Ghi chép thôn Vũ 3, (C31 - C40)
📌 Bản dịch gốc được đăng tại: https://metarikkuhoseki.wordpress.com/
thuộc ngoại truyện "Ghi chép thôn Vũ".
🚫 Vui lòng không reup hoặc sao chép khi chưa được cho phép.
Dịch: Sóc
Chương 31: Ruộng của tôi
Nói về mảnh ruộng này, gần đây tôi cũng có những cảm xúc khác.
Trước đây, tôi luôn nghĩ làm ruộng là công việc không bao giờ hết, chuyện này xong lại đến chuyện khác, thu hoạch cũng như vậy, hôm nay cái này chín thì ăn cái này, mai cái kia chín thì ăn cái kia.
Giờ đây, tôi mới thực sự hiểu thế nào là "bận rộn vụ mùa" và "nhàn nhã mùa vụ."
Công việc này, khi bận thì bận đến chết, mà khi nhàn cũng nhàn đến phát chán.
Trong lúc lúa đang phát triển, tôi không chỉ hài lòng với việc trồng thêm các loại quả mọng, mà còn đưa mắt nhìn đến nơi nối giữa ruộng và núi. Tôi không biết những sườn đồi đó thuộc về ai, nhưng vì không có ai trồng, nên tôi đã gieo các loại rau phổ biến như dưa chuột, cà chua, khoai tây và đậu tương trên đó.
Nhưng sau khi trồng xong, lại là khoảng thời gian chờ đợi để chúng lớn lên.
Có những lúc tôi mang theo hai, ba lon bia, ngồi trên bờ ruộng ngắm mây cùng với lũ chó, cứ thế ngồi ngắm cả ngày.
Thỉnh thoảng, Bàn Tử và Muộn Du Bình cũng tham gia, dường như cả ba chúng tôi đều thích thú với cuộc sống như vậy, chỉ có điều, Bàn Tử lại nói: "Thiên Chân, tôi muốn đi Quảng Tây rồi."
Tất nhiên là hắn không thể đi, vì bà cô còn cần hắn cho đợt huấn luyện cuối cùng.
Sau đó, cả ba chúng tôi đặt một chiếc ghế tựa trên đường ray, nằm ngắm mây, được người qua đường chụp ảnh đưa lên mạng. Vào những dịp lễ hội tôn giáo trong làng, họ sẽ mua pháo hoa để đốt ngoài đồng, nghe nói khói và tro từ pháo hoa có thể giúp diệt sâu bệnh, chúng tôi nằm trên ghế tựa, hưởng sái ngắm pháo hoa cùng.
Lúc đó tôi mới nhận ra rằng, có lẽ rất nhiều người đã trải qua cả cuộc đời mình chỉ với những khoảnh khắc như thế.
Trước đây, tôi cũng từng hỏi bà cô, người dân trong làng thường làm gì khi rảnh rỗi giữa mùa vụ?
Bà ấy bảo tôi, họ sẽ tám chuyện về đủ thứ chuyện trong làng, trông nom con cháu, và nghe hát. Khi rảnh, ai cũng cố tìm cho mình những thú vui nho nhỏ để khuây khỏa.
Bỗng nhiên, tôi cảm nhận được một sự an nhiên trong những điều nhỏ bé ấy, hóa ra, đây mới chính là dáng vẻ thực sự của đồng ruộng.
"Ngày nào cũng ở ngoài ruộng ngắm mây, anh không thấy chán à?" Có lần, một nhân viên trong quán hỏi tôi như vậy.
Tôi lắc đầu. Chẳng hiểu sao, những đám mây tôi nhìn thấy cứ như những bức tranh liền nhau.
"Đó là vì anh có sức khỏe, có những trải nghiệm phong phú và bạn bè đều ở bên cạnh." Cậu ấy nói. "Như anh thì gọi là ở ẩn, nhưng nếu là những người sinh ra và lớn lên ở đây, họ sẽ muốn được đi ra ngoài và trải nghiệm thế giới."
Nằm trên ghế suy ngẫm về lời của cậu ấy, tôi chợt như quay lại những ngày tháng ở cửa hàng cũ, khi ấy, trong lòng tôi chỉ tràn ngập khao khát được đi đây đi đó, khám phá thế giới bên ngoài.
"Nếu, tôi chỉ nói là nếu thôi nhé," cậu ấy hỏi tôi, "ngoài kia vẫn còn một thế giới rộng lớn hơn nữa, một nơi mà anh chưa từng biết đến. Anh có muốn đi xem không? Anh có muốn lên đường một lần nữa không?"
"Cậu học đâu ra cái kiểu nói đó vậy?" Tôi ngạc nhiên hỏi.
"Trên mạng đấy."
Tôi suy nghĩ một lúc, nhưng không trả lời.
Khát khao của tôi đối với những điều chưa biết đã được thỏa mãn chưa? Tôi nghĩ là rồi, nhưng nếu một ngày nào đó tôi lại bước chân lên đường, chắc chắn sẽ không phải là chỉ để tìm kiếm thêm điều gì nữa.
Mà là để không đánh mất hiện tại.
Trời ngày một lạnh, và khi lại đứng trên cánh đồng, tôi chợt nhận ra ý nghĩa thực sự mà toàn bộ câu chuyện Bà mẹ đấu vật đã mang lại cho mình.
Tôi thực sự cảm thấy, cánh đồng này đã thuộc về tôi.
Trước đây, tôi luôn nghĩ trong lòng rằng mình chỉ đang giúp bà cô quản lý cánh đồng này, rằng một ngày nào đó, tôi sẽ trả nó lại cho bà ấy.
Nhưng lần này, mối liên kết giữa bà ấy và cánh đồng đã chấm dứt. Bà ấy đã bước sang một chương mới của cuộc đời, không còn vấn vương quá khứ nữa.
Và tôi, giờ đây chính thức tiếp nhận cánh đồng từ tay người chủ cũ của nó.
Lạ lùng thay, tôi có cảm giác rằng vào khoảnh khắc ấy, cánh đồng đã chấp nhận tôi.
Quả thật, ngay đêm hôm đó, tôi lại mơ thấy giấc mơ cũ.
Giấc mơ này gần như giống hệt giấc mơ trước, nhưng không rõ bắt đầu từ đâu. Đoạn mà tôi nhớ được là đang ở trong một hội trường lớn, ánh trăng chiếu xuống từ trên cao, sáng lạ thường, khiến tôi lập tức nhận ra, tất cả trước mắt đều là ảo ảnh.
Có vẻ tôi được đưa đến đây bằng tàu hỏa, sân ga bỏ hoang bên ngoài giờ đã bị những yêu ma quỷ quái chiếm giữ.
Thổ Địa ngồi đối diện tôi, bên cạnh là một hàng chồn, mỗi con giơ cao một biểu ngữ nền trắng chữ đen — loại này tôi thường chỉ thấy ở các công trình bị bỏ hoang, trên đó ghi những yêu cầu của người dân, đòi chủ đầu tư phải hoàn tiền.
Trên biểu ngữ có dòng chữ: Ngô Tà nhấn chìm nhà tôi, mười năm gây dựng tiêu tan, trời không dung thứ.
Tôi hơi bối rối, Thổ Địa pha cho tôi một tách trà thảo mộc, chậm rãi nói: "Khi anh bơm nước vào ruộng, có phải đã quên rằng còn cái hang của nhà chồn ở bên trong không?"
Tôi sững người, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng — chết tiệt, tôi thật sự quên mất.
Tôi nhìn sang đám chồn, chúng đều trừng mắt nhìn tôi, nhiều con chồn đực gần như không kiềm chế nổi định lao vào đánh nhau, nhưng bị những con chồn lớn giữ lại, ra hiệu là nếu tấn công tôi, chúng sẽ bị trả đũa bằng Hắc Kim Cổ Đao. Rất nhiều con chồn cái ngồi bên cạnh, nước mắt ngắn dài.
"Ngập rồi à?" Tôi lắp bắp, mơ màng trong cơn mơ, vẫn để ý rằng trên biểu ngữ của chúng viết sai vài chữ.
"Giờ đã thành hang ngập nước rồi." Thổ Địa nói: "Tôi đã bảo anh trồng giống lúa cạn rồi mà?"
"Chỉ đến mùa thu hoạch thì giống lúa cạn mới không cần nước chứ? Còn những thời gian khác vẫn cần nước mà." Tôi đáp.
"Ai nói thế? Lúa cạn trên mảnh đất này có thể trồng mà không cần nước suốt cả vụ." Thổ Địa nói.
Tôi thầm nghĩ, mấy tháng nay tôi bận trăm công nghìn việc, nào có thời gian để ý tới hang của chồn. Nào là giúp đỡ người khác, cày bừa chăm chỉ, khủng hoảng tài chính, rồi lại cả giải quyết bạo lực, giành chức vô địch – quá nhiều việc để lo, làm sao tôi lại phải quan tâm đến đám chồn này chứ? Rốt cuộc ai mới là Thổ Địa ở đây?
"Thôi nào, thật sự là tôi quên mất, các anh em, giờ tính sao đây? Để người anh em là tôi xin lỗi trước đã." Tôi đành xuống nước.
Thổ Địa giơ tay: "Anh xem, chuyện của đám chồn này, tôi chỉ đưa chúng đến để phản ánh chút thôi, thật ra tôi đã giúp anh xử lý rồi. Lát nữa, anh và chúng cứ bàn bạc mà tính chuyện đền bù đi nhé."
Đám chồn giơ đủ kiểu cử chỉ thô lỗ về phía tôi rồi lần lượt bỏ đi. Chỉ còn lại một chú chồn nhỏ, bỗng dưng ló đầu ra từ sau lưng bố mẹ, giơ lên một tấm biểu ngữ màu hồng nhạt với dòng chữ: "Cứ làm điều mình cho là đúng, hãy là chính mình." Ngay sau đó, nó bị bố mẹ kéo đi mất.
Thổ Địa chỉ tay lên đầu mình, lúc đó tôi mới nhận ra tóc anh ta đầy côn trùng. Anh ta nói: "Vấn đề của tôi còn nghiêm trọng hơn này, xem anh giải quyết sao đây!"
"Đây là cái gì vậy?" Tôi tiến lại gần xem, nhận ra đó toàn là con rầy nâu.
"Anh chính là Thổ Địa của mảnh đất này thật." Tôi lẩm bẩm: "Có gì mọc trên ruộng thì mọc trên đầu anh. Sao tóc anh không mọc xanh lên luôn đi cho rồi?"
"Trông thế này chẳng ra thể thống gì cả." Anh ta nhìn tôi nói: "Xem như đã giúp anh trấn an đám chồn vàng, mong là anh có thể xử lý chuyện này nhanh chóng."
Tôi chỉ đành gật đầu đồng ý, sau đó trở lại sân ga. Trên sân ga có vài vị thần tiên xa lạ, họ đều mang theo ô và đứng đó lặng lẽ chờ tàu. Tôi nhìn quanh nhà ga, nhận ra đây là một điểm dừng mà ở giấc mơ trước tôi chưa từng đến.
Phúc Kiến là vùng đất ngàn thần, nửa thành phàm tục nửa thành tiên giới, nói ngàn thần còn là khiêm tốn. Tôi không đợi tàu mà chọn đi bộ về, nhưng xung quanh nhà ga chỉ là hư không, dù tôi có đi mãi cũng không ra khỏi sân ga rộng vô tận này.
Sau đó, tôi tỉnh dậy.
Bữa sáng vẫn là những món quen thuộc như quẩy, bánh bao hấp, sữa đậu nành và mì nấu, Bàn Tử vừa cầm chiếc quẩy nóng hổi vừa xuýt xoa, ăn một cách hào hứng, rồi hỏi tôi: "Tiếp theo làm gì đây?"
"Tối qua tôi nằm mơ, Thổ Địa bảo tôi trị sâu bệnh." Tôi nói với Bàn Tử: "Sau đó, chúng ta còn phải bắt sâu."
"Tốt quá, Thổ Địa hiển linh thật." Bàn Tử thở dài. "Nhưng mà, hôm qua tôi ra ruộng xem, tôi nghĩ chúng ta không cần bắt sâu nữa, giờ phải gọi người đến đốt ruộng luôn."
"Là sao?"
"Nếu gặp sâu bệnh, lúa chết hết thì rút hết nước trong ruộng, sau đó đốt cả ruộng lúa đi. Năm sau sẽ ít trứng sâu hơn."
Tôi cười: "Đừng có hù tôi, có đến mức đó không?"
Bàn Tử vừa nhai quẩy vừa đáp: "Hừ, tôi phóng đại, bây giờ tôi nói gì cũng sai, tôi không nói nữa, tôi ăn xong rồi đi ngủ."
Tôi nhìn Bàn Tử ăn vài miếng rồi quay về phòng, trong lòng bắt đầu lo lắng, lại nhớ đến giấc mơ đêm qua, bèn vội vã ăn sáng xong để ra đồng.
Nhìn từ xa, ruộng trông rất đẹp, không có vấn đề gì, thầm mắng Bàn Tử hù dọa vớ vẩn. Nhớ lại cách Bàn Tử dạy tôi kiểm tra sâu bệnh, tôi bèn cởi giày xuống ruộng, đi về phía sâu trong ruộng, kết quả là vừa đi đã thấy xong đời rồi.
Tôi ngay lập tức phát hiện, hầu như gốc cây lúa nào cũng có trứng của côn trùng nhỏ, dày đặc như hạt vừng, không có gốc nào thoát được. Tôi lấy nước tạt vào, lập tức sâu bọ rơi xuống rào rào như mưa.
Tôi chạy sang các thửa ruộng khác, nhận ra tình trạng đều như vậy, từ ruộng bên đường đến ruộng sát núi, tất cả đều bị nhiễm sâu bệnh nặng nề.
Tôi nhìn những ngọn đèn "trời tối mời nhắm mắt" kia, cứ tưởng đèn hỏng, nhưng đèn vẫn ổn. Đúng lúc tôi còn đang bối rối, giọng của Bàn Tử từ trên bờ truyền xuống: "Đốt ruộng không, ông chủ?"
Tôi quay sang nhìn Bàn Tử: "Anh phát hiện ra từ khi nào?"
"Cần gì phải phát hiện? Suy luận là đủ rồi." Bàn Tử nói: "Ong đỏ không ăn tất cả các loại lúa, nếu là loại không hợp khẩu vị của nó, thì nó sẽ bỏ qua, rồi phát triển mạnh."
"Bàn Tử, phải làm sao bây giờ, anh đừng nói mát nữa, tôi biết anh có cách mà." Tôi nói.
"Phun thuốc." Bàn Tử nói, "Có thể giải quyết vấn đề ngay lập tức, hoặc là cậu có thể tiếp tục tự tay xử lý, nhưng với tình trạng này thì không thể kéo dài thêm vài tuần nữa đâu. Tôi tôn trọng hiện thực, cậu cần lãng mạn, sự lãng mạn của cậu có thể kéo dài thêm hai tuần nữa đó, nhưng cuối cùng sẽ đốt ruộng, đây là lời nhắc nhở cuối cùng của tôi."
Tôi nhìn Bàn Tử, rõ ràng hắn không nói đùa, hắn thực sự cảm thấy không còn cách nào khác, nhún vai với tôi.
"Bàn Tử, kinh nghiệm của anh phong phú như thế..."
"Này, này, này, thôi đi, kinh nghiệm của tôi đơn giản chỉ là phun thuốc mạnh mẽ mà thôi. Tôi không có kinh nghiệm làm phức tạp hoá vấn đề bằng chủ nghĩa lãng mạn." Bàn Tử thở dài, kéo tôi ra khỏi ruộng, hiếm khhi đưa cho tôi một điếu thuốc, "Cho cậu ba ngày suy nghĩ, ba ngày sau, nếu cậu không có cách nào, Bàn Gia sẽ phải sắp xếp phun thuốc, dù gì Bàn Gia cũng có cổ phần, đúng không, không thể để khoản đầu tư này bị lãng phí.
Tôi rửa sạch tay đầy sâu bọ trong ruộng, nhận điếu thuốc mà cũng chẳng có tâm trạng để hút.
"Chỉ cần cậu có cách, Bàn Gia nhất định sẽ hỗ trợ cậu, hy vọng cậu có thể một lần nữa tạo ra kỳ tích."
"Lần này là 'Lúa nước đấu vật' đúng không?" Tôi nói.
Bàn Tử gật đầu: "Hai việc này là cậu rước về, có thể đặt tên như vậy, cậu tiếp tục quay cuồng đi."
Anh muốn nói tôi cam lòng ư? Tất nhiên là tôi không cam lòng rồi.
