Chương 5
Sau khi "thu hoạch" xong mẻ cả, trời cũng đã nhá nhem tối. Ba đứa chúng tôi ướt đẫm mồ hôi và muối biển, Quỳnh ngỏ lời:
"Về nhà tao. Tắm rửa rồi ăn cơm."
Yến, với sự tháo vát của mình, ngay lập tức chiếm lấy gian bếp nhỏ, bắt đầu nhóm bếp than. Tôi được giao nhiệm vụ dễ nhất: nhặt rau. Còn Quỳnh, nó lấy mấy con cá một nắng ngon nhất vừa làm xong, bắt đầu chuẩn bị cho món chính của bữa tối.
Yến mang hũ gạo ra vo, rồi quay sang hỏi Quỳnh:
"Này, cá này mày định làm gì? Chiên giòn hay kho rim?"
Quỳnh đang cời than, không ngẩng lên, đáp:
"Nướng mọi. Bỏ ba cái thứ gia vị đó chi."
"Thêm tí hành tí tỏi cho thơm chứ?" Yến cãi lại.
"Mất hết vị cá!" Quỳnh quả quyết.
Yến bĩu môi, nhưng rồi cũng bật cười:
"Rồi, mày là chủ nhà. Mày cho gì tụi tao ăn nấy!"
Gian bếp nhỏ trở nên ấm cúng lạ thường. Mùi rau đay ngai ngái, mùi khói bếp than nồng nồng, và chẳng mấy chốc, mùi cá nướng thơm lừng bắt đầu lan tỏa. Mọi thứ diễn ra trong một sự im lặng ăn ý. Yến nấu một nồi canh cua rau đay, tôi phụ trách dọn mâm bát, còn Quỳnh thì chuyên tâm lật từng con cá trên vỉ nướng, mặt nó lấm lem than khói, hì hục quạt lấy quạt để.
Bữa cơm được dọn ra trên bộ bàn ghế gỗ duy nhất, dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu. Chỉ có ba món đơn sơ: đĩa cá nướng vàng ruộm chấm nước mắm tỏi, bát canh cua nghi ngút khói và một đĩa cà muối. Quỳnh gỡ một miếng cá lớn, trắng ngần và thơm phức, không chút do dự, đặt thẳng vào bát của Yến.
"Ăn đi. Công mày phơi cả chiều đấy."
Yến đỏ mặt, lí nhí: "Tao tự gắp được mà." Nhưng tay thì vẫn thoăn thoắt gắp một miếng cà muối giòn tan vào bát cho Quỳnh, như một lời cảm ơn.
Tôi thấy cảnh này thì không nhịn được cười, lên tiếng trêu:
"Chà, sướng nhất Yến rồi nhé, có người gắp cho ăn tận nơi." Tôi quay qua Quỳnh trách móc. "Phần em đâu hai Quỳnh?"
Quỳnh lườm tôi một cái, nhưng rồi nó cũng gắp một miếng cá khác, nhỏ hơn một chút, đặt vào bát tôi.
"Ăn đi. Tị nạnh gớm quá!"
Tôi phá lên cười, còn mặt hai đứa kia thì đỏ chót. Mọi bức tường, mọi khoảng cách dường như đã bị hơi ấm của bếp than và vị ngọt của miếng cá làm cho tan biến hết.
Chúng tôi cứ ngồi như vậy, ăn uống và trò chuyện rôm rả. Lần đầu tiên, tôi thấy Quỳnh nói nhiều đến thế, nó kể cho tôi nghe về những chuyến đi biển, về những loại cá kỳ lạ. Yến không nói nhiều, chỉ ngồi đó, thỉnh thoảng lại gắp thức ăn cho tôi và Quỳnh, ánh mắt nó lấp lánh một niềm vui khó tả. Tôi nhận ra, hạnh phúc đôi khi chỉ nằm ở những điều nhỏ nhặt như vậy, được chăm sóc cho những người mình yêu quý. Nó có thể chỉ đơn giản là một miếng cá nướng thơm lừng, được chia sẻ trong một căn nhà nhỏ, giữa những người đã bắt đầu hiểu và thương nhau.
