Tạng Hải Hoa quyển 1: Chương 51 - Chương 60
📌 Bản dịch gốc được đăng tại: https://metarikkuhoseki.wordpress.com/
thuộc ngoại truyện "Tạng Hải Hoa".
🚫 Vui lòng không reup hoặc sao chép khi chưa được cho phép.
Dịch: Sóc
Chương 51: Khám phá của họ
Lúc đó, Trương Hải Khách nghĩ rất nhiều chuyện trong đầu. Di tích này vốn đã có sẵn lối đi, rõ ràng tiện lợi hơn nhiều so với tự đào bới. Muộn Du Bình lại tỏ ra rất quen thuộc với nơi này, còn nói rằng y từng có mặt tại hiện trường khi mọi chuyện xảy ra. Như vậy, có khả năng chính y là người đã dọn sạch lớp bùn đất trong lối đi đó.
Chỉ có trẻ con mới có thể chui qua lối đi này, nhưng rõ ràng là một mình y không thể dọn hết bùn đất. Vậy nên, chắc chắn lúc đó không chỉ có một mình Muộn Du Bình mà còn có những đứa trẻ khác của Trương gia cùng làm.
Nhưng chuyện này hoàn toàn trái với quy tắc của Trương gia, để một đứa trẻ nhỏ như vậy xuống mộ làm việc vốn đã là điều cấm kỵ.
Vừa rồi Muộn Du Bình có nói, cha y là người mà bọn họ gọi là cha, gần như không có chút cảm xúc nào trong câu nói đó. Như vậy, rất có thể y là một trong số những đứa trẻ mồ côi trong Trương gia, cha mẹ ruột đều đã chết trong những lần trộm mộ, không còn ai bảo vệ, bị người ta lợi dụng, ép buộc làm những công việc âm u, chẳng thấy ánh mặt trời như thế này.
Trong nghề trộm mộ, dù giỏi đến mấy cũng có lúc thương vong, Trương gia cũng không ngoại lệ. Những đứa trẻ của những người đã mất đó có một cuộc sống hoàn toàn khác biệt.
Nhắc mới nhớ, Trương Hải Khách cảm thấy mình thật sự chưa bao giờ quan tâm đến số phận của những đứa trẻ như thế. Chúng sống trong một góc sân riêng biệt, được người chuyên phụ trách chăm sóc, hoàn toàn bị tách biệt với bên ngoài. Mỗi đời của Trương gia đều có một nhóm như vậy, có người không có con thì sẽ nhận nuôi vài đứa, xem như con ruột. Rất có thể Muộn Du Bình chính là một trong số đó, được một người gọi là "cha" nhận nuôi, rồi được huấn luyện để vào cổ mộ làm việc, len lỏi trong những khe hẹp người lớn không thể vào, lần mò lấy ra các món đồ tùy táng.
Tăm tối, lạnh lẽo, một đứa trẻ mới tám, chín tuổi đã phải đối mặt với những thứ đó, bảo sao y lại có tính cách như vậy.
Dù sao thì họ cũng không thể chui qua đạo động đó. Còn có một miệng đạo động khác lớn hơn bên cạnh, chắc được đào về sau, dành cho người lớn sử dụng.
Hẳn là hai đạo động này dẫn đến cùng một nơi.
Trương Hải Khách soi đèn pin quan sát kỹ, thấy hướng đi của hai đạo động khá giống nhau, bèn dẫn đầu chui vào đạo động lớn bên cạnh, tiếp tục bò về phía trước.
Trương Hải Khách kể lại với tôi: "Đây là một sai lầm do thành kiến ban đầu. Chúng tôi bò gần trăm mét mới thấy được lối ra. Sau khi ra ngoài mới phát hiện ra thực ra hai đạo động đó dẫn đến hai nơi hoàn toàn khác nhau. Chúng tôi và anh ta đã lạc nhau."
Sau khi bò ra khỏi đạo động, bọn họ tiến vào một nơi trú tạm thứ hai, cũng là căn phòng thứ tư mà họ đặt chân đến. So với chỗ trước, chỗ này đơn sơ hơn nhiều, vừa nhìn đã biết đây vốn là một ngôi miếu thổ địa nhỏ.
Chỗ này rất hẹp, một lớp đất vàng dày chừng nửa bàn tay phủ dưới đất, gạt đi sẽ thấy nền lát gạch xanh.
Bốn bức tường trong miếu đều có tượng thần, một bên là Địa Tạng Vương Bồ Tát(1), hai bên trái phải là tượng Thổ Địa, phía còn lại là cửa miếu, hai bên cửa có hai tượng thần khác, có vẻ là thần của Đạo giáo. Cửa miếu đã bị nước lũ phá vỡ, bùn đất tràn vào tạo thành một sườn dốc, nhưng do kết cấu vững chắc, ngôi miếu không bị sụp đổ, bùn chỉ chặn ngay cửa.
Có rất nhiều đồ vật được treo lơ lửng trên trần nhà bên trong miếu, dưới đất là vài chum nước và vật dụng linh tinh. Kỳ lạ là trong chum còn có nước sạch, không rõ từ đâu ra.
Cả nhóm rửa sơ qua người rồi ngồi nghỉ quanh mấy cái ghế gỗ. Trương Hải Khách để ý thấy có ai đó từng vẽ gì đó trên mặt đất. Nhìn dấu vết xung quanh, chắc là có người đã tiện tay dùng dao hoặc nhánh cây vạch vẽ khi ngồi nghỉ tại đây.
Trương Hải Khách nhìn kỹ thì nhận ra đó là bản đồ mặt bằng của thành cổ. Khu vực chưa khám phá và khu vực đã dò được đều được đánh dấu rõ ràng. Khiến hắn bất ngờ là người vẽ bản đồ còn vạch một đường viền bao quanh toàn bộ thành phố, mà giờ nhìn lại, nó trông giống hình một con bọ cạp.
Trong vùng chưa thăm dò, có một điểm được đánh dấu bằng một hòn đá, hiển nhiên đó chính là điểm đến mà họ đang nhắm tới.
Họ chật vật tiến sâu vào thành cổ, những nơi từng đi qua đều có vật dụng được treo lên, chứng tỏ là khu dễ rung lắc. Nhưng rốt cuộc, sự rung lắc đó là gì? Từ khi vào đây, họ vẫn chưa gặp chuyện gì thực sự xác nhận giả thuyết này.
"Càng đi sâu thì càng xa lối ra, cũng càng nguy hiểm." Một người Trương gia trong nhóm bất chợt lên tiếng: "Tôi thấy lạ, nếu nơi này đáng giá đến vậy, tại sao không dẹp luôn Mã gia ở phía trên? Trương gia chúng ta mạnh như thế, mấy tên lính đào ngũ đó thì nhằm nhò gì? Dẹp sạch đám gia tộc quyền thế, thay thế bọn họ, muốn làm gì chẳng được?"
"Nếu thế thì Trương gia chẳng khác gì lũ cướp." Trương Hải Khách cười:
"Các anh có thấy người mình có gì đó là lạ không?" Một người trong nhóm lên tiếng. Mấy người còn lại quay lại thì thấy hắn đang gãi tay, mẩn đỏ nổi đầy trên da.
Hắn vừa gãi vừa nghĩ ngợi rồi nói: "Chắc là nước có vấn đề."
