USHKUL // THU - Chương 1
USHKUL // THU
"Trong giai đoạn kết thúc của bất kỳ trận chiến nào, hoặc tại bất kỳ thời điểm nào sau khi Đòn Kết Liễu đã được tung ra, tổn thất cần phải được nhìn nhận. Đây thường là bài học khó nhất mà một chiến binh phải học. Người ta hiếm khi viết về điều này, và nó cũng không được đề cao hay định nghĩa rõ ràng.
Ngươi phải hiểu khi nào mình đã thất bại. Việc nhận thức được trạng thái đó cũng quan trọng như việc giành lấy chiến thắng.
Khi ngươi đã chấp nhận rằng, theo bất kỳ thước đo lý thuyết nào là mình đã bị đánh bại, khi ấy ngươi có thể quyết định đâu là kết cục thực tiễn có thể chấp nhận được nhất.
Ngươi có thể, ví dụ, chọn rút lui nhằm bảo toàn lực lượng và vật tư vốn sẽ bị lãng phí nếu tiếp tục.
Ngươi có thể chọn đầu hàng, nếu sự tồn tại của ngươi ngay cả trong cảnh giam cầm vẫn còn mang lại ích lợi nào đó.
Ngươi có thể chọn dốc toàn lực cuối cùng để gây tổn thất trừng phạt nặng nề nhất có thể lên kẻ chiến thắng, nhằm làm suy yếu hắn trước những kẻ thù khác.
Ngươi có thể chọn cái chết.
Cách một chiến binh đối diện với thất bại thể hiện rõ khí chất của hắn hơn bất kỳ hành vi nào khác trong chiến thắng."
- Guilliman, Ghi chép hướng tới Bộ Luật Tác Chiến, đoạn 26.16.xxxv
Chương 1
[Mốc thời gian: 12 giờ 17 phút 46 giây]
"Samus...là ai vậy?" Chỉ huy trưởng hệ thống Vox hỏi. Rồi anh ta giật mình, kéo tai nghe ra khỏi tai.
"Báo cáo đi!" Gage quát.
"Kết nối bị ngắt đột ngột, thưa ngài," Chỉ huy trưởng hệ thống Vox đáp, nhanh tay thao tác bảng điều khiển để kết nối lại. "Bị nhiễu nặng. Nghe giống như một dạng nhiễu tín hiệu khổng lồ do bão, như thể thời tiết xấu đã ập đến khu vực của Leptius Numinus."
"Ngươi đã mất liên lạc vox rồi à?" Gage hỏi.
"Liên lạc vox với Leptius Numinus đã bị gián đoạn," Chỉ huy trưởng hệ thống Vox báo cáo.
"Tuy nhiên, liên kết dữ liệu vẫn đang hoạt động," Magos ở trạm kế bên nói.
"Thông tin vẫn đang được xử lý và truyền qua động cơ dữ liệu của cung điện."
"Khôi phục liên lạc đó mau," Gage ra lệnh cho Chỉ huy trưởng hệ thống Vox.
Gage bước sang phòng chiến lược, nơi Hạm trưởng Hommed và các sĩ quan của ông ta đang xem xét bản đồ chiến thuật đang cập nhật nhanh chóng. Đó là mô hình lập thể ba chiều mô phỏng Calth và khu vực không gian lân cận.
Câu chuyện mà nó kể thật cay đắng.
Hầu như toàn bộ các xưởng quỹ đạo đều đã bị phá hủy, hoặc hư hại đến mức phải tiêu hủy và thay mới chứ không thể sửa chữa nổi. Các đội hình hạm đội Quân đoàn XVII đang oanh tạc bán cầu nam của Calth. Phần còn lại của hạm đội địch rõ ràng đã chiếm được vị trí thống trị quỹ đạo.
Hạm đội Ultramar tan tác. Chỉ còn lại khoảng một phần năm so với sức mạnh ban đầu. Những tàu còn tồn tại hoặc đang tháo chạy sang phía xa của ngôi sao địa phương để tránh bị hạm đội địch tấn công hoặc hỏa lực không ngừng nghỉ của Mạng lưới vũ khí, hoặc, như là soái hạm Macragge's Honour đang nằm bất động, trôi dạt tại vùng trạm neo cao.
Gần như chẳng còn gì để chiến đấu. Họ đã xong đời rồi. Trận này coi như kết thúc. Giờ chỉ còn là chuyện quân Word Bearers tiêu diệt nốt vài con tàu chiến còn sót lại của hạm đội Quân đoàn XIII.
Mạng lưới vũ khí dường như không gặp chút khó khăn nào trong việc đó. Nó đã phá hủy tại chỗ một thế giới lò rèn, một mặt trăng nhỏ có khả năng tấn công, một pháo đài không gian gần Điểm Mandeville của hệ sao, và nhiều chiến hạm chủ lực.
"Chúng ta đã có cảm biến," Hạm trưởng nói, "và năng lượng đang dần hồi phục. Tôi dự đoán sẽ đủ công suất cho vũ khí hoặc động cơ trong mười lăm phút nữa. Nhưng không thể có cả hai cùng lúc."
"Còn lá chắn thì sao?" Gage hỏi.
"Ngài thấy đó, tôi cho rằng vũ khí hoặc động cơ là ưu tiên cao hơn."
Gage gật đầu. Lý thuyết đó hợp lý. Hiện có ba tuần dương hạm Word Bearers gần như đang neo sát vào soái hạm. Mạng lưới vũ khí sẽ không khai hỏa vào Macragge's Honour khi chúng ở gần như vậy. Các tuần dương hạm đó cũng sẽ không bắn, bởi nếu định bắn thì chúng đã làm rồi. Chúng áp sát để bắt đầu các đợt đổ bộ.
Kẻ địch muốn chiếm con soái hạm này nguyên vẹn.
Gage nhận ra ý đồ. Thoạt đầu, ông không hiểu vì sao trong số các tàu còn sống sót của Ultramarines, nhiều chiếc lại là những chiến hạm chủ lực lớn và mạnh mẽ nhất. Chắc chắn một đối thủ đang kiểm soát Mạng lưới vũ khí sẽ ưu tiên tiêu diệt các mối đe dọa nghiêm trọng nhất trước tiên, đúng chứ?
Những con tàu được "tha" đều đang trôi dạt bất lực như Macragge's Honour. Ngay khi chúng thoát khỏi ảnh hưởng của mã rác hoặc xung điện từ, rồi di chuyển hoặc nâng lá chắn lên, mạng lưới vũ khí sẽ tiêu diệt ngay.
Bọn Word Bearers định chiếm càng nhiều tàu chiến chủ lực của Quân đoàn càng tốt. Chúng muốn bổ sung vào hạm đội của mình những chiến hạm mới. Chúng muốn tăng cường sức mạnh tấn công.
Chúng muốn dùng những con tàu của Ultramar để chống lại Đế chế.
