Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Tạng Hải Hoa quyển 1: Chương 11 - Chương 15

📌 Bản dịch gốc được đăng tại: https://metarikkuhoseki.wordpress.com/

thuộc ngoại truyện "Tạng Hải Hoa".

🚫 Vui lòng không reup hoặc sao chép khi chưa được cho phép.

Dịch: Sóc


Chương 11: Vàng còn đắt hơn vàng


Cuối cùng không ai tìm thấy Đổng Xán, manh mối duy nhất là một bức thư của hắn, được giao cho một vị lạt ma (Đức Nhân). Có kèm một bức tranh với những hình vẽ kỳ lạ trong thư, là một bản đồ sao.

Tuy nhiên, bức thư này chưa bao giờ đến tay người nhận mà bị chặn lại giữa đường. Những kẻ chặn thư không thể hiểu được hình vẽ trong đó, họ không biết rằng bức tranh chính là bản đồ chỉ vị trí của thung lũng kia.

Thế nhưng, chắc chắn người không nhận được thư sẽ không bỏ qua chuyện này. Vì vậy, một Muộn Du Bình đã đến Mặc Thoát, y đến từ gia tộc lớn ở Trung Quốc mà Đổng Xán thuộc về.

Y chính là Muộn Du Bình.

Muộn Du Bình đến để điều tra tung tích của Đổng Xán, và người tiếp ứng y tại đó chính là Đức Nhân.

Ở đây, tôi chỉ có thể suy đoán rằng Đức Nhân hẳn là một đầu mối liên lạc mà Trương gia bố trí ở Tây Tạng. Có lẽ ông ta chỉ là một lạt ma bình thường, sư phụ của ông ta cũng tên là Đức Nhân. Ông ta đang tu luyện, chờ đến khi thời cơ chín muồi sẽ thu nhận một đệ tử khác cũng mang tên Đức Nhân.

Nếu Muộn Du Bình không xuất hiện, công việc của ông ta chỉ đơn giản là tiếp tục làm lạt ma, đồng thời sẽ tìm một người kế nhiệm vị trí đầu mối liên lạc của Trương gia khi thích hợp.

Nhưng sự xuất hiện của Muộn Du Bình đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời ông ta. Cái tên Đức Nhân không còn chỉ là một chức danh với bổng lộc hàng tháng nữa, ông ta đã gặp chủ nhân thực sự của mình và buộc phải bắt đầu làm việc để xứng đáng với khoản bổng lộc mà ông ta được hưởng.

Tôi cũng có thể suy luận rằng, có lẽ hoạt động của Đổng Xán ở đây chỉ là một màn che mắt. Rất có thể hắn còn có kế hoạch khác, liên quan đến một bí mật nào đó trong dãy núi tuyết, vì thế Trương gia mới cần một người thừa kế vị trí liên lạc như Đức Nhân tại Tây Tạng.

Hơn nữa, khái niệm mười năm khiến tôi không khỏi liên tưởng đến nhiều thứ.

Nhưng rồi Đổng Xán gặp chuyện. Có thể hắn đã không thực hiện tiếp nhiệm vụ của mình, hoặc có lẽ hắn đã chết. Vì thế, Trương gia phái Muộn Du Bình đến để điều tra.

Thời điểm đó, có lẽ Trương gia đã đứng trên bờ vực sụp đổ. Nhưng đây lại là một việc hệ trọng, không thể phớt lờ, vì thế Muộn Du Bình mới lên đường một mình.

Thế nhưng, cuối cùng y không tìm thấy Đổng Xán, chỉ tìm thấy nơi mà Đổng Xán từng trú ngụ. Trong căn phòng của Đổng Xán, y tìm được một bức tranh sơn dầu. Đổng Xán từng sống ở đây, nhưng mọi thứ đã bị dọn sạch, chỉ còn lại bức tranh đó.

Tôi cần phải tưởng tượng một chút. Từ những ghi chép có được, tôi không thể đoán được suy nghĩ của Muộn Du Bình vào thời điểm ấy, nhưng tôi có thể đặt mình vào tâm trạng của Đức Nhân để suy luận ngược lại một số chi tiết.

Đó là một bức tranh vẽ một hồ nước khổng lồ, màu sắc của hồ nước kỳ ảo đến phi thực tế. Khi nhìn thấy nó, một cảm giác vui sướng và choáng ngợp tràn ngập trong lòng Đức Nhân. Ông ta chưa từng nghĩ rằng có thể tồn tại một vùng nước xa xôi, bí ẩn và tách biệt với thế giới như vậy trên thế gian này. Nhưng rốt cuộc hồ nước tuyệt đẹp này nằm ở đâu?

Đức Nhân tiếp tục quan sát và nhận ra hình ảnh phản chiếu của dãy núi trên mặt hồ. Bóng núi tuyết in xuống mặt nước, ông ta nhận ra có lẽ những đỉnh núi sừng sững bên hồ chính là núi Kailash. Bầu trời phản chiếu trên mặt hồ mang sắc trắng xám, tạo nên một bầu không khí thiêng liêng và kỳ diệu.

Đức Nhân vốn không mấy quan tâm đến các tiêu chuẩn về cái đẹp và chân lý trong tôn giáo, nhưng khi nhìn bức tranh này, dường như ông ta đã thấu hiểu được những gì mà trước đây mình không thể lĩnh hội.

Ông ta bắt đầu tưởng tượng, nếu nguồn sáng trong tranh thay đổi thì quang cảnh sẽ ra sao? Những tia sáng khúc xạ qua mặt nước sẽ tạo nên những gam màu lộng lẫy đến mức nào? Ông ta nghĩ đến những cảnh tượng khác nhau, cuồng phong, mưa bão, mưa phùn, tuyết rơi, mưa đá, sương mù dày đặc. Thậm chí ông ta còn nghĩ đến loài cá sinh sống trong hồ, chúng có khác với những loài cá ở những nơi khác không?

Ông ta nhìn chăm chú vào bức tranh suốt một thời gian dài, mãi cho đến khi nhận ra đã không còn thấy bóng dáng của Muộn Du Bình bên cạnh mình nữa. Lúc ấy, Muộn Du Bình đang ngồi một mình trước cửa phòng. Giữa dòng người đang hành hương quanh chồng đá Mani, chỉ có y là không hướng về ngôi chùa, mà lại nhìn về phía những đỉnh núi tuyết xa xăm.

Đức Nhân bước đến gần, Muộn Du Bình bèn hỏi: "Hồ nước trong bức tranh đó nằm ở đâu?"

Đức Nhân lắc đầu. Ông ta chưa từng thấy một hồ nước nào đẹp như vậy. Nếu phải đoán, ông ta nghĩ rằng nó chỉ có thể tồn tại trên thiên giới. Nhưng khi nhìn vào hình ảnh phản chiếu của núi Kailash trên mặt nước, ông ta suy đoán rằng có thể cái hồ này nằm sâu trong vùng núi tuyết, rất có thể ở tận trong lòng dãy Himalaya. Ông ta nói ra suy luận của mình, Muộn Du Bình hỏi tiếp: "Làm sao để có thể vào được dãy núi tuyết? Tôi cần sự giúp đỡ của anh, bao nhiêu tiền cũng không thành vấn đề."

Tổ chức một đội thám hiểm tiến sâu vào vùng núi tuyết là một việc vô cùng khó khăn. Nhưng nếu tìm được đúng người thì vẫn có một chút hy vọng.

Đầu tiên, Đức Nhân nghĩ đến những toàn buôn lậu vượt biên chuyên vận chuyển hàng hóa. Chỉ có những người này mới có kinh nghiệm đi sâu vào dãy núi tuyết, nhưng họ cũng chỉ dám bám theo những con đường được khai phá bằng máu và thời gian của những người đi trước chứ không phải là những vùng đất chưa từng có dấu chân người. Mà trên thực tế, so với những nơi chưa từng được khám phá, những con đường họ đi qua cũng chẳng khác là bao.