"Không phải nước, tôi đã kiểm tra rồi." Một người khác bỗng nghiêm mặt nói, "Là bùn. Đống bùn đó có vấn đề."
Trương Hải Khách không nói gì, quay lại chỗ họ rửa sạch bùn khi nãy, lấy một ít bùn đưa lên mũi ngửi kỹ, rồi nói: "Trong bùn có thủy ngân."
Mấy đứa nhỏ Trương gia luôn mang theo thuốc giải độc, lập tức bôi thuốc lên người. Một người trong số đó thắc mắc: "Đây là di tích thành cổ cơ mà? Sao trong bùn lại có thủy ngân, thứ thường chỉ có trong các mộ cổ?"
Cả nhóm bắt đầu cảm thấy khó hiểu. Đúng lúc đó, người đầu tiên bị ngứa bỗng ngã lăn ra đất. Một người khác lập tức đỡ hắn dậy thì phát hiện ra hắn đang run lên bần bật, những vết mẩn đỏ trên tay không những không giảm mà còn nổi dày hơn.
"Chúng ta không bị làm sao, sao hắn lại phản ứng dữ dội vậy?" Người đỡ hắn hỏi.
Trương Hải Khách bèn thọc ngón tay vào họng hắn, móc cho bằng hết bùn trong dạ dày ra.
"Hắn nuốt phải mấy ngụm bùn rồi. Mau cho hắn uống lòng trắng trứng rửa ruột đi."
Có lẽ người đó bơi không giỏi, lúc lặn xuống đã vô tình nuốt phải mấy ngụm bùn. Vì sĩ diện không chịu nôn ra, ráng nhịn, may mà vẫn chịu đựng được đến giờ.
Bùn vốn đã hôi hám, thêm mùi axit dạ dày từ chỗ nôn ra nữa, khiến ai nấy đều mặt mày tái mét. Một người vội đi lấy lòng trắng trứng cho hắn uống, còn Trương Hải Khách thì xúc đất định lấp bãi nôn kia lại. Nhưng vừa xúc được vài cái thì đột nhiên nhận thấy, hình như có gì đó đang ngọ nguậy trong đống bùn vừa nôn ra.
--------------
(1) Địa Tạng Vương Bồ Tát được coi là vị Bồ Tát có thệ nguyện lớn nhất từ trước đến nay. Người sẵn sàng lăn xả và chốn địa ngục để cứu vớt tất cả chúng sánh. Ngài nguyện độ hết chúng sanh trong địa ngục thành Phật lúc ấy mới thành Phật. Chính vì vậy người được tôn thành giáo chủ của cõi U Minh.
Chương 52: Tình thế tuyệt vọng
Trương Hải Khách gạt lớp bùn ra, lập tức nhìn thấy đầy rẫy những con đỉa nhỏ xíu trong đống bùn người kia vừa nôn ra. Những con đỉa này màu đen tuyền, to cỡ sợi mì, đang liên tục quằn quại trong đống chất bẩn, trông chẳng khác gì một bát mì sống.
Hắn gắp một con lên quan sát, thấy nó khác hẳn với những con đỉa thường thấy, toàn thân nổi đầy u nhỏ, nhìn kỹ mới thấy đó là những ổ trứng màu trắng dính đầy bùn, chi chít như thể từng hạt dính sát vào nhau.
Trương Hải Khách khẽ "chậc" một tiếng rồi cúi đầu nhìn kỹ làn da của mình, lập tức mồ hôi lạnh túa ra.
Hắn nhìn xuống da mình, thấy vô số đường gân nhỏ li ti, trên bề mặt da lấm tấm những chỗ hơi gồ lên bất thường.
Không có cảm giác gì rõ rệt, nếu không chú ý sẽ chẳng thể nhận ra.
Lúc ấy, những người khác vẫn đang rửa dạ dày cho nạn nhân, còn đùa giỡn cãi nhau, Trương Hải Khách gầm lên: "Đừng ồn nữa! Chúng ta sắp chết rồi!"
Mấy người lập tức im bặt rồi vây lại, thấy Trương Hải Khách dùng dao găm rạch một đường thật sâu trên cánh tay mình, một con đỉa đen to tướng mình đầy trứng lập tức chui ra từ vết thương. Hắn dùng dao nhấc nó lên, máu phun xối xả, những con đỉa đang bò trong đống bẩn cũng đổ xô về phía máu vừa nhỏ xuống.
Con đỉa bị nhấc trên đầu mũi dao không ngừng quằn quại, mặt Trương Hải Khách cũng nhăn nhó, hắn lập tức dùng hỏa chiết tử thiêu chết nó. Sau đó hắn nhìn lại khắp cơ thể mình, gần như tuyệt vọng, những đường vằn đen dưới da lờ mờ hiện lên khắp người, chứng tỏ gần như dưới da hắn đã bị đỉa chiếm đầy.
"Chúng chui vào lúc nào?"
"Chính là lúc chúng ta ngâm trong bùn. Mọi người xem lại người mình đi."
Cả đám vội lột áo soi kỹ, nhìn xong ai nấy đều hoảng loạn, tình trạng của họ cũng không khác gì Trương Hải Khách, dưới lớp da toàn thân đều bị đỉa xâm chiếm.
"Chúng chui qua lỗ chân lông. Chúng ở trạng thái ngủ trong bùn, có khi chỉ to bằng sợi tóc, vào cơ thể hút máu mới phình to ra."
"Giờ làm sao đây? Nếu móc ra hết thì chẳng khác nào biến mình thành thịt băm."
"Dùng lửa đốt, ép chúng chui ra." Trương Hải Khách nói.
"Chúng hút máu phình to thế kia, chắc có muốn chui ra cũng không nổi nữa đâu."
"Chết kẹt bên trong còn hơn bị chúng ăn rỗng cả người."
Không đủ nước và không gian để đun nước trong chum, Trương Hải Khách chỉ còn cách dùng đuốc hơ sát ngực mình. Chẳng mấy chốc, cả căn phòng nhỏ ngập trong mùi thịt nướng.
Ban đầu, Trương Hải Khách nghĩ nếu không ép được đỉa ra ngoài thì ít nhất cũng thiêu chết chúng bên trong. Nhưng khi bắt tay vào làm thật, hắn lập tức nhận thấy không ổn.
Đám đỉa lập tức bị nhiệt độ làm cho hoảng loạn, hắn cảm nhận rõ ràng từng con một đang thi nhau chui sâu vào trong cơ thể mình. Ban đầu chỉ thấy ngứa râm ran, nhưng ngay sau đó là cơn đau nhức thấu xương.
Bọn họ đành phải dừng lại, nhưng mấy người còn lại lập tức hoảng loạn, điên cuồng định dùng dao rạch vào cơ thể mình.
Trương Hải Khách vẫn giữ được bình tĩnh: "Đừng hoảng, chưa đến mức tuyệt vọng." Hắn nhìn quanh rồi nói tiếp: "Người trong tộc chúng ta từng đến đây, chắc chắn lũ đỉa này đã có từ trước. Họ không sao cả, lúc nãy xem mấy cái xác cũng không thấy ai buộc ống quần hay gì cả, chứng tỏ họ có cách xử lý. Chúng ta tìm thử xem."
Mấy người lập tức lục soát đống đồ ít ỏi trong miếu Thổ Địa nhưng chẳng tìm được gì ngoài cái chum nước.
