Chương 24: Vụ trộm mộ lớn nhất trong lịch sử
Hoắc Tú Tú nói: "Ông già đó tên là Kim Vạn Đường, anh đã nhớ ra cái gì chưa?"
Hình tượng lão răng vàng khắc rất sâu trong trí nhớ của tôi, bởi kẻ đã kéo tôi vào tất cả mọi chuyện này cũng chính là một lão già răng vàng.
Khi Tú Tú vừa nhắc đến điều này, trong lòng tôi giật thót một cái, trên thế giới này không có nhiều chuyện trùng khớp như thế, hiển nhiên ý của cô nàng chính là, lão già răng vàng tên gọi Kim Vạn Đường này chính là kẻ đã từng đến cửa tiệm của tôi tìm bản rập kia. Trong câu chuyện của tôi và của con nhỏ này, cuối cùng đã xuất hiện một giao điểm.
Hóa ra lão chết tiệt đó tên là Kim Vạn Đường, hình như ông chủ tiệm sát vách cũng từng nhắc đến thì phải, tôi thầm cảm thấy có chút khác thường.
Trước giờ tôi không hề để ý đến lão già này, thực ra, lúc mới ban đầu tôi cũng từng nghĩ đến việc điều tra, nhưng những người trong nghề này thường hành tung bất định, mà hồi đó tôi lại không có bất kỳ kinh nghiệm gì cũng như mối quan hệ còn ít, đến khi tôi có kinh nghiệm rồi, mạng lưới quen biết cũng rộng rồi, thì ngay cả bề ngoài của lão ta như thế nào tôi cũng đã quên sạch, chẳng có chi tiết nổi bật nào có thể gợi nhắc cho tôi về lão, cho nên tôi vẫn luôn cho rằng sự xuất hiện của lão là ngẫu nhiên.
Đương nhiên, hồi đó khi lão ta đến tìm ông nội tôi, thì chỉ nói là do được Lão Dương giới thiệu, cũng nói cuốn sách lụa đó là do một người bạn đào lên được. Dựa vào mấy lời thoái thác như thế, cùng bao nhiêu là rắc rối lão đem lại cho tôi, bây giờ mới thấy đúng là không phải ngẫu nhiên, nhưng mà, lạ một điều là, tất cả những chuyện xảy ra sau đó không còn bất cứ liên quan gì đến lão ta nữa, nếu đây vốn là một âm mưu, thì thế này không khỏi quá mức bất thường.
Có điều, tuy tôi không biết sự xuất hiện của lão là ngẫu nhiên hay tất nhiên, là kế hoạch từ trước hay là số phận định sẵn, nhưng tóm lại, đúng vào ngày hôm đó lão đã bước vào cửa hàng của tôi, đó chính là sự thực không gì lay chuyển được.
Tôi gật đầu với con nhỏ, lại hỏi: "Lẽ nào, lão ta biết điều gì?"
Hoắc Tú Tú lắc đầu: "Lão ta trắng, quá sạch sẽ, không biết cái gì hết, nhưng mà lá thư đó đúng là do lão gửi, quan hệ của lão với bà nội em đúng là chỉ công việc mà thôi. Có một lần lão ta động lòng tham, động tay động chân một chút, rồi bị bà nội em phát hiện, từ đó bà không còn hợp tác thêm một lần nào với lão nữa."
Hồi đó, Hoắc Tú Tú lấy làm lạ vô cùng, chỉ có một thắc mắc thế này: vì sao sau khi đọc thư, Kim Vạn Đường lại có phản ứng như thế. Kim Vạn Đường là một con cáo già, biết thừa thế lực nhà họ Hoắc, cũng không biết Hoắc Tú Tú đến đây vì việc gì, đến tính sổ hay là dò hỏi điều chi đây, cho nên lão ta ngậm chặt miệng.
Nhưng Hoắc Tú Tú rất kiên trì, hầu như ngày nào cũng tìm đến cửa hàng của lão, khiến Kim Vạn Đường thấy phiền muốn chết.
