Tạng Hải Hoa quyển 1: Chương 16 - Chương 20
📌 Bản dịch gốc được đăng tại: https://metarikkuhoseki.wordpress.com/
thuộc ngoại truyện "Tạng Hải Hoa".
🚫 Vui lòng không reup hoặc sao chép khi chưa được cho phép.
Dịch: Sóc
Chương 16: Người bảo vệ
Theo cách kể chuyện thông thường, tiếp theo hẳn sẽ là một cuộc rượt đuổi hoặc trận chiến gay cấn. Nhưng Muộn Du Bình chỉ đơn giản là thuật lại sự việc, nên y hoàn toàn không viết về quá trình diễn ra. Chúng tôi không biết chi tiết cụ thể thế nào, nếu tôi tự suy diễn thì sẽ không còn đúng với sự thật. Vì tôi đã quyết định tiếp cận những ghi chép này một cách lý trí ngay từ đầu, nên tôi cũng phải dùng cách tiếp cận hợp lý để kết nối các sự kiện ở đây.
Dựa trên những ghi chép sau đó, tôi có thể phần nào phỏng đoán được tình huống lúc đó, vì tôi đã quá quen với những gì Muộn Du Bình sẽ làm.
Chắc chắn là Lạp Ba đã được cứu sống, nhưng sau khi được kéo lên, có vẻ tinh thần của ông ta không còn bình thường nữa, nên tôi không thể tiếp tục thuật lại câu chuyện từ góc nhìn của ông ta.
Có vài điểm có thể xác định, thứ nhất, Muộn Du Bình không nhìn thấy thứ ở dưới lớp tuyết, chỉ có Lạp Ba nhìn thấy nó. Nhưng sau khi được cứu lên, tinh thần của Lạp Ba rối loạn, cho thấy thứ ẩn dưới tuyết đã khiến ông ta chịu một cú sốc cực lớn.
Thứ hai, chắc hẳn Muộn Du Bình đã cứu được Lạp Ba trong vòng ba phút. Dù bị chôn vùi trong tuyết không nguy hiểm bằng chết đuối trong nước, nhưng ba phút vẫn là giới hạn tối đa. Nếu trong khoảng thời gian đó Muộn Du Bình không kịp kéo ông ta lên thì chắc chắn Lạp Ba đã không thể sống sót.
Vì vậy, tôi gần như có thể chắc chắn rằng tình huống lúc đó diễn ra như sau.
Sau khi Lạp Ba đột nhiên bị thứ gì đó dưới tuyết kéo xuống, dù lần đầu tiên Muộn Du Bình không kịp túm lấy ông ta, nhưng trong vài phút tiếp theo, chắc chắn y đã liên tục thọc tay vào lớp tuyết để tìm kiếm.
Tôi đã từng chứng kiến tốc độ của y, Muộn Du Bình có thể dùng hai ngón tay kẹp chặt một con côn trùng nước di chuyển cực nhanh, vì vậy chắc chắn quá trình này diễn ra rất nhanh chóng.
Ngón tay y đã kẹp được một phần nào đó trên người Lạp Ba, có thể là dây lưng, có thể là cổ áo. Với sức mạnh của Muộn Du Bình, dù chỉ dùng hai ngón tay, y cũng có thể kéo cả người lên từ trong tuyết.
Đồng thời, tôi có thể tin rằng chắc chắn họ đang ở gần một tảng đá nào đó. Nếu không, có khả năng Muộn Du Bình cũng sẽ bị kéo xuống tuyết. Chắc chắn y đã dùng tay kia bám chặt vào tảng đá bên cạnh.
Vấn đề là, làm thế nào mà Lạp Ba lại có thể nhìn thấy thứ bên dưới lớp tuyết?
Tôi không có mặt tại hiện trường, Muộn Du Bình cũng không ghi chép lại, nhưng tôi có thể đưa ra một giả thuyết. Khi Lạp Ba bị kéo lên, có thể thứ kia cũng bị kéo lên theo. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, Muộn Du Bình không nhìn thấy nó, chỉ có Lạp Ba nhìn thấy.
Khi tôi ghi chép lại đoạn này, tôi đã có một cuộc thảo luận với Trần Tuyết Hàn và lão lạt ma, một cuộc thảo luận khá thú vị.
Sau khi Muộn Du Bình rời khỏi núi tuyết, y đã gặp lão lạt ma. Sau đó, y tìm thấy thi thể của lạt ma Đức Nhân và bắt đầu dần dần nhớ lại mọi chuyện đã xảy ra trong suốt mười năm qua. Vì ký ức phục hồi dần dần nên y không ghi chép lại một cách hoàn chỉnh mà có rất nhiều câu hỏi cần được giải đáp trong quá trình nhớ lại. Muộn Du Bình đã nói với lão lạt ma rằng ngoài việc ghi lại những sự kiện này, y còn có rất nhiều thắc mắc muốn hỏi.
Sau khi nghe những câu hỏi của Muộn Du Bình, lão lạt ma nhận ra rằng với trí tuệ của mình, ông ấy không thể nào trả lời được. Vì vậy, ông ấy đã dẫn Muộn Du Bình đến gặp một vị thượng sư có tu vi cao trong chùa. Vị thượng sư này lại cử một lạt ma khác xuống núi, đến các ngôi chùa Tây Tạng khác, mời thêm nhiều vị thượng sư đến. Họ hy vọng có thể giải đáp được những nghi vấn mà Muộn Du Bình đặt ra bằng trí tuệ của những bậc cao tăng này.
Những nghi vấn đó bao gồm cả những câu chuyện kỳ lạ mà Muộn Du Bình kể lại, cũng như những bí ẩn mà y từng chứng kiến, đều đã được ghi chép lại.
Những gì được ghi chép lại sau đó là cuộc thảo luận của mọi người. Họ đã bàn về chuyện thứ gì có thể di chuyển dưới lớp tuyết.
Lúc đó, dựa trên kinh nghiệm của mình, tôi hỏi lão lạt ma rằng có tồn tại sinh vật nào có khả năng di chuyển dưới tuyết trong các truyền thuyết dân gian Tây Tạng hay không. Theo những tư liệu mà chúng tôi tìm thấy trên mạng, những sinh vật như vậy thường được gán cho truyền thuyết về người tuyết Himalaya, hoặc gọi một cách chuyên môn hơn là "vượn tuyết", là cách mà các tiểu thuyết kỳ bí thường miêu tả. Nhưng những câu chuyện thực tế mà người dân bản địa kể lại thường vượt xa trí tưởng tượng của con người.
Lão lạt ma gần như lập tức khẳng định rằng thứ đó chính là gấu nâu. Đôi khi gấu nâu sẽ săn mồi bằng cách ẩn nấp trong các hố tuyết.
Ban đầu, tôi lập tức muốn phản bác, vì chuyện này hoàn toàn không thể xảy ra. Vấn đề không nằm ở độ cao, bởi gấu nâu có thể sinh sống ở khu vực cao từ 5.000 đến 6.000 mét so với mực nước biển. Nhưng nơi mà Muộn Du Bình gặp nguy hiểm lúc đó lại là một vùng tuyết trắng xóa, không hề có dấu hiệu của sự sống. Trong một khu vực như vậy, làm sao gấu nâu có thể tồn tại? Chẳng lẽ cả đời nó chỉ có đúng một cơ hội săn mồi duy nhất, chính là lúc tấn công Muộn Du Bình?
Mà nếu thực sự là gấu nâu thì cũng chưa biết ai mới là kẻ săn mồi và ai là con mồi nữa.
Vấn đề lớn nhất là tôi tin rằng Muộn Du Bình sẽ không mắc sai lầm. Rõ ràng là người Tây Tạng kia đang vẫy tay ra hiệu. Nếu quả thật chỉ có một con gấu nâu ở đó, vậy tại sao hắn lại phải vẫy tay với nó?
Chẳng lẽ ý hắn là "này, cẩn thận với móng vuốt của con gấu đấy" sao? Vậy thì hắn là kẻ ngốc chắc?
Trần Tuyết Hàn suy đoán rằng có thể người Tây Tạng đó chỉ đang muốn cảnh báo Muộn Du Bình rằng khu vực đó rất nguy hiểm?
Cũng có khả năng. Tôi thầm nghĩ vậy. Lúc ấy, lão lạt ma bảo tôi đừng nghi ngờ nữa, chắc chắn đó là một con gấu nâu, bởi ông ấy từng nghe kể rằng một số ngôi chùa ở Tây Tạng từng nuôi gấu nâu để canh giữ đền thờ trước đây. Gấu nâu là loài cực kỳ thông minh, nó có thể nhận biết ai là người bảo vệ nó và ai là kẻ xa lạ. Ông ấy còn kể rằng từng có một ngôi chùa nuôi gấu nâu bằng thức ăn thừa vào những năm đói kém. Sau này, khi người Anh xâm lược Tây Tạng, một nhóm lính Anh đã vào cướp bóc ngôi chùa đó và bị con gấu nâu tấn công.
