Sư Phụ Hắc Hạt Tử (Tiểu Liên Tục - Sinh Hoạt Cô Đảo Của Ngô Tà 2)
我回头看向这个冷清的农耕小岛,大概有一个足球场大,后面其实能看到陆地,中间大概有三公里左右的距离。陆地那边隐约看到很多的铁网沉在水里。应该是某种水产养殖场。很可能是螃蟹。
Tôi quay lại nhìn hòn đảo nông nghiệp vắng vẻ này. Nó rộng khoảng một sân bóng đá. Phía sau thực ra có thể nhìn thấy đất liền, cách khoảng ba km. Ở phía đất liền, lờ mờ thấy rất nhiều lưới sắt chìm dưới nước. Chắc là một loại trại nuôi trồng thủy sản. Rất có thể là cua.
整个岛很平整,只有在中心有一个小土包,像一个坟包一样,有三四米高,耕地都荒废了,到处是杂草。
Toàn bộ hòn đảo rất bằng phẳng, chỉ có một gò đất nhỏ ở trung tâm, cao ba bốn mét, trông như một mộ phần. Đất canh tác đã bị bỏ hoang, cỏ dại mọc khắp nơi.
我把火压灭,只剩下炭火在那边烘烤。然后到水边拔了几根芦苇,准备在土丘上做一面旗帜,以示我的雄心。插上去之后,我想到了黑瞎子和我说的一些准则:"首先,不要做无意义的事情。多余的事情你无法预测之后会发生什么样的变化。"
Tôi dập lửa, chỉ để lại than hồng ở đó hong khô. Sau đó, tôi đến bên bờ nước nhổ vài cây lau sậy, chuẩn bị làm một cờ hiệu trên gò đất để thể hiện tham vọng của mình. Vừa cắm lên, tôi lại nhớ đến một nguyên tắc mà Hắc Hạt Tử đã nói với tôi: "Thứ nhất, đừng làm những việc vô nghĩa. Những việc dư thừa, cậu không thể đoán trước được nó sẽ gây ra những thay đổi gì sau này."
我把芦苇拔了下来,在土丘上舞剑了几分钟。又想起了同一条准则,悻悻而归。
Tôi nhổ cây lau sậy xuống, múa kiếm (mua sắm) vài phút trên gò đất. Lại nhớ đến cùng một nguyên tắc đó, tôi chán nản quay về.
我的性格不适合那么无趣的做事情。黑瞎子应该因材施教啊。
Tính cách của tôi không hợp để làm việc một cách vô vị như vậy. Hắc Hạt Tử nên dạy theo năng lực cá nhân (yīn cái shī jiào) chứ.
来到火堆边上,我坐下来仔细的开始思考这个考题。
Quay lại bên đống lửa, tôi ngồi xuống và bắt đầu suy nghĩ kỹ về bài kiểm tra này.
黑瞎子其实没有教我,他说一切都必须自己能够形成强烈的欲·望和恐惧。
Hắc Hạt Tử thực ra không dạy tôi. Hắn nói mọi thứ đều phải tự mình hình thành mong muốn và nỗi sợ hãi mạnh mẽ.
先认清自己的恐惧。
Trước hết, phải nhận ra nỗi sợ hãi của chính mình.
我的恐惧是什么?我烘手,想起了之前所有经历之中,那些阴冷潮湿的气候。这里的气温和湿度让我有同样的感觉。我害怕那种身体抵抗湿气之后似病非病的感觉。
Nỗi sợ hãi của tôi là gì? Tôi hơ tay, nhớ lại tất cả những trải nghiệm trước đây, những nơi có khí hậu lạnh lẽo và ẩm ướt. Nhiệt độ và độ ẩm ở đây cũng cho tôi cảm giác tương tự. Tôi sợ cái cảm giác giống như bị bệnh nhưng không phải bệnh sau khi cơ thể chống chọi với hơi ẩm.
我需要干燥,不可侵犯的一个小窝。
Tôi cần một chiếc tổ nhỏ khô ráo, bất khả xâm phạm.
我脑子里开始出现建筑学上大量防潮舒适的经典设计,同时想起了黑瞎子另外一句话:"不可陷入到任何的生活细节中去。"
Trong đầu tôi bắt đầu xuất hiện hàng loạt thiết kế cổ điển trong kiến trúc về sự thoải mái và chống ẩm. Đồng thời tôi lại nhớ đến một câu khác của Hắc Hạt Tử: "Không được sa vào bất kỳ chi tiết sinh hoạt nào."
"蛇精病啊!"我抓起一块柴丢进柴火堆里:"这个也不行那个也不行!!"
"Thần kinh (Shéngjīngbìng - 神经病)!" Tôi chộp lấy một khúc củi ném vào đống lửa: "Cái này cũng không được, cái kia cũng không xong!!"