Còn cái trò vớ vẩn gì mà Lorgar lảm nhảm lúc cuối vậy? Horus phản bội? Nội chiến? Hắn mất trí rồi à, mà đó đâu phải là Lorgar thật. Đó là một trò thao túng của một tên xenos nào đó. Một hiệu ứng từ sự rạn nứt cõi Thiên Không.
Gage biết rõ ông đang tự lừa dối mình. Hôm nay cục diện của thiên hà đã thay đổi theo cách mà ngay cả những lý thuyết hoang đường nhất cũng không lường trước được. Ông chỉ mong mình sẽ không phải sống đủ lâu để chứng kiến trật tự mới ấy.
Dù quãng đời còn lại ngắn hay dài, ông cũng sẽ không để những con tàu của Ultramar bị lợi dùng để chống lại Đế chế.
Ông quay sang Empion.
"Đội của anh đã tập hợp xong chưa?"
"Rồi," Empion đáp.
"Huy động họ đi," Gage ra lệnh. "Đẩy lùi quân đổ bộ. Tìm và quét sạch chúng khỏi con tàu này."
[Mốc thời gian: 12 giờ 20 phút 59 giây]
Oll Persson bảo họ chờ.
Khói phủ kín dòng sông, phủ các bến tàu, phủ các cầu cảng. Hai con tàu container đang bốc cháy ngoài cửa sông tạo ra những vệt lửa vàng nhảy múa trong làn sương mù tù đọng. Cứ như thể cả thế giới đang tan rã thành thể khí vậy
Ông bảo họ chờ: Graft, Zybes, hai binh sĩ và một cô gái trầm lặng. Họ ẩn nấp trong một ngôi nhà hoa tiêu nhìn ra bến tàu. Ai nấy đều có vũ khí, trừ Graft và cô gái kia. Cô vẫn chưa nói một lời nào hay nhìn thẳng vào mắt ai.
Oll khoác súng lên vai, tìm một chỗ yên tĩnh trong một nhà kho đóng gói. Ngày trước, ông thường đến Mũi Neride để đi chợ. Luôn có cá tươi cập bến dù phần lớn bến cảng là khu công nghiệp. Hàng trăm con thuyền từng trôi bập bềnh giữa các cầu tàu và bến cập, chen chúc giữa các thùng hàng lớn.
Giờ thì mọi thứ tan nát cả rồi. Đã có hơn một lần mà những đợt sóng biển khổng lồ cuốn thuyền lên phố, đập vỡ tan vào các khu dân cư và nhà xưởng. Đường phố thì ướt sũng, rác rưởi và mảnh vụn ngập đến mắt cá chân. Nước còn tệ hơn nữa. Trông như dầu màu nâu, và có những xác chết trôi nổi trong đó, hàng ngàn xác chết mắc kẹt quanh bến tàu, dưới các lối đi bên cầu và các cây cầu, bị dòng nước gom lại như rác bị vứt đi.
Cả khu này nồng nặc mùi tử khí. Mùi của những xác chết chết sình trong nước.
Oll ngồi xuống mở chiếc túi hành lý cũ. Ông lấy ra vài món đồ vớt được từ phòng ngủ và bày chúng ra trên mặt một thùng hàng cũ.
Có một chiếc hộp thiếc nhỏ, hộp đựng thuốc lá lho xắt thô. Ông đã bỏ hút từ lâu, nhưng vài phiên bản già hơn của ông thì chưa. Ông mở hộp ra, hít lấy mùi hương còn vương lại của thuốc lá lho, rồi đổ gói vải bên trong ra lòng bàn tay. Ông mở nó ra.
Chúng vẫn y như ông nhớ. Một chiếc la bàn bạc nhỏ và một con lắc bằng hắc diện thạch. À thì, trông chúng giống bạc và hắc diện thạch, và ông chưa bao giờ chỉnh lời ai khi họ gọi thế. Viên đá đen được treo bằng một sợi xích bạc mảnh như tơ. Đã nhiều năm rồi ông chưa dùng đến chúng, Oll ngờ rằng có khi đã hơn một trăm năm, nhưng viên cầu đen nhẵn ở đầu dây xích vẫn còn ấm lắm.
Chiếc la bàn được chế tác theo hình một cái sọ người, một món đồ kim khí tuyệt đẹp, không lớn hơn ngón cái của ông. Hộp sọ hơi thuôn dài, dài hơn chút so với tỷ lệ người thường, cho thấy nó không hẳn được mô phỏng từ sọ người thật. Cái sọ ấy là một chiếc hộp, mở ra dọc theo đường hàm bằng những bản lề cực kỳ tinh vi, để lộ vòm miệng chính là mặt số của chiếc la bàn. Các ký hiệu quanh viền la bàn nhỏ và phức tạp đến mức phải dùng kính lúp của thợ đồng hồ mới đọc được. Oll cũng có một cái như thế.
Kim đồng hồ đơn giản, màu vàng đen, xoay trơn tru khi ông xoay dụng cụ nhỏ ấy.
Ông đặt nó xuống, chỉnh về hướng bắc. Ông quan sát kim chỉ đang giật nhẹ.
Oll lấy từ bộ đồ nghề ra một cuốn sổ nhỏ có móc cài, lật sang một trang mới. Một nửa sổ đã được viết kín bằng nét chữ cũ. Ông rút cây bút nhỏ trong sổ ra, mở bút và ghi lại ngày tháng cùng địa điểm.
Việc đó mất vài phút. Ông treo con lắc lơ lửng phía trên la bàn bằng sợi xích bạc, để nó đu đưa. Ông lặp lại quy trình vài lần, ghi lại cẩn thận theo cột các góc độ và hướng xoay, cùng chuyển động của kim la bàn. Rồi ông tính toán và ghi lại phương vị. Sau đó ông lật về cuối sổ, mở ra một tờ giấy vàng nhạt được dán vào bìa sau, và chăm chú nghiên cứu biểu đồ. Tờ giấy ấy được viết tại Terra, từ hai mươi hai ngàn năm trước, là bản sao của một biểu đồ còn cổ hơn thế hai mươi hai ngàn năm nữa. Nét chữ của ông hồi ấy khác hẳn. Biểu đồ hiện lên một hoa hồng gió (1) với các phương hướng chính yếu. Đó là một bản đồ huyền bí tuyệt diệu được ghi lại bằng mực. Oll nghĩ đến hai đạo quân đang giao tranh tại Calth và ngẫm rằng có một điều họ đều đúng. Điều duy nhất họ đồng ý với nhau. Rằng từ ngữ là quyền năng, ít nhất là một vài trong số chúng. Rằng thông tin chính là chiến thắng.
"Thrascias (2)," ông lẩm bẩm. Đúng như ông đoán, họ sẽ cần một con thuyền.
Ông gói ghém lại đồ đạc cẩn thận như lúc mở ra, kiểm tra khẩu súng, rồi đi tìm những người còn lại.
Bale Rane nhìn chiếc thuyền trườn tới với vẻ nghi ngại.
"Lên nhanh đi," Oll nói.
