Chào các bạn! Truyen4U chính thức đã quay trở lại rồi đây!^^. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền Truyen4U.Com này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 1: Men Cũ Trong Đất

Mùa mưa năm ấy, gió thổi về từ hướng sông Tiền, những cánh đồng vừa được cày xới đang chờ gieo mạ, chỉ còn rạ vụ cũ phơi nghiêng nghiêng như những sợi tóc cháy nắng của người quê. Xứ này hiếm lắm mới có khách sang trọng về thăm. Bởi vậy, khi chiếc xe hơi hiệu Peugeot màu rêu lăn bánh trên con đường đất dẫn vào ấp Đông Bình, đám trẻ con ùa ra nhìn như trẩy hội. Ai cũng xì xào, "cậu hai nhà ông Bá Cử đi Tây về rồi kìa!".

Cậu hai – tức cậu Nguyễn Bá Nghị, sau mười năm trời du học bên Tây, giờ đã là người thành đạt, bộ Com-lê ba mảnh với áo gi-lê cài khuy gọn gàng, quần tây ủi phẳng, đôi giày da đánh bóng loáng soi thấy mặt. Người xứ này vốn nể gia đình ông Bá Cử lắm, bởi nhà ấy là chủ xưởng gạch – gốm lớn nhất vùng, từ Chợ Lớn tới Mỹ Tho ai mà chẳng biết. Sản phẩm của họ xuất tận qua bên Xiêm, bên Cao Miên. Nghe đâu dạo gần đây cậu Nghị còn sắp lập thương hội với người Pháp, nên tiếng tăm càng vang xa.

"Cậu, cậu có muốn đi ngang qua nhà ông bà Tư Chơn không?" – chú Bảy hỏi, giọng vui vẻ, hôm qua chú có thấy thằng Viễn cầm cặp da đi ngang qua xưởng lấy giấy tờ gì đó.

Cậu khẽ nhếch môi, đôi mắt vẫn nhìn ra ngoài cửa kính.

"Chưa chú... để sau."

Nhà ông Tư chỉ cách nhà ông Bá chừng mấy công ruộng, nhưng hai thế giới ấy khác nhau xa lắm. Một bên là xưởng gạch đồ sộ, mái ngói đỏ au, khói nghi ngút ngày đêm ; một bên là ruộng lúa, mảnh vườn nhỏ, ao cá, nhà gỗ ba gian khiêm tốn nằm lọt giữa hàng cau. Nhà ông giáo nho Tư Chơn, tuy không nghèo, nhưng quanh năm chỉ đủ sống. Vậy mà ai trong vùng cũng quý, bởi ông biết cái chữ và cả tính ông hiền. Nhà ông có năm đứa con, ba trai, hai gái. Hai đứa lớn đi học nghề rồi ở lại Sài Gòn, ông mới gả nốt đứa con gái còn lại vào cuối năm ngoái tới miệt Bạc Liêu, giờ còn đứa con trai út đi học Sài Gòn mấy năm thì về lại tỉnh làm – Viễn – bà con chòm xóm nói nó có hiếu về gần ông bà già cho có người thủ thỉ.

Từ ngày Viễn được ông Bá Cử cho giấy giới thiệu lên Sài Gòn học, cả xóm lại có thêm ông tú tài. Bốn năm sau, người ta đồn nhau rằng con ông bà Tư Chơn học giỏi lắm, giờ đã về làm cho một cơ quan thương nghiệp tỉnh. Mà cũng phải, thằng nhỏ này hồi còn ở quê đã có dáng điềm đạm khác người, nói năng nhỏ nhẹ, ánh mắt lúc nào cũng xa xăm như đang nhìn một nơi chốn khác.

Chiều hôm ấy, khi mặt trời vừa khuất sau hàng tre, tiếng máy xe hơi lại vang lên từ hướng nhà ông Bá. Đám thợ trong xưởng đổ ra coi, người nhà lăng xăng, còn cụ Bá Cử đã ngồi sẵn ở ghế tre chờ cậu con trai cả.

