Chương 10: Thư Nhà
Buổi sớm, nắng lọt qua rèm tre, rải lên mặt bàn hai tờ giấy trắng còn thơm mùi bột. Mực lam trong lọ Thủy Sĩ phản chiếu thành một chấm xanh, nhỏ như giọt sương đầu ngọn lá. Cậu Nghị và Viễn ngồi song song – không phải đối diện như hai người bàn việc, mà như hai người cùng hướng về một phía: quê nhà.
Cậu cầm bút, giấy in sẵn tiêu đề "Thương hội Gốm sứ Đông Bình – Chi nhánh Sài Gòn". Nét chữ Tây của cậu nghiêng thanh, đều như người đã quen giữ thăng bằng giữa hai thế giới. Cậu viết:
"Thưa cha, Con đã yên nơi Sài Gòn. Công việc thuận, Arnaud đã ký nháp, lô hàng đầu tiên đang trên đường sang Marseille. Ngày mai con gửi hình bảng hiệu mới về để cha coi. Xin cha yên tâm, con vẫn nhớ lời cha dặn: Đất mình có lửa, đi xa cũng phải giữ tro."
Viết đến đó, cậu dừng, thay ngòi bút, rót thêm trà. Hơi nóng mờ đi đôi mắt – không rõ vì khói hay vì hoài niệm.
Bên kia, Viễn cũng đang viết. Giấy của anh không có tiêu đề, chỉ là loại giấy học trò mua ngoài chợ. Anh viết chậm, chữ hơi nghiêng về bên trái, giọng đơn sơ như lời nói.
"Thưa ba má, Con ở Sài Gòn với cậu Nghị, việc làm yên ổn, cơm nước đủ. Cậu thương con, chỉ dạy từng chút. Má đừng lo. Bữa nào yên con về thăm. Ở đây trời sáng trễ, mà gió thì có mùi khói tàu. Con vẫn nhớ mùi khói chiều sau bếp nhà mình."
Anh viết đến đó thì dừng lại, ngòi bút hơi run. Một giọt nước rơi xuống góc chữ "má", loang ra thành vệt nhạt. Cậu Nghị thấy, không nói gì, chỉ khẽ nghiêng người qua, lấy khăn chấm nhẹ chỗ ướt. "Giấy tốt, không sao," cậu nói nhỏ, "mực lam gặp nước thì nhạt, nhưng chữ còn."
"Anh viết sao để người già đọc mà vui?" Viễn hỏi, giọng như sợ mình phá vỡ tĩnh lặng.
"Viết thật," cậu đáp, "đừng sửa lòng bằng chữ." Rồi cậu nhìn tờ giấy anh, khẽ chỉ: "Chữ 'má' em viết hơi gấp. Viết tròn hơn chút, người đọc sẽ yên."
Viễn nghe, mỉm cười, xoay bút lại, tô nhẹ vòng chữ "má" thành đầy hơn. Cái tròn của chữ nhỏ mà làm không khí ấm lên.
Khi cả hai gấp thư lại, dán tem, nắng đã chiếu tràn bàn. Hai phong bì nằm cạnh nhau: một đề "Ông Bá Cử, Đông Bình", một đề "Bà Lê Thị Duyên, làng Đông Bình". Nét mực lam khô dưới nắng, ánh lên màu như men rạn vừa ra khỏi lò.
Cậu nói khẽ, như nói với cả hai bức thư rồi xếp chúng ngay ngắn trên bàn: "Cho họ biết mình còn nhớ nhà – vậy là đủ."
Buổi trưa ấy, Sài Gòn mờ mỏng một lớp nắng đục. Từ cửa sổ nhà số 42 Rue des Céramiques, tiếng rao "bắp nướng, bắp nướng thơm đây" đi ngang, rồi chìm hẳn sau tiếng bánh xe điện leng keng ở khúc quẹo.
Trong phòng trước, mùi sơn mới đã bớt gắt, nhường chỗ cho mùi vải rèm sạch nắng và một chút thơm của xà phòng bánh. Viễn kê lại chiếc bàn dài, vuốt tay trên mặt gỗ đã đánh vecni. Trên bàn, cái con dấu "ĐÔNG BÌNH — SAÏGON" nằm kế cây bút mực thân đen; góc kia chồng giấy khổ to là bản liệt kê hàng mẫu. Anh dựa hơi lưng vào ghế, nghe từ sân vọng lại tiếng mèo con meo một tiếng rồi im.
"Bữa nay mình ăn cơm nhà nha," anh nói lớn.