Sự hung dữ của gấu nâu thực sự đáng sợ. Có người từng thấy một con gấu nâu khổng lồ ở Khả Khả Tây Lý, con lớn nhất dài 2,5 mét, đứng thẳng còn cao hơn cả Diêu Minh, trông chẳng khác gì một võ sĩ sumo khổng lồ. Chỉ tưởng tượng thôi cũng biết những tên lính Anh kia chắc hẳn đã bị tát chết ngay lập tức rồi bị lôi vào rừng sâu.
Những ghi chép sau đó cũng chứng minh rằng rất có khả năng lời của lão lạt ma là đúng. Có thể con gấu nâu này chính là do những người Tây Tạng nuôi bên hồ để bảo vệ khu vực có dân cư sinh sống.
Có lẽ vẫy tay với gấu nâu chỉ là thói quen của người nuôi nó. Nhưng khi con gấu phát hiện ra có kẻ xâm nhập, nó đã không đi về phía người Tây Tạng mà lựa chọn tấn công những kẻ lạ mặt.
Nếu đúng vậy thì việc Muộn Du Bình cứu được Lạp Ba khỏi một con gấu nâu thực sự không hề dễ dàng chút nào.
Dĩ nhiên đây chỉ là những giả thuyết ban đầu. Phải đến những phần sau của câu chuyện, chúng tôi mới thực sự biết đó rốt cuộc là thứ gì. Trong suốt quá trình kể chuyện, chúng tôi luôn cho rằng đó chỉ là một con gấu nâu mà không hề có chút nghi ngờ nào.
Chương 17: Hồ Thần bị đóng băng
Muộn Du Bình dẫn Lạp Ba đi thẳng đến nơi người Tây Tạng lên thuyền. Khu vực gần bờ hồ, băng đóng rất dày, bước lên chẳng khác gì đi trên mặt đất. Nhưng càng tiến về trung tâm hồ thì lớp băng càng mỏng. Đến cuối cùng, khi vừa đặt chân xuống, tiếng nứt vỡ khiến người ta thót tim ngay lập tức vang lên.
Bọn họ đành phải đi vòng theo rìa hồ.
Hình dáng của hồ nước này vô cùng kỳ lạ. Thực ra, nếu không nhìn từ trên cao xuống thì rất khó để hình dung ra được hình dạng của nó. Mặt hồ giống như một chiếc quạt lớn, một phần có hình quạt, phần còn lại là một tay cầm hẹp dài được tạo thành bởi một khe núi rất sâu. Ở một khu vực có độ cao lớn và khí hậu lạnh giá như thế này, đáng lẽ mặt hồ phải bị đóng băng đồng đều. Vậy mà tại sao trung tâm hồ lại có tình trạng như thế?
Bọn họ cứ đi men theo rìa hồ, ít nhất cũng phải mất bốn, năm tiếng mới vòng qua được khu vực này. Lúc đó, Muộn Du Bình mới hiểu tại sao lại cần dùng thuyền, bởi nếu có thuyền, đoạn đường này chỉ mất khoảng mười mấy phút mà thôi.
Sau khi đi qua khu vực hình quạt, mặt hồ trở nên hẹp dài, hai bên là vách núi dựng đứng phủ đầy tuyết trắng. Dù có vẻ hẹp nhưng thực ra hồ lại rất rộng. Họ tiếp tục đi sâu vào bên trong, đi mãi cho đến khi trời gần tối, đến đoạn giữa khe núi thì đột nhiên nhận ra có gì đó bất thường ở phía trước.
Không ngờ ở cuối khe núi lại có một ngôi chùa được xây lơ lửng giữa không trung. Đối với người học kiến trúc như tôi, vừa nhìn là có thể lập tức tưởng tượng ra kết cấu của nó. Hẳn là họ đã dùng rất nhiều xà ngang lớn để nối hai bên vách núi, sau đó cắm những cây cột sâu xuống lòng hồ, rồi dựng lên ngôi chùa này dựa vào đó.
Đây là một ngôi chùa lạt ma điển hình, có niên đại rất lâu đời, được xây bằng đá đen Himalaya. Nó cao ít nhất bảy tầng, hơn nữa, mỗi tầng của ngôi chùa tương đương với hai tầng rưỡi của một tòa nhà bình thường. Ngôi chùa này giống như một con đập, chắn ngang toàn bộ khe núi.
Đi đến dưới chân chùa, Muộn Du Bình nhìn về phía trước, thấy mặt hồ vẫn tiếp tục kéo dài, không thể nhìn thấy điểm cuối. Dưới hồ, có rất nhiều con thuyền nhỏ ngay dưới chân chùa. Một số thuyền đã bị đóng một lớp băng mới, một số chỗ vẫn còn ướt.
Muộn Du Bình bảo Lạp Ba ở đây đợi, còn mình thì chầm chậm trèo lên. Quả nhiên, y phát hiện ra có một lối vào dưới đáy ngôi chùa, nhưng bị một tấm ván gỗ chặn lại. Y đẩy thử, có vẻ có thứ gì rất nặng đè lên trên, khiến nó không hề nhúc nhích.
Muộn Du Bình không từ bỏ, y lùi lại, hít một hơi thật sâu, sau đó dồn hết sức đẩy mạnh vào cánh cửa gỗ. Y dồn toàn bộ sức mạnh vào vai, lặng lẽ đẩy tấm cửa gỗ lên.
Cần phải giải thích một chút, dồn sức đẩy lên trên rất khó, vì vậy mà nâng vật nặng và nhấc vật nặng là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. Một người muốn nâng một thứ gì đó lên rất khó, bởi vì động tác này không được thực hiện thường xuyên trong sinh hoạt hằng ngày, các nhóm cơ phục vụ cho động tác này cũng không được rèn luyện.
Nhưng hiển nhiên là cánh tay của Muộn Du Bình đã được rèn luyện rất tốt. Y từ từ đẩy tấm cửa gỗ lên, chui vào bên trong, nhìn thấy thứ đè lên cửa gỗ là một tảng đá nặng hơn hai trăm cân.
Y lật mình chui vào cửa gỗ, nhìn thấy đây là một phòng chứa đồ, một căn phòng dùng để chế biến, sửa chữa và cất giữ thực phẩm và nguyên liệu. Muộn Du Bình quét mắt một vòng, nhìn thấy rất nhiều than, gỗ, thực phẩm và những tảng thịt không rõ nguồn gốc treo trên xà nhà.
Những tảng thịt này đều đã đông cứng như đá. Người ta không phơi khô ở đây, hễ còn nước thì chỉ cần treo lên, không bao lâu sau sẽ lập tức biến thành "đá Himalaya".
Rất nhiều thịt, dưới ánh sáng le lói xuyên qua khe hở của bức tường đá, Muộn Du Bình tìm thấy cầu thang dẫn lên trên. Đó là những bậc thang gỗ thẳng đứng. Y cẩn thận trèo lên, vừa đặt chân lên tầng trên, ngay lập tức ngửi thấy một mùi hương trầm nồng đậm. Rất nhiều thảm lông được treo trên tầng này, có nhiều lò than ở giữa các tấm thảm, khiến không gian trở nên vô cùng ấm áp. Không rõ là để hong khô thảm lông hay đơn giản chỉ để giữ nhiệt cho căn phòng.
Muộn Du Bình tìm kiếm lối lên tầng tiếp theo giữa những tấm thảm, nhưng nơi này quá ấm áp. Sau nhiều ngày đi trong cái lạnh khắc nghiệt, cơ thể y chậm lại trong vô thức, muốn để bản thân thư giãn đôi chút.
Ngay lúc đó, y nghe thấy một âm thanh khe khẽ vang lên từ sau những tấm thảm. Đó là tiếng thở dốc rất nhẹ, hình như là của một cô gái.
Muộn Du Bình suy nghĩ một lát rồi rón rén lần theo âm thanh, nhẹ nhàng bước qua những tấm thảm lông. Khi đi qua vài tấm, y nhìn thấy một vật nằm giữa bốn tấm thảm lông.
Bốn tấm thảm này được treo ngay ngắn, tạo thành một không gian hình vuông, trông như một căn phòng nhỏ, thứ đó đang nằm trên sàn nhà, khẽ run rẩy.
Đó là một cô gái. Tứ chi của cô ta đã bị hủy hoại hoàn toàn, chỉ còn lại lớp da mỏng manh treo lủng lẳng trên cơ thể từ khuỷu tay và đầu gối trở xuống. Mái tóc cô ta rất dài, khuôn mặt mang nét đặc trưng của người Tạng, trên người cũng được phủ một lớp vải giống như thảm lông.
