Hóa ra cảm giác chết bất cứ lúc nào là như thế này
昨天从深圳回杭州,路上的专车司机是一个中越战争老兵。我的表弟的父亲也是,小时候听过不少故事,但是那个时候可能照顾到还子的幼小的心灵,或者太小了实在不明白打死一个人是什么感觉,所以并没有太过刺激的印象。
Hôm qua, tôi đi xe chuyên tuyến từ Thâm Quyến về Hàng Châu. Tài xế là một cựu chiến binh Chiến tranh Trung-Việt (zhōng yuè zhàn zhēng lǎo bīng). Cha của em họ tôi cũng là lính. Hồi nhỏ tôi đã nghe không ít câu chuyện, nhưng có lẽ lúc đó người lớn muốn chăm sóc tâm hồn non nớt của trẻ con, hoặc vì tôi còn quá nhỏ nên không thực sự hiểu cảm giác giết chết một người là như thế nào, vì vậy tôi không có ấn tượng nào quá kích động.
我对于战争的非常好奇,我并不热血,喜欢在炮火中前进的感觉,我好奇的是,那种人随时会死亡的恐惧。
Tôi rất tò mò về chiến tranh. Tôi không phải là người sôi nổi (rè xuè) hay thích cảm giác tiến lên giữa làn đạn, tôi tò mò về nỗi sợ hãi cái chết có thể đến bất cứ lúc nào.
那种恐惧应该来自于上战场前的共鸣,上战场之后,很多人大概都认为自己是特别的,自己的想法意见多少对周围人都是重要的,所有人都应该是这样的想法,然后第一次冲锋,发现并不是,身边的人中弹的顺序毫无逻辑,如果自己能侥幸活下来,并不会加强自己是特别的感觉,而是非常强烈的感觉到,自己并不特别,下一次冲锋,任何一刻,自己都会中弹。
Nỗi sợ đó nên đến từ sự đồng cảm (gòng míng - cộng minh) trước khi ra trận. Sau khi ra trận, nhiều người có lẽ đều nghĩ mình là người đặc biệt, ý kiến của mình ít nhiều quan trọng đối với những người xung quanh. Tất cả mọi người đều nên có suy nghĩ như vậy. Sau đó, trong lần xung phong đầu tiên, họ phát hiện không phải vậy. Trình tự người bên cạnh bị trúng đạn hoàn toàn vô lý, nếu mình may mắn sống sót, điều đó sẽ không củng cố cảm giác mình là người đặc biệt, mà ngược lại, sẽ cảm thấy rất mạnh mẽ rằng mình không hề đặc biệt. Trong lần xung phong tiếp theo, bất cứ lúc nào, mình cũng sẽ bị trúng đạn.
"并没有特别的方法可以活下来。"这是我们的专车司机和我们讲述的故事中,我最强烈的感觉。
"Không có phương pháp đặc biệt nào để sống sót." Đây là cảm giác mạnh mẽ nhất mà tôi có được trong câu chuyện mà tài xế chuyên tuyến kể cho chúng tôi.
司机第一次上战场的时候,他是新兵,军列到达之后,他就合连长说,连长我是新兵,你们先上,我们可以学习点经验,否则我们上去就是送死,连长告诉他,你不上是肯定死,你上了还有机会活下来。你放心,不管你们怎么样,我都会带你们回家。
Lần đầu tiên ra trận, ông ấy là tân binh. Khi quân đoàn đến nơi, ông ấy nói với Đại đội trưởng (lián zhǎng): "Đại đội trưởng, tôi là tân binh. Mấy anh lên trước đi, chúng tôi có thể học hỏi kinh nghiệm, nếu không chúng tôi lên đó chỉ là tự sát (sòng sǐ)." Đại đội trưởng nói với ông ấy: "Mày không lên là chắc chắn chết, mày lên thì còn có cơ hội sống sót. Mày yên tâm, bất kể chúng mày thế nào, tao cũng sẽ đưa chúng mày về nhà."