Hay là nước trong chum này?
Họ vội dùng nước trong chum để rửa người lần nữa, lần này chà kỹ hơn hẳn, gần như muốn tống thẳng nước vào da thịt.
Sau khi rửa xong, vẫn không thấy hiệu quả gì. Cả nhóm đều im lặng, dần dần cũng bình tĩnh lại. Lũ đỉa dưới da họ cũng không động đậy nữa.
"Thằng nhóc đó nói chắc chắn chúng ta sẽ chết, có khi nào là do nó biết có mấy con ký sinh này trong bùn không?"
"Nhưng chính nó cũng nhảy xuống đó mà, nếu biết nó xử lý bằng cách nào?"
Trương Hải Khách thở dốc, đột nhiên nhớ đến một lời đồn, nghe nói Muộn Du Bình là một đứa trẻ mang dòng máu thuần khiết nhất của Trương gia. Tuy dòng máu này không phải là năng lực gì đặc biệt, nhưng chỉ có người mang dòng máu ấy mới đủ khả năng đi vào những mộ cổ cực kỳ hiểm độc.
"Máu của nó." Trương Hải Khách bỗng bừng tỉnh. "Là máu của nó khiến đám ký sinh này không dám đến gần. Mẹ nó, lần trước đám người Trương gia đến đây là dùng máu nó để trốn bọn ký sinh này!"
Hắn bật dậy: "Đừng nghỉ ngơi nữa! Trước khi đám trứng trong người nở ra giết chúng ta, phải tìm được thằng nhóc đó. Chỉ có nó mới cứu được chúng ta!"
Cả nhóm lập tức lên đường.
Không biết đi bao lâu, chắc cũng hơn một ngày một đêm, họ đã tiến sâu vào trong di tích cổ. Thế nhưng vẫn không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào của Muộn Du Bình. Như thể y đi một con đường hoàn toàn khác. Tới tối hôm sau, họ đến được rìa ngoài của khu vực đã được Trương gia thám hiểm.
Rìa ngoài ở đây là một chiếc thuyền cổ bị chôn trong bùn. Trong khoang thuyền, Trương Hải Khách thấy ba cái xác trẻ con khô quắt, nằm vắt vẻo ở góc. Rõ ràng là những đứa trẻ mồ côi của Trương gia chết do bị lấy máu, trên người còn vết lấy máu rõ ràng.
Chúng chỉ tầm bảy, tám tuổi. Vừa giận vừa bất lực, Trương Hải Khách cảm thấy mấy đường vân đen trên da mình càng lúc càng đậm, có thể sờ thấy rõ hình lũ trứng đỉa dưới da.
"Chịu thôi, nơi này quá lớn, chúng ta không tìm ra lối khác đâu, không thể nào tìm được nó. Có khi phải quay về, có thể cha và mấy người lớn có cách."
"Anh cũng nghe thằng nhóc nói rồi mà. Nếu để người trong nhà biết chúng ta từng đến đây, chắc chắn sẽ bị thủ tiêu."
Trương Hải Khách nói: "Với lại, quay về nhà cũng tốn thời gian. Tới lúc đó đừng nói là đỉa, trứng gà còn nở rồi. Chúng ta chỉ còn một cách duy nhất để sống sót."
"Cách gì?"
"Chúng ta phải phá hoại. Phá thật nặng. Gây ra tiếng động đủ lớn để ép nó ra ngăn cản." Trương Hải Khách nói: "Cấu trúc nơi này vốn không ổn định, chúng ta có mang thuốc nổ. Cho nổ mỗi hai tiếng một lần, làm sập từng phần. Không tin nó không xuất hiện."
"Nếu nó không ra mà lẳng lặng bỏ chạy thì sao?"
"Vậy thì chết chắc, khỏi nghĩ nhiều." Trương Hải Khách nói: "Nhưng tôi tin, nếu nó đã cực khổ quay lại đây thì sẽ không dễ dàng bỏ cuộc đâu. Chúng ta vẫn có cơ hội sống."
Chương 53: Bất ngờ sau vụ nổ
Kết quả là, Trương Hải Khách sử dụng kế hoạch của mình, cứ cách hai tiếng lại cho nổ một lần. Nhưng những vụ nổ đó chẳng những không khiến Muộn Du Bình xuất hiện mà còn vô tình kích hoạt cơ quan trên đỉnh toàn bộ thành cổ.
Trương Hải Khách kể: "Năm xưa, sau khi thành cổ bị nhấn chìm, chính quyền địa phương không những không tổ chức khai quật mà còn cố tình tạo hồ, đắp đê ngay trên di tích thành cổ rồi đổ một lượng lớn thủy ngân vào tầng bùn bên trên để phong tỏa. Hành động này rất đáng ngờ.
Thời đó đã có người nghi ngờ rằng trận lũ nhấn chìm thành cổ không hẳn là thiên tai mà là có người muốn vùi lấp một bí mật nào đó trong lòng thành cổ này, bịt kín hoàn toàn mọi thứ.
Sau khi đổ thủy ngân, họ còn đổ thêm một lớp hỗn hợp vôi, cát, đất sét lên trên, đóng kín toàn bộ khu vực bị thủy ngân bao phủ."
Đám Trương Hải Kháchđã cho nổ rất sâu vào trong lòng thành cổ, làm phá vỡ cấu trúc đất đá bên trong. Kết quả là toàn bộ thành cổ bị sụp đổ, lớp hỗn hợp vôi, cát phía trên bị nứt nghiêm trọng, khí thủy ngân thoát ra ngoài, giết sạch toàn bộ thực vật trên mặt đất.
Lúc ấy Muộn Du Bình đã rời khỏi thành cổ, phát hiện ra hiện tượng kỳ lạ này, chính là câu chuyện mà gã răng vàng từng kể lại trước đó.
Nghe Trương Hải Khách nói xong, đầu tôi như muốn nổ tung. Trương Hải Khách lại tiếp tục: "Đây chính là những chuyện mà bạn của các cậu từng làm."
"Sau đó, anh ấy đã cứu các anh ra ngoài?"
Trương Hải Khách gật đầu: "Đúng vậy. Dĩ nhiên quá trình không đơn giản như cậu tưởng. Nếu tôi kể ra thì cũng là một câu chuyện rất ly kỳ, nhưng một là giờ chúng tôi đã biết bí mật dưới thành cổ; hai là dù có ly kỳ thì chưa chắc còn hứng thú với hai người đã trải qua bao nhiêu chuyện như các cậu. Nên tôi lược bớt, chỉ nói là sau khi cứu bọn tôi xong thì anh ta rời đi. Sau này đôi khi có gặp lại trong tộc, nhưng cũng chẳng nói gì nhiều. Anh ta ngày càng mạnh, địa vị cũng càng lúc càng cao, dần dần không còn là người mà chúng tôi có thể trò chuyện cùng nữa, từ đó cũng cắt đứt liên lạc luôn."
"Ngoài lề chút." Bàn Tử chợt hỏi: "Anh nói lúc ấy là thời Dân Quốc, đại ca, lúc đó anh mười lăm tuổi, vậy giờ cụ bao nhiêu tuổi rồi ạ?"
"Hỏi tuổi người khác là rất bất lịch sự đấy." Trương Hải Khách đáp: "Tôi chỉ có thể nói một điều, chắc chắn suy đoán của cậu sai bét."
