi nhân hòa, cũng may có Chúc Dung hoàng thúc ở trong quân, ít nhiều cũng vớt vát được chút giúp sức trong quân Ngô, điều chúng ta có thể làm bây giờ là chế ngự đại quân của Cơ Quang, một khi phía Chúc Dung hoàng thúc tập kích thành công, đoạt lấy Cô Tô thành, lúc đó tín sứ của ta và của Phù Sai sẽ cùng lúc chạy sang Sở đưa tin, thắng thua là vào lúc ấy, chính là lúc quân đội của ta chạy đua với quân đội của Cơ Quang, xem ai sớm quay về Ngô quốc trước tiên.”
Nói đến đây, Khánh Kỵ ngập ngừng giây lát, cười chua chát: “Cho nên dù cho Chúc Dung hoàng thúc có thuận lợi chiếm giữ Cô Tô thành, cũng không chắc chắn chúng ta giành được thắng lợi, mà phải xem tín sứ của phe nào tới trước, ai quay về Ngô quốc trước tiên. Trong tình cảnh tin tức truyền đi chậm chạp khó khăn thế này, phải phối hợp tác chiến từ xa đúng là xưa nay mới xuất hiện lần đầu. Có nhiều khi, thắng bại lại được quyết định bởi ý trời…”
Cô Tô thành mới được xây dựng không lâu, bá tánh và các hộ giàu có trong thành đều di cư từ khắp mọi miền đến đây. Nằm ở vị trí trung tâm Cô Tô thành, hoàng cung Ngô quốc giống một tòa thành nhỏ nằm trong tòa thành lớn, tuy không nguy nga tráng lệ như hoàng cung của các nước chư hầu trung nguyên, nhưng nhìn vào cũng khá là hùng vĩ.
Một con tuấn mã phi từ trong hoàng cung ra ngoài, phía trước là đội xe ngựa được cấm quân và thái giám hộ tống đang đi vào trong cung, trên xe chất đầy ngọc ngà châu báu, gấm vóc lụa là, vàng bạc vũ khí lấy từ Dĩnh Đô Sở quốc, giờ đã được vận chuyển từ Sở về, số của cải này nhiều gấp ba lần số của cải chứa trong hoàng cung Ngô quốc, phía xa đội xe, tàu chuyên chở của cải từ Sở quốc quay về vẫn còn xếp hàng dài không ngớt.
Nhìn thấy chàng thanh niên đang ngồi trên ngựa, đám cấm quân và thái giám vội vàng dừng lại hành lễ với hắn, chàng thanh niên kia không thèm để ý đến chúng, quất roi vào mông ngựa, lướt nhanh ra ngoài cổng hoàng cung. Hắn mặc chiếc áo xanh lá đậm, trên có thêu họa tiết núi non long phụng, búi tóc bằng một cây trâm ngọc phỉ thúy, mặt mày sáng sủa, thần khí cao ngạo, là một nam tử khôi ngô tuấn tú.
Người này chính là con trai của Ngô vương Hạp Lư, đương kim thái tử Phù Sai của Ngô quốc.
Phía bên ngoài hoàng cung được phân chia ra các khu vực khác nhau, càng về phía ngoài, tuy cũng có đình đài lầu các, nhưng phần lớn là vùng đất cây cối um tùm, đan xen còn có nhiều mảnh vườn trồng rau quả xanh tươi. Vào thời này trong hoàng cung cũng có khu vực trồng rau trái tự cung tự cấp, bên ngoài cũng không ngoại lệ, trong Cô Tô thành bố trí rất nhiều đất trồng, một khi xảy ra chiến tranh, chỉ cần trong thành có nguồn nước, bị vây khốn ba đến năm năm không lo về lương thực.
Phía ruộng lúa trước mặt xuất hiện một cây cầu, trên cầu đang có hai mươi mấy tên lính đứng đó, thấy Phù Sai đi đến, mọi người vội thi nhau hành lễ, Phù Sai giơ roi ngựa lên chỉ nhẹ về phía trước, sau đó phóng ngựa lướt qua mặt mấy tên lính, đám lính liền chạy bám theo sau.
Ngựa chiến từ từ chạy chậm lại, đi dọc con đường chính dẫn ra tận cổng hoàng cung, đám binh sĩ hợp sức đẩy cánh cửa dầy cộm nặng nề ra, Phù Sai phóng ngựa ra ngoài, theo sau là hai mươi mấy tên vệ sĩ, khi hắn ra ngoài rồi cánh cổng đóng sầm lại. Trước mặt trái phải có hai tòa lầu cao ngất, Phù Sai nắm chặt cương ngựa, ngẩng đầu nhìn vào bầu trời trong xanh, một cơn gió thoảng qua, cơn gió mang đến giọng ca ngọt ngào của một nữ nhân.
“Một năm mới bắt đầu rồi, mà thiên hạ cũng bắt đầu đại loạn.” Phù Sai nghĩ: “Tề Tấn liên thủ nam chinh, Sở Tần liên minh chống cự, chư hầu khắp thiên hạ đều ngả vào hai bên chiến tuyến, một trận đại loạn sắp bắt đầu diễn ra. Mà Ngô quốc, có điều kiện địa lí được ông trời ưu đãi, Ngô quốc nằm ngay gốc Đông Nam, phía Bắc có Trường Giang hiểm trở, phía Nam chỉ là một Việt quốc nhỏ bé, phía Đông là biển cả, còn về phía Tây, chính là Sở quốc.
Sở quốc nhìn bề ngoài có vẻ rộng lớn, giờ bị phụ vương tấn công vào tận Dĩnh Đô, Tề Tấn một khi xua quân nam hạ, liên quân Sở Tần tự lo thân mình còn chưa xong, vốn không lo nổi chuyện của Ngô quốc, ngọn lửa chiến tranh đang thiêu rụi khắp thiên hạ này khó mà cháy lan tới Ngô quốc. Ngô quốc có uy danh đánh thắng Sở quốc, lại chiếm lấy số của cải tích trữ mấy trăm năm của Sở làm vốn, thừa lúc thiên hạ đại loạn, nỗ lực xây dựng quân đội, đợi khi nguyên khí các nước đại thương, Ngô quốc đã thành bá chủ Đông Nam, muốn tranh đoạt ngôi bá chủ thiên hạ, cũng không phải là không có cơ hội.”
Nghĩ đến đây, Phù Sai không khỏi máu nóng sôi sục trong tim.
“Thái tử, chúng ta đi đâu ạ?” Thị vệ trưởng bước lên cung kính hỏi chuyện.
Phù Sai quất nhẹ roi ngựa, cười khoái trá: “Cứ đi thong dong vài nơi, bây giờ người Đông Di làm loạn, cùng Lỗ quốc kháng Tề, đại đạo Triển Chích thừa cơ dấy binh tạo phản, cùng nước Tề trong ứng ngoại hợp. Hí, cách nhau con sông Trường Giang, chúng ta cứ xem vở tuồng hay coi sao, nghe nói các bộ lạc Đông Di cũng có lúc vượt sông nam hạ, cướp bóc dân chúng nơi biên giới, trong kinh thành có nổi lên lời đồn tin liên minh của Khánh Kỵ và quân Sở, càng làm người ta lo lắng, thân là thái tử, ta phụng mệnh phụ vương trấn giữ Cô Tô thành, bây giờ đi lại trong thành cũng có tác dụng làm an lòng dân chúng.”
“Dạ, thuộc hạ xin hộ tống thái tử đi tuần tra.”