我挖出地瓜,香气扑鼻,我吹凉了大口的吃起来,把地瓜皮丢进火堆里。开始活动身体。如果是这样的话,那我就按照最有效率的方式,现在地上挖个洞。
Tôi đào khoai lang lên, mùi thơm bay ngào ngạt. Tôi thổi nguội rồi ăn ngấu nghiến, vứt vỏ khoai vào đống lửa. Tôi bắt đầu hoạt động cơ thể. Nếu đã vậy, thì tôi sẽ làm theo cách hiệu quả nhất, đó là đào một cái hố trên mặt đất ngay bây giờ.
这一行挖洞是常规技能,在地下也最有安全感。我拍了拍手,意识到自己没有铲子。捡起石头挖了挖地,发现用石头刮地可能要挖十年。
Trong cái nghề này, đào hố là một kỹ năng cơ bản (quy trình), và ở dưới lòng đất cũng cho cảm giác an toàn nhất. Tôi vỗ tay, nhận ra mình không có xẻng. Tôi nhặt đá lên thử đào đất một chút, phát hiện dùng đá cạo đất có lẽ phải đào mười năm mới xong.
一股无力感袭来,我来到湖边,看迷蒙中太阳开始在云端出现。开始发呆。
Một cảm giác bất lực ập đến. Tôi đi đến bên bờ hồ, nhìn mặt trời bắt đầu xuất hiện trong màn sương mù trên mây, rồi bắt đầu ngây người ra.
我还有一个地瓜,还有29九天半时间,这真是一片不毛之地啊,连根毛都没有。难道我是平邪真悲剧平男吗?
Tôi còn một củ khoai lang, và còn 29 ngày rưỡi nữa. Đây quả thực là một nơi không có gì (bù máo zhī dì - 不毛之地), ngay cả một cọng lông cũng không có. Lẽ nào tôi là Bình Tà (Píng Xié - Bình An Ngô Tà) bi kịch bình thường (zhēn bēijù píng nán - 真悲剧平男)?
这里应该是太湖流域,吃的我不担心,芦苇在,我有编织技能,可以编点小网兜什么的,我相信我要搞鱼总能搞到几条的。这个时候,我忽然看到湖摊上爬上来什么东西。
Đây chắc là khu vực hồ Thái Hồ (Tàihú). Việc ăn uống tôi không lo lắng. Có lau sậy, tôi có kỹ năng đan lát, có thể đan được cái lưới nhỏ gì đó. Tôi tin rằng tôi sẽ luôn bắt được vài con cá. Lúc này, tôi đột nhiên thấy có thứ gì đó bò lên trên bờ hồ.
这东西个头不小,浑身土色,而且有脚,我愣了一下,忽然背脊发凉。
Thứ này có kích thước không nhỏ, toàn thân màu đất, và có chân. Tôi sửng sốt, rồi đột nhiên lạnh sống lưng.
那是一条鳄鱼爬到了岸上。
Đó là một con cá sấu (Èyú - 鳄鱼) đang bò lên bờ.
这里不是太湖吗?太湖里怎么会有鳄鱼?我往后退去,心中大骂,佛主你是在玩咱们吧?要玩也不是这么玩啊。
Đây không phải Thái Hồ sao? Sao Thái Hồ lại có cá sấu? Tôi lùi lại, trong lòng chửi rủa: Phật Tổ (Fó Zhǔ) đang đùa chúng ta sao? Đùa thì cũng không đùa kiểu này chứ.
回头一看对岸,我忽然一个激灵,那边的养殖场是养什么的?你妈,那边的养殖场该不是养鳄鱼的?
Quay đầu nhìn sang bờ bên kia, tôi đột nhiên giật mình (một cái linh cảm), cái trại nuôi trồng thủy sản bên đó nuôi cái gì? Mẹ kiếp, cái trại nuôi trồng bên kia không phải đang nuôi cá sấu chứ?
难怪要南下来练我,你妈黑瞎子够毒的啊。这条鳄鱼是跑出来的吧,大概有我腿长短,看上去弄死我是不太可能,但是我晚上怎么睡啊!
Chẳng trách anh ta phải đi xuống phía Nam (nán lái) để luyện tôi. Mẹ kiếp Hắc Hạt Tử đúng là thâm độc (gòu dú de a - 够毒的啊). Con cá sấu này chắc là xổng chuồng rồi, nó dài bằng chân tôi, nhìn có vẻ không thể giết chết tôi được, nhưng tối nay tôi ngủ làm sao đây!
鳄鱼爬上来之后就开始晒太阳,我看了看四周,没有看到第二条,就退到了土包之上,看来我舒适不是最重要的,我要的是一个安全的躲藏场所。
Con cá sấu bò lên bờ bắt đầu tắm nắng. Tôi nhìn xung quanh, không thấy con thứ hai, liền rút lui lên gò đất. Xem ra, việc thoải mái không phải là quan trọng nhất, cái tôi cần là một nơi ẩn nấp an toàn.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com