Nhưng thái độ của Bàn Tử rất rõ ràng, hắn cho rằng không dùng thuốc trừ sâu thì không thể hoàn thành việc trồng trọt. Cách trồng trọt theo phương pháp cổ xưa của tôi chỉ là một giấc mơ lãng mạn mà thôi. Hơn nữa, hắn đã biết điều này từ lâu, chỉ là để tôi tự trải nghiệm một lần, lười chẳng buồn phản đối. Bàn Tử còn nói thêm rằng, chủ yếu là do mảnh đất này quá lớn, Khoảng hơn một mẫu có lẽ còn được.
Tôi về nhà nằm trên giường, tự nhủ sao thời gian nông nhàn chưa được bao lâu mà đã đến mùa vụ bận rộn rồi, vừa hết áp lực thì lại đến nữa. Nhưng nhờ có kinh nghiệm cứu giúp bà cô lần trước, tôi lập tức điều chỉnh lại tâm trạng, bật dậy khỏi giường, nghĩ xem liệu việc huấn luyện bà cô thành cao thủ tán thủ thôn quê khó hơn, hay việc diệt sâu bọ khó hơn?"
Đây đều là những việc trái với logic.
Tôi xoa mặt mình, nghĩ rằng nếu đã làm được một lần thì nhất định có thể làm được lần thứ hai. Tôi ngồi dậy, mở máy tính, bắt đầu tìm kiếm các bài luận trên khắp thế giới để tìm giải pháp.
Sáng hôm sau, trong lúc ăn sáng, tôi trả lời Bàn Tử: "Không dùng thuốc trừ sâu nữa."
"Có cách rồi à?" Bàn Tử tỏ vẻ hào hứng với ý tưởng mới lạ của tôi, "Vẫn còn hai ngày trước khi hết hạn, cậu có muốn nghĩ thêm không?"
"Không cần, tôi đã có cách rồi." Tôi nói với Bàn Tử.
"Nói đi."
"Tôi định nuôi ong." Tôi nói.
Bàn Tử sững lại: "Tại sao?"
Tôi đáp: "Vẫn là kiểm soát sinh học, nhưng lần này chúng ta sẽ sử dụng một phương pháp cổ xưa và hiệu quả nhất."
"Thiên Chân, tôi nghĩ chúng ta bận lắm rồi." Bàn Tử gãi đầu, "Liệu có hợp lý không?"
"Nuôi ong cũng ổn mà!" Tôi giả bộ ngây ngô đáp.
Bàn Tử nói: "Người nuôi ong phải chạy theo hoa, phải đi khắp nơi, hơn nữa, ong ăn chay, không ăn thịt, làm sao mà diệt sâu bọ được?"
Chương 32: Ong
Tôi thấy hắn không hiểu, bèn nói: "Anh nghĩ đi, tôi kiên quyết trồng lúa hữu cơ, nên sâu bệnh cứ dai dẳng mãi, tôi phải vất vả không ngừng. Tôi cũng biết là phun thuốc có thể giải quyết vấn đề này, nhưng nếu làm vậy, những con ong nhỏ đang nỗ lực giúp chúng ta diệt sâu sẽ chết theo. Vậy chẳng phải là hành động bội bạc hay sao? Đạo đức không cho phép tôi hành động như thế, nên tôi buộc phải theo đuổi con đường kiểm soát sinh học đến cùng. Trong những đêm trăn trở không ngủ, tôi đã suy nghĩ và cuối cùng nghĩ ra một cách gián tiếp nhưng hiệu quả—nuôi ong."
"Ong không thể diệt sâu, nhưng kiến lại có hiệu quả diệt sâu rất tốt. Tôi nuôi ong chỉ để cung cấp thức ăn cho kiến. Trong tổ ong có rất nhiều mảnh sáp, bên trong sáp sẽ nở ra một loại sâu gọi là sâu sáp, chúng gây hại cho ong và thậm chí làm suy yếu cả đàn vào mùa thu, dẫn đến số lượng giảm đi. Nếu không đủ ong để qua mùa đông, khi Xuân đến tổ ong sẽ bị tiêu diệt. Mà mảnh sáp và sâu sáp lại chính là nguyên liệu xây tổ và thức ăn yêu thích của kiến." Tôi nói. "Anh biết sâu sáp chứ? Tên khoa học của nó là ấu trùng sáp bướm."
"Tôi biết, sâu sáp như 'tượng' ấy mà." Bàn Tử cười: "Thời Tam Quốc cũng có điển tích nổi tiếng đấy."
Tôi sững người một chút, không hiểu lắm, nhưng vẫn tiếp tục nói, "Chúng ta sẽ đặt các thùng nuôi ong dọc bờ ruộng, tổng cộng là bảy thùng, rồi đặt tổ kiến ở bờ ruộng bên kia, cũng bảy tổ. À đúng rồi, có các nhà cung cấp chuyên về kiểm soát sinh học bán tổ kiến nguyên con đấy. Tổ kiến và thùng ong sẽ đối diện nhau, rồi tôi sẽ dùng dây câu cá nối từ thùng ong đến tổ kiến, tiếp tục giăng thêm các dây câu giữa các điểm để tạo thành mạng lưới, cuối cùng bôi bùn lên đó cho khô."
"Sau đó thì sao?"
"Vì mùi của sáp trong tổ ong rất hấp dẫn đối với kiến, nó có thể kích thích sự thèm ăn của chúng. Thêm vào đó, chúng thích ăn sâu sáp, nên bắt buộc phải bò dọc theo dây câu cá từ đầu ruộng bên này đến tổ ong bên kia. Trên đường đi, chúng có thể vào thẳng khu vực có sâu bọ trong ruộng lúa, chỉ trong khoảng một tuần là có thể dọn sạch tất cả sâu bệnh."
"Cậu bịa ra à?"
"Tôi có tìm hiểu tài liệu, ngày trước ở huyện Phong Khai có một thí nghiệm tương tự. Người ta phát hiện kiến đen thường làm tổ trên cây thông, nên họ chặt cả tổ kiến cùng cành cây xuống cắm vào ruộng. Kiến sẽ lần theo các thân lúa đan xen nhau để tiêu diệt hết sâu bọ trong ruộng." Tôi giải thích. "Họ dùng bảy tổ kiến cho một mẫu ruộng. Nhưng vì không có loại kiến biết làm tổ trên cây ở đây, chúng ta sẽ dùng kiến đen bản địa, vốn rất mê mùi sáp và ấu trùng sáp trong tổ ong. Theo đó, chúng sẽ leo dọc dây câu để tìm đến tổ ong, và trên đường đi, kiến sẽ vào ruộng và dọn sạch sâu bệnh. Trong vòng khoảng một tuần là sạch sâu."
Bàn Tử lặng người một lúc, rồi chậm rãi nói: "Không ngờ lại phức tạp như thế. Nhưng cậu nói đi, tại sao giờ ong đỏ không làm được mà kiến lại làm được?"
"Anh biết mỗi tổ kiến có bao nhiêu con không? Lượng ăn khác hẳn nhau, ong đỏ mỗi ngày chỉ ăn hai mươi con rầy trắng, còn kiến thì không phải vậy."
Bàn Tử lại im lặng. Tôi thúc giục: "Vậy anh thấy ý tưởng của tôi có khả thi không?"
"Cậu cần bao nhiêu tiền?" Bàn Tử chăm chú nhìn tôi, hỏi.
"Tôi không đụng đến tiền của quán đâu, số tiền này tôi sẽ tự xoay xở, sao nào?" Tôi đáp, "Chỉ cần anh góp sức, chúng ta cùng thử xem."
Bàn Tử nhìn tôi, bỗng nhíu mày: "Cậu còn có tiền riêng đấy à?"
"Không có, nhưng mặt dày mà." Tôi đáp, "Mua vài con côn trùng thì tôi cũng có cách xoay sở."
"Cách gì?"
"Mua chịu."
Bàn Tử nhìn tôi như thể tôi vừa hóa điên: "Mua chịu ong á?"
Một tổ ong tiêu chuẩn gồm một ong chúa, khoảng 11.000 ong thợ và cầu ong có giá tầm 900 tệ. Tất nhiên, nếu số lượng ong thợ ít hơn thì giá sẽ rẻ hơn, nhưng vì thửa ruộng này, tôi không muốn tiết kiệm chỗ tiền đó. Từ khi cảm giác như thửa ruộng này thuộc về mình, tôi bỗng như biến thành một kẻ biến thái, muốn trồng đầy khắp các góc ruộng.
Nếu tính mỗi mẫu đặt bảy thùng ong, thì riêng chi phí ong đã lên đến hơn 6.300 tệ mỗi mẫu. Huống hồ tôi có tới ba mươi mẫu đất, đây thực sự là một khoản lớn đối với tôi.
Thêm vào đó, tôi cần một lượng lớn cây có tuyến mật - thực ra, nhiều khi ong không nhất thiết phải hút mật từ hoa; nhiều loại cây có tuyến mật trên lá cũng có thể dùng để sản xuất mật, tạo nên một hệ sinh thái cộng sinh, thu hút kiến đến ăn tuyến mật và tiện thể diệt sâu bọ.
Ý tưởng kiểm soát sinh học của tôi bắt nguồn từ đây.
Không giống như ong, vốn có cả một ngành công nghiệp hỗ trợ, kiến phải mua từ trại nuôi kiến chuyên dụng, và kiến không bán theo thùng mà phải tự hỏi giá tại chỗ, chắc cũng không rẻ.
Làm thôi.
Tiếp tục cố gắng thôi! Tôi nghĩ bụng.
Trước đây, suýt nữa thì mất sạch gia sản, lấy được mảnh đất như thế này, không diệt trừ sâu hại, mùa vụ thất bại, Bàn Tử sẽ đuổi giết tôi mất.
Chương 33: Phiếu giảm giá trị giá 200.000
Thực sự mà nói, với ba mươi mẫu đất thì số tiền chi cho ong đã gần hai trăm nghìn tệ, đúng là một áp lực không nhỏ. Nếu muốn dùng "uy tín" để giảm bớt chi phí, tôi phải đến tận trại ong gần chúng tôi nhất để trực tiếp thương lượng. Tìm hiểu xong, tôi phát hiện trại ong gần nhất ở Hà Phố.
Sau một hồi suy tính, cân nhắc xem nên bảo Muộn Du Bình hay Bàn Tử đi cùng, cuối cùng tôi quyết định mang Bánh theo. Land Cruiser phải ở lại để chăm sóc Như Cách Ba Thu, mà Bánh lại tròn trịa, đáng yêu, có thể giúp tăng độ thân thiện của tôi.
Nhưng Bánh hơi say xe, cứ nằm vật ra ghế sau. Thế là một người một chó, chúng tôi lao thẳng đến Hà Phố.
Hà Phố nổi tiếng với bãi bồi và hoàng hôn. Trước đây, tôi từng làm một phi vụ lớn ở đây, nhưng lần này quay lại lại có chút xa lạ. Khi đến nơi, vừa đúng lúc hoàng hôn buông xuống. Ven biển có một con đường dẫn ra xa tới bãi bồi, tôi đỗ xe bên quốc lộ, trèo qua lan can tiến ra bãi bồi. Đi qua một khu ao rộng vài trăm mét nuôi cá và trai, xung quanh là bãi lau sậy cao ngang đầu người, muỗi rất nhiều. Biển phía xa bị che khuất, chỉ có thể nhìn thấy bầu trời rực rỡ ánh chiều tà.
Tôi mang theo Bánh, đi men theo bờ ruộng, tiếp tục vào sâu bên trong. Đi qua cánh đồng lúa, trước mắt là một đồng cỏ rộng lớn không biết tên.
Đồng cỏ này có vẻ chịu được mặn và kiềm, cao gần bằng nửa người, kéo dài vài ki lô mét vuông, ở giữa có một con đường nhỏ ẩn giấu. Gió biển ở đây rất mạnh, chúng tôi có thể nhìn thấy hoàng hôn.
Toàn bộ đồng cỏ mang màu hồng đậm.
Chúng tôi men theo con đường nhỏ đi đến mép đồng cỏ, nơi nối liền với một vùng đất bùn rộng lớn. Ở xa xa, có rất nhiều chòi câu cá, chỉ là những cọc gỗ hình chữ L, nhiều ngư dân ngồi trên đó.
Ánh chiều tà khiến toàn bộ bãi bùn rực lên như lửa cháy, phối với nước biển đen xa xa, tạo nên một cảnh tượng nhân gian tuyệt đẹp.
Tôi tìm một tảng đá ngồi xuống, Bánh bị mấy con cua thu hút, bắt đầu đuổi theo cua, nghịch ngợm ở bên cạnh.
Tôi ngồi thẫn thờ một lúc, đợi đến khi hoàng hôn trở nên đẹp nhất, tôi lấy điện thoại ra, cẩn thận chụp một bức ảnh rồi gửi vào nhóm của ba chúng tôi.
Ngay sau đó, Bàn Tử nhanh tay gửi một tấm ảnh chụp Muộn Du Bình ngồi trên mái của quán, đang sửa lại mái che mưa, bầu trời của họ ngập trong mây và ánh hoàng hôn rực rỡ, khiến cả bầu trời tràn ngập sắc màu.
Họ đang sửa lại những chỗ bị hư hỏng trong quán.
Sau đó, Bàn Tử lại tự chụp một tấm selfie, hắn cũng đang ở trên mái nhà, bên cạnh là đủ loại dưa muối mà hắn phơi, còn có rất nhiều đèn lồng.
Ồ, đột nhiên tôi nhớ ra, mấy ngày nay có lễ hội địa phương gì đó, quán cũng phải trang trí lại, đáng ra tôi nên ở lại quán để giúp đỡ, nhưng họ lại để tôi ra đây bận rộn với mấy con ong.
Thật sự là họ rất chiều chuộng tôi, hoặc có lẽ, tôi quá giỏi gây rắc rối, đến mức hiện giờ họ không muốn nhìn thấy tôi.
Thực ra, đến bây giờ tôi vẫn không biết phải làm thế nào để mua ong chỉ bằng bản mặt của mình, tôi chỉ chạy ra biển để trốn tạm một lúc, nghe âm thanh của sóng biển.
Nơi tôi định đến là một trại ong nằm ở phía bên kia quốc lộ, có một con đường nhỏ dẫn thẳng lên núi. Nghe nói ở đó có một vườn hoa rất lớn, được một nhóm cô gái trong làng cùng nhau quản lý. Nắng ở Hà Phố rất đẹp nên hoa cỏ cũng phát triển tươi tốt.
Sau này, vài trại ong khác cũng mở thêm xung quanh, mọi người cùng nhau hợp tác và hưởng lợi.
Đến khi mặt trời lặn hoàn toàn, tôi vẫn chưa nghĩ ra cách nào, nhưng thời gian hẹn với trại ong đã gần đến
Tôi nhìn sang Bánh, nó cũng tròn mắt nhìn tôi với đôi mắt to lấp lánh, toàn thân nó dính đầy hạt giống của cây phụ tử.
Nếu ở Chiết Giang thì chắc chắn sẽ toàn là hạt cây cỏ may, nhưng ở vùng biển thì lại dính phải mấy thứ giống hạt dưa, không biết là gì, vừa cứng vừa nhọn, nhìn sơ qua chắc có đến cả vạn hạt, gần như phủ kín cả người Bánh.
Nó lại còn ra vẻ không sao cả, nhìn tôi với vẻ nịnh nọt, dường như tự thấy mình rất xinh đẹp.
Tôi giúp nó gỡ hết mấy thứ dính trên người, tay bị xước mấy chục vết, mà phải mất gần tám tiếng mới có thể làm sạch hoàn toàn.
"Mày nói tao nghe xem, cả ngày mày nghĩ gì vậy?" Tôi nói với nó: "Bảo là mày biết trông nhà, giữ sân, tuần tra núi, thì mày thật sự chỉ biết trông nhà, giữ sân, tuần tra núi thôi. Sao mày không cố gắng một chút, học Python hay gì đó, ra ngoài kiếm thêm thu nhập phụ giúp gia đình đi."
Bánh tưởng tôi đang khen nó, vui vẻ xoay vòng.
"Được rồi, khi nào về nhà tao sẽ dẫn cả ba đứa đi săn." Tôi nói: "Doanh nghiệp cần cải cách, tất cả sinh vật trong trang trại đều phải tham gia sản xuất cho đến khi khủng hoảng tài chính được giải quyết."
Bánh nghiêng đầu nhìn tôi, với vẻ mặt rất thú vị, khiến tôi cảm giác tuy nó giả vờ ngốc nghếch nhưng thực ra hiểu hết. Dường như ánh mắt nó đang nói: "Chính anh mới là cái khủng hoảng tài chính đấy mà? Chỉ cần anh không tham gia sản xuất, khủng hoảng tài chính sẽ tự động được giải quyết."