***
Một mùa hè đáng nhớ nữa cứ thể chầm chậm trôi qua trong cuộc đời tôi, cảm giác như ở đây, tôi sống với một thân phận khác, khác hoàn toàn với "Minh công tử" ở Hà Nội, một "đứa nhóc" chỉ quen với đèn sách và mùi mực bút máy, lang thang những quán cóc vô công rỗi nghề giết thời gian và chém gió, "ăn bám" bố mẹ và chẳng bao giờ phải đụng tay vào việc gì. Vậy mà ở Cửa Tùng, Minh lại tham gia vào tất thảy những công việc, đi biển đánh cá, cặm cụi ngồi vá lưới cùng Quỳnh hay lăng xăng chợ búa, phụ giúp mẹ Yến một bữa cơm, rồi cả dạy cho lũ nhỏ học chữ. Đôi bàn tay vốn chỉ quen lật giở những trang sách, giờ đây lại tìm thấy một niềm vui lạ lẫm trong cái thô ráp của dây thừng, trong vị mặn mòi của biển cả. Tôi nom mình tháo vát hẳn ra. Cảm giác như tôi đã để một phần hồn của mình hòa vào ngôi làng nhỏ này, đối với bà con, tôi không còn là "bạn trên thành phố của cái Yến" nữa, mà là "cái Minh nhà thầy Tùng".
Nhưng cuộc vui nào rồi cũng phải đến hồi kết, lời tạm biệt cất giấu bao lâu rồi cũng phải nói ra thành lời, mùa hè của tôi và Yến tại Cửa Tùng đã đến lúc khép lại.
Ngày chia tay, từ tờ mờ sáng, bố mẹ Yến đã đưa chúng tôi ra đầu làng đợi chuyến xe đò quen thuộc. Hưng cũng có mặt, anh lúc nào cũng xuất hiện chỉn chu với áo sơ mi và quần âu thẳng tắp, hăm hở đỡ hộ Yến và tôi vài túi đồ. Đứng trò chuyện một lúc, Hưng xin phép về để chuẩn bị ra công trường, nghe Hưng nhắc đến công trình, tôi bất giác liếc mắt nhìn ra đoạn đường đất.
Hai tháng trôi qua, đoạn đường gồ ghề bây giờ đã được san phẳng. Con đường đất đỏ cũ kĩ, với những ổ gà đầy ắp nước mưa và dấu chân quen thuộc, giờ đã biến mất. Thay vào đó là một mặt đường đá dăm được lèn chặt, phẳng lì và lạnh lẽo một cách xa lạ. Nó như một vết sẹo dài, đã lên da non, xóa đi mọi nếp nhăn ký ức của ngôi làng. Sự tiện lợi mà nó hứa hẹn dường như được trả giá bằng một nỗi trống vắng khó gọi tên, một sự phôi pha mà chỉ mình tôi cảm nhận được.
"Hẹn Yến và Minh ở Hà Nội nhé! Anh phải về đi làm rồi."
Lời chào của Hưng kéo tôi về với thực tại, anh lịch sự gửi một hẹn ước tương lai rồi rời đi mất.
Chúng tôi tiếp tục chờ đợi, một nhân vật nữa xuất hiện ngay sau khi Hưng rời đi - Quỳnh. Nó lầm lì đi chầm chậm lại, gật đầu chào bố mẹ Yến đang ngồi ở bàn rồi tiến tới chỗ tôi và Yến, cộc lốc:
"Lên đó học hành cho giỏi nha!"
Tôi đoán rằng lời dặn dò đó không dành cho mình, kiếm cớ đi lại chỗ bố mẹ Yến, để lại không gian riêng tư cho hai kẻ còn rối lòng. Đứng từ xa quan sát, tôi thấy Yến rụt rè nắm lấy tay Quỳnh như dặn dò điều gì, mắt con bé ươn ướt. Vẻ mặt Quỳnh dịu lại, giống như đang vỗ về, trên cổ Quỳnh vẫn lấp ló chiếc khăn tay mà Yến thêu tặng ngày ấy. Nói đoạn, Quỳnh thò tay vào túi quần rút ra một chiếc phong bì được gấp bằng tay, đưa cho Yến, hình như Quỳnh không cho Yến mở ra ngay.
Dưới ánh ban mai mỏng manh như tơ trời, nắng ân cần ve vuốt mái tóc Yến vàng óng lên như râu ngô, vỗ về người con sắp phải xa quê. Nắng nhẹ nhàng đậu lại nơi vành tai và gò má đỏ hây hây của Quỳnh, nhưng không sao làm lay chuyển cái vùng tối sâu thẳm bên trong hai con ngươi đang nhìn vô định của nó, Quỳnh tránh đi ánh mắt của Yến.