当时司机很生气,心说好好好,上就上,又什么大不了的。当时连长是他老乡,他只认识连长一个人。
Lúc đó tài xế rất tức giận, thầm nghĩ: Được được được, lên thì lên, có gì to tát đâu. Lúc đó Đại đội trưởng là đồng hương của ông ấy, ông ấy chỉ quen mỗi Đại đội trưởng.
那一年他19岁,连长带着他们上前线,来到前线不到伞分钟,连长的头部和脖子中弹,脑浆都被打了出来。
Năm đó ông ấy 19 tuổi. Đại đội trưởng dẫn họ ra tiền tuyến. Đến tiền tuyến chưa được nửa phút (sǎn fēn zhōng - 伞分钟, ý là rất nhanh), Đại đội trưởng bị trúng đạn vào đầu và cổ. Óc (nǎo jiāng - não tương) bắn ra hết.
他看着连长,连长当时也看着他,这才明白战争是怎么会事。他对连长说,你这个傻瓜,你不是说要带我们回去吗?我只认识你一个人,你不能死的。连长那个时候动不了,也不知道死了没有,血和眼泪一直在流。
Ông ấy nhìn Đại đội trưởng. Đại đội trưởng lúc đó cũng đang nhìn ông ấy. Ông ấy lúc này mới hiểu chiến tranh là chuyện gì. Ông ấy nói với Đại đội trưởng: "Anh ngu xuẩn (shǎ guā) này, anh không phải nói sẽ đưa chúng tôi về nhà sao? Tôi chỉ quen mỗi mình anh, anh không được chết." Đại đội trưởng lúc đó không thể cử động, không biết đã chết hay chưa, máu và nước mắt cứ chảy mãi.
我第一次知道,头部中弹的人,还可以哭。
Lần đầu tiên tôi biết, người bị trúng đạn vào đầu vẫn có thể khóc.
所有战争中的死亡,对于不认识的人,是一个状态,对于认识的人,是完全不同的状态。
Tất cả những cái chết trong chiến tranh, đối với người không quen biết, là một trạng thái; đối với người quen biết, là một trạng thái hoàn toàn khác.
我在想,连长那个时候在想什么?他为什么会哭。他是否预见过,自己会以一种这样的状态死去。
Tôi tự hỏi, lúc đó Đại đội trưởng đang nghĩ gì? Tại sao anh ấy lại khóc? Anh ấy có tiên liệu (yù jiàn - dự kiến) được rằng mình sẽ chết trong một trạng thái như thế này không?
在死亡之前,他可能还在预见新兵们的死亡,只是一瞬间,所有的未来都和他没有关系了。
Trước khi chết, có lẽ anh ấy vẫn đang dự kiến về cái chết của những tân binh, nhưng chỉ trong một khoảnh khắc, tất cả tương lai đều không còn liên quan gì đến anh ấy nữa.
后来我发现我不用自己去体会。因为他后面的经历,非常明确简单了,一个随时会死的人,在死亡来临的时候是什么感觉。
Sau này tôi phát hiện tôi không cần phải tự mình trải nghiệm. Bởi vì những kinh nghiệm sau đó của ông ấy đã rất rõ ràng và đơn giản, cảm giác của một người có thể chết bất cứ lúc nào khi cái chết đến là như thế nào.
非常简单。
Vô cùng đơn giản.
如果不是当事人自己说出来,仅是用文字去表现,很难有这种震撼。你们可以想象他对我说。
Nếu không phải là người trong cuộc tự mình kể ra, chỉ dùng chữ viết để thể hiện, thì rất khó có được sự chấn động này. Các bạn có thể tưởng tượng ông ấy nói với tôi:
"那个时候弹片打在我的头上,我想起我连长的头,我想完了完了,这一次我肯定是要死了。应该是要死了"
"Lúc đó mảnh đạn (dàn piàn) bắn vào đầu tôi, tôi nhớ đến cái đầu của Đại đội trưởng tôi. Tôi nghĩ thôi xong, thôi xong (wán le wán le), lần này tôi chắc chắn phải chết rồi. Nên là phải chết rồi."