Cuối năm ấy, cũng may mà Kim Vạn Đường gặp chuyện xúi quẩy, trong một chuyến hàng có một miếng Hán Bát Đao* cực kỳ quý báu, lại còn làm bằng phỉ thúy, cuối cùng lại bị hải quan tra ra. Vốn chỉ là một vụ án nhỏ, nhưng Hán Bát Đao phỉ thúy sau khi được định giá, phát hiện giá trị quá cao, tức thì vụ án nhỏ biến thành vụ án lớn. Món tiền tích cóp cả một đời làm máu mặt giang hồ của lão đang có nguy cơ bị tịch thu, thậm chí ngay cả cái đầu cũng sắp không giữ nổi nữa.
* Hán Bát Đao là ngọc thiền thời Tần Hán.
Đúng lúc ấy, Hoắc Tú Tú bắt lấy ngay cơ hội này, thực hiện một phi vụ giao dịch với lão. Cô nàng có thể dựa vào quan hệ của nhà mình để mở cho lão một con đường sống, có thể giữ lại được cửa hàng của lão. Lúc này Kim Vạn Đường đã bị bắt thóp, chẳng còn cách nào khác.
Sau một hồi do dự rất lâu, cuối cùng, một buổi tối, lão đã thuật lại tất cả mọi chuyện cho Hoắc Tú Tú qua điện thoại.
Hóa ra, phi vụ làm ăn mà lão phải vắt óc suy tính năm xưa không phải là chuyến làm ăn buôn bán thông thường, bây giờ mà nhìn lại, có lẽ có thể coi đó là phi vụ trộm mộ lớn nhất trong lịch sử trộm mộ ở Trung Quốc.
Năm đó, với thủ đoạn của Hoắc gia, dám động đến lợi ích của nhà họ Hoắc, chắc chắn sẽ bị đáp trả cho thân tàn ma dại. Sở dĩ chuyến đó Kim Vạn Đường được bình an vô sự, đó là bởi sau phi vụ này, Hoắc gia, thậm chí là cả mấy phường nhân mã khác nữa, toàn bộ đều đại thương nguyên khí, vốn chẳng còn hơi sức cũng như tâm tư để truy cứu cái gì nữa.
Ký ức mà phi vụ đó đã để lại cho những người này, thực sự vô cùng đáng sợ.
Nghe đến đây, hai mắt Bàn Tử sáng trưng, không khỏi ngồi thẳng hẳn dậy, hỏi: "Chém gió, phi vụ trộm mộ lớn nhất, bằng một chuyến đến bồn địa Tháp Lý Mộc của tụi này không?"
Hoắc Tú Tú lắc đầu: "Đó không phải là chuyến đổ đấu đãi cát trong quan niệm của anh đâu, phi vụ làm ăn này đã vượt quá cả khái niệm trộm mộ thông thường rồi."
Bàn Tử "Ờ" một tiếng, không nói gì thêm nữa, bởi vì một khi đã là "vượt quá cả khái niệm thông thường", vậy thì cái gọi là "lớn" không còn nằm ở quy mô nữa.
Tôi hỏi: "Vượt quá cả khái niệm thông thường, lẽ nào ngôi mộ bọn họ trộm không nằm dưới đất, mà bay trên trời?"
Hoắc Tú Tú nói: "Đương nhiên không thể như thế được."
"Thế thì nói đi, mẹ ôi, rốt cục là có gì khác bình thường chứ, mà khiến phi vụ này đặc biệt ghê gớm đến mức ấy thế?" Bàn Tử hỏi.
Hoắc Tú Tú vừa định mở miệng nói, thì Muộn Du Bình ngồi bên bỗng lên tiếng: "Bởi mục đích bọn họ trộm ngôi mộ ấy không phải là tiền, mà là vì một người còn sống khác."
Hoắc Tú Tú hơi ngạc nhiên: "Anh biết chuyện này à?"
Muộn Du Bình lắc đầu, tựa vào góc tường như bóng dây thường xuân bám bên ngoài cửa sổ, ánh trăng loang lổ rọi xuống mặt hắn, trắng bệch.
"Vậy làm sao anh biết bọn họ không phải vì tiền?" Tú Tú hỏi.
Muộn Du Bình thản nhiên nói: "Lịch sử tất yếu."