Tôi gãi đầu, dẫn nó đi về, trời đã tối hoàn toàn, chỉ còn vài ngọn đèn đường thưa thớt chỉ dẫn đường về.
Tất cả ruộng đều có người trông coi, họ dựng những căn chòi nhỏ bằng tấm gỗ năm lỗ ở cạnh ruộng, bên trong có một ông lão đang ngồi, vừa nghe radio vừa lặng lẽ trải qua đêm dài.
Trên đường, tôi đã nghĩ ra cách để hoàn thành việc này.
Tôi lái xe băng qua quốc lộ, đến trại ong.
Trong trại có nhiều người nuôi ong, mỗi người có một căn nhà nhỏ trông giống như container, với những thùng ong xếp xung quanh.
Bên trong căn nhà nhỏ có một chiếc giường, một bàn làm việc nhỏ và một chiếc máy tính nhỏ.
Còn có một chiếc chảo vệ tinh nhỏ để thu sóng truyền hình CCTV, thường chỉ xem được các chương trình thể thao của CCTV 5.
Tiếng ong vo ve xung quanh có lẽ tượng trưng cho sự giàu có, còn Bánh thì luôn cố đuổi theo mấy con ong, nhưng tôi gọi nó lại. Cái cổ to của nó không thể nào đeo nổi cái vòng chống liếm gì đó.
Ông chủ của trại ong không sống ở đây, chỉ đến để gặp tôi. Ở khu vực giữa các căn nhà container có một đống lửa, bên cạnh là bàn trà, nhiều người ngồi xung quanh trò chuyện. Một người đàn ông trung niên mập mạp, dáng người thấp bé, chỉ khoảng mét rưỡi, đang pha trà.
Tôi bước tới, ông ta nhìn tôi, gật đầu: "Anh Ngô?"
"Ông Phùng." Tôi cũng gật đầu, ông ta tiếp tục dùng giọng địa phương hỏi: "Anh đến để mua thùng ong à?"
Tôi gật đầu, ông ta lại nhìn tôi: "Nhìn anh không giống người làm trong ngành này."
Tôi lại gật đầu, rồi nói: "Và tôi cũng chẳng có tiền, bất ngờ không, ngạc nhiên không?"
"Anh Ngô đúng là hài hước." Ông Phùng hơi bất ngờ, có vẻ không hiểu sao tôi lại đùa như vậy, nhưng vẫn đáp lại bằng kiểu xã giao truyền thống, bầu không khí trở nên hơi ngượng ngùng.
"Không, tôi nói thật đấy." Tôi nghiêm mặt nhìn ông ta, ông ta thì nhìn lại tôi với vẻ bối rối, cố gắng làm dịu bầu không khí ngượng ngùng.
Những người làm ăn thường không thích vòng vo, nhưng họ cũng hiểu rằng mỗi người một tính cách, không thể cứ dựa vào hành động của người khác mà chọn đối tác, bởi suy cho cùng, tiền bạc vốn chẳng có cá tính gì.
Tôi từ tốn nói: "Tôi có một mô hình kinh doanh mới. Ông xem, ở đây ông đã có nhiều thùng nuôi ong rồi. Dù bên cạnh là khu vườn đầy hoa, nguồn mật phong phú, nhưng nguồn này rồi cũng sẽ đến ngày cạn kiệt, đúng không?"
Ông Phùng lập tức hiểu ra tôi thực sự không có tiền, khuôn mặt ông ta trở nên tối sầm lại, nhưng với bản chất của một người làm ăn, ông ta vẫn giữ được sự điềm đạm, không vội đuổi tôi đi.
Tôi tiếp tục: "Ông cho tôi mượn 100 thùng ong. Tôi có nguồn mật, mật ong từ 100 thùng này chúng ta chia đôi. Tôi không cần ông trả công nhân công, ông có thể tính xem."
"Anh có nguồn mật à?" Ông Phùng nhìn tôi một lần nữa: "Lúc nói chuyện điện thoại, anh bảo chỉ có ruộng lúa. Ruộng lúa thì làm gì có mật."
"Ruộng lúa cũng nở được hoa mà."
"Anh đúng là ngoại đạo thật. Thứ nhất, mùa lúa trổ bông còn lâu mới tới; thứ hai, đến khi lúa nở hoa thì ong cũng chuẩn bị ngủ đông rồi; thứ ba, lúa có phấn hoa nhưng không có mật." Ông Phùng ra hiệu cho tôi uống trà rồi giải thích thêm: "Một thùng ong của tôi, nếu đi giúp thụ phấn, thì phí thuê đã là 700-1000 tệ mỗi năm, và mật sản xuất ra vẫn là của tôi. Mỗi năm nếu cho thuê hai đợt, một đợt 700 tệ thì một năm đã là 1,400 tệ. Tôi có 100 thùng, một năm thu nhập ổn định khoảng 80,000 tệ. Chưa kể," ông ta chỉ vào góc phòng, "tôi còn livestream nuôi ong, bán mật ong trực tiếp. Doanh thu từ đó còn cao hơn nhiều, tiền quà tặng rồi bán lẻ, mỗi năm thêm 70,000 tệ nữa. Giờ ngay cả sữa ong chúa tôi cũng tự bán lẻ. Với số lượng thùng ong này còn nhiều hơn thế, anh nói xem tôi kiếm được bao nhiêu mỗi năm?"
"Vậy nên ông bán thùng ong là vì nguồn mật không đủ, đúng không? Nếu thu nhập tốt như thế, sao ông lại muốn bán?" Tôi nói.
Vẻ mặt của ông Phùng thoáng thay đổi, tôi biết mình đã đoán đúng.
Khi nguồn mật không đủ, ong sẽ bắt đầu có hiện tượng cướp mật, tức là ong của các tổ khác không đi lấy mật mà xông vào tổ khác để cướp. Khi đó, hai tổ sẽ xảy ra chiến tranh, thậm chí có thể giết chết ong chúa. Đôi khi, trong quá trình hỗn loạn bảo vệ ong chúa quá mức, ong chúa sẽ bị bao vây đến ngạt thở mà chết.
"Ở đây nguồn mật dồi dào, anh em làm nghề này lẽ ra phải đi khắp núi đồi tìm hoa, nhưng ở đây thì dễ dàng hơn nhiều, nên các anh không cần mở rộng nữa. Khi ong có đủ thức ăn, chúng sẽ bắt đầu chia đàn. Ong chúa mới hình thành đàn mới, và sự cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt," tôi nói. "Vì thế các anh phải bán bớt các đàn ong mới tách ra mỗi năm. Giờ đã là mùa thu, cũng là đợt cuối cùng rồi. Nếu không bán được, vào mùa đông sẽ có nhiều ong chết. Đến mùa xuân năm sau, nếu muốn bán thì phải đợi đến khi đàn ong phục hồi, có khi phải đợi đến tận cuối mùa xuân. Đối với người làm chăn nuôi, đâu cần mất công chờ đợi lâu đến vậy, đúng không?"
"Anh không có đồng nào, nói hay đến đâu cũng vô ích thôi." Ông Phùng nói. "Cuối cùng là anh muốn tôi cho không, mà tôi thì chắc chắn không bao giờ làm vậy. Tôi thà để đám ong này chết hết cũng không tặng không cho anh."
"Không, sao lại là cho không chứ?" Tôi cười với vẻ mặt gian thương: "Ruộng bên tôi, hai bên là những dãy núi liền kề, trong núi có rất nhiều nguồn mật tự nhiên. Thế này nhé, ông chuyển thùng ong của ông đến chỗ tôi, vẫn kịp thu một đợt mật mùa Thu. Bây giờ tôi thực sự khó khăn về tài chính, nhưng tôi có một quán ăn nhà vườn, doanh thu hàng năm cũng không tệ. Ông nhìn đi, đây là cái gì?"
Tôi lấy ra một tập phiếu quà tặng của quán, tổng giá trị lên tới khoảng 200.000 tệ, đưa cho ông ta: "Tôi lấy cái này làm vật thế chấp. Nếu năm sau tôi không trả đủ tiền mua thùng ong cho ông, ông có thể bán những tờ phiếu này lên mạng. Tôi thề với trời, vào mùa cao điểm, quán chúng tôi làm ăn rất phát đạt."
"Toàn là anh tự in mà." Ông Phùng không khỏi ngạc nhiên trước cách tôi xoay xở: "Trời ơi, ông chủ Ngô, anh đúng là người trời!"
"Sao thế?"
"Mặt dày thật." Ông ta lẩm bẩm.
"Tôi nghĩ cách này vẫn có hiệu quả mà." Tôi tiếp tục tẩy não ông ta.
Ông ta nhấp vài ngụm trà, ánh mắt sắc sảo đặc trưng của một thương gia Phúc Kiến lóe lên, từ tốn nói với tôi: "Được rồi, những gì anh nói cũng có chút hợp lý. Tôi có thể đến xem thử chỗ của các anh xem có phù hợp để đặt ong không. Nếu thấy ổn, tôi sẽ chuyển các thùng ong qua đó, nhưng trong thời gian này, nếu có khách hàng nào khác đến mua, tôi vẫn sẽ bán. Cứ coi như tôi tạm để ong ở đất nhà anh. Nếu đến trước mùa Đông vẫn chưa bán được, thì làm theo điều kiện của anh. Mật ong thu được mùa Thu chia đôi, và nếu anh thanh toán toàn bộ số tiền trước mùa Hè năm sau, số ong này sẽ thuộc về anh."
Đây là kiểu cả hai đều có lợi, nhưng hiện tại tôi cũng không có cách nào khác, bèn gật đầu đồng ý ngay: "Được, cứ quyết thế đi."
Ông ta quan sát tôi kỹ lưỡng, dường như muốn tìm chút dấu vết lừa đảo nào đó trên mặt tôi, nhưng lúc ấy, Bánh bất ngờ chạy lại, vừa rên rỉ vừa tỏ vẻ rất tội nghiệp. Tôi nhìn xuống, thấy mặt nó đã bị ong chích, giờ trông như một chiếc bánh bao phồng to.
Tôi vội vàng ôm Bánh lên, nghĩ thầm rằng đây là trúng phải "Diện Mục Toàn Phi Cước"(1), giờ biết tìm đâu ra "Hoàn Ngã Phiêu Phiêu Quyền"(2) cho nó đây.
Ông Phùng nhìn tôi với chú chó, cuối cùng cũng không thay đổi ý định, có lẽ là nhờ vào vẻ trung thành chất phác của Bánh, chủ nào tớ nấy.
Tôi lái xe suốt đêm về nhà, suốt dọc đường, Bánh tỏ ra ấm ức, kêu rên không ngớt. Vừa dỗ dành nó, vừa mắng nó.
Ngày hôm sau, ông Phùng đã đến nơi, tôi dẫn ông ta vào quán ăn một bữa rồi đưa ông ta đi thăm ruộng, dẫn ông ta lên ngọn núi sau nhà, ghé qua cả nhà ga bỏ hoang.
Tôi còn hỏi ông ta liệu các ruộng lân cận phun thuốc trừ sâu có ảnh hưởng đến đàn ong không. Ông ta đáp rằng vài năm gần đây chuyện này vẫn đang trong vòng kiện tụng, vì làm nông vốn đã vất vả, khó lòng quan tâm đến người khác, nhưng có thể bàn bạc với các nông dân xung quanh để họ pha thêm chất đuổi côn trùng vào thuốc trừ sâu. Tất nhiên, chi phí này sẽ do bên tôi chi trả, và vào những ngày phun thuốc, chỉ cần di chuyển thùng ong vào trong núi tránh vài ngày là được.
Ở đây chủ yếu là phun thuốc bằng tay, nên nếu quan hệ tốt với nông dân xung quanh thì có thể thương lượng. Nếu hiểu rõ loại thuốc trừ sâu được sử dụng, trong những ngày phun nhiều, còn có thể cho ong ăn thức ăn giải độc. Miễn là không phun thuốc bằng máy bay, đều có cách để giải quyết. Dù vậy, thiệt hại từ việc ong chết do thuốc trừ sâu mỗi năm vẫn là một phần không nhỏ.
Thời đại này là thế, không thể tránh khỏi.
Sau đó, ông Phùng chỉ vào đường ray rồi nói: "Thực ra anh có thể tận dụng tuyến đường sắt này. Nếu có xe chạy dọc đường ray, việc vận chuyển các thùng ong từ nhà ga bên trong ra cánh đồng bên ngoài sẽ trở nên thuận tiện hơn. Chỉ cần chuyển thùng ong sớm hơn một ngày trước thời điểm phun thuốc là có thể tránh được tác động."
Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói về cách sử dụng đường sắt vào mục đích thương mại. So với kế hoạch du lịch tôi từng nghĩ đến, cách này rõ ràng hợp lý hơn rất nhiều.
Nhưng hiện tại, quan trọng hơn hết là những con ong.
Khi các thùng ong được chuyển tới, chúng tôi trang bị đầy đủ, mặc đồ bảo hộ nuôi ong và bắt đầu sắp xếp các thùng, mất hẳn hai ngày mới xong. Trong lúc rảnh rỗi, tôi cứ lặp đi lặp lại việc xem lại các tin nhắn trên điện thoại và lướt qua các bài đăng trên mạng xã hội.
Lần nào tôi cũng không thể kiềm chế được mà nhìn chằm chằm vào bức ảnh mà Hạt Tử và Tiểu Hoa gửi cho tôi. Trong ảnh, họ đã nhuộm tóc. Rốt cuộc hai người này đang làm gì vậy? Từ những cuộc trò chuyện với họ, tôi nhận thấy họ ngày càng bận rộn hơn, và trong từng bức ảnh, vẻ mặt của Tiểu Hoa đang thay đổi rõ rệt. Mặc dù cậu ấy luôn duy trì vẻ ngoài bình tĩnh, nhưng với tư cách là người từng cùng cậu ấy trải qua nhiều việc lớn, tôi vẫn có thể nhận ra rằng trạng thái của Tiểu Hoa đang ngày càng căng thẳng.
Tôi có nhiều suy nghĩ không lành, nhưng tôi ngăn mình suy nghĩ sâu hơn. Tôi tự nhủ rằng, có lẽ mình chỉ đang lo lắng quá mức. Có vài lần tôi nhắn tin hỏi cậu ấy, cậu ấy chỉ nói rằng khi nào có cà rốt thì sẽ đến. Tự nhiên, tôi biết họ không sao. Tôi muốn trò chuyện với cậu ấy nhiều hơn, nên đã kể về chuyện nuôi kiến.
Tiểu Hoa nói: "Vậy thì cậu hãy chăm chỉ nuôi kiến đi. Khi nào việc nuôi kiến của cậu thành công, đó sẽ là lúc chúng ta gặp nhau. Nếu thực sự lo lắng cho chúng tôi, thì hãy làm nhanh lên."
Vì vậy, tiếp theo, tôi phải nhanh chóng giải quyết việc nuôi kiến. Tôi bắt đầu tìm kiếm trại nuôi kiến, việc này khó hơn nhiều so với tìm trại nuôi ong, vì số lượng của chúng rất hiếm. Tìm kiếm một thời gian, cuối cùng tôi cũng tìm thấy một trại nuôi kiến trong tỉnh Phúc Kiến, ở núi Vũ Di, cách đây rất xa. Tôi vẫn mang theo Bánh, với sự tự tin mù quáng của một người kinh doanh, lên đường.
-----
(1) Một chiêu thức hài hước xuất hiện trong bộ phim Đường Bá Hổ Điểm Thu Hương của Châu Tinh Trì.
(2) Cũng là một chiêu thức xuất hiện trong bộ phim Đường Bá Hổ Điểm Thu Hương.
Chương 34: Cao thủ gãi chân
Tôi lái xe đến núi Vũ Di, thực ra còn xa hơn cả lần đi đến Hạ Phố. Lái được một lúc, tôi tiến sâu vào núi, đường đi cuối cùng chẳng còn đường bê tông nữa mà chỉ là những lối mòn đường đất.
Chắc cũng lâu rồi không ai lái xe trên con đường đất này, nhưng tay lái của tôi cũng tạm ổn. Chỉ là đường có rất nhiều đá vụn nằm rải rác mà chẳng ai dọn, khiến tôi phải dừng lại nhiều lần để cẩn thận chuyển chúng sang bên lề. Cũng phải chú ý đề phòng không để đá lở từ trên núi rơi xuống trúng mình.