Cấm quân hộ tống Phù Sai ở giữa, men theo con đường chính trong Cô Tô thành thong dong bước đi, hàng vệ sĩ đi trước cầm trường mâu gạt đám đông ra mở đường. Phù Sai đi tới bên một cây cầu, vừa định thúc ngựa qua cầu, bên đường đột nhiên có một người nhảy ra chặn trước đầu ngựa, đám thị vệ hốt hoàng hét lên, lo đó là thích khách, lập tức có hai tên thị vệ giơ trường mâu đâm thẳng vào người đó, người này thân pháp lanh lẹ, chỉ xoay người nhẹ sang một bên đã tránh được hai đầu nhọn sắc bén đâm tới, đoạn dang tay ra, nắm chặt hai thanh trường mâu trong tay, hét to tiếng: “Khoan ra tay vội, tiểu nhân xin gặp thái tử có đại sự cần bẩm báo!”
“Dừng tay!” Phù Sai nghe vậy hét vào đám thị vệ, thần thái ung dung nhìn vào người đó.
Người này mặc áo vải thô, đầu đội mũ rơm che hết cả khuôn mặt, nhìn thế đứng vững vàng, thân thủ bất phàm, chắc là một võ sĩ. Hai chân Phù Sai thúc nhẹ vào bụng ngựa, tiến ngựa lại gần, không hề có ý cảnh giác, hỏi: “Ngươi là ai, muốn gặp bổn thái tử bẩm báo việc gì?”
Người này ngẩng đầu lên nhìn lên lưng ngựa, thấy người ngồi trên đó dung mạo tuấn tú, khí khái cao ngạo, nhất là đôi mắt sáng choang, tia nhìn sắc lẹm.
Hắn buông trường mâu ra, bước lùi ba bước, hạ gối quỳ xuống, nói: “Tiểu nhân có việc quan trọng, chỉ mong được gặp mặt thái tử một lần, bẩm báo riêng với thái tử. Vừa rồi mừng rỡ khi thấy thái tử đi tuần, trong lúc vội vàng nhảy ra kinh động thái tử, xin thái tử tha tội.”
Phù Sai lên tiếng: “Nói ý định tới đây của ngươi ta nghe.”
“Dạ!” Người kia cung kính trả lời, sau đó tháo mũ rơm xuống, cúi đầu: “Tiểu nhân vốn là người Lỗ, từ Khúc Phụ đến đây, có việc liên quan đến cơ mật Ngô quốc muốn bẩm báo thái tử, chỉ là…sự việc hệ trọng, nói ở đây không được thuận tiện.”
“Người Lỗ? Từ Khúc Phụ đến ư?” Phù Sai lộ vẻ nghi ngờ, hắn ngước đầu nhìn vào một mái đình nhỏ bên kia cầu, dặn dò: “Nào, ta qua kia nói cho rõ.” Dứt lời nhảy phóc xuống ngựa, sải bước đi về phía mái đình, mấy tên thị vệ lập tức ùa qua phía ấy, la hét đuổi người đi đường xung quanh đó dạt ra xa.
Người kia nói: “Dạ, tiểu nhân là người Lỗ, vốn là thực khách môn hạ của Thúc Tôn Ngọc đại phu Lỗ quốc, họ Lý tên Hàn. Lý Hàn ngưỡng mộ uy danh của Ngô vương và thái tử đã lâu, lần này đến đây đầu quân, còn mang theo một công lớn.”
Phù Sai tuy trẻ tuổi, nghe hắn kể rõ thân phận, nghĩ chắc có chuyện gì cơ mật quan trọng lắm cần bẩm báo đây, nhưng hắn năm lần bảy lượt muốn nói rồi lại thôi, trong lòng cảm thấy không vui, liền nhăn mặt: “Nếu đã là chuyện cơ mật, cứ nói ra với bổn thái tử, chỉ cần là đại sự có lợi cho Ngô quốc, ta sẽ thay mặt phụ vương làm chủ, cho ngươi làm quan to, ban thưởng hậu hĩ.”
Lý Hàn mừng rơn, vội dập đầu cảm tạ: “Lý Hàn xin đa tạ thái tử. Thái tử có biết, đại quân của Khánh Kỵ hiện đang ở đâu không?”
Phù Sai nói: “Đương nhiên là đang ở Sở…”
Phù Sai chợt im bặt, trong lòng ngờ ngợ, ánh mắt toát ra tia sáng nghi hoặc: “Ngươi nói…hắn đang ở đâu?”
Lý Hàn vốn định lấy lòng Thúc Tôn Diêu Quang, từ đó một bước lên trời, bước vào hàng ngũ quý tộc. Khi biết được hôn ước bí mật của Khánh Kỵ và Thúc Tôn Diêu Quang, hắn vừa hận vừa đố kỵ, lại thất vọng tràn trề, nhưng khi đó hắn vẫn ôm hy vọng được Thúc Tôn Ngọc coi trọng, bắt chước Dương Hổ dấn thân chốn quan trường bằng con đường tiến cử.
Khi quân Tề nam chinh, Triển Chích tạo phản, Tam hoàn Lỗ quân cùng khởi binh bình nội loạn chống ngoại xâm, Lý Hàn cảm thấy vào thời loạn thế này, chính là cơ hội tốt cho kẻ anh hùng kiến công lập nghiệp, do đó hắn ra sức tranh thủ cơ hội dẫn quân xuất chinh, nhưng dù hắn phí bao công sức, chỉ vì xuất thân thường dân, thời gian ở tại phủ Thúc Tôn Ngọc quá ngắn, căn cơ thiển cận, không thể kiếm được một chức tướng lĩnh nào đó trong quân Lỗ.
Lý Hàn thất vọng cuối cùng nảy ra ý định bỏ đi nơi khác, suy nghĩ kĩ lưỡng, hắn thấy đầu quân về phía Đông Nam là tốt nhất, hơn nữa còn mang theo một món quà người Ngô không bao giờ từ chối: Tin về cánh quân mai phục ở Phi Hồ cốc tại Phí thành Lỗ quốc của Khánh Kỵ.
Phù Sai không ngờ hắn lại mang đến tin động trời này, nghe xong thất kinh hồn vía. Hắn sai người đưa Lý Hàn đi dịch quán ở tạm trước, sau này sẽ luận công ban thưởng, sau đó phóng ngựa quay về hoàng cung, lấy thân phận thái tử giám quốc lấy quốc ấn ra, hạ một đạo quân lệnh cho quan binh trấn giữ ven sông, lệnh cho họ đặt trạng thái chiến tranh bố phòng nghiêm ngặt bất kể ngày đêm, lại thảo một bức thư sai người tức tốc mang đến Dĩnh Đô ở Sở báo tin cho Ngô vương Hạp Lư, mặt khác còn sai tín sứ đi Ngự Nhi thành triệu hồi hoàng đệ của Hạp Lư là Phù Khái. Phù Khái lúc này đang trấn giữ Ngự Nhi thành, mục đích là phòng hờ Việt quốc thừa cơ hội giở thói lưu manh chạy sang Ngô quốc cướp bóc, Phù Khái nghe tin xong cũng thất kinh hồn vía, lập tức sắp xếp việc bố phòng Ngự Nhi thành thỏa đáng, xong xuôi phi ngựa trong đêm quay về Cô Tô thành. Sau khi hỏi rõ chi tiết từ Lý Hàn, theo tình báo từ Lý Hàn cho biết thời gian xây dựng Phi Hồ thành, quy mô thành trì, suy luận ra phục binh trong Phi Hồ thành nhiều nhất chỉ khoảng một vạn, với binh lực thế này chỉ có thể tập kích bất ngờ mới mang lại hiệu quả, giờ đây Ngô quốc đã sớm phòng bị trước, liệu rằng tên Tôn Vũ và Anh Đào nhóc con ấy khó làm nên đại sự, Phù Khái mới yên lòng đôi chút.