"Ăn. Nhớ nấu nồi canh chua cho đúng vị," giọng cậu Nghị vọng từ hiên, nơi cậu đang chỉ A Sâm đo tủ kính.
"Đúng vị là vị nào?" Viễn hỏi, cười.
"Vị em nấu. Vậy là đúng."
Anh xắn tay áo, bước vào bếp. Căn bếp ở sau nhà nhỏ nhưng sáng, một cửa sổ lùa gió, một mặt chạn treo gọn ghẽ, chảo gang, nồi đất, rổ tre, dao thớt. Trên bàn bếp là con cá trê bà Sáu chợ đầu hẻm đem tới từ sáng, mấy trái cà chua, nắm rau ngổ, mớ bông điên điển vàng tươi. Anh chùi dao, bắc nồi, rửa sạch con cá, dao lướt qua da trơn như nước. Lửa mới chụm sém rơm, bếp nổ lách tách .
Cậu bước ngang khung cửa bếp, vẫn còn cầm thước đo của A Sâm. "Anh ra phố một chút coi người ta chở kính, rồi ghé Bưu điện để gửi thư và xem có điện tín không. Có cần anh mua thêm gì về bếp không?"
"Anh mua thêm một hũ đường cát, với mấy trái ớt hiểm nhỏ. À, nếu tiện thì ghé ông Lục xin giúp một mớ hành lá."
"Xin hả?" Cậu nghiêng đầu.
"Ổng nói 'cậu ở mới, cần gì cứ bảo qua lấy', em giữ lời người ta cho vui."
"Ừ," cậu gật, "xin thì xin, mai mốt trả bằng một cái đĩa men nâu là phải phép."
Chừng cậu đi rồi, nhà bỗng tĩnh rõ. Gió quét qua ô cửa, đưa theo tiếng nói của bà bán bánh cam lăn lăn xe bên hông. Nồi cơm sôi òa, nước trào một vòng, Viễn bắc vung, kê cái đũa phía mép cho khỏi phụt. Mùi cơm mới "hở" ra, ấm, khơi lên một sợi ký ức của những cái trưa ăn vội ở Sài Gòn mấy năm trước, khi anh còn ở gác chợ Cũ, cơm nấu bằng lò dầu, canh chỉ là nước rau luộc để nguội. Bây giờ cũng là Sài Gòn, mà khác hẳn: có hiên để gió đi qua, có sân để phơi chăn, có người để gọi là "về".
Mèo con lạch bạch bò tới chân anh, lăn một vòng, chưa vững mà đã khoe cái bụng trắng. "Đợi đó," anh nói nhỏ, "chín cơm cho mi tí nước cá kho." Nó ngẩng đầu như hiểu.
Anh rửa nhanh con dao, vuốt gọn mấy cộng ngổ, bông điên điển thả vào rổ để ráo. Chảo trên bếp nóng già, dầu phập phồng; mấy tép tỏi đập dập rơi vào, thơm bừng. Cá trê vào chảo xèo, da co lại, anh trở nhẹ, rưới nước mắm pha chút đường, tiêu mới giã. Hơi nước mắm bốc lên, cay xè, anh hắt xì, bật cười một mình. Áp lực của mấy công văn thủ tục mấy ngày qua nhờ vậy mà tan đi một mảng.
Cửa cọt kẹt. Cậu bước vào, tóc có mùi gió và áo sơ-mi vương bụi đường. "Đây, hành lá của ông Lục, ổng gửi luôn mấy cọng ngò," cậu đặt túi giấy xuống bàn.
"Ăn cơm cái đã. Bữa nay mình có cơm nhà." Cậu ngồi lên bậc thềm bếp, nhìn nồi cá sôi sùng sục, lửa đánh bóng đáy nồi thành một vòng quầng. "Ở bên bển, mười năm, anh ít ăn món nào 'đã' như cái mùi này."
"Coi chừng anh quen, mai mốt đòi ăn hoài," Viễn bưng nồi cơm xuống xới, "em mệt chết."
"Thì để anh phụ. Anh không biết nấu, nhưng biết rửa." Cậu nói vậy mà tay đã với lấy cái tô, chặn giúp cái vung khỏi tuột.
Bữa cơm bắt đầu dưới hiên. Bàn kê gần giàn giấy, nắng đã chùng lại thành vàng sẫm. Đèn dầu chưa cần châm. Ông Lục ở bên kia đường thấy, bèn bảo đứa nhỏ xách sang nồi nước lèo nóng, "Cho hai vị húp chơi cho mát họng." Cô bé bán bánh bao cũng toan qua ngó nhón, "Hai cậu ăn cho khỏe nha," nói xong bỏ chạy, sợ bị gọi lại ăn chung.