Khi lái đến đoạn đường núi cuối cùng thì đã là nửa đêm, bốn bề tối đen như mực, bất ngờ sương mù cũng xuất hiện. Tôi quyết định bật nhạc nền từ một trò chơi kinh dị lên, trải nghiệm trọn vẹn không khí này.
Kết quả là một cảnh tượng kỳ quái xuất hiện: Đèn xe của tôi bỗng chiếu lên trong màn sương, lộ ra bóng dáng một người.
Người đó đi với dáng vẻ không bình thường, đứng ngay giữa đường.
Tôi dừng xe lại, Bánh ngồi ở ghế phụ ló đầu ra, mặt sưng húp như đầu lợn, tò mò nhìn về phía trước.
Tôi nói với Bánh: "Ngoan ngoãn ở đây nhé, để tao ra xem sao." Rồi tôi mở cửa xe bước xuống, tiến về phía bóng người đó.
Tay tôi nắm chặt một ngòi nổ, bởi tôi không chắc có thể gặp phải nguy hiểm gì ở nơi hẻo lánh như thế này. Tôi luôn có thói quen chuẩn bị cho tình huống xấu nhất.
Lỡ đâu là một kẻ họ Uông nào đó đến tìm tôi báo thù thì sao?
Dù vậy, tôi cũng tự hiểu khả năng này không cao.
Đèn xe phía sau rọi thành một con đường sáng, tôi bước vào màn sương, ánh sáng từ từ lùi lại phía sau. Sương bất ngờ dày đặc hơn, khiến bóng người phía trước càng trở nên mờ ảo.
Tôi hướng về phía đó hét lên một tiếng, ngay lúc đó, tôi cảm thấy có ai đó vòng ra từ phía sau mình.
Quay đầu lại, tôi chỉ kịp thấy một bóng người nhanh chóng lùi vào trong màn sương, rồi biến mất.
Trong khoảnh khắc đó, tôi bỗng cảm thấy bóng người kia rất quen thuộc. Không hiểu vì sao, tôi lại thấy nó có chút giống với Thổ Địa trong giấc mơ của mình.
Tôi tự cấu vào người để chắc chắn rằng mình không đang mơ. Một cảm giác khó chịu dâng lên từ tận đáy lòng, khiến tôi cảm thấy bất an một cách kỳ lạ.
"Có lẽ là ảo giác." Tôi tự nhủ, nhưng sự cảnh giác trong tôi đã được kích hoạt hoàn toàn. Người tôi bắt đầu toát mồ hôi lạnh.
Quay lại xe, tôi cẩn thận kiểm tra kỹ một lượt để chắc chắn không có ai lạ trà trộn vào trong xe, rồi tiếp tục lái đi.
Nhìn vào điện thoại, tôi thấy chỉ còn hiển thị tín hiệu là H+. Tôi cố gắng gọi cho Bàn Tử, nhưng không thể kết nối.
Tôi tiếp tục lái, sương càng lúc càng dày, nhưng không còn thấy bóng người nào nữa.
Người nuôi kiến sống sâu trong núi, mà ở đây, cần phải nói rõ tình trạng con đường. Con đường đất này không phải là đường cụt, hai đầu đều thông ra đường lớn, nhưng người nuôi kiến lại ở chính giữa con đường này, nằm giữa vùng núi sâu hun hút.
Khi nhìn thấy cánh cổng sắt bên đường, tôi cảm thấy thật kỳ quái, tự hỏi sao lại có người sống ở nơi heo hút thế này.
Xuống xe, tôi mở cổng, sương mù dày đặc đến mức giơ tay lên cũng không thấy rõ. Tôi lái xe chầm chậm đi vào, con đường chỉ đủ một làn xe kéo dài, hơn một trăm mét nữa thì thấy một ngôi nhà bê tông.
Đó là kiểu nhà bê tông của nông dân, đèn tối om. Trước khi đến đây tôi đã không thể gọi điện được, nên cũng không rõ liệu nơi này có còn hoạt động không. Tôi nhớ là trước kia ở đây từng nuôi kiến, nhưng cơn sốt nuôi kiến đã qua từ lâu rồi.
Tôi từ từ tiến đến gần ngôi nhà, đứng trước cửa, chợt thấy trên cửa gỗ dán một bức tranh năm mới.
Trên bức tranh ấy là một hình ảnh khiến tôi lạnh cả sống lưng.
Đó là một bức tranh năm mới vẽ hình một con chồn, mặc bộ đồ trẻ con, đội mũ, tay cầm một quả dưa hấu, trông đầy vẻ yêu kiều và vui vẻ.
Thực lòng mà nói, con chồn này được vẽ khá vui nhộn, nhưng ai lại vẽ hình chồn trên tranh năm mới chứ? Đây chính là "chồn chúc tết gà"(1) mà?
Cả ngôi nhà tối đen như mực. Thường khi đánh giá tình hình kinh tế của một hộ nông dân, tôi sẽ nhìn vào phần mặt tiền của nhà họ. Có thể phân loại thành các dạng như không có mặt tiền, mặt tiền xi măng, mặt tiền ốp gạch, mặt tiền bằng gạch nghệ thuật, và mặt tiền gạch nghệ thuật viền vàng.
Ngôi nhà này chỉ có mặt tiền bằng xi măng, chứng tỏ người ở đây không giàu có lắm.
Tôi gõ cửa, thầm nghĩ rằng, nếu bên trong thực sự có người ở, thì giữa đêm khuya thế này mà có người đến gõ cửa, chắc họ sẽ giật mình chết khiếp mất.
Kết quả là tôi thực sự nghe thấy tiếng bước chân. Bước chân tiến lại phía sau cánh cửa, rồi một giọng nói vọng qua cửa: "Ai đấy?"
Nghe giọng miền Bắc, tôi lập tức thể hiện khả năng bắt chước, nói giọng Đông Bắc: "Là tôi đây, đại ca, người đến lấy mấy con kiến ấy mà."
Cửa mở ra, bên trong là một người da trắng nhợt, mặc áo ba lỗ, tay như củ nhân sâm, miệng còn ngậm bàn chải đánh răng. Anh ta còn đang đánh răng, nói lúng búng: "Tôi còn tưởng gặp ma chứ!"
"Đại ca, sao anh lại sống ở đây? Nuôi kiến ở đây tốt lắm à?" Tôi hỏi. Anh ta nhìn tôi một lượt, rồi mời tôi vào trong, bật đèn lên rồi nói: "Anh nghĩ gì vậy? Nếu có lựa chọn, tôi chẳng làm nghề này đâu!"
Tôi bước vào, thấy bên trong toàn là các hũ lớn, bên trong là kiến đen đã phơi khô. Căn phòng ấm áp, ở các góc có nhiều bếp than đang tỏa ánh sáng lờ mờ.
"Muốn bao nhiêu đây? Đêm hôm thế này đi mua kiến, nhà có người lớn bị phong thấp phải không?" Anh ta nói. "Nếu cần ít thì cứ bốc một nắm, còn nếu không đủ một bình thì tôi biếu luôn, không tính tiền."
"Sao toàn lò than thế này?" Tôi hỏi: "Có sợ ngộ độc không?"
"Tôi ngủ trên gác, không sao đâu. Trong núi ẩm thấp lắm, không có lò thì kiến không khô được, cứ ẩm mốc ra rồi có cho cũng chẳng dám ăn!"
Lúc đó tôi mới hiểu ra, khách hàng chính của anh ta đều là những người thu mua làm thuốc, cũng có không ít người dân quanh vùng đến mua kiến để ngâm rượu trị phong thấp. Ở Phúc Kiến, bệnh phong thấp rất phổ biến, đau nhức lên thì khổ vô cùng.
Anh ta kéo ghế mời tôi ngồi rồi hỏi: "Người anh em từ đâu tới thế? Nghe giọng thì như người phiêu bạt khắp nơi, pha cả giọng Đông Bắc, Phúc Kiến, Chiết Giang. Anh là tội phạm đang chạy trốn à?"
"Tôi ở Hàng Châu." Tôi đáp. Anh ta gật đầu, cởi dép rồi gãi chân: "128 tệ một cân, trả qua WeChat hay Alipay? Nếu lấy nhiều thì tôi giảm giá cho."
Tôi suy nghĩ một chút, nhận ra tình hình có hơi phức tạp. Đáng lẽ hiện giờ tôi nên bắt đầu trao đổi với anh ta về một mô hình hợp tác đôi bên cùng có lợi, nhưng đầu tôi lại toàn nghĩ đến bức tranh dán ngoài cửa.
Chuyện đó cứ ám ảnh tôi, khiến tôi không thể tập trung vào kế hoạch kinh doanh của mình.
"Vấn đề này để sau đi. Vừa nãy tôi thấy ngoài cửa có dán một tấm tranh Tết vẽ chồn. Tôi muốn hỏi tại sao lại dán loại tranh này? Mà tôi nghĩ loại tranh này không dễ mua đâu?" Tôi nói: "Xin lỗi nhé, thật ra tôi định tập trung vào việc mua kiến thôi, nhưng bức tranh đó nhìn hơi rùng rợn."
Người đàn ông Đông Bắc da trắng bỗng ngẩng lên nhìn tôi, châm điếu thuốc, có vẻ hơi ngạc nhiên, rồi nhanh chóng cười nói: "Anh bạn, anh có thể nhìn thấy tranh Tết dán trên cửa à?"
Nghe câu này, tôi lại đổ mồ hôi lạnh.
Anh ta ngửi ngón tay của mình rồi từ từ nói: "Đừng bận tâm đến thứ đó. Đấy là trò của mấy kẻ đến đòi nợ dán lên. 'Chồn chúc Tết gà' đấy mà, tôi chính là con gà của bọn họ."
Tôi ngẩn người một lúc, hoàn toàn không ngờ lại là câu trả lời này.
Anh ta nói tiếp: "Chúng nó làm trò dọa người thôi, chắc mới dán lên đây. Giờ nhà nước siết chặt kiểm soát, chúng không thể động đến tôi nên ngày nào cũng nghĩ cách làm mấy chuyện khó chịu như thế này để trêu tức."
Tôi nghĩ ngợi một lúc, rồi chợt nhớ lại bóng người vừa thoáng thấy trong màn sương dày khi nãy. Chết tiệt, chẳng lẽ đó là người của bên cho vay nặng lãi? Nhưng sao lại thấy tôi thì bỏ chạy nhỉ? Không muốn bị bắt quả tang chăng?
"Nếu mà tôi bắt gặp hắn tại chỗ, chắc chắn tôi sẽ ấn hắn vào đống kiến." Người đàn ông Đông Bắc trắng nhợt nói, sau đó nhìn tôi nghi ngờ: "Không phải là cậu dán đấy chứ?"
"Không, không, không phải tôi." Tôi đáp, nghĩ thầm rằng nếu là tôi thì ngay sáng hôm sau anh ta mở mắt ra sẽ thấy mình bị chôn trong một ngôi mộ rồi, không trả nợ thì ở đó cả đời đi nhé.
Chợt nghĩ đến sự độ lượng và vĩ đại của Giải Vũ Thần, tôi thầm ngợi khen cậu ấy thêm lần nữa.
"Mua hay không mua đây?" Anh ta có vẻ mất kiên nhẫn. Lòng tôi dần nhẹ nhõm hơn, bèn đáp: "Thật ra, tôi cũng là một nạn nhân của cho vay nặng lãi."
Rồi tôi ngẩng lên, dành cho anh ta ánh nhìn chân thành nhất đời mình, trong mắt tràn ngập sự nghèo khó.
-----------------------------
(1) Ám chỉ hành động giả tạo, không chân thành, bề ngoài tỏ ra tốt đẹp nhưng bên trong lại ẩn chứa ý đồ xấu.
Chương 35: Một người một chó
Tôi vốn định dùng sự nghèo khổ của mình để đánh vào lòng trắc ẩn của anh chàng người Đông Bắc trắng trẻo này, nhưng mặt anh ta chẳng thay đổi mấy, thậm chí còn đảo nhẹ mắt.
Hỏng rồi, tôi nghĩ bụng, gặp phải kiểu người "nước đổ đầu vịt" rồi.
Sau một lúc im lặng, tôi ngượng ngùng nói: "Vậy nên, tôi muốn mượn ít tổ kiến từ anh. Tôi đang dùng phương pháp sinh học để trồng lúa, mà giờ ruộng đầy rầy nâu, tôi cần kiến để dọn dẹp hộ."
Anh ta vẫn nhìn tôi.
Tôi hít sâu một hơi, bắt đầu giải thích chi tiết. Đến lần thứ hai thì anh ta mới hiểu, lộ ra vẻ mặt như vừa hiểu ra vấn đề.
"Theo lời anh nói thì không chỉ cần vài tổ đâu." Anh ta nói: "Thực ra cách này khả thi. Nhưng mà, vài hôm nữa lúa trổ bông là thả vịt vào được rồi, không cần đến kiến nữa, chịu khó chờ chút đi."
"Tôi e rằng lúa không chờ được đến lúc trổ bông." Trước đây khi tôi nói chuyện về việc trồng trọt với khách trong quán, họ đều cho rằng năm nay chắc chắn tôi sẽ chẳng thu hoạch được gì, vì những khó khăn này là điều tất yếu mà ai trồng trọt lần đầu cũng sẽ phải trải qua.
"Tôi có thể cho anh vài tổ kiến." Anh ta nói. "Nguồn thức ăn ở đây cũng không đủ cho chúng, nếu anh nuôi tốt thì kiến sẽ sinh sản rất nhanh. Tôi cũng có loại kiến đen làm tổ trên cây mà anh cần, vận chuyển rất dễ dàng, nhưng anh cần có gì đó để đặt cọc. Kiến loại này rẻ thì cũng rẻ, nhưng đắt thì cũng đắt đấy." Anh ta mở điện thoại, cho tôi xem một trang mua sắm có nhiều gian hàng bán mô hình nuôi kiến, một tổ có giá hơn 2000 tệ.
Sim điện thoại của anh ta là của nhà mạng China Telecom, có tín hiệu ở đây thật đúng là lợi hại.
"Một tổ nhỏ vậy mà chỉ có vài con, tính ra mỗi con cũng hơn sáu bảy tệ." Anh ta nói: "Còn một tổ của tôi thì có đến mấy nghìn, mấy vạn con, cậu bảo nó đáng giá bao nhiêu?"
"Giá trị của mô hình kiến nằm ở quá trình từ khi kiến chúa sinh sản đến khi cả bầy phát triển lớn. Vậy nên, giá trị của nó không phải là con kiến, mà là sự đồng cảm với hành trình tích lũy của nó." Tôi nói. "Anh bán dược liệu, sao mà giống mấy người bán 'cảm tình' kiểu này được chứ?"
Anh ta nhíu mày, rõ ràng hiểu nhưng không muốn hiểu.
Tôi lại nói: "Đại ca, chỗ của anh không có đủ thức ăn cho chúng rồi, anh cần chia bớt đi, vậy nên anh nên—"
"Tôi đổ nước sôi cho chết chứ cũng không để lại cho anh đâu, tôi không nuôi ong, đừng giở trò này với tôi." Anh ta nhìn tôi nói.
Tôi hít mũi một cái, mùi hôi từ việc anh ta cậy chân làm tôi hơi khó chịu, "Không cần phải thế đâu, cùng là con nhà nghèo mà."
Anh ta giơ tay bảo tôi im lặng rồi nói: "Giờ tôi cần tiền lắm, vậy nên phải có đồ thế chấp, nếu không thì khỏi bàn nữa, tôi còn phải lo cho khoản vay nặng lãi. Không còn cách nào khác, ai cũng có số khổ, nên chỉ cần anh tìm cách để tôi kiếm được thu nhập, bằng cách nào cũng được."
"Sao anh không đưa kiến cho mấy tay cho vay nặng lãi đi?"
"Cái này khó bán lắm." Anh ta nói. "Bọn họ không cần mấy thứ này, mà anh lại muốn, vậy thì anh phải đem gì đó đến đổi."
"Anh muốn tôi thế chấp cái gì?"
Anh ta nhìn ra cửa: "Anh lái xe đến đây phải không?"
"Xe tôi không rẻ đâu, anh vừa bảo là lũ kiến này khó bán mà." Tôi đáp. "Anh thử nghĩ xem, nếu đám cho vay nặng lãi đến đòi tiền mà anh đưa xe cho họ, sau đó tôi đến chuộc lại, thì anh lấy gì để trả lại tôi?"
"Vậy phải dựa vào lòng tin thôi." Anh ta nói. "Không có gì thế chấp thì thôi đi."