Nhưng dù cho là vậy, hiện nay Hạp Lư đang chinh chiến tại Sở, dẫn theo đại bộ phận binh lực của Ngô quốc. Quân bố phòng trong nước chỉ còn lại rất ít, Phù Khái không dám sơ suất, bèn bàn bạc với Phù Sai, vẫn để Phù Sai trấn thủ Cô Tô thành, Phù Khái tức tốc lên đường đến Hàn Ấp, đặt quân bố phòng nghiêm ngặt ven sông.
Đến Hàn Ấp rồi, Phù Khái thu thập tin tức từ nhiều phía. Nghe nói những ngày này liên tục có từng nhóm nhỏ người ngựa lén qua sông cướp bóc, tướng lĩnh trấn giữ ven sông cứ tưởng là người Đông Di vì muốn chuốc giận nên tập hợp lại vượt sông cướp bóc, Phù Khái nghe xong nghi ngờ đó là phục binh của Tôn Vũ và Anh Đào chia nhỏ ra qua sông, do đó một mặt tăng cường phòng ngự dọc đường sông, một mặt sai quan lại địa phương dán cáo thị khắp nơi, hứa trọng thưởng cho ai cáo mật, đồng thời đưa quân lục soát núi non, sông ngòi, làng quê hoang dã, muốn tìm ra địa điểm tập kết của đội phục binh của Khánh Kỵ.
Nhưng Phù Khái tốn nhiều công sức, cũng không có được tin gì của cánh quân này. Sau khi hắn tăng cường bố phòng đúng là đã bắt được vài nhóm người, đều ăn mặc như thợ săn của Đông Di, tra hỏi chúng cũng không lần ra mối liên hệ gì với phục binh của Khánh Kỵ, Phù Khái đem tất cả bọn người này ra chém đầu, treo thủ cấp vào cột tre đặt ngay đường lớn trong thành để thị chúng, hành động này dấy lên thù hận từ người Đông Di, số người Đông Di lén vượt sông vào ban đêm trả thù cho người thân liên tục không ngớt, làm náo loạn cả nhánh sông Trường Giang, ban ngày thì quân Ngô chiếm ưu thế, ban đêm thì bị người Đông Di đánh lén, cứ thế đánh qua đánh lại, Phù Khái không sao bình định được biên giới.
Lúc này đã bước sang tháng hai đầu xuân, khắp mặt đất vùng Giang Nam một màu xanh biếc, cỏ cây um tùm. Chỉ là mùa xuân năm nay đã được dự báo không trôi qua êm ả, ngọn lửa chiến tranh đang nổi lên khắp thiên hạ, khắp nơi đều là tin chiến sự truyền về, chư hầu thiên hạ hoặc vì tự bảo vệ, hoặc vì muốn kiếm chác lợi lộc gì đó trong thời loạn thế, đều ngả về hai phe liên quân Tần Sở và liên quân Tề Tấn, người giữ vị trí trung lập ngoại trừ cô gia quả nhân Chu thiên tử mang danh là chủ thên hạ, cũng chả có mấy nước nhỏ đứng ngoài cuộc.
Tấn quốc lúc này vừa mới đánh bại liên quân Vệ Tống, liên quân Vệ Tống lui giữ vùng đất Tu Trạch, chỉnh đốn quân đội. Vì quân Vệ ra trận thất bại, ba quân tan tác, thống soái Tề Báo khó tránh trách nhiệm, bị Vệ hầu hạ chỉ bắt giữ hỏi tội. Tề Báo lần này vốn định mượn cơ hội đoạt lấy binh quyền, không ngờ trước bị phó soái Công Tôn Bạt chế ngự, sau lại do bại trận khó thoái thác tránh nhiệm, bị Vệ hầu trả thù, ngay cả Bắc Cung Hỉ cũng không cách nào cứu được hắn.
Vệ quốc bại trận xong không ngoài dự đoán do Công Tôn Bạt tiếp tay, thăng chức nguyên soái. Tiên phong tướng quân Công Tử Triều vì chém chết đại tướng Kỵ Tễ của quân Tấn ngay trận tiền, lập được đại công, Nam Tử tuy hận hắn thấu xương, cũng không tiện ra tay xử trí với hắn vào lúc này, cứ cho hắn sống thêm ít ngày vậy. Công Tử Triều lập được công lại không thấy Vệ hầu ban thưởng, trong lòng đã biết chắc Vệ hầu và Nam Tử đã đạt được thỏa thuận trừ khử hắn, bắt đầu suy tính đường riêng cho mình.
Quân Tần với năm trăm chiến xa, bốn vạn hùng binh tiến ra Vũ Quan, qua Thân huyện, hướng về Sở quốc. Vì liên quân Vệ Tống đang chỉnh đốn nội bộ, bổ sung binh lính, nhất thời chưa tái chiến với Tấn quốc được, quân Tấn sĩ khí ngút trời tiến về phương Nam, giáp mặt với quân Tần vừa mới đi ra Vũ Quan.
Hai bên binh lực ngang ngửa, nhưng phía bên kia quân Sở đóng ở biên giới nghe tin quân Tần tới nơi đã chủ động ra ứng chiến, cùng với quân Tần giáp chiến trước mặt sau lưng quân Tấn, quân Tấn trận đầu bại trận, cố thủ nơi hiểm yếu, đợi binh mã các nước nhỏ đồng minh kéo đến tập hợp lại mới đánh tiếp, quân Tần bị kẻ địch hùng mạnh này chắn ngang, không dám sơ suất tiến sâu, chỉ còn cách phối hợp với quân Sở phía kia, bắt đầu giao chiến với quân Tấn.
Quân Tần tung hoành ở Phương thành, quân Sở hoạt động khu Nam Bắc Hán Thủy, trải qua mấy trận đánh lớn với quân Tấn, đôi bên có thắng có thua, trong một lúc rơi vào thế dằng do, bất phân thắng bại, thành quả duy nhất mà liên quân Tần Sở đạt được chính là tiêu diệt Đường quốc từng giúp Ngô đánh Sở nay lại giúp Tấn quấy nhiễu liên quân Tần Sở.
Ở mặt trận phía Đông, Tề chiếm thế thượng phong khi giao chiến với liên quân Trần, Lỗ, Tào và các bộ lạc Đông Di. Vì trong liên quân ba nước Trần, Lỗ, Tào cộng thêm các bộ lạc Đông Di, thực lực mạnh nhất chỉ là Lỗ quốc, mà Lỗ quốc hiện nay có Triển Chích tạo phản, đồng thời Triển Chích còn thuyết phục được Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu bị dồn ép bởi Dương Hổ, nổi dậy chiếm hai tòa thành quan trọng của Quý thị, liên kết với hắn củng dấy binh tạo phản. Ba mối họa này cộng lại với nhau, trở thành mối họa lớn bên trong Lỗ quốc.
Lỗ quốc bổ nhiệm Dương Hổ vừa thăng chức đại phu làm thống soái ba quân, thống lĩnh quân đội của Tam hoàn bao vây tiêu diệt quân phản loạn của Triển Chích, Trọng Lương Hoài, Công Sơn Bất Nữu. Như vậy Lỗ quốc phải lo cùng lúc cả hai chiến trường, lực bất tòng tâm, quân Lỗ đóng vai trò quân chủ lực giao chiến với Tề, nay quân Lỗ tự lo còn không xong, liên quân tự nhiên không đánh lại quân Tề, nhưng họ liều chết bám lấy quân Tề, khiến tốc độ tiến quân nam chinh của đại quân Tề quốc chậm như rùa bò.
