Đề cương MÁC LÊ NIN 2
MAC LÊ NIN 2
2.Trình bày khái niệm, công thức tính và ý nghĩa của tỷ suất và khối lượng giá tại thặng dư.
a, Tỷ suất giá trị thặng dư.
- TSGTTD là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra GTTD.
Nếu kí hiệu m’ là tỷ suất GTTD thì m’ được xác định bởi công thức:
m’ = m/v * 100%
- TSGTTD chỉ rõ trong tổng số giá trị mới do sức lao động tạo ra, thì công nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm đoạt bao nhiêu. TSGTTD còn chỉ rõ, trong một ngày lao động, phần thời gian lao động thặng dư mà người công nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao nhiêu phần trăm so với thời gian lao động tất yếu làm cho mình. Do đó có thể biểu thị TSGTTD theo 1 công thức khác
m’= t’ (thời gian lao động thặng dư )/ t (thời gian lao động tất yếu)
b, Khối lượng giá trị thặng dư.
- KLGTTD là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng du và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng.
Nếu kí hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư, thì M được xác định bằng công thức:
M = m’. V
- Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì KLGTTD càng tăng vì trình độ bóc lột sức lao động càng tăng.
4. Trình bày nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền và những đặc điểm kinh tế cơ bản của nó.
a, Nguyên nhân.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kĩ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn.
- Cuối thế kỉ XIX, những thành tựu khoa học kĩ thuật mới xuất hiện làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.
- Trong điều kiện phát triển của KHKT, sự tác động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật GTTD, quy luật tích lũy, … ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.
- Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kĩ thuật, tăng quy mô tích lũy để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản nhỏ và vừa bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chống quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
- Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
V.I Lênin khẳng định:”…tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền”.
b, Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
• Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền.
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.
- Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.
- Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình thức độc quyền cơ bản là: cácten, xanhđica, tờrớt, côngxoócxiom, cônggơlômêrát.
• Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính.
- Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, trong công nghiệp cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng.
- Sự xuất hiện, phát triển của các độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là kẻ trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay trở nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội tư bản.
- Trước sự khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt đông của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho mình. Quá trình độc quyền hóa trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.
- Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính.
- Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự. Thực chất của chế đọ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu không chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc; công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty khác, gọi là công ty con, công ty con đến lượt nó lại chi phối các công ty cháu cũng bằng cách như thế… Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn thep kiểu móc xích như vậy, bằng một sản lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.
Ngoài “chế độ tham dự”, bọn đầu sỏ tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở cơ sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất để thu được lợi nhuận độc quyền cao.
- Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sơ tài chính thống trị về chính trị và các mặt khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng. Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phátxít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nước đang phát triển và chậm phát triển.
• Xuất khẩu tư bản
- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhằm mục đích chiếm đoạt GTTD và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.
- Vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu vì:
+ Một số ít nước phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và có một số tư bản thừa tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận hơn so với đầu tư ở trong nước.
+ Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu tư bản, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.
- Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
- Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân chia thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.
+ Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của mình, tiền của các tổ chức độc quyền để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại để thực hiện các mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.
+ Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu do tư bản tư nhân thực hiện. Hình thức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào những ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức các hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia.
Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất TBCN ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trong phạm vi toàn thế giới.
• Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền.
- Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.
- Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong nước luôn luôn gắn với thị trường ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường ngoài nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế quốc. Một mặt, do lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi ngày càng phải có nhiều nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ; mặt khác,do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc đẩy tư bản độc quyền tăng cường bành trướng ra nước ngoài, cần có thị trường ổn định thường xuyên.
- Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền quốc gia có sức mạnh kinh tế hùng hậu lại được sự ủng hộ của nhà nước “của mình” và các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chúng tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết các hiệp định, để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong những lĩnh vực và thị trường nhất định
• Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc.
- Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phận chia thế giới bằng lãnh thổ.
- Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bời vì thuộc địa là nơi bảo đảm nguồn nguyên liệu và thị trường thường xuyên, là nơi tương đối an toàn trong cạnh tranh, đảm bảo thực hiện đồng thời những mục đích về kinh tế,quân sự và chính trị.
- Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến cuộc chiến tranh đòi chia lại thế giới đã chia xong. Đó là nguên nhân chính dẫn đến các cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thứ hai.
- Từ những năm 50 của thế kỉ XX trở đi, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ đã làm sụp đổ và tan rã hệ thống thuộc địa kiểu cũ, nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân đã bị thủ tiêu. Trái lại, các cường quốc đế quốc chuyển sang thi hành chính sách thực dân mới, mà nội dụng chủ yếu của nó là dừng viện trợ kinh tế, kĩ thuật, quân sự để duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước đế quốc.
Năm đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ vói nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư
bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến xâm lược.
5. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò của ĐCS.
a, Nội dung SMLS.
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, lực lượng sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất tiên tiến, đại biểu cho xu hướng phát triển của xã hội tuong lai do vậy về mặt khách quan nó là giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đâoj nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới – xã hội XHCN và CNCS.
Đặc điểm: Trải qua 2 bước:
- Giành lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất thành sở hữu nhà nước.
- Giai cấp vô sản cũng tự thủ tiêu, xóa bỏ mọi sự phân biệt giai cấp và mọi giai cấp đối kháng, xóa bỏ nhà nước.
b, Vai trò của ĐCS trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
• Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công nhân.
- Trong thực tế lịch sử, phong trào công nhân chống giai cấp tư sản đã xuất hiện ngay từ khi CNTB ra đời. Mặc dù quy mô ngày càng mở rộng nhưng đều bị thất bại. Khi chưa có đảng lãnh đạo, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chỉ mang tính tự phát, rời rạc, chưa có tổ chức và hệ thống, chưa có lý luận dẫn đường.
- Khi ĐCS ra đời và trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng và với tư cách là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân và của toàn xã hội, ĐCS có nhiệm vụ đề ra cương lĩnh, mục tiêu, phương hướng, đường lối, chiến lược, sách lược, các chính sách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước, với quy luật vận động khách quan của thế giới, với quyền lợi của đại đa số nhân dân lao động. Chỉ có ĐCS lãnh đạo giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát lên tự giác, sự lãnh đạo của ĐCS trở thành điều kiện để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Để luôn giữ được vai trò lãnh đạo của mình, Đảng phải luôn luôn hướng hoạt động của mình và lợi ích chung của dân tộc, luôn tổ chức, giáo dục toàn đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi các mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng phải chăm lo xây dựng về tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, vững mạnh về chính trị, gắn bó với nhân dân.
• Mối quan hệ giữa ĐCS với giai cấp công nhân
- Giai cấp công nhân là cơ sở giai cấp của ĐCS, là nguồn bổ sung lực lượng cho Đảng, nói cách khác Đảng trước hết bao gồm những người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân.
- Đảng Cộng sản là đội tiên phong chiến đấu, là lãnh tụ chính trị, là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân.
+ Không có một tổ chức chính trị nào hoạt động được mà lại không thông qua chính đảng của giai cấp mình. Giai cấp công nhân cũng vậy, họ hoạt động, làm cách mạng thông qua đội tiên phong của mình, đó là ĐCS ( đảng mang bản chất giai cấp công nhân).
+ Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân cần phải có 1 chính đảng chính tri vững vàng kiên định, sáng suốt, có đường lối chiến lược sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của giai cấp hay toàn thể phong trào.
+ Vói một ĐCS chân chính thì thì sự lãnh đạo của Đảng chính là sự lãnh đạo của giai cấp. Đảng với giai cấp là thống nhất nhưng đảng có trình độ lý luận và tổ chức cao nhất để lãnh đạo giai cấp và dân tộc; vì thế không thể lẫn lộn Đảng với giai cấp.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com