Lúc đó Trương Hải Hạnh liếc nhìn tôi, như bị chột dạ. Tôi cũng nhìn lại cô ta, cô ta lập tức nổi giận: "Nhìn cái gì mà nhìn? Gọi chị là được rồi, lắm lời nữa là chị giết đấy!"
Bàn Tử quay sang tôi, mấp máy môi: "Chọc trúng chỗ đau của bà cụ Trương rồi đấy."
Còn chưa nói xong, "xoảng", một chén trà bơ lạnh hắt thẳng vào mặt Bàn Tử. Tôi quay lại thì thấy Trương Hải Hạnh giận dữ bỏ đi.
"Từng này tuổi rồi mà chẳng ra dáng gì cả." Bàn Tử lau mặt: "May mà trà nguội. Mà này." Hắn quay sang hỏi Trương Hải Khách: "Em gái anh lấy chồng chưa?"
"Vẫn chưa, mà tôi nghĩ nó cũng chẳng vội đâu."
"Độc thân mấy trăm năm rồi nhỉ." Bàn Tử liếc tôi một cái: "Tốt nhất là chúng ta tránh xa mấy kiểu người như thế này ra. Bàn Gia chẳng hơi đâu mà hầu hạ mấy bà cô rối loạn nội tiết đâu."
Tôi hỏi Trương Hải Khách: "Vậy sau đó thì sao? Anh còn gì có thể nói cho tôi biết không?"
"Thế này nhé, nếu cậu muốn biết chi tiết cuộc sống của người đó, tôi cũng không thể kể nhiều. Trong gia tộc chúng tôi, anh ta cực kỳ thần bí, vì đã là tộc trưởng Trương gia thì sẽ biết quá nhiều bí mật, đến mức chúng tôi cũng khó mà nắm được hành tung của anh ta. Tuy Trương gia khá cởi mở ở một số khía cạnh nhưng vẫn còn nhiều tập tục rất cổ hủ và đen tối. Vi phạm quy định trong tộc là sẽ bị xử lý bằng luật riêng." Thấy tôi có vẻ thất vọng, hắn nói thêm: "Tôi có thể kể cho cậu nghe về hành trình của anh ta suốt những năm qua. Cậu nghe xong chắc chắn sẽ ngộ ra vài điều. Dù gì thì cậu cũng là người đã ở bên anh ta, biết được nhiều thứ mà chúng tôi không thể nào biết được."
Tôi thầm nghĩ: Tôi biết cái quái gì đâu, nhưng thấy hắn đã nghĩ vậy, tôi cũng chẳng nói gì, cứ để yên nghe tiếp. Hắn nói tiếp: "Năm anh ta tám, chín tuổi, bị người ta dẫn vào khu tàn tích dưới lòng đất của thành cổ Tứ Châu, bị ép làm lao dịch và trích máu. Sau đó, chắc anh ta đã biết được bí mật được chôn giấu dưới thành cổ ấy, mà giờ tôi cũng đã biết, chính là tín vật của tộc trưởng Trương gia."
Tôi suy đoán như sau, năm đó xảy ra nội chiến giữa hai phe Trương gia trong thành Tứ Châu, có thể là một vụ ám sát nhắm vào tộc trưởng. Kết quả là có kẻ phá đê nhấn chìm cả thành phố. Không những thế, để che giấu sự thật, phe chủ mưu còn thao túng chính quyền bịt kín thành cổ, ngăn cản người Trương gia điều tra. Thi thể của vị tộc trưởng khi ấy, cùng với một món đồ quan trọng, bị chôn vùi dưới lòng thành cổ."
Tôi nghe Trương Hải Khách nói đó là một chiếc chuông đồng lục giác. Bây giờ chúng tôi đều rõ, Trương gia có nghiên cứu về loại chuông đồng lục giác này, tuy chưa thể giải mã hoàn toàn, nhưng họ đã sử dụng được phần nào. Chiếc chuông mà tộc trưởng mang theo khi ấy đặc biệt hơn hẳn, thứ nhất, nó rất lớn, gần bằng chuông đeo cổ trâu. Thứ hai, tuy tiếng chuông nhỏ nhưng lại có khả năng khiến người ta tỉnh táo, trấn tĩnh, giữ bình tĩnh, hay nói cách khác, nó có thể hóa giải ảnh hưởng của các chuông đồng khác.
Chiếc chuông đó được tộc trưởng mang bên mình là để tránh tai họa. Quan trọng hơn nữa, có một căn phòng đặc biệt chỉ dành cho tộc trưởng trong biệt phủ cũ của Trương gia, mỗi lần đổi tộc trưởng, người mới sẽ phải vào trong đó, mang xác người cũ ra. Nếu người cũ chưa chết thì hai người cứ phải cùng ở trong đó đến khi người cũ thật sự qua đời.
Mọi bí mật lịch sử qua các triều đại chứa đựng trong căn phòng đó, sách cổ, đồ cổ, thần khí, tất cả đều là những phát hiện không thể công khai mà Trương gia tìm được dưới lòng đất suốt bao đời. Ngoài cửa là một hành lang dài, từng chiếc chuông đồng lục giác được treo đầy trên đó, không chừa góc chết. Hễ chạm phải một cái, người ta sẽ phát điên.
Về sau, căn phòng này được dời xuống tầng thấp nhất của nhà cổ Trương gia, đặt giữa mộ tổ của họ. Các bí mật trong đó được phân cấp rõ ràng, và bí mật quan trọng nhất được gọi là "Tận cùng".
Điều then chốt ở đây là, khi tộc trưởng chết trong thành cổ Tứ Châu, người kế nhiệm chỉ kế thừa danh nghĩa chứ không biết đến bí mật tối thượng đó. Từ khoảnh khắc Trương gia mất đi lý do để tồn tại, khủng hoảng cũng bắt đầu.
Có lẽ nhóm người Trương gia mà Muộn Du Bình từng ở cùng lúc đó đang tìm cách đào chiếc chuông đồng lên từ dưới lòng thành cổ. Chúng tôi không thể phán đoán mục đích của họ là tốt hay xấu, chỉ biết rằng hành động đó đã gây ra một trận tàn sát nội bộ. Cả nhóm người ấy đều bị sát hại ngay trong thành cổ.
Nhưng hiển nhiên Muộn Du Bình đã lấy được chiếc chuông. Sau đó, y đã vào được căn phòng bí mật trong nhà cổ, biết được sứ mệnh và mục tiêu của Trương gia, và cả sự tồn tại của "Tận cùng".
Từ đó về sau, y chỉ làm đúng hai việc. Khi Trương gia đã tan rã, y đứng ra tiếp nhận trọng trách, thực hiện sứ mệnh của Trương gia một lần nữa, thậm chí còn sử dụng sức mạnh của Cửu Môn. Sau đó, y đích thân đi xem thứ được gọi là "Tận cùng".
Dò ngược lại, chắc mọi chuyện là thế này, "Tận cùng" là một bí mật vĩ đại nhất thế giới, đã được Trương gia phát hiện ra từ rất lâu. Muộn Du Bình vốn biết về sự tồn tại của nó, nhưng rồi y đã thực sự đến tận nơi để chứng kiến tận mắt bí mật đó.
Bí mật ẩn sau cánh cửa thanh đồng khổng lồ nằm sâu dưới núi non kia.