Tôi định dùng ánh mắt nghèo khó của mình để lay động anh ta lần nữa, nhưng anh ta đứng dậy đuổi khéo: "Hay là anh cho doanh nghiệp nhà nước thuê đất ấy, chẳng phải lo nghĩ gì, mỗi năm kiếm chút tiền thuê là được rồi. Một mẫu đất cũng được 250 tệ đó, cũng tạm ổn. Chứ tự mình trồng, năm đầu chưa chắc đã được chừng ấy."
Tôi bị đẩy ra ngoài, ngay khi anh ta chuẩn bị đóng cửa, tôi bước tới chặn lại rồi nói: "Thứ anh muốn, phải là thứ mà bọn cho vay nặng lãi cũng nhận đúng không?"
"Đương nhiên, mấy thứ như mật ong hay gạo tôi không cần."
"Tôi có một thứ mà chắc chắn bọn cho vay nặng lãi sẽ nhận." Tôi nói. "Sao nào? Có muốn biết là thứ gì không?"
Anh chàng người Đông Bắc da trắng kia quay lại nhìn tôi, ánh mắt rất điềm tĩnh, không hề bị ảnh hưởng bởi lời nói của tôi.
Đây không phải người bình thường, thực ra tôi đã cảm thấy vậy từ đầu, chỉ là tôi không thể phân biệt được anh ta là kiểu người có câu chuyện đặc biệt, hay thực sự có một thân phận đặc biệt nào đó.
Nhưng vì anh ta hay ngồi gãi chân, nên tôi nghĩ dù có câu chuyện gì, anh ta cũng chỉ là một người "có câu chuyện" nhưng vẫn thích gãi chân mà thôi.
Anh ta nhìn tôi một lúc rồi nói: "Vậy anh nói đi, là cái gì?"
"Tôi có thể gánh nợ giúp anh. Anh nợ bao nhiêu?" Tôi hỏi: "Tôi có thể dùng uy tín của mình để bảo đảm."
Anh ta nhìn tôi rồi bất chợt cười khẩy: "Anh á?"
"Ừ." Tôi gật đầu.
"Đến cả con kiến anh còn không mua nổi." Anh ta nói. "Thì lấy gì mà bảo đảm?"
"Anh cứ nói cho tôi biết, tổng số nợ là bao nhiêu, rồi tôi sẽ nói anh biết tôi lấy gì bảo đảm." Tôi đáp.
Anh ta im lặng một lúc rồi nói: "28 vạn."
"Tiền gốc là bao nhiêu?"
"7 vạn, tôi đã trả được 11 vạn rồi, nhưng lãi suất thực sự quá cao." Anh ta nói.
"Được, ngày mai khi bên cho vay đến để quyết toán, nếu xong xuôi hết, anh sẽ đích thân mang lũ kiến đến cửa hàng của tôi và sắp xếp ổn thỏa mọi thứ." Tôi nói.
Anh ta nhìn tôi đầy nghi ngờ, nói: "Nếu anh có nhiều tiền như vậy, có thể mua thẳng kiến. Đám cho vay nặng lãi đó không dễ đối phó đâu, sao anh phải tự chuốc phiền phức vào người? Tôi không nghĩ đây là quyết định sáng suốt."
"Anh chỉ cần nói có đồng ý hay không thôi."
"Một việc rõ ràng là không thể làm được, tôi đồng ý hay không có khác biệt gì sao?"
"Nếu vậy thì đồng ý cũng chẳng thiệt gì anh, đúng không?" Tôi nói.
Anh ta im lặng nhìn tôi một lúc lâu rồi mới nói: "Tùy anh."
Nói xong anh ta lập tức đóng sầm cửa lại, chẳng thèm cho tôi biết đối phương là ai, rõ ràng không hề đặt chút kỳ vọng nào vào tôi. Nhưng may thay, tôi cũng chẳng cần phải biết đối phương là ai.
Tôi trở về xe, nhìn thấy Bánh đã ngủ say như chết, bèn nói với nó: "Thành bại đều trông cậy vào mày cả đấy, Bánh ạ."
Bánh ngẩng đầu lên, đôi mắt lờ đờ nhìn tôi như muốn nói: "Từ đầu đến giờ mọi thứ đã rất mơ hồ rồi, anh chắc đây là quyết định đúng đắn chứ? Tự dưng lại giao trọng trách lên đầu tôi là sao?"
Từ trước đến nay, tôi vẫn luôn làm việc theo cách mơ mộng hão huyền thế này, chỉ có điều ngày trước tôi phát huy điều đó ở trong mộ cổ. Ở nơi ấy, tôi đã được xem là kiểu người bình thường nhất trong những người bình thường rồi, khi phần lớn mọi người nhìn tôi đưa ra quyết định kỳ quặc, đều nghĩ là tôi bị môi trường khắc nghiệt làm cho hoảng loạn.
Nhưng trong đời thực, những hành vi này của tôi trông chẳng khác gì người mắc chứng thần kinh của mọi chứng thần kinh.
Nhưng tôi luôn có lý do cho mọi hành động của mình.
Tôi lái xe phóng bạt mạng trên đường, quay lại chỗ mà vừa rồi tôi nhìn thấy bóng người kỳ lạ, sau đó đỗ xe bên lề rồi bật đèn cảnh báo.
Xuống xe, tôi dẫn Bánh đến vị trí mà người kia đã đứng trước đó, để nó ngửi mùi trên mặt đất, rồi ra hiệu cho nó bắt đầu truy tìm.
Bánh nhìn tôi đầy cảm kích, ánh mắt như muốn nói: "Cuối cùng anh cũng xem tôi như một con chó đúng nghĩa, thật tuyệt, cuối cùng cũng được làm đúng công việc của mình rồi."
Bánh lần theo con đường núi, vừa ngửi vừa dò đường. Nếu phán đoán của tôi không sai, sau khi bóng người kia dán bức tranh con chồn lên cửa nhà anh chàng Đông Bắc trắng bệch kia, có lẽ đã đi bộ xuống núi.
Điều này rất dễ hiểu: Nếu lái xe đến tận cửa, đối phương sẽ biết có người đến ngay lập tức và sẽ trở nên cảnh giác cao độ.
Nhưng hắn cũng không thể đi bộ từ thị trấn đến đây được, dù gì thì đây là đám cho vay nặng lãi, chứ không phải cuộc thi marathon. Chắc chắn có đồng bọn đợi tiếp ứng bằng xe ở gần đây, chỉ có đoạn cuối này là hắn phải mò mẫm đi bộ trong bóng tối.
Tuy nhiên, chỉ dán một bức tranh đe dọa thì hơi yếu. Chắc chắn hắn sẽ thực hiện thêm các hành động hăm dọa khác trong đêm nay. Gã Đông Bắc kia đã mắc nợ quá lâu, hẳn là đã quen với những kiểu đe dọa này, nên hiện tại thứ duy nhất có thể khiến anh ta nổi điên có lẽ là lũ kiến.
Đó chính là logic của đe dọa – giống như phản diện trong phim luôn nhắm vào người thân của nhân vật chính. Những kẻ chuyên thích hăm dọa luôn nhắm vào điểm yếu chí mạng của đối phương. Với anh chàng Đông Bắc này, điểm yếu duy nhất hiện giờ là đàn kiến, đó là hy vọng duy nhất để anh ta vực dậy.
Về lý do tại sao tôi lại chắc chắn như vậy, là vì vừa nãy khi thấy đèn xe của tôi, hắn đã bỏ chạy. Chỉ có những kẻ định tiếp tục gây sự mới sợ bị người khác phát hiện.
Bánh dẫn tôi đi sâu vào núi, luồn lách qua nhiều con đường nhỏ khác nhau. Chẳng bao lâu sau, tôi thấy một dãy nhà được xây bằng gạch, trước đây vốn là chuồng heo được cải tạo lại.
Phía xa có ánh đèn pin, tôi dẫn Bánh tiến lại gần, phát hiện ra họ đang đổ xăng lên những ngôi nhà này.
"Tôi hỏi thật, đốt hết mấy cái này đi thì bên kia lấy gì trả nợ cho các anh?" Tôi nói. "Làm vậy chỉ ép anh ta đến bước đường cùng, để rồi gây ra án mạng. Các anh cũng chẳng thu lại được khoản nợ lớn này, liệu có đáng không?"
Họ soi đèn về phía tôi, tôi cũng bật đèn pin soi lại, cả hai bên đối mặt nhau. Qua tiếng thở, tôi đoán phía đối diện có ba người.
Còn bên này chỉ có một người và một con chó béo.
Một người trong số họ lên tiếng: "Mày là thằng nào?"
Giọng nói rất tự tin, một kẻ ác nhưng không buông lời chửi bới cũng đáng được nể trọng vài phần.
"Tôi có cổ phần ở đây." Tôi nói. "Nếu các anh đốt hết thì thiệt hại của tôi cũng không nhỏ đâu."
"Vậy phần nợ của nó, mày cũng gánh một phần à?"
"Có thể xem là như vậy."
"Thế thì trả giùm nó đi?"
"Hôm nay tôi đến đây là để bàn chuyện này với các anh." Họ bật cười, có lẽ nghĩ cuối cùng cũng có người chịu trả nợ. Tôi tiếp tục: "Nhưng kết luận của tôi là, tôi không định trả đâu. Lãi suất của các anh đã vượt quá mức cho phép của pháp luật."
"Đừng mang luật ra hù bọn tao, bọn tao không nói chuyện luật pháp ở đây." Một kẻ tức giận đáp.
"Trùng hợp thật, trước đây tôi cũng chẳng màng tới luật pháp. Và hôm nay, tôi cũng không định bàn về luật." Tôi xoay xoay cổ và vai: "Tôi cũng không muốn phí sức nghĩ ngợi... để xem các anh chịu báo cảnh sát trước không."
Người kia có chút bối rối, nói: "Chúng tao sẽ không báo cảnh sát đâu, người báo cảnh sát chắc là mày chứ. Nhưng mà báo cũng chẳng ích gì. Tao nói cho mày biết, trong cổ đông của chúng tao—"
"Không, nếu các anh không báo cảnh sát, thì hôm nay coi như các anh xong đời rồi." Tôi nói. "Chỉ có cảnh sát mới cứu nổi các anh thôi."
Bánh là chó chiến đấu đã qua huấn luyện thực chiến, tuy mập nhưng vô cùng hung dữ. Thân hình không to lắm nhưng lại rất nhanh nhẹn.
Đêm đó, tôi không sử dụng bất kỳ mưu mẹo nào. Trong bùn lầy, tôi và Bánh phối hợp ăn ý, trước tiên đánh tan ý đồ phản kháng và bắt nạt của họ. Sau đó, chúng tôi đuổi theo khiến họ phải chạy sâu vào rừng núi, cứ thế càng chạy càng xa.
Tôi chỉ coi đây là một trò chơi và hiếm khi hứng thú như vậy, dường như bản thân lại trở về những ngày tháng giữa rừng núi hiểm trở.
Cả một đêm, tôi liên tục phục kích, đánh đập, thả cho họ chạy rồi lại phục kích, cho đến khi ép họ chạy ra ngoài từ phía bên kia của ngọn núi hoang.
Trong quá trình đó, tôi ép họ phải chạy trốn suốt mười ki lô mét.
Kiệt sức và không còn cách nào khác, cuối cùng họ đã chọn cách báo cảnh sát cầu cứu. Khi thẩm vấn, vì quá mệt và gần như không còn sức lực, lại thêm mấy cái răng sắp rụng ra, họ không còn đủ sức để nói dối, đành thú nhận về việc phóng hỏa và cho vay nặng lãi.
Cuối cùng, khoản vay nặng lãi của họ bị xóa bỏ, không chỉ của anh bạn người Đông Bắc mà cả những khoản nợ khác vượt quá lãi suất pháp định cũng bị hủy, tất cả giấy nợ đều bị tịch thu.
Tôi chấp nhận hòa giải, ngồi trước cửa đồn cảnh sát tiễn họ ra về. Cảnh sát bảo tôi về sớm, nhưng tôi đáp là sẽ có người đến đón. Rồi tôi ngồi đó lặng lẽ, nhìn vào tay mình: Lớp da trên khớp tay đều đã rách hết.
Từ giây phút này, mọi cơn giận trong lòng tôi như được trút sạch.
Tôi lấy điện thoại ra, chụp một bức ảnh rồi đăng lên trang cá nhân.
Lê Thốc chỉ để lại một dấu hỏi chấm bên dưới.
Tô Vạn trả lời: "Đi chụp X-quang đi."
Ngay lập tức, Hạt Tử cũng đăng một bài lên trang cá nhân. Anh ta bị thương rất nặng, ngồi cười trên một sân thượng, phía sau là một cây thông rất to, không rõ đang ở đâu.
Dòng chú thích là: "Bị thương thực sự là như thế này."
Có lẽ bức ảnh là do Tiểu Hoa chụp. Rốt cuộc hai người họ đang làm gì vậy, tôi nghĩ thầm, rồi phóng to ảnh ra, nhìn vào hình phản chiếu trên kính râm của Hạt Tử, thấy dường như Tiểu Hoa cũng bị thương.
Nhưng mà, còn rảnh rỗi chụp ảnh đăng lên mạng, chắc tổng thể mọi chuyện vẫn ổn.
"Cần giúp không?" Tôi hỏi dưới bức ảnh Hạt Tử đăng.
Anh ta trả lời: "Chỗ cao cấp không hoan nghênh mấy người chân lấm tay bùn."
Tôi đáp lại một chữ: "Xì."
Chương 36: Cầu Tre Chỉ Lối
Muộn Du Bình bắt xe đến đón tôi, rồi chúng tôi đi thẳng đến một bệnh viện cộng đồng trong thị trấn. Sau một đêm vật lộn trong núi, mặt và cổ tôi bị cành cây cào xước, đầy những vết thương nhỏ. Bác sĩ lần lượt xử lý, rồi khử trùng từng vết.
Cảm giác đau nhói nhẹ khiến tôi hơi buồn ngủ.
Thỉnh thoảng, bác sĩ nhìn tôi với ánh mắt phức tạp, chắc nghĩ tôi là một tên lưu manh, thậm chí có thể là một tay trùm xã hội đen. Có vẻ cô ấy không hiểu vì sao tôi lại ra nông nỗi này, phải tự đi làm chuyện liều lĩnh như vậy.
Tôi ngồi dựa vào ghế, để mặc bác sĩ khử trùng và băng bó. Cô ấy khá mạnh tay, khiến vết thương đau thêm, nhưng hiện giờ tôi cảm thấy mình đang trong trạng thái lơ mơ, chẳng mảy may để ý.
Muộn Du Bình đứng dựa vào khung cửa bệnh viện, lặng lẽ nhìn tôi. Tôi cũng nhìn lại, dùng ánh mắt hỏi y: Nếu là anh, anh sẽ làm thế nào?
Y không đáp lại, chỉ thỉnh thoảng liếc nhìn Bánh đang nằm ngủ ngon lành dưới chân mình.
Cuối cùng, bác sĩ tiêm cho tôi một mũi phòng uốn ván rồi bảo có thể về được.
Chúng tôi quay lại chỗ tôi đỗ xe trước đó, rồi tiếp tục hành trình trở về. Khi đi ngang qua một ngôi miếu nhỏ ven đường, tôi lại dừng xe, thắp nén nhang cầu chúc cho mấy người bạn trong nhóm, cầu cho họ mọi chuyện đều suôn sẻ.
Làm xong những việc đó thì cũng sắp mười giờ đêm. Tôi không thấy mệt, chỉ cảm giác như mình đang mơ màng. Sáng ngày kia, khi trời vừa hửng sáng, cuối cùng chúng tôi cũng về đến làng. Bàn Tử đã để sẵn một bàn đầy thức ăn: Có cả bữa sáng, trưa, và tối. Tôi ngồi xuống, ăn vài miếng khoai tây kho, hai miếng thịt kho và uống một ly sữa đậu nành.
Bánh mệt mỏi, ăn vài miếng thịt trắng rồi gục xuống ngủ ngay.
Tôi cũng không ăn quá nhiều vì biết rằng, sau đây tôi sẽ ngủ một giấc thật dài.
Rửa mặt xong, tôi lấy một quyển sách rồi nằm lên giường đọc. Cuốn sách này của Nhà xuất bản Đại học Nông nghiệp Trung Quốc, tên là "Kỹ thuật nuôi kiến" của tác giả Lưu Minh Sơn. Gã này còn nuôi cả ốc sên nữa, trước đó tôi cũng đã tìm hiểu và biết rằng anh ta chuyên về các loại hình chăn nuôi đặc biệt.
Nhưng chỉ xem được một giây là tôi đã thiếp đi, chìm vào giấc ngủ sâu.
Giấc ngủ này như một cú rơi vào vực sâu, nhiều lần giấc mơ muốn xuất hiện nhưng đều bị sự mệt mỏi vô tận nhấn chìm.