"Cám ơn ông Lục," cậu nói lớn qua đường.
"Ăn đi," ông Lục đáp, gõ muôi vào nồi như một tiếng chúc lành.
Trên bàn, cá kho sậm màu, tiêu lấm tấm; tô canh chua dậy hương, bông điên điển nở kín mặt nước; đĩa rau muống luộc xanh giòn, dăm tép tỏi phi rắc mỏng; chén nước mắm tỏi ớt đỏ. Cả cái phong của một căn bếp "vừa đủ dùng" nằm trọn ở đó .
"Lấy cho anh chén cơm," cậu nói.
"Đây," Viễn múc, đưa qua. "Nói nghe, bữa nào mình sẽ bày mâm cơm này lên tủ kính nửa buổi cho khô, chụp ảnh gửi qua Pháp. Để họ thấy gốm ở đây 'ở' như thế nào."
"Ý hay," cậu gật. "Họ mua vì đẹp, nhưng ở lại vì hợp. Như người."
"Như người?" Viễn ngước.
"Ừ. Nhìn thì đẹp, nhưng có 'ở' được hay không mới là chuyện khác." Cậu múc canh, thổi, mắt vui.
Bỗng có tiếng gõ cổng. Bưu tá lại ghé. "Thư từ Tân Định," ông chìa ra hai phong bì, "ông Lê Minh Viễn." Anh lau tay nhận, lòng hơi chùng lại. "Cảm ơn chú," anh ký.
Một phong bì mỏng có chữ của anh Văn, phong bì kia chữ của anh Trí. Viễn mở cái của anh Văn trước: chữ nắn nót, mực xanh. "Nghe tin em ở Sài Gòn, mừng. Nếu có rảnh anh và Trí muốn ghé nhà thăm." Dưới cùng thêm, "Cẩn thư." Cái của anh Trí thì hồn nhiên hơn: "Mày ở đâu rủ tao coi chỗ, tao qua."
"Hai anh muốn qua thăm," Viễn nói, nửa vui nửa lo.
"Mời qua hết," cậu cười dịu, "Mình đi đàng hoàng. Đúng hẹn, ăn cơm, nói chuyện trúng chỗ. Không sợ."
"Anh Văn kỹ lắm. Ổng không ưa ai hào nhoáng." Viễn nhìn xuống, giọng thấp lại. "Ổng sợ em trật đường."
"Anh cũng không ưa hào nhoáng," cậu nói, gắp một miếng cá, "anh chỉ ưa cái gì bền được với nắng mưa. Nhà này, bàn này, bữa cơm này, bền. Em cũng vậy."
Gió lùa qua hiên, làm giàn giấy rung một lát. Cái tĩnh của bữa cơm tự nhiên đầy lên như một thứ nước ấm. Họ ăn yên, thỉnh thoảng nói chuyện rất nhỏ: hôm nay A Sâm đặt tủ kính đo sai nửa phân, phải bào lại; giò gió trên mái cần lợp thêm một hàng ngói tránh ngấm; rổ mèo con đã bắt đầu len lét đi quanh chân bàn.
"Anh để ý không," Viễn nói, "khi mình ăn cơm, tiếng phố nhỏ đi một chút."
"Vì ở đây, tiếng 'nhà' lớn hơn," cậu đáp.
"Văn vẻ.'' anh phì cười.
''Em hỏi trước mà.'' Cậu rướn người hôn phớt lên trán anh.
Một con mèo con thình lình phóng lên ghế, chân lấm bùn in một vệt nhỏ trên mặt gỗ. "Ê," cậu xua mà cười, "giỡn vừa thôi." Viễn bế nó xuống, lấy khăn khô chùi vệt bùn ấy, chùi xong lại thấy luyến tiếc như vừa lau bay một dấu hiệu chứng minh "nhà có mèo".
Cơm ăn khiến họ quên châm đèn, thành thử khi bóng chiều rơi hẳn, mọi thứ ngả sang tối, chỉ còn ánh trong của canh và bóng đen của cá kho. Cậu bật đèn dầu, ngọn lửa nhỏ đứng lên, vàng dịu. "Đèn nhà," cậu nói, "thiệt khác."
"Khác chỗ nào?" Viễn hỏi.
"Khác ở chỗ nếu nó tắt, có người vội thắp lại," cậu đáp. "Không ai để vậy mà ăn."