Ai là người đã xây nên cánh cửa đó? Sau cánh cửa ấy là một thế giới như thế nào?
"Thôi, để tôi giữ lại chút bí mật vậy. Nếu cậu còn muốn biết thêm thì hãy gia nhập bọn tôi."
"Tôi chỉ còn một câu hỏi cuối cùng." Tôi thở dài, cảm thấy mình gần như đã bị thuyết phục hoàn toàn, bèn hỏi: "Rốt cuộc Muộn Du Bình đã để lại thứ gì trong núi tuyết?"
"Là chiếc chuông đồng lục giác đó." Trương Hải Khách đáp, "Có được vật đó, chúng tôi mới có thể bước vào nhà cổ Trương gia, nhìn thấy rốt cuộc bí mật mà họ đã bảo vệ suốt mấy trăm năm kia là gì."
Chương 54: Xuất phát nhanh
Xin cho phép tôi ghi lại một đoạn nhật ký hành trình đơn giản, từ lúc tôi đồng ý với Trương Hải Khách cho đến khi bốn người chúng tôi lên đường, lại mất thêm hai ngày nữa. Chúng tôi tiến vào dãy núi tuyết, cứ thế đi mãi, hai tuần sau thì đến được vùng rìa gần hồ băng ngoài của Khang Ba Lạc.
Phong cảnh đẹp mê hồn, núi tuyết, trời xanh, mây trắng, nhưng tôi thật sự không còn sức để mà thưởng thức. Ngay khoảnh khắc bước vào khu vực trước hồ băng, một chút cảm xúc hiếm hoi vừa nhen lên đã bị tiếng lách cách lên đạn của Bàn Tử và tên người Đức phá tan tành.
Tổng cộng có bốn người, Bàn Tử, tôi, Trương Hải Hạnh và một người Đức thấp lùn, vóc dáng như lính đặc nhiệm. Người Đức này nói tiếng Trung rất tốt, hắn nói tên mình là Von, dịch sang là Phùng. Còn chuyện tại sao hắn lùn thì là do Bàn Tử cố tình yêu cầu, vì nếu là người Đức cao hơn hai mét đi cùng mà bị thương thì Bàn Tử đành phải chặt làm hai đoạn để vác về.
Vì vậy, tôi gọi anh ta là "Mồ Mả", Bàn Tử gọi là "Phân"(1), còn Trương Hải Hạnh là người nghiêm chỉnh nhất, gọi anh ta là Phùng.
Tên người Đức này rất ít nói, trừ khi thật sự cần thiết. Hắn không giống kiểu người Đức cứng nhắc thường thấy, ngược lại rất linh hoạt, đầu óc phản ứng nhanh nhạy. Tuy nhiên suốt cả chặng đường, tôi và Bàn Tử cũng chẳng nói nhiều nên chẳng mấy khi trao đổi gì với hắn.
Chẳng có tâm trạng nói chuyện, đường thực sự quá khó đi.
Trước khi vào khu vực hồ băng, lúc còn cách khoảng ba cây số, Bàn Tử và Phùng đã bắt đầu lau súng, tra dầu chống đông cho từng bộ phận rồi bôi dầu đều lên từng viên đạn trước khi nạp lại vào băng đạn.
Trong ghi chép của Muộn Du Bình có viết. Có những thứ rất kỳ lạ dưới lớp tuyết ở khu vực này nên cần phải cực kỳ cẩn thận.
Chúng tôi tiến vào hồ băng, không gặp gì bất thường suốt cả quãng đường, chỉ thấy ở rìa hồ băng có một con nai bị đóng băng chết cứng, đã bị ăn đến chỉ còn lại đầu và bộ xương.
Từ đầu hành trình đến giờ chưa từng thấy tình cảnh như vậy, mà đáng lý ở cao nguyên này cũng không thể có loài nai kiểu đó.
Bàn Tử giơ súng lên, nhìn quanh vùng trắng xóa rồi nói: "Là đem lên cho ăn. Nhìn xem, trên đầu nó có vết nổ do đạn gây ra, có người bắn ở chân núi rồi mang xác lên đây để làm mồi."
"Ăn sạch như vậy, là con gì?" Trương Hải Hạnh hỏi Phùng.
"Không phải gấu chó à?"
"Gấu không ăn kỹ vậy đâu, ăn đến mức này thì con vật đó thông minh lắm." Phùng đáp rồi lấy báng súng gõ lớp băng đóng cứng xác con nai: "Không nhìn thấy dấu răng, nếu không thì tôi đã kết luận được rồi."
"Ghê vậy, nhìn xương thôi cũng đoán được là con gì gặm?" Bàn Tử nói.
"Phùng có học vị thạc sĩ ngành động vật học." Trương Hải Hạnh nói. "Người ta là phó giáo sư đấy."
"Tôi cũng có học vị." Bàn Tử đáp. "Bàn Gia thì có mấy huyệt vị(2) như Dũng Tuyền, Túc Tam Lý này kia. Hắn là phó giáo sư, tôi cũng là phó dáo xư!"
"Thôi đừng có nói nhảm nữa." Trương Hải Hạnh đã quá quen với kiểu ăn nói của hắn. Cô ta châm thuốc, rồi rút vũ khí của mình ra, là một cây nỏ. Cô ta móc ống đựng tên đeo lên hông. Thấy tôi nhìn, cô ta nói: "Bà đây ghét nhất mấy thứ gây tiếng động. Cái này yên tĩnh hơn."
"Tốc độ lắp tên là bao nhiêu?"
"Nhiều địch thì dựa vào mấy người, chứ chỉ một mục tiêu thì đến giờ bà đây chưa từng phải dùng tới mũi tên thứ hai."
"Ái chà, đáng ra câu đó phải để Bàn Gia nói mới đúng. Mụ già thối, có biết Bàn Gia đã nghịch súng từ khi còn mặc quần thủng đít không, dám nói câu đó trước mặt Bàn Gia, có phải không nể mặt—"
Bàn Tử đột nhiên câm nín, vì tất cả chúng tôi đều vừa thấy một cái bóng đen trườn dưới lớp băng ngay dưới chân mình.
Bóng đen ấy rất to, di chuyển chậm rãi, trông giống một con sâu khổng lồ hơn là cá. Nó lặng lẽ trườn qua dưới chân chúng tôi. Bàn Tử và tôi thấy rõ, sau đó Phùng và Trương Hải Hạnh cũng phát hiện ra. Cả bọn đều đứng bất động.
Mặt băng dày đến mức hoàn toàn không nhìn rõ được bất kỳ chi tiết nào bên dưới, chỉ có thể thấy được hình dáng đại khái của thứ đó.
Ba phút sau, thứ đó lặng lẽ bơi qua dưới chân chúng tôi, hoàn toàn không gây tiếng động. Nếu không cúi xuống nhìn, chắc chắn sẽ chẳng cảm nhận được gì. Tôi thấy Phùng bắt đầu run rẩy, lập tức chĩa nòng súng xuống lớp băng dưới chân.
Bàn Tử ở ngay cạnh hắn, lập tức chụp lấy kim hỏa(3). Tôi thấy ngón tay Phùng đã bóp cò, nếu Bàn Tử không giữ lại thì đã nổ súng rồi.
Phùng vẫn run lẩy bẩy, nhưng may mắn là đã sợ đến ngây người nên không hành động gì nữa. Bàn Tử cũng đứng yên không nhúc nhích, mãi đến khi thứ kia rời đi.