Yến bẽn lẽn nhận lấy bức thư, nhìn chăm chú vào Quỳnh như mong chờ một câu thật lòng, ánh mắt con bé long lanh một mơ mộng được kề cạnh người đối diện mỗi sớm mai.
Rồi mai đây sẽ nắm tay nhau một đời hay chỉ lướt qua nhau một lần thôi...?
***
Chiếc xe đò ì ạch tiến tới, thông báo thời khác tạm biệt. Tôi vội vã xếp đồ đạc lên xe nhưng Yến vẫn còn níu mãi tay Quỳnh, rời đi nhưng đầu vẫn ngoảnh lại luyến tiếc. Nắng đã rơi đầy, Quỳnh đứng dưới thứ ánh sáng trong trẻo ấy, và, nó nhoẻn miệng cười, mắt không rời khỏi thân hình bé nhỏ của Yến. Một nụ cười hiền và "nuông chiều", như một lời đồng ý, một lời xác nhận cho sợi tơ duyên còn vương vấn.
Chuyến xe rời đi ngay sau ấy, chính thức kết thúc mùa hè thứ hai của tôi với Cửa Tùng, và với thầy Tùng nữa...
***
Theo những gì tôi được nghe kể lại, cơn đau tim đánh úp ông một buổi chiều ẩm ướt. Thầy Tùng vẫn đứng lớp, sang sảng giảng đi giảng lại một áng văn bất hủ cho đám học sinh, dường như phải đứng nói nhiều khiến thầy mất sức, hơi thở phập phồng, vừa ngồi xuống ghế nghỉ ngơi thì gục luôn xuống bàn. Lũ học sinh náo loạn, chưa bao giờ chúng đối mặt với một tình huống thế này, chỉ biết hét toáng lên gọi người lớn đến giúp. Thầy Tùng được đưa xuống nằm nghỉ dưới phòng y tế của trường, bác sĩ ở trạm xá được mời về thăm khám, kết luận thầy bị tai biến.
Hưng là người báo tin cho Yến. Tôi còn nhớ chiều ấy, nằm dài ở phòng kí túc xá của Yến lảm nhảm than thở về việc học hành năm cuối, còn Yến thì cặm cụi ngồi ghi chép bài vở. Một anh bên bưu tá đạp xe đến, đứng ngoài sân gọi to:
"Hoàng Yến, Nguyễn Hoàng Yến đâu rồi? Có điện tín từ Quảng Trị đây!"
Yến và tôi nhìn nhau hoang mang, Yến vẫn thường nhận thư của bố mẹ gửi từ quê lên nhưng một bức điện tín thì chưa bao giờ. Bỏ dở tờ đề cương trên bàn, Yến vội vã lao ra sân. Anh bưu tá dúi vào tay Yến mảnh giấy định mệnh. Nó bé nhỏ, chỉ to bằng lòng bàn tay, bên trong ghi vài dòng chữ khô cứng lạnh lùng nhưng nội dung lại có sức nặng như trì:
BO YEN BENH NANG. VE GAP. HUNG
Yến đọc xong tin thì đứng đực ra như trời trồng, con bé chẳng nói chẳng rằng gì. Tôi loạng choạng chạy ra theo sau, nhón chân lên nhìn qua vai Yến đọc từng chữ trên bức điện tín để rồi cũng lặng đi. Tôi không biết nói gì lúc này, vỗ vai khuyên nhủ Yến bình tĩnh, dìu con bé vào lại phòng. Từ lúc nhận thư đến tận khi đã ngồi xuống giường, Yến vẫn không nói câu nào, có lẽ rất nhiều những dòng cảm xúc và suy nghĩ đang dồn dập trong đầu, nhiều đến nỗi chúng tự triệt tiêu nhau, chỉ để lại một khoảng trắng trơn vô định...
Yến xin phép nghỉ học hơn hai tuần trời để về quê với bố. Tối cùng ngày, tôi đưa Yến ra bến xe.
Bến xe đêm ngập trong một thứ ánh sáng vàng vọt, nhờ nhợ của mấy ngọn đèn cao áp, nó làm cho mọi gương mặt đều trở nên mệt mỏi và phờ phạc. Những chiếc xe đò già nua nằm đó, phì phò thở ra thứ khói dầu đen kịt, giống như một con quái vật bằng sắt đang há cái miệng khổng lồ của nó ra, sẵn sàng nuốt chửng lấy người bạn của tôi và mang nó đi về một miền bất định.