Tôi ngủ một mạch đến tận chiều, tỉnh dậy thì thấy chẳng còn ai ở nhà, ngay cả Bánh cũng bị dắt đi. Trên bàn vẫn còn ít đồ ăn thừa, Bàn Tử để lại cho tôi một tờ giấy nhắn: Tự hâm nóng.
Tôi chọn vài món, hâm nóng qua loa trên bếp rồi ngồi xử lý bữa ăn một mình.
Ăn xong, tôi lững thững đi ra quán, lúc đó trời cũng đã về chiều, cảm giác như mấy ngày qua tôi chẳng thấy ánh mặt trời là mấy.
Công việc ở quán khá thuận lợi, vừa bước vào, đã có nhiều khách quen chào hỏi tôi, có lẽ là những khách cũ dẫn theo bạn bè đến. Tôi mở một chai rượu mời họ rồi vào bếp thay Bàn Tử bắt đầu xào nấu, Muộn Du Bình cũng đi vào phụ chuẩn bị nguyên liệu.
Mọi thứ đột nhiên trở lại nhịp sống bình thường.
Làm xong hết đã là tám giờ tối, tôi nấu một nồi mì lớn, ngồi ngoài quán, ăn cùng vài người làm, ba con chó chạy quanh, rượt đuổi những con châu chấu trong đống cỏ rồi gặm nhấm chúng.
Lúc ấy, tôi thấy anh bạn Đông Bắc kia bước vào sân, có vẻ băn khoăn nhìn tôi.
Tôi cười với anh ta, anh ta cũng cười lại, rồi đi đến ngồi xuống. Dù không biết anh ta là ai, Bàn Tử vẫn đứng dậy múc cho anh ta một bát mì.
Anh ta cũng không khách sáo, cầm bát lên ăn ngay. Tất cả chúng tôi đã quen với việc ai đó đột nhiên xuất hiện — vì thường cũng không ai rõ ông chủ đang bận gì, nên mọi người cứ tự nhiên trò chuyện, còn anh ta lặng lẽ ngồi bên cạnh ăn mì, tôi cũng không lên tiếng chào hỏi.
Ăn xong, anh ta ra hiệu muốn tôi đi cùng, bên đường có một chiếc xe tải cũ kỹ, thùng xe đã được cải tạo thành một cái hộp bằng tôn.
"Kiến đấy." Anh ta nói.
"Tôi sẽ dẫn anh ra ruộng." Tôi đáp. Anh ta gật đầu.
Tôi ngồi vào ghế phụ, hướng dẫn anh ta lái xe đến ruộng, nơi những chiếc đèn bắt côn trùng sáng rực. Trông mọi thứ thật lung linh và đầy chất công nghệ.
"Anh quyết tâm không phun thuốc trừ sâu thật à?" Anh ta nhìn đồng ruộng, châm điếu thuốc hỏi tôi.
"Đâm lao thì phải theo lao." Tôi đáp.
Anh ta đi ra phía sau xe, mở thùng xe ra, bên trong là từng hộp kiến. Anh ta nói: "Tôi mang toàn tổ nhỏ đến, như vậy, tính săn mồi của chúng mạnh hơn, sinh sôi nhanh, hiệu quả sẽ tốt hơn. Bây giờ tôi sẽ chỉ cho anh cách thả chúng."
Chúng tôi không nói thêm gì nữa, chỉ đơn giản là thực hiện lời hứa.
Chúng tôi lần lượt chuyển từng thùng kiến xuống, đặt chúng trên bờ ruộng. Anh ta nhìn tôi, nói rằng không hiểu tôi nghe ở đâu mà một mẫu ruộng cần đến sáu tổ kiến, trong khi theo anh ta, một mẫu chỉ cần một tổ là đủ.
Anh bạn người Đông Bắc nói rằng từ thời xưa đã có ghi chép về việc dùng kiến để diệt sâu bệnh. Thậm chí anh ta còn thuộc lòng một đoạn văn cổ: "Vùng Quảng Nam ít đất canh tác, dân chúng trồng nhiều cam quýt để kiếm lợi, nhưng thường bị sâu bệnh, khiến quả hỏng nhiều. Chỉ những cây có nhiều kiến thì sâu mới không sống được, vì vậy các nhà vườn đều mua kiến từ những người buôn bán. Họ gom kiến và bán lại, dùng bàng quang heo hoặc cừu để nhử kiến vào, rồi mang đi nơi khác, gọi là nuôi kiến cho cam."
Tôi lấy điện thoại tra thử, thì ra đây là đoạn trong "Dưỡng Cam Nghĩ" của Trang Xước thời Tống, nên hỏi anh ta: "Vậy có thể coi việc tôi đang làm là phương pháp cổ thời Tống nhỉ?"
"Không chỉ thế đâu." Anh ta đáp: "Ngay trong 'Nam Phương Thảo Mộc Trạng' cũng có ghi chép chi tiết. Vậy nên cách này không phải do anh sáng tạo ra đâu, đừng nghĩ mình quá khác biệt hay sáng tạo."
"'Nam Phương Thảo Mộc Trạng' là sách nông nghiệp từ thời nhà Tấn phải không? Thế thì còn lâu đời hơn nữa nhỉ?"
"Ừ, nhưng nông dân ngày xưa thường dùng 'Cầu Tre Dẫn Lối' hoặc 'Đằng Trúc Dẫn Độ'. Tôi khuyên anh nên chẻ tre thành những thanh dài, kết hợp với dây mây để làm giàn dẫn đường cho kiến, thay vì dùng dây câu làm lưới kết nối. Dù sao, kiến thấy thứ gì quá mảnh cũng dễ sợ."
Tôi nhìn anh ta, bỗng nhiên nảy sinh một chút ngưỡng mộ đối với tên "cao thủ gãi chân" này.
"Phương pháp cổ này rất phổ biến ở Lĩnh Nam, khi ấy còn có những người Giao Chỉ chuyên bán kiến, họ dùng chiếu cỏ quấn tổ kiến lại từng gói một rồi bán cho người Hán."
Tôi xoa cằm, thầm nghĩ, thế này chắc anh không phải người Giao Chỉ nhỉ? Nghe đồn trên cơ thể người Giao Chỉ chỉ có một lỗ duy nhất, hô hấp, ăn uống hay đại tiện đều dùng chung một chỗ.
"Đừng có phân tâm, trong sách "Lĩnh Biểu Lục Dị" của Lưu Tuấn đời Đường, "Kê Lặc Biên" của Trang Xước thời Tống, và "Quảng Đông Tân Ngữ" của Khuất Đại Quân đầu thời Thanh, đều có ghi chép về việc dùng kiến trừ sâu. Nếu đã định theo cách cổ, thì hãy nghiên cứu kỹ vào."
Tôi gật đầu, anh ta lại chỉ vào kênh nước — con kênh này như một ranh giới, chia đôi ruộng của tôi ra hai bên.
"Phía bên này kênh gọi là nước Hòe An, sẽ thả kiến đen; bên kia kênh là Đàn La Quốc, thả loại kiến có đuôi dài hơn. Như vậy, hai loại kiến sẽ không đánh nhau."
"Tên này có điển tích gì không?"
"Tự đi mà tìm hiểu, nếu muốn theo cổ pháp, thì phải tao nhã một chút chứ." Anh ta đáp.
Thế là chúng tôi cứ theo tiêu chuẩn mỗi mẫu ruộng một ổ kiến, lần lượt thả kiến xuống các khu vực. Sau khi xong việc, quay về quán, anh ta dẫn tôi lên núi chặt tre, rồi biểu diễn tại chỗ cách tách tre và kết nối chúng thành thứ được gọi là "Cầu Tre Dẫn Lối".
Không ngờ làm cầu tre cho kiến qua lại cũng kỳ công đến vậy, thậm chí còn có những tên gọi mỹ miều như "Hai Mươi Tư Cầu."
Xong xuôi mọi thứ, anh ta chuẩn bị rời đi, tôi tặng anh ta ít trứng gà để cảm ơn, nhưng anh ta chỉ xua tay từ chối, bảo chính tôi mới là người đã giúp anh ta giải quyết vấn đề lớn.
Nhìn anh ta ngồi vào ghế lái của chiếc xe tải cũ, Bàn Tử thắc mắc: "Cao thủ như vậy, sao lại sa sút đến mức ngồi gãi chân suốt thế?"
"Có lẽ, đó chỉ là chút cứng đầu cuối cùng của anh ta đối với thế tục." Tôi đáp.
Chúng tôi nhìn theo chiếc xe tải rời đi, rồi ba người ngồi xổm bên đống tre đã chặt, bắt đầu học làm "Hai Mươi Tư Cầu". Bàn Tử nói: "Ban đầu tôi cứ tưởng cậu đang làm chơi chơi thôi, giờ thành ra lại dùng phương pháp canh tác cổ thật, đúng không?"
"Đúng, mà còn rất tao nhã nữa."
"Tao nhã đến mức nào?"
"Ít nhất là tao nhã ở chỗ không phun thuốc trừ sâu." Tôi nói.
Bàn Tử cười phá lên, cảm thấy mấy lời tôi nói thật chẳng khác gì tán dóc.
"Thế tên tài tử thích ngồi gãi chân kia có để lại lời khuyên vàng ngọc nào khác không?" Bàn Tử tiếp tục hỏi. "Tôi thấy hình như anh ta cũng có kha khá kinh nghiệm về nông nghiệp đấy chứ."
"Anh ta hỏi tôi có phải mãi không tìm thấy sự kết nối với mảnh đất này không." Tôi nói: "Hay nói cách khác, tôi chưa thực sự hiểu với một người hiện đại thì một mảnh đất có ý nghĩa gì. Ban đầu khi tiếp quản mảnh đất này, có lẽ tôi chỉ mong đến ngày lúa chín sẽ được thấy phong cảnh trước ruộng sau núi, cò trắng bay trên nền trời, rồi cùng bạn bè uống trà ngắm đồng lúa xanh rì. Nhưng tôi không ngờ rằng trồng trọt khác xa với xây nhà. Xây nhà thì mỗi ngày đều thấy sự thay đổi, thấy ngôi nhà mình hằng mong muốn từng chút một thành hình. Còn trồng lúa thì khác, mỗi ngày cánh đồng chỉ thay đổi một chút rất nhỏ, còn phong cảnh tôi mong chờ chỉ xuất hiện vào ngày thu hoạch cuối cùng. Chính vì thế, ngày qua ngày, tôi cứ bồn chồn không biết mình thật sự đang làm gì."
"Vậy anh ta nói sao? Làm sao để giải quyết chuyện này?"
"Anh ta nói, đất đai thì bao dung, biết cách ban tặng. Sự gắn bó sâu sắc nhất của nông dân với đất đai luôn bắt nguồn từ những món quà mà đất mang lại, chính là những thực phẩm và tài nguyên tuyệt vời mọc lên từ đó. Những món quà này không thể mua bằng tiền mà là cách sống nguyên thủy nhất của loài người. Vì tôi đã quen dùng tiền để đổi lấy mọi thứ nên không còn hiểu ý nghĩa của đất đối với con người nữa, vì vậy tôi cần học cách tìm lại niềm vui này."
Bàn Tử im lặng một lúc, không nói gì nhiều, chỉ đơn giản bảo: "Thế tôi sẽ chờ cậu đem món quà từ đất về đây."
Tôi nhìn sang Muộn Du Bình. Y rất tập trung vào việc xử lý từng nan tre. Có lẽ y đã quá quen với việc tìm kiếm món quà trực tiếp từ đất đai, nên tôi khẽ nói: "Được rồi, từ hôm nay, chúng ta sẽ sống gần gũi với đất hơn một chút."
Chương 37: Há cảo rau dại
Tối hôm đó, tôi đã tra cứu rất nhiều tài liệu liên quan đến "Cầu Tre Chỉ Lối". Những tài liệu này rất khó tìm và phức tạp, không thể tra trực tiếp mà chỉ thấy qua các bản scan của những cuốn sách cũ.
Tôi cũng phát hiện ra rằng trong "Cầu Tre Chỉ Lối", "Hai Mươi Tư Cầu" phù hợp với mùa khô, còn "Mưa Phủ Lối Tre" lại hợp với mùa mưa. Nếu dùng "Mưa Phủ Lối Tre" vào mùa khô thì sẽ khiến lũ kiến bị ngạt do nhiệt độ cao. Ngoài ra, còn có một phương pháp gọi là "Tìm Rồng Bắt Ngọc", là kiểu dùng tre cong để xây cầu dưới lớp bùn nước, giúp kiến tránh khỏi bão lớn — không hổ danh là cách của người Lĩnh Nam. Nhưng cách này chỉ dùng trong các vườn cam quýt và cần thực hiện rất tỉ mỉ.
Trong đống tài liệu đó, tôi còn bất ngờ tìm thấy vài thông tin về gã cao thủ người Đông Bắc — tất nhiên không phải từ sách cũ, mà là từ vài tin tức có liên quan.
Đó là một mẩu tin nhỏ như miếng đậu phụ, nói rằng gia đình anh ta từ đời tổ tiên cho đến nay đều nghiên cứu "trò kiến". Đây là một dạng chơi với côn trùng: Người chơi xây dựng các địa hình khác nhau trên bãi cát, rồi thả hai bầy kiến khác loại vào, mỗi bên được cắm một lá cờ tướng soái để dẫn đầu, và sau đó để chúng chiến đấu. Người xem sẽ đặt cược và truyền nhau các báo cáo diễn biến hàng ngày, giống như trận đại chiến giữa Lưu Bang và Hạng Vũ, cho đến khi một bên tiêu diệt bên kia và phần thưởng được trao cho người thắng.
Còn có kiểu đấu một chọi một, hai tướng của hai bầy sẽ đối đầu trên một thanh tre, cách này sôi động và quyết liệt hơn hẳn.
Nghe cũng khá thú vị, tôi nhớ lại ngày xưa mình cũng từng mơ mộng về việc chỉ huy các trận đấu của kiến. Giờ đây, truyền nhân của trò chơi kiến này lại trở thành một "cao thủ gãi chân", cũng là điều đáng suy ngẫm.
Dù đã xem qua rất nhiều tài liệu, ngoài "Hai Mươi Tư Cầu", tôi vẫn không nắm rõ thêm được gì nhiều. Cuối cùng, tôi quyết định tập trung rèn luyện những kỹ năng cơ bản mà vị đại sư đã chỉ dạy. Sáng hôm sau, cả ba chúng tôi kéo nhau lên núi chặt tre, rồi bắt đầu từng bước dựng "Hai Mươi Tư Cầu" giữa ruộng.
Sau khi hoàn thành "Hai Mươi Tư Cầu" cho mảnh ruộng đầu tiên, tôi đặt tên ngay cho nó là "Sau Động Đất" vì tất cả những cây cầu đều nghiêng ngả, trông như đang thử thách trí thông minh của lũ kiến. Nhưng như đại sư đã dạy, chỉ cần đào một vài rãnh nước nhỏ xung quanh tổ kiến và để lại các lối cầu, lũ kiến sẽ tự đi theo đường chúng tôi đã tạo.
Khi mọi thứ đã hoàn tất, quả nhiên kiến bắt đầu men theo cây cầu địa ngục mà chúng tôi tạo ra, bò dần vào ruộng lúa. Tôi và Bàn Tử đứng nhìn thành quả của mình như những vị thần tạo hóa, lẩm bẩm: "Thật sự có hiệu quả, bọn nó thật sự bò lên rồi kìa."
Những chú kiến nhỏ từ từ tiến vào ruộng lúa theo "Hai Mươi Tư Cầu Gãy", những dải tre mảnh mai luồn lách qua từng luống mạ, để lũ kiến tự do dạo chơi khắp cánh đồng.
"Tiến lên nào, những chiến binh của ta." Tôi hô lên trong lòng, đầy cảm hứng anh hùng. "Hãy săn đuổi, hãy giành lấy vinh quang, và các ngươi sẽ được vào Đại Sảnh của các Chiến Binh."
Sau đó, chúng tôi ngày càng thành thạo trong việc dựng cầu, và đến cuối ngày đầu tiên, chúng tôi đã hoàn thành được khoảng một phần năm diện tích. Trước khi quay về, Muộn Du Bình nhìn tôi, như muốn biết liệu sau một ngày lao động trên cánh đồng, tôi sẽ tìm thấy phần thưởng gì.
Tôi nói: "Cứ bắt đầu bằng cách làm những việc hồi nhỏ từng làm để thấy vui đã."