Hoắc Tú Tú liếc nhìn tôi, chắc là do không quen cái kiểu thái độ này của Muộn Du Bình, thực ra tôi định nói là hắn ta mà mở mồm nói chuyện với cô em là đã nể mặt cô em lắm rồi, vừa nãy khi hắn ngồi tựa ở đó, tôi còn tưởng hắn hoàn toàn không buồn lắng nghe.
Nhưng tôi hiểu ý của Muộn Du Bình, khi tiền đã đạt đến một con số nhất định, thì tăng thêm nữa cũng không có ý nghĩa gì, nếu đã là một phi vụ trộm mộ với quy mô lớn nhất trong lịch sử mà động cơ vẫn là vì tiền, thì có thể coi là một bi ai đối với cái nghề này của bọn tôi. Thế giới này có rất nhiều thứ còn giá trị hơn cả tiền. Không phải ngày xưa có câu chuyện hai ông chủ lớn vì tranh đoạt giang san mà nã pháo vào phần mộ tổ tiên của nhau đấy hay sao?
Lịch sử tất yếu, âm mưu lớn nhất thế giới, cuộc chiến lớn nhất, tất cả những gì lớn nhất, phía sau vẫn luôn có vài chữ "tất yếu". Chỉ là không hiểu sao tự dưng hắn lại cảm thán thế này.
Tôi giải thích sơ qua một chút, Hoắc Tú Tú ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng cũng hiểu đại khái: "Con trai các anh nhạy cảm với những thứ này hơn con gái bọn em, con gái chẳng có cảm giác gì với cái gì mà lịch sử tất yếu đâu."
Tôi bảo con bé nói tiếp, đừng câu giờ. Cô nàng nhấp một ngụm rượu trắng, rồi tiếp tục nói.
Sở dĩ Kim Vạn Đường tham gia vào "phi vụ làm ăn lớn nhất lịch sử" kia là vì nhãn lực của chính lão, vào thời đại ấy, ở thành Bắc Kinh giới học thuật rất hỗn tạp, lão ta có thể coi là nổi tiếng vì nhãn lực và "bách sự thông" (cái gì cũng biết), từ gói thuốc lá Hatamen cho đến cái yếm trước ngực đàn bà, không gì là lão không am hiểu. Nghe nói cha lão mười sáu tuổi làm trong tiệm cầm đồ, mười bảy tuổi làm cho nhà quyền quý, sau Giải Phóng làm công nhân bồi tranh trong nhà máy, nghèo kiết cho đến tận lúc chết, chẳng để lại cho Lão Kim được chút đồ gì. Thế nhưng, trong cuộc sống thường ngày, thông qua bao nhiêu việc nhỏ nhặt hàng ngày trong cuộc sống, cha lão đã dồn hết tâm sức truyền thụ theo kiểu "mưa dầm thấm đất" lại cho lão biết bao nhiêu loại kỹ xảo thưởng thức và giám định thư họa, ngọc thạch, đồ đồng, đồ sứ, đồ gỗ, đồ thêu. Theo lời của lão ta thì lão đã mất toàn bộ nửa cuộc đời của mình để đạt đến trình độ "thiên nhân hợp nhất" với thú chơi đồ cổ.
Bởi vậy, vào đầu những năm 60 của thế kỷ 20, thời điểm khi lão bị người ta kéo đi dạo chơi ở Lưu Ly Xưởng, lão liền phát hiện, con ngõ hồ đồng nhỏ bé tiêu điều đến mức có thể giăng lưới bắt chim sẻ này lại chính là một bảo bối.
Thế là, chỉ dựa vào một đôi hỏa nhãn kim tinh, lão đã bắt đầu lập nghiệp chỉ với hai đồng tiền. Kim Vạn Đường bắt đầu từ mấy cuốn sách cũ, hai đồng biến thành ba đồng, ba đồng kiếm được năm đồng, trong vòng hai năm, không ai ngờ, lão lại có thể dựa vào từng cuốn sách cũ một mà phất lên trở thành người giàu có gia tài bạc triệu giữa thị trường sưu tầm tiêu điều đến vậy. Tài nghệ của lão trong lĩnh vực cổ tịch cổ thư cũng đạt đến trình độ siêu phàm.
Đương nhiên, khi lão kiếm được tiền rồi, những văn phòng chống nạn đầu cơ tích trữ cũng bắt đầu xuất hiện, cũng may Kim Vạn Đường kế thừa đức tích cẩn thận chặt chẽ của cha mình, kịp thời thu tay lại, gia tài bạc triệu không bị phát hiện ra.