Ý tưởng thứ hai của ông ta là, nếu ngay cả những người này cũng không dám, ít nhất họ sẽ có sức thuyết phục hơn ông ta trong việc can ngăn Muộn Du Bình.

Nhưng mọi chuyện lại diễn ra ngoài dự đoán. Đức Nhân nhanh chóng tìm được ba người khuân vác sẵn sàng tiến vào vùng núi tuyết cùng Muộn Du Bình. Không biết có phải do mức giá mà Muộn Du Bình đưa ra hay không, nhưng rõ ràng đó là một con số vô cùng hấp dẫn.

Một tuần sau, Muộn Du Bình và ba người khuân vác tiến sâu vào dãy núi tuyết. Một ngày trước khi xuất phát, Muộn Du Bình nói với Đức Nhân rằng: "Mười năm sau, tôi sẽ quay lại tìm anh."

Khi Đức Nhân nhìn theo bóng lưng Muộn Du Bình rời đi, ông ta mường tượng về hành trình của người kia trong vùng tuyết trắng, những thử thách mà y có thể phải đối mặt, về hồ nước đẹp như một viên ngọc quý giữa vùng núi tuyết hoang vu kia. Rốt cuộc Muộn Du Bình đang tìm kiếm thứ gì?

Dĩ nhiên, mười năm sau, Đức Nhân đã không còn nữa. Nhưng theo lệ, một lò than vẫn được đặt trước cổng chùa, chờ đợi ngày Muộn Du Bình quay lại.

Còn Muộn Du Bình, sau khi tạm biệt với Đức Nhân, đã một mình lao vào vùng tuyết trắng mênh mông, nơi ẩn chứa vô vàn điều chưa biết.


Chương 12: Đi vào núi tuyết


Ngày thứ nhất.

Tuyết càng rơi càng dày, tất cả những lời cầu nguyện trước chuyến đi đều đã phản tác dụng.

Quả nhiên, bất kể là ai, hễ cố gắng tiến vào nơi đó, trời đất đều không cho phép. Giờ đây, những vách núi trơ trọi màu đen ở phía xa đã hoàn toàn bị che khuất. Dù vào bất kỳ thời điểm nào, cũng không thể dễ dàng đến gần nơi đó. Đó vốn không phải là chốn dành cho con người.

Liệu có sinh vật nào tồn tại trên vùng tuyết hoang vu này không? Trước đó, từng có người nói rằng đã nhìn thấy những con chim lớn và dã thú lông trắng, nhưng bây giờ nghĩ lại, có lẽ chỉ là khoác lác mà thôi. Giữa gió tuyết gào thét, không một hơi ấm, không một dấu vết của sự sống, làm sao có thể có sinh vật nào tồn tại được.

Có lẽ thứ duy nhất còn sống sót giữa trời đất này chính là ba người họ. Ban đầu là bốn người, nhưng một người trong số đó đã trở thành một phần của núi tuyết nơi đây trước khi xuất phát. Sáng nay, khi thức dậy, họ phát hiện ra người đó đã chết rét bên đường, cơ thể bị đóng băng cứng lại như một tảng đá.

Một người phu khuân vác đập rìu băng vào những tinh thể băng trên đường đi. Trong cơn gió rít, tiếng gõ băng nghe như một loại nhạc cụ kỳ bí, lúc trầm lúc bổng theo nhịp gió. Người thứ hai là Muộn Du Bình, y nhắm mắt, lần mò đi về phía trước, không phải là vì không muốn mở mắt mà bởi dù đã đeo kính bảo hộ, y vẫn chẳng thể nhìn thấy gì. Trong hoàn cảnh này, tốt hơn hết là dựa vào cảm giác.

"Có nên dừng lại nghỉ một lát không?" Một người phu khuân vác phía sau lên tiếng. Muộn Du Bình quay đầu lại, là Lạp Ba, người lớn tuổi nhất trong số họ.

Lạp Ba là một người Tây Tạng hơn bốn mươi tuổi, nhưng nhìn qua trông như đã sáu mươi. Khuôn mặt đen sạm đầy những nếp nhăn hằn sâu như bị dao khắc, là kết quả của bao năm hứng chịu sương gió. Da mặt đỏ lựng như thể vừa uống rượu. Ông ta là người giàu kinh nghiệm nhất trong nhóm, từng dẫn dắt nhiều đoàn đi qua những vùng núi hiểm trở này.

"Có thể nghỉ không?" Muộn Du Bình hỏi.

"Nếu cứ tiếp tục đi thế này, đến khi trời tối cũng chỉ tiến được mười mấy mét, chi bằng đợi gió ngừng rồi hẵng đi tiếp. Nhìn trời xem, cơn gió này sẽ không kéo dài lâu đâu." Lạp Ba nói. "Bằng không, cứ tiếp tục lê lết ở đây, chúng ta chỉ đang lãng phí sức lực mà chẳng thu được gì."

"Vậy thì dừng lại." Muộn Du Bình đồng ý.

Họ tựa vào vách núi nghỉ ngơi, nhưng chỉ có thể đứng, chờ cơn gió dần lặng. Một người phu khuân vác khác đã kiệt sức, vừa dừng lại thì lập tức trượt chân suýt ngã xuống vực, may mà Lạp Ba kịp thời kéo lại. Ông ta lớn tiếng trò chuyện với người đó, cố gắng giữ tỉnh táo.

Lạp Ba thở phào nhẹ nhõm, ông ta biết, với sức gió mạnh như vừa rồi, có lẽ đi tiếp về phía trước vẫn là lựa chọn tốt nhất. Nhưng nếu làm vậy, họ sẽ phải bước qua đoạn đường nguy hiểm này theo gió, không thể dừng lại, có lẽ phải đi xuyên đêm mới có thể nghỉ ngơi. Đến lúc đó, ít ra họ có thể dựng trại, ăn uống và ngủ một giấc tử tế. Bây giờ chịu đựng gian khổ cũng đáng, nhưng ông ta đã già, không còn đủ sức để đi tiếp. Đứng yên ở đây còn hơn tiếp tục di chuyển rồi trượt chân ngã xuống vực. Nhưng ông ta đã có tuổi, không còn đủ sức gắng gượng nữa. Thà đứng lại ở đây còn hơn, chứ ông ta thực sự không bước nổi thêm một bước nào nữa.

Khi nói vậy, ông ta lo lắng rằng người phu khuân vác còn lại sẽ phản đối, nhưng rõ ràng cả bọn đã kiệt sức. Muộn Du Bình không có kinh nghiệm, cũng không quát mắng họ như những thủ lĩnh đoàn buôn trước đây, những người luôn ép buộc thuộc hạ phải tiếp tục tiến lên.

Dù sao thì tình hình vẫn nằm trong tầm kiểm soát của ông ta. Đứng lại ở đây, ông ta từ từ cảm nhận được thể lực đang hồi phục đôi chút, như thế vẫn tốt hơn so với tiếp tục đi suốt đêm và rồi trượt chân ngã xuống. Ở độ tuổi này, thà chịu đựng còn hơn liều lĩnh xông lên. Tai nạn luôn đến bất ngờ, mà với tuổi tác hiện tại, ông ta chẳng còn phản ứng nhanh nhạy như trước nữa.