Vẫn là khung cảnh tấp nập quen thuộc nhưng lòng tôi lại không còn cái sự hồ hởi như ngày trước. Tôi để ý hơn đến những cảnh người ta dìu dắt nhau đi ra đi vào, là một cặp mẹ con vừa bước xuống khỏi xe, người con trai đỡ mẹ đi từng bước một, giọng man mác:
"Con đưa mẹ đi khám nhé, không có làm sao đâu! Có bệnh thì con kiếm tiền chạy chữa cho mẹ!"
Xót xa, cuộc đời vô thường quá!
Tôi nghĩ đến thầy Tùng, một người đàn ông hiền lành, chất phác, thích thơ ca, khỏe mạnh và vẫn còn phăm phăm cái nghề gõ đầu trẻ lại đổ bệnh một cách bất chợt. Con người trông vững chãi là thế, cứ như một cây cổ thụ đã bám rễ sâu vào mảnh đất này, vậy mà chỉ cần một cơn gió độc của số phận thổi qua là có thể quật ngã. Hóa ra, cái lằn ranh giữa khỏe mạnh và bệnh tật, giữa sự sống và cái chết, nó lại mong manh như một tờ giấy cũ, xé là rách. Và khi tờ giấy ấy rách, nó còn làm vỡ nát biết bao tâm hồn người ở lại.
Song, tôi nghĩ đến Yến, con bé đang loay hoay tìm xe. Thời gian gấp gáp, từng chuyến xe đã chật cứng, chẳng mấy ai chịu rủ lòng thương cho một người con đang rối rắm, Yến đã bị ba chủ xe từ chối rồi. May mắn một chiếc xe vừa trả khách, sẽ quay đầu đi trong đêm đã chấp nhận cho Yến lên. Thở phào nhẹ nhõm, tôi giúp Yến sắp xếp đồ đạc lên xe, ngồi cạnh một lúc trấn an:
"Mày bình tĩnh nhé! Giờ đi đường không nghĩ nhiều nữa, về với được với bố là yên tâm rồi. Chuyện học hành, xin phép, trên này tao giúp cho."
Yến vẫn đang bần thần, tay cứ nắm vào nhau run run bồn chồn, chốc chốc lại đưa móng tay lên cắn, mắt đã đỏ kẹ nhưng mãi không khóc ra được. Tôi ôm lấy Yến, vỗ nhẹ lên lưng, cố gắng xoa dịu cái lo lắng.
"Thôi khóc đi! Khóc thì nhẹ lòng hơn..."
Và rồi như có một cái đập nào đó trong lòng nó vừa vỡ tung, nước mắt của Yến không chảy từng giọt, mà ồ ạt trào ra như một dòng lũ. Một dòng ký ức mặn chát của những ngày hè, một dòng lo sợ về những ngày sắp tới, tuôn trào không gì ngăn lại được trên vai áo tôi, nóng hổi và đầy tuyệt vọng. Con bé rấm rứt, tức tưởi, nấc lên từng cơn xen lẫn với những câu chữ rời rạc:
"Minh ơi... tao... lo lắm... Lỡ bố... bố có... vấn đề gì... thì sao...?"
Tôi siết chặt cái ôm hơn, vỗ về lưng Yến, dỗ dành:
"Không sao đâu, sẽ không có chuyện gì đâu. Phải mạnh mẽ lên để về còn chăm bố chứ."
Lời nói của tôi dường như có tác dụng, Yến khóc nhỏ dần, đúng lúc những hành khách khác bắt đầu lục tục lên xe, tiếng lơ xe đã gắt gỏng giục giã. Tôi đành buông con bé ra, dặn dò lần cuối:
"Tao xuống nhé. Mày đi cẩn thận, cần gì thì báo cho tao."
Yến chỉ khẽ gật đầu, không nói được lời nào. Tôi bước xuống sân bến, nhìn lên. Khung cửa sổ bụi mờ của chiếc xe đò trở thành một màn ảnh nhỏ, chiếu một thước phim cuối cùng về người bạn của tôi. Trong cái khung hình ấy, gương mặt Yến nhòe đi, không phải vì nước mắt nữa, mà như đang tan ra, hòa lẫn vào cái bóng đêm đặc quánh đang đợi nó nơi cuối con đường, vai Yến vẫn run rẩy, nảy lên từng đợt theo cơn nấc. Chiếc xe lăn bánh, và thước phim ấy cũng vụt tắt.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen4U.Com