Phí thành, lúc này đã trở thành một thành trì quan trọng về mặt quân sự, trong ngoài thành từng đội quân qua lại không ngớt, đám dân đen hấp tấp đi chạy nạn. Trong đại sảnh nhà cũ của Quý thị, ánh mặt trời rọi vào, khắp nơi vắng lặng, so với cảnh ồn áo huyên náo bên ngoài, nơi đây nghe rõ cả tiếng ruồi bay.
Ngoài sân đang dừng đậu mấy chiếc xe ngựa, mấy chục tên võ sĩ trang bị áo giáp vũ khí đầy đủ đứng yên bất động dưới ánh nắng, bóng của chúng in dài ra mặt đất. Trong sảnh hai nam nhân đang đứng đó, một người mặc áo bào xanh đeo kiếm, người kia thân hình thấp bé, đôi mắt lờ đờ như vừa mới ngủ dậy.
Tiếng bước chân vội vả vang lên, hai người ngước mắt nhìn về phía tấm bình phong, một mỹ nhân bước ra từ phía sau, tà áo xanh mướt, thân hình yểu điệu, dung mạo thanh nhã, mỗi bước đi đều làm say đắm lòng người.
Tên nam nhân già đứng đó thấy nhói một cái trong tim, vội cúi đầu né tránh tia nhìn của nàng ta. Đã mười mấy năm trôi qua, cô nương này vẫn mê hoặc như năm xưa, nàng như một vò rượu để càng lâu càng thơm, mùi thơm mang hơi ấm nồng nàn. Cũng chính vì vẻ đẹp ấy, vẻ đẹp khó bắt người ta xuống tay hủy diệt, lão già này năm xưa phạm phải lỗi lầm lớn, giờ hắn tuyệt đối không nhìn vào đôi mắt làm điên đảo lòng người của Thành Bích phu nhân nữa.
“Tỉ tỉ.” Thành Tú thấy Thành Bích phu nhân bước ra, lập tức bước lên phía trước: “Tỉ tỉ, xe ngựa đã chuẩn bị xong.”
“Ừ!” Thành Bích phu nhân đáp khẽ, nhét một cuộn tranh đang cầm trên tay vào tay Thành Tú, dặn dò: “Thành Tú, cuộn tranh này được vẽ theo cách bí mật mà tỉ đã dạy đệ, đệ có thể xem hiểu, cầm theo nó, đi với tốc độ nhanh nhất sang Sở quốc, làm theo dặn dò của tỉ.”
“Tỉ tỉ, chúng ta…có thật phải từ bỏ tất cả ở đây, bây giờ cũng không nên đến đó, tỉ…”
“Im miệng!” Thành Bích chau mày, đôi mắt long lanh như nước hồ mùa thu quét sang ông chủ Lỗ Quái Cư đang bất an đứng bên cạnh, người từng là đệ nhất kiếm khách Lỗ quốc Viên Tố, nhỏ nhẹ: “Ngươi lui xuống trước đã!”
“Dạ!” Viên Tố như trút được gánh nặng, vội quay đầu bước ra ngoài.
Thành Bích lúc này mới nói với Thành Tú: “Đệ đệ, bây giờ thiên hạ đại loạn, còn có nơi nào là an toàn tuyệt đối chứ? Đệ đó, cũng không phải là suốt đời nhờ vào tỉ được đâu, cũng phải có sự nghiệp riêng cho mình chứ. Cầm theo cuộn tranh này đi tìm Khánh Kỵ, một khi Khánh Kỵ phục quốc thành công, đệ lúc đó là khai quốc công thần, chắc chắn được phong hầu bái tước, còn nếu Khánh Kỵ thất bại…những gì ghi trên bức tranh này, cũng đủ giúp đệ giữ được tính mạng.”
Thành Tú hoang mang hỏi: “Tỉ tỉ, còn tỉ thì sao?”
“Đệ yên tâm, tỉ là một nữ nhân, trong lúc chiến loạn không tiện ra ngoài, tốc độ đi đường lại chậm, đệ cứ đi trước, tỉ sẽ theo sau đi tìm đệ.”
Thành Tú nghe vậy mới hơi yên tâm, nhưng nghĩ kĩ hắn lại thấy anh ách: “Tỉ tỉ, đệ không ở bên cạnh tỉ, quả là không an tâm chút nào. Tỉ cũng biết hiện nay thiên hạ đại loạn, chúng ta quay về Khúc Phụ, chẳng phải an toàn hơn sao? Người Tề lợi hại đến đâu, chắc không đánh đến kinh đô Lỗ quốc được đâu nhỉ? Đệ cứ đi Sở quốc đưa tin, còn tỉ chi bằng quay về Khúc Phụ, đợi khi sóng yên gió lặng, đệ lại đón tỉ qua Sở.”
Thành Bích phu nhân thở dài: “Đệ đệ ngốc của ta, đệ tưởng tỉ vội qua đó…qua đó gặp Khánh Kỵ à?” Nói đến đây, Thành Bích hơi đỏ mặt, tiếp: “Tỉ không đi cũng không được, Công Sơn Bất Nữu lợi dục công tâm, hùa theo đại đạo Triển Chích tạo phản, lợi dụng bí mật của tỉ khi xưa, hắn không ngừng sai người bắt tỉ cung cấp lương thảo binh khí, càng lúc càng tham lam, đây là cái động không đáy, trám không đầy được. Nhưng kêu tỉ sao từ chối đây? Tỉ không đồng ý nghe theo hắn sẽ nói ra bí mật của tỉ, đến lúc đó là tỉ tiêu đời, Sinh nhi cũng không giữ được tính mạng, nếu không đến bước đường cùng rồi tỉ sao lại rời khỏi vào lúc này chứ?”
Thành Bích thần sắc sầu não: “Sinh nhi hãy còn nhỏ, nó tuy không phải là máu mủ ruột thịt của tỉ, nhưng bao nhiêu năm qua tỉ đã xem nó như con ruột của mình, nếu không vì sự thể nghiêm trọng, tỉ sao nỡ bỏ mặc nó? Ài! May là gia chủ Quý Tôn rất thương yêu nó, có gia chủ Quý Tôn chăm sóc, lại có số của cải khổng lồ trong phủ, suốt đời này nó không phải lo rồi.”
“Vậy…đệ và tỉ tỉ cùng lên đường.”
“Tuyệt đối không thể nào!” Thành Bích nghiêm nghị: “Những gì ghi chép trên cuộn tranh này rất quan trọng, tỉ tin Khánh Kỵ giờ đang rất cần nó, nếu thời cơ qua đi, nó đối với Khánh Kỵ chỉ còn là một đống rác không có giá trị, đệ phải lập tức lên đường, phải đi với tốc độ nhanh nhất đưa đến cho Khánh Kỵ.”
“Dạ!” Thành Tú cúi đầu vâng lời.
“Được rồi, đệ ra ngoài chuẩn bị đi, kêu Viên Tố vào gặp tỉ.”
“Dạ!” Thành Tố bước ra ngoài sảnh, một lát sau, Viên Tố lê bước chầm chậm đi vào, bộ dạng e dè, không hề mang chút khí khái oai phong của đệ nhất kiếm khách Lỗ quốc năm nào.
Thành Bích hứ một tiếng, nói giọng không vui: “Thôi được rồi, trước mặt ta ngươi không cần làm ra bộ dạng đó nữa, ngươi có biết ta gọi ngươi từ Khúc Phụ đến đây là có ý gì không?”
Viên Tố giả lả: “Tiểu nhân không biết.”