Muộn Du Bình rất nghe lời, khiến Lạp Ba có chút áy náy. Thực ra, ông ta cũng khá tò mò về người này. Ở Mặc Thoát, gần như chưa từng có ai vào sâu trong núi tuyết một mình, lại còn đi theo con đường hiểm trở này, chắc hẳn là lần đầu tiên. Nhìn tuổi tác và cách nói chuyện của y, Lạp Ba không thể đoán được mục đích của chuyến đi này, chỉ cảm thấy người này quá mức bí ẩn.

"Trông cậu không giống như đang làm việc cho người nước ngoài." Sau khi nghỉ ngơi một lúc, vài người chen chúc nhau tránh gió, Lạp Ba lên tiếng hỏi Muộn Du Bình. Ông ta cần nói chuyện để giữ tỉnh táo, nếu không, trong tình trạng kiệt sức này, con người rất dễ thiếp đi.

"Người nước ngoài?" Muộn Du Bình khẽ lắc đầu. "Tại sao lại hỏi vậy?"

"Trước đây, phần lớn những người thuê chúng tôi đi đường này là người nước ngoài. Họ đều cao lớn, có người tóc vàng, có người tóc bạc, mắt xanh hoặc xanh lục, trông như mắt mèo vậy."

Muộn Du Bình không đáp, bông tuyết dính đầy trên mặt, che đi vẻ mặt của y, có vẻ như đang lắng nghe, cũng có vẻ không muốn trả lời. Sau một lúc lâu, y mới cất tiếng: "Cũng đi con đường này sao?"

"Có đủ loại người đi đường này." Lạp Ba nói. "Mỗi con đường có mức độ nguy hiểm khác nhau, nhưng người nước ngoài thường thuê nhiều phu khuân vác, gì cũng muốn mang theo, trả tiền lại chẳng được bao nhiêu. Còn con đường này, rất ít người đi vào mùa này. Nếu không, có lẽ chúng ta còn có thể gặp một, hai nhóm khác. Nhưng thật ra, những con đường này vẫn chưa phải là khó đi nhất. Đợi tuyết ngừng rơi thì mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn. Còn phần đường không có lối đi phía trước mà cậu định đi mới thực sự kinh khủng. Tôi đã nói rồi, đi thêm một dặm, tôi sẽ khuyên cậu một lần."

Muộn Du Bình không đáp. Mỗi lần nhắc đến chuyện này, y đều giữ im lặng. Lạp Ba nghĩ, có lẽ y vẫn chưa đi đủ xa. Chỉ cần đi chậm thêm chút nữa, sớm muộn gì y cũng sẽ bỏ cuộc. Không phải ai cũng có thể chịu đựng được môi trường ở đây.

"Thế tại sao ông lại đi?" Rất lâu sau, Muộn Du Bình hỏi.

Lạp Ba im lặng một lát, nghĩ đến đứa con nhỏ ở nhà. Khi đồng ý với vị lạt ma kia tham gia chuyến đi này, trong lòng ông ta cũng có tính toán riêng. Ông ta không muốn tiếp tục tiến sâu hơn, nhưng nếu Muộn Du Bình không chịu quay lại, ông ta cũng không còn cách nào khác. Lạp Ba khẽ chạm vào con dao Tây Tạng bên hông. Giết một người quá dễ dàng, thậm chí chẳng cần đến dao. "Nợ nần." Ông ta trả lời ngắn gọn.

Động tác rất nhỏ này lập tức bị Muộn Du Bình bắt được, nhưng y không tỏ ra quá để tâm.

"Chúng ta sẽ gặp nguy hiểm gì?" Muộn Du Bình không tiếp tục hỏi dồn mà đặt ra một câu hỏi thực tế hơn.

"Nguy hiểm? Không có thứ gì gọi là nguy hiểm hay không nguy hiểm ở đây cả." Lạp Ba nói. "Tôi nói cho cậu biết, trên núi tuyết này, mọi thứ đều là kẻ thù của cậu, mặt trời, gió, tuyết, giọng nói, những tảng đá. Chỉ cần một thứ nổi giận, cậu sẽ chết. Không có gì an toàn ở đây cả, mọi thứ đều là mối đe dọa, còn có cả ma quỷ trong tuyết nữa. Những người chết trong tuyết, nếu không tìm được đường về, sẽ mãi mãi lảng vảng ở đây."

"Ma quỷ?" Muộn Du Bình như nghe được gì đó thú vị. "Các ông cũng kiêng kỵ chuyện này sao?"

"Có ai mà không kiêng kỵ?" Lạp Ba nói. "Hễ là sinh vật sống thì đều kiêng kỵ."

"Người đáng sợ hơn ma nhiều. Lòng người khó đoán." Muộn Du Bình nói. "Ma còn chẳng bằng người sống." Dứt lời, y liếc nhìn con dao Tây Tạng của Lạp Ba.

Lạp Ba chợt căng thẳng, thầm nghĩ chẳng lẽ y đã nhìn thấu gì đó? Còn đang chần chừ, con dao đã bị rút ra khỏi vỏ, rơi vào tay Muộn Du Bình.

"Cậu...?"

Muộn Du Bình thản nhiên ném con dao xuống vực sâu dưới chân. "Thứ vô dụng, giữ bên người chỉ thêm nặng."

Lạp Ba nhìn theo con dao rơi xuống, va vào tảng đá rồi bật lên, cuối cùng biến mất trong tuyết. Ông ta nhận ra mình đã gặp phải một kẻ khó chơi. Nhìn sang, thấy Muộn Du Bình cũng đang nhìn mình, ánh mắt bình thản như thể chuyện vừa rồi không phải do y làm.

Thôi kệ, ở nơi này, con dao cũng không quan trọng đến thế, Lạp Ba nghĩ. Hơn nữa, đâu chỉ một mình ông ta có dao. Trên quãng đường phía trước, sẽ có lúc cần đỡ nhau, kéo nhau. Khi ấy, ông ta vẫn có thể ra tay bất cứ lúc nào.

Gió dần nhỏ lại, cảm giác như dao cứa trên mặt Lạp Ba cũng giảm đi, khiến ông ta cảm thấy thoải mái hơn. Lúc ấy, ông ta bỗng nhìn thấy một thứ quen thuộc trên con đường núi phía trước.

Đó là một nhóm phu khuân vác khác, đang đi phía trước họ. Khoảng cách còn xa, trước đó bị bão tuyết che khuất nên không thể nhìn thấy. Giờ tuyết ngừng rơi, những đốm đen lờ mờ lộ ra.

"Lạ thật, năm nay đông người đi đường này vậy sao?" Ông ta lẩm bẩm. Không thể gọi lớn ở đây, cũng không thể nói chuyện quá to vì có thể gây lở tuyết. Ông ta chỉ im lặng quan sát, nhận ra nhóm phu khuân vác đó không hề cử động, không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống. Tất cả vẫn duy trì trạng thái như lúc đầu.

"Họ đều chết cả rồi." Nhìn hồi lâu, Lạp Ba bỗng lên tiếng. "Những người đó là xác chết."

Chắc chắn họ đã chết, và chắc chắn đã bị đóng băng ở đó. Giống như họ bây giờ, cũng từng tựa vào vách núi nghỉ chân, rồi cuối cùng bị cái lạnh cướp đi mạng sống, bị băng tuyết bao phủ rồi gắn chặt vào vách đá.

Một cơn lạnh buốt chợt xộc lên từ lòng bàn chân. Lạp Ba lập tức đứng dậy, nói với những người còn lại: "Gió đã nhỏ hơn rồi, chúng ta tiếp tục đi thôi. Phải đến xem những xác chết phía trước đó là ai."


Chương 13: Ghi chép về Giới hạn của Thế giới


Ngựa nhìn núi mà chạy đến chết(1)——Dãy Himalaya bao la, hà mã cũng chết vì kiệt sức.

