Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

# 53

Ba ngày sau, Đăng Dung cùng ba vị tráng sĩ lọt vào vòng thi cuối được quan chủ khảo dẫn vào hoàng cung để yết kiến vua Thái Trinh(1). Ở kinh thành hơn một năm rồi nhưng đây mới là lần đầu tiên Đăng Dung đến gần Cấm thành đến như thế. Nhìn từ xa, Cấm thành như một con rồng đá khổng lồ màu xám, uốn lượn giữa trập trùng cây xanh. Bên ngoài dãy tường đá, cấm vệ quân mặc quần áo màu vàng rực, đứng canh gác nghiêm trang. Cổng chính của Cấm thành là Đoan Môn, nằm ở phía nam. Đoan Môn sừng sững hiên ngang, Đăng Dung đi đến bên dưới mà thấy mình bé tí, bỗng chốc sinh lòng kính nể.

Ở đằng sau Đoan Môn là một quảng trường lát đá rộng ngút ngàn dẫn đến một tòa đại điện khổng lồ, độc bá trên một nền móng rất cao. Để lên được tòa đại điện đó, người ta phải đi qua chín mươi lăm bậc thang. Hai bên dãy bậc thang có rất nhiều tượng rồng chầu trực, tạo nên một khí thế bễ nghễ độc tôn tượng trưng cho vương quyền của nhà vua. Quan chủ khảo giới thiệu đó là điện Kính Thiên, là nơi nhà vua tổ chức những buổi lễ lớn và bàn định những việc quan trọng của quốc gia.

Sau đó, quan chủ khảo ngoặt sang phải, dẫn bọn chàng đi trên một con đường lát đá sáng rực, hai bên là những cây cổ thụ hình thù kỳ vĩ. Xen lẫn giữa vườn cây là những tòa nhà với mái ngói cong vút tựa những mũi thuyền đang rẽ sóng. Hai bên đường, cung nữ, thái giám và cấm quân đi lại tấp nập. Ai ai cũng tỏ vẻ bận rộn và hững hờ, chẳng thèm để bọn Đăng Dung vào trong mắt.

Quan chủ khảo dẫn Đăng Dung đến điện Hoàng Cực. Đó là một tòa điện cổ kính, với những phù điêu rồng được chạm khắc tỷ mỷ, nằm bên cạnh một cái hồ nước trong veo. Quản chủ khảo dặn bọn Đăng Dung:

- Chuẩn bị gặp hoàng thượng. Các ngươi hãy chú ý cử chỉ.

Rồi dẫn mọi người đi tiếp. Khi vào trong tòa cung điện, Đăng Dung chưa kịp nhìn rõ ai với ai thì quan chủ khảo ở trước mặt chàng đã quỳ sụp xuống. Chàng bất đắc dĩ cũng phải quỳ theo, rồi hành đủ ba quỳ, chín lạy. Khi chàng lạy xong, một giọng ngái ngái của quan thái giám cất lên: "Bình thân", thì chàng mới được ngẩng đầu lên.

Trong cung điện đèn đốt sáng rực, Đăng Dung nhìn lên thì thấy vua Thái Trinh mặc hoàng bào thêu năm con rồng uốn lượn đang ngồi trên ngai vàng, xung quanh là lớp lớp tấu chương đang đọc dở. Trước đây, Đăng Dung đã được nhìn trộm mặt rồng ở trên phố, bây giờ mới được đối diện chính thức. Dung mạo nhà vua tươi tắn, đoan trang, chỉ cần lướt qua đã biết tính cách hiền hậu, chính trực.

Trái ngược với nhà vua, Nhị Vương Gia Lê Tuấn ngồi ở bên cạnh lại có khuôn mặt rất dữ tợn. Hai người cùng là con của tiên đế mà khác nhau một trời một vực. Nếu như vua Thái Trinh hiền hậu bao nhiêu thì Nhị Vương Gia lại thể hiện nét bạc ác bấy nhiêu. Nhị Vương Gia Lê Tuấn nhìn thấy bọn Đăng Dung thì khẽ gật đầu, tỏ ý chào.

Lúc đó quan chủ khảo mới khúm núm thưa gửi:

- Bẩm hoàng thượng. Đây là bốn vị lọt vào vòng thi cuối trong kỳ thi tuyển Đô Lực Sĩ vừa rồi. Người ở giữa này chính là Mạc Đăng Dung, kẻ đã lập nên kỳ tích dùng một trăm quân đánh bại hai trăm quân của tướng quân Dương Hà, trở thành Đô Lực Sĩ được toàn thể các quan dự khán công nhận.

Vua Thái Trinh chăm chú nhìn Đăng Dung, rồi gật đầu tán thưởng:

- Giỏi lắm. Quả là khí độ bất phàm, xứng đáng là rồng trong cõi người.

