Chương 7 Tôi muốn biến thành chó nhỏ
"Chỉ là mấy chuyện nhỏ vậy thôi hả?" – Uông Dương hoàn toàn cạn lời.
"Trong đầu mấy người làm anh trai các anh rốt cuộc chứa cái gì thế? Gạch lớn sao? Thành lũy quân sự chắc? Não toàn là bê tông cốt thép chắc? Chỉ cần nhóc đó chưa đập sập cả bầu trời thì trong mắt anh đều là 'mấy chuyện nhỏ vậy thôi' đúng không?!"
"Nhỏ giọng một chút." – Dư Túy vẫn sợ hắn làm Trần Nhạc Mính thức dậy.
Uông Dương tức đến mức muốn nổ tung: "Anh cứ tiếp tục nuông chiều nó đi! Cái đầu óc ngốc nghếch kia làm ra chuyện điên rồ đến mức đó chẳng phải đều là do anh chiều chuộng mà thành hả?!"
Chưa nói hết câu đã bị Dư Túy đá ra ngoài.
Cánh cửa bị đóng "rầm" một tiếng, Trần Nhạc Mính trong phòng khẽ gọi trong mơ: "Anh..."
Dư Túy bước tới kéo chăn cho hắn, liền thấy khuôn mặt nhỏ đỏ bừng vì sốt, hai hàng nước mắt im lặng chảy ra từ đôi mắt đang nhắm chặt.
Từ nhỏ hắn đã như vậy – mỗi lần khóc cũng không dám khóc thành tiếng, vì sợ bị đánh đau hơn.
Mỗi lần gặp ác mộng cũng không dám gọi người, vì sợ làm phiền sẽ bị mắng.
Dư Túy đã mất rất nhiều năm mới dạy được cậu rằng: khi bị uất ức thì phải khóc lên thật lớn, nhưng không ngờ nước mắt cậu cuối cùng lại đều vì mình mà rơi.
Uông Dương nói không sai. Em trai của anh trở nên như hôm nay, tất cả đều là do anh nuông chiều ra, cũng là bị anh ép thành.
Lẽ ra cuộc đời của hai người họ vốn không nên giao nhau như thế.
Thậm chí ngay từ đầu, Dư Túy căn bản là không hề thích Trần Nhạc Mính – nhìn thấy cậu là cảm thấy buồn nôn, buồn đến mức muốn ói, y hệt như cái cách anh ghê tởm chính bản thân mình.
Quảng cáo
Tim anh đập không ngừng trong lồng ngực, mỗi phút bơm hơn 5000ml máu đi khắp cơ thể.
Dư Túy kéo tay áo lên, trên làn da trắng lạnh lẽo của cánh tay, những mạch máu màu xanh nhạt kéo dài tới tận khuỷu tay, có một vết dao khắc hình chữ "Vạn".
Đó là ký hiệu đầu tiên mà anh nhận được trên người.
Người đàn ông lừa bán anh đã chỉ vào bức tranh vẽ chữ "Vạn" dán trên tường và nói: chữ này tượng trưng cho may mắn.
Gió lạnh buốt, trời rét âm hơn mười độ.
Trong căn phòng chưa đầy bốn mét vuông, chen chúc hơn mười đứa trẻ. Trên đầu mỗi đứa đều bị dán một tờ giấy.
Giống như cách người ta dán nhãn lên miếng thịt lợn ở chợ – "Heo đen sạch, mới giết, thịt ngon" – những tờ giấy ấy ghi rõ: tuổi tác, giới tính, có bệnh hay không, có dễ bảo hay không...
Những đứa trẻ bị lừa bán không cần ghi tên.
Dư Túy khi đó mới năm tuổi, đứng ở vị trí nổi bật nhất.
Mỗi lần có khách mua đến, gã đàn ông kia sẽ lôi anh ra đầu tiên để chào hàng.
Anh không có cha mẹ, nhưng lại di truyền từ cha mẹ mình cả màu mắt và nhóm máu.
Trẻ con lai càng dễ bán, máu Rh âm tính có thể sinh lời, Vương Trường Lượng vừa nhìn thấy anh thì trong đầu liền hiện lên ba ý tưởng kiếm tiền:
Một là một con trâu máu có thể tái sinh liên tục mà không phản kháng.
Hai là một đứa trẻ lai có gen vượt trội và ngũ quan ưu tú, vượt xa giá thị trường cho bé trai thông thường.
Ba là một đống nội tạng sống nhảy nhót, có thể đem bán từng món.
Thứ tự được sắp xếp rõ ràng.
Vương Trường Lượng vừa mới ném tiền như rác trên chiếu bạc, trên tay chỉ còn vài đồng lẻ, không đủ tiền mua Dư Túy, nhưng biết anh là một món hàng quý giá, thế là vui vẻ quyết định "cướp trắng".
Hắn châm lửa đốt căn phòng nhỏ, nhân cơ hội lén đưa Dư Túy đi, trói anh vào yên sau xe máy, một đường chở về nhà.