Những xác chết phía trước bị đông cứng trên vách đá, nhìn vô cùng rõ ràng. Mặc dù chỉ cách họ vài chục mét, nhưng trong tình huống này, muốn thực sự tiến đến đó cũng phải mất bốn đến năm tiếng đồng hồ.

Khi Muộn Du Bình quay lại nhìn, y nhận ra thực ra nơi này không hề có đường đi. Cách duy nhất để di chuyển là bò dọc theo vách đá, nơi đây toàn là những dãy núi trùng điệp, khe sâu hiểm trở, không phải là không có chỗ đặt chân, nhưng sẽ vô cùng nguy hiểm. Y nhớ đến lời lạt ma Đức Nhân đã nói với y trước khi rời đi, thực ra một ngọn núi mà nhìn vào đã biết chắc chắn sẽ ngã chết khi leo lên thì không nguy hiểm. Chuyện đáng sợ thực sự là những ngọn núi trông có vẻ như có thể vượt qua, lại nuốt chửng nhiều sinh mạng hơn.

Dù vậy, y vẫn không có ý định lùi bước.

Dù gì Lạp Ba cũng đã tuổi già sức yếu, dựa vào vách núi nghỉ ngơi rất lâu, đến lúc lấy lại sức mới có tâm trí để nhìn những xác chết đông cứng kia.

Quá nhiều, nhìn tư thế của những người chết, Lạp Ba đã đoán được nguyên nhân tử vong của họ. Tất cả đều tựa sát lưng vào vách núi, giống như tư thế mà ông ta đang nghỉ ngơi hiện giờ. Những người đó cũng bị cơn gió lớn trước đó nhốt lại ở đây, cũng muốn nghỉ ngơi một chút rồi mới tiếp tục đi, nhưng nhiệt độ lại bất ngờ giảm mạnh, trong lúc cơ thể đã kiệt sức, họ chết cóng ngay khi đang nghỉ.

Ở vùng lạnh, đôi khi giấc ngủ và cái chết là một. Nhiều lúc, một người chỉ cần vài giây ngắn ngủi để chết cóng.

"Cậu chủ, có lẽ những người này đi từ trong núi ra. Họ nghỉ ngơi ở đây, nhưng nhiệt độ giảm đột ngột, gió lớn nổi lên, thế là bị đông cứng đến chết. Những người này còn may mắn đấy, còn giữ lại được thi thể. Còn rất nhiều người khác, có thể đã bị đóng băng rồi rơi xuống vực sâu, vùi trong tuyết, mãi mãi không ai tìm thấy."

"Đi ra?" Muộn Du Bình hơi nhướng mày: "Có người hoạt động trong núi tuyết à?"

"Không phải như cậu chủ nghĩ đâu. Người nước ngoài thường xuyên đi vào đó, nhưng không phải để thám hiểm hay tìm kiếm gì cả. Họ chỉ muốn tìm ra con đường băng qua những ngọn núi này, để có thể xuyên qua khu vực không người phía trước." Lạp Ba giải thích, giọng điệu của ông ta ngầm ám chỉ rằng, nơi đó thực sự là một vùng đất hoang vu không một bóng người.

Muộn Du Bình chỉ gật đầu, mắt nhìn về hướng mà những thi thể kia xuất hiện. Lạp Ba thở dài một hơi, đúng lúc đó, một người phu khuân vác khác đang nghỉ ngơi bên cạnh bỗng hét lên mấy câu bằng tiếng Tạng. Muộn Du Bình không hiểu, nhưng Lạp Ba thì nghe rất rõ: "Đều là người lạ."

Lạp Ba quay lại nhìn về phía những xác chết. Trong gió tuyết mịt mù, ông ta không thể nhìn rõ từng khuôn mặt, nhưng vẫn cố gắng quét một vòng, ông ta nhận ra những khuôn mặt đông cứng vì lạnh kia đều rất xa lạ.

Không thể nào, những phu khuân vác ở Mặc Thoát, nếu không nhận ra tất cả, thì ít nhất cũng phải biết được chín trên mười. Nếu thực sự xảy ra một tai nạn lớn như thế này, lẽ ra trong số những người chết, ít nhất cũng phải có một nửa là người quen của họ. Nhưng rõ ràng, những khuôn mặt kia quá xa lạ.

"Không phải người Mặc Thoát." Lạp Ba thấy có vẻ như Muộn Du Bình muốn hỏi thêm, bèn nói tiếp. Ông ta chưa từng nghe nói có một đoàn người lạ với quy mô như vậy ra vào Mặc Thoát, vậy rốt cuộc họ đến từ đâu? Lẽ nào họ đã đi vào vùng đất hoang vu từ một nơi khác, đúng lúc đi ngang qua đây khi ra ngoài?

Trong lòng Lạp Ba tràn đầy nghi ngờ. Theo như ông ta biết, từ xưa đến nay, chỉ có một vài con đường có thể xuyên qua vùng đất hoang vu này. Những chỉ có những người phu khuân vác ở đây mới biết con đường đó, được truyền từ đời này sang đời khác theo kiểu cha truyền con nối. Bởi vì dù dùng lời nói hay bản đồ cũng không thể miêu tả rõ ràng, phải đi qua những con đường này ít nhất mười mấy lần mới có thể nhớ được, thế nên về cơ bản thì không thể bị lộ ra ngoài.

Một người phu khuân vác khác tiếp tục nói với Lạp Ba bằng tiếng Tạng. Ý của hắn là, lần này có thể thu hoạch được gì đó. Ở vùng núi tuyết, gặp phải thi thể chưa hẳn là chuyện xấu. Thứ nhất, có thể những người chết sẽ mang theo nhiều vật dụng giá trị trên người, có thể đổi lấy tiền.

Thứ hai, nếu biết được danh tính của họ, còn có thể nhận được chút tiền từ thân nhân của họ để đổi lấy thông tin.

Người phu khuân vác đó chỉ về phía một thi thể xa xa, Lạp Ba lập tức nhận ra đó là ba người nước ngoài. Cách ăn mặc của họ hoàn toàn khác với những người còn lại, bên cạnh còn có vài người Tạng giúp họ khiêng vác rất nhiều hành lý.

Ai cũng biết hành lý của người nước ngoài thường có đồ đáng giá. Thông thường, đám Lạp Ba sẽ không động đến người nước ngoài. Thứ nhất, các lạt ma có mối quan hệ rất tốt với người nước ngoài, nếu họ gặp nạn, sự việc sẽ không dễ dàng kết thúc, và những người liên quan có thể bị trừng phạt rất nghiêm khắc. Thứ hai, người nước ngoài luôn giữ lại một nửa số tiền để thanh toán sau khi trở về, hơn nữa những món đồ họ mang theo đều rất quý hiếm, nhưng chỉ cần đem đi bán thì có thể bị chùa hoặc chính quyền phát hiện.

Nhưng lần này lại hơi khác. Rõ ràng ba người nước ngoài này không xuất phát từ Mặc Thoát. Nếu vậy, dù những món đồ họ mang theo xuất hiện ở Mặc Thoát cũng sẽ không gây ra vấn đề gì.

Cả nhóm phải tốn công sức lắm mới lấy được mấy chiếc ba lô đó rồi tiếp tục lên đường. Không cần phải nhắc lại toàn bộ quá trình, vì trong ghi chép cũng không miêu tả chi tiết, chỉ biết rằng đây không phải một nhiệm vụ dễ dàng.

Vào khoảng lúc mặt trời mọc ngày hôm đó, Lạp Ba dẫn tất cả mọi người đến một sườn tuyết. Họ đào một cái hố trong tuyết để chắn gió và nghỉ ngơi, nhân cơ hội đó mở ba lô ra kiểm tra.