Đăng Dung được vua khen, liền quỳ xuống thưa:

- Bẩm hoàng thượng. Tiểu dân chỉ là có một chút tài mọn, may mắn được tướng sĩ giúp đỡ mới vượt qua được ải khó, không dám nhận lời khen.

Nhị Vương Gia ở bên cạnh lên tiếng:

- Hắn không phải chỉ có chút tài mọn thôi đâu. Trận đấu hôm đó vi thần được tận mắt chứng kiến, quả thực là vừa phải có trí, có dũng mới chiến thắng được.

Vua Thái Trinh gật đầu:

- Đến cả hoàng huynh xưa nay vẫn tự nhận mình là khó tính mà còn khen ngươi thì chứng tỏ tài năng ngươi không hề thấp kém chút nào. Lê triều ta sản sinh ra được những tráng sĩ thế này thì còn lo lắng gì nữa.

Nhà vua cao hứng, liền sai bọn nô tài bày yến tiệc ra ngoài bờ hồ để cùng trò chuyện với các vị tráng sĩ. Mở đầu bữa tiệc, nhà vua nâng chén rượu lên mà nói:

- Lê triều ta từ đời Thái Tổ hoàng đế(2) đến nay đều coi trọng võ nghệ. Năm xưa, Thái Tổ ngồi trên lưng ngựa đánh đuổi quân Minh, từ hai bàn tay trắng dựng lên được cơ đồ lừng lẫy. Về sau, Thánh Tông hoàng đế(3) thân chinh dẫn quân đi bình định Chiêm Thành, đánh Bồn Man, dẹp Lao Qua(4), mở mang cương thổ về phía nam. Lũ hậu sinh như trẫm khi nhìn về những chiến tích hào hùng đó đều không khỏi cảm thấy hổ thẹn, cũng muốn một ngày được học tập tổ tiên bôn tẩu sa trường, giương cung, bạt kiếm. Từ nhỏ trẫm đã rất thích học võ nghệ, lại cực kỳ yêu quý những người giỏi võ. Chỉ hiềm một nỗi, thể trạng của trẫm không được khỏe, việc luyện tập cũng phải tiết chế. Xem ra ước muốn nam chinh bắc chiến sa trường đều phải dựa hết vào bọn khanh. Mong các khanh hãy cố gắng trau dồi để sau này thành rường cột của nước nhà.

Bọn Đăng Dung đều vâng dạ hưởng ứng. Vua Thái Trinh lại nói tiếp:

- Hai hôm nữa thượng triều, trước mặt bá quan văn võ, trẫm sẽ chính thức sắc phong và ban thưởng cho các khanh. Còn hôm nay, mọi người hãy uống rượu, nói chuyện một phen cho thỏa.

Nhị Vương Gia ở bên cạnh nói thêm:

- Các ngươi phải biết rằng hoàng thượng rất ít khi dự yến tiệc với quần thân. Các ngươi mới gặp mà đã được ban ngự tửu, đủ biết người quý mến các ngươi như thế nào. Đó là cái phúc phận không mấy ai có được.

Bọn Đăng Dung đều khấu đầu cảm tạ. Đăng Dung thấy vua Thái Trinh ở ngôi cao nhưng tính cách trẻ trung, lời nói vừa khiêm nhường, vừa hào sảng, lại không nặng nề lễ tiết nên cũng nhiệt tình nâng chén rượu. Vua Thái Trinh yêu cầu Đăng Dung thuật lại trận đánh hôm trước. Chàng hào hứng kể lại, còn múa tay chân phụ họa, khiến câu chuyện sống động như thật. Nhà vua nghe xong, tỏ khuôn mặt rầu rầu mà nói:

- Hôm đó, trẫm đã định ngự giá đến trường thi, nhưng vì Thái Hoàng Thái Hậu triệu kiến nên không đến được. Bây giờ nghe kể mới thấy tiếc quá.

Nhà vua sai bọn nô tì mang ra một thanh bảo kiếm dát vàng, nạm ngọc, nhìn qua đã biết là thứ trân bảo hiếm có. Vua Thái Trinh ban tặng thanh bảo kiếm đó cho Đăng Dung. Chàng không ngờ mình lại được yêu quý đến thế, bối rối quỳ xuống tạ ơn. Nhà vua mới bảo:

- Kiếm báu tặng anh hùng hảo hán. Nhà ngươi muốn tạ ơn thì phải uống hết một bình ngự tửu mới được.

Bọn nô tài mang ra một bình ngự tửu bên ngoài dát vàng. Đăng Dung mở nắp, ngửa cổ uống một hơi hết. Vua Thái Trinh cười khanh khách nói:

- Được được. Hãy thử múa kiếm cho trẫm xem.

