# 86
Buổi đêm sau trận chiến nảy lửa trên eo Thanh Thủy, bầu trời quang đãng chi chít ánh sao. Mảnh trăng lưỡi liềm vắt vẻo ở mạn đông bắc tỏa ánh sáng lờ mờ trên mặt đất. Sau một trận tử chiến khốc liệt, quân triều đình ăn uống no say rồi chui vào trong những túp lều dã chiến để nghỉ ngơi, chỉ chừa lại một số binh lính được phân công canh gác, đứng thành những hàng dài bên ngoài.
Càng về đêm, không gian càng tĩnh mịch. Đám lính canh mỏi mệt có dấu hiệu trễ nải, có tên còn vừa đứng vừa ngủ, cất tiếng ngáy khò khò. Trong lúc ấy, ở sâu tít trong dải núi đá vôi rậm rạp, có những tiếng nói thì thầm cất lên. Hơn sáu trăm nghĩa sĩ mật phục bắt đầu trồi lên. Họ đã nằm đây từ buổi sáng, hoàn toàn tách biệt và không có bất kỳ một mối liên hệ nào với đại quân ở bên ngoài. Do địa hình núi đá vôi hiểm trở nên chỉ có mấy trăm người trốn được vào trong. Họ phải ẩn nấp trong những hang hốc cheo leo để tránh sự dò xét của quân triều đình.
Số lượng nghĩa sĩ mật phục tuy ít, nhưng họ đều là những hảo thủ dẻo dai nhất. Các tráng sĩ vận trang phục gọn nhẹ, lưng đeo cung tên và những túi vải to, dày, bên trong chứa đầy dầu hỏa. Hầu hết bọn họ đều dắt theo một thanh kiếm bên hông để dễ hoạt động khi leo trèo trên núi, chỉ trừ người đầu lĩnh của đoàn quân vẫn ngang ngạnh cầm theo một thanh đao dài và nặng. Lặng lẽ và thận trọng, họ trườn trên những dải núi dốc thẳng đứng, dần dần bò ra phía ngoài.
Dưới ánh trăng lờ mờ, đầu lĩnh của nhóm nghĩa sĩ kéo căng cung tên, khéo léo bắn gục ngay tại chỗ những tên lính triều đình đứng canh gác trên đỉnh núi. Chúng bị hạ trong nháy mắt mà không tạo ra bất kỳ tiếng động nào. Sau đó, nhóm nghĩa sĩ lần lượt tiến ra mép núi đá vôi, đứng rải thành hàng dài, hào hứng nhìn xuống dãy lều trại bên dưới.
Trong đêm tối im phăng phắc, bất thình lình có một mũi tên lửa vẽ một đường cong thật dài trên bầu trời, rồi lao xuống, cắm phập vào đại trại của quân triều đình. Tín hiệu đã được phát đi. Ngay sau đó, từ trên dãy núi đá án ngữ eo Thanh Thủy, mấy trăm mũi tên đồng loạt rít gào, xé toang đêm đen, cắm viu viu vào dãy lều trại phía dưới. Đầu các mũi tên đều được phết một lớp dầu hỏa dày nên khi chạm vào lớp vải lều, ngọn lửa lập tức bùng lên. Chỉ trong phút chốc, những bông hoa lửa đã nở chi chít còn rực rỡ hơn những bông hoa gạo đỏ rực của tháng tư.
Quân triều đình khi đó mới hốt hoảng chạy ra ngoài dập lửa. Ánh lửa lập lòe khiến toàn bộ quân triều đình náo loạn. Bọn chúng chỉ nhìn thấy các mũi tên lửa không ngừng trút từ trên cao xuống chứ không biết quân mai phục có bao nhiêu người. Việc đóng trại trên một địa hình dài và hẹp khiến quân triều đình không tiếp ứng và thông tin được cho nhau. Bọn chúng lúng túng và có phần hoảng loạn, mãi vẫn chưa phản công lại được.
Đúng vào lúc quân triều đình đang rối như canh hẹ thì từ bên ngoài sông Đáy tiếng trống trận ầm ầm nổi lên. Mấy trăm chiếc thuyền vô thanh vô tức hiện lên giữa mặt sông sương phủ. Trên một chiếc thuyền chiến to nhất, tướng quân Nguyễn Văn Lang cởi trần, tự tay gõ vào cái trống da, tạo nên những âm thanh ầm ầm, thôi thúc thủy quân tiến lên. Tiếng trống rót vào tai của quân triều đình tựa như chuỗi âm thanh báo tử.