Việc làm ăn không tiếp tục được nữa, nhưng danh tiếng thì vẫn lưu truyền trong dân gian, chẳng mấy mà lan sang tận nước ngoài, người nước ngoài bắt đầu tìm đến lão, cũng bắt đầu có cơ quan lớn, gia tộc lớn, viện nghiên cứu lớn đến mời lão về làm công tác giám định và ước định giá trị đồ cổ, nở mày nở mặt cực kỳ. Phi vụ làm ăn lớn đó đến vào đúng lúc cuộc đời lão đang ở thời kỳ đỉnh cao nhất.
Dẫn đầu là Hoắc gia. Năm đó, Hoắc gia đã từng hợp tác với lão một thời gian, hắn cũng không suy nghĩ gì nhiều, bèn vui vẻ nhận lời.
Về sau nhớ lại, lão mới kể với Hoắc Tú Tú, lão ta ước đoán số lượng người dính líu đến toàn bộ "phi vụ" đó vào thời điểm ấy có lẽ phải vượt qua con số hai trăm người, cộng thêm cả phải hơn một ngàn người có dính líu đến phi vụ này mà không hề xuống đất nữa, ví dụ như, trong những công việc thu thập tư liệu, mua trang bị chẳng hạn. Vào thời kỳ đó, muốn có một số trang bị tốt tốt của Liên Xô là phải thông qua vô số tầng lớp quan hệ mới được.
Nhưng những điều này, vẫn chưa đủ để làm nên tính đặc thù nổi trội của phi vụ này. Nguyên nhân khiến Kim Vạn Đường nhận định phi vụ này vô cùng đặc biệt, đó là vì những người đứng đầu chuyến làm ăn này đều không hề tầm thường chút nào, đây không phải là một phi vụ đơn lẻ, mà có sự tham gia của rất nhiều người, nghe đồn, cả thảy là chín người.
Nghe đến đây, tôi mới giật thót tim. Mà Hoắc Tú Tú cứ như một nghệ sĩ thuyết thư kỹ thuật điêu luyện, đúng lúc này dừng lại một chút, lộ ra vẻ mặt "Anh cũng nghĩ ra rồi chứ gì".
Tôi day day mặt, nói: "Không thể nào?"
Tú Tú nói: "Lúc đầu em cũng không tin, nhưng mà, sự thực hiển nhiên là thế."
Chín người, tôi tự nhiên nghĩ ngay đến Lão Cửu Môn, nhưng mà, Lão Cửu Môn không phải là một tổ chức, đó chỉ là những danh hiệu mà người trên giang hồ gán cho bọn họ mà thôi. Nó rời rạc vô cùng, chứ không phải như kế hoạch marketing của một công ty nào đó, cho nên, khả năng bọn họ cùng thực hiện một phi vụ thấp đến mức gần như là bằng không.
Lấy một ví dụ, Phật Tổ Như Lai, Ngọc Hoàng Đại Đế và Chúa Jesus được xưng là "lãnh tụ" của ba tôn giáo lớn, nhưng mỗi một tôn giáo của bọn họ lại có một phả hệ riêng. Ví dụ Phật Tổ tập hợp Quan Âm Bồ Tát và mười tám vị La Hán đi đánh nhau thì hợp lý, nhưng mà Như Lai, Ngọc Hoàng và Jesus lại cùng kéo bè kéo lũ đi đánh nhau, thì thật là chuyện hoang đường.
Tuy nhiên, tôi lại có thể nghĩ ra một khả năng duy nhất hợp lý nhất cực đoan nhất, vào thời đại đó, khả năng này tuy khó có thể xảy ra, nhưng chắc chắn vẫn có xác suất xảy ra. Đó là: có một người ngoài nghề với thế lực cực mạnh đã can dự vào chuyện này.