Những việc hồi nhỏ đó là đi đào rau dại trên đồng. Loại rau dại ở đây là một loài thực vật cụ thể, mà tôi cũng không rõ tên thật của nó là gì, từ nhỏ đến lớn mẹ tôi vẫn đơn giản gọi nó là "rau dại", và hầu như lúc nào cũng dùng nó để làm nhân bánh há cảo.
Cắt nhỏ rau dại trộn với thịt tươi, gói vào lớp vỏ mỏng, nấu lên thành món bánh há cảo nóng hổi, ngon đến khó tả.
Tôi không biết phải diễn tả mùi vị của món bánh há cảo rau dại này như thế nào, nhưng từ trước đến giờ, tôi vẫn giữ quan điểm rằng hương vị thịt chỉ thực sự thơm ngon khi được trung hòa cùng vị của rau dại.
Ngay từ lần đầu tiên đến mảnh đất này, tôi đã phát hiện ra trên bờ ruộng có rất nhiều rau dại. Hồi nhỏ, mỗi khi thấy loại rau này, người lớn trong nhà đều hái về. Tôi chưa bao giờ thực hiện thói quen ấy, có lẽ vì trong ký ức, rau dại hái về cũng chỉ đủ cho một bữa ăn.
Lúc ấy, tôi vẫn chưa thật sự chấp nhận việc mình đã có một mảnh đất, nên việc hái rau dại dường như giống như đang "lấy cắp" thứ gì đó vậy.
Giờ đây, cuối cùng tôi có thể thoải mái dẫn hai người họ đi hái rau. Muộn Du Bình đương nhiên là rành rẽ chuyện này, tôi nghĩ có lẽ không loại rau dại nào mà y không biết. Còn Bàn Tử thì có vẻ cảm thấy mới mẻ. Chúng tôi men theo bờ ruộng, hái được một lượng rau đủ cho một bữa há cảo, rồi mang về nhà.
Về đến nơi, ba người ngồi bên vòi nước vừa rửa rau vừa trò chuyện. Bàn Tử lấy thịt về, băm nhỏ trộn với rau, rồi gói thành những chiếc há cảo mỏng. Sau đó, hắn ra bếp, bắt đầu nhóm lửa đun nước.
Giống hệt như trong ký ức, sau khi nấu chín, chỉ đủ mỗi người một bát há cảo.
Rau dại hòa quyện với thịt, hiện lên qua lớp vỏ mỏng với sắc xanh như hành lá. Tôi cắn một miếng, hương vị chẳng khác nào ngày thơ bé.
Ba người nhìn nhau, tôi bỗng cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Có phảo đây chính là món quà mà đất đai ban tặng?
Vị rau hòa với thịt, cái cảm giác vừa quen vừa lạ ấy đánh thức vị giác của tôi. Chưa kịp cảm nhận trọn vẹn, bát há cảo đã hết. Thậm chí, cảm giác tiếc nuối, bâng khuâng đọng lại cũng y hệt như hồi bé.
Tôi uống hết cả nước dùng, vị rau dại còn vương trong nước tựa như một dư âm khó quên.
Bàn Tử vừa thưởng thức kỹ lưỡng vừa gật đầu liên tục, nói: "Ngon đấy, nhưng chúng ta nhổ nhiều rau dại thế, gần như càn quét nửa cánh đồng, cũng chỉ đủ ăn một bữa này thôi. Xem ra tất cả số rau dại này chỉ đủ ăn hai bữa."
Mà loại rau này chỉ có vào mùa Thu, tôi thầm nghĩ. Hương vị này thật quý giá, là món quà đầu tiên mà mảnh đất này dành cho tôi. Thậm chí tôi nghĩ đến việc đưa món này vào thực đơn bếp riêng của chúng tôi.
Đáng tiếc là món này không bao giờ có thể lên thực đơn của Hỷ Lai Miên, vì rau dại trồng nhân tạo không bao giờ cho được hương vị giống như thế này.
Vậy nên, có lẽ mỗi năm chúng tôi chỉ có thể thưởng thức hai bữa thôi, nghĩ mà cũng thấy tiếc.
Nhưng mỗi ngày đều có điều mới mẻ chờ đợi, tôi tự an ủi mình, ngày mai sẽ tiếp tục khám phá mảnh đất này, cố gắng thử 365 ngày với 365 hương vị khác nhau.
Chương 38: Đài quan sát
Chúng tôi mất bốn ngày mới hoàn thành việc lắp đặt toàn bộ "Hai Mươi Tư Cầu." Khi hoàn thành nốt thửa ruộng cuối cùng, tôi quay lại kiểm tra thửa ruộng đầu tiên, thấy rằng dù trông chẳng mấy hoàn mỹ, nhưng rất rõ ràng là rầy nâu đã gần như biến mất.
Tất cả "Hai Mươi Tư Cầu" đều nối thẳng đến các thùng nuôi ong ở bờ bên kia — thực ra, sau khi đặt chúng xong, tôi cũng không dám lại gần nữa vì không thích tới gần đàn ong; chúng gây cho tôi không ít áp lực.
Trên thực tế, rất ít kiến đến được các thùng ong, phần lớn đều biến mất trong ruộng lúa, ẩn mình để tạo nên "chiến công."
Dù biết kiến sẽ có tác dụng, nhưng tôi không ngờ lại hiệu quả đến vậy. Không chỉ rầy trưởng thành mà cả trứng và ấu trùng của chúng cũng đều biến mất.
Giờ đây, chỉ còn lại vài dấu vết trứng rầy trên phần gốc của vài cây lúa.
Tôi và Bàn Tử quyết định tháo đèn ra luôn, vì thực tế cho thấy dùng đèn để thu hút côn trùng không hiệu quả, hơn nữa đèn rất dễ hỏng. Nhưng ngược lại, lũ kiến thì lại chăm chỉ xử lý hết tất cả.
Những ngày đó, tôi còn bắt được vài con tôm giếng từ ruộng mang về. Loại tôm nhỏ này rất nhỏ, màu trắng muốt như ngọc, thường chảy xuống ruộng theo dòng nước, số lượng khá nhiều. Tôi chỉ dùng cái sàng, chạy dọc bờ ruộng vài vòng là bắt được một mẻ đầy.
Mang về, tôi rửa sạch rồi để cho tôm nhả hết bùn đất, sau đó cho thêm chút rượu trắng rồi luộc chín. Tôm chín bày lên bàn ăn cùng một đĩa giấm gạo thơm, chúng tôi bắt đầu thưởng thức món tôm tươi.
Bàn Tử không hài lòng với món này. Với hắn, những thứ kiểu này chỉ là di sản phong kiến chẳng giá trị gì, lượng đạm bổ sung vào chẳng thấm vào đâu so với năng lượng hắn tiêu tốn. Hắn cứ chấm tôm vào giấm rồi ăn như tôm khô chiên giòn, ăn vài con là chẳng còn hứng thú.
Muộn Du Bình sẽ cắn bỏ đầu tôm rồi ăn hết phần thân, còn tôi thì dùng lưỡi để bóc vỏ tôm ngay trong miệng.
Đối với những người lớn lên quanh sông nước, việc xử lý vỏ tôm hay xương cá bằng lưỡi là chuyện đơn giản. Tôi có thể vừa ăn một miếng cá lớn, vừa giữ tất cả xương ở một góc trong miệng, đến khi ăn hết thịt rồi mới nhả xương ra một lần.
Khi nhận ra ngay cả Muộn Du Bình cũng không làm được như vậy, tôi không khỏi có chút tự hào về ưu thế của người miền Nam.
Với Bàn Tử, cách ăn này như thể lối sống xa hoa mà người ta thường nói về vùng Giang Nam, còn tôi trông như một công tử bột. Nhưng món tôm nhỏ chấm giấm đã là một phần quen thuộc trên bàn ăn nhà tôi từ nhỏ, nhất là khi chỉ có cha và tôi. Bữa ăn đơn giản với một chén cơm, một đĩa tôm nhỏ và một chén giấm là đủ đầy hương vị.
Tôi cũng bắt được hai con lươn nhỏ từ ruộng, tuy không lớn nhưng cũng đủ làm một món. Bàn Tử đun nước sôi, cho vào một ít tỏi và thịt muối, nấu thành món canh lươn với thịt muối. Điểm đặc biệt của món này là phải nấu cho đến khi tỏi tan hết, ăn vào có vị mềm mịn như tàu hũ hạnh nhân.
Tôi vẫn còn nhớ như in tô canh trắng ấy, khiến tôi ăn liền mấy bát cơm. Nếu chưa từng thử, thật khó mà diễn tả được hương vị đặc biệt này.
Chúng tôi không ăn lươn không, Bàn Tử phủ bột lên lươn rồi rán giòn cùng nước canh, thả thêm hành lá rán giòn, trộn chung với cơm và mỡ lợn.
Quả là một "quả bom năng lượng", nhưng rất ngon. Tôi có phản đối một chút, nói là nên ăn kèm với nước canh, nhưng Bàn Tử khăng khăng rằng đã có mỡ lợn thì phải trộn cơm mới đúng chuẩn.
Dĩ nhiên, cái ý tưởng "365 ngày, mỗi ngày một món mới" của tôi nhanh chóng thất bại. Trong ruộng có rất nhiều thứ có thể ăn được, nhưng không thể ngày nào cũng loanh quanh trong ruộng mãi.
Khoảng bảy ngày sau, khi tôi trở lại ruộng, phát hiện ra rằng kỹ thuật "Hai Mươi Tư Cầu" thật sự rất hiệu quả. Cây lúa không bị hư hại gì, và lũ kiến đã hoàn toàn giải quyết được vấn đề sâu bệnh.
Không chỉ rầy nâu, mọi loại côn trùng đều biến mất, chỉ còn lại những con ong vẫn bay quanh.
Nhưng điều khiến tôi vui nhất là lúa đã bắt đầu trổ bông, dấu hiệu rằng cây lúa đã ngày càng cứng cáp hơn, và chúng tôi còn nhiều việc có thể làm.
Mùa bội thu, có vẻ đã đến gần.
Hôm đó, chúng tôi tìm được bốn, năm quả trứng nhỏ không rõ là trứng gì, có thể là trứng rắn. Bàn Tử đắn đo hồi lâu, cuối cùng quyết định không ăn nữa và để chúng lại chỗ cũ.
Sau khi lúa trổ bông, cánh đồng trở nên đẹp hơn nhiều. Tôi nhờ Bàn Tử và Muộn Du Bình đứng hai bên, chống lên vai họ, hai chân lơ lửng, nhìn về phía xa.
Đã đến lúc lên kế hoạch cho đài quan sát rồi, tôi nghĩ. Núi non đã già cỗi, cò trắng chao liệng giữa trời, nơi này sắp bước vào khoảnh khắc đẹp nhất của mùa thu sâu thẳm.
Bạn bè tôi cũng sắp đến.
Chết rồi, cà rốt! Tôi đột nhiên nhớ đến lời Tiểu Hoa, mất thăng bằng ngã khỏi vai hai người họ.
Chương 39: Viễn tưởng
Tôi ngồi trước máy tính, trên màn hình là một trang hỏi đáp với câu hỏi: "Làm sao để trồng cà rốt nhanh nhất?"
Bàn Tử ngồi trên ghế lười cạnh bàn của tôi, vừa bóc hạt dưa vừa nói: "Để tôi ra chợ mua cho cậu một ít rồi gửi sang, tôi không tin cậu ta có thể phân biệt được."
"Giải Vũ Thần không dễ bị lừa đâu." Tôi pha cho mình một ly trà rồi đến đứng bên cửa sổ. Muộn Du Bình đang nằm ngoài sân nghỉ ngơi, một chút ánh sáng cuối cùng trong ngày phản chiếu từ ao nước.
"Sao, cậu ta có lưỡi của hoàng đế à?"
"Cậu ấy sẽ đến tận ruộng để tự tay nhổ cà rốt." Tôi đáp.
"Một người bận rộn như thế làm gì có thời gian chứ."
"Anh không hiểu đâu, những gì cậu ấy từng nhắc tới chắc chắn sẽ nhớ và đích thân kiểm chứng." Tôi nói: "Dù lúc đó nghe như cậu ấy chỉ buột miệng, nhưng sau này sẽ thấy cậu ấy thực sự nghiêm túc."
"Nói vậy là cậu ta thật sự muốn ăn cà rốt?" Rõ ràng Bàn Tử không tin lắm.
"Đúng thế, nhìn như chỉ là trò chuyện vu vơ, nhưng cuối cùng, cậu ấy sẽ bảo là đã suy nghĩ kỹ rồi. Cậu ấy không bao giờ nói bâng quơ đâu."
"Thế giờ mua ít cà rốt chôn xuống được không? Cà rốt đâu phải dễ trồng, cậu cũng thấy trên mạng bảo rồi đấy, ngắn hạn thì không thể có cách nào nhanh được. Nếu chưa kịp lớn trước khi vào Đông, cậu lại phải dựng nhà kính." Bàn Tử nói, "Hay là cứ mua sẵn ở thị trấn, chôn xuống rồi đợi cậu ta đến, dẫn đi đào lên là xong."
"Vậy phần lá tính sao?" Tôi thở dài hỏi. Chắc chắn cách làm đó không ổn, nhưng Bàn Tử nói đúng. Nếu giờ mới trồng cà rốt, đợi đến khi trưởng thành thì đã vào mùa Đông, có thể lúc ấy chúng sẽ bị đông cứng hết.
"Thì cứ bảo với cậu ta đây là giống mới, gọi là 'cà rốt ngón tay cái'." Bàn Tử nói: "Chúng ta trồng ngay bây giờ, khi cậu ta đến thì cứ nhổ lên, dù có lớn hay chưa."
Cũng được, dù tôi biết khó mà qua mắt được Giải Vũ Thần, nhưng ít ra cậu ấy sẽ có cơ hội trải nghiệm cuộc sống thôn dã.
Xem như quyết định xong, Bàn Tử nói ngày mai sẽ đi mua hạt giống, nhưng cuối cùng vẫn phải tìm chỗ trồng cho phù hợp. Khu ruộng đã được bao quanh bởi các bụi cây dâu rừng chuyển từ trên núi xuống, cây cối đã bắt đầu đơm quả nên không tiện động vào gốc của chúng, phải kiếm chỗ khác mới được.
"Làm sao mà cậu biết chắc chắn cậu ta sẽ đến tìm chúng ta?" Bàn Tử bất ngờ hỏi tôi.
Tôi quay lại nhìn hắn: "Anh nghĩ cậu ấy sẽ không đến sao?"
"Chắc là cậu ta với Hạt Tử đang làm chuyện lớn mà? Tôi cứ thấy chưa chắc năm nay họ sẽ về." Bàn Tử nói.
Tôi rơi vào im lặng, bất chợt có chút ghen tị.
Ngày xưa toàn là ba chúng tôi cùng làm chuyện lớn, người khác mới là người phải lo lắng.
Đến khi trời tối hẳn, tôi lấy cuốn sổ phác họa ra, bắt đầu vẽ vài nét, định thiết kế một đài quan sát đủ rộng để chứa tất cả bạn bè.
Đột nhiên, tôi có một mong ước: Mùa gặt năm nay, mong mọi người đều có thể đến.
Đến để giúp tôi gặt lúa.
Tôi sẽ dùng cái nồi lớn từ những buổi tiệc làng quê, nấu món sườn hầm hạt dẻ thật ngon như cách các địa chủ đãi đám tá điền(1) ngày xưa. Đợi mọi người ăn no nê, họ sẽ ra đồng giúp tôi gặt lúa.
Tôi nhớ ngày xưa, đám tá điền chỉ được ăn vài miếng thịt trước khi vào vụ thu hoạch.
Tôi còn muốn xây một đài quan sát thật lớn, để trước khi bắt đầu lao động, tất cả mọi người có thể ngồi quây quần trên đó, cùng nhau tận hưởng bữa tiệc. Tôi muốn họ được thưởng thức những món đặc sản từ thiên nhiên nơi đây, uống rượu do chính tay chúng tôi ủ, ngắm nhìn khung cảnh tuyệt đẹp của mảnh đất này.
Vốn không phải người thích ồn ào, nhưng những lời của Bàn Tử ban nãy khiến tôi bỗng dâng lên một cảm giác khác lạ: Tôi hy vọng có càng nhiều người càng tốt sẽ đến đây, tham gia vào bữa tiệc này.
Không biết cảm giác này đến từ đâu, có lẽ vì lời mời của tôi có thể đưa họ thoát khỏi những nguy hiểm thường trực, để tạm thời tìm được sự an toàn tại đây.
Tôi xé bản nháp cũ vẽ một đài quan sát nhỏ, bắt đầu phác thảo một cái lớn hơn — nhận ra rằng thật ra tôi cũng không quen biết quá nhiều người, nên không cần xây quá to, nhưng ít nhất phải rộng hơn cái đài nhỏ xíu mà tôi định dùng để ba người ngồi ngâm chân.