“Ta muốn ngươi bảo vệ Thành Tú đi Sở quốc.”
“Cái gì?” Viên Tố ngớ người, vội làm ra vẻ khó xử từ chối: “Đi Sở quốc? Môn hạ của phu nhân đâu thiếu người tài, cao thủ như mây, đâu cần dùng đến Viên Tố này? Viên Tố già rồi, gân cốt toàn thân rã rời, không múa kiếm được nữa đâu, hơn nữa lão Viên còn phải trông coi Lỗ Quái Cư, lão mà đi khỏi…”
“Trông cái gì mà trông? Tưởng ta không biết dụng ý của ngươi khi mở Lỗ Quái Cư hả?” Thành Bích phu nhân tức giận ngắt lời, lạnh lùng nói: “Lỗ Quái Cư từ giờ đóng cửa, tiểu Ngải hiện đang ở Sở quốc, ngươi còn nán ở Khúc Phụ chờ đợi gì chứ?”
“Tiểu Ngải đã đến Sở quốc?” Viên Tố kinh ngạc kêu lên, nghĩ đến tình hình Sở quốc giờ đang hỗn loạn, tiểu Ngải một thân nữ nhi…, Viên Tố chợt biến sắc.
Thành Bích phu nhân vênh mặt, cặp lông mày quyến rũ như hồ ly, cất giọng đều đều: “Không sai, nàng ấy đang ở Sở, với lại đang trong đại quân của Khánh Kỵ, ngươi bảo vệ Thành Tú qua đó, tiện thể gặp tiểu Ngải luôn không tốt sao?”
Viên Tố ngơ ngẩn giây lát, tấm lưng còng từ từ đứng thẳng, chỉ trong khoảnh khắc một lão già lọm khọm bỗng hóa thân thành một kiếm khách oai phong, trở lại bộ dạng khí khái bất phàm năm xưa, Thành Bích phu nhân tuyệt đẹp đứng ngay trước mặt, nhưng khí chất của hắn như lấn át cả tuyệt sắc giai nhân Thành Bích.
Viên Tố ngẩng đầu lên, bắt gặp ánh nhìn xuyên thấu vào tim của hắn: “Không cần nhiều lời nữa, thời gian cấp bách, ngươi đi với Thành Tú ngay lập tức, còn về tổn thất của Lỗ Quái Cư, bổn phu nhân sẽ bồi thường cho ngươi.”
Viên Tố vội cụp mắt xuống, tuy chỉ là một khắc tia nhìn chạm nhau, nhưng vẻ thu hút phát ra từ đôi mắt Thành Bích thật khiến người ta khó lòng kiềm chế. Viên Tố hạ giọng đáp ứng: “Dạ! Phu nhân nếu đã nói thế, Viên Tố còn có gì không bỏ lại được chứ? Viên Tố bằng lòng đi cùng Thành Tú đến Sở một chuyến.”
“Rất tốt, mọi người khởi hành ngay đi, bổn phu nhân còn có chuyện cần làm, không tiễn.”
“Phu nhân, tại hạ cáo từ!” Viên Tố chắp tay cúi lạy xong lui ra ngoài, thần thái ung dung, bước đi vững vàng, hoàn toàn khác với bộ dạng lom khom khập khiểng khi nãy.
“Hư…, đợi Thành Tú đi khỏi, chúng ta mới đi.”
“Dạ…” Tiểu Hà hơi chút do dự: “Phu nhân…nhất định phải làm như vậy ư?”
Thành Bích liếc mắt vào Tiểu Hà, hỏi: “Ngươi lo gì à?”
Tiểu Hà cắn môi không trả lời, Thành Bích phu nhân mỉm cười, từ từ xoay lưng lại, thở một hơi dài: “Đi triệu tập đầy đủ người ngựa, chúng ta lập tức lên đường.”
“Dạ!” Tiểu Hà quay đầu bước ra ngoài. Thành Bích lại thở dài, tự nói với mình: “Chàng vốn chỉ là một công tử lưu vong, còn ta lại có gia nghiệp khổng lồ và thân phận đặc thù để lợi dụng, ta thật không biết…chàng đến với ta, rốt cuộc có bao nhiêu phần thật lòng, rốt cuộc còn vì mục đích nào khác không? Trên thế gian này, thứ khó đọc hiểu nhất chính là lòng người…, không biết trong lòng chàng có thật tồn tại Thành Bích, ta không yên tâm, không cam tâm chút nào.”
Thành Bích ngây dại nhìn khắp đại sảnh trống trơn, lại nói tiếp: “Tiểu Man hận ta thấu xương, mà giờ nàng ta đang ở cùng chàng, còn tên Công Sơn Bất Nữu cứ bám riết lấy ta, uy hiếp ta cung ứng quân trang cho hắn. Tất cả đều là nút thắt khó gỡ, nhưng lại buộc phải đi gỡ…”
Thành Bích đứng đó ưu sầu hồi lâu.
Hoàng hôn buông xuống, ánh nắng vàng dịu, vì chiến sự đang diễn ra khốc liệt, Phí thành lập tức phải đóng cửa. Lúc này, giữa đám đông chen chúc ùa vào thành, xuất hiện thêm một đoàn người ngựa áo giáp chỉnh tề, vũ khí sáng choang, trang bị còn tốt hơn cả đại quân của Tam hoàn. Ba trăm võ sĩ hộ tống chiếc xe ngựa xa hoa của Thành Bích phu nhân đi ra cửa thành Nam, hòa cùng ánh chiều tà lay lắt.
Dưới ánh nắng hoàng hôn, in bóng một đoàn người từ từ đi xa…
Bách Tân hồ. Khánh Kỵ cùng Yểm Dư, Thúc Tôn Diêu Quang, Quý Tôn Tiểu Man đang thong dong đi dạo ven hồ, nước hồ xanh biếc, lăn tăn gợn sóng, trên mặt hồ đang có mấy con thuyền nhỏ thả lưới đánh cá, đó đều là binh sĩ của Khánh Kỵ, trong hồ có nhiều cá béo ngậy, bắt lên bổ sung cho bữa ăn cũng khá hay, lại có thể để đám binh sĩ trước đây chưa từng đi thuyền rèn luyện thêm, một công đôi việc.
Bên hồ có một khu vực rộng lớn bị dọn trống, làm xưởng đóng thuyền “Chu thất”, những binh sĩ biết đóng thuyền trong quân Khánh Kỵ giờ bị điều động hết tập trung ở đây, ngoài ra còn tuyển lựa nhiều thợ mộc vào đội đóng thuyền, còn những thợ cưa gỗ thì không cần phí công chọn lựa, đám binh sĩ khỏe mạnh chặt cây khiêng đá còn nhanh hơn cả dân làm lao dịch.
Những thủy binh phụ trách chèo thuyền gọi là “Thuyền tốt”, với “Thuyền quan” chỉ huy đội chèo đều được tuyển lựa kĩ lưỡng từ trong quân Khánh Kỵ, còn các binh sĩ còn lại, chỉ cần thích ứng việc đánh trận trên thuyền là được. Lúc này đám binh sĩ đang lái những chiếc thuyền màu sắc hỗn tạp mới mua về, tập luyện thủy chiến trên lòng hồ xa xa, cả trăm mái chèo cùng lúc rẽ bọt sóng, hai thuyền giáp mặt thu ngắn khoảng cách, các binh sĩ phóng móc câu qua đó níu chặt thuyền của đối phương, phi thân bay qua tiếp chiến, thỉnh thoảng có người tuột tay rơi tỏm xuống nước, tuy chỉ là diễn tập nhưng tất cả binh sĩ đều tập luyện hăng say như thật.