Chiếc thuyền là loại thuyền đánh cá đủ chỗ cho cả chục người, có một khoang nhỏ có mái che và thân dài hẹp.
"Ta đi đâu vậy?" Zybes hỏi.
"Rời khỏi chỗ này," Oll đáp, vừa nhấc một vài thùng đồ lên boong. "Đi thật xa. Thrascias."
"Gì cơ?" Zybes hỏi lại.
"Hướng Bắc-tây-bắc," Oll đính chính.
"Tại sao?" Rane hỏi.
"Vì đó là nơi chúng ta phải đến. Lại đây, phụ tôi khuân mấy thùng đồ này."
Họ đã chất lên một ít thực phẩm đóng hộp, vài gói khẩu phần bọc giấy bạc, một ít đồ y tế và một số thứ thiết yếu khác lấy được từ phòng điều khiển. Krank và Graft đã quay lại bến tàu để lấy nước, đổ đầy bốn thùng nhựa lớn từ bể chứa ven cầu tàu.
"Chúng ta sẽ dùng mái chèo à?" Rane hỏi.
"Không, nó có động cơ. Một lò phản ứng nhiệt hạch nhỏ. Nhưng nó ồn lắm, và sẽ có lúc chúng ta phải giữ im lặng, nên tôi mang theo cả mái chèo."
"Tôi không chèo đâu," Rane nói.
"Tôi có bảo cậu chèo đâu, nhóc. Vì thế tôi mới đem theo Graft. Nó không biết mệt."
Thằng nhóc Rane bắt đầu bồn chồn. Oll nhìn ra điều đó. Tất cả bọn họ đều đang lo lắng. Trừ Katt, người vẫn ngồi trên một cái trụ cầu, nhìn chằm chằm những xác người trôi dưới nước. Trên phố có tiếng súng nổ, và cả tiếng xe tăng. Xe tăng và chó.
Chỉ có điều Oll biết rõ, chúng không phải là chó.
"Đi giúp bạn cậu lấy nước đi," Oll nói. Ông trèo lên thuyền để kiểm tra hệ thống điện và khởi động máy.
Rane quay trở lại bến, đi về phía bể nước. Gió mạnh cuốn khói đen mù mịt ngang qua cầu tàu làm cậu ho sặc sụa.
Cậu chẳng còn nghĩ gì đến Neve nữa. Không một chút nào nữa.
Rồi cô ấy bỗng xuất hiện. Ngay trước mặt cậu như thể bước ra từ trong màn khói.
Cô ấy mỉm cười. Chưa bao giờ cô ấy trông lại đẹp đến thế trong mắt cậu.
"Em tìm anh khắp nơi đó, Bale," cô ta nói. "Em cứ tưởng sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa."
Cậu không nói được gì. Cậu bước về phía cô ấy, tay dang rộng, mắt ngấn lệ.
Gần bể nước, Krank ngẩng lên. Anh ta thấy Rane, thấy cậu đang làm gì ở cuối cầu tàu.
"Bale!" Krank hét lên. "Bale, đừng! Đừng mà!"
Anh bắt đầu lao tới, nhưng có những người đột ngột chắn đường. Người trên bến tàu. Người từ trong làn khói hiện ra. Chúng thô ráp, bẩn thỉu, mặc toàn đồ đen. Gầy guộc như thể bị bỏ đói. Chúng có súng, súng trường. Có dao làm từ thủy tinh đen và kim loại rỉ sét.
Súng của Krank đang dựng cạnh bể nước. Anh ta lùi lại. Không còn hy vọng nào để với tới được nữa.
Bọn huynh đệ dao dài cười nhạo anh.
"Giết hắn đi," Criol Fowst ra lệnh cho nhóm Ushmetar Kaul.
[Mốc thời gian: 12 giờ 39 phút 22 giây]
Giáp trụ đã được niêm phong kín mít, đội sát thủ số sáu rời khỏi cửa cách khí số 86 ở mạn trái. Thiel nắm quyền chỉ huy. Empion đích thân giao cho anh trọng trách này, dù trong số những người sống sót trên tàu tập hợp lại còn có vài Đội trưởng sẽ coi đó là một vinh dự lớn.
Bốn mươi biệt đội tỏa đi khắp thân tàu Macragge's Honour. Bốn mươi đội sát thủ, mỗi đội ba mươi người. Họ mang bolter và vũ khí cận chiến. Ba chiến hữu trong mỗi đội vác theo những quả mìn từ tính.
Biệt đội của Thiel xuất hiện phía đuôi một trong những động cơ điều hướng chính bên mạn trái. Đó là một khối rắn khổng lồ như tòa tháp của một khu dân cư, gắn những chuông xả ở mỗi hướng mà kích thước đủ để tạo thành mái vòm của một ngôi đền cỡ vừa.
Calth hiện lên trên cụm động cơ: ánh sáng hành tinh đang mọc hiện lên rực rỡ trên một tòa tháp như bị ma ám. Calth trông giống như Terra cổ đại: những lục địa xanh ngát và biển xanh thẫm, đan xen bởi những dải mây trắng.
Tuy nhiên, Thiel có thể thấy những vết thương chí tử của nó. Một vòng xoáy mây bão nâu xám bao trùm một phần quả cầu, và những khu vực khác trông như vết thâm trên lớp vỏ của một quả trái cây. Các mảng biến sắc trong khí quyển khổng lồ. Phía sau cái bóng cong cong của đường phân cách ngày-đêm, những vùng lục địa phía nam đang ngập trong ánh cam rực như than hồng dưới đáy lò nung.
Các khóa từ trên giày giữ anh bám chặt vào lớp vỏ tàu. Tiến lên nữa, anh mở rộng tầm nhìn. Anh có thể quan sát cận không gian của Calth với độ rõ phi thường. Anh thấy các công trình quỹ đạo đang bùng cháy dữ dội, tỏa ra năng lượng như cơn hỏa hoạn ngốn trọn chúng. Anh thấy vệ tinh tự nhiên gần nhất của hành tinh đã bị ám đen, chi chít những đốm lửa.
Gần như trong tầm tay, có những con tàu. Hàng ngàn con tàu. Tàu đang cháy. Tàu trôi dạt, bị phanh thây và tàn sát, nát vụn và đổ nát; những chùm mảnh vỡ trôi chậm rãi, những đám mây im lặng đầy mảnh kim loại lấp lánh. Những luồng năng lượng quét qua và lóe sáng trong khoảng không.
Trường sao, màn trời đầy sao trải dài vô tận của thiên hà lặng lẽ nhìn xuống tất cả, dửng dưng và không hề ấn tượng gì.
Ánh sao lạnh lẽo. Nó giống như một buổi tối trong trẻo, sắc nét với ánh sáng rực rỡ phi thường. Không có gì che lấp sự huy hoàng xanh-trắng mát lạnh của mặt trời Veridian. Mọi bóng đổ đều sắc cạnh và sâu thẳm. Xung quanh anh, hoặc là ánh sáng mặt trời chói chang đến đau mắt, hoặc là bóng tối đen đặc.