Đăng Dung rút kiếm nạm ngọc ra, đứng bên hồ biểu diễn kiếm pháp. Sau đó, lần lượt các vị tráng sĩ còn lại cũng chọn biểu diễn một loại binh khí. Quan chủ khảo thì tuổi đã già, không biểu diễn binh khí được, cũng góp vui bằng một bài hát. Buổi yến tiệc sau đó diễn ra rất vui vẻ. Không những bọn Đăng Dung mà cả vua Thái Trinh cũng uống rất nhiều rượu. Đến cuổi buổi yến, vua Thái Trinh say khướt, vào trong điện Hoàng Cực để nghỉ, còn mấy người Đăng Dung cũng chuếnh choáng, xin được cáo lui ra về. Một tên thái giám trẻ tên là Đào Hải dẫn mọi người đi ra khỏi cung.

Lúc ra về đến gần Đoan Môn, Đăng Dung mới sực nhớ ra là mình vì say rượu nên để quên bảo kiếm vua ban ở trên ghế ngồi, liền nhờ Đào Hải dẫn quay lại hồ để lấy. Đào Hải vâng dạ rồi hai người cùng quay lại. Lấy xong được bảo kiếm thì trời cũng đã xẩm xẩm tối. Đào Hải lại tất tả cùng với Đăng Dung quay ngược trở về Đoan Môn.

Trên đường trở về, chàng thấy một đoàn người mặc áo cấm vệ đang hằm hằm đi về phía điện Hoàng Cực. Bươn trải trên giang hồ đã lâu, Đăng Dung thấy đoàn người rất kỳ lạ. Trên mặt họ, sát khí nặng nề, tựa như những kẻ sát thủ thường xuyên chứng kiến cảnh đầu rơi máu chảy, chứ không được thanh thoát như quân cấm vệ thông thường. Đào Hải cũng tần ngần nhìn theo đoàn người ấy. Đăng Dung mới hỏi:

- Chẳng lẽ công công cũng nhận thấy điều khác lạ?

Đào Hải mới gật đầu bảo rằng:

- Tôi ở trong cung lâu rồi mà chưa từng thấy những người lính cấm vệ này. Ta hãy thử đi theo xem sao.

Đào Công Công và Đăng Dung lén lút đi theo phía sau đoàn người. Trời xâm xẩm tối, hai người nép đằng sau những gốc cây mà đi, nên đoàn người cũng không dễ gì phát hiện được. Đoàn quân cấm vệ kỳ lạ vẫn tiếp tục đi về phía điện Hoàng Cực, nơi vua Thái Trinh đang nằm nghỉ. Ở ngoài cổng điện, Nhị Vương Gia Lê Tuấn đang nhấp nhổm chờ sẵn. Ngoài ra, ở đó còn có Kính Phi, mẹ nuôi của Nhị Vương Gia và quan Thị Lang Bộ Lại mặt chuột Nguyễn Như Vy mà Đăng Dung đã gặp ở trường thi hôm trước . Đoàn quân cấm vệ kia thấy ba người thì đồng loạt quỳ xuống hành lễ. Nhị Vương Gia gật đầu rồi dẫn họ đi vào trong cung điện.

Đăng Dung vẫn còn muốn đi theo để xem chuyện gì đang xảy ra thì Đào Hải đã run lẩy bẩy ngăn chàng lại. Hắn đã sống lõi đời ở trong cung nên trực giác linh mẫn hơn người. Hắn bảo:

- Đừng. Đừng đi nữa. Tôi cảm giác có chuyện chẳng lành. Chúng ta đều là những con kiến cỏ, đừng dây dưa vào việc này làm gì kẻo thiệt đến thân. Ngài hãy mau chóng rời khỏi hoàng cung đi thôi.

--------

vua Thái Trinh: Là vị vua thứ bảy của nhà Lê Sơ, tên húy là Lê Thuần. Sau khi nhà vua băng hà, được dâng miếu hiệu là Túc Tông. Sử cũ thường gọi là Lê Túc Tông

vua Thái Tổ: tức Lê Lợi, vua đầu tiên của triều Lê Sơ, có công khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh. Niên hiệu của nhà vua là Thuận Thiên, sau khi băng hà được dâng miếu hiệu là Thái Tổ.

Vua Thánh Tông: tức vua Hồng Đức, tên thật là Lê Tư Thành, là vị vua thứ năm của nhà Lê Sơ. Ông là vị hoàng đế nổi tiếng trong lịch sử. Niên hiệu của vua lần lượt là Quang Thuận và Hồng Đức, sau khi băng hà được dâng miếu hiệu là Thánh Tông

Chiêm Thành: là tên gọi nước Chăm Pa cổ, tồn tại ở Việt Nam từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 17, sau đó được sáp nhập vào Đại Việt.

Bồn Man: là một vương quốc cổ, nằm ở giáp Lào, sau bị sáp nhập vào Lào.

Lao Qua: là một vương triều cổ của Lào

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com