Muộn Du Bình tiến lại gần, nhận ra đôi mắt cô gái cũng đã mù, trong mắt chỉ còn một màu đục ngầu. Y cúi xuống quan sát, nhận thấy khuôn mặt cô ta rất thanh tú, trước khi trở thành tàn phế, hẳn là một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp.
Không rõ cô gái này đã trải qua những gì mà phải chịu sự tra tấn khủng khiếp như vậy. Có thể thấy rõ, không phải do bệnh tật hay tai nạn, tay chân cô ta bị người ta đánh gãy, hơn nữa còn là đánh đến mức chỉ còn dính vào cơ thể nhờ lớp da. Bên ngoài trông có vẻ không có gì bất thường, nhưng đau đớn và hành hạ vì cố tình không để xương lành lại là một sự giày vò tàn nhẫn. Trong các cuộc thảm sát thời cổ đại, để cưỡng hiếp phụ nữ, nhiều kẻ đã dùng chính cách này, đánh gãy tứ chi họ rồi mặc sức chà đạp.
Rõ ràng, cô gái này đã phải chịu đựng những hình phạt tàn khốc.
Muộn Du Bình không hề thấy xót thương. Y đã chứng kiến quá nhiều sự tàn ác trên thế gian, đủ để hiểu rằng cảm xúc là thứ vô dụng nhất.
Y xoay người rời đi, nhưng vừa đi được vài bước thì nghe thấy cô gái cất tiếng nói. Là tiếng Tạng, y không hiểu. Khi quay lại, y thấy cô ta đã ngẩng đầu lên, hướng về phía y như thể đang dò tìm. Dù không nhìn thấy, cô ta vẫn có thể xác định phương hướng nhờ thính giác.
Muộn Du Bình đứng yên, nhìn thấy cô gái đau đớn cố gắng ngồi dậy, đầu liên tục xoay về các hướng. Đột nhiên, cô ta cất tiếng nói bằng tiếng Hán: "Anh là ai?"
Muộn Du Bình khựng lại, không trả lời. Cô gái vẫn tiếp tục quay đầu tìm kiếm. Y chờ một chút rồi bước thêm vài bước, cô gái bèn nói: "Nếu anh không trả lời, tôi sẽ hét lên. Đến lúc đó, anh cũng không thoát được đâu."
Muộn Du Bình dừng lại lần nữa, quay lại nhìn cô ta. Một nụ cười tinh quái xuất hiện trên gương mặt cô ta.
Y chưa bao giờ thấy ai như thế này, rõ ràng đã bị tàn phế, bị mù, nhưng ở trong căn phòng này, người chiếm thế chủ động lại là cô ta.
Muộn Du Bình biết, y có thể khiến cô ta bất tỉnh chỉ trong vài giây. Trước mặt y, những mưu mẹo nhỏ này chẳng có chút tác dụng nào. Nhưng y cũng nhận ra có chỗ không đúng, thái độ của cô gái này có thể mang lại thông tin có lợi cho y.
"Cô biết tôi là ai?"
Cô gái gật đầu.
"Cô biết tôi là người Hán?" Muộn Du Bình khẽ hỏi.
"Tôi có thể ngửi được mùi của anh. Trước đây, chỉ có một người Hán từng đến đây. Mùi của anh giống hắn, nhưng anh không phải là hắn. Anh cũng đến từ dưới núi sao?"
"Ừ." Muộn Du Bình hỏi: "Vậy cô là ai?"
"Anh đến tìm hắn à? Người Hán đó nói rằng nhất định sẽ có người khác đến đây." Cô gái nói. Tiếng Hán của cô ta hơi gượng gạo nhưng không phát âm sai chút nào. Cô ta không trả lời câu hỏi của Muộn Du Bình mà nói tiếp: "Anh phải cẩn thận, bọn họ không thích người Hán đâu."
"Tôi không biết cô đang nói về ai." Muộn Du Bình đáp.
Cô gái nói: "Đừng quan tâm đến chuyện đó, mau đưa tôi đi, đưa tôi rời khỏi đây."
"Tại sao?"
"Anh là người Hán, chắc chắn cũng muốn biết rốt cuộc nơi này là gì. Nếu anh đưa tôi đi, tôi sẽ nói cho anh tất cả."
Muộn Du Bình nhìn cô gái, vẻ vừa mong chờ vừa nôn nóng lộ ra trên gương mặt cô ta. Sau đó, Muộn Du Bình gật đầu nói: "Được." Y bước đến bên cạnh cô gái, ấn nhẹ lên cổ cô ta. Cô ta lập tức ngất đi.
Những kẻ quen dùng lời đe dọa sẽ không dễ dàng tiết lộ bí mật. Muộn Du Bình thầm nghĩ: Tự tìm hiểu thì hơn.
Y nhẹ nhàng đặt cô gái xuống, vừa định tiếp tục tiến về phía trước thì bỗng nhiên nghe thấy tiếng bước chân từ một hướng khác. Có người đang nói chuyện bằng tiếng Tạng, dường như vừa đi xuống từ đâu đó, có vẻ là nghe thấy cuộc nói chuyện vừa rồi nên đến kiểm tra.
Muộn Du Bình nhanh chóng lùi lại, nấp sau mấy tấm thảm lông. Một mùi hương trầm đậm đặc hơn tỏa ra xung quanh. Hai người Tạng khiêng một chiếc lò ngang qua chỗ y ẩn nấp rồi đặt nó xuống bên cạnh cô gái, bắt đầu bày một số vật phẩm quanh cô ta.
Thái độ của họ vô cùng cung kính. Hương trầm càng lúc càng nồng, nhưng Muộn Du Bình chợt nhận ra có gì đó không đúng. Giữa mùi hương ấy, y ngửi thấy một mùi khác, một mùi hôi thối quen thuộc, đáng lẽ không nên có trong hương trầm.
Chương 18: Mùi xác
Những mùi này bị che giấu trong hương trầm, chứng tỏ bản thân chúng rất nồng, nhưng vì thảm lông cũng có một mùi đặc trưng, cộng thêm hơi nóng từ nhiều lò than xung quanh nên Muộn Du Bình không thể lập tức tách biệt được mùi này khỏi hương trầm và mùi thảm lông.
Chắc chắn những mùi này bị trộn lẫn trong hương trầm và mang vào bằng thứ giống như lò hương mà những người Tạng khiêng đến.
Đó là mùi của xác chết.
Những người Tạng sắp xếp mọi thứ xung quanh cô gái xong thì vội vã rời đi, có vẻ như họ không muốn nán lại lâu.
Thoạt nhìn thì hành động này không có gì đặc biệt, nhưng Muộn Du Bình vẫn cảm thấy có gì đó không đúng. Y quan sát những tấm thảm xung quanh và hoa văn trên đó. Khi ngửi thấy mùi lạ, y vô thức đưa tay xuống thắt lưng định rút vũ khí, nhưng rồi mới nhớ ra lần này mình không mang theo gì cả.
Tại sao y lại bắt đầu cảnh giác? Là vì y đã nhìn thấy hoa văn trên những tấm thảm.
Tây Tạng có rất nhiều hoa văn truyền thống khác nhau. Nếu những tấm thảm này được gom lại từ nhiều thời kỳ khác nhau, lẽ ra hoa văn trên đó phải rất đa dạng. Nhưng ở đây, dù kiểu dáng của chúng có chút khác biệt, nhưng tất cả đều mang cùng một hình vẽ.
Hình vẽ này gọi là "Diêm Vương cưỡi xác", vẽ Diêm Vương cưỡi một xác nữ rong ruổi giữa núi non. Muộn Du Bình bỗng nhiên hiểu ra thân phận thực sự của cô gái.
"Diêm Vương cưỡi xác" xuất hiện lần đầu tiên trên một bức thangka(1) bằng sắt. Đó là một tấm sắt mỏng, dát vàng và bạc trên bề mặt, khắc họa cảnh Diêm Vương cưỡi một xác nữ đi qua núi rừng. Xung quanh bức thangka là những hoa văn trang trí hình dây leo bằng sắt, có nhiều hình đầu lâu ở giữa.
Trong tiếng Phạn, Diêm Vương được gọi là "Diêm Ma La", vì thế bức thangka này còn có tên là "Diêm Ma La cưỡi xác sắt". Trước khi bức thangka này xuất hiện, loại hình vẽ này rất hiếm thấy. Người ta thường nghĩ đây chỉ là một kiểu tạo hình phóng đại trong các bức tượng thần Tây Tạng, giống như những cảnh giẫm lên xác chết hay đạp lên người khác. Nhưng về sau, người ta phát hiện ra có chỗ không đúng, trong bức "Diêm Ma La cưỡi xác sắt", đôi khi hình dáng của xác nữ bên dưới còn nổi bật hơn cả Diêm Vương.