Về đến nhà vừa quay đầu lại thì phát hiện đứa nhỏ không thấy đâu.
Dư Túy giữa đường đã rơi khỏi xe.
Vừa mới mang về tới nơi, anh đã mềm nhũn như bùn, suýt chút nữa là c.hết, Vương Trường Lượng hoảng đến mất cả hồn, mà lúc đó lại đang ở trong khu rừng hoang vu không nhà không tiệm.
Cuối cùng may mắn nhìn thấy một căn nhà gỗ còn sáng đèn, tìm được một người gác rừng tên Bạch Thanh Niên.
Hắn cầu xin Bạch Thanh Niên cứu mạng, nói rằng con trai hắn ngã khỏi xe.
Bạch Thanh Niên giúp hắn tìm được đứa bé, thấy đứa bé lạnh đến toàn thân đỏ tím, tay chân cứng ngắc, bạo gan đổ cho Dư Túy một ngụm rượu cao lương.
Ngụm rượu đó cứu mạng Dư Túy, nhưng cũng khiến anh sốt li bì suốt ba ngày.
Sau khi tỉnh lại, thần trí không rõ, chẳng nhớ được gì, mở miệng liền gọi Vương Trường Lượng là "ba".
Vương Trường Lượng tại chỗ mừng rỡ như điên, trong lòng hiểu rõ đây là ông trời thương hắn mấy chục năm vất vả, nay ban thưởng cho hắn một "món hàng" sinh tiền.
Hắn đưa Dư Túy từ căn phòng nhỏ bốn mét vuông kia, chuyển đến một cái kho cũ nát, cứ thế mơ mơ màng màng nuôi lớn.
Dư Túy không có tên, không có hộ khẩu, không được đi học.
Lần đầu tiên anh nhìn thấy bầu trời bên ngoài, là khi bị kéo vào một phòng khám dởm trong thành phố để "hiến máu".
Không phải hiến máu theo nghĩa tình nguyện, mà là bán máu – người cần máu phải trả giá cao mới được lấy.
Rất đắt sao?
Đối với Dư Túy mà nói, 200cc máu đổi lấy một quả trứng gà.
Mỗi lần hiến máu xong, Vương Trường Lượng đều mua cho anh một quả trứng luộc ngâm nước trà, coi như tiền công cho "lần làm việc" này.
Đó là món ăn ngon nhất mà Dư Túy từng được ăn trong suốt thời thơ ấu.
Khi không hiến máu thì anh chỉ được ăn bánh bao thiu với cháo loãng, uống nước máy chảy từ ống, đi vệ sinh thì ngay tại phòng tối, ngủ thì đắp tấm chăn bông rách nhặt được từ bãi rác.
Đến năm bảy tuổi, lần đầu tiên vì hiến máu mà anh được bước ra khỏi cửa nhà. Lúc ấy anh tưởng rằng tất cả trẻ em trên thế giới đều sống như vậy.
Vương Trường Lượng không có học thức nhưng lại ranh mãnh. Hắn biết trẻ con nếu từng thấy thế giới bên ngoài thì sẽ không dễ bảo nữa, nên ngoài những lần lấy máu ra thì tuyệt đối không cho anh bước chân ra khỏi cửa.
Mỗi lần Dư Túy kêu với hắn rằng rút máu đau quá, kim tiêm đâm đau quá.
Vương Trường Lượng sẽ nói với anh:
"Trẻ con đứa nào chẳng thế, đây là 'việc làm' của trẻ con, ráng chịu một chút là qua. Lúc ba bằng tuổi con cũng làm công việc này, cũng đau như vậy đấy. Không làm việc thì lấy đâu ra trứng gà? Trứng gà ngon lắm đúng không?"
Vị thành niên thì không được phép hiến máu, người lớn nếu muốn hiến máu lần hai thì ít nhất cũng phải cách nhau sáu tháng. Nhưng nếu đã có lòng làm sai thì chuyện gì cũng có thể làm được.
Từ bảy tuổi đến chín tuổi, trong vòng hai năm ấy, Dư Túy chỉ ra khỏi cửa ba lần để hiến máu, cũng chỉ ăn được ba quả trứng gà.
Đến lần thứ ba, anh đã gầy đến mức không còn hình dạng của một con người nữa.
Một cậu bé khô quắt, gầy trơ xương cuộn tròn trên ghế trong phòng khám dởm, trông chẳng khác gì một bộ xương khoác tấm da người.
Vương Trường Lượng như thường lệ ném cho cậu một quả trứng gà.
Cậu thậm chí không đủ sức để mở mắt, chỉ miễn cưỡng hé ra một khe nhỏ.
Từ trong khe mắt ấy, cậu nhìn thấy "ba ba" với gương mặt đỏ rực đang cùng "bác sĩ" đếm tiền.
Cậu không biết rằng số tiền đó là cái giá người ta phải trả để rút máu từ thân thể cậu. Cậu cũng không biết tiền là gì.
Cậu chưa từng đi học một ngày nào, cũng chưa từng nhận được chút giáo dục nào. Đến tận bảy tuổi, lời nói của cậu vẫn không rõ ràng, phát âm còn ngọng nghịu.