Giống như trong một bộ phim Hồng Kông nào đó, có một vị quân phiệt nghe nói tứ đại danh đán nổi tiếng hát hay, thế là triệu tập đủ cả bốn người tới, kết quả, bốn người nghệ sĩ giọng hát mỗi người lại có điểm đặc sắc khác nhau, hơn nữa, cả bốn lại chỉ chuyên hát vai đán, bốn vai đán đứng trên sân khấu hát cùng lúc loạn cả lên, nghe mà nhức hết cả đầu. Có lẽ cũng có một kẻ ngoài nghề như thế, nghe nói Lão Cửu Môn lợi hại lắm, bèn triệu tập cả đám lại.
Có điều, năm đó, Lão Cửu Môn thất lạc mỗi người một phương, có những người lưu lạc giang hồ, tục ngữ nói, quan to cũng chẳng chèn ép được ăn mày, người ngoài nghề này muốn triệu tập đủ cả chín người tới, chỉ e sẽ có những người không ưng thuận.
Hoắc Tú Tú gật đầu nói: "Em nghe đến đấy cũng rất giật mình, trên giang hồ có lẽ không người nào có cơ hội được biết, Cửu Môn Đề Đốc thành Trường Sa tiếng tăm lẫy lừng vẫn luôn gằm ghè nhau lại có một lần cùng nhau liên thủ vô tiền khoáng hậu như thế. Em cũng đồng ý với phân tích của anh, nhất định là có một thế lực bên ngoài điểm danh bọn họ, bằng không, không thể nào xuất hiện cục diện quái lạ như thế được. Có điều, nghi vấn kia của anh không đứng vững được, bởi vì thế lực bên ngoài kia chắc chắc có một người phát ngôn nằm trong Lão Cửu Môn, người phát ngôn này tiến hành công việc gắp Lạt Ma, chỉ là em không biết, người gắp Lạt Ma đó rốt cục là ai, mà có khả năng khiến cả một đám trùm giang hồ ở địa phương bằng lòng chịu làm Lạt Ma để bị gắp, ngoan ngoãn ngồi hết vào cùng một mâm?"
Tôi nghĩ thầm, bây giờ chắc chắn không có cách nào khảo chứng được nữa rồi, nhưng vào những năm 60 của thế kỷ 20, trong Lão Cửu Môn quả thực có một người có đủ tư cách này. Đó là lão đại của Cửu Môn: Trương Đại Phật Gia.
Tôi không biết lúc đó Trương Đại Phật Gia còn tại thế hay không, bởi vai vế của ông ta cách mấy người bên dưới đến mấy thế hệ liền, nhưng nếu không phải chính bản thân ông ta, thì cũng có thể là con cháu của ông ta.
Điều làm tôi thấy không ổn là, ông nội tôi chưa một lần nhắc đến chuyện này với tôi, cả trong cuốn sổ tay kia cũng thế, ông không hề ghi chép lại một chút xíu thông tin gì về việc này. Xem ra, chuyện này, ông hoàn toàn không muốn bất cứ ai biết được, thậm chí, ngay cả chính bản thân ông cũng không muốn nhớ lại. Lẽ nào, đây mới chính là trung tâm của toàn bộ câu chuyện?
Có điều, do khác biệt vai vế, Lão Cửu Môn trước và sau Giải Phóng khác biệt rất nhiều. Thế hệ mới thành danh sớm, như ông nội tội, bà nội nhà họ Hoắc, thời đó vẫn còn đang tuổi tráng niên, vì Giải Phóng, tất cả mọi người ai nấy đều có cảnh ngộ khác nhau, để có thể gom những người này lại một chỗ, không biết đã phải tốn bao nhiêu công sức. Năm đó, Hắc Bối Lão Lục đã là một kẻ ăn mày, có vài người tuổi đã cao, khó có thể lặn lội đường xa được nữa, đành để đời thứ hai thay thế. Cho nên, tôi có thể đoán được, đội ngũ này kinh nghiệm từng trải và thể lực quá chênh lệch không đều, ngay từ khi bắt đầu chuyến đi này, sự chênh lệch này đã gieo xuống một mối tai họa ngầm rồi.
Đó là khoảng thời gian giao nhau giữa 1962 và 1963, một đội ngũ khổng lồ lặng lẽ tiến vào vùng núi Tứ Xuyên, Kim Vạn Đường nơm nớp lo sợ rời khỏi Bắc Kinh, cũng tham gia vào đoàn người này. Trong đội có già có trẻ, có đủ loại người có đủ màu da, với Lão Cửu Môn chia bè kết phái, ranh giới rõ ràng.