Xác nữ trong tranh thường có khuôn mặt dữ tợn, đôi mắt mù lòa, di chuyển bằng khuỷu tay và đầu gối, toàn thân giống như ác quỷ, nhưng ngực lại đầy đặn, mang đặc trưng rõ ràng của phụ nữ.
Muộn Du Bình nhìn tứ chi bị đánh gãy và đôi mắt mù lòa của cô gái trước mặt, chẳng lẽ cô ta chính là vật cưỡi của Diêm Vương?
Muộn Du Bình đã quá quen với xác chết, y có thể khẳng định cô gái này vẫn còn sống. Một dự cảm chẳng lành dâng lên trong lòng y. Y có chút hiểu biết về Diêm Vương cưỡi xác, nhưng không rõ vì sao cô gái lại xuất hiện ở đây trong tình trạng này.
Cô ta là tế phẩm dâng lên Diêm Vương? Hay đây là một nghi lễ nào đó?
Trong lúc y suy nghĩ, mùi hương từ phía bên kia càng trở nên nồng đậm. Muộn Du Bình nghe thấy cô gái rên rỉ đau đớn, nhưng bị che khuất bởi những tấm thảm lông, y không thể nhìn thấy rõ chuyện gì đang xảy ra.
Muộn Du Bình không quá tò mò về những chuyện này. Nếu ở một nơi khác, chắc chắn y sẽ không quan tâm. Nhưng nơi này có liên quan đến mục đích của y, y phải biết rốt cuộc đây là đâu, những người Tạng này là ai.
Y nhẹ nhàng di chuyển, tìm một góc khuất, ghé mắt nhìn qua khe hở giữa những tấm thảm. Y thấy chiếc lò đặt bên cạnh cô gái đang cháy rực, những làn khói kỳ lạ hòa vào hương trầm, cuộn lên mạnh mẽ.
Không rõ vì lý do gì, cô gái tỏ ra vô cùng đau đớn, dường như những mùi hương này có tác động cực kỳ mạnh đến cô ta.
Muộn Du Bình chậm rãi bước đến gần, thấy sắc mặt cô gái đã chuyển sang màu xám xanh, giống hệt như những hình vẽ xác nữ trên thảm, được khắc bằng bạc dát mỏng. Cô ta đã mất đi ý thức, chỉ liên tục đau đớn rên rỉ. Xung quanh là những chiếc lư hương nhỏ kỳ lạ.
Y cẩn thận mở một chiếc lư hương ra, một loại bột màu kỳ lạ đang được đốt ở bên trong, tỏa ra mùi hương nồng đậm. Y nhìn xung quanh, dùng ngón tay cạy một khe nhỏ trên sàn gỗ, bẻ ra một mảnh gỗ vụn. Sau đó, y dùng mảnh gỗ ấy khuấy nhẹ vào lớp bột trong lư hương, nhận ra có rất nhiều mảnh xương vụn bên trong. Dù đã bị nghiền thành bột rất mịn, nhưng vẫn có thể nhận ra đây là xương cốt lâu năm.
Những loại bột này là hương trầm trộn lẫn với xác chết đã phơi khô và được nghiền nát.
Muộn Du Bình chưa từng gặp phải chuyện như thế này, y không biết rốt cuộc thế này là thế nào. Khi ngẩng đầu lên nhìn cô gái lần nữa, y bất chợt nhận ra cô ta đã bò dậy, chống khuỷu tay và đầu gối xuống đất, trần truồng bò trên sàn nhà.
Muộn Du Bình lập tức căng thẳng, một tay siết chặt lấy lư hương, thứ duy nhất xung quanh có thể dùng làm vũ khí. Với tốc độ và sức mạnh của mình, y có thể ném nó ra để tranh thủ thời gian chạy thoát. Nhưng y vẫn cảm thấy bất an, bởi vì y nhận ra tốc độ bò của cô gái rất nhanh, hoàn toàn không giống với một người bị tàn tật.
Tuy nhiên, cô gái không hề tấn công y, thậm chí còn không liếc nhìn y lấy một cái mà chỉ bò thẳng về một hướng khác.
Muộn Du Bình lập tức bám theo, thấy cô ta bò về phía một cầu thang gỗ. Chỉ trong chớp mắt, cô ta đã leo lên trên, có vẻ nơi đó dẫn đến tầng trên của ngôi chùa.
Muộn Du Bình quay lại nhìn ra sau. Đó là hướng những người Tạng vừa rời đi, không trùng với hướng mà cô gái đang đi.
Cầu thang gỗ này rất lớn, được làm từ những thân gỗ tròn to bằng miệng bát. Khoảng cách giữa mỗi bậc thang gần một mét, dẫn đến một cánh cửa lớn phía trên, rộng đến mức có thể cho một chiếc xe tải chạy qua. Thảm lông và những tấm lụa vàng cổ xưa viết chữ Tây Tạng màu đỏ treo đầy hai bên cửa.
Dựa vào màu sắc cũ kỹ của những tấm lụa này, có thể thấy chúng đã tồn tại hàng thế kỷ.
Bản năng của Muộn Du Bình mách bảo rằng cầu thang này không dành cho con người, vì người bình thường không thể leo lên được. Nó được xây dựng cho cô gái kia.
Vậy rốt cuộc cầu thang này dẫn đến đâu? Những tấm thảm lông kỳ lạ, những lá bùa chú, cộng với việc mấy người Tạng vội vã rời đi, chắc chắn có gì đó bất thường.
Muộn Du Bình ấn thử lên bậc thang để kiểm tra độ chắc chắn, rồi lập tức bật người nhảy lên. Y không bước trên những thanh ngang của cầu thang mà leo lên men theo hai bên cột chính.
Chưa kịp chạm vào tấm lụa vàng treo trước cửa thì một phát súng vang lên. Không biết viên đạn bay đến từ đâu, nhưng nó bắn thẳng vào bậc thang gần chân Muộn Du Bình, khiến cả thanh gỗ vỡ vụn. Y phản ứng cực nhanh, lập tức nhảy sang một bên, nắm lấy một tấm thảm lông đang treo bên cạnh, rồi dùng lực eo để xoay người xuống.
Gần như ngay lập tức, tiếng súng từ phía dưới liên tiếp vang lên, loạt đạn bắn thẳng vào cầu thang. Khi những viên đạn bắt đầu hướng về phía thảm lông, Muộn Du Bình đã nhanh chóng ẩn mình vào đó.
Y nín thở, lặng lẽ quan sát hướng súng bắn. Trong màn ánh sáng xanh lờ mờ, y thấy một bóng người khoác áo choàng xanh Tây Tạng đang di chuyển rất nhanh giữa những tấm thảm.
Muộn Du Bình áp tay xuống sàn, vừa lắng nghe bước chân để xác định vị trí đối phương, vừa mò mẫm xung quanh tìm xem có thứ gì có thể dùng để phòng thân.
Ngay khi y vừa chạm tay xuống sàn, một viên đạn xuyên qua nhiều lớp thảm bắn thẳng về phía y. Y lập tức nghiêng đầu, viên đạn lướt qua sát bên tai.
Lúc ấy, y nhận ra đối phương không phải là người bình thường, mà là một kẻ cực kỳ khó đối phó. Nhưng y lại quá quen với kiểu chiến đấu này. Đột nhiên, Muộn Du Bình bật dậy, gần như dán sát mặt đất lao nhanh về phía trước. Đạn gào rít ngay sau lưng y. Trong chớp mắt, y đã lao đến bên một lò than, giẫm mạnh lên than hồng.
Lửa bùng lên, tàn than bay tứ tung. Nhờ vào cú bật nhảy đó, Muộn Du Bình vọt lên cao hơn một người, nhanh chóng tóm lấy một tấm thảm lông treo phía trên rồi thu người lại như một con dơi, ẩn mình sau lớp thảm.
Gần như cùng lúc, nhiều phát súng bắn trúng lò than, làm nó lật nhào xuống đất. Ngay sau đó, kẻ mặc áo choàng xanh lao đến.
Trong kiểu chiến đấu ở không gian chật hẹp thế này, dù người có súng nắm lợi thế về vũ khí, nhưng lại thiếu thông tin về đối thủ. Nếu gặp phải kẻ nhanh nhẹn, y sẽ dễ bị phản công. Trong tình huống này, cách tốt nhất để đối phó với một tay súng chính là lao về phía hắn. Vì ngay sau khi bắn, hắn buộc phải di chuyển để tránh bị phát hiện, mà chắc chắn nơi kẻ nổ súng vừa rời đi sẽ là vùng an toàn.
Tay súng là người chịu ảnh hưởng lớn nhất từ âm thanh của chính mình. Nếu bắn liên tục mà không trúng, nguy cơ bị phản công sẽ ngày càng cao, bởi hắn không thể biết kẻ địch đã tiến đến gần hắn bao nhiêu trong thời gian hắn xả đạn.