Lần đầu tiên bị rút máu, cơ thể vốn đã yếu ớt của cậu không thể chống đỡ nổi, đến đi lại cũng không làm được, chỉ có thể nằm trên giường, mê man suốt một ngày trời.
Khi đến bữa ăn, Vương Trường Lượng mới gọi dậy, ép cậu nuốt cháo loãng. Khi đi "hiến máu", cậu bị bế ra ngoài, đặt thẳng lên giường bệnh, trơ mắt nhìn dòng chất lỏng đỏ tươi từng chút một chảy ra khỏi thân thể mình. Sau đó, như một phần thưởng sang quý, là một quả trứng gà được nhét vào bụng.
Cậu cảm thấy hơi thở ngày càng khó khăn, cơ thể ngày càng lạnh lẽo.
Vết chọc kim rút máu để lại một cái lỗ nhỏ, đau như thể có một cái móc sắt đang móc vào, kéo cậu về phía một thế giới khác, xa xăm, lạnh buốt.
Cậu biết... mình sắp ch·ết rồi.
Bản năng sinh tồn bắt cậu phải tự cứu. Cậu cố hết sức bóc quả trứng gà ra, moi được một chút lòng trắng trứng rồi nhét vào miệng.
Rồi cậu ngã lăn xuống đất, được một người phụ nữ nhặt lên.
Cô ấy đưa lại quả trứng cho cậu, rồi ngồi xuống bên cạnh.
Dư Túy tựa vào tường gắng gượng ngồi dậy, ánh mắt lướt qua đứa trẻ đang khóc không ngừng trong vòng tay người phụ nữ, và thấy trên tay đứa bé ấy còn dán một miếng bông.
Anh nghĩ, đứa bé đó chắc còn phải "làm việc" sớm hơn cả mình.
Nhưng dường như... nó không được đổi lấy một quả trứng gà.
Vì vậy, Dư Túy đưa nửa quả trứng gà trong tay qua.
Người phụ nữ kia không hiểu, Dư Túy nói: "Cho em bé ăn."
Cô ta nhìn quả trứng đã dơ bẩn với vẻ ghét bỏ: "Nó không ăn đâu, con ăn đi."
Đứa trẻ trong lòng cô lại bắt đầu khóc, cô vỗ về nó đầy xót xa, dịu dàng dỗ dành, những lời nói ấy khắc sâu vào lòng Dư Túy suốt đời:
"Bảo bối của mẹ thật là vất vả, chảy nhiều máu như vậy, phải bồi bổ cho thật tốt nhé. Tối nay mẹ sẽ hầm canh gà cho con uống, được không? Đừng khóc, mẹ tìm được máu rồi, truyền máu vào là con khỏi bệnh ngay thôi, không phải sợ gì hết."
Rồi cô ta vạch miếng bông trên cánh tay đứa bé – chỉ là một dấu kim nhỏ bằng đầu con kiến.
"Bác sĩ" mang tới một túi máu lớn đưa cho cô. Dư Túy nhận ra – đó chính là túi máu của mình.
Bị lừa bởi ba quả trứng gà để đánh đổi máu và cả tính mạng, đứa trẻ cuối cùng cũng hiểu chuyện gì đang xảy ra với bản thân.
Thế giới quan mà Vương Trường Lượng đã mất hai năm dựng lên trong lòng cậu bé – rằng "tất cả trẻ con đều phải làm công việc này" – giờ đây vỡ tan như ngàn nhát dao sắc bén đâm vào thân thể nhỏ bé ấy.
Hóa ra... không phải mọi đứa trẻ đều phải "công tác" bằng cách hiến máu. Chỉ có mình anh.
Máu rút ra từ cơ thể anh sẽ được đưa vào thân thể của những đứa trẻ khác – rồi chúng khỏe lên, còn anh thì từ từ chết đi.
Dư Túy phát điên, lao đến giật lấy túi máu, dốc toàn sức gào lên:
"Đây là máu của tôi! Không cho cô lấy!"
Vương Trường Lượng xông tới, tát anh ngã nhào xuống đất, rồi cúi xuống nhặt lại túi máu, đưa lại cho người phụ nữ.
Cô ta hoảng hốt nhìn Dư Túy, trong mắt hiện lên sự khiếp sợ, sợ hãi, áy náy, bất lực — cuối cùng, tất cả chuyển thành sự kiên quyết.
Cô ôm đứa trẻ, cầm túi máu, dứt khoát xoay người rời đi.
Dư Túy nằm rạp trên mặt đất, cố bò theo, trong miệng gào lên thảm thiết, như xé cả phổi:
"Đó là máu của tôi! Trả lại cho tôi! Tôi không cần trứng gà! Tôi không muốn làm việc ! Tại sao nó không phải rút máu! Tại sao máu tôi lại truyền cho nó! Tại sao nó lại khác tôi! Trả lại cho tôi! Trả lại cho tôi..."