Bữa cơm đi vào khúc chậm nhất: không đói nữa, cũng chưa no hẳn. Người ta nói chuyện nhiều hơn về những điều tưởng nhỏ mà quan trọng. Cậu kể chuyện một ông chủ hãng buôn người Pháp khoe chai rượu ngon tới mấy mà ăn vẫn nhạt nếu tiệc không có người nhìn nhau nói chuyện thật. Viễn kể chuyện mấy năm ở Sài Gòn thuở trước, một mình ăn cơm khô, nghe tiếng chân người qua nhà mà tưởng như tiếng sóng.
"Giờ em nghe tiếng đó khác chưa?" cậu hỏi.
"Khác." Viễn cười.
Có tiếng gõ muôi ngoài đường. Ông Lục đang rửa nồi, mỗi tiếng gõ là một nhịp chào buổi tối. Bà Sáu bán cá ghé đầu qua cửa, "Hai cậu ăn cơm khỏe chưa? Mai tui để phần cá lóc nghen." Cậu mời bà vô nhà, bà lắc tay lia lịa, "Thôi thôi, người sang ăn cơm, tui coi chơi là được," bà cười, giọng hiền.
"Bà để cho tụi con hai bó lá chuối," Viễn nói. "Mai con muốn gói một ít thứ... gửi về quê."
"Dạ, hai cậu." Bà hẹn sáng mang qua rồi đi lẹ như lúc đến.
Trong cái ríu rít vụn vặt đó, một việc không được mời cũng gõ cửa. Một người chạy giấy của Sở Thương ghé đưa cái công văn rà soát chuyển ngạch: họ yêu cầu Viễn trình đơn chính thức xin nghỉ thương vụ tỉnh kèm giải trình. "Nhẹ thôi," người chạy giấy nói, "nhưng làm cho nhanh." Cậu nhận, "Cám ơn," rồi đặt phong bì xuống bàn, đè bằng cái dĩa men rạn cho khỏi bị gió lật.
"Phiền không?" cậu hỏi, giọng bình.
"Không phiền," Viễn nhìn tờ giấy một giây rồi ngẩng lên. "Mình làm đúng. Mình nói đúng. Chỉ mất công thôi."
"Ừ." Cậu vuốt nhẹ tóc anh.
"Vậy mai ăn gì?" Viễn cười.
"Ăn y như nay. Cơm, canh, cá kho. Muốn 'an cư' thì ăn lại những thứ khiến mình ở yên."
"Câu này nghe như anh lấy ở sách đâu ra."
"Không. Lấy ở bụng."
Họ dọn bớt chén đĩa, để lại giữa bàn mỗi người một chén cơm cạn. Đèn dầu leo nhỏ, đủ thấy nhau. Mèo con đã ngủ, cuộn tròn trong rổ. Sân ngoài im hơn. Trên tường, bóng hai người ngồi đối diện dài ra rồi rút ngắn theo nhịp gió.
"Ngày kia mấy anh tới nhà," Viễn nói, "em muốn tự nói trước, về chuyện... ở lại, về chuyện làm ở Đông Bình."
"Em nói theo ý em," cậu đáp. "Còn phần anh, nếu cần, anh nói phần anh."
"Phần anh là gì?"
"Là anh ở đây. Anh làm việc với em. Anh coi em như người... cùng nhà." Cậu ngừng, để chữ rơi xuống êm .
"Coi vậy là đủ," Viễn nói nhỏ. "Còn những chữ khác... để từ từ."
Cậu gật, như người vừa xem một cái men mới ra lò và thấy nó đứng được ở mọi góc sáng. "Ừ, để từ từ."
Bỗng đèn dầu lép bép một tiếng, lửa thấp hẳn xuống. Viễn vội đứng dậy, thêm dầu, vặn tim, ngọn lửa đứng thẳng trở lại, bình như chưa từng chao. "Đó," cậu nói, nửa đùa nửa thật, "đèn nhà nó thương mình."
"Người nhà cũng thương mình," Viễn đáp.
Bữa cơm chấm dứt bằng hai chén trà nóng, mấy trái chuối xiêm chín tới, và một khoảng im để nghe mùi đêm. Cậu kể chuyện hồi ở Marseille, một lần ăn bữa tối với ông thầy già người Ý, ổng nói "bàn ăn là bản đồ nhà", trên đó người ta đặt món gì, chừa chỗ cho ai, lùi lại cái gì — đều chỉ ra con đường đi về. "Bản đồ nhà mình," cậu chậm rãi, "mẹo thay, vẽ bằng nước mắm, bằng khói, bằng tiếng rao, bằng tiếng chân người băng qua hiên."