Bên trong chủ yếu là các thiết bị và mẫu đá. Người nước ngoài luôn mang theo đá, Lạp Ba biết đó là mẫu vật, nhưng ông ta không hiểu chúng được dùng để làm gì.

Khi mọi người lật tìm, đoán xem những thiết bị kia có giá trị bao nhiêu, họ phát hiện ra trong ba lô có hai quả cầu vàng. Hai quả cầu vàng được đặt trong một hộp sắt. Trong hộp còn có một vật được bọc rất kỹ bằng vải.

Có ba thứ bên trong, nhưng chỉ có hai quả cầu vàng là để lộ ra ngoài, còn vật kia lại được bọc kín như vậy, lẽ nào nó còn quý giá hơn cả vàng?

Nhưng khi mở ra, họ nhận ra đó chỉ là một khối kim loại đen giống như đá, trông cực kỳ xấu xí.

Suốt quá trình đó, Muộn Du Bình chỉ chú ý đến một thứ duy nhất trong ba lô, là thứ bị cho là không đáng giá nhất, một cuốn sổ tay chi chít chữ viết của người nước ngoài.

Lạp Ba nhìn dáng vẻ chăm chú của Muộn Du Bình, quyết định tạm thời không quấy rầy. Bọn họ đã có được hai quả cầu vàng, ông ta cảm thấy không cần phải đi tiếp nữa, biết đâu bọn họ đã giàu hơn cả Muộn Du Bình rồi.

Lạp Ba đắm chìm trong niềm vui sướng, cảm thấy đây là ngày quan trọng nhất trong cuộc đời mình.

Trong lúc ông ta còn đang hân hoan và suy nghĩ cách giải thích với Muộn Du Bình về lý do mình muốn rút lui, Muộn Du Bình lại đưa cuốn sổ tay của người nước ngoài cho ông, hỏi ông ta xem dòng chữ này có nghĩa là gì.

Thì ra có một thứ gì đó được vẽ trên một trang của cuốn sổ. Bên cạnh bức vẽ, người nước ngoài dùng chữ Tạng nguệch ngoạc để ghi chú.

Lạp Ba không biết nhiều chữ nhưng ông ta lại hiểu được câu này, vì lúc hành lễ, các lạt ma đã từng giảng giải về nó. Dòng chữ Tạng kia có nghĩa là "Giới hạn của thế giới".

Lạp Ba không hiểu, ông ta nhìn bức vẽ bên cạnh dòng chữ Tạng rồi quay sang Muộn Du Bình với vẻ mình chỉ biết đến đó mà thôi.

--------

(1) Ngựa nhìn núi mà chạy đến chết: Khoảng cách tưởng chừng như gần nhưng thực tế rất xa, đánh giá sai lầm về khoảng cách hoặc độ khó.


Chương 14: Bí mật của Giới hạn


Giờ đây, cuốn sổ tay với bức vẽ đó đang đặt ngay trước mặt tôi. Đây là thứ mà lão lạt ma sai người mang đến cho tôi.

Không còn nghi ngờ gì nữa, tôi không hiểu được những chữ viết trong đó, nhưng tôi có thể nhận ra đây là tiếng Đức. Rõ ràng, những thi thể mà Tiểu Ca phát hiện ra năm đó chính là thi thể người Đức.

Dù không thể hiểu nội dung của những dòng chữ, nhưng khi nhìn thấy bức vẽ, tôi cũng có thể đoán ra cuốn sổ này đang nói về thứ gì. Có rất nhiều bản phác thảo bên trong, và chỉ vài trang trước bức tranh có dòng chữ "Giới hạn của thế giới" bằng tiếng Tạng, tôi đã nhìn thấy một cánh cửa đồng khổng lồ.

Cánh cửa đó được phác họa bằng những nét bút vô cùng tinh tế. Chắc chắn chủ nhân của cuốn sổ là một bậc thầy hội họa. Tôi có thể nhận ra, mặc dù cánh cửa này không giống hoàn toàn với cánh cửa tôi từng thấy ở núi Trường Bạch, nhưng tôi biết chắc rằng, nhất định chúng thuộc cùng một loại.

Hóa ra, không chỉ có một cánh cửa khổng lồ như thế này? Lẽ nào, trong nơi sâu thẳm của dãy Himalaya cũng có một cánh cửa đồng khổng lồ khác?

Trong lòng tôi tràn ngập sự kinh ngạc, tôi lập tức nhìn sang dòng chữ "Giới hạn của thế giới" và bức vẽ bên cạnh.

Chẳng lẽ thứ được vẽ trong bức tranh này chính là Tận cùng(1)?

Tôi chăm chú quan sát bức vẽ ấy suốt ba ngày, đến lúc đó, tôi mới nhận ra nó vẽ gì. Tiếp đó, tôi sẽ dùng những lời chi tiết nhất để mô tả thứ được vẽ trên trang giấy này. Nếu ai thông minh, có lẽ sẽ đoán ra.

Đầu tiên, cuốn sổ này có kích thước chỉ bằng lòng bàn tay. Thứ hai, hình vẽ trên đó được phác thảo bằng bút chì, đường nét vô cùng tinh tế. Rõ ràng, khi vẽ bức tranh này, chủ nhân của nó không chỉ đơn giản là vẽ lại hình dáng mà còn đặt tiêu chuẩn vẽ cao như đang sao chép lại một tác phẩm nghệ thuật. Vì thế, bức tranh này được vẽ một cách cực kỳ tỉ mỉ.

Cuối cùng, trong bức vẽ, tôi có thể nhìn thấy một vật thể trông giống như một chiếc mai rùa. Tôi không có thước đo nên không thể xác định kích thước của nó, nhưng dựa vào hình người đứng bên cạnh, có thể thấy đây là một vật thể khổng lồ.

Có vô số vết nứt nhỏ li ti trên mai rùa, khiến tôi kinh ngạc nhất là người vẽ đã cẩn thận phác thảo lại toàn bộ những vết nứt này. Nhìn vào cách thể hiện, tôi biết rõ ông ta đã vô cùng tỉ mỉ trong từng nét vẽ, chứ không phải cố tình phô trương kỹ năng hội họa của mình.

Bên cạnh vật thể hình mai rùa đó còn có tám vật thể nhỏ hơn, cũng có hình dạng tương tự. Chúng không sắp xếp theo quy luật nào cả, nhưng lại tạo thành một bố cục kỳ lạ cùng với vật thể lớn kia.

Xung quanh tất cả các vật thể đó là vô số sợi dây dài trông như xúc tu, hoặc giống như những sợi cáp điện, đan xen chằng chịt tựa như mạng nhện.

Đây chính là giới hạn của thế giới sao?

Ngày thứ mười một:

Muộn Du Bình đã không còn biết mình đang ở đâu nữa, xung quanh chỉ toàn là tuyết trắng mênh mông. Nếu như những ngày trước, những dãy núi tuyết sừng sững và lớp mây mù còn khiến ông ta cảm thấy một chút kính sợ thì đến giờ, ông ta đã hoàn toàn tê liệt với cảm giác đó.

Sau khi lấy được quả cầu vàng, Lạp Ba và người phu khuân vác kia vô cùng vui mừng. Muộn Du Bình nói với Lạp Ba rằng, có thể sẽ còn rất nhiều những quả cầu như vậy ở đích đến của y. Nghe vậy, Lạp Ba bắt đầu tin rằng có lẽ Muộn Du Bình là con cháu của một gia đình giàu có, đi sâu vào vùng núi tuyết một mình cũng chỉ vì lý do này nên ông ta có thể chấp nhận.