Phòng khám lập tức rối loạn cả lên. Dư Túy không biết lấy đâu ra sức lực, thế nhưng lại bò dậy được rồi chạy trốn ra ngoài.
Vương Trường Lượng và tên "bác sĩ" sợ chết khiếp, lo rằng nếu cậu chạy lung tung ra ngoài làm ầm lên sẽ kéo cảnh sát đến.
Bác sĩ kia có vẻ ngoài nho nhã, giống như một thầy thuốc đàng hoàng.
Vương Trường Lượng cũng không có vẻ dữ tợn, mũi nhỏ, mắt nhỏ, hai gò má còn đỏ hồng như người vùng cao, thoạt nhìn có chút ngờ nghệch.
Hai người lao ra đám đông, hoảng loạn nói với mọi người rằng đứa trẻ nhà họ bị sốt cao, mê sảng rồi chạy mất.
Những người tốt bụng đi ngang đều đồng loạt giúp họ tìm kiếm.
Lúc ấy Dư Túy đã kiệt sức, chạy chưa được bao xa thì đâm sầm vào một người đàn ông lớn tuổi.
Anh van xin ông đừng giao anh lại cho họ.
Người đàn ông bế anh lên, vỗ nhẹ lưng, dịu dàng trấn an: "Không sao đâu, không sao rồi."
Dư Túy cảm nhận được sự ấm áp từ vòng tay ông, trong lòng dần yên tâm lại.
Nhưng chỉ giây sau đó, ông ta lại giơ cao cánh tay anh, gọi to về phía Vương Trường Lượng và bác sĩ:
"Ở đây này! Nó ở đây!"
Dư Túy tuyệt vọng như tro tàn lạnh ngắt.
Anh hận người đàn ông ấy đến tận xương tủy.
Hận bác sĩ, hận Vương Trường Lượng, hận cả thế giới này.
Và càng hận hơn chính mình – kẻ đã sinh ra trong cái thế giới tàn nhẫn này.
Anh bị túm cổ kéo ngược trở lại, đặt lên chiếc giường nhỏ dùng để rút máu.
Bác sĩ cầm dao phẫu thuật, khoa tay múa chân như thể muốn cắt bỏ nội tạng của anh, thứ đầu tiên chính là đôi mắt.
"Một mạng sống hèn mọn như vậy, có đôi mắt xinh đẹp để làm gì cơ chứ!"
Nói xong, mũi dao sắc bén liền hướng về đôi mắt của Dư Túy mà đâm tới — nhưng tiếng kêu thảm thiết lại phát ra từ miệng bác sĩ.
Dư Túy dốc hết sức lực còn sót lại, đột ngột vùng dậy, móc ngón tay đâm thẳng vào mắt hắn.
Một đứa trẻ điên cuồng thì có thể mạnh đến mức nào chứ?
Thứ chống đỡ anh là sự không cam lòng cùng hận thù ngập trời.
Một thân thể gầy trơ xương, run rẩy đến mức như chỉ cần một giây nữa sẽ tan biến, vậy mà lại gào thét, khóc lóc, vừa chửi rủa vừa cắm sâu từng đốt ngón tay vào mắt bác sĩ, tay còn lại thì vơ tất cả những gì vớ được đập loạn lên đầu hắn.
Không thể tiếp tục bị lừa dối, không thể tiếp tục bị bắt nạt!
Không thể để cho bọn họ lấy được bất cứ thứ gì từ anh nữa!
Anh biết mình sắp ch.ết, anh muốn tự hủy hoại bản thân — đập nát, quăng ngã, vỡ vụn thế nào cũng được! Dù sao cũng không thể để bản thân rơi vào tay kẻ xấu!
Anh lao về phía cửa sổ, gió tuyết đầy trời lại ép anh trở vào, nhưng anh không do dự, lập tức nhào vào gió tuyết.
Không chết được. Một chiếc xe tải chở cải thảo chạy ngang, đống cải thảo ở đuôi xe đã đỡ lấy anh.
—
Lúc tỉnh lại lần nữa, anh đang ở trong một căn phòng nhỏ.
Trần nhà phía trên là những thanh gỗ xếp lại, thân thể bên dưới thì nặng trịch. Bên cạnh, một ông lão tóc hoa râm đang dùng muỗng đút canh cho anh.
Anh giơ tay hất muỗng đi, rồi rút tay mình về, co người lại trong chăn.
Không còn sợ hãi, không còn phẫn nộ, không còn bất mãn. Anh chỉ nhìn ông lão bằng ánh mắt như hai hốc máu bị khoét rỗng: "Đây là đâu?"
Ông lão nói: "Trong núi."
Anh lại hỏi: "Trên núi cũng rút máu sao?"
Ông lão sững người nhìn anh rất lâu, rất lâu, sau đó nắm lấy tay anh, kéo tay áo lên, nhìn thấy chỗ lõm nhỏ và vết bầm tím nơi từng bị chọc kim.
Giọng nói vốn già nua của ông lão lập tức trở nên khàn đặc.
"...Hài tử, con làm sao vậy?"