Khi nó biến mất, bốn người chúng tôi nhìn nhau, Bàn Tử tháo súng của Phùng rồi gập lại đeo lên lưng mình.
Phùng nhìn Bàn Tử, Bàn Tử nói: "Xin lỗi nhé, đồng chí Phân, tốt nhất là anh đừng cầm súng nữa."
Trương Hải Hạnh nhìn Bàn Tử, nói: "Chỗ này không đến lượt anh quyết định."
"Đây là hồ băng, nếu vừa nãy hắn nổ súng thì giờ chúng ta đã chết cả đám rồi. Rơi xuống hồ, tôi phải lột sạch đồ của cô ra rồi cọ sát mới cứu sống được cô đấy." Bàn Tử nói: "Nhìn trạng thái của hắn bây giờ, súng để chỗ tôi vẫn an toàn hơn."
Trương Hải Hạnh nhìn Bàn Tử, nói: "Cho dù quyết định của anh là đúng thì người ra quyết định cũng nên là tôi."
Bàn Tử nhìn tôi rồi lại nhìn Trương Hải Hạnh, rõ ràng cảm thấy khó hiểu. Tôi cũng thấy lạ, dù từ đầu đến giờ Trương Hải Hạnh rất mạnh mẽ, nhưng đây là lần đầu tiên tôi nhận ra cô ta quan tâm đến quyền làm chủ quá mức như vậy.
Hai người giằng co một lúc, Bàn Tử mới thở dài, ném khẩu súng cho Trương Hải Hạnh: "Thôi được, Bàn Gia xưa nay luôn kính trọng người già."
Trương Hải Hạnh tự đeo lại súng, đi trấn an Phùng, Bàn Tử thì làm vẻ mặt như muốn phát điên với tôi.
Mặt Phùng trắng bệch, không phản bác cũng chẳng phản ứng gì.
"Bà cô này phải nếm mùi một lần mới hiểu, lúc như thế này, ai nắm quyền chủ động không quan trọng." Bàn Tử nói xong, cũng tháo khẩu súng của mình xuống, gập lại nhét vào ba lô.
"Sao thế? Anh giận à?"
"Không tác dụng gì. Mang chỉ để tự trấn an thôi. Cậu cũng thấy rồi đấy, cái thứ trong hồ to cỡ nào, chắc chắn đạn không ăn thua."
Tôi nghĩ thấy cũng đúng. Chúng tôi đang ở trên mặt hồ băng dày. Tôi vốn không mang theo vũ khí vì nghĩ có mấy người mang rồi thì mình không cần, nhưng nhìn bộ dạng của Phùng lúc nãy thì biết là không thể trông chờ gì vào hắn.
Bàn Tử ném cho tôi một con dao găm, tôi lập tức kẹp ở chỗ tiện tay rút nhất. Trương Hải Hạnh đi đến nói: "Chúng ta phải băng qua hồ băng càng nhanh càng tốt, các anh đừng làm chậm trễ."
"Rồi rồi." Bàn Tử nói: "Mời sư thái đi trước."
Tôi lườm Bàn Tử một cái, nghĩ bụng, quan hệ vốn chẳng tốt đẹp gì, còn bày trò đổ thêm dầu vào lửa.
"Chúng ta sẽ đi theo đường thẳng. Đích đến là cửa núi phía trước kia. Cố gắng đi nhanh nhất, đặt chân thật nhẹ." Trương Hải Hạnh chỉ về phía xa.
Tôi và Bàn Tử nhìn theo hướng cô ta chỉ, tôi lập tức cảm thấy không ổn, Bàn Tử nói: "Chúng ta hoàn toàn không rõ tình hình, đi qua giữa hồ mà có chuyện gì thì khó xoay sở lắm."
"Trương gia chúng tôi có một nguyên tắc, nhiều chuyện nhìn thì nguy hiểm nhưng thực ra lại an toàn nhất. Đừng để phán đoán bề ngoài làm mờ mắt." Trương Hải Hạnh nhìn sang Phùng, hiện giờ hắn có vẻ đã bình tĩnh hơn một chút, nói: "Chắc thứ vừa nãy là một loài cá sống trong hồ băng, chắc cơ thể to vậy là do nhiều thế hệ người ở đây nuôi cho ăn. Mà đã cho ăn thì họ không ném mồi ra giữa hồ, chắc chắn là cho ăn ở gần bờ, nên giữa hồ sẽ an toàn hơn."
Trương Hải Hạnh nhìn Bàn Tử. Bàn Tử lại nhìn tôi, tôi ngẫm nghĩ, trong lòng vẫn thấy không yên.
Thấy chúng tôi không nói gì cũng không đi, Trương Hải Hạnh hỏi: "Sao thế, hai người có ý kiến gì à?"
"Tôi thấy không ổn lắm." Tôi đáp.
"Bình thường hễ chỗ nào Thiên Chân cảm thấy có gì đó không ổn là chúng tôi kiên quyết không vào." Bàn Tử nói. "Đồng chí Thiên Chân nổi tiếng có thể chất kiểu hễ mở nắp quan tài ra là y như rằng có Bánh Tông bật dậy."
"Các người cố tình gây rối phải không?"
"Cô gái, cô từng tới mấy nơi như thế này bao giờ chưa?" Tôi nhìn cô ta. Nhánh Trương gia ở nước ngoài giỏi hành động và kinh doanh, nhưng dường như đã mất hẳn sự cẩn trọng, dè dặt từ trong xương tủy như của Muộn Du Bình.
"Tôi từng làm những chuyện nguy hiểm nhiều hơn hai người gộp lại."
"Vâng, cô lớn tuổi thế cơ mà." Bàn Tử chen vào.
Trương Hải Hạnh bắt đầu tỏ ra không vui: "Người Trương gia tồn tại được đến ngày nay không phải do ngẫu nhiên. Nguyên tắc hành sự của chúng tôi luôn đặt sự sống sót lên hàng đầu. Đừng xem thường trí tuệ mà tổ tiên Trương gia đã tích lũy bao đời."
Tôi thở dài, nhìn mặt hồ băng. Tôi thực sự rất muốn đi theo hướng cô ta chỉ, nhưng linh cảm bất an trong lòng ngày càng mãnh liệt. Cuối cùng, tôi dừng lại, nói: "Trước kia, tôi từng rất ngưỡng mộ những người có kiểu trí tuệ đó, nhưng sau này tôi bắt đầu học cách tin vào chính mình. So với cô, chúng tôi không có thân thủ nhanh nhẹn, phản ứng cũng không nhạy. Cô có bao giờ nghĩ rằng nền tảng cho trí tuệ của cô là năm tháng huấn luyện nghiêm ngặt, còn chúng tôi sống sót đến giờ chỉ dựa vào mấy mẹo vặt, vài trò tiểu xảo vớ vẩn thôi. Cô dùng tiêu chuẩn của mình để áp lên chúng tôi, thực sự không công bằng."
Bàn Tử cũng châm một điếu thuốc. Nhìn thấy Trương Hải Hạnh đứng cứng đờ mặt đỏ gay, hắn nói: "Sư thái à, tôi biết chắc trước đây cô từng chỉ huy cả một đội toàn cao thủ. Còn tụi tôi là hai thằng dở hơi, yếu đuối đến tội. Hay thế này đi, cô với ông phó giáo sư đi đường giữa, tôi với Thiên Chân nhà tôi men theo ven hồ trèo đèo lội núi vậy."