Kim Vạn Đường là người làm công tác văn hóa, không có gan cũng chẳng có sức để xuống đất kiếm ăn, vào được trong núi đã chỉ còn lại nửa cái mạng, cũng không thể ép lão tiến bước thêm nữa làm gì, đành phải để lão chờ ở điểm cắm trại trên mặt đất, còn những người khác bắt đầu sục sạo khắp bốn phía, cứ thi thoảng lại mang đồ về, đa phần là sách lụa và thẻ tre, nhờ lão phân biệt và xếp loại. Cho nên, rốt cuộc ngôi mộ cổ kia có lai lịch như thế nào, lão không hề biết rõ, cũng không dám hỏi, chỉ có thể suy đoán ra vài điều từ những món đồ người ta đưa lão xem kia.
Lão có thể xác định được vài điều, thứ nhất, hình như ở vùng đó không chỉ có một ngôi mộ cổ. Bởi những đống sách lụa và thẻ tre mà người ta bắt lão phân loại kia độ nguyên vẹn không được đồng đều, hơn nữa, nội dung trong đó quá phong phú, có thư từ, có sách cổ, có lụa sống, trong số thư từ có rất nhiều danh xưng của người nhận khác nhau, lão cảm thấy nơi này chắc chắn là một quần thể mộ cổ khổng lồ, nhóm người này đang khai quật cả một khu cổ mộ rộng lớn.
Thứ hai, cả đội ngũ này chỉ có duy nhất mình lão chịu trách nhiệm phân loại và giám định, mà toàn bộ những thứ người ta trộm được từ trong mộ rồi đưa cho lão giám định đều là văn thư với sách vở cổ đại, xem ra, mục đích cuối cùng của bọn họ có lẽ là số sách cổ nằm trong quần thể mộ cổ này.
Thứ ba, nhân số trong đội luôn giảm. Trong bãi doanh địa lúc nào cũng có người cãi cọ đánh nhau, nghe lỏm nội dung cuộc ẩu đả thì có lẽ là trong lúc kiếm ăn thường xuyên có người gặp phải chuyện bất trắc, bọn họ đang chỉ trích và đổ trách nhiệm lên đầu nhau.
Công việc khôi phục và phân tích sách cổ rất tốn thời gian, mà lão không thể ngờ rằng, một vụ làm ăn lão cứ tưởng chỉ mất khoảng một, hai tháng là xong, ấy thế mà trên thực tế lại liên tục kéo dài suốt ba năm liền. Trong ba năm này, lão phải liên tục phân tích những món cổ văn khó nhằn này không được ngừng nghỉ, nào là suy đoán triều đại, công dụng, thử phiên dịch ý nghĩa trong đó, tất cả mọi người trong đội dường như phải chịu một áp lực khổng lồ nào đó, bọn họ gần như chẳng buồn trò chuyện gì với nhau nữa, ai nấy đều lẳng lặng dốc hết sức mà làm việc của mình. Lão lo lắng tột độ, đến nỗi răng bắt đầu rụng, cân nặng từ bảy mươi lăm tụt xuống còn ba mươi lăm cân, nếu như ngày hôm đó không đến, chắc là lão đã chết luôn ở cái xó ấy rồi.
Mãi cho đến tận tết Đoan Ngọ năm thứ ba, cuộc sống đầy áp lực và bế tắc này đột nhiên bị phá vỡ, bỗng dưng không còn sách cổ nào được đưa đến chỗ lão nữa, lão ta không phải ngày ngày ngồi chết dí trong lều làm công việc khô khan nhàm chết đến khủng khiếp kia nữa.
Sự giải thoát đột ngột này mới đầu còn khiến lão hụt hẫng, nhưng chỉ hai ngày sau, nỗi lo lắng của lão mới dần dần được thả lỏng, lão có thời gian ra khỏi lều, đi dạo khắp khu cắm trại, lúc này, lão mới phát hiện, hóa ra mình đang ở một nơi tuyệt đẹp đến mức nào.