Dư Túy lạnh nhạt thốt ra mấy chữ:
"Rút máu, đổi trứng gà. Máu cho người khác, người khác khỏe lên, còn tôi thì ch.ết."
Cái muỗng rơi xuống đất, ông lão trợn tròn mắt, những nếp nhăn quanh khóe mắt cũng gần như căng ra hết.
Ông đã từng nghe nói: ở nông thôn, có nhà sinh con không muốn nuôi hoặc nuôi không nổi, liền bán con cho phòng khám trong trấn.
Trước tiên là rút máu, rút đến khi sắp chết thì cắt bỏ nội tạng đem bán.
Ông tưởng Dư Túy nói linh tinh — không ngờ lại là chuyện thật.
"Trên núi không rút máu, cũng không ăn trứng gà..."
Ông lão đưa tay đặt lên mặt anh, ngón cái nhẹ nhàng lau đi khóe mắt.
Đôi mắt kia, đầy nỗi đau thương, giống như sau trận mưa to vẫn còn đọng lại tầng sương mù. Anh không khóc, nhưng từng chữ nói ra đều là những giọt nước mắt tuyệt vọng đông thành kết.
"Tôi không tin, ông cũng giống bọn họ, đều lừa tôi, đều muốn cắt nát tôi để đổi lấy trứng gà."
Loài người đầy miệng dối trá, từ trong xương tủy đã thối rữa.
Anh ghê tởm đến muốn nôn, muốn bỏ chạy, muốn ch.ết, muốn tự tay móc sạch bản thân ra, hận không thể chưa từng được sinh ra.
Nhưng anh chẳng còn chút sức lực nào, chỉ có thể nằm im mặc cho người ta xâu xé.
Ông lão nắm lấy tay anh, bàn tay đầy nếp nhăn, làn da sậm màu che đi mu bàn tay đầy vết th.ương chồng chất của Dư Túy.
"Hài tử, thực xin lỗi..."
Anh không hiểu vì sao ông lại xin lỗi mình, chỉ ngơ ngác hỏi:
"Tại sao lại phải sinh ra một đứa trẻ?"
Ông lão đáp: "Là để trưởng thành."
Dư Túy không hiểu:
"Trưởng thành... vì sao lại khổ như vậy?"
Không được hỏi ý kiến mà bị sinh ra, không biết lý do gì mà phải chịu quá nhiều khổ sở, rồi lại ch.ết đi ở một nơi chẳng ai hay biết — đó là cái gọi là "cả một đời người" sao?
Thế giới của loài người xanh um tươi tốt, còn anh thì chỉ là một mảng rêu xanh đang vùng vẫy đau đớn nơi khe hở nhỏ bé trong sự tươi tốt ấy.
Ông lão bế anh lên:
"Không ngủ, chúng ta không ngủ. Ông sẽ đưa con đi báo công an ngay bây giờ."
Nhưng báo công an cũng vô ích — Vương Trường Lượng cùng tên áo đen đã sớm bỏ trốn.
Công an thị trấn lập hồ sơ vụ án, đăng báo nhiều lần, cuối cùng là cảnh sát đảo Phong phối hợp với toàn bộ lực lượng của thành phố bao vây, mãi đến tận một năm sau mới bắt được bọn họ.
Khi đó Dư Túy đã mười tuổi, bị lừa bán và hành hạ suốt năm năm.
Cảnh sát đề xuất đưa Dư Túy vào cô nhi viện trong trấn, nhưng ông lão kiên quyết từ chối.
"Nó bị tổn thương quá sâu, không thể sống cùng người khác. Ta không con không cái, vợ cũng mất sớm, thì để nó cho ta nuôi."
Ông lão dẫn anh trở về căn phòng nhỏ, vừa bước vào, từ phía sau vang lên tiếng chim kêu.
Dư Túy quay đầu nhìn lại, thấy hai con quạ đen đang xoay quanh trên nền tuyết trắng.
Bàn tay to lớn của ông lão khẽ vung lên, quạ đen liền bay đi.
Trời dần tối. Anh đã từng nghĩ, mình vĩnh viễn không thể nào chịu nổi được mỗi chiều hoàng hôn — vậy mà giờ đây, nó lại lặng lẽ buông xuống giữa biển rừng, không một tiếng động.
Cuộc sống trong núi rất yên tĩnh.
Động vật thì nhiều, con người chỉ có hai.
Ông là một ông lão đáng yêu, hơn bảy mươi tuổi nhưng thân thể vẫn rắn rỏi, ăn món gì cũng thấy ngon miệng.
Ông không giàu, thu nhập hằng ngày ngoài tiền công trông coi rừng ra, còn có một lò rượu nhỏ dùng để ủ rượu từ ngô cao lương.
Ông vốn rất thích uống rượu, cũng biết tự ủ lấy.
Trước kia chỉ cần hai ba ngày là đã uống cạn một hũ lớn, nhưng từ khi có Dư Túy rồi thì không uống nữa, toàn bộ rượu đều tiết kiệm lại, chở xuống trấn bán.