"Cậu cũng đến ngọn núi này vì những quả cầu vàng đó sao?" Lạp Ba hỏi khi họ đang đi trên đường. Những ngày qua, họ chủ yếu di chuyển trên các sườn tuyết nên tốc độ đi lại tương đối thoải mái, cũng có thêm nhiều thời gian để nghỉ ngơi.

Dường như Muộn Du Bình có chút khó khăn trong việc trả lời câu hỏi đó. Y im lặng suốt một lúc lâu rồi mới khẽ lắc đầu, nói: "Chắc cũng không tính là vậy."

"Nó có liên quan đến một bí mật." Muộn Du Bình tiếp tục. Y đi chậm rãi, kể với Lạp Ba một vài chuyện mà ông ta không biết.

Từ rất lâu về trước, gia tộc của Muộn Du Bình từng nhận được một chiếc hộp đá chạm rồng từ tay hoàng đế Trung Hoa. Chiếc hộp này được những tử tù khai quật từ sâu trong lòng núi. Điểm đặc biệt nhất chính là chiếc hộp hoàn toàn không có khe hở, là đồ nguyên khối, vì thế nên ngay cả hoàng đế cũng không thể mở được, đã nhờ các bậc cha chú trong gia tộc y.

Muộn Du Bình không biết chiếc hộp đó đã được mở ra như thế nào, vì quá trình ấy vô cùng huyền bí. Nhưng sau đó, những người đời trước trong gia tộc đã triệu tập một cuộc họp kín xuyên đêm, và từ đêm đó, rất nhiều chuyện đã thay đổi.

Lạp Ba nghe mà chẳng hiểu gì, nhưng ông ta thấy chuyện đó thật kỳ lạ. Ông ta biết Muộn Du Bình sẽ không kể toàn bộ cho mình nghe, nhưng câu chuyện này lại khiến ông ta nhớ đến một truyền thuyết về loài rồng mà lạt ma từng kể. Trong câu chuyện ấy, cũng có một chiếc hộp được lưu truyền qua các thế hệ.

"Mở chiếc hộp đó ra là một sai lầm. Có những thứ, nếu không biết thì cũng chẳng sao, nhưng một khi đã biết rồi thì sẽ phải gánh chịu số phận không thể nào thay đổi được." Muộn Du Bình lẩm bẩm. "Có lẽ, trong vùng núi tuyết này, tôi sẽ tìm được cách để đóng chiếc hộp đó lại. Chúng ta chỉ có được nửa đầu của câu chuyện, nhưng lại đánh mất phần còn lại. Vì thế, tôi chỉ đành tự đến đây thử một lần."

"Thế còn những người khác trong gia tộc cậu?" Lạp Ba hỏi.

Muộn Du Bình thản nhiên nhìn về phía những đỉnh núi tuyết, đáp: "Họ cũng đang ở một nơi khác, giống với nơi này."

Lạp Ba không hỏi thêm nữa. Ông ta cảm thấy Muộn Du Bình chỉ đang muốn đánh lạc hướng suy nghĩ của mình. Chẳng biết những thông tin này là thật hay giả, nghe xong cũng chẳng có ý nghĩa gì. Những lời của Muộn Du Bình không khiến ông ta bận tâm, trong đầu ông ta chỉ nghĩ đến những quả cầu vàng kia.

Có được chúng, cuộc đời ông ta sẽ thay đổi hoàn toàn. Đây là một canh bạc đáng để ông ta đặt cược, dù có thua thì ông ta cũng chẳng mất mát gì.

Ngày thứ mười hai trôi qua mà không có chuyện gì xảy ra. Khi mặt trời lặn, Lạp Ba nhìn về phía sườn núi có ánh mặt trời chiếu rọi, đột nhiên nhận ra rằng ông ta hoàn toàn không biết mình đang đi về đâu. Có thể nơi có những quả cầu vàng nằm ở bất kỳ đâu trong vùng tuyết trắng mênh mông này.

Manh mối duy nhất chính là hồ nước khổng lồ trong lòng núi tuyết. Lạp Ba tự nhủ rằng dù nơi này có rộng lớn và hoang vu đến đâu, dù đây là vùng đất bí ẩn nhất trên nóc nhà thế giới, nhưng một hồ nước lớn như vậy thì dù có ở xa thế nào, cuối cùng cũng sẽ nhìn thấy.

Ông ta và người phu khuân vác kia lặng lẽ ngồi nghỉ, nghĩ về những quả cầu vàng và cuộc sống sẽ thay đổi ra sao khi sở hữu chúng. Tôi không biết họ đã đờ đẫn như vậy bao lâu. Tôi từng đến vùng núi tuyết, biết rằng ở đó chẳng có gì để làm ngoài thả hồn theo những suy nghĩ miên man.

Tôi cũng không biết Lạp Ba phát hiện ra ánh sáng lóe lên giữa vùng tuyết phía trước bằng cách nào, đó thực sự là một việc cực kỳ khó khăn.

Dù sao đi nữa, vào lúc hoàng hôn chưa tắt, Lạp Ba đã nhìn thấy có ánh sáng chớp nháy theo nhịp điệu trong dãy núi tuyết phía trước.

Đó là ánh sáng màu xanh lục, nhấp nháy theo một tần suất nhất định. Ban đầu ông ta tưởng rằng mình hoa mắt, bởi nơi này cách khu vực có người sinh sống gần nhất cũng phải mất mười mấy ngày đường, hơn nữa ông ta cũng chưa từng thấy loại ánh sáng xanh nào như vậy.

Ông ta nhìn một lúc rồi quay sang gọi Muộn Du Bình đến xem. Nhưng vừa quay lại, ông ta lập tức nhận ra Muộn Du Bình đã nhìn thấy từ lâu. Đến khi Lạp Ba quay đầu về phía đó một lần nữa, ánh sáng chớp tắt kia đã bắt đầu di chuyển, dường như đang tiến về phía bọn họ.

Lạp Ba bắt đầu hoảng loạn, ông ta không biết đó là thứ gì. Là dã thú? Một loài chim lớn? Hay là quái vật gì đó? Ông ta đứng bật dậy, định tìm chỗ ẩn nấp, nhưng Muộn Du Bình đã nhanh chóng túm lấy ông ta và người phu khuân vác còn lại, kéo cả hai nấp sau một sườn tuyết. Ba người vùi mình vào lớp tuyết, dõi mắt nhìn ánh sáng xanh lục kia chập chờn sau những rặng núi, lúc ẩn lúc hiện. Chỉ một lát sau, nó đã vòng qua những đụn tuyết phía trước, tiến gần về phía họ hơn.

Ánh sáng xanh di chuyển cực nhanh. Đồng thời, họ cũng nghe thấy một chuỗi âm thanh lảnh lót như tiếng chuông, vang vọng trong không gian trắng xóa.

Không bao lâu sau, họ đã nhìn thấy hình dáng thật sự của ánh sáng đó. Đó là một đoàn người kỳ lạ, họ mặc trang phục của người Tây Tạng, khiêng một vật thể trông rất quái dị trên vai. Đầu của vật thể ấy phát ra ánh sáng xanh lục rực rỡ, trong khi phần thân sau hoàn toàn bằng gỗ, treo đầy những chiếc chuông nhỏ trên đó, rung lên leng keng không ngớt theo từng bước chân.

Vẫn có người xuất hiện ở nơi này sao? Lạp Ba cảm thấy chuyện này thật khó tin. Ông ta nhìn thấy rõ ràng những người đó đang băng qua thung lũng ngay trước mặt họ, hướng sâu vào trong núi.

Khoảng cách giữa họ và đoàn người kia vẫn còn khá xa, Lạp Ba không thể nhìn rõ chi tiết. Thậm chí ông ta không dám chắc đó có phải là người sống hay không. Có khi nào đó là những hồn ma trên núi tuyết?