Bọn họ đang ở một khu đất bằng hiếm hoi giữa vùng núi, nếu ở gần một làng bản nào đó, rất có thể khu đất bằng này đã bị khai khẩn thành đồng ruộng từ lâu rồi. Thế nhưng chỗ này, đâu đâu cũng toàn những tán cổ thụ che kín bầu trời, có lẽ nơi này cách xa khu vực có người ở, hoặc giả, giao thông ở đây bất tiện. Nhìn về phía xa xa, có thể thấy bốn ngọn núi tuyết khổng lồ kéo dài miên man đến bất tận. Mây mù vắt qua ngọn núi, thanh khiết vô cùng, trước rặng núi tuyết vắt ngang một dải những dãy núi trùng điệp xanh ngăn ngắt, thứ màu xanh đó, không phải màu xanh non của búp trà Long Tỉnh đất Giang Nam, cũng không phải màu phỉ thúy lộng lẫy của ngọc lưu ly thành Bắc Kinh, mà là một màu xanh lục thẫm như màu lục mặc, khiến tất cả sắc màu của cả vùng này đâu đầu cũng hừng hực sức sống mạnh mẽ của cỏ cây.
Trong không khí tươi mát của núi rừng, bỗng dưng lão có một cảm giác như được thay da đổi thịt, cứ như là một loại giác ngộ, bao nhiêu u mê của ba năm qua đều bị quét sạch.
Khi sức khỏe lão dần dần hồi phục, lão bắt đầu có gan hứng thú với mọi thứ xung quanh, mọi cảm quan và tư duy cũng bắt đầu hồi phục trở lại bình thường. Lão mới phát hiện ra, khắp xung quanh không có lấy một dấu vết đào bới khai quật nào, cứ như thể quần thể mộ cổ mà lão ta suy đoán chưa từng tồn tại, mà cho dù có tồn tại, cũng không phải ở khu đất bằng này. Nhưng mà, khắp bốn phía toàn là vách núi dựng đứng, với thế núi như bị đao gọt rìu bổ này, xác suất để xuất hiện cả một khu quần thể mộ cổ với quy mô lớn là hết sức nhỏ bé.
Do không có việc gì để làm, và do cả sự hiếu kỳ, một ngày nọ, lão ta len lén bám theo đội ngũ kia vào núi. Sau khi trèo lên một sườn núi, thế núi bên trên tự dưng biến thành vách đá lõa lồ dựng thẳng đứng, cứ như thể cả phần vách núi bị một nhát dao bổ thẳng xuống cắt ngọt xớt, chém sạch những đường cong tự nhiên của núi đá, chỉ còn chừa lại bề mặt đá gập ghềnh gần như thẳng đứng. Có một cái cây mọc lên từ trong một khe đá phía trên, một con thác nhỏ từ trên cao đổ xuống xuôi theo bề mặt vách đá, giội thẳng lên tán cây cổ thụ, bọt nước trắng xóa.
Dạch vách đá như thế này thường hay xuất hiện bên bờ sông, những văn tự khắc đá nổi tiếng ở Trường Giang cũng được khắc trên một mặt vách đá như thế này. Rất có thể ngày xưa nơi này từng có một con sông lớn chảy qua, nên mới tạo ra được vách đá như thế này, bây giờ sông đã đổi dòng, nước đã cạn sạch. Đi lên phía trước nhìn xem thì quả đúng là thế, vách đá này kéo dài ra tít tắp, ít nhất cũng phải đến mười mấy cây số, không nhìn thấy đâu là tận cùng.
Trên những vách đá này, lão nhìn thấy vô số dây thừng và những ròng rọc chở đồ, có đầy người đang vắt vẻo trên đó, trông cứ như là những vách đá sản xuất tổ yến như người ta vẫn hay đồn vậy. Cùng lúc đó, lão còn phát hiện, có nhiều cuộn thừng đang bị người ta tháo dỡ ra, ném xuống, chắc hẳn chúng đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Lão liền hiểu ngay, cái gọi là mộ cổ và những cuốn sách cổ kia, thì ra là đến từ nơi này.
Đất Thục có nhiều người tu đạo, đủ các loại tôn giáo tín ngưỡng phát triển phồn thịnh, đặc biệt là mạn Tứ Xuyên. Tục truyền vùng này lắm người tìm tiên, cảm ứng được lệnh trời, cứ đến một thời điểm nhất định, người ta sẽ trèo lên vách núi này, không mang thức ăn, chỉ mang nước theo, tìm một hang động hoặc một khe đá nứt, chui vào trong đó, rồi cắt đứt dây thừng, tự tuyệt đường lui của chính mình. Trong lần tu luyện cuối cùng này, ai không thành công, thì cứ thế mà chết đói ở trên núi.