Tiền bán rượu đổi lấy đông trùng hạ thảo, nhân sâm, cá trích... để bồi bổ thân thể cho cháu trai.
Thân thể của anh từ lâu đã bị hủy hoại vì bị rút máu quá nhiều. Ông tốn rất nhiều tiền mua thuốc, mua đồ bổ cho anh, nhưng anh ngại đắt, không chịu ăn.
Anh không uống thuốc, ông cũng không chịu ăn cơm. Mùa đông, ông ngồi ở bậc cửa, bên đống củi lửa, xoạch xoạch hút cái tẩu thuốc.
Dư Túy mở cửa, lạnh lùng gọi ông vào ăn cơm.
Ông cũng lạnh lùng gọi anh vào uống thuốc.
Dư Túy nói không ăn. Ông liền giận đến sôi máu:
"Vậy ta cũng không ăn! Một miếng cũng không ăn! Đói ch.ết ta luôn!"
Dư Túy không nháo lại ông:
"Con ăn thì ông sẽ ăn?"
Đôi mắt đục ngầu của ông ánh lên một tia sáng hiếm hoi, ngẩng đầu kiêu ngạo hừ một tiếng.
Dư Túy chịu thua, để ông vào nhà.
Ông đột nhiên la lớn:
"Ây da ây da, mau tới đây coi giúp ta! Sao cái tẩu này chẳng hút được gì cả?!"
Ống hút vốn phì phò khói ở bên ngoài bỗng như bị nghẽn, không nhả ra chút khói nào.
Dư Túy sợ ông bị sặc, vội vã chạy lại xem — kết quả phát hiện bên trong cái tẩu lại giấu một viên kẹo.
Ông "hắc hắc hắc" cười ha hả:
"Có kẹo rồi thì uống thuốc đâu có khổ gì nữa, đừng sợ ha!"
Cứ như vậy, đông qua xuân tới.
Trên núi cỏ xanh rồi lại vàng, tuyết tan rồi lại rơi.
Hũ này đến hũ khác rượu cao lương đổi lấy xe này đến xe khác thuốc bổ, và xe này đến xe khác thuốc bổ lại được ông vừa dỗ vừa lừa mà rót hết vào thân thể Dư Túy.
Sau khi thân thể anh dần hồi phục, ông bắt đầu dẫn anh đi chạy bộ trong rừng, luyện quyền, tập phi tiêu.
Ông hồi trẻ từng đi lính, quyền cước cũng khá vững vàng.
Thân thể hồi phục rồi, lại đến vấn đề mới — đứa trẻ lớn rồi, phải có tên.
Ông chưa từng nói với anh tên của mình, cũng chưa từng hỏi tên anh.
Ông gọi anh "Ây", anh thì đáp lại "A".
Có lúc hai người ở cách nhau khá xa, cũng có thể gọi vọng lại như đang hát sơn ca.
Đương nhiên chỉ có ông đơn phương hát, Dư Túy không bao giờ ứng đối lại.
Tính tình anh quá lạnh lẽo, không có lấy chút hơi ấm.
Ông cảm thấy anh giống như một cây nến đang cháy hai ngọn tim cùng lúc: một ngọn là lạnh nhạt, một ngọn là từ bi.
Anh có thể vì nhặt được xác động vật trong núi mà đào hố chôn cẩn thận, nhưng lại sẽ không vì một người quen chết đi mà nhỏ lấy một giọt nước mắt.
Ông là người thô kệch, không biết đặt tên, bèn hỏi anh có còn nhớ tên mình là gì không.
Dư Túy đáp là không nhớ.
Mỗi lần bị rút máu, bọn họ chỉ vẽ trên người anh một vòng tròn giống như lòng đỏ trứng gà để ký hiệu — đó là cách định danh anh.
Ông không hỏi thêm, chỉ cúi đầu, lén lau nước mắt.
Dư Túy thì mặt không chút biểu cảm, vỗ vỗ lưng ông an ủi.
Sau đó, một ngày kia, ông dắt anh đi ăn tiệc. Trên bàn tiệc có một đứa trẻ nhỏ lén uống một ngụm rượu, cay đến mức bật khóc "oa oa".
Ba mẹ, ông bà của đứa nhỏ vây xung quanh thành một vòng, gọi nó là "bảo bối", dỗ dành cưng chiều không dứt.
Dư Túy hỏi ông:
"Đứa nhỏ đó sao vậy?"
"Tiểu bảo bối uống rượu say rồi đó."
Từ đó, Dư Túy tự đặt cho mình cái tên bây giờ.
"Dư" là dư thừa, "Túy" là say rượu — một kẻ dư thừa, lại mong được một lần làm "bảo bối say rượu".
Nhưng cái tên ấy cũng chẳng thể phù hộ cho anh được làm bảo bối bao lâu.
Dây thừng thì luôn đứt ở chỗ mảnh nhất, còn vận rủi thì lại cứ tìm đến những người số khổ.
Người nghèo thì luôn dễ sinh bệnh hơn.
Người sợ cô đơn... cuối cùng sẽ thật sự trở nên cô độc.