Trong khu vực này, dù trông có vẻ kín đáo, nhưng những tấm thảm lông không hề đủ để làm lá chắn. Đó chính là lý do cách phản công này trở thành hiệu quả nhất.
Vậy nên kẻ áo xanh lập tức lao đến bên lò than, gần như cùng lúc, Muộn Du Bình mạnh mẽ giáng xuống từ trên cao, hai đầu gối đè chặt lên vai hắn.
Với sức nặng của cơ thể kết hợp với lực rơi và tốc độ, kẻ áo xanh lập tức bị đè quỳ xuống. Muộn Du Bình xoay eo, nhưng không siết chặt đầu đối phương mà nhanh chóng kẹp lấy cánh tay hắn, vặn mạnh một cái, làm khẩu súng trường trong tay đối phương rơi xuống.
Khẩu súng vừa chạm đất, Muộn Du Bình nhấc gót đá văng nó đi, sau đó đứng vững lại nhìn xem kẻ trước mặt là ai. Nhưng chưa kịp nhìn rõ, đối phương đã phản ứng cực nhanh, rút một con dao Tây Tạng ra, ánh thép lạnh lẽo vung lên chém thẳng về phía mặt Muộn Du Bình.
Súng thì hắn không có cách đối phó, nhưng nếu ai muốn cận chiến với hắn thì đúng là tự tìm đường chết. Muộn Du Bình hơi nghiêng người tránh mũi dao, rồi vung nắm đấm từ một khoảng cách cực nhỏ, đập thẳng vào mũi kẻ áo xanh. Cú đấm nhanh đến mức, dù có người đứng bên cạnh cũng không kịp thấy hắn ra tay như thế nào, chỉ nghe thấy một tiếng "bịch" nặng nề, kẻ áo xanh ngã sấp xuống đất.
Muộn Du Bình cúi xuống, siết chặt cổ tay cầm dao của đối phương nhanh như chớp, chỉ cần dùng chút lực, cả cơ thể hắn lập tức bị khóa chặt, con dao cũng rơi khỏi tay.
Nhìn kỹ lại, hắn là một thanh niên người Tạng rất trẻ, nhiều lắm cũng chỉ mười tám, mười chín tuổi, bị Muộn Du Bình bóp đến đau đớn tột cùng, miệng không ngừng thốt lên gì đó bằng tiếng Tạng.
Muộn Du Bình biết chắc chắn tiếng súng vừa rồi đã làm kinh động nhiều người, không thể ở lại nơi này lâu. Y định đánh ngất đối phương rồi rời đi, nhưng đúng lúc đó, từ phía sau những tấm thảm lông, một nhóm người áo xanh đột ngột xuất hiện, ít nhất hơn mười người, tất cả đều cầm súng trường, nhắm thẳng vào y.
Muộn Du Bình khẽ thở ra một hơi, nhưng ngay sau đó, chuyện xảy ra lại khiến y bất ngờ, tất cả những người Tạng đó đồng loạt quỳ xuống, thực hiện một nghi thức tôn kính nhất của người Tây Tạng.
Nghi thức trang trọng nhất của họ chính là quỳ lạy. Sau khi quỳ xuống, một trong những người áo xanh lớn tuổi nhất bước lên, hai tay dâng lên một chiếc khăn khata(2) năm màu.
Cảnh tượng này thật kỳ lạ. Lễ dâng khăn khata đã xuất hiện trong rất nhiều câu chuyện, nhưng ở Tây Tạng, khata năm màu lại là nghi lễ cao quý nhất.
Nhưng tình huống vừa xảy ra quá khó hiểu. Từ một trận phục kích nguy hiểm, đột nhiên chuyển thành cảnh tượng này, khiến ngay cả khi tra cứu tài liệu, tôi cũng cảm thấy khó tin.
Ngay sau đó, một người đàn ông trung niên tiến lên trước mặt Muộn Du Bình, nói bằng tiếng Hán lưu loát: "Chúng tôi đã đợi anh rất lâu rồi, anh Trương. Xin hãy nhận lời xin lỗi của chúng tôi và chấp nhận chiếc khata này."
Muộn Du Bình lặng lẽ quan sát xung quanh, rồi thấy người đàn ông đó lấy một tấm ảnh cũ đen trắng từ trong túi áo ra, đưa cho y.
"Tất cả chuyện này đều do ông Đổng sắp xếp. Ông ấy đã nói trước, quả nhiên không sai."
Bức ảnh chụp Đổng Xán trong trang phục Tây Tạng. Muộn Du Bình lật mặt sau của tấm ảnh, thấy một dòng chữ: "Bí mật nằm ở đây. Họ có thể giúp anh."
------------
(1) Thangka là loại tranh vẽ treo ở các tự viện hay nơi thờ Phật tại gia ở Tây Tạng, đây là một trong những thành tố nghệ thuật Phật giáo đặc sắc ở Tây Tạng.
(2) Khăn Khata là một tấm lụa mỏng hình chữ nhật, gồm 5 màu trắng, đỏ, vàng, xanh lam và xanh nước biển dài từ ba thước đến hơn trượng – một vật dụng bày tỏ sự tôn kính trong Phật giáo Tây Tạng. Màu sắc và độ dài của Khata có thể thay đổi tùy theo thân phận của người được nhận, địa vị càng tôn kính thì Khata càng dài.
Chương 19: Diêm Vương cưỡi xác
Những người khoác áo choàng xanh Tây Tạng tự xưng là người Khang Ba Lạc. Họ sống trong một thung lũng sông nằm giữa những ngọn núi tuyết, tên là Khang Ba Lạc.
Cuộc trao đổi giữa Muộn Du Bình và họ chỉ kéo dài vài giờ, nhưng lượng thông tin tiết lộ lại quá dày đặc, khiến mọi thứ trở nên rối rắm và khó nắm bắt. Với Muộn Du Bình, y có thể nhìn thấy những gì người Khang Ba Lạc nói ngay trước mắt, nên có thể tiếp nhận và xử lý toàn bộ thông tin một cách trực quan. Nhưng đối với chúng tôi, tất cả những gì nhận được chỉ là những câu chữ, không thể nào hình dung rõ ràng nơi đó thực sự như thế nào.
Nếu quan sát toàn bộ thung lũng này từ trên cao thì sẽ thấy một hồ nước kỳ lạ giữa núi tuyết, có màu xanh lam thiên về sắc ngọc, trông như một viên ngọc xanh dị dạng, được khảm giữa tấm lụa trắng khổng lồ.
Hồ nước đó được gọi là hồ Khang Ba Lạc, dịch ra tiếng Hán có nghĩa là "núi tuyết xanh". Khi Muộn Du Bình được họ đưa lên tầng cao nhất của ngôi chùa lạt ma, rồi men theo một vách đá dài hơn hai dặm từ đó, đi dọc theo sườn núi nhìn ra hồ, y sững sờ trước cảnh tượng trước mắt.
Thành thật mà nói, rất ít thứ có thể khiến Muộn Du Bình thực sự kinh ngạc. Y đã trải qua vô số cuộc huấn luyện, phản xạ đầu tiên của y khi đối mặt với nguy hiểm luôn là bình tĩnh và vô cảm. Những bài huấn luyện ấy được thiết kế để giúp y có thể phản ứng một cách chính xác và lý trí nhất trước mọi tình huống bất ngờ.
Nhưng tất cả những thứ đó đều chỉ áp dụng đối với nguy hiểm và những thứ xấu xa. Dù có đối diện với những cảnh tượng kinh hoàng nhất, những bi kịch tàn khốc nhất, Muộn Du Bình cũng không hề dao động.
Nhưng lần này thì khác.
Bởi vì đây là cái đẹp. Ngay khoảnh khắc y nhìn thấy mặt hồ, vẻ đẹp ấy đã phá vỡ tất cả mọi rào cản trong lòng y.
Y nhìn thấy một mặt hồ xanh thẳm, nhìn xuống từ trên vách đá mang đến một cảm giác hoàn toàn khác so với khi đứng ở mép nước. Dưới ánh mặt trời, làn nước phản chiếu ánh sáng một cách kỳ diệu, khiến màu xanh ấy trở nên tinh khiết đến mức không giống như thứ gì đó có thể xuất hiện trong tự nhiên, mà giống như một tấm lụa xanh bị kéo căng, trải dài giữa thung lũng tuyết.
Thế nhưng, màu xanh huyền ảo ấy không phải điểm cuốn hút nhất. Khiến người ta không thể rời mắt chính là bóng phản chiếu của những ngọn núi tuyết trên mặt hồ.