Thì ra sau khi toàn bộ nghĩa quân phá sập núi đá ở nút thắt Thanh Tân, tướng quân Nguyễn Văn Lang không cho quân lính được trễ nải một chút nào, ngay lập tức thúc giục mọi người đi đến bến thuyền sắp xếp ở ngay cạnh đó. Khi màn đêm đen buông xuống, đội quân ẩn nấp ở trong dãy núi đá vôi trèo ra ngoài, trút cung tên xuống khu lều trại. Đối với toán mật phục trong núi đá, ngoài việc làm quân triều đình nhiễu loạn, nhiệm vụ chính của họ là thu hút sự chú ý của bọn chúng. Khi toàn bộ sự chú ý của quân triều đình bị hút vào dãy núi đá vôi thì mặt bờ sông sẽ bị lơi lỏng. Lúc đó, các chiến thuyền của nghĩa quân rẽ sóng trên sông Đáy lập tức áp sát, hòng tung một chiêu sát thủ vào tim của kẻ địch.
Các chiến thuyền của nghĩa quân không cập vào bờ ngay mà dàn trận trên mặt nước cách bờ một đoạn. Từ trên mũi thuyền, hằng hà sa số các mũi tên lửa được bắn vun vút về phía quân triều đình. Cùng một lúc hứng chịu hai mũi hỏa công, dãy lều trại của triều đình bùng lên cháy phừng phừng trong đêm. Quân triều đình hoặc bị trúng tên, hoặc bị dính lửa, liên tục cất lên những kêu la, rên rỉ. Con voi khổng lồ của Lê Vũ bị cắm chi chít tên vào lưng. Lửa nóng cháy xém da khiến nó nhảy chồm lên, rồi chạy lung tung không kiểm soát, hễ đi đến đâu là dẫm đạp tan hoang đến đấy. Đám ngựa chiến cũng vậy. Chúng dứt đứt dây buộc và phi như điên trong doanh trại. Lê Vũ và đám tướng lĩnh triều đình cố gắng vãn hồi cục diện, nhưng họ gào khản cả cố cũng chẳng thể nào điều động được đám quân sĩ đang loạn như cào cào.
Khi quân triều đình đã rối loạn đến cực độ, thì các chiến thuyền mới ngừng bắn tên, áp sát vào bờ. Nguyễn Hoằng Dụ cùng với Vũ Hộ nằm ở trong tốp tiên phong, cùng cởi trần, vẽ hoa văn hình rồng trên người, cầm đao lăm lăm hướng đến quân địch mà chém giết. Đồng thời, toán quân mật phục trên dãy núi đá vôi cũng ngừng bắn tên, thòng dây, nhảy từ trên cao xuống. Thủ lĩnh của toán quân mật phục là Đăng Dung. Chàng cầm Định Nam Đao, dẫn đầu nghĩa quân, thọc sâu vào doanh trại của địch. Lâu lắm rồi mới được nếm dư vị chiến trường, thanh Định Nam Đao reo vui, rung lên bần bật. Lưỡi đao luôn được Đăng Dung chĩa thẳng về phía trước, hễ quét đến đâu là quân địch kinh hồn bạt vía đến đấy.
Trước khí thế vũ bão của nghĩa quân, quân triều đình chỉ chống cực rời rạc rồi giẫm đạp lên nhau chạy chối chết. Chúng chạy về phía bắc, hòng chạy thoát ra khỏi eo Thanh Thủy để trốn ra ngoài. Nghĩa quân kiên quyết đuổi theo không rời. Họ truy quét đến đâu, quân triều đình nằm như rạ đến đấy. Trải qua một đêm quần thảo, nghĩa quân thắng lớn, quân triều đình đại bại. Mười vạn quân triều đình thì có đến ba vạn quân bị chết, ba vạn xin hàng, còn lại bốn vạn thì chạy thoát được, theo tướng Lê Vũ chạy trốn về phía Bắc.
Tướng quân Nguyễn Văn Lang không ham truy đuổi tàn quân. Buổi sáng ngày hôm sau, ông tập hợp các nghĩa sĩ lại ở bên ngoài eo Thanh Thủy. Kiểm đếm lại quân số, nghĩa quân bị thiệt hại mất hơn năm nghìn người, nhưng lại được bù đắp bởi ba vạn hàng quân xin gia nhập. Nguyễn Văn Lang cùng với Lê Oanh đích thân đi úy lạo quân sĩ và vỗ về những người xin hàng. Đăng Dung được Lê Oanh dẫn theo ở phía sau, coi chàng là đại công thần của trận chiến này.