Mời ai đây nhỉ?
Khi tay tôi lướt trên giấy, đầu óc lại bắt đầu bay bổng, nghĩ ngợi xem nên gửi thiệp mời thế nào.
Người này có thể phụ bếp.
Người này khỏe mạnh, có thể ra đầu làng giết lợn.
Người này nấu mỡ lợn.
Người này phụ trách lái xe đón khách, nên phải đến sớm hơn.
Người này... người này chỉ cần ra đồng gặt lúa, vì dùng dao mượt.
Người này thì chuẩn bị nguyên liệu được, kỹ tính mà.
Còn phải có người khuấy động không khí nữa, chứ chỉ có mình tôi thì không ổn, phải có vài người vui tính như Bàn Tử, không thì không khí sẽ nặng nề mất.
A, trong đầu đã hiện ra cảnh tượng rồi, nhất định phải thành sự thật mới được.
Do lúa được gieo muộn, nên khi chín, trời sẽ khá lạnh. Phải đặt một vài lò sưởi nhỏ trên đài quan sát để khi mọi người ăn uống, họ có thể mặc thoải mái hơn một chút.
Mái của đài quan sát chỉ cần xây nửa bên, tức là một nửa để trống, một nửa có mái che. Mái sẽ được làm từ lớp tranh đã qua xử lý đặc biệt, phải gia cố thật chắc chắn.
Nếu thời tiết đẹp, có thể ngồi ngoài trời, ăn uống đến khi mặt trời lặn, sương đêm dần buông xuống. Lúc ấy, mọi người sẽ chuyển vào phần có mái, hạ rèm cỏ để giữ ấm, đốt lò sưởi trong phòng sưởi ấm. Đoán rằng đến lúc đó, ai nấy đều bắt đầu uống rượu, làm thơ, đánh bài, tán gẫu, gọi nhau là đồ ngốc vui vẻ.
Dù sao thì vào mùa này trời rất quang đãng, chắc chắn ánh nắng sẽ đủ ấm áp.
Vậy còn thực đơn thì sao? Nhiều món chúng tôi từng sáng chế giờ đã không còn phù hợp theo mùa nữa, chắc phải chọn thêm vài món theo mùa cho thực đơn lần này, có lẽ nên giao việc này cho Bàn Tử phụ trách.
Tốt nhất là các món chính nên làm từ những gì thu hoạch được trong ruộng để tăng cảm giác tham gia. Ví dụ như chắc chắn phải có bánh tổ, xem như món chính. Giống lúa tôi mua có pha trộn nhiều loại khác nhau, có cả nếp dẻo và nếp nấu thường, nên có thể làm ra bánh tổ với nhiều hương vị khác nhau.
Ngoài ra còn có mứt trái cây. Những cây dâu rừng mà tôi đã dời từ trên núi về giờ bắt đầu ra quả, chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ chín. Chúng ta có thể giữ lại một ít quả tươi để ăn, phần còn lại đem làm mứt.
Mứt từ trái cây hoang dã rất thơm ngon, nếu ăn cùng với bánh tổ nướng thì vị sẽ càng đặc biệt hơn, nhưng việc làm mứt đòi hỏi phải có chút tay nghề.
Từ khi bắt tay vào làm nông nghiệp, tôi đã đọc không ít tài liệu, cuối cùng cũng hiểu ra tầm quan trọng của việc bảo quản thực phẩm: Mọi kỹ thuật chống hư hỏng thực phẩm trong thời cổ đại đều là những công nghệ thiết yếu cho quân đội.
Các món ăn từ nguyên liệu trong ruộng có thể tìm trước một ngày, nếu hái ngay từ bây giờ thì sẽ không giữ được độ tươi cho đến khi ăn.
À, còn nấm nữa. Vào thời điểm đó, Muộn Du Bình vẫn có thể mang từ núi về bảy tám loại nấm khác nhau, mà đặc biệt là y biết cách xử lý nấm độc—nhiều cách chế biến mà người bình thường không thể nghĩ ra.
Tuy nhiên, vẫn không nên để khách ăn nấm độc.
Chúng tôi vẫn còn kha khá mắm cua, và lúc đó cũng có thể ủ được một ít rượu nhẹ. Mặc dù không quá nồng, nhưng uống rượu ngọt vào mùa đông cũng khá thú vị.
Tôi nghĩ lại, thấy vẫn chưa đủ, vẫn còn ít món quá. Họ đều là những người bận rộn, đường xa đến đây, chắc không chỉ muốn trải nghiệm đôi chút rồi thôi. Mà thêm nữa, ai nấy đều ăn khoẻ, chắc phải gọi thêm đồ ăn ngoài mất.
Như thế không ổn chút nào, thậm chí tôi có thể hình dung được ánh mắt của Giải Vũ Thần.
Chắc chắn sẽ là ánh mắt kiểu: "Ừm, cậu làm mọi thứ rất nhiệt tình, nhưng dù sao cũng là Ngô Tà, chắc chắn sẽ có sơ hở đâu đó."
Những món họ thích ăn, tốt nhất là tôi cũng nên chuẩn bị sẵn, như ớt xanh chẳng hạn, cái này cứ ra chợ mua đi, chiều quá thành quen thì không hay. Còn gà thì có lẽ cũng phải thịt thôi? Nói mới nhớ, món canh gà nấm mà Bàn Tử nấu cho tôi trước đó, cũng không biết có phải gà tự nuôi không – nếu hắn nỡ ra tay thì tốt.
Mật ong có thể dùng làm món trứng xào tổ ong, trứng thì dồi dào. Mật ong cũng có thể trộn vào mứt trái cây, không cần thêm đường trắng vào mứt nữa.
Thực ra nhộng ong cũng có thể chế biến rất ngon, nhưng nghĩ lại thì chắc không hợp làm cho tiệc đãi khách. Nhỡ đâu ai đó không thích ăn thì lại mất vui.
Vẫn thấy có vẻ chưa đủ món ăn, tôi gãi đầu, bước tới cửa sổ nhìn ra ngọn núi phía xa.
Không biết chồn có ăn được không nhỉ? Tôi nổi lên ý xấu, định lên núi kiếm một chuyến xem có tìm được heo rừng, rắn hổ mang, hạt dẻ và đủ loại hạt dại không.
Hồi xem The Hobbit, tôi thấy nhà ông ấy có một chiếc tủ lớn đựng toàn hạt và thức ăn hái lượm từ núi, cảm giác hạnh phúc không sao tả xiết.
Cuộc sống chính là nhặt nhạnh, thu gom, chiếm một chút lợi từ Thổ Địa.
Còn vấn đề chỗ ở nữa, cũng cần tính toán kỹ. Nhiều người chen chúc trong căn nhà này, chắc sẽ phải trải chiếu ngủ dưới đất khá nhiều. Ai sẽ ở chung phòng với ai? Sắp xếp nam nữ thế nào thì hợp lý? Nghĩ đến đây, tôi không khỏi cảm thán, đúng là xây ít nhà vệ sinh quá.
Tôi lại tiếp tục cúi đầu thiết kế, bắt đầu phác thảo khu vực ngắm cảnh, lấy cảm hứng từ cách thiết kế nhà của người Hà Mỗ Độ(2), tức là xây nhà sàn. Nhà của họ chỉ sử dụng một phần mười cấu trúc có mộng gỗ, vậy thì tôi cũng chỉ cần sử dụng ít thế thôi, dù sao thì chắc chắn đài quan sát này sẽ phải dỡ trước khi bão đến vào năm sau, kẻo nó sẽ bị thổi bay lên trời mất.
Tôi cũng cần một chiếc tủ gọn gàng để cất giữ đồ ăn, nghĩa là tôi sẽ phải bố trí một không gian rộng trong khu phụ để lưu trữ các món đặc sản rừng núi.
Tôi vươn vai một cái, cảm thấy vô cùng thư thái, cuối cùng cuộc sống cũng đã quay lại quỹ đạo.
-----------------
(1) Tá điền là những người nông dân lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và hoạt động chính là canh tác ruộng đất. Đây là những nông dân không có đất riêng, phải canh tác trên những ruộng đất thuộc sở hữu của người khác, những ruộng đất thuộc sở hữu hoặc thuê bởi một quý tộc hoặc những người có tài sản.
(2) Văn hóa Hà Mỗ Độ là một nền văn hóa thuộc thời đại đồ đá mới, phát triển rực rỡ ở ngay phía nam vịnh Hàng Châu thuộc vùng Giang Nam, nay thuộc địa phận của Dư Diêu, Chiết Giang. Di chỉ Hà Mỗ Độ nằm cách 22 km về phía tây bắc của Ninh Ba, được khai quật vào năm 1973.
Chương 40: Hái quả dại
Công việc đục đẽo luôn nằm trong vùng an toàn của tôi. Sau khi căn nhà hoàn thành, tôi đã không động tới những công cụ này từ rất lâu. Nhưng giờ đây, khi mở lớp giấy dầu ra, ký ức lúc trước lập tức ùa về.
Thực ra tôi không phải là người tỉ mỉ đến vậy, những lớp giấy dầu này đều do Bàn Tử gói giúp. Hắn đã đoán trước sẽ có ngày tôi mở lại chúng, dù khi ấy tôi thề chắc nịch rằng, sau khi xây xong nhà sẽ không làm nữa.
Dĩ nhiên, lần này không tính là phá vỡ lời thề.
Tôi lên thị trấn mua một ít gỗ tuyết tùng, ngày đầu tiên, dùng bút chì vẽ đường tham chiếu, thử cưa vài nhát, nhận ra tay nghề đã trở nên lóng ngóng.
Khoảng ba ngày sau, từng chiếc tủ gỗ đã lần lượt được dựng lên. Tôi dùng tre dựng một căn chòi nhỏ cạnh bể nước tuần hoàn và tấm pin năng lượng mặt trời trên núi, rồi phủ lên đó một lớp màng nilon nhà kính. Tạm thời chưa cần đẹp mắt, cứ để tạm vậy đã.
Sau đó, tôi kéo theo Bàn Tử, chúng tôi khiêng từng cái tủ gỗ vào trong. Bàn Tử cứ cằn nhằn mãi, nói tại sao không làm tủ luôn ở trên núi mà phải làm dưới chân núi rồi lại vác lên. Sao không dựng lán trước, rồi làm tủ ngay trong lán?
Tôi nói với hắn rằng mang nguyên liệu lên núi cũng nặng không kém. Bàn Tử bảo, nếu là hắn thì chắc chắn sẽ làm đến đâu mang đến đó, chia đều khổ cực ra mỗi ngày vẫn đỡ hơn. Làm một lèo như tôi chẳng khác nào để mọi thứ dồn hết vào ngày cuối tháng, làm người ta chẳng còn sức sống.
Tôi không đáp lại.
Đến tối, cả ba chúng tôi cùng đi leo núi, tôi cầm đèn pin siêu sáng, bắt đầu tìm kiếm các loại hạt có thể hái trên núi.
Tôi nhớ rằng trên đỉnh núi có mấy cây óc chó rừng, trước đây, dù đi ngang cũng chẳng bao giờ nghĩ đến việc nhặt. Nhưng giờ thì khác, lại còn là núi sau nhà mình, không lấy thì phí. Tôi hào hứng nhặt từng hạt một, giấu hết vào trong ba lô.
Sau khi về, tôi đổ hết số hạt óc chó rừng trong ba lô ra, cho vào những chiếc lọ thủy tinh mua trên mạng, vừa đủ hai lọ đầy. Tôi bảo với Bàn Tử: "Mấy hạt này để mọi người có cái nhấm nháp khi ngồi tán gẫu nhé."
"Phải lựa kỹ đấy." Bàn Tử nói rồi đổ hết óc chó ra, trải lên tấm màng nhựa: "Mai lựa ra, chọn những hạt tốt rồi phơi khô, sau đó rang với đường và muối tiêu, rồi phơi tiếp lần nữa, sau đó mới cho vào lọ. Nếu không, nấm mốc aflatoxin sẽ phát triển, chẳng khác gì tự tạo chất độc rồi mời mọi người ăn để trả thù."
Tôi gật đầu đồng ý, nhìn kỹ lại, thấy đúng là có nhiều hạt đã mốc meo. Nhưng mốc đến mức này thì chắc họ cũng tự nhận ra mà tránh được.
Suy nghĩ một lúc, tôi cảm thấy chưa đủ thú vị, bèn rủ cả hai cùng ra đồng, men theo đường ray hướng đến ga tàu bỏ hoang. Ở đó có nhiều cây thông, hiện tại là mùa thu hoạch hạt thông.
Cánh đồng lúa phát triển rất tốt, "Hai Mươi Tư Cầu" mà chúng tôi lắp đặt xen kẽ giữa các khóm lúa giờ đây hầu như đã bị lúa che phủ hoàn toàn.
Tiến thêm một đoạn, hai bên đường ray, những cây đay cũng đã đến thời điểm thu hoạch, lá bắt đầu chuyển vàng, cây mọc rất um tùm. Nếu đi dạo dọc theo đường ray vào ban ngày, chắc chắn khung cảnh sẽ rất đẹp.
Cuối cùng, chúng tôi đã vượt qua giới hạn khám phá trước đây, đi qua nhà ga lớn bỏ hoang rồi tiến sâu hơn vào trong núi.
Lá rụng dày hơn, hầu như không có dấu vết của người qua lại, gần như không còn nhận ra đường ray, xung quanh là cây bụi mọc dày đặc. Tiến vào khu vực này chẳng khác gì chúng tôi đang thám hiểm rừng núi hoang dã, còn có một loại dây leo gai góc bao phủ hầu hết các bụi cây và thân cây, bám rất chắc, chỉ cần quần áo chạm vào là sẽ bị mắc ngay.
Bàn Tử hào hứng đi trước, bỗng hắn hét lên: "Hoàng đại tiên(1)!"
Tôi sững người, nhìn thấy những bụi cây phía trước rung lên, ít nhất có đến mười mấy con vật đang hoảng loạn chạy trốn khỏi bụi cây.
"Nhiều chồn thế này à? Chạy gì chứ?" Bàn Tử nói. "Chúng ta có làm gì đâu, chỉ đi ngang qua thôi."
"Có lẽ là do mấy hôm trước tôi nghĩ đến chuyện bắt chúng làm món ăn." Tôi nói. "Ở miền Nam núi non, kiếm thức ăn đâu dễ."
"Đồ ăn không thiếu, chỉ là người Bắc Kinh không quen thôi." Bàn Tử đáp. "Châu chấu, dế mèn, cái gì cũng ăn được cả. Ở lâu trong núi rồi, cái gì cũng ăn quen."
Tôi nhớ lại cảnh Bàn Tử nướng dế mèn ăn trong rừng, thở dài một tiếng.
Mùi vị của dế thật khó diễn tả, lúc đó, để duy trì thể lực, ít nhất tôi đã ăn tới hơn trăm con.
Đó là vào lúc nào nhỉ, hình như liên quan đến một vụ nào đó với khỉ.
"Trong 'Bản Thảo Cương Mục'(2) có nhắc đến chồn, cậu nghĩ Lý Thời Trân có từng ăn không?" Bàn Tử bỗng hỏi tôi.
"Tôi không biết." Tôi không muốn bàn về đề tài này. Bản Thảo Cương Mục còn viết về cả phân người và thịt người nữa, tôi biết Bàn Tử muốn dẫn dắt câu chuyện đi đến đâu.
Đi thêm một đoạn nữa, một ngọn núi lớn hiện ra trước mặt chúng tôi, ở giữa có một đường hầm, chắc hẳn đường ray kéo dài xuyên qua hầm. Hai bên không còn lối nào khác, muốn đi tiếp, chúng tôi chỉ còn cách bước vào trong đường hầm.
----------------------
(1) Tên một vị thần trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, được coi là một vị thần linh thiêng và quyền năng, có khả năng chữa bệnh và mang lại may mắn. Trong văn hóa Trung Quốc, Hoàng đại tiên thường được tượng trưng bởi hình ảnh một con chồn.
(2) Bản thảo cương mục là một tác phẩm y dược cổ, gồm 52 quyển, do Lý Thời Trân (Đông Bích) thời Minh biên soạn trong khoảng từ năm Gia Tĩnh thứ 31 (1552) đến năm Vạn Lịch thứ 6 (1578), qua ba lần sửa đổi bản thảo.
Bản này được sao lưu từ website Nhị Đạo Bạch Hà. Nếu bạn đọc nội dung này ở nơi khác, đó chắc chắn là bản reup.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com