太朴实的描述了。
Thật là một lời mô tả quá mộc mạc (pǔ shí -朴实).
第一次作战,100多个人,回来53哥。连长被背了回来,在溪水里洗干净脑浆和血,后勤在一周之后才出现,连长裹在被子里,已经腐烂了。卫生员指挥他们说:把这些臭的挪一边去。
Lần tác chiến đầu tiên, hơn 100 người, về được 53 người. Đại đội trưởng được cõng về, óc và máu được rửa sạch trong suối. Hậu cần phải một tuần sau mới xuất hiện. Đại đội trưởng được quấn trong chăn, đã bị thối rữa (fǔ làn le). Nhân viên y tế chỉ huy họ nói: "Chuyển (nuó -挪) mấy cái thối này sang một bên đi."
他拿枪顶这卫生员的头:你再说一句,我立即崩了你。
Ông ấy chĩa súng vào đầu nhân viên y tế: "Mày nói thêm một câu nữa, tao bắn (bēng le - 崩了) mày ngay lập tức."
不是对连长有多深的感情,只是这个人是在我的面前被打死的,没有经历过这些的人,没有资格在我面前评论战场上下来的死体。
Không phải là có tình cảm sâu đậm gì với Đại đội trưởng, chỉ là người này bị bắn chết ngay trước mặt tôi. Những người chưa từng trải qua những chuyện này, không có tư cách để bình luận trước mặt tôi về thi thể (sǐ tǐ - 死体) từ chiến trường trở về.
第二次作战,100多个人,回来42个,他的排长是个混蛋,自己不冲上去,用抢逼新兵们冲上去,老司机发誓,有机会,我一定要杀掉他。排长在这次战斗里,立了三个三等功,两个二等功。他觉得很不公平,因为这个排只剩下了三个人。功劳全部都是这个逼他们的排长拿了。
Lần tác chiến thứ hai, hơn 100 người, về được 42 người. Trung đội trưởng (pái zhǎng) của ông ấy là một tên khốn nạn (hùn dàn), tự mình không xông lên, dùng súng ép các tân binh xông lên. Tài xế già thề (fā shì) rằng, có cơ hội, tôi nhất định phải giết chết hắn. Trung đội trưởng lập được ba công hạng ba, hai công hạng hai trong trận chiến này. Ông ấy cảm thấy rất bất công, bởi vì trung đội này chỉ còn lại ba người. Tất cả công lao đều bị tên Trung đội trưởng ép buộc (bī tā men) đó lấy hết.
这个排长后来调防,之后会杭州的时候,已经是副营长了,升的很快,军列开着,声音很强,在军列上,这个副营长在厕所里被人一枪打死。
Trung đội trưởng này sau đó được điều chuyển, và khi trở về Hàng Châu, đã là Phó Tiểu đoàn trưởng (fù yíng zhǎng) rồi, thăng chức rất nhanh. Quân đoàn đang di chuyển, tiếng động rất lớn. Trên quân đoàn, vị Phó Tiểu đoàn trưởng này bị bắn chết trong nhà vệ sinh.
"不是我杀的,如果是我杀的,我会承认的,我杀了20多个越南人,杀掉他我不会觉得害怕的。也许是我老乡杀的,因为我们都捡了手枪藏回来的。"
"Không phải tôi giết. Nếu là tôi giết, tôi sẽ thừa nhận. Tôi đã giết hơn 20 người Việt Nam, giết hắn tôi sẽ không cảm thấy sợ hãi. Có lẽ là đồng hương tôi giết, vì chúng tôi đều nhặt súng lục giấu mang về."
"上战场之前是害怕的,真的开始打仗了,中国人比谁都狠。"他看着我:"真的不是我杀的。"
"Trước khi ra trận thì sợ, nhưng khi thực sự bắt đầu đánh, người Trung Quốc hung hãn hơn bất kỳ ai." Ông ấy nhìn tôi: "Thật sự không phải tôi giết."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com