"Có khi sinh vật vừa rồi còn lên được cả bờ." Trương Hải Hạnh nói. "Trong sổ tay ghi thế đấy, anh nhớ không?"
Bàn Tử vỗ khẩu súng: "Trên cạn thì chưa chắc bọn tôi đã sợ nó."
Nói tới vậy rồi thì cũng chẳng cãi thêm làm gì. Trương Hải Hạnh và Phùng đi vào giữa hồ băng, còn tôi với Bàn Tử tách ra đi theo đường riêng.
Sau khi chia ra, Bàn Tử chửi thầm: "Tôi khinh. Đúng là quan liêu. Một đứa con gái mà cũng muốn chỉ huy Bàn Gia đi Đông đi Tây, nằm mơ đi."
Tôi đáp: "Họ mạnh quá lâu rồi."
Từ cái bẫy mà họ giăng ra từ trước cũng thấy rõ, đám người Trương gia này chủ quan và tự cao đến thế nào. Tất nhiên, nếu là tôi của ngày trước, mấy chiêu đó đủ khiến tôi trố mắt há mồm. Nhưng bây giờ, tôi đã khác nhiều. Ngày xưa tôi mê mẩn những điều thần bí, giờ tôi lại có thể nhìn ra sơ hở trong mấy chuyện đó.
Chúng tôi lên đạn, dõi mắt nhìn Trương Hải Hạnh và Phùng lội qua mặt hồ băng, tôi nói: "Liệu chúng ta làm vậy có phải quá vô trách nhiệm không?"
"Người cố chấp thì có trách cũng vô ích." Bàn Tử nói, rồi vỗ vai tôi: "Thời gian này tôi nghĩ thông rồi. Mình không thể gánh thay mạng sống của người khác được. Ai cũng không phải là Thượng Đế."
Hai chúng tôi đi men theo bờ hồ, đường đi xa hơn và cũng khó khăn hơn nhiều. Dù vậy, cũng chẳng phải vì giận dỗi mà tách ra, chỉ là một bước sâu một bước cạn, cắm đầu cắm cổ mà đi. Từ xa đã thấy họ bỏ xa chúng tôi.
Đi bao lâu không rõ, chỉ thấy họ đã sắp đến nơi, còn chúng tôi vẫn mịt mù phương hướng. Bàn Tử thở dài: "Bà cô thối này, lần này lại khiến tôi tức chết."
"Chuyện tốt mà." Tôi nói. "Anh cũng đâu muốn họ chết ngay lập tức đúng không? Như vậy thì chúng ta cũng thành đồ ngốc à. Mọi người bình an là tốt rồi."
Bàn Tử nói: "Không có quái vật thì ít ra cũng có chút trục trặc gì đó chứ, vấp cái ngã sấp mặt cũng được."
Thân thủ Trương Hải Hạnh rất tốt, giữ thăng bằng và phản ứng trên mặt băng chắc chắn ăn đứt chúng tôi, muốn cô ta ngã chắc khó lắm. Gã người Đức kia cũng đi rất vững, có vẻ như đi giày tốt.
Lại đi thêm một đoạn nữa, vẫn không gặp nguy hiểm gì, thấy hai người họ sắp đến nơi, Bàn Tử có vẻ hơi chán nản. Bỗng tôi phát hiện ra có gì đó không ổn, hình như tình hình bên phía họ đã bắt đầu thay đổi.
----------
(1) Phùng (冯) có phiên âm là féng.
Ngô Tà và Bàn Tử gọi đùa như vậy vì mấy chữ này nghe gần giống. 坟 có pinyin là fén, 粪 có pinyin là fèn
(2) 学位" (xuéwèi – học vị) đồng âm với 穴位 (xuéwèi - huyệt vị)
(3) Kim hỏa: Bộ phận nỏ đập hạt nổ phát hỏa của loại súng hỏa mai hay các loại súng bộ binh thô sơ
Chương 55: Quay ngược lại
Tôi gọi Bàn Tử lại xem, hắn trợn mắt nói: "Ơ? Họ đang quay lại kìa, quay lại làm gì vậy?"
"Có phải có người đang đuổi theo họ không?" Tôi nói. Bàn Tử lấy ống nhòm ra nhìn rồi lắc đầu: "Chỉ có hai người họ thôi, nhìn rất gấp, gần như đang chạy, nhưng sau lưng không có gì cả."
"Đưa tôi xem với!" Tôi giật lấy ống nhòm, nhìn một lúc thì thấy không ổn: "Họ đang cởi đồ."
"Cởi đồ? Cả hai cùng cởi?" Bàn Tử hỏi.
Hai người họ vừa chạy vừa lột đồ, từng lớp một. Tôi thấy lạ, Bàn Tử thì càng sốt ruột hơn: "Nhanh nhanh nhanh, nhìn xem thân hình bà già đó thế nào."
Tôi đẩy hắn ra, chỉnh lại tiêu cự của ống nhòm để xem rõ mặt băng dưới chân họ.
Mặt băng không có gì bất thường, nhưng vì khoảng cách quá xa, ống nhòm cũng không nhìn rõ được bên dưới lớp băng có gì. Bàn Tử nhấc súng lên ngắm vài cái cũng lắc đầu. Khoảng cách này quá xa, với loại súng chúng tôi mang theo thì độ chính xác gần như vô dụng, chưa nói gì đến bắn tỉa.
Chúng tôi cứ nhìn họ chạy thẳng ra giữa hồ băng, quần áo đã cởi chỉ còn đồ lót. Thêm nữa là họ không hề quay đầu nhìn lại, cũng không có gì từ phía sau rượt đuổi. Rốt cuộc hai người này đang làm cái gì thế? Không lẽ đi được nửa đường thì nổi hứng?
"Có nên chạy qua xem không?" Bàn Tử nói. "Chẳng lẽ họ phát điên rồi?"
"Giờ có muốn chạy qua cũng không kịp, trừ khi họ quay lại phía chúng ta." Tôi nói: "Họ đã cởi sạch thế kia, người nhẹ tênh, còn chúng ta mặc như voi ma mút, lăn cũng không kịp với họ."
"Nếu không qua thì đứng xa thế này cũng chẳng nhìn thấy gì hết."
"Mẹ kiếp, rốt cuộc anh muốn nhìn cái gì hả?" Tôi xúc một vốc tuyết ném vào mặt hắn, vừa lấy bộ đàm ra gọi phía bên kia.
Gọi mãi chẳng ai trả lời, lại thấy hai người họ bắt đầu giãy giụa loạn xạ ở giữa hồ, không ngừng đập tay, đập chân vào người mình.
"Tôi hiểu rồi." Bàn Tử nói: "Họ bị ảo tuyết."
"Là sao?"
"Người ta bảo nhìn tuyết nhiều quá sẽ phát điên."
"Tôi thấy anh mới điên thì có." Tôi nói với anh ta: "Giờ mà còn đùa được. Đi, vẫn phải đến đó xem mới được."
Tôi và Bàn Tử lại chạy vào hồ băng, trong lòng vừa tức vừa lo, không rõ rốt cuộc hai người họ bị làm sao. Nếu lúc trước tôi cứng rắn hơn một chút, không biết con nhỏ bướng bỉnh đó có chịu nghe lời tôi không. Giờ mà họ gặp chuyện, tôi cũng không biết nên thấy mừng thầm hay áy náy nữa.