Nghĩa quân bây giờ gồm gần mười vạn người, đã có đủ thực lực để xoay chuyển càn khôn. Sau trận thắng lớn, thanh thế nghĩa quân vang xa khắp nơi. Chư hầu địa phương biết thời thế đã nghiêng về họ, liền mang quân đến tề tựu dưới lá cờ của nghĩa quân, hòng kiếm chút lợi ích. Trong số những kẻ cơ hội tìm đến, có cả Trịnh Duy Đại và Trịnh Duy Sản. Hai anh em hắn và cháu họ Trịnh Tuy dẫn đội quân năm nghìn người, tìm đến nghĩa quân vào ngay buổi chiều sau khi đại quân Lê Vũ bị công phá.
Mẹ của Giản Tu Công Lê Oanh là Trịnh Thị Tuyên, vốn là em gái ruột của Trịnh Duy Sản và Trịnh Duy Đại. Lê Oanh gọi hai tên này là cậu ruột, mối quan hệ cực kỳ khăng khít và gần gũi. Vì thế, khi mà Trịnh Duy Sản dẫn năm nghìn quân đến gia nhập nghĩa quân, Lê Oanh ra đến tận cửa trại để tiếp. Trịnh Duy Sản và Trịnh Duy Đại tuy là cậu, nhưng hành lễ với Lê Oanh như hành lễ với thiên tử. Hai tên thay nhau kể lể nỗi khổ của mình đã không đến được sớm, rồi dùng lời lẽ thống thiết xin được gia nhập nghĩa quân. Lê Oanh cảm động đỡ họ dậy, dẫn vào trong trướng.
Nguyễn Văn Lang và Đăng Dung đứng bên ngoài, chứng kiến một tuồng hề chỉ lắc đầu thở dài. Lê Oanh vẫn còn trẻ tuổi nên chưa thấu tỏ được nhân tình thế thái. Anh em họ Trịnh rõ ràng là chẳng phải nặng tình nghĩa với Lê Oanh như đã nói. Xưa kia khi Lê Oanh bị nhốt vào trại giam, còn Trịnh Duy Sản nắm toàn bộ cấm quân và Trịnh Duy Đại là Thị lang Bộ Hộ đâu có thèm đếm xỉa đến đứa cháu đáng thương của mình trong tù ngục. Sau này, khi Lê Oanh dựng cờ khởi nghĩa, Trịnh Duy Sản mặc dù thất thế nhưng cũng chẳng đến gia nhập từ đầu. Năm nghìn quân của Trịnh Duy Sản rõ ràng là ém ở bên ngoài nghe ngóng, chờ trận đại chiến giữa nghĩa quân và Lê Vũ kết thúc, nếu ai dành thắng lợi sẽ nghiêng về bên đó. Thế nên mới có chuyện trận đại chiến vừa xong, anh em họ Trịnh đã vội vàng đến xin gia nhập nghĩa quân. Cả Đăng Dung và Nguyễn Văn Lang đều không ưa gì anh em họ Trịnh, nhưng tình thế bây giờ đang cần dùng người, nên cũng chẳng từ chối việc bọn chúng xin gia nhập.
Trần Chân là con nuôi của Trịnh Duy Sản, lẽ dĩ nhiên cũng đi theo cha mình. Anh ta gặp lại Đăng Dung ở giữa doanh trại của nghĩa quân thì ngạc nhiên cực độ. Đăng Dung cũng chạy đến cạnh anh ta chào hỏi. Hai người đã coi nhau như tri kỷ, cùng dìu nhau vào trướng, trò chuyện đến tận đêm.
Sau khi ổn định được binh sĩ, Nguyễn Văn Lang quyết định tiếp tục tấn công. Tờ mờ sáng hai ngày sau, toàn bộ hơn bảy vạn quân cùng nhổ trại, tiến về phía Bắc. Sau thắng lợi giòn giã, nghĩa quân không chỉ lớn mạnh về quân số mà chí khí cũng lên cao vút. Vì khí thế lên cao nên họ hành quân không biết mệt mỏi, chẳng mấy chốc đã đến xứ Đồng Lạc, chạm chán với tàn quân Lê Vũ đang bám trụ lại đó.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com