Tất cả chiến binh đều được huấn luyện để chiến đấu trong chân không tuyệt đối và môi trường không trọng lực. Nhưng tình huống này không hoàn toàn như vậy. Soái hạm cung cấp một nguồn trọng lực hạn chế, cùng với một lớp khí quyển mỏng, hay còn gọi là lớp bao khí đang bám lấy vỏ tàu được duy trì nhờ các máy phát trường trọng lực để hỗ trợ hoạt động của các khoang phóng mở và bến neo.
Tuy vậy, vẫn không có nhiều cảm giác về phương hướng trên-dưới. Cảnh quan mạn trái con tàu hiện ra trước mắt họ như đường chân trời của một thành phố tổ ong. Đó là một kiến trúc dày đặc và phức tạp của ống dẫn và tháp, miệng thông gió và vòm, khối nhà và cột trụ. Quy mô thật khổng lồ. Đội sát thủ di chuyển bằng những cú nhảy dài từ bề mặt này sang bề mặt khác, trườn xuống mạn tàu như những nghệ sĩ nhào lộn vượt qua đô thị từ mái nhà này sang mái nhà khác.
Trọng lực thấp khuếch đại sức mạnh của họ. Một bước chân chắc chắn trở thành cú nhảy dài mười mét. Việc làm chủ thực tế này chỉ mất một khoảnh khắc, dù đã có hàng giờ học lý thuyết và luyện tập. Quá dễ để bước quá đà, đẩy quá mạnh, bay quá xa. Khi vượt qua những khoảng cách lớn hơn là các hẻm sâu của hệ thống thông gió làm mát mạn trái, hay những hẻm núi khổng lồ của cấu trúc liên tầng, các thành viên đội sát thủ chuyển sang những cú đốt ngắn của đai bay chân không để vượt qua các khe nứt bằng adamantium và thép.
Tuần dương hạm Liber Colchis của bọn Word Bearers, một con quái thú đỏ thẫm khổng lồ đã kẹp chặt vào mạn trái phía sau Macragge's Honour như một ký sinh trùng hút máu. Khoảng không giữa hai con tàu đen kịt, mọi ánh sáng từ ngôi sao bị che khuất hoàn toàn.
Tuy nhiên, bên trong bóng tối đó vẫn có ánh sáng. Tiến lên cùng biệt đội, Thiel nhận ra tia sáng và ánh chớp từ các công cụ cắt, cùng ánh đèn pha kẹp súng. Các biệt đội Word Bearers sẵn sàng đột nhập đang mổ xẻ vỏ soái hạm một cách chính xác để gắn các cửa cách khí lớn, cho phép quân tấn công của chúng trực tiếp đổ bộ vào tàu.
Theo kế hoạch, Đội sát thủ Bốn và Tám sẽ đến từ các điểm thoát li khác để hợp lực chống lại cuộc xâm nhập này, nhưng Thiel không thấy dấu hiệu nào của họ. Anh nên chờ bao lâu nữa? Theo Thiel, mối đe dọa bị đột nhập đã bị bỏ mặc quá lâu.
Anh liếc nhìn Anteros, phó chỉ huy của mình. Anh ra hiệu.
Họ xông vào.
Họ đốt mạnh đai bay chân không, lao dọc theo hẻm rộng của kênh trao đổi nhiệt đang rực sáng, băng qua bên dưới cái bóng sắc cạnh của một khớp nối điện năng lớn bằng một cây cầu treo. Những chiếc bóng nhỏ xíu của họ bám theo trên vỏ tàu.
Một nửa nhóm mục tiêu của họ đang đứng trên chính vỏ soái hạm. Nửa còn lại đứng trên mặt bên của một tháp neo, tạo góc chín mươi độ so với phần còn lại. Các máy khoan Melta đang được sử dụng trên những tấm vỏ tàu. Các đầu cắt lớn được đưa ra từ khoang hàng mở của chiếc tuần dương hạm đang được kẹp chặt. Từ vị trí của Thiel, con tuần dương hạm ở phía trên đầu họ, và các đầu cắt đang thò xuống, cắn vào vỏ chiếc soái hạm. Những tia lửa trắng nóng phun ra từ đầu cắt tuôn vào bóng tối.
Thiel bắn súng bolter, những viên đạn bốc cháy phía trước anh với đuôi lửa run rẩy. Không một âm thanh. Một viên đạn phá nát tấm giáp ngực của một Word Bearer đang đứng gác trên cổng trao đổi nhiệt nhưng quay mặt sai hướng. Thân hắn nổ tung thành quả cầu lửa, tung mảnh vỡ và máu. Cú tác động khiến hắn ta co giật, lộn nhào ra sau. Thiel lao vụt qua xác chết xoay tròn, bắn tiếp. Phát thứ ba trượt, khoét một hố câm lặng trên vỏ tàu. Phát thứ tư xé nát mặt một Word Bearer, biến hắn thành cơn mưa lửa và tia lửa. Máu phun ra từ hộp sọ bị phá nát, rung rinh trong khoảng không.
Phần còn lại của đội sát thủ nổ súng. Họ lao qua khu vực mục tiêu như phi đội Thunderbolt đang rải thảm, và lũ Word Bearers ngã gục khi loạt đạn xé nát chúng. Xác trôi dạt, bật nảy. Một số tan rã, phun mây máu lấp lánh như thủy ngân. Một Word Bearer bị trúng đạn mạnh đến mức thân thể bay xa, dần biến mất khỏi chiếc soái hạm. Một phát đạn trúng đích nữa khiến đai bay chân không bị hỏng hóc, bốc cháy và va mạnh vào vỏ giáp của tuần dương hạm phía trên.
Bốn Word Bearers đã chết mà khóa từ của ủng vẫn giữ chúng đứng bất động như tượng, hoặc như xác chết chìm dưới đáy biển khi bị buộc đá nặng.
Không gian tràn đầy máu trôi nổi. Máu tạt vào Thiel, vỡ ra thành giọt nhỏ hơn, bám đầy trên giáp. Trong một giây, tầm nhìn của anh bị che lấp hoàn toàn.
Anh phanh gấp, lùi lại, đáp xuống. Anh kịp lấy lại tầm nhìn để thấy một Word Bearer đang nhảy tới. Cả hai ở trên mặt bên của tháp neo, mặt đất nơi họ đứng lệch chín mươi độ so với con tàu. Động tác của đối phương nhờ trọng lực nhẹ, trở nên phóng đại gần như khôi hài. Hắn bắn, một viên đạn lướt qua Thiel. Thiel đáp trả. Loạt đạn xé nát chân phải và cả hai tấm giáp vai của kẻ địch, lập tức biến cú nhảy về phía trước thành cú xoay ngược và lộn nhào dữ dội. Hắn va mạnh vào giá động cơ và bật ra ở góc khác.