Yểm Dư nói: “Ta từng đi tìm một số thuyền về đây, đáng tiếc đó đều là thuyền đánh cá loại nhỏ và thuyền chở khách, không thích hợp đi lại đường dài trên sông lớn, chỉ còn cách tự đóng thuyền lấy vậy. Lần này chúng ta chủ yếu chờ đợi sau khi phía Chúc Dung thành công chiếm giữ Cô Tô thành, tiến quân thần tốc quay về chặn trước đại quân của Cơ Quang, chiếm lĩnh thành trì chờ hắn tới nộp mạng. Ta đã tính toán, với khoảng cách đường bộ Ngô Sở, dọc đường phải chèo đèo vượt suối, đường đi vô cùng khó khăn, chúng ta không có đủ số xe ngựa chuyên chở binh sĩ, dù có đủ xe cũng khó đi trên con đường hiểm trở, tốc độ không nhanh bằng đi đường thủy. Với lại hành quân thế này lương thảo khó theo kịp đại quân, chúng ta không thể không tính đến trường hợp bại trận, nếu lương thảo theo không kịp, đánh nhau lại bại trận thì lòng quân hoang mang, sợ lúc đó có nhiều binh sĩ bỏ trốn.”
Khánh Kỵ gật gù. Yểm Dư lại nói: “Vì thế với số thuyền này, ta không dám mảy may sơ suất, chúng ta đang đóng nhiều tàu thuyền, có thuyền lớn dùng cho việc vận chuyển binh lính, vì muốn đối phó với thủy binh quân Ngô, ta còn chuẩn bị đóng lâu thuyền, thuyền đụng, thuyền cánh én, thuyền nhỏ để truyền đưa tin tức và dò thám nữa…”
Khánh Kỵ khẽ gật đầu hài lòng: “Hoàng thúc suy nghĩ chu đáo, nếu chúng ta đi đường thủy về Ngô, tuy là xuôi theo dòng nước, để tăng tốc cũng nên ra sức huấn luyện thêm cho binh sĩ, lần này về Ngô quốc, đường sá xa xôi, số thuyền tốt này không đủ dùng đâu, để ta đi chọn thêm số người biết lái thuyền đưa tới, tổ chức làm đội dự bị, hai đội thuyền tốt thay phiên nhau chèo…”
Khánh Kỵ chợt ngưng bặt, toàn thân tưng lên một cái rồi cứng đơ ra, một cánh tay còn giơ lên không trung, miệng mở to bất động, không nói tiếng nào. Mọi người hoảng sợ cả lên, vội nhìn cả vào hắn, chỉ thấy hắn trợn mắt đáng sợ, gân xanh nổi lên trên trán, thân trên run lập cập như đánh đu.
Thúc Tôn Diêu Quang lo lắng, vội bước tới vịn lấy vai Khánh Kỵ, hốt hoảng kêu lên: “Chàng sao rồi? Mau nói gì đi chứ? Chàng sao rồi?”
Khánh Kỵ nhìn trừng trừng vào đống tàu thuyền đang được đóng dang dở bên “Chu thất” được dựng lên sơ sài. Hai mắt trợn tròn, vẫn không phát ra tiếng nào. Thúc Tôn Diêu Quang quay đầu lại nhìn theo hướng đó, các binh sĩ bên kia vẫn bận rộn làm việc, không có gì khác lạ, Thúc Tôn Diêu Quang càng thêm sợ hãi, sắp bật khóc đến nơi. Nàng ra sức lay lay Khánh Kỵ, quay qua cầu cứu Yểm Dư: “Mau, mau đi mời một thuật sĩ về đây, chàng…chàng nhất định bị trúng tà rồi.”
Phía bên kia, Quý Tôn Tiểu Man gần như cùng một lúc với Diêu Quang lao đến bên cạnh Khánh Kỵ, bấu chặt chiếc vai còn lại của hắn, nàng không lay Khánh Kỵ, chỉ là mở to đôi mắt đen láy như hạt ngọc, kinh hãi nhìn vào hắn. Thúc Tôn Diêu Quang ra sức lay mạnh Khánh Kỵ cho hắn tỉnh lại, Quý Tôn Tiểu Man cũng bị lay cho chóng mặt, hét lên: “Đừng lay hắn nữa! Tên này giết người vô số, đôi tay nhuốm đầy máu tanh, có con ma nào dám ám hắn chứ?”
Khánh Kỵ chợt xoay đầu lại, nhe răng phát ra tiếng âm u: “Ta là ma nữ đây!”
Quý Tôn Tiểu Man “Oái!” một tiếng nhảy dựng, bật về phía sau, đoạn “Xoạt!” rút Hàm Quang kiếm cầm trong tay, hung dữ chĩa vào trước ngực Khánh Kỵ, nghiêm giọng: “Ngươi đi ra cho ta!”
Khánh Kỵ không còn nhịn được nữa, bật cười khanh khách: “Nàng chui vào ta đi!”
Quý Tôn Tiểu Man ngờ ngợ: “Ta không phải là ma nữ, sao mà vào được?”
Khánh Kỵ cười ha hả khoái trá, cười đến nỗi ôm bụng lăn lộn: “Tiểu Ngải à Tiểu Ngải, nha đầu này ngốc nghếch đáng yêu thật. Ha ha ha…, ai nói ta bị ma nữ ám chứ? Giết người vô số, tay nhuộm đầy máu tanh, nàng nói ta thành “Hỗn thế ma vương” mất rồi, ta còn bị ma ám được ư? Ha ha ha…”
Quý Tôn Tiểu Man nóng ran hai má, xấu hổ vì biết bị lừa, hậm hực nói: “Ngươi đó, không đàng hoàng gì cả, sao lại hù dọa người ta?”
Thúc Tôn Diêu Quang đẩy mạnh Khánh Kỵ một cái, phụng phịu: “Chàng đó, lần sau đừng hòng người ta lo lắng cho chàng nữa.”
Khánh Kỵ tươi cười hớn hở, cứ như lượm được kho báu, cười đến nỗi không ngậm miệng lại được, hắn cũng không giải thích với hai cô nương, chỉ là đưa tay nắm lấy Yểm Dư, vội lên tiếng: “Không cần lo, chỉ là ta vừa mới nhớ ra một chuyện lớn. Mau, chúng ta đi “Chu thất”, lập tức triệu tập tất cả thợ đóng thuyền, ta có chuyện dặn dò bọn họ.”
Kéo theo Yểm Dư đang nghệch mặt ra không hiểu gì cả đi được vài bước, Khánh Kỵ quay đầu lại nói: “Hai nàng tự đi đâu đó chơi đi, không cần theo ta.”
Quý Tôn Tiểu Man hậm hực tra kiếm vào bao, đôi mắt long lanh tức tối, nguýt to: “Đúng là một tên vô lại!”
Thúc Tôn Diêu Quang hùa theo: “Là tên vô lại hư hỏng hết chỗ nói!”
Hai người nhìn vào nhau, bỗng chốc nảy sinh cảm giác đồng hội đồng thuyền, hai người mỉm cười với nhau, lại thoáng thấy ngại ngùng, Thúc Tôn Diêu Quang nắm lấy tay Quý Tôn Tiểu Man: “Muội muội, chúng ta tìm một chiếc thuyền nhỏ đi chèo thuyền chơi, mặc kệ tên hỗn đản đó.”
“Ờ…hay đó!” Quý Tôn Tiểu Man còn chưa quen Diêu Quang tỏ thái độ thân thiết với nàng như vậy, ậm ự nói: “Nhưng ta không biết chèo…”
Thúc Tôn Diêu Quang mỉm cười: “Ta biết đôi chút, không sao…chúng ta kêu người khác chèo hộ.”