Nhưng Muộn Du Bình đã đứng dậy ra hiệu cho Lạp Ba và người phu khuân vác lập tức đi theo.

"Nếu nơi này có người sinh sống, họ nhất định sẽ ở gần hồ nước." Muộn Du Bình nói. "Bám theo họ, có lẽ chúng ta sẽ tìm được nơi mà mình muốn tìm."

----------

(1) Đây là cách mình dịch từ Chung Cực (终极) nhé, từ này hoàn toàn có thể dịch được chứ không cần để âm Hán Việt. Mình áp dụng cách dịch này trong cả 8 quyển truyện chính.


Chương 15: Bộ tộc bí ẩn trong núi tuyết


Những gì được kể lại sau đó vô cùng kỳ lạ, có thể thấy rằng cách Muộn Du Bình ghi nhớ mọi thứ không giống chúng tôi. Chúng tôi thường nhớ lại sự việc một cách ngẫu nhiên, không quan tâm đến trình tự trước sau hay vài ngày sau có còn nhớ hay không. Nhưng trong cách kể chuyện của y, tôi nhận ra rằng ký ức của y được sắp xếp rất có hệ thống.

Có lẽ bởi vì y biết rằng một ngày nào đó, y phải nhớ lại tất cả, nên đã rèn luyện một phương pháp ghi nhớ đặc biệt.

Thứ đầu tiên mà y miêu tả lại là địa hình của khu vực đó.

Lúc đó, Muộn Du Bình đang ở trên một dãy núi tuyết. Họ đã ở độ cao rất lớn, nằm trên nóc nhà thế giới. Nhưng ở độ cao này, không phải cứ nhìn xuống là thấy những vách núi cao năm đến sáu nghìn mét. Nhìn từ đỉnh núi, toàn bộ vùng núi tuyết trông giống như một vùng đồi gồ ghề, đen trắng tương phản sắc nét. Chẳng qua những ngọn đồi đó không tròn trịa như ở phương Nam, mà toàn bộ đều là đá đen bị cắt xẻ sắc nhọn như lưỡi dao, gai góc và hiểm trở.

Có rất nhiều thung lũng giữa những ngọn núi, tất cả đều bị tuyết phủ kín. Ở một số nơi, không thể tưởng tượng nổi độ dày của tuyết. Đó là một dãy núi chìm trong băng tuyết, bên dưới lớp băng chính là đá.

Nhóm người kỳ lạ đó đang di chuyển trong thung lũng, còn Muộn Du Bình thì đứng trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ quan sát họ.

Không nghi ngờ gì nữa, nếu muốn theo kịp bọn họ, y phải xuống khỏi đỉnh đồi trước đã. Khi đó ánh sáng khá mờ nhạt, ánh hoàng hôn chiếu lên mặt tuyết khiến tuyết phản chiếu một sắc tím vàng huyền ảo. Nhưng dù có chút ánh sáng, lội qua lớp tuyết dày đặc để xuống dưới rồi đuổi theo họ vẫn là một chuyện vô cùng khó khăn.

Đồng thời, kỳ lạ hơn nữa là những người Tây Tạng đó di chuyển trên tuyết với tốc độ cực nhanh, nhanh đến mức trông như không phải đang đi mà đang lướt trên tuyết.

Những ai từng đi trên tuyết đều biết rõ, không thể nào bước đi nhanh như thế trong điều kiện như vậy. Hơn nữa, nhìn vào mức độ lún của họ trên nền tuyết, dường như lớp tuyết dưới chân họ không hề dày.

Muộn Du Bình chỉ đuổi theo vài bước đã nhận ra có gì đó không ổn, lập tức dừng lại suy nghĩ xem nên làm gì tiếp theo. Đến khi Lạp Ba đuổi kịp, ánh sáng xanh kỳ lạ kia đã biến mất.

Trên nền tuyết chỉ còn lại một hàng dấu chân, nhưng cơn gió mạnh thổi qua đang nhanh chóng xóa nhòa chúng.

Muộn Du Bình và Lạp Ba lao xuống thung lũng, nhưng ngay lập tức nhận ra bất thường. Tuyết ở đây ngập đến tận thắt lưng họ, hoàn toàn không giống với những gì đã thấy khi nhóm người kia di chuyển.

Họ vật lộn lội qua lớp tuyết dày, mãi mới đến được chỗ dấu chân. Khi Lạp Ba cúi xuống quan sát, ông ta nhận ra có gì đó nằm dưới tuyết. Họ vội vàng gạt tuyết sang hai bên, rồi kinh ngạc khi phát hiện ra có một cây cầu được xây dựng bằng đá và gỗ ở bên dưới. Chắc chắn những người Tây Tạng kia đã đi trên cây cầu này.

Họ leo lên cây cầu, dùng chân đẩy tuyết ra để kiểm tra, nhận thấy tuyết chỉ dày đến đầu gối. Cây cầu vô cùng vững chắc, không hề rung chuyển khi giẫm lên. Nguyên liệu xây dựng là loại đá đen phổ biến trong dãy Himalaya.

Ai đã xây dựng cây cầu này? Nó kéo dài bao xa? Dẫn đến đâu? Lạp Ba thầm nghĩ. Nếu biết có con đường ẩn dưới tuyết này từ trước, họ đã không cần mạo hiểm đi qua những vách đá cheo leo, cũng không phải mất quá nhiều thời gian để leo dốc tuyết.

Muộn Du Bình giẫm mạnh vài lần lên mặt cầu để kiểm tra, sau đó lập tức lao về hướng ánh sáng xanh đã biến mất. Dấu chân đang nhanh chóng bị xóa nhòa, y bước đi rất nhanh, buộc Lạp Ba phải vội vàng đuổi theo.

Cảnh vật xung quanh gần như giống hệt nhau, nếu không có kiến thức cơ bản thì rất dễ bị lạc đường giữa những dãy núi tuyết. Nhưng Lạp Ba thì không lo lắng, vì khi đứng trên đỉnh núi tuyết, chỉ cần tầm nhìn đủ rộng, chắc chắn có thể thấy một vài ngọn núi mang tính biểu tượng. Những ngọn núi này có thể giúp xác định họ có đang đi vòng tròn hay không.

Vào ban đêm, bầu trời đầy sao ở đây rực rỡ khác thường. Dải Ngân Hà chưa bao giờ hiện lên rõ ràng như thế, kéo dài ngang qua bầu trời. Các chòm sao và những vì sao cũng có thể giúp định hướng, vì vậy Lạp Ba không hề lo lắng.

Hai tiếng đầu tiên, họ đi mà không có mục tiêu rõ ràng. Họ nhận thấy rằng cây cầu này không hề có bất kỳ chỗ rẽ nào. Chắc chắn đây là một con đường được xây dựng có chủ đích, nối từ nơi này đến một nơi khác, việc xây dựng một công trình như thế này trong vùng núi tuyết thực sự đáng kinh ngạc. Trước hết, để làm được việc đó thì cần phải dọn sạch lớp tuyết dày, không phải là một công việc dễ dàng.

Gần ba tiếng sau, cuối cùng họ cũng theo kịp ánh sáng xanh. Nhưng lúc đó, ánh sáng đã mờ đi phần nào, còn những người Tây Tạng vẫn tiếp tục tiến về phía trước.

Khoảng thời gian sau đó kéo dài ngoài sức tưởng tượng của họ. Tôi sẽ bỏ qua phần chi tiết, chỉ nói về độ dài của hành trình. Gần như phải đến ba ngày sau, họ mới đi hết quãng đường dọc theo con đường phủ tuyết này và đến điểm cuối của cây cầu.