Thiel xoay người, suýt nữa không tránh được lưỡi rìu năng lượng lao ra từ bóng tối. Anh bắn một phát duy nhất, hất văng kẻ cầm vũ khí khỏi bóng vào vùng sáng. Nhưng còn hai tên khác, cả hai đều cầm công cụ cắt: một đèn plasma rực nóng và một máy cắt năng lượng. Chúng nhảy tới trong những bước dài, chậm chạp.
Thiel rút thanh trường kiếm điện từ, bắn hai phát vào ngực tên cầm máy cắt tạo thành đám mây máu rung rinh. Rồi anh đối đầu với ngọn đèn plasma khi nó lóe sáng lao vào mình. Nó đủ sức cắt xuyên vỏ tàu, và chắc chắn xuyên thủng anh.
Thiel tận dụng tối đa tầm với và độ sắc bén của kiếm, chém đứt vỏ bảo vệ đèn và cánh tay cầm nó. Máu phun từ cánh tay bị chém, năng lượng phụt ra từ cái đèn cắt bị phá. Kẻ địch quằn quại, tan chảy, bốc cháy trong quả cầu lửa trắng. Thiel tung cú đá mạnh vào ngực hắn, hất văng ra xa. Nguồn năng lượng trong đèn kích nổ, tạo thành chấn động và luồng sáng lan dọc thân tàu, đánh vào vỏ tuần dương hạm, tỏa ra rồi tan biến.
Thiel bị hất lùi, cảm biến giáp trắng xóa trong giây lát. Anh cố bám lại vào vỏ tàu.
Ánh sáng vụ nổ mờ dần. Anh nhanh chóng đánh giá tình hình: Mất hai người, nhưng lực lượng Word Bearers đã bị đánh tan. Xác trôi nổi khắp nơi, giữa biển máu rung rinh vô định hình. Nhưng vẫn chưa thấy các đội sát thủ khác.
Thiel lao xuống chỗ các đầu cắt khổng lồ, mỗi cái lớn hơn cả một chiếc Rhino, được nối với các cánh tay servo khổng lồ từ trong chiếc tuần dương hạm. Anh ra hiệu cho Bormarus, người mang theo quả mìn từ tính, bắt đầu gắn vào đầu cắt đầu tiên. Thiel để Bormarus làm và lao lên bục điều khiển giữa cánh tay. Nếu anh có thể thu cơ cấu này về tàu địch...
Như cơn mưa sao băng, loạt đạn phản ứng khối lượng dội xuống. Một số trúng bục và lan can, nổ lóe sáng. Hỏa lực dày đặc. Bên dưới, nửa tá người của anh bị hạ gục. Xác áo giáp xanh lam trôi xen lẫn xác áo giáp đỏ. Máu đều cùng một màu.
Anh ngước 'lên' trên.
Đòn tập kích của biệt đội anh không dễ bị bỏ qua. Lực lượng chính của Word Bearers đang từ khoang hàng mở tràn ra, vừa bắn vừa kích hoạt đai bay.
Thiel và người của anh đang bị áp đảo tám chọi một.
[Mốc thời gian: 12 giờ 40 phút 22 giây]
Oll Persson bước khỏi chiếc xuồng lên bến tàu. Ông mang theo khẩu súng trường las.
Chỉ một cú búng ngón cái chai sạn bên tay phải, ông tắt chốt an toàn và lên đạn. Oll thậm chí còn không nhìn vào vũ khí. Ông đang nhìn thẳng phía trước, nhìn dọc theo bến tàu, nhìn những bóng người đang tụ lại nơi đó. Khuôn mặt ông đanh lại, khiến những nếp nhăn hằn sâu hơn. Vầng trán cau lại khiến mắt ông nheo lại như thể mặt trời đang rọi nắng gắt.
Ông không do dự. Một bước, hai bước, rồi ông chuyển sang chạy bước nhỏ, rồi chạy thật sự, chạy thẳng lên bến tàu, đưa khẩu súng đã lên đạn lên vai, ép chặt vào má, ngắm bắn khi đang lao tới.
Phát thứ nhất. Một tên huynh đệ dao dài trúng ngay đốt sống giữa hai bả vai, ngay trước khi hắn kịp đâm vào cổ họng của Krank đang gào thét.Phát hai và ba. Một tên huynh đệ dao dài khác trúng mặt, chính là kẻ đang ghì chặt Krank.Phát thứ tư. Một tên khác, trúng ngay quai hàm dưới khi hắn quay đầu lại, phát bắn hất hắn ngã ngửa xuống nước.Phát năm, sáu và bảy. Hai tên huynh đệ dao dài quay súng lại, cả ba phát bắn ghim xuyên cả hai đứa.
Hai tên khác bắt đầu bắn trả từ đầu bến.
Phát tám trúng một tên trong số đó, viên đạn sượt qua vai.
Phát chín kết liễu hắn.
Phát mười. Tên còn lại trúng ngay đỉnh đầu.
Phát mười một. Kẹt đạn. Băng đạn đã hết. Ông đã bắn quá nhiều trong ngày hôm nay. Vừa chạy ông vừa bật chốt, thả băng đạn năng lượng rỗng rơi rầm xuống sàn gỗ. Nhét nhanh một băng mới vào.
Ông tới nơi, lao thẳng vào giữa bọn chúng để đánh cận chiến. Oll vung một cú quật, phang báng súng vào mặt một tên. Kiểu chiến đấu nơi chiến hào, như những gì họ từng được dạy bao năm về trước, trong bùn lầy bên ngoài... Verdun (3)? Ôi, giá mà có lưỡi lê! Nhưng mũi súng trần trụi là đã đủ rồi. Nó nện nát một cái trán.
Một cú giẫm ngang làm gãy mắt cá chân, thêm một cú đập báng súng nữa làm vỡ xương má. Ông đánh bật cú đâm dao bằng khẩu súng như đang xoay đoản côn, đẩy lệch hướng mũi dao. Rồi lại nổ súng ở cự ly sát mặt. Xuyên qua xương ức. Máu bắn tung ra phía sau.
Các phát súng las xé gió lao qua ông trong bóng tối. Ông không chớp mắt. Bốn tên huynh đệ dao dài đang trèo qua lan can cuối cầu tàu để lao vào trận chiến, để xông vào đâm chém ông.
Oll quay lại, khẩu súng trường las đặt ở hông, ngón cái gạt sang chế độ bắn tự động hoàn toàn. Một loạt đạn với chớp lửa đầu nòng loé lên như đèn nháy.
Có tiếng xương gãy sau lưng. Oll quay ngoắt lại. Một kẻ cuồng tín mà ông chưa kịp thấy nằm sõng soài trong vũng máu đang loang rộng. Graft đã đấm gục hắn bằng một trong các chi nâng hàng của mình.
"Cảm ơn," Oll nói.
"Hắn định làm ông bị thương, ông lính Persson."
Những lúc như thế này, Oll ước gì mình đã có thể dạy con servitor già nua của mình biết cầm súng.
Những lúc như thế này...