Chúng tôi chạy hết tốc lực, may mà hai người kia vẫn còn giãy đành đạch giữa hồ, không chạy tiếp ra xa.
Chúng tôi mất đến nửa tiếng đồng hồ mới chạy được đến chỗ họ, trong lúc đó trượt ngã không biết bao nhiêu lần, đến nơi thì tôi cũng suýt thì ngã lăn ra chết.
Đến nơi thì thấy Trương Hải Hạnh chỉ còn mặc mỗi đồ lót, Phùng thì gần như trần truồng. Cả hai đã kiệt sức nằm vật ra mặt băng, vẫn cố giơ tay chân lên đập loạn. Bàn Tử cởi áo khoác đắp lên người Trương Hải Hạnh, tôi cũng đắp cho Phùng rồi kéo họ dậy, nghe thấy Trương Hải Hạnh liên tục nói tiếng Quảng: "Cháy rồi, cháy rồi!"
Tôi nhìn da cô ta đã tái xanh vì lạnh, nhưng chẳng thấy dấu vết bỏng hay cháy gì cả. Phùng thì lảm nhảm tiếng Đức, không ai hiểu gì.
"Cháy ở đâu cơ?" Bàn Tử hỏi: "Cháy thật hay là nóng trong người thế hả? Tôi thấy cái sau có vẻ đúng hơn đấy."
Tôi không để ý đến hắn, nhìn vào mắt Trương Hải Hạnh thì lập tức hiểu, cô ta đang bị ảo giác.
Là thủ lĩnh của "liên minh nạn nhân của ảo giác", tôi hiểu rất rõ rằng ở giai đoạn này của Trương Hải Hạnh, chưa chắc cô ta đã nghe được tiếng tôi, bởi vì khi rơi vào ảo giác, chắc chắn con người không thể giữ được thần trí tỉnh táo. Người ta không thể dùng lý trí để chống lại ảo giác.
Tôi nhìn về phía hai người họ vừa chạy tới, nói với Bàn Tử: "Xem ra họ dính chưởng rồi. Anh dùng ống nhòm xem có gì phía bên kia hồ không?"
Bàn Tử dùng ống nhòm nhìn một lúc rồi lắc đầu: "Không có gì cả, chẳng nhìn thấy cái gì. Tôi phải sang đó mới rõ."
Tôi lập tức phản đối. Hai người chăm sóc hai người còn được, chứ nếu Bàn Tử cũng dính chưởng thì tôi làm sao chống đỡ nổi? Huống hồ nếu hắn cũng lột đồ, với cái thân hình trơn nhẫy mỡ ấy thì tôi có đè cũng không nổi.
Chúng tôi kéo Trương Hải Hạnh và Phùng ra đến mép hồ, tôi thầm nghĩ: Thế là xong, hôm nay đi bộ cả quãng đường dài coi như đổ sông đổ bể.
Chúng tôi dựng trại, tiêm thuốc an thần và thuốc giải độc cho hai người, cũng không biết có hiệu quả không. Hai người họ vốn đã kiệt sức, lăn lộn một lúc là chìm vào giấc ngủ say. Bàn Tử mệt đến mức chẳng buồn động đậy, nói với tôi: "Tới giờ này, mọi phán đoán của Bàn Gia đều đúng cả. Nếu đồng chí Phân này là cái gã Đức cao hơn hai mét thì giờ tôi phải cưa làm đôi mới khiêng được hắn về. Ầy, mệt chết tôi luôn, chắc cái gã Tây này cũng phải tám mươi cân, toàn cơ bắp không. Lần sau để tôi vác bà già này, cậu lo thằng Tây đi."
Thân hình Trương Hải Hạnh không giống mấy cô gái bình thường, dù gầy nhưng cơ bắp rõ ràng, vác lên cũng chẳng thấy thơm tho mềm mại gì.
Tôi châm điếu thuốc, dù hút thuốc ở độ cao này dễ hại phổi nhưng cũng mặc kệ, phải hít ít nicotine mới tỉnh táo được. Tôi nói với Bàn Tử: "Lần sau chúng ta phải cứng rắn hơn, cứ để mấy đứa ngu quyết sai rồi mình đi dọn hậu quả. Bọn họ chết là xong, chúng ta thì biết làm sao?"
Bàn Tử đặt khẩu súng lên đầu gối, nhìn ra ngoài trại: "Cậu tự cân nhắc cái tính bà già đó đi. Trong ghi chép của Tiểu Ca có nói ở mép hồ này có cái gì đó, đến tối thì càng phiền hơn. Bây giờ còn sớm, xem có đánh thức được họ không, hôm nay chúng ta phải qua được hẻm núi bên kia hồ."
Tôi nhìn hai người vẫn còn mê man, biết thuốc an thần chưa tan, chắc họ chưa thể tỉnh lại ngay. Nhưng Bàn Tử nói đúng, tôi bèn bảo: "Không thể chờ họ tỉnh được đâu. Chúng ta phải làm cái xe trượt tuyết, kéo họ qua bên kia."
Ở đây toàn tuyết, dưới tuyết lại là đá đen, không có nguyên liệu gì để làm xe trượt. Bàn Tử nói: "Phải tận dụng xác con nai thôi. Tôi từng thấy trong một chương trình thám hiểm, có thể làm xe trượt tuyết từ xương động vật."
Bàn Tử kiệt sức vì say độ cao, tôi bảo hắn ở lại trông hai người, còn tôi quay lại chỗ xác nai bị đóng băng kia.
Tôi nhìn quanh, chắc chắn cái bóng đen to tướng kia không có ở gần mới bắt đầu dùng búa con đập lên bề mặt hồ, định khoét xác nai ra.
Tôi từng gõ băng vạn năm ở Trường Bạch Sơn nên thấy băng ở đây dễ xử lý hơn nhiều. Chẳng mấy chốc, tôi đã đập vỡ được một khoảng lớn, xương sườn con nai lộ ra.
Tôi tiếp tục dùng dùi băng bẩy ra được bảy, tám khúc xương, nhưng khi xác con vật lộ ra khỏi mặt băng, tôi bỗng nhận ra đây không phải là một con nai.
Tôi gạt sạch lớp băng xung quanh, lùi lại vài bước, không nhịn được mà rùng mình.
Tôi nhận thấy cái xác bị đóng băng kia là một sinh vật tôi chưa từng thấy trong đời. Nó trông như một con vật, nhưng trên người lại phủ kín vảy to cỡ đồng xu. Phần lộ ra khỏi băng chỉ là một phần rất nhỏ trên thân nó.
Tôi vội vàng rít một hơi thuốc rồi gọi Bàn Tử đến xem. Hắn chẳng muốn đi, nhưng bị tôi gọi mãi đành lết tới. Nhìn thấy phần tôi đào ra, Bàn Tử cũng sững lại.
"Cái gì đây? Anh từng thấy bao giờ chưa?"
Bàn Tử ngồi xổm xuống, đi một vòng quanh cái xác rồi nói: "Thiên Chân, đây là một bầy báo cỡ lớn."
Bản này được sao lưu từ website Nhị Đạo Bạch Hà. Nếu bạn đọc nội dung này ở nơi khác, đó chắc chắn là bản reup.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com