Quý Tôn Tiểu Man mừng rỡ: “Hay quá! À hay là chúng ta đợi ở đây một lát, tên khốn đó hù dọa chúng ta thế này, phải bắt hắn chèo thuyền cho chúng ta, mệt chết hắn mới thôi!”
“Được!” Hai cô nương cười khúc khích khoái trí với nhau.
Các thợ đóng thuyền đang làm việc trong “Chu thất” đều bị đuổi hết ra ngoài, ngoại trừ Khánh Kỵ, Yểm Dư, chỉ vài đội trưởng giữ chức vụ cao được ở lại, họ đều là thợ đóng thuyền lão luyện, mọi người đứng thành một vòng tròn, Khánh Kỵ đứng giữa, trên tay cầm một mô hình thuyền gỗ, tỉ mỉ giảng giải cho mọi người nghe, chốc chốc có người giơ tay thắc mắc, Khánh Kỵ dừng lại giải thích kĩ hơn.
Đợi Khánh Kỵ nói xong, một tên đội trưởng lên tiếng khâm phục: “Tiểu nhân tuy ở Sở quốc, nhưng đã sớm nghe danh công tử Khánh Kỵ mới là thiên hạ đệ nhất về chế tạo, hôm nay được thấy tận mắt, đúng là danh bất hư truyền, máy xay gạo, bánh xe tưới tiêu, đã là tác phẩm tuyệt diệu, còn thuyền này…, Ây! Tiểu nhân từ nhỏ đã theo phụ thân học đóng thuyền, cả đời này các loại thuyền do chính tay tiểu nhân đóng nhiều vô số, nhưng chưa từng nghĩ ra ý tưởng khác lạ như thế. Tuy cái vật này tiểu nhân chưa từng thấy qua, trước mắt còn chưa làm thử, nhưng với kinh nghiệm đóng thuyền cả đời của tiểu nhân, biết chắc các thiết kế này rất khả dụng, mọi người thấy thế nào?”
Các đội trưởng xung quanh ai nấy gật đầu lia lịa, vui mừng ra mặt. Bọn họ đều là thợ đóng thuyền tài ba,đối với họ có thể đóng ra một chiếc thuyền chất lượng ưu việt là chuyện vui sướng nhất trên đời. Còn nếu đóng được một chiếc thuyền xưa nay chưa từng có, càng là thành tựu vĩ đại, lúc này đây trong lòng họ phấn khích vô cùng, không hề thua kém cảm giác lâng lâng vừa nãy khi mới nảy ra ý tưởng của Khánh Kỵ.
Khánh Kỵ mừng rơn: “Đương nhiên là khả dụng rồi, thuyền này dùng cánh buồm mà bổn công tử vừa nói, mượn sức gió đi trên sông, trong lúc thuận gió, không những tiết kiệm rất nhiều sức, mà tốc độ di chuyển còn nhanh gấp mấy lần, cho dù là ngược gió hay gió thổi chệch hướng, chỉ cần mặt nước đủ rộng, điều chỉnh góc độ cánh buồm chạy theo đội hình chữ “Chi” (chữ Chi trong tiếng Hán viết giống chữ Z trong tiếng Anh.), vẫn cứ tiến nhanh như cũ. Tất nhiên, đội lái thuyền phải từ từ tập luyện mới nắm bắt được cách điều khiển, trước mắt chúng ta chưa cần nghĩ tới. Hoàng thúc, nơi này cần tăng cường canh gác, phải đảm bảo trước khi chúng ta dùng đến, tin tức không tiết lộ ra ngoài, còn sau này thì, sợ gì không cho khắp thiên hạ được biết, ha ha…”
Câu cuối cùng hắn nói là để cho đám thợ đóng tàu này nghe. Hồi xưa hễ mà có vật gì quý báu hay chuyện cơ mật, quân vương vì muốn độc chiếm, giết người diệt khẩu chuyện gì cũng dám làm. Khánh Kỵ sợ đám thợ này sau khi cơn phấn khích qua đi, lo lắng Khánh Kỵ vì muốn giữ bí mật, sau này sẽ giết chết bọn chúng, lúc đó chắc không ra sức làm việc, nên mới nói ra câu này, ý là hiện giờ thì cần phải giữ bí mật, một khi dùng xong đống tàu thuyền mới này, thì không sợ khắp thiên hạ biết đến, lúc đó không phải giữ bí mật gì nữa, bọn họ sẽ không bị đe dọa tính mạng, còn nắm bắt được một số kỹ thuật đóng thuyền mới mẻ. Khánh Kỵ dùng chiêu này để trấn an lòng người.
Yểm Dư hiểu ý Khánh Kỵ, hắn cũng mỉm cười góp tiếng nói: “Yên tâm đi, xung quanh Bách Tân hồ có đại quân canh giữ, không cho phép người lạ tiếp cận, đợi khi chúng ta dùng đến đống thuyền này, lúc đó Cơ Quang có biết thì đã muộn, hắn không kịp đóng thuyền bắt chước theo chúng ta, đại sự có cơ hội thành công rồi, ha ha…”
“Ừm, giờ nghĩ ra cách này, ta quyết tâm quay về Ngô quốc bằng đường thủy.” Khánh Kỵ lại quay sang đám thợ, nói: “Còn về bánh lái, bổn công tử chỉ nghĩ ra phương thức, còn cụ thể chế tạo, lắp đặt, vận hành thế nào cần các ngươi ra sức nghiên cứu, dù là làm ra xong cũng phải có thời gian đủ cho đội thuyền tốt thao tác sử dụng thành thạo, nên các vị phải nhanh chóng thiết kế làm ra để các thuyền tốt tập luyện. Còn về cái khoang tàu đóng kín kia, tin chắc bổn công tử nói ra là mọi người hiểu ngay, cái đó không cần nói nhiều nữa.”
Đám thợ cùng chắp tay: “Xin hai vị công tử yên tâm, ở đây vật liệu nhân công đều đầy đủ, tàu thuyền còn chưa đóng xong, muốn chỉnh sửa đôi chút không gì khó, bọn tiểu nhân lập tức làm việc, làm ra chiếc chiến thuyền kiểu mới tận dụng sức gió và khống chế dòng chảy này.”
Khánh Kỵ gật đầu mỉm cười: “Tốt, đợi khi nào hoàn thành, ngoài tiền công đã hứa, các vị đều được nhận thêm gấp năm, à không! Gấp mười lần tiền thưởng, Ngô quốc Khánh Kỵ, đã nói là làm, các vị có thể yên tâm, bắt đầu bắt tay vào làm việc đi.”
Khánh Kỵ phất tay, cùng Yểm Dư lui ra ngoài “Chu thất”, mấy đội trưởng đóng thuyền lập tức túm tụm lại với nhau, léo nhéo bàn bạc một hồi, số khoang thuyền kín, bánh lái, buồm gió Khánh Kỵ nói với họ trước đây chưa từng thấy qua, họ là những tay đóng thuyền lão luyện lúc này cũng cần bàn bạc điều chỉnh cho phù hợp, tất nhiên cần trao đổi kinh nghiệm với nhau trước đã.