"Và bằng cái con dấu," Viễn chỉ tay vô góc bàn, nơi con dấu "ĐÔNG BÌNH — SAÏGON" vẫn nằm, "vì nhà này không chỉ để ăn, còn để làm việc."
"Đúng," cậu nói, mắt sáng lên cái tia của người thấy viễn ảnh thành hiện tại. "Ngày mai treo thêm bảng giờ mở cửa tạm, cho người ta biết. Tủ kính đặt xong, bày thêm mấy món mẫu ở vị trí em vẽ. Chụp ảnh gửi qua Pháp. Và... đặt một cái gối tựa ghế thêm cho em, vì anh thấy em ngồi lâu hay tựa mép bàn."
"Cái đó là do... quen gác tay canh nồi canh," Viễn cười. "Nhiều khi gác tay lên bàn là nhớ mùi bếp."
"Vậy anh đặt cái gối có bọc vải mùi bếp," cậu đùa.
Đêm tới chậm. Người gác đèn đi ngang, gậy gõ xuống nền đá phố, cộc... cộc... cộc, mỗi tiếng nghe như một dấu chấm câu ở cuối đoạn văn. Họ dọn bàn, rửa chén đĩa. Một lúc sau, bếp đã sạch, nồi cá kho đậy kỹ, nồi cơm úp, muôi tre gác ngang miệng nồi như một cây cầu. Mọi thứ ở vị trí "đúng chỗ", khiến căn nhà như thở ra một hơi dài.
Cậu mở hộc tủ, lấy ra hai cái gác đũa bằng đất nung thô, bảo: "Anh lấy ở xưởng mang vào, để từ bữa giờ quên bẵng. Em dùng thử." Viễn đặt đôi đũa lên, ngó nghiêng, cười: "Thấy chưa, chuyện thường ngày mà cũng thành gốm." Cậu nhún vai, "Mọi chuyện thường ngày đều có thể thành gốm — miễn mình để nó ở yên và nhìn nó đủ lâu."
"Nghe giống anh nói về người."
"Ừ, anh nói về người."
Họ ngồi ở bậc thềm hiên một lát, không đèn, chỉ ánh trời và ánh phố lọt qua. Ở xa, có tiếng ai huýt sáo bản nhạc cũ, đứt quãng. Mèo mẹ trở về, rón rén bế một con con sang rổ, rồi lại đi, như tin cậy cái mái hiên này là chỗ an toàn. "Nó nhận nhà," cậu nói khẽ. "Mình cũng vậy."
"Ngày mai," Viễn nói, "em chép lại thực đơn bữa nay, kẹp vào hồ sơ 'Bữa cơm nhà đầu tiên', để sau này nhớ." Anh đứng dậy, vào bàn, viết mấy dòng: "Cá kho tiêu — bà Sáu; Canh chua — bông điên điển chợ; Rau muống — ông Lục. Trà — nhà." Ký tên: "V. — 42 Rue des Céramiques."
Cậu đứng sau lưng, đọc lướt, rồi đặt tay lên vai anh. Hai người không nói nữa. Có những câu "có nhà rồi" không cần thành âm, chỉ cần thành hơi.
Sau cùng, khi đã tắt đèn bếp, kéo chốt cửa, họ đi dọc hành lang tối lên lầu, đèn bàn phòng ngoài còn một vòng sáng. Trên tường, bản vẽ bày kệ vẫn ghim bằng hai cái đinh nhỏ; ở góc, tấm bảng giá viết tay đang khô mực. Cậu gập ống tay sơ-mi, "Em vô phòng trước đi. Anh viết điện tín."
"Anh viết ít thôi, mai còn vô Sở." Viễn mỉm cười, đứng ở ngưỡng cửa một chút.
"Ừ." Cậu nói không ngẩng đầu, chỉ viết ngắn ngủi mấy câu rồi để chặn giấy lên cho mực khô.
Cậu cầm đèn vào phòng nhìn bóng lưng trên giường, rồi nghĩ về bao chuyện ngày hôm nay mà lòng cứ mênh mang. Đặt cây đèn xuống lùa tay vào tóc Viễn, thơm hương bồ kết, cậu rúc mặt vào cổ anh, hít thật sâu. Anh cười khúc khích vì nhột nhưng tay vẫn níu lấy nhau. Cậu hôn nhẹ, rồi hôn sâu. Ánh đèn hắt qua rèm, in bóng hai người lên tường, đưa đẩy rồi hòa vào nhau như men và lửa trong cùng một lò nung.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com