Dĩ nhiên núi tuyết có màu trắng, nhưng khi hiện lên trong hình phản chiếu trên hồ, nó lại chuyển thành một sắc xanh kỳ lạ và mê hoặc. Dãy núi tuyết sừng sững bên bờ hồ mang vẻ trang nghiêm và thần thánh, khiến lòng người không khỏi xao động. Nhưng hình ảnh núi tuyết phản chiếu trên mặt hồ lại tĩnh lặng và huyền bí hơn so với chính dãy núi tuyết trắng ngoài đời thực.
Họ men theo vách đá dọc theo bờ hồ, chẳng bao lâu sau đã phát hiện ra một thung lũng sông ẩn mình.
Họ xuống thung lũng sông. Dưới đó, mặt sông đã hoàn toàn đóng băng. Họ bước lên mặt băng, giẫm chân lên lớp đá lạnh cứng tiến về phía trước. Không lâu sau, cách khoảng một cây số, thung lũng bắt đầu mở rộng ra từ bốn đến năm ki lô mét, vô số tảng đá nhô lên trên mặt sông.
Trên những tảng đá này là các chồng đá Mani. Nhìn từ xa, trông chúng như một trận địa đá kỳ lạ.
Muộn Du Bình tiếp tục đi theo. Sau khi băng qua khu vực chồng đá Mani, mặt hồ đã chuyển thành một bãi đá lởm chởm. Y nhận thấy bãi đá này có địa hình hình bậc thang dốc đứng, nhưng lại có một lối đi được giấu kín sâu bên trong. Họ lần lượt bước xuống từng bậc, dần tiến vào một thung lũng ở độ cao khoảng hai nghìn mét. Đó là một nơi hoàn toàn khác biệt trong dãy núi tuyết, một thung lũng xanh tươi hiếm có. Muộn Du Bình nhìn thấy ruộng nương, suối chảy, cùng vô số ngôi nhà bằng đá trắng.
Đây chính là nơi người Khang Ba Lạc sinh sống. Cả thung lũng có tổng cộng khoảng một trăm chín mươi hộ gia đình, phần lớn là người Tạng. Những người áo xanh đưa Muộn Du Bình đến ngôi nhà của Thổ ty(1) cao nhất, người đã từng dâng khăn khata cho y lúc trước nói, bây giờ không còn Thổ ty ở nơi này nữa. Trước khi rời đi, vị Thổ ty cuối cùng đã để lại một mệnh lệnh, bảo chúng tôi chờ đợi người kế vị. Nhưng bọn họ đã chờ mãi mà vẫn chưa chờ được.
Muộn Du Bình nhìn về phía tấm thảm lông treo phía sau ngai chủ tọa, nơi có bức chân dung của Thổ ty. Chỉ liếc một cái, y lập tức nhận ra người trong tranh là Đổng Xán.
Đổng Xán là Thổ ty của ở đây? Y hơi bất ngờ, chăm chú nhìn bức chân dung hồi lâu.
Hóa ra, trong số những người phu khuân vác ra vào Tây Tạng, có không ít người xuất thân từ nơi bí ẩn này. Nhưng họ không rời khỏi đây vì không chịu nổi điều kiện sống, mà thực chất là do người Khang Ba Lạc sắp xếp đưa đi. Chỉ có người Khang Ba Lạc mới thực sự hiểu cách băng qua những vùng núi tuyết hoang vu. Bởi vì họ biết một con đường bí mật trên tuyết, ngay cả khi có bão tuyết, cùng lắm con đường đó cũng chỉ bị chôn vùi đến ngang bắp chân.
Những phu khuân vác xuất thân từ Khang Ba Lạc vẫn luôn thực hiện một nhiệm vụ quan trọng mà Thổ ty đã giao phó, chờ đợi một thanh niên người Hán muốn tiến vào núi tuyết.
Thổ ty của họ từng nói, chàng trai này là người đời sau của ta ở Trung Nguyên. Sau khi ông ta rời đi, người này sẽ đến và giúp chúng họ giải quyết đại nạn.
Trước khi người thanh niên này đến, vị Thổ ty người Hán đã phong ấn một bí mật trong núi tuyết, giấu nó sau một cánh cửa đồng khổng lồ. Thế nhưng, cứ cách một khoảng thời gian, cánh cửa đồng này sẽ tự động mở ra.
Trước khi rời đi, Thổ Ty người Hán đã nói rằng chắc chắn ông ta không thể sống đến lần kế tiếp cánh cửa mở ra, dù có sống được thì cũng không thể quay lại bảo vệ bí mật này nữa. Nhưng may mắn thay, trước khi cánh cửa mở, sẽ có một người trẻ tuổi đặt chân đến nơi này, tiếp quản nhiệm vụ của ông ta.
Người Khang Ba Lạc có nhiệm vụ đảm bảo người đó đến nơi an toàn, và phải xác nhận chắc chắn rằng người họ đang chờ chính là người đó.
Vì thế, họ đã thực hiện một kế hoạch. Suốt những năm tháng chờ đợi, đã có rất nhiều người Hán được đưa đến đây qua con đường của những phu khuân vác. Thế nhưng, không ai trong số đó vượt qua được những bài kiểm tra, chứng minh được mình chính là người mà Đổng Xán đã nhắc đến. Cuối cùng, Muộn Du Bình xuất hiện.
Người áo choàng xanh từng nổ súng tấn công Muộn Du Bình tên là Đan. Hắn là người giỏi võ thuật và thông minh nhất trong nhóm những người Tây Tạng mặc áo choàng xanh. Hắn tấn công Muộn Du Bình không phải để giết, mà là để thử xem y có đủ năng lực hay không.
Cái gọi là "áo choàng xanh", thực chất dùng để chỉ những người đàn ông trưởng thành ở đây, đều phải mặc một chiếc áo choàng đặc biệt khi đi săn bắt.
Sau khi nghe hết những lời kể, Muộn Du Bình đã uống đến bốn, năm bát trà bơ. Cái lạnh khắc nghiệt khiến y lần đầu tiên cảm thấy có chút bất lực, chỉ đành yên lặng lắng nghe, không hề có bất kỳ biện pháp phòng bị nào.
Họ tiếp tục kể về hành trình Đổng Xán đến đây, cách ông ta trở thành Thổ ty, cách ông ta dạy họ đối phó với quỷ dữ trên núi tuyết, và cuối cùng là cách ông ta rời đi.
Muộn Du Bình hiểu rằng, cái gọi là "bí mật", rất nhiều khi không thể hiểu theo nghĩa đơn thuần. Đám Đổng Xán đến đây sau khi rời khỏi thung lũng có quả cầu khổng lồ. Sau khi nghỉ ngơi và phục hồi sức khỏe, những người còn lại đều rời khỏi nơi này, bước vào thế giới bên ngoài, cầm theo vàng bạc để sống một cuộc sống sung túc.
Nhưng Đổng Xán thì chọn ở lại, "bảo vệ bí mật" ở đây. Có lẽ ông ta đã ở đây trong một thời gian rất dài trước khi rời đi, sau đó mang tin tức này về Trương gia. Tuy nhiên, bản thân ông ta chưa bao giờ xuất hiện trở lại.
Muộn Du Bình hiểu rõ con người của Đổng Xán, ông ta là một người vô cùng lý trí. Hành động như thế này chỉ có thể chứng tỏ đã có gì đó khuấy động tâm trí vốn tĩnh lặng như nước tù của ông ta, khiến ông ta hoàn toàn tuyệt vọng. Sau khi rời khỏi Khang Ba Lạc, ông ta chỉ đơn giản truyền lại thông tin cho Trương gia, nhưng bản thân lại không muốn quay về cuộc sống trước đây nữa.
Nếu chỉ đơn giản là một bí mật thì chắc chắn sẽ không dẫn đến kết cục như vậy. Rốt cuộc là vì sao?
Người Khang Ba Lạc cũng không biết. Cuộc trò chuyện dần đi đến hồi kết, họ chỉ nói với Muộn Du Bình rằng, họ hy vọng y có thể giúp họ vượt qua thảm họa xảy ra mỗi mười năm một lần.
Muộn Du Bình bèn hỏi, rốt cuộc bí mật đó là gì?
Người Khang Ba Lạc trả lời, bí mật chính là bí mật. Họ dẫn Muộn Du Bình vào căn phòng phía sau nơi ở của Thổ ty. Tại đó, lần đầu tiên Muộn Du Bình nhìn thấy thứ quan trọng nhất trong câu chuyện này—một bức tượng đá màu đen kỳ lạ.
Căn phòng vô cùng lớn nhưng lại trống rỗng, chỉ có duy nhất bức tượng thần màu đen.
Không phải là tượng thần của Tây Tạng. Muộn Du Bình có kiến thức rất sâu về các nền văn minh, nhưng đây là lần đầu tiên y nhìn thấy một bức tượng có hình dáng như thế này.