Ông đã cầu nguyện biết bao lần cho đừng bao giờ còn những lúc như thế này nữa? Sự thật đau lòng là: Chỉ có chiến tranh. Luôn luôn có thêm một cuộc chiến nữa. Oll biết điều đó. Ông biết rõ hơn hầu hết mọi người.
Có lẽ lần này là thật. Có lẽ lần này Grammaticus đúng. Có thể đây là cuộc chiến cuối cùng. Có thể đây sẽ là trận đánh cuối cùng.
Krank đang cố gượng dậy. Anh ta hoảng loạn. Oll đảo mắt tìm Rane. Anh thấy cậu bé đang bị một thứ gì đó lôi tuột vào bóng tối.
"Nó bắt cậu ấy rồi, nó bắt cậu ấy rồi!" Krank lắp bắp.
"Không sao," Oll nói, mắt không nhìn anh ta, chỉ dõi theo Rane. "Lấy nước. Lên thuyền. Chúng ta rút thôi."
Cậu bé có thể đã chết. Cũng có thể chỉ ngất đi. Súng las lúc này đã vô dụng. Thứ đang bắt cậu bước ra thẳng từ cõi Warp. Oll không biết Rane hay Krank đang nhìn thấy gì. Có lẽ là thứ gì đó trong sách minh hoạ quái thú. Nhưng Oll nhìn thấy nó đúng như bản chất. Vật chất ô uế kết dính thành hình người, khoác lên lớp trang phục của ác mộng. Nó đủ thật để giết người, nhưng đồng thời cũng không phải thật. Nó chỉ là sự phản chiếu trong dòng năng lượng của thế giới này của một thứ đang ẩn náu trong Immaterium. Một thứ đói khát, bồn chồn, và sốt ruột muốn tràn vào.
Cứ gọi nó là quỷ dữ cũng được. Dù thật ra từ ngữ đó quá cụ thể, và có lẽ quỷ dữ cũng chỉ là như thế mà thôi.
Oll liếc xuống những xác chết do mình hạ gục, bọn chiến binh rách rưới mặc đồ đen. Chúng biết về ma thuật warp. Không nhiều nhưng đủ để đùa giỡn với nó. Đủ để tin rằng chúng đã tìm ra được một thứ chân lý không thể chịu đựng nổi. Đủ để lập nên giáo phái, một tôn giáo. Đủ để phát điên. Như lũ Word Bearers ngu ngốc kia. Warp là thứ hiểm độc. Đụng vào rồi thì nó sẽ bám mãi. Khó mà rửa sạch lần nữa.
Những con dao đen của đám Hội Huynh Đệ. Dao tế lễ. Dao athame. Ông nhặt một con gần nhất, và đút chuôi dao nó vào đầu nòng khẩu súng. Một lưỡi lê chắp vá cũng tạm ổn lúc cấp bách. Ở Austerlitz (4) ông cũng đã từng phải xoay xở như thế.
Oll đâm mạnh con dao vào, rồi bước tới và thúc lưỡi dao đen vào sinh vật đang vồ lấy Rane. Ánh sáng đen bắn ra mọi hướng. Một mùi tanh hôi như trứng thối và thịt ôi bốc lên, kèm theo một làn khói dày đặc.
Con quỷ hét lên như đàn bà, rồi chết, thân xác nó sụp xuống thành một vũng nhớt đen. Đám chất nhầy phủ đầy người Rane, và cậu bé thì ngất lịm. Nhưng tim cậu vẫn còn đập.
Oll nhìn quanh. Cô gái tên Katt đang đứng sau lưng ông, nhìn chằm chằm vào Rane.
"Giúp tôi khiêng cậu ta với," Oll nói.
Cô không nói gì, nhưng nắm lấy chân Rane. Zybes xuất hiện với ánh mắt đầy sợ hãi, rồi giúp cô nâng cậu bé lên.
Oll giật con dao gãy khỏi khẩu súng, rồi ném nó xuống làn nước dơ bẩn. Ông chạm vào biểu tượng trước cổ mình, thì thầm lời cảm tạ thần linh đã cứu giúp. Adrenaline dâng trào trong thân thể già cỗi. Ông ghét cái cảm giác hưng phấn và bỏng rát ấy. Tưởng rằng mình đã bỏ lại thứ vô nghĩa đó từ lâu rồi.
Ông quay lại con thuyền. Tiếng súng chắc chắn đã thu hút sự chú ý, nhưng ông đoán họ vẫn còn thời gian để rút lui, hướng ra kênh đào.
Ông trông thấy gã huynh đệ dao dài bị Graft hạ gục. Một tay chỉ huy, một sĩ quan, kẻ cầm đầu đám đó. Một tên majir. Mặt úp xuống. Máu tuôn xối xả từ vết thương trên đầu. Có một con dao nằm trên ván sàn cạnh hắn, lại là một cây athame.
Nhưng con dao của tên cầm đầu thì khác. Được chế tác công phu. Một món đặc biệt để thể hiện quyền uy và địa vị. Nó đẹp hơn hẳn những chiếc đinh sắt thô kệch mà bọn kia cầm, nếu có thể gọi một thứ vốn đã méo mó và tà ác như vậy là đẹp.
Có thể nó không hoàn toàn là thứ Oll đang tìm kiếm, nhưng là thứ gần đúng nhất mà ông từng thấy, và ông sẽ thật ngu ngốc nếu bỏ lại nó. Ông nhặt nó lên, bọc trong một mảnh vải, rồi nhét vào túi ở đùi.
Ba phút sau, động cơ con thuyền gầm lên, và nó từ từ trôi vào vùng nước tối, rời khỏi bến.
Criol Fowst choàng tỉnh. Hắn ngồi bật dậy, lột gương mặt khỏi mặt ván mát lạnh và ẩm ướt. Máu ở khắp nơi, khắp người hắn. Hắn sờ lên da đầu, thấy một mảng xương sọ đau điếng và có vẻ lỏng lẻo hơn mức bình thường.
Hắn nôn mửa mấy lần.
Hắn biết có thứ gì đó đã bị lấy mất, một thứ rất đặc biệt và quý giá, món quà mà Arune Xen đã trao cho hắn. Tương lai của Fowst phụ thuộc vào nó. Hắn cần nó để có được tất cả quyền lực và sự kiểm soát mà hắn từng mơ ước.
Sẽ có kẻ phải chết vì dám cướp nó đi.
Không, còn tệ hơn cả cái chết nữa.
[Mốc thời gian: 12 giờ 41 phút 11 giây]
Tiếng đập ù ù. Như thể tai bị bít lại. Như thể mọi thứ mờ mịt. Như tiếng máu dồn dập trong thái dương.
Một âm thanh. Tiếng rè rè, khô khốc. Là vox. Vox trong mũ giáp của anh. Một tín hiệu truyền. Nó đang nói gì vậy?
Ventanus cố trả lời. Miệng anh tê cứng, vô lực. Anh đang lộn ngược. Mùi máu xộc lên. Là máu của anh.