Ông cũng chẳng rõ mình bắt đầu ho từ khi nào, đến khi phát hiện thì đã thấy trong đờm có lẫn tơ máu.
Cả đời ông đều bỏ không nổi thuốc lá, sau đó rất nhanh đã bỏ được — ngay cả khi ngủ cũng đeo khẩu trang.
Một khi thấy cổ họng ngứa, ông liền vội vã chạy ra ngoài, sợ Dư Túy nghe thấy.
Nhưng ho khan và khổ sở vốn là thứ không thể giấu được.
Lúc ăn cơm, ông ho đến mức phun ra máu, bắn tung toé lên bàn, nhuộm đỏ cả một nồi canh.
Ông nhìn Dư Túy, Dư Túy cũng nhìn ông. Hai ông cháu cứ thế im lặng thật lâu, rồi cùng nhau đứng dậy, bước ra ngoài sân.
Vẫn là bếp củi trước hiên nhà, vẫn là trời tuyết đang rơi.
Dư Túy hỏi ông:
"Ông muốn chết rồi, đúng không?"
Cái chết, đối với anh mà nói không hề xa lạ — từ năm chín tuổi, anh đã từng muốn lao mình đến thiên đường.
Ông gật đầu:
"Ông già quá rồi."
Tám mươi tuổi rồi, đến lúc thôi.
"Còn bao lâu nữa?"
"Bác sĩ nói nhiều lắm thì còn kéo dài được một năm."
"Ông muốn được chôn ở đâu?"
"Trên núi đi, đỉnh núi đó có thể nhìn thấy khắp cả cánh rừng tuyết."
Dư Túy gật đầu, quay vào nhà rửa bát.
Chỉ ba câu, đã bàn xong chuyện cuối cùng cả đời một con người.
Dư Túy bắt đầu đóng quan tài, đào hố.
Ông thấy vậy thì nghĩ cũng tốt, chuẩn bị sớm, đến lúc đó sẽ đỡ đau lòng.
Nhưng dần dần, ông bắt đầu nhận ra có điều gì đó không ổn...
Sau khi làm xong quan tài lớn, Dư Túy lại làm thêm một cái quan tài nhỏ. Bên cạnh hố chôn to, còn có một cái hố nhỏ hơn.
Ông đứng nhìn anh đào xong hai cái hố, thấy anh cẩn thận rải từng hạt giống hoa xuống đất, từng viên, từng viên một, tay không ngừng ném vào hố đất — mà nước mắt ông cũng rơi từng giọt, từng giọt theo.
"Không được đâu, tiểu ngư..."
Lần đầu tiên, ông khóc đến nức nở trước mặt Dư Túy, nghẹn ngào nói không ra lời.
"Con mới chỉ mười bốn thôi mà..."
Nhưng Dư Túy không để tâm, tiếp tục công việc trong im lặng.
Anh vốn là người không nói nhiều, đã chán ghét lời dối trá đến mức ngay cả việc mở miệng nói chuyện cũng khiến anh cảm thấy ghê tởm.
Tính tình thì cố chấp, một khi đã quyết thì có trời đến cũng không lay chuyển được.
Ông không đồng ý.
Ông không chấp nhận được chuyện ấy.
Ông giành lấy cái xẻng, xúc đất lấp lại cái hố nhỏ.
Anh đào ra thì ông lại lấp.
Ông lấp rồi anh lại đào.
Cứ thế, hai ông cháu giằng co, vật lộn đến mức toàn thân dính đầy đất cát, cả người là bùn đất. Ông khóc đến suýt mù mắt, trong mắt toàn là khói bụi mịt mờ.
"Con làm cái gì vậy hả? Con đang làm cái gì vậy! Muốn ch·ết là ta! Chuyện này không liên quan đến con! Con còn nhỏ như vậy, không được phép theo ta!"
Ông vốn là người trọng sĩ diện, bao nhiêu năm tuổi tác, bao nhiêu tóc bạc cũng không giấu được sự cứng cỏi trong máu thịt.
Thế nhưng lần đầu tiên trong suốt tám mươi năm cuộc đời, ông lại gào khóc vật vã như thế — mà lại là vì một đứa trẻ.
Đứa bé ấy chỉ im lặng đứng nhìn ông, không nói một lời.
Chờ ông khóc xong, Dư Túy nhẹ nhàng giúp ông lau đi nước mắt trên mặt.
"Ông nội."
Đây là lần đầu tiên Dư Túy gọi ông hai tiếng ấy.
"Làm sao sống hết một đời là chuyện của con. Con không thể quyết định được khi nào nó bắt đầu, nhưng ít nhất, con có thể quyết định khi nào nó kết thúc."
Giọng anh như đang đọc một thông báo bình thường, không hề hỏi ý kiến, cũng chẳng mong ai đồng ý.
Phật ngữ có câu: Độc lai độc vãng, cô sinh cô tử.
(Đến một mình, đi một mình. Một mình sinh ra, một mình chết đi.)
Người đến nhân gian này, so với chim bay cá lội cũng chẳng khác gì.