Khi họ rẽ qua một khúc quanh, đúng lúc mặt trời lên đến đỉnh đầu, ánh nắng vô cùng chói chang. Họ đeo kính bảo hộ, tiến vào một cửa núi, và ngay sau đó, trước mắt họ bỗng trở nên vô cùng rộng lớn và rực rỡ.

Một hồ nước khổng lồ trong suốt như hổ phách, tựa như một viên ngọc khổng lồ, đột nhiên xuất hiện giữa cánh đồng tuyết.

Hồ nước này vô cùng kỳ lạ, hoàn toàn khác với những hồ nước ở vùng cao nguyên khác. Nó không có bờ cát hay bãi đất xung quanh. Bốn phía của hồ đều được bao phủ bởi tuyết trắng và băng giá, những lớp băng kéo dài từ mép hồ vào sâu trong lòng hồ, chỉ đến khi cách trung tâm khoảng hai đến ba trăm mét thì mặt nước mới bắt đầu hiện ra.

Dưới ánh nắng, mặt hồ hoàn toàn tĩnh lặng, không có lấy một gợn sóng, trông như một mặt kính phẳng lặng. Ánh sáng phản chiếu trên bề mặt khiến hồ nước như được dát một lớp vàng, cảnh tượng đẹp đến khó tin.

Hồ nước này rộng từng nào? Lạp Ba không thể xác định được, vì kích thước của nó đã vượt quá mọi sự so sánh mà ông ta từng biết. Nếu phải mô tả, có lẽ ông ta sẽ nói rằng nó rộng lớn như bầu trời. Nhưng nếu ước lượng bằng mắt thường, hồ nước này có diện tích tương đương hai ngọn núi tuyết.

Trong khu vực núi tuyết này, một hồ nước có kích thước như vậy chẳng khác nào một đại dương.

Những người Tây Tạng mang theo ánh sáng xanh kia tiếp tục đi thẳng về phía mặt hồ đóng băng. Từ xa, Lạp Ba đã nhìn thấy có một con thuyền nhỏ cực kỳ cũ kỹ trên mặt hồ.

Những người kia lên chiếc thuyền nhỏ, Lạp Ba bèn nói với Muộn Du Bình: "Cậu chủ, chúng ta không đi tiếp được nữa."

Muộn Du Bình không trả lời, nhưng y nhận thấy rằng sau khi nhóm người Tây Tạng kia lên thuyền, thuyền vẫn chưa rời đi. Hơn nữa, có một người Tây Tạng không lên thuyền mà đứng đợi trên bờ, nhìn chằm chằm về phía họ đang ẩn nấp.

Lạp Ba cũng im lặng, ba người bất động quan sát. Người Tây Tạng kia đứng nhìn một lúc lâu, sau đó giơ tay ra hiệu gọi họ qua đó.

Lạp Ba nhìn về phía Muộn Du Bình như muốn hỏi nên làm gì. Muộn Du Bình suy nghĩ một lát, ban đầu vẫn không cử động, nhưng người Tây Tạng kia có vẻ ngày càng sốt ruột, tiếp tục vẫy tay. Muộn Du Bình hơi dịch người, có vẻ có chút dao động.

Nếu đây là một tiểu thuyết hư cấu thì đến đoạn này, để tạo tình huống bất ngờ, chắc chắn mạch truyện sẽ có diễn biến bất ngờ, bắt buộc nhân vật chính phải đứng dậy, đến gần người Tây Tạng kia rồi dẫn đến xung đột.

Nhưng trong thực tế, trong hoàn cảnh như thế này, chắc chắn quyết định sáng suốt nhất không phải là chủ động đối đầu.

Cuối cùng, Muộn Du Bình vẫn không bước ra. Cả ba tiếp tục kiên nhẫn đứng yên cho đến khi cuối cùng người Tây Tạng kia cũng lắc đầu rồi lên thuyền. Chiếc thuyền bắt đầu di chuyển, mái chèo khẽ lướt trên mặt nước, đưa họ chầm chậm tiến về trung tâm hồ.

Khu vực đó bị ánh mặt trời phản chiếu chói lóa, không thể nhìn rõ bất cứ thứ gì. Có vẻ nhóm người trên thuyền đã chèo vào một vùng ánh sáng vàng rực rỡ.

Tuy nhiên, ngay cả khi họ đã rời đi, Muộn Du Bình vẫn không cử động. Lạp Ba không hiểu chuyện gì đang xảy ra, bèn tiến lại gần hỏi: "Vì sao vừa nãy cậu không qua đó? Rõ ràng họ đang đợi chúng ta."

Muộn Du Bình lắc đầu, bình thản nói: "Không phải là hắn đang vẫy gọi chúng ta."

"Vậy hắn đang làm gì?"

"Có một thứ khác đang theo dõi bọn họ mà chúng ta hoàn toàn không phát hiện ra." Muộn Du Bình đáp.

Lạp Ba lập tức căng thẳng: "Làm sao cậu biết?"

Muộn Du Bình vẫn liên tục quét mắt quan sát khắp vùng tuyết trắng xung quanh. Dù vẻ mặt y rất bình tĩnh, nhưng Lạp Ba nhận ra toàn bộ sự chú ý của y hoàn toàn không ở trên người mình.

"Vậy cậu có nhìn thấy 'thứ khác' đó không?"

Muộn Du Bình lắc đầu, nhưng y giơ tay chỉ về một hướng: "Tuy tôi không thể khẳng định nhưng rất có thể nó ở đó. Có gì đó đang ẩn nấp trong khu vực đó."

Lạp Ba nhìn theo hướng Muộn Du Bình chỉ thì thấy một tảng đá đen khổng lồ. Xung quanh đều bị tuyết bao phủ, chỉ riêng trên tảng đá này, dường như lớp tuyết tích tụ đã bị thứ gì đó gạt đi mất.

"Ở phía sau tảng đá?" Lạp Ba khẽ run rẩy. Bình thường ông ta không dễ bị Muộn Du Bình dọa sợ, nhưng dáng vẻ bình tĩnh của Muộn Du Bình lúc đó khiến ông ta vô thức cảm thấy mình nên phục tùng.

"Ở dưới tuyết." Muộn Du Bình đáp.

Lạp Ba cố gắng quan sát xung quanh tảng đá đen, nhưng trước mắt chỉ là một màu trắng xóa, ông ta không phát hiện ra bất cứ thứ gì. Vài phút trôi qua, Lạp Ba liếc sang người phu khuân vác bên cạnh, cuối cùng không kiềm chế được nữa mà lên tiếng: "Cậu chủ, cậu chắc chứ? Tôi nghĩ người đó thực sự đang vẫy gọi chúng ta, chúng ta—"

Lời còn chưa dứt, cơ thể Lạp Ba bỗng chốc trĩu xuống như thể bị thứ gì đó nắm chặt lấy chân, rồi lập tức bị kéo tụt xuống lớp tuyết dày.

Tuyết rất sâu, thứ kia di chuyển cực nhanh, lôi toàn bộ cơ thể Lạp Ba vào trong chỉ trong nháy mắt. Trước khi bị chôn vùi hoàn toàn, Lạp Ba kịp nhìn thấy Muộn Du Bình lao tới như muốn túm lấy ông ta nhưng đã chậm một bước. Tay y chỉ chạm vào khoảng không, rồi ngay lập tức, Lạp Ba chìm vào bóng tối. Tuyết lạnh buốt ép sát lên mặt ông ta, len lỏi vào từng lỗ hổng trên cơ thể—mũi, miệng, tai—tràn vào trong cơ thể Lạp Ba.

Bản này được sao lưu từ website Nhị Đạo Bạch Hà. Nếu bạn đọc nội dung này ở nơi khác, đó chắc chắn là bản reup.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com