Nhiều người dùng phương thức quyết liệt này để bộc lộ quyết tâm mọc cánh phi thăng thành tiên của mình. Đặc biệt là những tiên sơn được dân địa phương lưu truyền, truyền thuyết ở địa phương càng nổi tiếng, thì lại càng có lắm người mang theo sách cổ của đám phương sĩ ngày xưa trèo lên núi, cứ thế hết đời này qua đời khác, những hang động ở đây đã tích lũy được không biết bao nhiêu hài cốt từ bao nhiêu triều đại. Những cuốn sách cổ kia có thể là do đám người này đào móc ra từ trong các hang đá, khe nứt trên núi.
Ngày hôm nay, một số cuộn thừng đã bị cắt bỏ, chứng tỏ bọn họ đã tìm được thứ mà họ mong muốn. Thế nhưng, xem chừng bọn họ lại không có ý định rời đi, bọn họ còn định làm gì nữa?
Lão ta nhìn một số đoạn thừng không những không bị tháo dỡ, trái lại còn được gia cố thêm cho chặt chẽ, cảm thấy ngoại trừ đống sách cổ kia ra thì chuyện này vẫn còn có gì đó phía sau.
Đáng tiếc, đến đây thì Kim Vạn Đường không thể tiếp tục tò mò thêm nữa, với thân thủ của lão ta, lão không thể trèo lên vách núi để xem tận mắt được, mà lão lại chẳng có gan đi hỏi cho tường tận. Những ngày sau đó, cuộc sống của lão thanh thản dễ chịu vô cùng, chính vào lúc này, cũng giống như những kẻ bắt kịp với sự thay đổi của thời đại sau thời kỳ Cải cách Mở cửa, lão bắt đầu suy tính cho riêng mình. Bấy giờ lão mới thấy hối hận vô cùng, hối hận vì sao lúc đó lão không giấu đi vài cuốn sách cổ rách nát đó làm của riêng, mặc dù chúng không còn nguyên vẹn, giá trị cũng không cao, nhưng ở đây cũng chỉ có duy nhất mình lão là có đôi mắt giám định được sách cổ, muốn giấu đôi ba phần loại thượng hạng cũng dễ như trở bàn tay.
Lão biết, đắc tội Lão Cửu Môn sẽ chuốc lấy hậu quả nghiêm trọng như thế nào, thế nhưng, cuộc sống thỏa mãn khiến lòng tham của lão như con sâu mọt gặm nhấm vào tận cốt tủy, lão tiếc đến nỗi nẫu hết cả ruột.
Con người là vậy. Chuyện xảy ra rồi mới nghĩ lúc đó đáng ra mình nên làm thế này thế kia, nhưng thực ra, nếu thực sự cho anh quay trở về thời điểm đó, có lẽ anh cũng vẫn không có gan làm như những gì mình đã nói đâu.
Có điều, lần này, ông trời lại cho lão cơ hội lần hai. Tháng sáu của năm thứ ba, có chuyện lớn xảy ra. Đột nhiên có tiếng ồn ào huyên náo, đúng giữa trưa, cả một đống người vọt ra từ trong núi, cuống cuồng vác ra đến mười mấy cái băng-ca, người nằm trên băng-ca máu me be bét, tức thì, cả khu trại nháo nhào cả lên.
Sẩm tối hôm ấy, một cuộn sách lụa to tướng gần như thấm đẫm máu tươi được gửi đến tay Kim Vạn Đường. Ba ngày sau, lần đầu tiên gã được gặp Hoắc lão thái và những người khác trong Cửu Môn, sắc mặt ai nấy đều nghiêm trọng, cả nhóm người gần như dán mắt vào nhìn chằm chằm vào lão, xem lão thực hiện công tác giám định lần cuối cùng.
Một cuộn lụa to, lão chỉ liếc mắt một cái là nhận ra, đó chính là sách lụa Lỗ Hoàng thời Chiến Quốc.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com