Mục tiêu cuối cùng cũng chỉ có hai thứ: ăn no, mặc ấm.
Nhưng con người hơn chim bay cá nhảy ở chỗ: họ có quyền tự quyết định cuộc đời mình.
Ông nhìn thấy trong Dư Túy một loại phật tính, hay có thể nói là một thiền tính.
Anh xem cái gọi là chết nhẹ như ăn cơm, ngủ nghỉ. Anh nhìn cả cuộc đời mình thấu suốt đến mức gần như trong suốt — không còn gì vướng bận, không còn gì lưu luyến.
Dù là ông sống đến tám mươi tuổi, yên ổn chết già ở nhà, hay là Dư Túy chỉ sống đến mười bốn tuổi rồi buông bỏ sinh mệnh — với anh, tất cả đều là "hỉ tang" (niềm vui trong tang sự), đều là kết cục bình thường.
Ông lý trí thì có thể hiểu.
Nhưng rốt cuộc, lý trí không thắng nổi cảm xúc.
Vài ngày sau — ông lại nhặt về một đứa trẻ.
Trần Nhạc Mính lúc ấy chỉ mới năm tuổi, còn chưa cao tới đầu gối người lớn.
Sợ sệt, nép sau lưng ông.
Quần áo rách nát, cả người xanh tím vết bầm.
Ông kéo nó đứng ở cửa, bắt nó gọi:
"Gọi anh trai đi con."
Dư Túy liếc mắt một cái là hiểu ngay ý đồ của ông.
"Chúng ta không thể nuôi được nó. Trên núi không có cái hố dành cho nó. Đến con, ông còn giữ không nổi, huống chi là nó."
Ông lập tức bế bổng Trần Nhạc Mính lên, ép Dư Túy phải nhìn.
"Đứa nhỏ này cha đã chết, mẹ thì bỏ đi, trong cô nhi viện thì bị người ta đánh, có kẻ trộn thuốc chuột vào cơm cho nó ăn! Mùa đông rét căm căm, nó phải đi từng nhà xin ăn. Nếu chúng ta không nuôi nó — nó nhất định sẽ chết!"
"Con không cần, đúng không? Con không cần nó, đúng không?"
Đôi mắt vẩn đục của ông trừng lên, từng tia máu đỏ vằn vện, ông gào lên một tiếng như đứt ruột:
"Tối!"
Quay đầu lại, ông ném Trần Nhạc Mính xuống đất, chỉ vào con đường xuống núi, gào:
"Cút! Từ đâu đến thì cút về đó! Ở đây không ai cần con!"
Trần Nhạc Mính ngã sõng soài trên đất, nhưng không khóc, cũng không la.
Cứ như thể... với nó, đây chẳng qua là một ngày bình thường như mọi ngày.
Nó len lén nhét ngón tay lạnh cóng vào tuyết, bới lấy mấy rễ cỏ, lồm cồm bò dậy.
Rồi đứng nguyên giữa gió tuyết, lặng lẽ như một đốm tro xám nhỏ, xám xịt và bé bỏng.
Một cục xám xịt bé tẹo là Trần Nhạc Mính, đôi mắt đen như mực, lặng lẽ nhìn Dư Túy một lát rồi quay người đi xuống núi.
Thằng bé con này thật ra rất thông minh — đứng trước mặt người không thích mình, nó sẽ biến mình thành vô hình, không phát ra âm thanh, không thu hút sự chú ý.
Vì nó biết, chỉ cần bị để ý, tai họa sẽ ập đến.
Dư Túy còn chưa kịp nghĩ xong, thân thể đã chạy trước. Anh quát ông:
"Ông điên rồi sao!"
Quần áo còn chưa kịp mặc tử tế đã vội vàng đuổi theo.
Tìm được Trần Nhạc Mính thì thằng bé đang nằm trong một ổ chó hoang bị bỏ lại giữa sườn núi.
Dư Túy chạy quá nhanh, lúc dừng lại thì gần như ngã sấp ngay trước mặt thằng bé. Anh quát:
"Cậu làm gì ở đây! Tuyết sắp rơi rồi, sẽ chôn sống cậu đó!"
Trần Nhạc Mính nhỏ giọng nói:
"Tôi muốn biến thành chó nhỏ."
Thằng bé đã thấy chó mèo nhỏ đi đến trước cửa nhà người ta, sẽ được cho chút đồ ăn, được vuốt đầu, được nói một câu "ngoan lắm".
May mắn hơn thì... có thể được bế vào trong nhà.
Nhưng nó thì không.
Chỉ cần nó vừa đến gần, là sẽ bị người ta đuổi thẳng.
Nó đang khóc, nhưng không dám phát ra tiếng, chỉ dám dùng giọng run rẩy, non nớt và mong manh nói với Dư Túy:
"Nếu tôi biến thành chó nhỏ, mọc lông mềm mềm, ngủ dưới đất, ăn rất ít rất ít cơm...
có phải sẽ có người muốn không?"
Câu hỏi đó —
không phải là van xin, mà là tuyệt vọng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com