Tín hiệu đó là gì? Thông điệp gì? Âm thanh nhỏ xíu, xa vời, nghẹt lại.
Anh cố gắng lắng nghe. Âm thanh bắt đầu lớn dần, lớn dần, xuyên qua từng lớp nghèn ngẹn, như tiếng vọng trồi lên từ dưới nước, cho tới khi trở nên rõ ràng, vang vọng và dễ hiểu.
"Samus. Đó là cái tên duy nhất ngươi sẽ nghe. Samus. Nó có nghĩa là sự kết thúc và cái chết. Samus. Ta là Samus. Samus ở khắp nơi quanh ngươi. Samus là kẻ đứng ngay bên cạnh ngươi. Samus sẽ gặm nát xương ngươi. Hãy coi chừng! Samus đã tới."
"Ngươi là ai? Ai đang nói đó?" Ventanus lắp bắp. "Ai đang ở trên kênh này? Xưng danh đi!"
Anh đang nằm ngửa trên mặt đất, trên một sườn đổ nát và bãi cỏ bị cày nát. Đây là khuôn viên của cung điện Leptius Numinus.
Anh đứng dậy. Hai Ultramarine nằm chết ngay gần đó, một bị nghiền nát, một bị xé đôi.
Ventanus nhớ lại. Anh nhớ khoảnh khắc Cxir biến đổi.
Anh đảo mắt nhìn quanh.
Con quỷ dữ khổng lồ. Nó có đôi tay dài khủng khiếp, gầy guộc và xương xẩu, nó di chuyển bằng chính đôi tay đó như cách một con dơi dùng đôi cánh cụp để bò. Cặp sừng trên đầu nó to lớn đến ghê rợn.
Nó đang tấn công cung điện. Nó xé toạc các bức tường phía trước. Những mảng tường sập xuống, tung ra từng cơn lũ đá vụn và vôi vữa dày đặc bụi.
Các chiến hữu và lính Lục quân rút lui trước nó, bắn trả bằng tất cả hỏa lực có thể: bolter, las, plasma, đạn xuyên cứng. Làn đạn rải chi chít, khoét thủng và xé nát lớp thân đen sì, dị dạng của con quái vật, nhưng dường như nó chẳng hề cảm thấy gì. Ventanus vẫn nghe giọng nó vang lên trong tai, lảm nhảm qua kênh vox.
"Samus. Nghĩa là kết thúc và cái chết. Samus. Ta là Samus. Samus sẽ gặm nhấm xương ngươi. Hãy nhìn xem! Samus đã hiện thân rồi."
Ventanus nhìn thấy Sullus. Anh ta đã nhặt lại thanh kiếm, chính thanh kiếm đã dùng để xé xác Cxir. Ventanus biết, biết một cách chắc chắn, rằng Sullus đang cố chuộc lại lỗi lầm khi đã giải phóng thứ tà ác này.
Sullus lao vào con quỷ, đâm chém điên cuồng.
Ventanus bước lên. Anh bắt đầu chạy.
"Sullus!" Anh hét lớn.
Sullus không nghe. Anh ta khắp người bê bết dịch nhầy, chém liên hồi vào lớp da thịt thối rữa.
Con quỷ dữ cuối cùng cũng để ý tới bóng áo giáp màu xanh cô-ban đang chặt vào gốc xương sống nó.
Nó giẫm lên anh ta.
Rồi nó tiếp tục lao đi, chẳng buồn quan tâm đến những phát đạn phản ứng khối đang cày vào da thịt. Một phần khác của mặt tiền cung điện sụp xuống ầm ầm.
Ventanus tới bên Sullus. Cơ thể anh ta bị ép sâu xuống bãi cỏ, trong một vết lõm bốc hơi nghi ngút và rỉ nhớt nhầy. Ventanus cố kéo anh ta ra. Sullus vẫn sống. Bộ giáp đã bảo vệ anh ta, dù xương cốt bị nghiền nát, nhiều chỗ đã gãy vụn.
Ventanus nghe một tiếng rầm và âm thanh nặng nề lăn bánh. Một chiếc Shadowsword lao vào khuôn viên cung điện. Nó đã vượt qua cây cầu, phá sập tòa cổng để tiến vào. Chính cánh cổng này đã khiến bọn Word Bearers phải bỏ lại hàng trăm xác lính mà vẫn không tài nào phá nổi.Chiếc xe tăng siêu nặng gầm rú lao qua bãi cỏ bị tàn phá, hất đổ vài công sự của Sparzi. Nó chỉnh nòng pháo volcano. Ventanus nghe thấy tiếng rên khẽ đặc trưng của các tụ điện khi đang xạc cho một phát bắn.
Phát bắn thật tàn bạo. Một luồng sáng lóe. Một tia chói lòa. Nó đánh trúng vào thân con quỷ dữ. Ánh sáng rực rỡ đến mù mắt ấy như bị lệch hẳn đi khi gặp bóng tối của con quỷ bị che mờ. Hơi đen tỏa ra từ cơ thể nó, nhưng không có dấu hiệu bị thương tổn.
Nó quay sang chiếc xe tăng.
Ventanus lại bắt đầu chạy, băng qua bãi cỏ nát vụn, vượt qua những xác người bị con quỷ giết, hướng về bức tường cung điện. Anh có một lý thuyết. Không nhiều, nhưng đó là tất cả những gì anh có. Thân thể con quỷ không thể bị thương, nhưng đầu nó có thể là điểm yếu. Một vết thương vào bộ não hay hộp sọ có thể khiến nó chậm lại hoặc suy yếu chức năng. Thậm chí có thể buộc nó phải rút lui.
Nó đã tóm lấy chiếc Shadowsword. Chiếc siêu tăng cố nạp lại pháo, nhưng tốc độ bắn chậm khét tiếng của nó thì...
Con quỷ dữ túm phần trước thân xe, bóp méo giáp chắn xích và xé rời các tấm giáp bảo vệ. Nó đẩy lùi chiếc tăng nặng ba trăm tấn, cày xới bãi cỏ như kéo bật một tấm khăn trải bàn. Cỗ xe tăng gầm máy, xả khói, cố chống lại sinh vật sừng sững kia, bánh xích trượt và quẫy mạnh. Bùn bắn tung tóe. Đất cỏ bị hất lên.
Shadowsword cố xoay nòng để bắn thẳng vào nó ở cự ly sát sườn. Con Quỷ Dữ tát vào nòng pháo khổng lồ, vặn cả cụm lắp đặt như hất một cái cằm bị đấm. Ventanus nghe tiếng bánh răng và bộ truyền động xoay bên trong bị nghiền nát, nổ tung. Giá pháo rũ xuống, nòng pháo lắc ngang trên khung gầm khổng lồ.
Con Quỷ cúi xuống, khịt mũi, rồi cắn một miếng từ thân xe. Sau đó nó lại xô chiếc tăng, đẩy văng nó qua một bồn cây ăn quả, rồi húc mạnh vào bức tường bậc thang.