Rất có thể nó thuộc về một nền văn minh mà y chưa từng biết đến.
Chúng tôi gọi nó là tượng thần, bởi vì nó mang đầy đủ những đặc trưng của một bức tượng thần, nhưng chắc chắn không phải là thần của con người. Muộn Du Bình từng viết trong tư liệu rằng y không thể dùng bất kỳ ngôn ngữ nào để mô tả nó là thứ gì.
Đúng vậy, tuy không thể viết thành lời, nhưng y đã vẽ lại nó.
Chỉ cần nhìn thoáng qua, tôi đã nhận ra ngay hệ thống tín ngưỡng của vị thần này cùng một hệ với tượng thần có hình dạng như chày giã gạo mà chúng tôi từng thấy ở núi Trường Bạch.
Thần linh là những tồn tại vượt trội hơn con người, nhưng giả sử có loài động vật thân mềm hay san hô tu luyện thành thần trên thế giới, liệu chúng ta có thể hiểu được hệ giá trị của chúng không? Khi nhìn thấy bản vẽ đơn giản đó, trong đầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ kỳ quái như vậy.
Người Khang Ba Lạc nói với Muộn Du Bình rằng, thứ mà họ muốn ngăn chặn chính là thứ này.
Ngọn núi mà Đổng Xán từng đến, nơi có vô số quả cầu kim loại, nằm ở phía bên kia của làng Khang Ba Lạc, cách đó mười bảy ki lô mét, đường đi vô cùng hiểm trở. Rất nhiều người ở đây đã từng đến thung lũng đó, tận mắt nhìn thấy những quả cầu kỳ lạ, thậm chí còn nhặt một số mang về.
Muộn Du Bình cảm thấy cách nói này có vài vấn đề, bèn hỏi tiếp: Vậy cô gái kia là thế nào?
Lần này, y không nhận được câu trả lời.
Trong lúc trò chuyện, Muộn Du Bình chợt nhận ra trong căn phòng họ đang ở có một chỗ vô cùng kỳ lạ. Y quan sát kỹ hơn, phát hiện ra một thứ nhất định không thể xuất hiện ở đây lại đang nằm ngay trong căn phòng này.
Y giữ vẻ mặt bình thản, nhưng trong lòng đã hiểu rõ, dường như những gì y vừa nghe được hoàn toàn không giống với sự thật. Ngôi làng này thoạt nhìn như một chốn đào nguyên tách biệt với thế gian, một Shangri-La yên bình, nhưng thực chất lại không hề đơn giản như vẻ ngoài của nó.
----------
(1) Thổ ty là quan lại xưa cha truyền con nối ở miền dân tộc thiểu số.
Chương 20: Tà thần độc lập với các nền văn minh khác
Đọc đến đây, tôi đã gần như hiểu được rốt cuộc Đổng Xán đã trải qua chuyện gì trong thung lũng đó. Bất kể thực chất cái gọi là bí mật là gì thì nguyên nhân cuối cùng khiến Đổng Xán hoàn toàn tuyệt vọng nhất định là vì ông ta đã yêu một người phụ nữ.
Với người Trương gia, dường như tình yêu là một thứ khó có thể lý giải. Đối với Tiểu Ca, tôi đã ở bên y lâu như vậy nhưng chưa từng thấy y thể hiện bất kỳ ham muốn nào mà một con người bình thường nên có.
Theo lẽ thường, bất kể một người có thanh cao đến đâu, nếu không bị ảnh hưởng bởi thuốc hay ngoại lực thì không thể hoàn toàn không có ham muốn hay mong cầu gì. Dù là người thích trồng hoa thì thưởng thức cây cỏ cũng là một dạng ham muốn, nhưng việc mà Tiểu Ca thích làm nhất lại là ngồi thẫn thờ.
Nói cách khác, nếu y có ham muốn thì ham muốn của y chính là không làm gì cả.
Nhìn vào thái độ thường ngày của y, chưa bao giờ thấy y có hứng thú với phụ nữ, cũng không có bất kỳ dấu hiệu nào của nhu cầu cá nhân, không để tâm đến đồ ăn, cũng không hứng thú với bất kỳ loại thông tin nào.
Tất nhiên, ngay cả khi y thực sự quan tâm thứ gì đó, y cũng sẽ không thể hiện ra ngoài. Tự nhiên trong đầu tôi nảy ra một ý nghĩ vô cùng xấu xa: Nếu có cơ hội gặp lại, tôi nhất định phải thử cho y ăn vài con ruồi Tây Ban Nha xem sao, không biết cơ thể y có miễn dịch được không.
Vậy nên, từ trước đến nay, tôi vẫn luôn cảm thấy người Trương gia là kiểu người vô cùng cứng nhắc, hoàn toàn không biết cách bộc lộ cảm xúc. Thế nhưng, Đổng Xán đã phá vỡ nhận định này của tôi.
Tôi biết rằng, chỉ có tình yêu tan vỡ mới có thể khiến một người được huấn luyện khắc nghiệt, suy nghĩ cẩn trọng, thân thủ bất phàm, lại hoàn toàn tuyệt vọng với thế giới bên ngoài. Hơn nữa, nhất định là người phụ nữ đó đã gặp kết cục đầy bi thương.
Tôi không khỏi nghĩ đến Bàn Tử. Bàn Tử là kiểu người có thể tiêu hóa được mọi nỗi đau, dù về bản chất, niềm vui hay nỗi buồn cũng chỉ là những cảm xúc, và cảm xúc không thể dùng để đổi lấy tiền bạc. Nhưng ngay cả Bàn Tử cũng có những thứ không thể vượt qua, huống hồ là những kẻ thậm chí còn tự làm khổ chính mình như người Trương gia.
Tôi nghĩ rằng, có lẽ câu chuyện là thế này, trong khoảng thời gian sống ở Khang Ba Lạc, Đổng Xán đã yêu một cô gái người bản địa. Nhưng trong một sự kiện nào đó, cô gái ấy đã chết, hoặc gặp phải chuyện gì khác. Có thể Đổng Xán đã giải quyết được vấn đề của ngôi làng, nhưng cũng đồng thời đánh mất đi lý do để tiếp tục ở lại đây.
Những tình tiết này giống như một kịch bản của những bộ phim phiêu lưu hạng ba phát trên kênh điện ảnh lúc tám giờ, thế nhưng ngoài đời thực, những câu chuyện như vậy lại dễ dàng xảy ra hơn ta tưởng.
Muộn Du Bình phát hiện ra rằng hỗn hợp trám vào các kẽ hở giữa những phiến đá trong căn phòng này không phải bùn đất thông thường mà là bê tông.
Loại bê tông này có kết cấu giống như bùn lỏng, nhưng khi khô lại cứng vô cùng, nhất là trong thời tiết lạnh giá như thế này, tốc độ đông cứng của nó sẽ nhanh hơn rất nhiều. Tuy nhiên, dù có đông cứng nhanh đến đâu thì cũng không thể nhanh hơn tốc độ đóng băng của nước. Vì vậy, nếu muốn sử dụng loại bê tông này, cần phải có biện pháp giữ ấm để ngăn nó bị đóng băng trước khi đông cứng hoàn toàn.
Một ngôi làng nhỏ trên núi như thế này, làm thế nào lại có bê tông để xây dựng tường đá?
Nhận định đầu tiên của Muộn Du Bình là nơi này có gì đó bất thường. Nhưng tất cả những gì y quan sát được lại không giống như một nơi bất thường. Thế nên y quyết định hỏi thẳng người đứng đầu ngôi làng vì sao ở đây lại có bê tông.
Câu trả lời của người này rất phức tạp, cuối cùng dẫn đến một chuyện quan trọng khác. Nhưng để mạch chuyện được trơn tru, tôi sẽ tạm gác lại chi tiết đó ở đây.
Sau đó, Muộn Du Bình vẫn tiếp tục hỏi về cô gái kia. Y có cảm giác tất cả mọi chuyện đều có mối liên hệ với nhau.
Sau khi y hỏi đi hỏi lại nhiều lần, cuối cùng người đứng đầu ngôi làng mới nói, cô gái đó chính là người mà Đổng Xán yêu. Đổng Xán quyết định ở lại đây chính là để cứu cô ta. Nhưng cuối cùng vẫn thất bại.
Khi đọc đến phần này, tôi đã ở trong chùa lạt ma được bảy ngày. Sau nhiều ngày đọc tài liệu liên tục, phân tích và sắp xếp thông tin, tôi đã vô cùng mệt mỏi. Thức ăn trong chùa cũng hoàn toàn không hợp khẩu vị của tôi. Đến giờ, tôi cảm thấy mình đã chạm đến giới hạn.