"Về rồi đó ha, vô đi con."

Cậu cúi đầu chào, nụ cười hiền, nhưng ánh mắt khẽ run. "Con chào ba, con chào má!"

Bà Bá Cử bước ra, mừng mừng tủi tủi, cầm tay con trai mà nước mắt rưng rưng. Trong mắt người mẹ, cậu hai vẫn là đứa con nhỏ năm nào hay đứng ngoài bờ sông câu cá miết thôi.

Tin cậu hai về nhanh chóng lan ra khắp vùng. Tối đó, nhà ông Bá máy phát điện chạy xình xịch, đèn sáng rực, khách khứa tới tấp, người chúc mừng, kẻ hỏi chuyện Tây chuyện Tàu. Sau khi chào hỏi bà con chòm xóm qua nhà chúc mừng cậu lặng lẽ đi về phía ngoài hiên, cậu ngồi trầm ngâm, chén rượu trong tay lắc nhẹ. Bao nhiêu tiếng cười nói xung quanh dường như xa vời.

Chú Bảy tiến lại, khẽ nói:

"Cậu, hồi qua tui có thấy thằng Viễn ghé ngang xưởng gạch. Nó gửi lời chào ông bà, nói mai có chút lễ vật tới biếu."

Cậu khựng lại. Chén rượu trên tay đang xoay bỗng đứng yên, sóng sánh. Mãi một lúc, cậu mới hỏi, giọng như vừa tìm lại được:

"Viễn... về hồi nào vậy chú?"

"Nghe đâu về mấy năm rồi. Giờ nó làm cán bộ thương nghiệp, coi bộ chững chạc lắm. Người ta nói mấy năm trên tỉnh, nó khéo lắm, ai cũng thương."

Cậu Nghị im lặng hồi lâu. Ly rượu trong tay bỗng nặng trĩu. Trong đầu cậu hiện lên hình ảnh đứa nhỏ gầy gò, da trắng tươi vì không được ra đường chơi cùng đám bạn, đôi mắt sáng và giọng nói cứng cỏi ngày nào. Cậu khẽ thở dài.

"Nó... chắc quên con rồi."

Chú Bảy mỉm cười, "Quên sao được cậu, thằng nhỏ thân với cậu nhất xóm mình mà. Mấy năm trước mỗi khi về thăm nhà, tui thấy nó đứng ngoài bến sông lâu lắm, chỗ cậu hay ngồi câu cá ngày xưa đó."

Nghe tới đó, cậu nhìn ra ngoài hiên. Gió đêm thổi qua kẽ dừa, mang theo tiếng nước vỗ nhẹ vào mạn cầu gỗ đâu đó ngoài bến. Nước cũ tràn bờ. Cậu nghe dội lại tiếng cười con trẻ. Cậu gần như thấy lại đứa nhỏ năm nào – thằng út Viễn, tóc nâu, người gầy, da trắng tái vì bệnh, đôi mắt trong veo như ánh sông buổi sáng.

Nó nhỏ nhất nhà, lại hay đau ốm. Cả nhà thương, giữ khư khư như giữ hũ mật ong, sợ gió, sợ nắng, sợ muỗi cắn. Mấy đứa con nít cùng xóm chạy rông ngoài đồng, riêng nó bị bắt ở trong nhà, chỉ có mỗi cậu Nghị là được má nó mở cửa cho vào. "Cậu chơi với nó chút nghen, nó buồn." Cậu gật đầu, mang theo con diều, cây cần câu, hay cuốn truyện cũ. Mà kỳ lạ, chính cậu lại thấy thích cái cảm giác ở cạnh thằng nhỏ ấy – một thứ êm như nước lặng, nhưng có gì đó râm ran dưới da.

Khi nhớ, kỷ niệm đầu tiên ùa về là chiều thả diều.

Trời tháng tư, gió nam non thổi qua bờ sông. Cậu vót tre làm khung, thằng nhỏ ngồi kế, hai đầu gối ôm áo, mắt dõi theo từng nhát dao.