Ventanus chạy lên một sườn đổ nát, nhảy, dang tay, và đáp xuống mái phẳng của dãy hành lang vườn. Anh chạy dọc theo, nhảy qua một đoạn đã bị đánh sập bởi cuộc tấn công của con quỷ, rồi lại nhảy tiếp, lần này xuống bờ lan can cẩm thạch của mái cung điện. Anh chạy dọc theo ngang tầm với con quỷ, gần như ngay trên đầu nó. Nó đang giết chiếc xe tăng, giết như chó săn xé xác thỏ.
Ventanus có thể thấy gáy nó, nhăn nhúm, tái xám, gần giống như người. Anh thấy từng búi tóc đen bẩn thỉu, rối bết vắt ngang. Anh thấy phần sau hộp sọ, nơi làn da loang lổ chảy xệ phía sau chỗ chiếc sừng khổng lồ mọc ra.
Ventanus tăng tốc. Anh với tay tìm kiếm thanh kiếm, nhưng bao trống rỗng.
Tất cả những gì anh có là con dao nghi thức của Cxir.
Anh rút nó ra, nắm chặt bằng cả hai tay, mũi dao chĩa xuống, rồi lao khỏi mái nhà, hai tay giơ cao quá đầu.
[Mốc thời gian: 12 giờ 42 phút 16 giây]
Không còn đường thoát. Bọn Word Bearer tràn ra từ các khoang hàng, càn quét khu vực bằng hỏa lực dữ dội. Thiel cúi rạp và né, những viên đạn Bolt xé ngang qua anh trên những vệt lửa lặng câm.Biệt đội sát thủ của anh đã xong đời. Nhiệm vụ kết thúc. Tỷ lệ bất lợi quá lớn.
"Rút lui!" anh truyền qua vox, rồi kích hoạt dây nịt chân không hết công suất. Cú gia tốc dữ dội hất anh vút lên trong một vòng xoay rộng, bay lên và vòng lại, thoát ra khỏi bãi giết chóc. Bốn, có thể có năm người trong biệt đội theo kịp anh. Zaridus, người cuối cùng bị hỏa lực quét từ trên xuống bắn trúng, cơ thể rũ rượi xoay tròn trôi vào hư không, giật nảy và loạng choạng khi các động cơ phụ trên dây nịt khục khặc nhả khí ga và trật nhịp.
Loạt đạn bắn đuổi theo họ. Khi bẻ lái, Thiel thấy những chớp sáng lặng câm bùng lên trên lớp giáp của chiếc soái hạm bên dưới và tóe lửa khi va vào các trụ chống và giằng đỡ.
Anh đáp xuống, hy vọng có chỗ ẩn nấp tạm ổn. Anh phải nạp đạn. Anh cố tính toán hướng lan tỏa của địch và ước lượng các góc tiếp cận của chúng. Anh quát lệnh tập hợp cho những thành viên còn sống sót trong biệt đội.
Bọn Word Bearer vẫn lao tới. Hai tên vượt qua miệng lỗ thông nhiệt, thêm hai tên khác vòng quanh tấm chắn. Anh bắn được hai phát. Có gì đó quệt trúng vai anh.
Không, đó là một bàn tay. Một bàn tay kéo anh ngược lại.
Guilliman đẩy Thiel sang một bên rồi lao về phía bọn Word Bearer. Đôi chân bọc giáp của ông ta bám chắc vào lớp giáp tàu khi lấy đà. Ông ta trông thật khổng lồ, như một Titan. Không phải là cỗ máy của sao Hỏa, mà là một người khổng lồ Titan bước ra từ huyền thoại.
Đầu ông ta để trần. Không thể nào tin nổi. Làn da ông tái nhợt vì băng giá. Miệng ông há ra trong một tiếng gào lặng câm khi lao vào chúng.
Ông giết một tên. Ông nghiền nát đầu tên chiến binh kia làm nó bẹp dúm thẳng vào ngực của chính mình bằng quả đấm. Những giọt máu bắn ra hai bên, rung lắc dữ dội. Cơ thể đổ ngửa ra sau như đang một đoạn phim tua chậm.
Guilliman quay lại, tìm được một tên khác, đấm nắm tay khổng lồ xuyên qua ngực tên chiến binh, rồi rút ra, kéo theo cả xương sống của hắn. Tên thứ ba xông tới, háo hức tìm vinh quang bằng cách giết chết một Primarch. Thiel nâng khẩu boltgun đã nạp đạn, bắn hắn ta tan xác, hai tay giữ chắc, chân trụ vững.
Tên thứ tư lao vào.Guilliman xoay người và đấm bay đầu hắn. Đầu hoàn toàn đứt lìa khỏi cổ. Đầu và mũ sắt dính liền một khối lăn đi như một quả bóng, vương chuỗi hạt máu.
Hỏa lực yểm trợ dồn tới. Một đội sát thủ khác cuối cùng cũng đến được phần thân tàu. Một trận đấu súng bolter dữ dội nhưng lặng lẽ quét qua quét lại trên khe hẹp của bộ trao đổi nhiệt. Những thân thể trúng đạn rỉ ra những hình khối chất lỏng rồi xoay vòng rơi vào khoảng không băng giá.
Thiel định vị vị trí của mình. Anh ra hiệu cho khoang lái mở cửa cách khí 88 ở mạn trái tàu.Anh nhìn sang Guilliman. Anh ra dấu về phía cửa cách khí.
Vị Primarch vẫn muốn chiến đấu. Thiel biết ánh mắt đó. Cái khao khát đó. Guilliman muốn tiếp tục giết chóc. Chung quanh ông là máu đang lơ lửng như những cánh hoa đỏ, và ông muốn làm cho những cánh hoa đỏ nở rộ nhiều thêm nữa.
Nhưng đã đến lúc dừng trận này lại, để bước vào trận chiến thật sự quan trọng.
****Chú thích****
(1)Wind rose of cardinal points - "hoa hồng gió với các phương hướng chính yếu": là một loại biểu đồ dạng hình tròn hiển thị các hướng chính như Bắc, Nam, Đông, Tây và các hướng phụ. Đây là biểu tượng cổ dùng trong hàng hải và bản đồ cổ để xác định phương hướng.
(2)Thrascias là tên gọi cổ Hy Lạp chỉ một loại gió thổi từ hướng Bắc-Tây-Bắc (North-Northwest). Trong hệ thống cổ điển của người Hy Lạp và La Mã, từng hướng gió đều có tên riêng. Ví dụ: Boreas là gió Bắc, Notus là gió Nam, Thrascias là một trong các nhánh phụ của Boreas.
(3) Trận Verdun là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19 tháng 12 năm 1916 xung quanh Verdun-sur-Meuse ở đông bắc Pháp.
(4)Trận Austerlitz (còn gọi là Trận Tam Hoàng Đế), là một trong những trận đánh quan trọng và có tính chất quyết định trong chiến tranh Napoleon.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com