Đối với tôi, môi trường ở đây khá dễ chịu. Dù thời tiết lạnh giá ở Mặc Thoát khiến tôi gần như không thể ra ngoài, nhưng nhờ vào lò than và những tấm thảm lông tạo thành một lớp chắn ấm áp, ở trong phòng lại vô cùng thoải mái. Tôi cũng đã quen với mùi chăn bông có phần lạ lẫm ở đây, thậm chí còn ngủ rất ngon.
Nếu là trước kia, vào thời điểm này, chắc chắn tôi sẽ tìm cách xuống núi để đổi gió, ăn chút gì đó khác lạ. Ngày nào cũng ăn bơ sữa và lương khô Tây Tạng thực sự không phải là chuyện mà dạ dày của tôi có thể chịu đựng nổi.
Nhưng những gì tôi đã trải qua khiến tôi không còn dám rời khỏi công việc mình đang làm dù chỉ một phút, bởi tôi biết rằng, chỉ cần rời đi dù chỉ một khoảnh khắc cũng có thể dẫn đến vô số biến cố. Mà có những biến cố, chỉ cần tôi ở đây, tôi hoàn toàn có thể kiểm soát được.
Trên thế giới này, nếu có những bí mật không thể để lộ ra, vậy thì ngay cả khi chúng đang nằm trên bàn của anh, anh cũng phải hiểu rằng có vô số đôi mắt đang chờ anh rời đi ở xung quanh, dù chỉ một giây.
Vì vậy, tôi bảo người làm của mình tìm cách xuống núi, mua một ít rau xanh và bột mì, đồng thời tìm một đầu bếp người Hán, mang theo một chiếc nồi đến chùa lạt ma.
Do sự khác biệt về khẩu vị, ban đầu tôi chỉ nhờ đầu bếp đó nấu cho mình một ít cơm đậu, sau đó lén bảo anh ta cho thêm chút thịt muối vào.
Suốt khoảng thời gian này, tôi không xem lại những tài liệu trước đó. Đã có vài lần định mở ra đọc lại nhưng cảm giác mệt mỏi lập tức ập đến, bởi vì tôi đã đọc quá nhiều trước đó, xử lý quá nhiều thông tin, khiến tôi dường như không thể theo kịp nữa.
Lão lạt ma đã trở thành một người bạn tốt của tôi trong khoảng thời gian này. Ông ấy cũng rất hứng thú với những gì tôi đang tìm hiểu, chúng tôi thường xuyên thảo luận về một số chi tiết. Khi có du khách đến chùa, ông ấy sẽ ra ngoài tiếp đón. Vì tôi luôn đóng cửa không ra ngoài nên tôi hoàn toàn không biết những vị khách đến sau, ông ấy sẽ giới thiệu họ giúp tôi.
Nhà ăn trong chùa là nơi đông người nhất, tôi có thể thấy một vài người lạ mặt, không phải ai cũng là người trong chùa. Tôi mang bát cơm của mình đến đó, định vừa ăn vừa trò chuyện với ai đó nhưng lại cảm thấy có gì đó không đúng.
Chùa đón rất nhiều người lạ, nhìn dáng vẻ họ có vẻ đến từ Hồng Kông hoặc Quảng Đông, có thể nhận ra ngay nhờ giọng điệu của họ. Có vẻ nhóm người này là một đoàn du lịch bụi, tất cả đều đang ngồi ăn trong nhà ăn.
Lão lạt ma nói với tôi rằng nhóm du khách này đến vào ngày thứ ba sau khi tôi đến, đúng vào lúc tôi đang hoàn toàn đắm chìm vào những tài liệu, gần như không rời khỏi phòng, vì vậy tôi hoàn toàn không biết đến sự xuất hiện của họ.
Họ đến từ Hồng Kông, thuộc một nhóm du lịch bụi có tên "ngôi nhà xanh", do một trang web du lịch bụi ở Hồng Kông tổ chức. Người quản lý của trang web này có mối quan hệ rất tốt với lão lạt ma, dường như họ đã quen biết từ rất lâu.
Họ sẽ ở lại đây đến tháng sau, vì điểm đến của họ là một vùng núi tuyết xa hơn để chụp ảnh, nhưng thời điểm đẹp nhất để ngắm tuyết vẫn chưa tới nên họ tạm thời nghỉ ngơi tại đây.
Nhóm này năm nào cũng đến, Trần Tuyết Hàn đã từng làm hướng dẫn viên cho họ vài lần.
Tôi không quá để tâm đến nhóm người này, chỉ chào hỏi qua loa. Dù có người ngoài chùa xuất hiện khiến không khí ở đây thú vị hơn đôi chút, nhưng tôi không muốn gây ra rắc rối không cần thiết.
Sự xuất hiện của họ khiến nhà ăn trở nên quá đông đúc, đến mức nhiều vị lạt ma trong chùa phải chuyển sang một gian phòng khác để ăn tạm. Tôi nghĩ rằng có lẽ tiếp tục thảo luận với lạt ma già về những thông tin tôi đã sắp xếp quan trọng hơn, vì vậy tôi cũng chuyển sang phòng đó để ăn.
Nhưng khi đến nơi, tôi lại càng kinh ngạc hơn. Lạt ma già không có ở đó, thay vào đó, căn phòng lại toàn là những người ngoại quốc.
Số lượng không nhiều như nhóm khách Hồng Kông, nhưng vẫn có sáu, bảy người. Có lẽ vì muốn tránh phiền phức, không có một vị lạt ma nào trong phòng.
Dù sao thì các vị lạt ma đều là những người có trí tuệ và tu vi rất cao, họ dành phần lớn thời gian để chuyên tâm tu hành nên không thể lúc nào cũng ở trong môi trường ồn ào như vậy.
Tôi đi hỏi các vị lạt ma khác xem chuyện gì đang xảy ra. Tại sao một ngôi chùa hẻo lánh như thế này lại đột nhiên biến thành nhà trọ. Từ lúc tôi đến đây, người đến sau tôi ngày càng nhiều, chẳng lẽ là do vía tôi quá hút khách, khiến phong thủy của nơi này thay đổi, số người lui tới cũng ngày càng đông.
Các vị lạt ma cũng nói rằng họ không biết tại sao. Dù ngôi chùa lạt ma này không hoàn toàn biệt lập với thế giới bên ngoài, nhưng ngoài một số nhóm cố định, hiếm khi có nhiều người đến cùng một lúc như vậy.
Tôi vẫn không tìm thấy lão lạt ma đâu. Trong hoàn cảnh này, có thể ông ấy đã lánh lên khu vực trên tầng của chùa, nơi mà chúng tôi không có quyền bước vào.
Tôi nhờ một tiểu lạt ma gửi tin nhắn đến lão lạt ma, bày tỏ mong muốn được tham gia vào cuộc thảo luận của họ, vì những tài liệu ấy đều do tôi tổng hợp. Nhưng tiểu lạt ma nói với tôi rằng thời gian và địa điểm gặp mặt sẽ do lão lạt ma quyết định, tôi không thể muốn gặp ông ấy lúc nào cũng được.
Chán nản không có việc gì làm, tôi lang thang quanh các giếng trời, cố tránh nơi đông người, rồi vô tình bước đến chỗ một giếng trời đặc biệt.
Chùa lạt ma này có vô số giếng trời, nói là vô số có thể hơi phóng đại, nhưng thực sự có rất nhiều. Hơn nữa, chúng đều rất nhỏ, có một số còn nhỏ đến mức trông không khác gì một cái giếng thật sự.
Trước khi đến giếng trời này, tôi đã đi qua ba, bốn giếng trời khác, hầu như không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào. Cũng có nghĩa là khu vực này của chùa khá vắng vẻ, ít người lui tới.
Trên tường của giếng trời có một số bích họa Phật giáo cũ kỹ, vì là bích họa ngoài trời nên đã bong tróc gần hết, chỉ còn lại những mảng màu loang lổ, không thể nhận ra hình vẽ ban đầu. Tôi nhìn thấy một bóng lưng. Tôi có thể chắc chắn rằng người đó chỉ đơn giản là ngồi đó thất thần, không phải đang quan sát gì cả.
Nhưng tôi lại không dám bước đến, bởi vì tôi quá quen thuộc với bóng lưng này. Quen thuộc đến mức trong khoảnh khắc đó, tôi hoài nghi liệu mình có đang mơ, liệu mình có bước nhầm vào một không gian khác hay không.
Đó là bóng lưng của Tiểu Ca. Y mặc một chiếc áo khoác đi tuyết màu đen, lặng lẽ ngồi trên phiến đá giữa giếng trời.
Xung quanh y toàn là tuyết trắng, nhưng dường như y không hề cảm thấy lạnh, mà hoàn toàn chìm đắm vào thế giới của riêng mình.
Bản này được sao lưu từ website Nhị Đạo Bạch Hà. Nếu bạn đọc nội dung này ở nơi khác, đó chắc chắn là bản reup.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com