"Cậu đừng đứt tay nghen," nó nói, giọng nhỏ xíu.

Cậu cười, búng nhẹ trán nó. Khi diều no gió, nó giữ dây, dép rơi mất một chiếc. Gió quật mạnh, nó lảo đảo; cậu lao tới, đứng sau lưng, hai tay cầm tay nó mà giữ. Hơi thở hai đứa quyện vào nhau, mùi tóc, mùi nắng, mùi da non hòa lại. Tay nhỏ run run, tay lớn siết chặt. Lúc ấy, chẳng ai nói gì. Gió vẫn giật, nhưng cậu chỉ nghe tiếng thở của hai đứa quyện vào nhau.

Lần khác, mùa mưa, thằng nhỏ bị sốt.

Cả nhà đi gặt, chỉ còn mình nó nằm co trong buồng, má nó dặn cậu coi chừng. Cậu nấu cháo gừng, thổi nguội, đút từng muỗng. Nó nhăn mặt vì cay, nhưng ngoan ngoãn nuốt. Cậu lau mồ hôi trên trán nó, tay khẽ chạm vào thái dương nóng hổi. Trong lúc mơ màng, nó nắm lấy cổ tay cậu, ngón tay nhỏ siết khẽ. "Đừng đi," nó thều thào.

Cậu sững người, không dám rút ra. Ngoài trời, mưa táp lộp độp mái lá. Trong phòng, mùi cháo gừng, mùi mồ hôi, mùi hơi thở quện lại. Sáng hôm sau, nó tỉnh. Cậu về mà thấy cổ tay mình còn ấm.

Rồi đến buổi chiều bên bến sông, hai đứa ngồi câu.

Cậu chỉ cách móc trùng, tay cậu kẹp lên tay nó. "Phải móc xéo nghen, đừng đâm thẳng, cá nó sợ."

Cái phao của nó cứ lặng yên, phao của cậu khẽ rung.

"Coi, nó rỉa rồi đó," cậu nói. Cả hai cúi gần nhau, nắng chiếu lên mặt nước, phản chiếu lên mắt thằng nhỏ. Cậu nghe tiếng tim mình đập không theo nhịp cá. Lần đầu tiên, cậu sợ kéo cần – sợ nếu kéo mạnh, sợi dây mảnh đó sẽ đứt, cá đi mất, mà cái gì đó trong lòng cũng theo nước trôi đi.

Lần cuối cùng là buổi mưa bất chợt trên đường về chợ.

Mây sập xuống, nước đổ ầm. Cậu kéo thằng nhỏ nép vào gốc bần, quàng áo tơi lên đầu cả hai.

"Ướt hông?"

"Không... ấm," nó đáp.

Mưa lạnh, hơi người nóng. Tóc nó dính vào má cậu, mùi sông, mùi bùn, mùi thằng nhỏ lẫn nhau. Khi nước bớt, dép nó lún sình, cậu cõng. Tay nó vòng qua cổ, đầu gối đụng nhẹ vai. Cậu đi chậm, sợ trượt, sợ nó rớt. Nhưng cũng sợ... tới nhà quá sớm.

Sau này, khi cậu đã đi xa, nhớ day dứt những chỗ đó, phao của nó từng không chịu chìm, đèn của nó từng trôi mà không tắt, và cậu từng cõng nó qua vũng bùn sâu.

Những trò con nít đó, hoá ra không hề nhỏ.

Chúng là lớp men đầu tiên, nung âm ỉ trong hai đứa suốt bao năm – để rồi khi trưởng thành, không biết có phải chỉ cần gặp lại, chỉ cần nhìn nhau, thì cái men đó sống dậy, dày dặn và sâu hơn cả ngôn từ.

Cậu Nghị hiểu, có những thứ tình không kêu được bằng tên.

Chúng chỉ lặng lẽ lớn lên, như lửa trong lòng đất – âm ỉ, kín tiếng, mà chỉ cần một cơn gió ký ức thổi qua, là bùng sáng cả trời.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com

Tags: #dammy