Vừa ra khỏi “Chu thất”, Yểm Dư phấn khích khen lấy khen để: “Khánh Kỵ này, thúc phụ bây giờ đối với cháu đúng là tâm phục khẩu phục, cháu có thể trong một thời gian ngắn nảy ra ý tưởng táo bạo này, không phải có thần thánh giúp đỡ không thể làm được. Thiên hạ của Ngô quốc, thuộc về cháu chắc rồi! Có các chiến thuyền kiểu mới này, chúng ta muốn quay về Ngô quốc trước lão tặc Cơ Quang dễ như trở bàn tay, chỉ cần thuyền được đóng xong, ta lập tức cho binh sĩ tập luyện sử dụng thành thạo, …”
Khánh Kỵ mỉm cười, vừa định lên tiếng, phía bìa rừng xa xa Thúc Tôn Diêu Quang và Quý Tôn Tiểu Man đang xì xào to nhỏ đã nhìn thấy hắn bước ra ngoài, Quý Tôn Tiểu Man sải bước dài lao nhanh tới trước mặt Khánh Kỵ, làm mặt giận dỗi: “Này! Muội muốn chèo thuyền trên hồ.”
Khánh Kỵ còn đang bận suy tư gì đó chưa kịp định thần, hờ hững buông một câu: “Thế thì đi đi.”
“Nhưng muội không biết chèo thuyền.”
“Đơn giản thôi mà, kiếm ai đó chèo giúp.”
Quý Tôn Tiểu Man cười tinh nghịch: “Vậy người ta tìm ai để chèo nè?” Thúc Tôn Diêu Quang lúc này đã đến đứng kế bên cũng đang tủm tỉm.
Khánh Kỵ vừa định trả lời, Kinh Lâm từ phía xa đang chạy nhanh tới, vừa chạy vừa hét lớn: “Công tử, công tử, có tin đưa đến.”
Khánh Kỵ vội bước tới, hỏi: “Có chuyện gì?”
Kinh Lâm vừa thở hổn hển vừa bẩm báo: “Hai cánh quân Ngô ở Ngư Phản, Quyền Ấp tấn công tàn quân trấn thủ La Giang của quân Sở, quân chủ lực của Sở phải ba ngày sau mới đến được, bây giờ quân Sở ở La Giang nguy ngập, phái người đột phá vòng vây chạy đến xin công tử cứu viện.”
“Hử?” Khánh Kỵ đanh mặt, vội gọi theo Yểm Dư, nói: “Đi, chúng ta đến chỗ ở của hoàng thúc rồi bàn bạc rõ ràng hơn.”
Hắn xua tay về hướng cô nương Tiểu Man có tính khí trẻ con: “Tiểu nha đầu, muốn đi chơi trên hồ thì cứ tìm mấy tên lính biết chèo thuyền chở theo là được mà.”
Quý Tô Tiểu Man phụng phịu: “Hứ, lại để hắn chuồn đi mất rồi.”
“Thôi đi, nam nhân ấy à, cứ bàn đến đánh trận là trong lòng chỉ có quân địch, còn chứa được gì khác đâu chứ? Chàng có việc lớn cần làm, chúng ta không giúp ích được gì cũng không nên gây cản trở, đi chơi trên hồ chúng ta tự đi vậy.” Thúc Tôn Diên Quang thông cảm lên tiếng.
Quý Tôn Tiểu Man quay đầu lại, nhìn một lượt từ đầu đến chân Diêu Quang. Thúc Tôn Diêu Quang hai má ửng hồng, thắc mắc: “Bị gì vậy?”
Quý Tôn Tiểu Man thở nhè nhẹ, hạ giọng: “Không có gì. Ta bây giờ đã hiểu vì sao hắn cứ gọi mình là tiểu nha đầu. Ây! Ta đúng là tính khí trẻ con, rất nhiều chuyện…cứ thích là làm, không hề suy nghĩ cho người khác…”
Thúc Tôn Diêu Quang nhìn vào khuôn mặt Tiểu Man, ánh nắng êm dịu rọi lên khuôn mặt búp sen của nàng ta, xung quanh lỗ tai có ít tóc tơ, toát ra vẻ ngây ngô của con trẻ, nhưng cũng có nét xinh xắn quyến rũ.
Thúc Tôn Diêu Quang thở dài: “Muội đó, biết nói ra những lời này, nghĩa là đã trưởng thành rồi.”
Diêu Quang ngẩng đầu, nhìn bóng lưng Khánh Kỵ đã đi sang bên kia bìa rừng, đan các ngón tay vào nhau, tâm sự: “Lúc mới gặp chàng, ta cũng chỉ là một thiếu nữ điêu ngoa không hiểu chuyện, cái tính khí bây giờ là được chàng dạy dỗ đó, ta cũng vừa mới chín chắn lên thôi.”
“Hừ! Quân Sở hành quân với tốc độ quá chậm, hậu quân xuất phát chậm, lại vội phái quân tiên phong tiến đánh Quyền Ấp, kết quả đơn độc tác chiến, bị Cơ Quang đánh bật ra La Giang, quân Sở rốt cuộc đang tính toán gì chứ?” Yểm Dư nghe Kinh Lâm bẩm báo chi tiết về tình hình bên quân Sở xong nổi cơn tanh bành.
Khánh Kỵ cười khổ: “Ai cũng biết hiện giờ người cầm quyền ở Sở chỉ là một tiểu Sở vương nhỏ tuổi, người kia là Phí Vô Cực. Phí Vô Cực thật ra rất thông minh, chỉ đáng tiếc con người hắn quá ích kỉ, một người ích kỉ chỉ biết lo nghĩ cho riêng mình, khó tránh khỏi làm ra những chuyện ngu ngốc. Hắn phái quân xâm nhập riêng lẻ, khó nói không phải vì muốn chúng ta gánh chịu sức tấn công của Cơ Quang giùm hắn.”
Kinh Lâm nổi đóa: “Chúng ta cũng đang bị Cơ Quang tấn công mà, đại quân của Vương Tôn Hùng không phải do công tử đánh cho tan tác ư? Cho dù Phí Vô Cực có đến đây hắn cũng không có gì để trách, chẳng qua hắn cứ nhỏ nhen, chấp nhận thiệt mất một cánh quân Sở. Hừ! Sở quốc giờ đã ra nông nỗi thế này, thứ gian thần như hắn còn toan tính chủ ý gây tổn hại lên nhau, khó trách đệ nhất cường quốc lãnh thổ rộng lớn, binh mã đông đúc phương Nam lại thảm hại đến bước đường này.”
Khánh Kỵ nói: “Lạc đà ốm đói vẫn to hơn con ngựa, hơn nữa Sở quốc không phải không mạnh, chỉ là thiếu gắn kết mà thôi, như một con sư tử khỏe mạnh có một bộ óc heo, nên mới bị người ngoài xà xẻo. Nay chúng ta vẫn cần hợp tác với người Sở, nên đối với quân Sở đang bị vây khốn ở La Giang, biết chắc là dụng tâm của Phí Vô Cực, cũng không thể bỏ mặc không cứu.”
Yểm Dư uất ức: “Binh mã của ta chính là bị đám khốn kiếp Nang Ngõa, Phí Vô Cực hại cho mất hết. Khánh Kỵ, ý cháu là…chúng ta vẫn phải xuất binh đi cứu viện đám quân Sở bị vây ở La Giang ư?”
Khánh Kỵ lắc đầu nguầy nguậy: “Phí Vô Cực đã gây ra chuyện này, người Sở sẽ tự đi cứu viện, chỉ vì biết chắc chúng ta không thể không cứu, người Sở nghĩ ra, bọn gian tặc Cơ Quang, Ngũ Tử Tư sao lại không nghĩ ra? Chúng vây đánh quân Sở tại La Giang là giả, mai phục quân cứu viện của ta mới là thật, nên…chúng ta không thể đi!”
Yểm Dư và Kinh Lâm cùng ngớ người không hiểu: “Vừa phải đi cứu, lại không thể đi cứu, vậy theo ý của chủ soái là…?”
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com